17 minute read

Bảng 1.1. Mức độ phát triển năng lực giao tiếp công nghệ

1.3.3. Mức độ phát triển năng lực giao tiếp công nghệ Theo các tác giả Bernd Meier, Nguyễn Văn Cường thì mức độ phát triển năng lực giao tiếp công nghệ gồm có 3 mức độ (Bảng 1.1): Bảng 1.1. Mức độ phát triển năng lực giao tiếp công nghệ

Mức độ Nội dung

Advertisement

Mức 1 Khả năng lập, hiểu phân tích, chuẩn bị trình bày thông tin, biểu đạt ngôn ngữ liên quan đến kỹ thuật và công nghệ bằng ngôn ngữ chuyên môn, có thể sử dụng các hình thức trình bày dưới dạng đồ họa

Mức 2 Sẵn sàng sử dụng những hiểu biết, ý tưởng và hình dung của cá nhân để thảo luận đối diện với đối tác thảo luận với thái độ khoan dung

Mức 3 Khả năng tiếp thu các lập luận hợp lý của đối tác giao tiếp, khả năng phản biện cũng như khả năng điều chỉnh quan điểm cá nhân dựa trên tri thức chuyên môn

- Mức 1 (mức cao): Mô tả, nhận biết tốt được mối quan hệ giữa các phần tử trong các hình vẽ, sơ đồ. Đọc đước tất cả các ký hiệu, thông số kỹ thuật trên các hình vẽ, sơ đồ. Vẽ và giải thích được sơ đồ. - Mức 2 (mức trung bình): Mô tả, nhận biết được mối quan hệ giữa các phần tử trong các hình vẽ, Đọc đước tất cả các ký hiệu, thông số kỹ thuật trên các hình vẽ, sơ đồ. Vẽ và giải thích được sơ đồ ở mức trung bình giữa hai mức. - Mức 3 (mức thấp): Mô tả, nhận biết chưa được rõ ràng về các phần tử trong các hình vẽ, sơ đồ. Chưa đọc được nhiều ký hiệu, thông số kỹ thuật trên các hình vẽ và sơ đồ. Khả năng vẽ và giải thích được sơ đồ còn chậm

Ví dụ: Khi dạy về HTLM trong phần ĐCĐT môn công nghệ 11, có thể nhận thấy các mức độ biểu hiện như sau: - Ở mức 1: HS có thể nhận biết tốt các kí hiệu, hiểu được cấu tạo của HTLM, vẽ và giải thích được sơ đồ H 26.1, H 26.2 (SGK) công nghệ 11 - Ở mức 2: Dựa vào sơ đồ HS có thể nhân biết được các kí hiệu, hiểu được cấu tạo của HTLM, vẽ và giải thích được các sơ đồ trong bài học nhưng ở mức trung bình - Ở mức 3: Dựa vào sơ đồ nhưng HS chưa nhận biết tốt, chính xác được các kí hiệu, và chưa hiểu được cấu tạo của HTLM, còn gặp khó khăn trong quá trình vẽ và giải thích được sơ đồ trong bài học 1.3.4. Một số biện pháp dạy học phát triển năng lực giao tiếp công nghệ cho học sinh môn Công nghệ

Để phát triển năng lực giao tiếp công nghệ cho HS, cần sử dụng tốt các phương pháp như dạy học trực quan, dạy học nhóm, dạy học theo dự án, dạy học giải quyết vấn đề…sẽ giúp HS phát triển được năng lực giao tiếp công nghệ. Vì qua các PPDH này, GV có thể dùng hình thức giao nhiệm vụ, làm bài tập, dùng phiếu học tập, làm dự án… Để HS có thể trình bày, đọc hiểu các bản vẽ, sơ đồ, ký hiệu, thông số kỹ thuật, đọc nội dung bài học …Từ đó giúp HS hình thành, phát triển cả về năng lực tự học, tự chủ và năng lực giao tiếp công nghệ. Với vai trò và ý nghĩa nêu trên, tác giả đề xuất một số biện pháp dạy học nhằm góp phần phát triển năng lực giao tiếp công nghệ cho HS gồm: 1.3.4.1. Dạy học nhóm (dạy học hợp tác) Dạy học nhóm còn được gọi là dạy học hợp tác. Trong PPDH này, GV là người tổ chức cho HS các hoạt động học theo nhóm nhỏ, HS cùng thực hiện một nhiệm vụ nhất định trong một thời gian nhất định. Trong nhóm, dưới sự hướng dẫn của GV và chỉ đạo của nhóm trưởng, HS kết hợp giữa làm việc cá

nhân với làm việc nhóm để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đối với mục tiêu phát triển năng lực giao tiếp công nghệ cho HS lớp 11 môn Công nghệ, phần ĐCĐT thì dạy học theo nhóm là PPDH chủ đạo, bởi phương pháp này tạo ra các bối cảnh rất thuận lợi trong giao tiếp, giúp cho mỗi HS tham gia chủ động và sáng tạo vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho HS có thể trao đổi, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, tôn trọng lẫn nhau, có tinh thần tập thể trong quá trình giải quyết các nhiệm vụ học tập một cách tích cực và hiệu quả. Hơn nữa còn tạo cho các em được giao lưu, học hỏi lẫn nhau. Chúng ta đang sống trong thời kỳ khoa học kỹ thuật rất phát triển và thời đại công nghệ 4.0. chính vì vậy yêu cầu làm việc nhóm là rất cần thiết. Vì rất nhiều lý do nhưng có lẽ lý do không ai là hoàn hảo là lý do mà nên tiến hành phương pháp học nhóm. Làm việc theo nhóm có thể tập trung những mặt mạnh của từng người và có thể bổ sung cho nhau những điểm yếu. Dạy học theo nhóm là một PPDH mà “Học sinh được phân chia thành từng nhóm nhỏ riêng biệt, chịu trách nhiệm về một mục tiêu duy nhất, được thực hiện thông qua nhiệm vụ riêng biệt của từng người. Các hoạt động cá nhân riêng biệt được tổ chức, liên kết hữu cơ với nhau nhằm thực hiện mục tiêu chung”. PPDH theo nhóm được sử dụng nhằm khai thác vốn kiến thức mà các em đã tích lũy được trong đời sống thực tế từ đó có thể vận dụng được những kiến thức phục vụ cho lao động sản xuất. Phương pháp dạy học theo nhóm được sử dụng nhằm khai thác vốn kiến thức mà các em đã tích lũy được trong đời sống thực tế từ đó có thể vận dụng được những kiến thực phục vụ cho lao động sản xuất. Phương pháp dạy học theo nhóm sẽ đạt được hiệu quả cao khi có các điều kiện sau: Phòng học có đủ không gian, bàn ghế dễ di chuyển bởi khi sử dụng

phương pháp này thường gây ra sự xáo trộn về cơ học trong lớp học khi HS không còn ngồi nghe giảng theo cách truyền thống, mà phải ngồi đối mặt với nhau để tạo sự tương tác trong quá trình học tập. Nhiệm vụ học tập phù hợp: GV cần chọn chủ đề thảo luận có nhiều tình huống, cần tới sự chia sẻ, hợp tác, huy động trí tuệ, kinh nghiệm của nhiều HS để tìm ra cách giải quyết tốt nhất, không nên giao nhiệm vụ quá đơn giản đối với HS, có thể sẽ gây nhàm chán cho HS. Giáo viên cần hiểu rõ dạy học theo nhóm, tránh hình thức, hời hợt, cần đưa ra các quy định hoạt động nhóm hiệu quả, cần quy định rõ về thời gian thảo luận, đủ cho HS suy nghĩ, thảo luận. 1.3.4.2. Dạy học theo dự án Dạy học theo dự án là PPDH mà trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức tạp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành nhằm tạo ra một sản phẩm cụ thể. Nhiệm vụ học tập được người học thực hiện với tính tự lực cao trong quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện [16]. Như vậy, dạy học theo dự án có thể nói là một mô hình học tập hiện đại mà HS được làm trung tâm của buổi học. GV sẽ là người hỗ trợ và hướng dẫn HS thực hiện nhiệm vụ của mình nhằm phát triển kiến thức, kỹ năng cho HS. Dạy học dựa trên dự án sẽ khuyến khích sự tìm tòi, sáng tạo của HS vận dụng kiến thức đã học để tạo ra sản phẩm của chính mình. Trong quá trình thực hiện dự án, HS là người chủ động thực hiện các kế hoạch đề ra, đồng thời tự lực tham gia vào các giai đoạn của quá trình dạy học: Đề xuất hoặc đóng góp ý kiến cho sáng kiến dự án, xây dựng kế hoạch thực hiện dự án và trình bày kết quả. Mỗi dự án đều có các tiểu chủ đề liên

quan, thích hợp với việc phân chia tìm hiểu cho các nhóm HS khác nhau. Vì vậy dạy học theo dự án có ý nghĩa quan trong nhằm phát triển năng lực giao tiếp công nghệ cho HS, bởi nó đòi hỏi sự chủ động, tích cực, tinh thần hợp tác và sáng tạo của người học. Khi triển khai dạy học dự án, GV cần dành thời gian để hướng dẫn trước cho HS lập kế hoạch dự án, cách thu thập thông tin như thế nào, ở đâu, cách xử lí thông tin, cách tổng hợp và trình bày báo cáo. Trong quá trình HS thực hiện dự án, GV luôn theo sát để hướng dẫn, hỗ trợ HS khi cần thiết. Không áp đặt cách trình bày của HS làm HS hạn chế khả năng sáng tạo của HS. Dành thời gian hợp lí cho việc trình bày sản phẩm và báo cáo kết quả của HS. Lần lượt từng nhóm trình bày kết quả của nhóm mình dưới nhiều hình thức khác nhau như triển lãm, thuyết trình Powerpoint và tựđánh giá. Các nhóm khác nhận xét, đánh giá kết quả của nhóm bạn, GV đưa ra nhận xét của mình và cùng nhìn lại quá trình làm làm việc để rút kinh nghiệm cho các dự án sau Ví dụ: Trong dạy học phần động cơ đốt trong để phát triển năng lực giao tiếp công nghệ cho học sinh ngoài những phương phát dạy học tích cực nhằm giúp học sinh phát triển được năng lực giao tiếp công nghệ thì dạy học dự án là đạt hiệu quả nhất. Thứ nhất dạy học dự án không bó buộc thời gian trong một tiết học, có thể cho học sinh thực hiện các tiểu dự án trên lớp theo nhóm nhỏ, hoặc có thể thực hiện dự án theo thời gian quy định. Chính vì HS có nhiều thời gian tìm hiểu, nghiên cứu để hoàn thành dự án. vậy nên khi thực hiện dự án kiến thức bài học sẽ thu được khi hoàn thành dự án, kết quả thu được thường chất lượng và hiệu quả đáp ứng được mục tiêu đề ra. Hơn nữa học sinh có thể trao đổi, thảo luận, trình bày kết quả, nhận xét, phản biện kết quả của nhóm bạn… Từ đó năng lực giao tiếp công nghệ sẽ được hình thành và phát triển.

1.3.4.3. Dạy học trực quan Dạy học trực quan là PPDH trong đó sử dụng phương tiện trực quan, nhằm giúp HS trực tiếp cảm giác, tri giác mới. Trên cơ sở đó nắm vững được bản chất của đối tượng kỹ thuật. Với phương pháp dạy học trực quan sẽ giúp học sinh huy động sự tham gia của nhiều giác quan kết hợp với lời nói sẽ tạo điều kiện dễ hiểu, dễ nhớ và nhớ lâu, làm phát triển năng lực chú ý, năng lực quan sát, óc tò mò khoa học của họ, Với cách dạy học trực quan, các đồ dùng phục vụ cho việc học được đặc biệt quan tâm, nhờ đồ dùng mà các học sinh có thể nhớ nhanh, nhớ lâu và nhớ rất kỹ bài giảng. Bằng hình ảnh trực quan sống động cùng những kiến thức lịch sử sống động cho các em như đang được sống ở thời kỳ lịch sử đó. Khi dạy học hình ảnh tuy không cần sử dụng tới chữ viết cũng được lưu giữ lại vững chắc trong trí nhớ, nó chính là hình ảnh thu được từ trực quan. Chính bởi vậy, học theo phương pháp trực quan góp phần tạo nên biểu tượng về lịch sử. Bên cạnh đó, đồ dùng trong các tiết học trực quan còn giúp phát triển khả năng quan sát cũng như tư duy và trí tưởng tượng cùng khả năng ngôn ngữ của học sinh. Chính vì vậy phương pháp dạy học trực quan rất phù hợp để sử dụng trong dạy học môn công nghệ, đặc thù của môn học là sử dụng rất nhiều hình họa, sơ đồ trong nội dung bài học. Ví dụ. Khi dạy học phần ĐCĐT có rất nhiều sơ đồ, vậy khi GV hướng dẫn HS quan sát sơđồ, mô hình…HS dễ dàng đọc, vẽ, giải thích cấu tạo, nguyên lý dựa vào trực quan mà không cần hỗ trợ của kênh chữ. Chính vì vậy phương pháp dạy học trực quan có thể giúp HS nâng cao được năng lực giao tiếp công nghệ 1.3.4.4. Dạy học giải quyết vấn đề Dạy học giải quyết vấn đề là phương pháp dạy học mà trong đó HS được đặt trong tình huống có vấn đề, thông qua việc giải quyết vấn đề sẽ giúp

HS phát triển năng lực tư duy, năng lực giải quyết vấn đề, lĩnh hội tri thức, kỹ năng, phương pháp. Dạy học giải quyết vấn đề dựa trên cơ sở lý thuyết nhận thức. Theo quan điểm của tâm lý học nhận thức, giải quyết vấn đề có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển tư duy và nhận thức của con người. “ Tư duy chỉ chỉ bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề”(Rubinstein). Giải quyết vấn đề giúp HS có cái nhìn toàn diện trước các hiện tượng, sự việc, tình huống nảy sinh trong hoạt động, trong thực tiễn. Mặt khác, phát huy được tính tự giác, tích cực, chủ động, hứng thú học tập của HS. Việc vận dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề chính là giáo viên tạo ra các tình huống có vấn đề nhằm điều khiển các học sính giúp các em phát hiện vấn đề cũng như tự giác, chủ động, sáng tạo để giải quyết vấn đề đó một cách nhanh nhất, chính xác nhất. Qua đó giúp các em lĩnh hội tri thức và tự mình rèn luyện các kỹ năng cơ bản để đạt được các mục tiêu học tập tốt nhất. Dạy học theo phương pháp giải quyết vấn đề chính là việc giải quyết vấn đề được nêu ra, các tình huống, tư duy chỉ bắt đầu khi có vấn đề phát sinh mà thôi. Trong phương pháp này bắt buộc có các vấn đề, tình huống vấn đề, nó chính là một tình huống mà giáo viên đưa tới cho học sinh. Trong đó sẽ có những khó khăn mà các em học sinh không dễ dàng vượt qua, các em phải có quá trình tìm hiểu, phân tích, suy luận mới giải đáp được. Chính vì vậy phương pháp này cũng rất phù hợp để áp dụng trong dạy học nhằm phát triển năng lực giao tiếp công nghệ. Vấn đề cần giải quyết là hiểu, nhận biết đọc vẽ được sơ đồ, khi HS giải quyết được vấn đề tức là lúc đó HS đã giao tiếp được công nghệ 1.3.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình dạy học phát triển năng lực giao tiếp công nghệ - Yếu tố chủ quan: + Giáo viên:

Với suy nghĩ môn Công nghệ là môn không thi trung học phổ thông quốc gia nên GV cũng không đầu tư nhiều về chuyên môn, chỉ dạy bảo đảm kiến thức như sách giáo khoa và khi dạy cũng không vận dụng nhiều những phương pháp dạy học mới, tích cực như dạy học trực quan, dạy học nhóm, dạy học theo dự án…để bài học trở nên phong phú đa dạng. Chưa chú trọng cho HS đọc, hiểu, trình bày, vẽ các sơđồ trong phần ĐCĐT. Chính vì vậy nên hạn chế phát triển năng lực công nghệ nói chung và năng lực giao tiếp công nghệ nói riêng. + Học sinh: Môn công nghệ không phải là môn thi tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia nên tâm lý HS vẫn còn coi nhẹ, chưa quan tâm, tìm hiểu nhiều đến môn học. Đa số chưa đọc hiểu được các sơ đồ, bản vẽ, thông số kỹ thuật. Nên đã gây hạn chế rất nhiều trong việc đẩy mạnh phát triển năng lực giao tiếp công nghệ cho các em. HS chưa quan tâm đến cách học, hiểu nội dung dưa trên sơ đồ, ký hiệu, hình họa. + Mục tiêu, nội dung, phân bố chương trình môn công nghệ: Nhiều nội dung cũ, lạc hậu, không bắt kịp tiến bộ của thời đại, không thu hút được học sinh... Môn Công nghệ phần Kỹ thuật công nghiệp được dạy ở lớp 11, 12; thời lương phân phối chương trình lớp 12 là 1 tiết/ tuần, lớp 11 là 1,5 tiết/ tuần. Hẳn là chưa đủ để HS hiểu và tiếp thu được trọn vẹn được kiến thức trong mỗi bài học. Thời lương chương trình ít, đó cũng là lý do khiến có HS không mặn mà với môn học, GV muốn triển khai các PPDH như dạy học nhóm, dạy học theo dự án gặp khó khăn. - Yếu tố khách quan: + Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy học: Về cơ sở vật chất còn thiếu thốn, chưa có phòng thực hành riêng cho môn học. + Trang thiết bị phục vụ dạy học bộ môn còn ít, chưa phong phú, nhất là mô hình, vật thật phục vụ cho các tiết trực quan, thực hành.

+ Sự quan tâm của nhà trường, phụ huynh và xã hội: Môn học không nằm trong chương trình thi trung học phổ thông quốc gia nên phần lớn phụ huynh và HS chưa thực sự yêu thích và hứng thú với môn học. Điều đó ảnh hưởng rất nhiều đến môn học nói chung và phát triển năng lực công nghệ nói riêng, trong đó có năng lực giao tiếp công nghệ. 1.4. Thực trạng về phát triển năng lực giao tiếp công nghệ cho học sinh trong dạy học môn công nghệ 1.4.1. Mục đích, nội dung, đối tượng, phương pháp và tổ chức khảo sát * Mục đích khảo sát: Thực hiện khảo sát và đánh giá thực trạng dạy và học môn Công nghệ lớp 11 ở một số trường THPT trên địa bàn Hà Nội. Từ đó rút ra được những phương pháp và kết quả đạt được đối với quá trình dạy học phát triển năng lực giao tiếp công nghệ của HS phổ thông. * Nội dung khảo sát: Trên cơ sở tiến hành khảo sát thực tế quá trình dạy và học môn công nghệ tại một số trường THPT trên địa bàn Hà Nội với các nội dung sau: - Cảm nhận của GV về tầm quan trọng của dạy học phát triển năng lực giao tiếp công nghệ cho HS. - Cảm nhận của HS về phát triển năng lực giao tiếp công nghệ cho bản thân. - Thực trạng dạy học phát triển năng lực giao tiếp công nghệ cho HS ở trường phổ thông hiện nay trong dạy học phần ĐCĐT môn Công nghệ 11. * Đối tượng khảo sát: Tháng 12 năm 2020, tác giả đã tiến hành khảo sát thực trạng dạy và học môn Công nghệ 11 nhằm phát triển năng lực giao tiếp công nghệ tại các trường phổ thông trên địa bàn Hà Nội gồm: Trường THPT Chương Mỹ A, Trường THPT Chương mỹ B, trường THPT Mỹ Đức B, Trường THPT Sơn Tây. Đối tượng khảo sát là các thầy cô giáo dạy bộ môn Công nghệ lớp 11

This article is from: