
4 minute read
1.3.3. Các dấu hiệu nhận biết về bài tập sáng tạo Vật lý
from NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG HỆ THỐNG BÀI TẬP SÁNG TẠO TRONG DẠY HỌC CHƯƠNG “CẢM ỨNG ĐIỆN TỪ”
biết để giải kiến thức cũ Dạng bài tập theo khuôn mẫu nhất định Không theo khuôn mẫu Tình huống quen thuộc Tình huống mới Có tính tái hiện Có tính phát hiện Không yêu cầu khả năng đề xuất, đánh giá Yêu cầu khả năng đề xuất, đánh giá
1.3.3. Các dấu hiệu nhận biết về bài tập sáng tạo Vật lý Theo Ra-zu-môp-xki, BTST được chia thành hai loại: bài tập nghiên cứu (trả lời câu hỏi “tại sao”) và bài tập thiết kế (trả lời câu hỏi “làm thế nào”). Theo [13, tr. 34] BTST có thể nhận biết thông qua các dấu hiệu sau: a) Bài tập có nhiều cách giải Dạng bài tập này sẽ tạo cho HS thói quen nhìn nhận vấn đề dưới nhiều góc độ, kích thích tính sáng tạo của HS. b) Bài tập có hình thức tương tự nhưng có nội dung biến đổi Loại bài tập này thường có nhiều câu hỏi, câu hỏi một là bài tập luyện tập, các câu hỏi tiếp theo có hình thức tương tự, nếu vẫn áp dụng phương pháp giải như trên thì sẽ dẫn đến bế tắc vì nội dung câu hỏi đã có sự biến đổi về chất. c) Bài tập thí nghiệm Bài tập thí nghiệm vật lý gồm bài tập thí nghiệm định tính, bài tập thí nghiệm. Bài tập thí nghiệm định tính yêu cầu thiết kế thí nghiệm theo một mục đích cho trước, thiết kế một dụng cụ vật lý hoặc yêu cầu làm thí nghiệm theo chỉ dẫn quan sát và giải thích hiện tượng xảy ra. Bài tập thí nghiệm định lượng gồm bài tập đo đạc các đại lượng vật lý, minh họa quy luật vật lý bằng thí nghiệm. d) Bài tập cho thiếu, thừa hoặc sai dữ kiện Việc nhìn nhận các vấn đề trong loại bài tập này có tác dụng rèn luyện tư duy phê phán, tư duy sáng tạo cho HS. Để giải quyết được vấn đề của BT này
Advertisement
HS cần phải có sự phát hiện ra những điều chưa hợp lý và có được sự lý giải cần thiết, tự cung cấp số liệu cho bài toán thiếu dữ kiện, nếu là đề toán sai thì phải tìm ra chỗ sai và chọn giải pháp tối ưu làm cho đề toán hết sai. Bài tập này còn gặp trong trường hợp HS cần có ý tưởng để đề xuất hoặc thiết kế vận dụng tri thức để đạt được yêu cầu nào đó trong cuộc sống hay trong kĩ thuật. e) Bài tập nghịch lí, ngụy biện Đây là dạng bài tập chứa đựng một sự ngụy biện nên dẫn đến nghịch lí: kết luận rút ra mâu thuẫn với thực tiễn hay mâu thuẫn với nguyên tắc, định luật vật lí đã biết. Loại bài tập này cũng có tác dụng bồi dưỡng tư duy phê phán, phản biện cho HS; giúp cho tư duy có tính nhạy bén. f) Bài toán hộp đen Theo Van-sơ-man, bài toán hộp đen gắn liền với việc nghiên cứu đối tượng mà cấu trúc bên trong là đối tượng nhận thức mới (chưa biết), nhưng có thể đưa ra mô hình cấu trúc của đối tượng nếu cho các dữ kiện. Giải bài toán hộp đen là quá trình sử dụng kiến thức tổng hợp, phân tích mối quan hệ giữa đầu vào”, đầu ra” để tìm thấy cấu trúc bên trong của hộp đen. Tính chất quá trình tư duy của HS khi giải bài toán hộp đen tương tự với quá trình tư duy của người kĩ sư nghiên cứu cấu trúc của chiếc đồng hồ mà không có cách nào tháo được chiếc đồng hồ đó ra; anh ta phải đưa ra mô hình cấu trúc của chiếc đồng hồ, vận hành mô hình đó, điều chỉnh mô hình cho đến khi hoạt động của nó giống như chiếc đồng hồ thật thì khi đó mô hình sáng tạo của người kĩ sư phản ánh đúng cấu tạo của chiếc đồng hồ thật. Chính vì vậy bài toán hộp đen ngoài chức năng giáo dưỡng còn có tác dụng bồi dưỡng tư duy sáng tạo cho HS. Trên đây là những dấu hiệu bề ngoài để nhận biết một BTST về vật lý. Để giải loại bài tập này, HS phải học cách thức hoạt động mà các nhà khoa học vật lý đã sử dụng để nghiên cứu các hiện tượng vật lý và khám phá ra những quy luật chi phối các hiện tượng đó. Để tạo ra được những bài tập như vậy, một trong những cách thức là dựa vào các nguyên tắc của TRIZ.