Lầu 2, Nhà B, 116 Nguyễn Đình Chiểu, P. Đa Kao, Q. 1, TP HCM
Văn phòng Hà Nội:
Điện thoại: 0243.7713699
Tầng 3, nhà A7, 10 Nguyễn Công Hoan, Ba Đình, Hà Nội
Phòng Quảng cáo:
Quảng cáo: 028.62777616
Email: nghia@thuysanvietnam.com.vn
Giấy phép xuất bản: 69/GP-BTTT
ISSN: 0866-8043
Nơi in: In tại Công ty TNHH MTV
Lê Quang Lộc (TP HCM)
Giá bán: 50.000đ - Giá PDF: 10.000đ
Thư tòa soạn
Thưa quý vị bạn đọc,
Bốn tháng đầu năm nay, xuất khẩu thủy sản Việt Nam đã có sự phục hồi mạnh khi kim ngạch đạt khoảng 3,3 tỉ USD, tăng 21% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, xuất khẩu sang thị trường Mỹ đạt 498,4 triệu USD, tăng 7% so với cùng kỳ.
Sau khi chính quyền của Tổng thống Donald Trump công bố tạm hoãn áp dụng thuế đối ứng trong 90 ngày (hạn cuối ngày 9/7) cho 75 quốc gia, trong đó có Việt Nam, nhiều doanh nghiệp đang tăng tốc sản xuất để bàn giao đơn hàng cho đối tác Mỹ, đồng thời tích cực tìm cách ứng phó.
Tuy nhiên, trước khi Mỹ quyết định áp thuế đối ứng với hàng xuất khẩu từ Việt Nam thì nhiều nhóm hàng xuất khẩu vào Mỹ thời gian qua vẫn chịu thuế xuất nhập khẩu trung bình khoảng 12%, trong đó có ngành hàng thuỷ sản.
Cơ quan quản lý khuyến nghị, doanh nghiệp cần bình tĩnh, tiếp tục thương thảo với các nhãn hàng, nhà mua hàng để thích ứng với mức thuế mới. Trên thực tế, người tiêu dùng Mỹ vẫn có nhu cầu lớn đối với sản phẩm của Việt Nam và Việt Nam vẫn đang duy trì quan hệ với nhiều
đối tác lớn trên toàn cầu, trong đó có Mỹ.
“Thuế quan Mỹ: Ứng biến trong khoảng lặng” sẽ là chủ đề chính của Tạp chí Thủy sản Việt Nam phát hành trong tháng 05. Trên số báo này, Tạp chí sẽ thông tin tới quý bạn đọc những vấn đề xoay quanh câu chuyện thuế đối ứng từ Chính phủ Mỹ và “khoảng lặng” 90 ngày tạm hoãn thuế đối ứng.
Với những bài phân tích chuyên sâu, các chuyên gia, nhà khoa học sẽ đưa ra góc nhìn đa chiều về thuế đối ứng Mỹ. Thêm vào đó là số liệu tổng hợp, thống kê làm cơ sở để đánh giá và chuẩn bị các kịch bản phù hợp nhất với kinh tế Việt Nam nói chung và ngành thuỷ sản nói riêng. Ngoài ra, Tạp chí Thủy sản Việt Nam số 05 còn cung cấp thông tin về tình hình sản xuất, thị trường thủy sản trong và ngoài nước; thức ăn dinh dưỡng; những mô hình nuôi trồng hiệu quả; cách phòng, chống dịch bệnh thủy sản; cùng các hoạt động của cộng đồng doanh nghiệp.
Trân trọng! Ban Biên tập
INTERVIEW
Xuất khẩu thủy sản tháng 4/2025 tăng trưởng khả quan
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), kim ngạch xuất khẩu thủy sản tháng 4/2025 đạt 850,5 triệu USD, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 4 tháng đầu năm, toàn ngành đạt 3,3 tỷ USD, tăng 21%, cho thấy dấu hiệu phục hồi tích cực. Tôm tiếp tục là mặt hàng chủ lực với kim ngạch tháng 4 đạt 330,8 triệu USD, tăng 15% nhờ nhu cầu mạnh từ Trung Quốc, EU và Nhật Bản. Cá tra đạt 167,7 triệu USD, giữ mức tương đương cùng kỳ. Các sản phẩm khác cũng ghi nhận tăng trưởng ấn tượng như: nhuyễn thể đạt 216,4 triệu USD (tăng 18%), cua ghẹ đạt 112,1 triệu USD (tăng 50%), cá rô phi và cá điêu hồng tăng đột phá 138%, đạt 19 triệu USD. Về thị trường, Trung Quốc – Hồng Kông tiếp tục dẫn đầu với 709,8 triệu USD, tăng 29%; kế đến là Nhật Bản với 536,6 triệu USD, tăng 22%. Xuất khẩu sang khối ASEAN, EU và Hàn Quốc cũng ghi nhận mức tăng ấn tượng lần lượt là 25%, 17% và 15%.
Doanh nghiệp thủy sản lo ngại thuế quan từ Hoa Kỳ
Dù xuất khẩu thủy sản tăng trưởng tốt trong tháng 4/2025, nhưng các doanh nghiệp đang đứng trước nỗi lo lớn từ chính sách thuế quan mới của Hoa Kỳ. Cụ thể, từ ngày 9/7/2025, Mỹ dự kiến áp thuế 10% lên nhiều mặt hàng, trong đó có sản phẩm thủy sản nhập từ Việt Nam – thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của ngành. Trong tháng 4/2025, kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ chỉ đạt 120,5 triệu USD, giảm 15% so với cùng kỳ, phản ánh tâm lý dè chừng của nhà nhập khẩu và sự ảnh hưởng ban đầu
từ chính sách. Trong khi đó, các mặt hàng như cá tra và tôm, vốn phụ thuộc nhiều vào thị trường Mỹ, có nguy cơ bị ảnh hưởng nặng nếu không điều chỉnh kịp thời. Theo VASEP, các doanh nghiệp đang đẩy nhanh xuất khẩu trong tháng 5 - 6 để tận dụng cơ hội trước khi thuế mới có hiệu lực. Đồng thời, ngành đang tìm cách mở rộng thị trường sang EU, Nhật Bản, ASEAN… và thúc đẩy sản phẩm giá trị gia tăng nhằm giảm phụ thuộc vào Mỹ, giữ vững đà tăng trưởng xuất khẩu trong giai đoạn khó khăn sắp tới.
Thúc đẩy thương mại thủy sản
Việt Nam - Hoa Kỳ
Sáng 09/5/2025, Bộ Công Thương phối hợp Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội nghị “Thúc đẩy thương mại nông - lâm - thủy sản giữa Việt Nam và Hoa Kỳ” nhằm đối thoại cùng doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng trước nguy cơ Hoa Kỳ áp thuế đối ứng lên đến 46% với hàng thủy sản Việt Nam. Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy nhấn mạnh, Chính phủ đang tích cực đàm phán với Hoa Kỳ, đồng thời đẩy mạnh minh bạch chuỗi cung ứng, chuyển đổi xanh, và truy xuất nguồn gốc trong ngành thủy sản. Bộ đã ban hành Đề án thúc đẩy xuất khẩu sang Hoa Kỳ nhằm duy trì ổn định thị trường này. Bộ trưởng Bộ Công
Thương Nguyễn Hồng Diên khẳng định, việc nhập khẩu sản phẩm nông lâm thủy sản từ
Hoa Kỳ là nền tảng cho hợp tác lâu dài, đồng
thời kêu gọi doanh nghiệp chủ động kết nối, tìm kiếm đối tác Hoa Kỳ. Bộ trưởng Bộ Công
Thương nhấn mạnh sự cần thiết của việc tháo gỡ rào cản thương mại, hỗ trợ thuế, logistics và đơn giản hóa thủ tục để thúc đẩy xuất khẩu thủy sản bền vững, cân bằng hơn giữa hai quốc gia.
Thái Bình
Hơn 47 ha ao nuôi tôm bị đốm
trắng ở Tiền Hải
Từ đầu tháng 5/2025, bệnh đốm trắng xuất hiện tại nhiều ao nuôi tôm ở xã Đông Minh (Tiền Hải, Thái Bình), gây chết rải rác trên diện rộng. Tính đến ngày 11/5, toàn xã ghi nhận 50 hộ/83 ao nuôi mắc bệnh, tổng diện tích hơn 47ha, với hơn 80 vạn con tôm bị ảnh hưởng. Bệnh khởi phát từ ao nuôi của hộ ông Nguyễn
Văn Tiến (thôn Minh Châu) ngày 5/5, sau đó lan sang nhiều hộ khác. Ngành chuyên môn xác định tôm dương tính với virus gây bệnh đốm trắng – loại bệnh nguy hiểm, dễ lây lan và gây thiệt hại lớn. Chính quyền xã đã phối hợp chặt chẽ với cơ quan chuyên môn hướng dẫn người dân thu gom, tiêu hủy tôm chết, xử lý ao bằng hóa chất Chlorine nồng độ 30ppm, tuyệt đối không xả nước thải ra kênh mương, không dùng chung dụng cụ giữa các ao. Phòng Nông nghiệp huyện Tiền Hải đã đề xuất hỗ trợ thêm hóa chất và vật tư xử lý dịch. Trong bối cảnh thời tiết bất ổn, nguy cơ dịch bùng phát còn cao, địa phương yêu cầu các hộ nuôi tăng cường giám sát, chủ động phòng ngừa, bảo vệ an toàn cho vụ nuôi.
Thanh Hóa
Xử lý hơn 3.300 lồng, bè nuôi thủy sản tự phát tại thị xã Nghi Sơn
Trước tình trạng phát sinh lồng nuôi cá, bè nuôi hàu, vẹm tự phát gây mất an toàn giao thông đường thủy và ảnh hưởng đến quy hoạch, thị xã Nghi Sơn (tỉnh Thanh Hóa) đã triển khai quyết liệt công tác tuyên truyền, xử lý vi phạm. Từ ngày 1/8/2024 đến giữa tháng 4/2025, các lực lượng chức năng tại Nghi Sơn đã xử lý 3.300/4.600 lồng, bè nuôi trồng thủy sản tự phát, đạt tỷ lệ 72,28%. Cụ thể, hơn 1.400 lồng nuôi và 1.900 bè nuôi đã được tháo dỡ. Bên cạnh đó, chính quyền cũng đã xử lý 25/85 hộ nuôi tôm tự phát. Thị xã đang tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền và huy động lực lượng để xử lý dứt điểm các lồng, bè còn tồn tại tại khu vực âu neo đậu tàu thuyền Lạch Bạng và khu quay tàu sông Yên Hòa, phường Hải Hà. Dự kiến, từ nay đến hết tháng 6/2025, toàn bộ 1.274 ô, lồng, bè còn lại cùng với 60 hộ nuôi tôm tự phát sẽ được xử lý
Việt Nam phản đối lệnh cấm đánh bắt cá đơn
phương phi lý của Trung Quốc
Trước thông tin Trung Quốc đơn phương ban hành lệnh cấm
đánh bắt cá trên Biển Đông từ ngày 1/5 đến 16/8/2025, bao gồm cả Vịnh Bắc Bộ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cùng Hội Thủy sản Việt Nam đều lên tiếng phản đối mạnh mẽ việc này. Bộ Nông nghiệp và
Môi trường khẳng định lệnh cấm của Trung Quốc là hành vi vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, trái với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS). Bộ đề nghị các tỉnh, thành phố ven biển thông báo ngư dân tiếp tục bám biển sản xuất bình thường trong vùng biển Việt Nam, tổ chức thành tổ đội để hỗ trợ nhau và nâng cao cảnh giác. Phía Hội Thủy sản Việt Nam cho rằng, lệnh cấm phi lý này ảnh hưởng lớn đến sinh kế, năng suất và an toàn của ngư dân Việt Nam, đồng thời yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay hành vi áp đặt trái phép. Các cơ quan chức năng được yêu cầu tăng cường giám sát tàu cá qua hệ thống VMS, kịp thời cảnh báo, đảm bảo an toàn cho ngư dân và giữ vững chủ quyền biển đảo.
Quảng Ngãi
Thời tiết thuận lợi, sản lượng thủy sản tháng 4 tăng
Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh
Quảng Ngãi, sản lượng thủy sản tháng 4/2025 trên địa bàn đạt 29.163 tấn, tăng 2,81% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng
đầu năm, tổng sản lượng toàn tỉnh đạt 97.175 tấn, tăng 1,04%, trong đó khai thác biển đạt 94.727 tấn (tăng 1,2%) và nuôi trồng thủy sản đạt 2.447 tấn. Thời tiết thuận lợi là yếu tố quan trọng giúp hoạt động khai thác và nuôi trồng thủy sản diễn ra hiệu quả, giữ vững đà tăng trưởng. Hiện Quảng Ngãi đang đẩy mạnh tái cơ cấu nghề cá theo hướng bền vững, giảm dần các hình thức khai thác kém thân thiện với môi trường và tăng cường bảo
vệ nguồn lợi thủy sản. Tỉnh cũng chú trọng phát triển nuôi trồng thủy sản có kiểm soát,
Lệnh cấm của Trung Quốc là hành vi vi phạm nghiêm trọng
chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam Ảnh minh họa
khuyến khích các mô hình đồng quản lý, nhằm vừa đảm bảo sinh kế cho ngư dân, vừa bảo tồn lâu dài nguồn lợi biển. Những giải pháp này giúp hướng tới một ngành thủy sản xanh, hiệu quả và thân thiện với môi trường, phù hợp với định hướng phát triển bền vững của địa phương.
Bà Rịa – Vũng Tàu
Cảnh báo rủi ro khi tái thả tôm sớm
Tại Long Đất và TP. Bà Rịa, nhiều hộ nuôi tôm vẫn chưa tái thả dù đã thu hoạch hơn một tháng. Nguyên nhân do môi trường ao nuôi biến động, dễ phát sinh dịch bệnh như EHP, đốm trắng, hoại tử gan tụy cấp... Một số trang trại lớn đã thả giống sớm nhưng thất bại vì tôm chết hàng loạt chỉ sau vài tuần. Kết quả quan trắc cho thấy nhiều chỉ số môi trường như pH, độ kiềm, NH 4 -N, NO 2-N vượt ngưỡng cho phép, làm tăng nguy cơ dịch bệnh. Ngành nông nghiệp tỉnh đã khuyến cáo chỉ nên thả giống khi nhiệt độ nước dưới 30°C, dùng con giống đã kiểm dịch, duy trì mực nước ao trên 1,5m, tăng cường sục khí và bổ sung khoáng chất, vitamin để tăng sức đề kháng. Trong bối cảnh thời tiết cực đoan, thận trọng tái thả giống và quản lý môi trường chặt chẽ là yếu tố quyết định cho một vụ nuôi tôm hiệu quả và bền vững năm 2025.
Sóc Trăng Tăng cường bảo vệ tôm nuôi trong mùa nắng nóng
Trước diễn biến thời tiết nắng nóng xen kẽ mưa, ngành chuyên môn tỉnh Sóc Trăng đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp kỹ thuật nhằm bảo vệ diện tích tôm nuôi, hạn chế thiệt hại do dịch bệnh. Theo Chi cục Thủy sản tỉnh, đến cuối tháng 4/2025, diện tích thả nuôi thủy sản toàn tỉnh đạt gần 18.664 ha, trong đó tôm nước lợ hơn 12.255 ha, tăng 20% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, điều kiện thời tiết khắc nghiệt khiến môi trường ao nuôi dễ biến động, làm gia tăng nguy cơ xuất hiện các bệnh nguy hiểm như EHP, hoại tử gan tụy cấp, phân trắng… Ngành chức năng đã khuyến cáo hộ nuôi theo dõi sát diễn biến môi trường, định kỳ kiểm tra chất lượng nước, giảm mật độ thả nuôi và bổ sung khoáng chất, vi sinh nhằm tăng sức đề kháng cho tôm. Đồng thời, Chi cục yêu cầu hộ nuôi thực hiện nghiêm việc cải tạo ao, chọn giống rõ nguồn gốc, xét nghiệm sạch bệnh và tuân thủ đúng lịch mùa vụ. Trong quý II/2025, tỉnh dự kiến thả hơn 30.000 ha tôm nước lợ, sản lượng đạt 52.200 tấn. Các hoạt động quan trắc, hỗ trợ kỹ thuật và phát triển mô hình VietGAP đang được triển khai để nâng cao hiệu quả nuôi bền vững.
Hà Lan
Giảm quy mô điện gió ngoài khơi để bảo vệ ngư trường
Chính phủ Hà Lan vừa điều chỉnh kế hoạch phát triển điện gió ngoài khơi nhằm bảo vệ ngành thủy sản, theo dự thảo sửa đổi Chương trình Biển Bắc. Cụ thể, mục tiêu công suất điện gió ngoài khơi đã giảm từ 50 GW xuống 21 GW nhưng vẫn dành không gian cho hoạt động đánh bắt. Trong khu vực điện gió mới, khoảng 1.520-1.620 km² biển sẽ không lắp đặt tuabin để bảo tồn ngư trường tôm hùm Na Uy. Năm 2022, chính phủ Hà Lan từng quy hoạch ba khu vực mới, bao gồm Lagerland, để phát triển điện gió ngoài khơi. Tuy nhiên, theo kế hoạch sửa đổi, khu Lagerland đã bị loại khỏi quy hoạch do giá trị cao đối với ngành ngư nghiệp. Mục tiêu 50 GW điện gió sẽ được dời đến Chương trình Biển Bắc 2028. Theo lộ trình
mới, Hà Lan dự kiến đạt công suất 21 GW vào năm 2032, và tiếp tục mở rộng để đạt mục tiêu dài hạn 72 GW trên Biển Bắc.
Hàn Quốc
Cam kết 9,1 tỷ USD bảo vệ
đại dương
Tại Hội nghị Đại dương ở Busan, Hàn Quốc vào cuối tháng 4, hơn 200 quốc gia và nhà tài
trợ đã cam kết 9,1 tỷ USD để bảo vệ và phục hồi đại dương. Khoảng 4,5 tỷ USD trong số đó sẽ hỗ trợ phát triển nền kinh tế xanh, với trọng tâm là ngành khai thác và nuôi trồng thủy sản bền vững. Là quốc gia chủ trì hội nghị, Hàn Quốc đã huy động gần 1 tỷ USD cho các giải pháp công nghệ số, như hình ảnh vệ tinh và AI, để giám sát đại dương. Tuy nhiên, cam kết cho các giải pháp khí hậu gồm phục hồi rừng rong biển và san hô chỉ đạt 150 triệu USD. Trong khi đó, Liên Hợp Quốc ước tính cần 175 tỷ USD mỗi năm cho bảo tồn đại dương. Các quốc gia cũng cam kết bảo vệ 30% diện tích đất và biển đến năm 2030. Hội nghị diễn ra sau khi Mỹ thúc đẩy khai thác mỏ sâu dưới biển, nhưng hơn 30 quốc gia phản đối do lo ngại rủi ro với sinh vật biển.
Peru Ngành thủy sản tăng trưởng 29,1% trong tháng 3/2025
Bộ Sản xuất Peru (PRODUCE) cho biết, GDP ngành thủy sản tháng 3/2025 tăng 29,1% so với
Ảnh:
Oanh Thảo
cùng kỳ năm trước – tháng tăng thứ ba liên tiếp. Nguyên nhân chủ yếu đến từ sản lượng khai thác cá cơm tăng đột biến tại vùng biển phía
nam. Tổng sản lượng khai thác đạt 210.000 tấn, tăng 141,4% so với tháng 3/2024. Trong
đó, sản lượng hải sản tiêu dùng gián tiếp (IHC) đạt 56.500 tấn, chủ yếu là cá cơm (+6.966,3%).
Sản lượng hải sản tiêu dùng trực tiếp (DHC) tăng 78,1%, đạt 153.500 tấn, nhờ nhu cầu chế biến đông lạnh (+205%), đóng hộp (+25,3%),
ướp muối và tiêu thụ hải sản tươi đều tăng.
Nga
Tăng cường nghiên cứu ngành
thủy sản trong nước
Trong giai đoạn 2025-2026, Nga dự kiến đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu ngành thủy sản nhằm nâng cao hiệu quả đánh bắt và tạo điều kiện phát triển bền vững cho ngành. Theo ông Ilya Shestakov, người đứng đầu cơ quan thủy sản Nga (Rosrybolovstvo), Nga sẽ tận dụng nguồn lực từ Trung tâm Nghiên cứu Nhà nước Nga (VNIRO) để triển khai kế hoạch. Theo đó, Nga sẽ tăng số chuyến thám hiểm khoa học từ 967 chuyến trong năm ngoái, nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật của các tổ chức khoa học thủy sản, mở rộng đội tàu nghiên cứu, trong đó có ít nhất ba tàu mới hiện đại.
Ecuador
Hơn 100 quốc gia họp bàn về
chống khai thác IUU
Ngày 21/4, hơn 100 quốc gia tham dự Hội nghị toàn cầu lần thứ 5 về Hiệp định Biện pháp của quốc gia có cảng (PSMA) tại Manta, Ecuador,
nhằm đánh giá hiệu quả của hiệp định về chống khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU). Sự kiện diễn ra đến ngày 25/4, do Chính phủ Ecuador chủ trì với sự hỗ trợ từ EU và Hàn Quốc. Từ khi có hiệu lực năm 2016, PSMA đã thu hút 82 bên tham gia, đại diện cho 108 quốc gia, trở thành văn kiện có tỷ lệ tham gia cao nhất trong lĩnh vực thủy sản toàn cầu. Hội nghị lần này tập trung rà soát việc thực thi Chiến lược Bali và tăng cường chia sẻ thông tin để ngăn tàu vi phạm tiếp cận cảng. Ấn Độ
mạnh xuất khẩu thủy sản sang Nga Ấn Độ đang xem xét mở rộng xuất khẩu thủy sản sang Nga nhằm tìm kiếm thị trường thay thế trong bối cảnh Mỹ áp thuế mới, theo ông Ajay Sahai, Tổng Giám đốc Liên
(FIEO). Ông Sahai cho biết, các cuộc họp với đại diện Đại sứ quán Nga tại Ấn Độ đã được tổ chức để thúc đẩy hợp tác. Các cuộc thảo luận với phía Nga rất tích cực và Nga sẵn sàng mở rộng danh mục hàng nhập khẩu từ Ấn Độ. Tuy nhiên, ông thừa nhận việc tiếp cận thị trường Nga còn nhiều thách thức do các tiêu chuẩn nghiêm ngặt. Theo đánh giá, xuất khẩu tôm đông lạnh sang Nga có thể tăng 10 - 20%. Trong năm tài chính 2024 - 2025, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Ấn Độ đạt 7,4 tỷ USD, chủ yếu là tôm đông lạnh. Tuy nhiên, thị trường Nga hiện chỉ chiếm 1,8% trong tổng kim ngạch này.
Tuấn Minh
CON SỐ & SỰ KIỆN
21,15 TỶ USD
Là kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản trong 4 tháng đầu năm 2025. Trong đó, thủy sản đạt 3,09 tỷ USD, tăng 13,7% so với cùng kỳ năm 2024.
1,27 TỶ USD
Là kim ngạch xuất khẩu tôm trong 4 tháng đầu năm, tăng 30%. Riêng tháng 4, xuất khẩu tôm đạt 330,8 triệu USD, tăng 15% so với cùng kỳ.
2.787,8 NGHÌN TẤN
Là sản lượng thủy sản ước đạt trong 4 tháng đầu năm 2025. Trong đó, cá đạt 2.050,0 nghìn tấn, tôm đạt 312,7 nghìn tấn, thủy sản khác đạt 425,1 nghìn tấn.
138% Là tỷ lệ tăng của kim ngạch xuất khẩu cá rô phi trong tháng 4, đạt 19 triệu USD.
Ngành
thủy sản và
mục tiêu tự chủ
về công nghệ
Theo lãnh đạo Cục Thủy sản và
Kiểm ngư, hoạt động khoa học công nghệ hiện tại vẫn chưa
xứng tầm và chưa thực sự là
động lực dẫn dắt ngành thủy sản phát triển.
05 giải pháp then chốt
Mới đây, tại Trung tâm văn hóa Kinh Bắc, Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với UBND tỉnh Bắc Ninh tổ chức Hội nghị triển khai Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 57NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong toàn ngành nông nghiệp và môi trường (NN&MT).
Tham dự Hội nghị có ông Đỗ Đức Duy, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ NN&MT; ông Nguyễn Anh Tuấn, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bắc Ninh; ông Vương Quốc Tuấn, Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh; ông Phùng Đức Tiến, Thứ trưởng
Bộ NN&MT.
Hội nghị diễn ra theo hình thức trực tiếp
kết hợp trực tuyến với gần 1.000 đại biểu
đến từ các Bộ, ngành Trung ương, cơ quan
Quốc hội, địa phương, Viện nghiên cứu, trường Đại học, doanh nghiệp, hợp tác xã và
các tổ chức quốc tế.
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Bộ trưởng Bộ NN&MT Đỗ Đức Duy nhấn mạnh, Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị có ý nghĩa
quan trọng trong bối cảnh ngành NN&MT đang đối mặt với nhiều thách thức như biến đổi khí hậu gay gắt, tài nguyên suy giảm và áp lực tăng trưởng xanh, các mô hình sản xuất truyền thống không còn phù hợp. Do đó, để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm và bảo vệ môi trường sống, toàn ngành cần đổi mới tư duy và lấy khoa học công nghệ, chuyển đổi số làm nền tảng phát triển.
Bộ trưởng Bộ NN&MT cho rằng, thời gian qua ngành NN&MT đã đạt một số kết quả tích cực như triển khai nông nghiệp công nghệ cao, ứng dụng cảm biến trong giám sát môi trường, xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai và khí tượng, nhưng để đạt được “đột phá phát triển” như yêu cầu của Nghị quyết vẫn còn rất nhiều việc phải làm.
Lãnh đạo Bộ NN&MT đề xuất 5 nhóm giải pháp then chốt để tạo sự đột phá của ngành gồm: Hoàn thiện thể chế để tháo gỡ các rào cản, cải cách tổ chức nghiên cứu theo hướng tinh gọn và tự chủ, thay đổi cách thức đặt hàng nhiệm vụ khoa học công nghệ gắn với thực tiễn sản xuất, phát triển nguồn nhân lực có chuyên môn sâu và đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện.
Tự chủ công nghệ trong ngành thủy sản Trong khuôn khổ Hội nghị, tại phiên chuyên đề về chăn nuôi và thú y, thủy sản và kiểm ngư, ông Trần Đình Luân, Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ NN&MT) cho biết, Việt Nam là 1 trong 3 quốc gia xuất khẩu thủy sản lớn trên thế giới, giữ vai trò chủ đạo cung cấp sản phẩm thủy sản toàn cầu. Điều này có sự đóng góp không nhỏ của khoa học công nghệ (KHCN).
Tôm và cá tra là hai sản phẩm quan trọng đóng góp cho kim ngạch xuất khẩu thủy sản của nước ta. Đối với nuôi biển, đã có những doanh nghiệp xuất khẩu trên 100 triệu USD, xuất khẩu cá rô phi năm 2024 đã đạt 41 triệu USD… Như vậy có thể thấy, ngành thủy sản vẫn có nhiều lợi thế và còn dư địa để phát triển và khoa học công nghệ (KHCN) sẽ đóng tiếp tục vai trò then chốt thúc đẩy sự tăng trưởng bền vững của ngành. Ông Luân nhấn mạnh những kết quả nổi bật của KHCN trong lĩnh vực thủy sản thời gian qua, đó là đã chọn tạo được 35 giống thủy sản. Xây dựng công
Ảnh: Shutterstock
nuôi trồng thủy sản; ứng dụng công nghệ trong truy xuất nguồn gốc xuất xứ các sản phẩm thủy sản. Nghiên cứu và cải tiến ngư cụ, thiết bị, quy trình kỹ thuật trong khai thác, bảo quản sau thu hoạch; ứng dụng ngư cụ chọn lọc góp phần bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản. Áp dụng công nghệ trong chế biến các sản phẩm giá trị gia tăng, chế biến sâu, sản phẩm ăn liền, surimi… đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm.
Cục trưởng Cục Thuỷ sản và Kiểm ngư Trần Đình
Luân: “Hoạt động KHCN vẫn chưa xứng tầm và
chưa thực sự là động lực dẫn dắt ngành thủy sản phát triển”.
Tuy nhiên, theo ông Luân, hoạt động KHCN vẫn chưa xứng tầm và chưa thực sự là động lực dẫn dắt ngành thủy sản phát triển. Nghiên cứu tiên phong, tiền đề cho phát triển các sản phẩm mới như nuôi biển công nghiệp, rong tảo biển, cá cảnh, chế biến dược liệu và mỹ phẩm... còn hạn chế. Trong sản xuất giống, chất lượng còn thấp, phụ thuộc vào nước ngoài; tỷ lệ sống cá tra giai đoạn ương giống còn thấp. Giống cá biển vừa thiếu về số lượng vừa chất lượng kém. Giống tôm hùm, nhuyễn thể... cơ bản vẫn phụ thuộc vào khai thác tự nhiên; rủi ro về dịch bệnh, ô nhiễm môi trường. Về công nghệ khai thác và bảo quản sản phẩm trên tàu, chưa hiểu biết đầy đủ các quy luật sinh trưởng và phân bố của các đối tượng khai thác chủ lực như cá ngừ, mực, cá biển sâu...; tổn thất sau thu hoạch cao hơn mức trung bình thế giới. Các nghiên cứu về thị trường, quản trị chuỗi giá trị và phục vụ xây dựng chính sách còn ít hoặc thiếu tính thực tế và chưa bao hàm hết sự phát triển linh hoạt của người tiêu dùng và của các phân khúc thị trường trong nước và quốc tế. Nghiên cứu các nhiệm vụ KHCN hiện nay vẫn còn nhỏ lẻ, manh mún, chưa gắn kết. Số lượng doanh nghiệp tham gia vào ứng dụng và phát triển KHCN còn hạn chế. Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư cho hay, định hướng phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực thủy sản trong thời
gian tới sẽ bám sát tinh thần Nghị quyết 57NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị, nhấn mạnh việc hoàn thiện “thể chế, nhân lực, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ chiến lược là những trụ cột trọng tâm, cốt lõi”. Đồng thời hướng tới mục tiêu “Phát triển nhanh và bền vững, từng bước tự chủ về công nghệ, nhất là công nghệ chiến lược”.
Cụ thể, về nuôi trồng thủy sản, ngành sẽ tiếp tục xây dựng các chương trình, dự án KHCN dài hạn trong nghiên cứu chọn tạo giống thủy sản tăng trưởng nhanh, kháng bệnh, thích ứng với biến đổi khí hậu…
Xây dựng các chương trình nghiên cứu, phát triển công nghệ nuôi quy mô công nghiệp như nuôi cá biển, nuôi cá nước mặt lớn (sông, hồ chứa), nuôi trồng và chế biến rong biển. Nghiên cứu dịch tễ học về bệnh cho các đối tượng nuôi thủy sản chủ lực, có giá trị kinh tế cao. Tiếp tục triển khai Đề án các sản phẩm quốc gia đối với tôm nước lợ, cá tra và đề xuất bổ sung đối tượng nuôi biển. Về khai thác nguồn lợi và bảo quản, chế biến thủy sản, sẽ tập trung nghiên cứu phát triển công nghệ khai thác, cơ giới hóa, hiện đại hóa đội tàu khai thác. Nghiên cứu phát triển công nghệ khai thác, cơ giới hoá, hiện đại hóa đội tàu khai thác. Nghiên cứu công nghệ mới, hiện đại, tiên tiến trong chế biến các sản phẩm có giá trị gia tăng, chế biến sâu, sản phẩm ăn liền, thực phẩm chức năng, nguyên liệu hóa mỹ phẩm… nhằm đa dạng hóa sản phẩm, hàng hóa phục vụ tiêu dùng nội địa và xuất khẩu.
Bên cạnh đó, ngành thủy sản cũng sẽ ứng dụng công nghệ số trong hoạt động nuôi, khai thác, bảo vệ nguồn lợi, chế biến. Ưu tiên nghiên cứu, ứng dụng kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, bảo vệ môi trường, phòng chống dịch bệnh, thích ứng với biến đổi khí hậu… trong hoạt động nuôi, khai thác, bảo vệ nguồn lợi, chế biến. Ứng dụng công nghệ số trong quản lý, vận hành khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về thủy sản, kiểm ngư (hệ thống thông tin chuyên ngành thủy sản; hệ thống giám sát tàu cá; hệ thống thông tin chỉ huy điều hành kiểm ngư, cơ sở dữ liệu chuyên ngành). Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, vận động tài trợ trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ chiến lược trong các lĩnh vực thủy sản.
Quý An
Người nông dân và câu chuyện thuế đối ứng
Con tôm đang cõng trên lưng trên nhiều loại thuế, nhưng suy cho
cùng, chỉ có 2 nhóm đối tượng chính gánh gần như toàn bộ các loại thuế này, đó là: người nuôi tôm và người tiêu dùng.
Thuế đối ứng tại thị
trường Mỹ lần này cũng không là ngoại lệ và đó cũng chính là nỗi lo của tất cả các bên trong chuỗi giá trị con tôm, đặc biệt là người nuôi tôm –mắt xích đầu tiên nhưng yếu thế nhất là dễ bị tổn thương nhất.
Vụ nuôi tôm đầu năm 2025 tiếp tục là vụ nuôi đầy khó khăn, thách thức và nếu để “chỉ mặt, đặt tên” những khó khăn, thách thức đó là gì thì người nuôi tôm sẽ không ngần ngại nói ngay: “Thời tiết và dịch bệnh”. Điều này được thể hiện qua lượng con giống cung ứng ra thị trường cao, nhưng lượng thức ăn thì không tương ứng.
Theo các đại lý, đầu năm đến nay, chỉ bán được thức ăn cho khách hàng trong 1-2 tháng, sau đó hỏi lại mới biết họ đã thu hoạch sớm, hoặc hủy bỏ ao nuôi vì dịch bệnh EHP hoặc TPD.
Tuy nhiên, nhờ giá tôm giữ ở mức cao ngay từ đầu năm, nên chỉ cần có tôm để thu hoạch thì người nuôi gần như cầm chắc có lãi. Đây cũng chính là động lực tinh thần lớn, góp phần đưa diện tích thả nuôi sau 4 tháng đầu năm ước đạt trên 612 nghìn hécta và sản lượng tôm đã thu hoạch hơn 250 nghìn tấn.
Trong khi người nuôi đang gồng mình, tìm đủ mọi cách vượt qua dịch bệnh để có tôm thu hoạch, thì nỗi lo mới mang tên “thuế đối ứng” lại xuất hiện vào những ngày đầu tháng 4.
Ngay sau khi mức thuế trên
được công bố, giá tôm một số kích cỡ lập tức giảm mạnh, thậm chí có loại giảm trên 20.000 đồng/kg, khiến người nuôi càng thêm lo. Rất may, việc hoãn thực hiện mức thuế trên cũng đến liền ngay sau đó, cộng thêm nhu cầu tiêu thụ tôm trong nước tăng, nên giá tôm đã phục hồi trở lại cho đến tận tháng 5 này.
Ông Ngô Công Luận – Giám
đốc HTX Nông ngư 14/10 Hòa
Nhờ A, xã Hòa Tú II, huyện Mỹ Xuyên (Sóc Trăng), chia sẻ: “Thật ra, người nuôi tôm Việt Nam mới là đối tượng chịu tác động lớn
từ thuế đối ứng, chứ không phải người tiêu dùng Mỹ vì họ còn
có quyền chọn lựa nơi nào bán
giá thấp nhất, hay chuyển sang sử dụng loại hải sản khác. Còn nông dân nuôi tôm như chúng tôi, nếu thuế cao quá, doanh nghiệp không xuất khẩu được thì
chỉ có nước nghỉ nuôi, hoặc chỉ thả nuôi cầm chừng làm sinh kế sống qua ngày thôi”.
Câu chuyện thuế đối ứng lan rất nhanh từ doanh nghiệp xuất khẩu đến người nuôi tôm, khiến không ít hộ nuôi hoang mang, lo lắng không dám thả nuôi vụ mới.
Hậu quả là số diện tích thả nuôi trong tháng 4 có phần chậm lại dù đã bước vào giai đoạn chính vụ và các doanh nghiệp cung
ứng con giống tăng cường chính
sách khuyến mãi tặng 30, 50 thậm chí đến 100% con giống.
Anh Phạm Văn Mừng – Giám
đốc HTX Thủy sản Toàn Thắng, ở TX. Vĩnh Châu (Sóc Trăng) cho hay: “Giá tôm lúc này vẫn còn ở
mức khá cao, nhưng người nuôi vẫn chưa dám thả hết diện tích
vì có quá nhiều rủi ro, từ dịch
bệnh cho đến thời tiết và nhất là
giá tôm tới đây chưa biết ra so nữa. Hy vọng, các doanh nghiệp, Chính phủ sẽ tìm kiếm, mở rộng thêm được thị trường tiêu thụ để giúp người nuôi yên tâm trong vụ nuôi này”.
Cùng tâm trạng lo lắng về thuế đối ứng, nhưng anh Huỳnh Xuân
Diện – Giám đốc HTX Nuôi tôm chất lượng cao Tân Hưng, huyện
Cái Nước (Cà Mau) kỳ vọng, sau đám phán, mức thuế dành cho con tôm Việt Nam sẽ giảm mạnh.
Mặt khác, theo anh Diện, người nuôi tôm cần hết sức bình tỉnh, cập nhật thông tin thị trường thường xuyên để chủ động hơn
trong sản xuất.
“Lo nhiều mà không giải quyết
được gì thì chỉ có mệt thêm chứ ích lợi gì. Đã sống với nghề nuôi
tôm này rồi, nếu không nuôi thì
lấy gì mà sống, nên thay vì ngồi
đó lo lắng, rầu rĩ thì mình cứ thả nuôi đi, nhưng thả thưa lại, hoặc thả ít diện tích. Theo tôi biết hiện hầu hết các nhà máy đều thiếu tôm, trong khi mình vẫn còn nhiều thị trường khác nên
giá tôm tới đây chắc cũng không đến nỗi nào. Mấy ngày qua, tôm ôxy tiêu thụ nội địa cũng được thương lái thu mua khá mạnh, nên tôi thấy cũng tạm yên tâm phần nào”, anh Diện bày tỏ. Lo lắng, kỳ vọng và động viên nhau là tất cả những gì mà người nuôi tôm có thể làm trong khi chờ đợi một kết quả đám phán tốt đẹp về thuế đối ứng. Và chính điều này đã giúp cho lượng tôm thu hoạch mỗi ngày dù chưa thể nói là dồi dào nhưng cũng giúp các nhà máy có lượng tôm nhất định duy trì sản xuất. Nếu giá tôm tiếp tục duy trì như hiện nay, theo nhận định của anh Diện, người nuôi sẽ vẫn tiếp tục thả giống vụ mới, dù không ồ ạt, nhưng cũng đủ để cung ứng cho các nhà máy khi bước vào cao điểm chế biến xuất khẩu vào tháng 8-10 tới đây. Hy vọng mọi điều tốt đẹp sẽ đến với ngành tôm nói chung và người nuôi tôm nói riêng để tất cả có thêm động lực, thêm niềm tin, cùng nắm tay nhau vượt qua khó khăn, thách thức và về đích an toàn trong vụ tôm 2025 này.
Ảnh: Tiến Hưng
Linh hoạt và hợp lý sẽ mở ra một
“kỷ
nguyên mới” cho
ngành thủy sản
Chính sách thuế đối ứng ở mức cao trên diện
rộng của Mỹ tác động không nhỏ đến tăng trưởng
kinh tế toàn cầu, ảnh hưởng tới chuỗi cung ứng
và dòng chảy thương mại, đầu tư quốc tế. Chính
sách này có nguy cơ ảnh hưởng đến nhiều mặt
hàng trọng điểm của Việt Nam và thủy sản cũng
không phải là ngoại lệ. Tuy nhiên, theo PGS.TS
Nguyễn Hồng Nga - Chuyên gia kinh tế, trong nguy
có cơ nên ngành thủy sản cần chuyển dịch một
cách linh hoạt và hợp lý.
Dù ít nhưng Việt Nam vẫn có chút lợi thế
Phóng viên: Theo thông tin mới nhất thì Việt Nam sẽ thuộc nhóm các nước đầu tiên đàm phán với Mỹ về vấn đề thuế đối ứng bắt đầu từ ngày 7/5. Vậy lợi thế trong cuộc đàm phán này
của Việt Nam là gì, thưa ông?
PGS.TS Nguyễn Hồng Nga: Thực ra, Việt Nam có rất ít lợi thế trong việc đàm phán với Mỹ bởi chúng ta chưa có vị thế của một cường quốc như Trung Quốc, Nhật Bản hay Nga. Tuy nhiên, chúng ta cũng có đôi chút lợi thế nhỏ nhoi thế này.
Thứ nhất, Việt Nam đang là đối tác chiến lược toàn diện với Mỹ. Hai bên xác định gắn bó lợi ích lâu dài, hỗ trợ lẫn nhau và thúc đẩy sự hợp tác sâu rộng và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực mà các bên cùng có lợi. Đồng thời, hai bên còn xây dựng sự tin cậy lẫn nhau ở cấp chiến lược. Trong đó, kinh tế giữ vài trò chủ lực trong quan hệ đối tác chiến lược toàn diện.
là: Nhiên liệu khoáng và dầu khoáng, lò phản ứng hạt nhân và thiết bị cơ khí, thiết bị và máy móc điện,
Thứ hai, những hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam qua Mỹ không cạnh tranh với hàng hóa xuất khẩu hàng đầu của Mỹ. Top 5 hàng hóa xuất khẩu nhiều nhất của Mỹ năm
Thứ ba, Việt Nam là nước có nền kinh tế năng động và sáng tạo, là đối tác thương mại với hầu hết các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Hợp tác với Việt Nam là gián tiếp tác động tới tất cả đối tác của Việt Nam nên không thể nói là không có lợi khi có mối quan hệ chia sẻ trong kinh tế, nhất là trong quan hệ thương mại.
Thứ tư, vị trí địa kinh tế, chính trị của Việt Nam rất đẹp và nhân văn với tinh thần thêm bạn, bớt thù và quan hệ lâu dài, hướng tới tương lai cùng có lợi trên cơ sở tôn trọng khác biệt. Với hơn 100 triệu người, Việt Nam đứng thứ 15 thế giới về dân số và là nền kinh tế phát triển với tốc độ cao, thì việc có đối tác như Việt Nam là một điều có lợi cho Mỹ khi xuất khẩu những mặt hàng xa xỉ và chất lượng sang Việt Nam.
Phóng viên: Trong cán cân xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Mỹ, câu
chuyện thuế đối ứng sẽ ảnh hưởng
đến lĩnh vực nào nhất, thưa ông? PGS.TS Nguyễn Hồng Nga: Chắc
chắn thuế đối ứng sẽ ảnh hưởng đến các hàng hóa chúng ta xuất khẩu nhiều nhất sang Mỹ, nhất là các hàng hóa công nghệ cao, đó là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác, điện thoại các loại và các linh kiện bởi. Vì Mỹ là quốc gia có công nghệ hiện đại nhất thế giới và các sản phẩm xuất khẩu nêu trên hầu hết là do các khu vực FDI sản xuất với trình độ công nghệ cao và sản phẩm gần như là thiết yếu với thế giới hiện đại.
Hàng dệt may cũng có thể bị tác động ít nhiều vì 80 - 90% đầu vào chúng ta phải nhập khẩu, đa phần từ Trung Quốc.
Cần thích nghi với bối cảnh mới
Phóng viên: Nhiều ý kiến cho rằng, rất khó để Mỹ đưa thuế về 0%, điều đó có nghĩa là lợi thế của Việt
Nam tại thị trường Mỹ sẽ cần phải bàn
tính lại. Nhận định của ông về vấn đề
này như thế nào, thưa ông?
PGS.TS Nguyễn Hồng Nga: Trong tình thế hiện nay, gần như chắc chắn Mỹ sẽ không đưa thuế về 0% vì những lý do kinh
tế. Phương án tối ưu nhất đối với Việt Nam
hiện này là xoay quanh 10%. Cho nên,
chúng ta phải tính toán ra sao để có thể vẫn còn lợi thế xuất khẩu sang thị trường Mỹ, nhất là các sản phẩm sử dụng lao động nhiều hơn máy móc và công nghệ và các sản phẩm nông lâm thủy sản. Phóng viên: Trong trường hợp tình huống thực sự không như mong muốn, Việt Nam cần làm gì để giữ vững những lợi thế thu hút đầu tư, đặc biệt là với các Hiệp định thương mại tự do đã ký kết, thưa ông?
PGS.TS Nguyễn Hồng Nga: Với giả định có những tình huống không như mong đợi, chúng ta cần thích nghi trong bối cảnh mới và cần làm những việc để đổi mới bản thân.
Thứ nhất, chúng ta vẫn cần ổn định chính trị và tăng cường trách nhiệm giải trình của Chính phủ với người dân và quốc tế về các vấn đề kinh tế, nhất là kinh tế đối ngoại và ngoại giao kinh tế. Thứ hai, Chính phủ vẫn phải cố gắng trở thành nhà nước kiến tạo phát triển,
Thứ ba, cam kết với các nước đã ký kết
FTA là sẽ không trả đũa và tuân thủ hiệp định nếu các bên tôn trọng nhau trên cơ sở cùng có lợi trong ngắn và dài hạn.
Thứ tư, cần chứng mình cho thế giới là Việt Nam luôn là đối tác tin cậy, luôn coi trọng phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo và có một thị trường hơn 100 triệu dân với sức mua to lớn từ lợi ích trong tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Doanh nghiệp phải gia tăng “sức đề kháng”
Phóng viên: Vậy các doanh nghiệp Việt Nam cần làm gì để không xảy ra “cú sốc” trong xuất khẩu, đặc biệt là khi thời điểm hoãn thực hiện chỉ còn hơn 1 tháng nữa, thưa ông?
PGS.TS Nguyễn Hồng
Nga: Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải thích nghi và gia tăng sức đề kháng trước các cú sốc từ phía ngoài, nhất là từ xuất khẩu, bởi xuất khẩu là cứu cánh của nền kinh tế mở như Việt Nam.
Thực ra, theo quan
PGS. TS Nguyễn Hồng Nga: Với hơn 100 triệu người, Việt Nam đứng thứ 15 thế giới về dân số và là nền kinh tế phát triển với tốc độ
ưu đãi dành cho khu vực
kinh tế nhà nước. Nghị
quyết 68 của Trung ương
cần được triển khai rộng rãi và thực tế.
Ba là, tăng cường phát triển và chủ động trong
cao, thì việc có đối tác như Việt Nam là một điều có lợi cho Mỹ khi xuất khẩu những mặt hàng xa xỉ và chất lượng sang Việt Nam. Ảnh: Hạnh Nguyên
điểm cá nhân, sẽ không có cú sốc lớn trong xuất khẩu của Việt Nam vì dù sao nước ta chỉ chiếm 4% kim ngạch nhập khẩu của Mỹ và đây là một trò chơi kinh tế mà Mỹ đưa ra để đe dọa các nước có thể ảnh hưởng trực tiếp tới sự phồn vinh của Mỹ về lâu dài như Trung Quốc. Còn Việt Nam chẳng qua là một đối tượng để Mỹ thương thảo có lợi nhất với tất cả các bên.
Tuy nhiên, nếu điều tồi tệ xảy ra thì cũng là một cơ hội và cơ sở để kinh tế Việt Nam thay đổi và chuyển mình để dối phó với nghịch cảnh.
Một là, chúng ta cần thay đổi cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế vừa dựa vào xuất khẩu nhưng cũng phải dựa vào thị trường nội địa với hơn 100 triệu dân. Hai là, cần dựa vào nội lực là chủ yếu, nhất là các doanh nghiệp hay kinh tế tư nhân. Theo dữ liệu thống kê, khu vực tư nhân đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng kinh tế, vì thế cần có những
chính sách tạo điều kiện để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ thay vì những
khoa học và công nghệ cốt lõi để hạn chế nhập khẩu các nguyên nhiên vật liệu để dùng tài chính
nhập khẩu các dây chuyền sản xuất hiện
đại, gia tăng năng lực sản xuất quốc gia.
Bốn là, đẩy mạnh xúc tiến, tìm kiếm các đối tác thương mại mới và tiềm năng
để lấp khoảng trống về xuất khẩu mà thị
trường Mỹ để lại. Hơn nữa, tăng cường hợp tác với các đối tác lâu năm để tìm
kiếm thêm thị trường ngách trong các
đối tác này.
Năm là, chủ động nắm bắt và định hình chuỗi giá trị toàn cầu mới trong bối
cảnh mới về công nghệ và địa chính trị toàn cầu.
Phóng viên: Với riêng lĩnh vực thủy
sản, mặc dù gặp phải cạnh tranh gay gắt, nhiều doanh nghiệp đã và đang có
định hướng thị trường mới, tuy nhiên, không thể phủ nhận tầm quan trọng
của thị trường Mỹ khi chiếm gần 1/5 tổng giá trị xuất khẩu. Vậy, ngành thủy sản Việt Nam cần phải làm gì nếu thuế đối ứng này còn tồn tại dù ít, thưa ông?
PGS.TS Nguyễn Hồng Nga: Như tôi
phân tích, ngành thủy sản ít
tranh cao trên quốc tế. Dĩ nhiên, nếu có thuế
ứng thì chúng ta phải chấp nhận và tìm cách thích nghi trước khi Mỹ đưa về vị trí như trước đây. Thứ nhất, tìm thêm và gia tăng hiệu quả xúc tiến thương mại bởi thủy sản đang và sẽ làm món ăn tốt cho người dân trên thế giới.
Thứ hai, đây là cơ hội để ngành thủy sản tiếp tục giảm chi phí sản xuất với việc áp dụng công nghệ trong việc đánh bắt thủy sản, nhất là chủ động nuôi trồng quy mô lớn để tận dụng tính kinh tế theo quy mô. Nghị quyết 57 về khoa học công nghệ cần thực hiện triệt để trong ngành thủy hải sản. Thứ ba, tập trung hơn vào thị trường nội địa để gia tăng xuất khẩu tại chỗ cho thị trường trong nước và khách quốc tế.
Thứ tư, trong nguy có cơ, nên với việc bị đánh thuế đối ứng cao thì chuyển dịch cơ cấu sản xuất của ngành thủy sản một cách linh hoạt và hợp lý sẽ mở ra một “kỷ nguyên mới” cho ngành thủy sản trong tương lai.
Trân trọng cảm ơn ông!
Thuế đối ứng và câu chuyện
cạnh tranh tại thị trường Mỹ
Xuất khẩu thủy sản Việt Nam 4 tháng đầu năm đã có sự phục hồi mạnh khi kim ngạch đạt khoảng 3,3 tỉ đô la Mỹ, tăng 21% so với cùng kỳ năm 2024. Trong
đó, xuất khẩu sang thị trường Mỹ - thị trường đang áp mức thuế 10% trong 90 ngày đối với Việt
Nam - đạt 498,4 triệu đô la Mỹ, tăng 7% so với cùng kỳ.
Trao đổi với báo chí bên lề hội nghị “Thích ứng trước thách thức thương mại toàn cầu: Cơ hội và hướng đi mới cho doanh nghiệp ĐBSCL”, ông Nguyễn Xuân Thành, Chuyên gia kinh tế cho biết, doanh nghiệp nhập khẩu Mỹ hối thúc thực hiện đơn hàng trong giai đoạn thuế 10% giúp xuất khẩu nông, thủy sản Việt Nam tiếp tục tăng.
Tuy nhiên, ông Thành đánh giá, kịch bản thuế với Mỹ có khả năng xảy ra cao nhất đối với Việt Nam là mức thuế được đưa về 20%. Trong đó, có nhiều mặt hàng được miễn thuế, nhưng nông thủy sản sẽ chịu mức thuế chung, tức 20%. Đây là thách thức, bởi xu hướng chung của Mỹ là giảm thuế cho hầu hết các nước đối tác.
Khi đó, những đối thủ cạnh tranh ở nhóm ngành nông, thủy sản, gốm Ấn Độ, Bangladesh, Thái Lan… khả năng có mức thuế sau đàm phán thấp hơn Việt Nam. Bởi lẽ, thuế đối ứng của Bangladesh là 37%, Thái Lan 36% và Ấn Độ chỉ 26%, tức thấp hơn mức 46% của Việt Nam.
“Điều này có nghĩa, những quốc gia này đưa mức thuế về thấp hơn 20% là trong tầm tay”, vị chuyên gia nhận định.
Nếu kịch bản nêu trên xảy ra, rõ ràng Việt Nam sẽ đánh mất lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu nhóm ngành nông thủy sản vào tay đối thủ là rất lớn, nhất là khi chi phí giá thành sản xuất riêng nhóm ngành thủy sản của những đối thủ này vốn đã thấp hơn khá nhiều so với Việt Nam.
Ông Thành kỳ vọng, thuế Mỹ áp cho Việt Nam sẽ về mức 10-15%, nếu Việt Nam đáp ứng được các yêu cầu của Mỹ, bao gồm giảm mạnh hàng rào thuế quan và phi thuế quan cho hàng hoá Mỹ; kiểm soát được gian lận xuất xứ hàng hoá; điều hành tỷ giá linh hoạt; bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ…
Mức thuế 10-15% sẽ là mức thuế tích cực cho xuất khẩu chung của Việt Nam cũng như nông thủy sản ĐBSCL, bởi khả năng các nước đối thủ cũng chỉ ở mức tương ứng.
“Đạt được mức này không những trong ngắn hạn không bị ảnh hưởng lớn, mà về trung hạn Việt Nam
là điểm đến hấp dẫn cho thu hút đầu tư, làm mắt xích trong chuỗi cung ứng toàn cầu”, ông Thành nhấn mạnh.
Về phần mình, ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) gợi ý, cần phải đa dạng thị trường, giảm lệ thuộc vào Mỹ. Trong đó, Brazil, Nga, Liên minh châu Âu, thị trường Halal có thể khai thác tốt.
Chẳng hạn, với thị trường Brazil, Bộ Công Thương đã đàm phán và mở cửa cho tôm và cá tra Việt Nam. “Dĩ nhiễn, cần làm thêm một số thủ tục, nhưng trong thời gian tới nếu chúng ta tiếp cận thị trường này một cách nghiêm túc, thì đây là thị trường khổng lồ, hoàn toàn có thể thay thế phần lớn thị trường Mỹ”, ông Phú chia sẻ. Với việc khai thác thị trường mới để thay thế, Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại kỳ vọng nhóm ngành nông, thủy sản vẫn phát triển tốt trong thời gian tới.
Cảnh Nghi
INTERVIEW
Ông Phạm Hải Văn, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Grobest Industrial (Việt Nam)
Grobest Việt Nam
Cam kết mang lại giá trị bền vững cho ngành thủy sản
Hơn 20 năm gắn bó với thị trường Việt Nam, Grobest luôn tự hào là đơn vị tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu dinh dưỡng thủy sản. Công ty không ngừng
đổi mới nghiên cứu, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo sản xuất hiệu quả và bền vững.
Bên lề sự kiện Hội chợ Triển lãm Quốc tế
Công nghệ ngành tôm Việt Nam lần thứ 6 (VietShrimp 2025), ông Phạm Hải Văn, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Grobest Industrial (Việt Nam) đã có những chia sẻ về câu chuyện
thương hiệu, nỗ lực của doanh nghiệp nhằm
mang lại giá trị bền vững cho ngành thủy sản.
Phóng viên: Hơn 20 năm đồng hành
cùng thị trường Việt Nam, đến nay, Grobest
được biết đến là một trong những chuyên gia hàng đầu về dinh dưỡng thủy sản. Ông có thể chia sẻ về những thành tựu nổi bật
mà công ty đã đạt được?
Ông Phạm Hải Văn: Tập đoàn Grobest
được thành lập vào năm 1974 và có văn phòng trụ sở đặt tại Đài Loan. Grobest đã phát triển hoạt động sang các nước như Việt Nam, Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Philippines, Malaysia. Grobest Việt Nam
được thành lập vào năm 2000, là thành viên thứ 13 của Tập đoàn. Trong suốt hơn 20 năm qua, Grobest Việt Nam luôn luôn tự hào là
đơn vị tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu dinh dưỡng cho thức ăn thủy sản, đặc biệt tại
Việt Nam, đối tượng nghiên cứu chính là tôm. Những năm qua, Grobest luôn luôn đổi mới, sáng tạo nhằm tạo ra các sản phẩm dẫn đầu thị trường, phục vụ đa dạng nhu cầu và giai đoạn khác nhau trong quá trình sản xuất như thức ăn chức năng tăng cường miễn dịch hàng ngày, tăng cường miễn dịch chuyên biệt và tăng trọng.
Điển hình như thời điểm trước đây, khi ở
Việt Nam, tôm sú đang là đối tượng nuôi chủ yếu thì Grobest đã nghiên cứu những giải pháp dinh dưỡng tối ưu cho tôm sú. Trong đó, The Best là sản phẩm thuộc dòng thức ăn chức năng tăng trọng nổi tiếng của công ty. Suốt hơn hai thập kỷ qua, sản phẩm vẫn được đông đảo bà con nuôi tôm trên cả nước tin chọn nhờ khả năng “Rút ngắn thời gian, tăng size nhanh”.
Không dừng lại ở đó, đồng hành cùng với từng giai đoạn phát triển của ngành tôm, Grobest Việt Nam đã giới thiệu những dòng thức ăn giúp tăng cường hệ miễn dịch, sức khỏe gan ruột cho tôm. Đặc biệt là vào thời điểm nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh gặp thách thức lớn về dịch bệnh, Grobest đã cung cấp giải pháp dinh dưỡng tăng cường miễn dịch tôm, để tôm chống chọi tốt hơn với dịch bệnh, nhất là những bệnh phổ biến trên tôm như: Hội chứng chết sớm (EMS), bệnh phân trắng, đốm trắng, EHP.
Và gần đây nhất, một giải pháp đột phá về dinh dưỡng đã được Cục Thủy sản (nay là Cục Thủy sản và Kiểm ngư - Bộ Nông nghiệp và Môi trường) công nhận là tiến bộ kỹ thuật với tên gọi Advance Pro. Với độ đạm tối ưu 36%, Advance Pro đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của tôm trong từng giai đoạn. Hiệu quả sản phẩm được chứng minh thực tế khi có hàng nghìn hộ nuôi áp dụng thành công. Advance Pro cũng được Tập đoàn Grobest kiểm nghiệm kỹ lưỡng và thử nghiệm tại các cơ sở uy tín như Viện Công nghệ châu Á (AIT), Thái Lan và Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản II (RIA 2), Việt Nam. Với sự đảm bảo chất lượng từ các viện nghiên cứu uy tín, Advance Pro mang đến cho tôm nuôi chế độ dinh dưỡng cân đối, giúp tôm phát triển khỏe mạnh, tăng trưởng nhanh và đạt năng suất cao. Sản phẩm sử dụng lượng đạm vừa đủ, đảm bảo đạt năng suất cao, giảm chi phí, giá thành sản xuất đồng thời giảm ô nhiễm môi trường nuôi.
Phóng viên: Hiện, giá thành sản xuất tôm của nước ta cao hơn nhiều nước trong khu vực. Vậy Grobest đã có những chiến lược nào giúp tối ưu hóa chi phí sản xuất, thưa ông?
Ông Phạm Hải Văn: Những năm qua, Grobest đã thực hiện nhiều nghiên cứu và nhận thấy rằng, giá thành sản xuất thức ăn
của Việt Nam không cao hơn nhiều so với các nước sản xuất tôm khác. Một trong những nguyên nhân đẩy giá thành sản xuất cao, khiến con tôm Việt Nam thất thế trước các đối thủ đó là tỉ lệ nuôi tôm thành công ở nước ta rất thấp, bình quân chỉ dưới 40%. Con số này thấp hơn nhiều so với một số nước như Ecuador trên 90%, Ấn Độ hơn 60%, Thái Lan (55%), thậm chí, tỉ lệ nuôi của Thái Lan có thời điểm ở mức trên 80%.
Nguyên nhân thứ hai là do người nuôi tôm Việt Nam quá lạm dụng hóa chất xử lý nước và kháng sinh phòng chống bệnh cho tôm trong quá trình nuôi. Việ c sử dụng quá nhiều hóa chất không chỉ làm t ăng chi phí mà còn ảnh hưởng đến chất lượng tôm và khả năng c ạnh tranh trên thị tr ường quốc tế Để giúp người nuôi gỡ “nút thắt” này, Grobest đã cung cấp nhiều giải pháp về dinh dưỡng cũng như nghiên cứu và nhân rộng các mô hình với ưu điểm “Năng suất cao - Chi phí thấp”. Kết hợp hai yếu tố này sẽ giúp người nuôi có thể hạ giá thành sản xuất, đồng thời giảm tác động lên môi trường, tăng tính bền vững, lâu dài. Chỉ có phát triển theo hướng bền vững, ngành tôm Việt Nam mới có thể cạnh tranh sòng phẳng với các nước sản xuất tôm khác trên thế giới.
Phóng viên: Theo ông, đâu là rào cản lớn nhất cho sự phát triển bền vững ngành tôm?
Ông Phạm Hải Văn: Ngành tôm đang chịu ảnh hưởng nặng nề từ biến đổi khí hậu và thời tiết khắc nghiệt dẫn đến dịch bệnh ngày càng phức tạp, đòi hỏi cần có sự chuyển dịch theo hướng phát triển bền vững. Thay đổi tư duy và quy trình nuôi là những bước quan trọng để ngành tôm có thể trụ vững và phát triển. Người nuôi cần thay đổi tư duy nhận thức rằng mục tiêu không chỉ là sản xuất nhiều mà còn phải đảm bảo bền vững lâu dài. Việc chuyển từ tư duy sản xuất sang tư duy bền vững, áp dụng khoa học và công nghệ, và thay đổi quy trình nuôi không chỉ giúp nâng cao hiệu quả sản xuất mà còn đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành. Tuy nhiên, nuôi tôm của Việt Nam hiện vẫn còn mang tính manh mún và nhỏ lẻ, chưa tạo thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung; nên để thay đổi và chuẩn hóa quy trình, kỹ thuật nuôi là điều không hề dễ dàng. Đây cũng chính là rào cản lớn nhất của ngành tôm Việt Nam.
Trong khi đó, nuôi tôm lại là thế mạnh của các nước xung quanh như Ấn Độ và Ecuador. Điển hình như tại Ecuador, nếu như cách đây 10 năm, ít nhà sản xuất và xuất khẩu tôm nào của Việt Nam nhắc đến Ecuador như là một đối thủ tiềm năng thì nay Ecuador đã là nước sản xuất tôm lớn nhất thế giới và còn là đối thủ lớn nhất của ngành tôm Việt Nam trong những năm sắp tới. Quốc gia này hiện chỉ có 1 số lượng rất nhỏ trang trại, nhưng các trang trại thường có quy mô rất lớn, mỗi trại nuôi có diện tích tối thiểu vài chục ha, lên tới vài trăm ha, hay cả nghìn ha. Ngược lại, Việt Nam có đến hàng chục nghìn hộ nuôi nhỏ lẻ, với số lượng người nuôi nhiều, phạm vi rộng, gây khó khăn cho quá trình đồng bộ.
Phóng viên: Công ty có kế hoạch gì để tăng cường sự bền vững trong sản xuất và bảo vệ môi trường trong ngành thủy sản?
Ông Phạm Hải Văn: Để ngành tôm Việt Nam phát triển bền vững, đòi hỏi cần thúc đẩy quá trình hợp nhất mạnh mẽ, tăng quy mô nuôi để chuẩn hóa quy trình, trong đó ứng dụng các chương trình dinh dưỡng, công nghệ xử lý môi trường, giảm tác động môi trường.
Grobest đã và đang đi trên con đường này, để từng bước giúp người nuôi vượt qua những thách thức hiện hữu, cũng như góp phần phát triển ngành tôm bền vững. Công ty đã không ngừng đưa ra những giải pháp chiến lược về
Ông Phạm Hải Văn nhấn mạnh: “Tại Grobest, chúng tôi cam kết đồng hành cùng các đối tác và người nuôi tôm để phát triển các giải pháp bền vững, bằng việc cung cấp sản phẩm thức ăn chức năng có chất phụ gia độc quyền, giúp phòng bệnh hiệu quả mà không cần sử dụng kháng sinh, thuốc hay hóa chất, mang lại giá trị lâu dài và an toàn cho ngành thủy sản Việt Nam”.
công nghệ, dinh dưỡng lẫn quản lý mô hình cho người nuôi tôm Việt Nam. Từ năm 2021, Grobest đã nghiên cứu và cho ra đời mô hình GROFARM, hướng đến mục tiêu tăng tỉ lệ nuôi thành công và tối ưu hóa lợi nhuận. Từ thành quả tỉ lệ về đích trên 85%, các chuyên gia Grobest tiếp tục nâng cấp lên mô hình
GROFARM PRO trong năm 2023, tạo nên sự khác biệt nhờ các yếu tố như Chương trình Dinh dưỡng, Hiệu quả và Bền vững.
Ngoài ra, Grobest liên tục nghiên cứu và phát triển hệ sinh thái dinh dưỡng cho tôm tối ưu trong cả thức ăn hàng ngày, thức ăn chức năng. Đơn cử như bộ đôi Advance và Advance Pro với 36% đạm tiên phong trên thị trường, giúp hộ nuôi giảm bớt chi phí xử lý môi trường nước, từ đó giảm giá thành sản xuất trên 1 kg tôm, mang về lợi nhuận tối đa cho vụ nuôi.
Những giải pháp này thực sự tập trung vào việc giảm chi phí, tăng tỉ lệ sống, tăng tỉ lệ thành công, giảm rác thải, giảm ô nhiễm môi trường. Tương lai, Grobest cam kết tiếp tục đồng hành cùng người nuôi tôm trong việc thúc đẩy các giải pháp xanh, góp phần phát triển bền vững nghề nuôi tôm theo hướng hiện đại và bền vững.
Phóng viên: Grobest là đơn vị nhiều năm liền tham gia hội chợ VietShrimp. Ông có đánh giá như thế nào về VietShrimp 2025?
Ông Phạm Hải Văn: Chủ đề “Xanh hóa vùng nuôi” của VietShrimp 2025 không chỉ phản ánh xu hướng tất yếu, mà còn là tiếng nói chung của toàn ngành trong hành trình chuyển đổi. Đây là vấn đề đang nhận được sự quan tâm của nhiều doanh nghiệp.
Tham gia VietShrimp 2025, Grobest không chỉ đồng hành với vai trò nhà tài trợ mà còn là đơn vị tiên phong giới thiệu các giải pháp thực tiễn, hiện thực hóa chiến lược này bằng loạt hành động cụ thể, bắt đầu từ những cải tiến trong công nghệ dinh dưỡng đến việc giới thiệu các sản phẩm hỗ trợ người nuôi tôm cải thiện hiệu quả canh tác và giảm thiểu tác động môi trường.
Về mặt tổ chức, VietShrimp 2025 có quy mô lớn, thiết kế ấn tượng tạo không gian triển lãm đẹp mắt, bố trí hợp lý về lối đi. Triển lãm hội tụ các sản phẩm đa dạng từ con giống, thức ăn, máy móc trang thiết bị, chế phẩm sinh học, thú y thủy sản,…
Trân trọng cảm ơn ông!
Gỡ khó trong
quản lý khai thác của ngư dân
Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý
tàu cá không chỉ góp phần gỡ “thẻ vàng” IUU,
mà hơn hết là giúp ngành thủy sản hướng tới
phát triển nghề cá bền vững, trong đó, vai trò
của ngư dân rất quan trọng.
Quản lý cảng cá vẫn gặp khó
Theo ông Phạm Ngọc Tuấn, Trưởng phòng Khai thác thủy sản (Cục Thủy sản và Kiểm ngư), cả
nước hiện có 82.333 tàu cá. Trong đó, tàu có chiều dài từ 6 - 12m là 39.330 chiếc; từ 12 - 15m là 14.404 chiếc; từ 15 - 24m là 26.095 chiếc; trên 24m 2.453 chiếc.
Tổng số cảng cá được quy hoạch đến năm 2030 là 173 cảng, gồm 39 cảng loại I, 80 cảng loại II và 54 cảng cá loại III. Sản lượng qua cảng là 2,98 triệu tấn/năm.
Đến nay, cả nước có 76 cảng cá
được công bố, bao gồm 3 cảng loại I; 56 cảng loại II; 17 cảng loại 3. Theo quy hoạch, tổng sản lượng thủy sản qua cảng là 1.858 triệu tấn/năm, tuy nhiên, trong
thực tế, sản lượng qua cảng năm 2024 chỉ đạt 462.000 tấn.
“Thuận lợi của hệ thống cảng cá nước ta là có bờ biển dài, nhiều cửa sông, ngư trường hoạt động rộng, đội tàu cá lớn. Hơn nữa, hệ thống cảng cá của nước ta hiện rất được quan tâm quy hoạch và đầu tư xây dựng. Tuy nhiên, tình hình cảng cá ở nước ta hiện gặp nhiều khó khăn vì sản lượng qua cảng thấp. Trong khi đó, ý thức chấp hành của một số chủ tàu chưa cao, việc xử lý vi phạm chưa nhiều”, ông Tuấn cho biết thêm. Về vấn đề truy xuất nguồn gốc tại cảng cá, ông Nguyễn Văn Hưng, Phòng Khai thác thủy sản (Cục Thủy sản và Kiểm ngư) cho biết, nhật ký điện tử và truy xuất nguồn gốc (eCDT), hiện nay đã thiết lập hệ thống 82.315 tàu cá, 86 cảng cá, 28 Chi cục Thủy sản, 172 Đồn
Biên phòng, 259 doanh nghiệp. Tính đến ngày 24/4/2025, đã cập
nhật được 135.925 lượt tàu xuất cảng, 117.422 lượt tàu cập cảng, sản lượng cập cảng 476.775 tấn.
Nâng cao năng lực hệ thống cảng cá
Đại diện Ban Quản lý cảng cá tư nhân tại Bà Rịa - Vũng Tàu chia
sẻ, hiện nay có một bất cập là vào
thời điểm tàu cá cập cảng nhiều, mặc dù Ban quản lý đã làm thủ
tục nhưng không kịp thời bấm
số lượng lên hệ thống, nên một
số trường hợp chậm cập nhật đã
dẫn đến không khớp với dữ liệu.
“Chính vì thế, chúng tôi mong muốn cơ quan quản lý cho phép
điều chỉnh khoảng thời gian từ lúc
cập cảng đến lúc xác nhận sản
lượng qua cảng”, vị này cho biết.
Về phần mình, ông Phan Huy
Hoàng, Chủ tịch Hội Nghề cá
Quảng Ngãi cho rằng, mục tiêu
quản lý cảng cá là quản lý tàu
cá và sản lượng đánh bắt được, nhưng thống kê cho thấy cả nước
mới đầu tư hơn 86 cảng, không
đáp ứng được nhu cầu số lượng
tàu cá hiện nay, nên trong thực
tế chỉ quản lý được hơn 20% sản
lượng thủy sản khai thác. “Trong khi đó, phải quản lý được tất cả
các cảng cá, bến cá, kể cả của
tư nhân thì mới kiểm soát được
toàn bộ tàu cá xuất nhập bến”, ông Hoàng nhấn mạnh.
Vị lãnh đạo Hội Nghề cá Quảng
Ngãi đề xuất, Cục Thủy sản và
Kiểm ngư cần tham mưu cho Bộ, nhà nước tăng cường quản lý toàn
bộ cảng cá, bắt buộc đăng ký quy
mô, hệ thống thông tin, công nghệ
được ứng dụng. Cùng đó, các loại
cảng, bến cá tư nhân cũng phải
được tập huấn, đào tạo, chỉ thế mới thay đổi được thực tế hiện nay.
Để ngư dân dễ dàng tiếp cận
phần mềm
Ứng dụng “Hệ thống phần mềm truy xuất nguồn gốc thủy sản điện tử” giúp tất cả thông tin, dữ liệu đều được cập nhật chính xác và nhanh chóng. Ngư dân thay vì cập cảng báo cáo để cơ quan quản lý nhập sản lượng
thì có thể thực hiện thủ tục đó ngay trên biển.
Theo chia sẻ của một số chuyên gia, việc triển khai hệ thống phần mềm điện tử truy xuất nguồn gốc khai thác thủy
sản (eCDT) đến chủ phương tiện
đánh bắt thủy sản là cần thiết, tuy nhiên, thực tế triển khai đang vướng phải một số vấn đề.
Đại diện cơ quan quản lý chuyên
ngành tại một số địa phương cho biết, quá trình triển khai phát sinh một số bất cập như trình độ của một số ngư dân còn hạn chế, không phải thuyền trưởng nào cũng có điện thoại thông minh, môi trường đánh bắt trên tàu ẩm ướt, xâm nhập nước biển dễ gây hư hỏng, kết nối internet hạn chế… nên gây khó khăn cho việc khai báo trên ứng dụng di động.
Ông Nguyễn Văn Hưng, Phòng
Khai thác thủy sản (Cục Thủy sản và Kiểm ngư) nhận định, hệ thống truy xuất nguồn gốc thủy sản được thực hiện đủ các bước, nhiều tính năng mới được bổ sung, việc chấp hành của ngư dân cũng dần đi vào quy củ… Tuy nhiên, trong quá trình triển khai eCDT vẫn có một số hạn chế nhất định, chẳng hạn như thể thức, giao diện chưa khoa học gây khó khăn cho người dùng. Một số tính năng còn thiếu (như báo cáo, nhật ký điện tử) hệ thống treo, cập nhật thông tin chậm… Trong Hội nghị Nâng cao hiệu quả của tổ chức quản lý cảng cá do Cục Thủy sản và Kiểm ngư phối hợp với Hội Thủy sản Việt Nam tổ chức mới đây, đại diện Công ty TCOMIE đã giới thiệu về Hệ thống hải trình tàu thuyền. Điểm nổi bật của giải pháp này là không cần mua thêm thiết bị chuyên dụng để giúp cơ quan quản lý và ngư dân tối ưu hóa chi phí. Điều này phù hợp với mong muốn của ngư dân, tuy nhiên, theo nhiều đại biểu tham gia Hội nghị, quan trọng là cần phải đơn giản trong thao tác để ngư dân dễ tiếp cận.
Ông Nguyễn Hữu Dũng, Tổng Thư ký Hội Thủy sản Việt Nam cho rằng, để đảm bảo công tác quản lý được tốt, nhà nước cần có chế tài mạnh. Tuy nhiên, quan trọng là phải đưa ra phương pháp hợp lý, phần mềm làm sao dễ dàng sử dụng để tạo thuận lợi cho ngư dân. Thay đổi được nhận thức thì sẽ chuyển đổi hành vi. “Phần mềm là công cụ chứng minh tốt nhất, nhưng với người nông dân phải đơn giản nhất, nhập dữ liệu dễ dàng thì họ sẽ làm. Chỉ cần đi theo đúng hướng đấy sẽ mọi việc sẽ thuận lợi rất nhiều”, ông Dũng nhấn mạnh.
“Đồng quản lý bảo vệ nguồn lợi”
Vì ngành thủy sản
Cả nước hiện có 11 tỉnh
tổ chức triển khai thực
hiện đồng quản lý trong
bảo vệ nguồn lợi thủy
sản. Trong đó nhiều đ ịa
phương đã th ự c hi ệ n
tố t như: Thừa Thiên
Huế, Hà Tĩnh, Quảng
Nam, Bình Định, Bình
Thuận, Cà Mau, Kiên
Giang, Sóc Trăng...
Những kết quả tích cực
Ngày 18/01/2024, Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định
số 76/QĐ-TTg phê duyệt Chương
trình Quốc gia bảo vệ và phát
triển nguồn lợi thủy sản đến năm
2030. Theo đó, mục tiêu đối với
lĩnh vực đồng quản lý, đó là 60%
các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương thực hiện đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy
sản gắn với xây dựng nông thôn
mới, phát triển du lịch sinh thái.
Để đạt được mục tiêu này,
Chương trình đã đưa ra các giải
pháp đối với l ĩnh vực đồng quản
lý. Cụ thể: Tuyên truyền, tập
huấn, chia sẻ kinh nghiệm thực
hiện đồng quản lý; Hướng dẫn kỹ
thuật, tổ chức giám sát, đánh giá
thực hiện đồng quản lý; Tổ chức
thực hiện đồng quản lý trong
phạm vi cả nước theo hướng bảo
vệ, phát triển nguồn lợi thuỷ sản kết hợp với khai thác, nuôi trồng
thuỷ sản, phát triển du lịch sinh thái, du lịch nông thôn; Hỗ trợ, hướng dẫn cộng đồng xây dựng hồ sơ đề nghị công nhận và giao quyền cho tổ chức cộng đồng
thực hiện đồng quản lý,...
Ngay trong năm 2024, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã phát động, lấy năm 2024 - 2025 là “Năm tăng
cường thực hiện hiệu quả đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi
thủy sản” với chủ đề: Đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy
sản vì sinh kế của cộng đồngchung tay vì một ngành thủy sản xanh và phát triển bền vững. Theo báo cáo của Cục Thủy sản và Kiểm ngư, tính đến nay, trên phạm vi cả nước đã có 11
tỉnh tổ chức triển khai thực hiện đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản, với hơn 60 tổ chức cộng đồng được công nhận và giao quyền tham gia đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản; 300 hộ gia đình và 3.500 người tham gia. Một số đ ịa phương thự c hiện tốt công tác đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủ y s ản như: Thừa Thiên Huế, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Bình Định, Bình Thuận, Cà Mau, Kiên Giang, Sóc Trăng,... Việ c triển khai mô hình đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi t ại các đ ịa
cộng đồng, các cá nhân, tổ chức chung tay cùng nhà nước bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản. Nhận thức của người dân đối với công tác bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản được nâng lên, nguồn lợi thủy sản tại một số khu vực đã có dấu hiệu phục hồi, phát triển. Tình trạng người dân vi phạm các quy định pháp luật về khai thác thuỷ sản đã có xu hướng giảm qua các năm. Từ đó, năng suất khai thác, thu nhập và mức sống của người dân tại một số khu vực thực hiện đồng quản lý dần đư ợc ổn định, cao hơn so với trước đây.
Thừa Thiên Huế là địa phương triển khai các mô hình đồng quản lý khá sớm so với cả nước. Ngay khi Luật Thủy sản 2017 có hiệu lực, UBND tỉnh đã tiến hành rà soát, điều chỉnh các Khu bảo
vệ thủy sản được thành lập trước
đây và xác lập thành 22 Khu với tổng diện tích 11,639.09 ha,
chiếm 53% diện tích đầm phá.
Trong đó diện tích vùng khai thác chung chiếm 11,024.89 ha và diện tích bảo vệ nghiêm
ngặt (vùng lõi) khoảng 614,2 ha
(chiếm 2,8%) tổng diện tích đầm
phá. Việc thành lập các Khu bảo vệ thủy sản trên đầm phá Tam
Giang - Cầu Hai được giao cho
các Tổ cộng đồng là các Chi
hội Nghề cá cấp cơ sở quản lý.
Sự thành công của các mô hình
đồng quản lý tại đây đã góp phần
làm giảm áp lực lên khai thác
nguồn lợi tự nhiên, giảm xung
đột trong cộng đồng ngư dân
làm nghề khai thác hải sản, giữa
người dân với chính quyền địa
phương. Hiện tại, vùng đất ngập
nước trong hệ đầm phá Tam
Giang - Cầu Hai được người dân
khai thác và nuôi trồng thủy sản
dưới sự quản lý của chính quyền
địa phương.
Tại Cà Mau, các thành viên
của tổ Đồng quản lý bảo vệ và
khai thác khu vực thả rạn nhân
tạo luân phiên canh giữ khu vực
thả rạn, tàu canh giữ có bảng
báo nhằm thông báo và tuyên
truyền cho cộng đồng ngư dân
quanh khu vực biết về hoạt động
của mình. Việc tổ chức tốt công
tác bảo vệ khu vực rạn nhân tạo
đã tạo hiệu quả tích cực trong
phát triển nguồn lợi thủy sản.
Hệ sinh thái tại đây đã phục hồi
đáng kể với hơn 78 loài đại diện
được tìm thấy thường xuyên qua
các lần lặn quan sát, trong đó
mật độ cá chiếm tỉ lệ cao với
48 loài. Không chỉ vậy, số lượng
loài, kích thước quần thể cũng
tăng dần theo thời gian.
Nâng cao hiệu quả đồng
quản lý
Cục Thủy sản và Kiểm ngư
nhận định, nhìn chung, các mô
hình đồng quản lý trong bảo vệ
nguồn lợi thuỷ sản g ắ n vớ i mô
hình chuyển đổi sinh kế cho c ộ ng đ ồ ng ngư dân đã được
các địa phương triển khai và
bước đầu đạt được một số kết
quả nh ấ t đ ịnh. Tuy nhiên, các mô hình này vẫn còn tồ n t ạ i, hạn
chế, chủ yếu đang dừng ở mức
độ triển khai thí điểm, vừa làm
vừa rút kinh nghiệm.
Nguyên nhân chủ yếu đến từ
việc tổ chức thực hiện phương
án bảo vệ và khai thác nguồn lợi
thủy sản sau khi được công nhận
và giao quyền của tổ chức cộng
đồng còn hạn chế. Trong khi
sinh kế cho người dân tham gia
thực hiện đồng quản lý chưa ổn
định, thiếu tính bền vững. Ngoài ra, kinh phí hoạt động của tổ
chức cộng đồng chưa đáp ứng nhu cầu, đa số các tổ chức cộng
đồng chưa có nguồn thu ổn định.
Hoạt động khai thác trái phép, vi phạm quy định về khai thác
thủy sản của những người không
tham gia/người ngoài tổ chức
cộng đồng tại khu vực đồng quản
lý còn xảy ra mà chưa xử lý được.
Hơn nữa việc tổ chức thực hiện
tại một số địa phương và cộng
đồng còn khó khăn. Năng lực
của cộng đồng còn hạn chế, việc
xây dựng hồ sơ và tổ chức thực
hiện theo quy định pháp luật thời
gian đầu cần được hỗ trợ.
Để nâng cao hiệu quả của
đồng quản lý trong bảo vệ nguồn
lợi thủy sản, Cục Thủy sản và
Kiểm ngư đề xuất cần xây dự ng kế hoạch chi tiế t thự c hiện Đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản vì sinh kế của cộng đồng - chung tay vì một ngành thủy sản xanh và phát triển bền vững. Cùng với đó, thiết lập mạng lưới, kết nối, chia sẻ thông tin, nguồn lực giữa các tổ chức cộng đồng và các bên liên quan tham gia thực hiện đồng quản lý. Thành lập Quỹ bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản Việt Nam để có nguồn lực hỗ trợ tổ chức cộng đồng thực hiện đồng quản lý t ại các đ ịa phương. Ngoài ra, cần hỗ
Thùy Khánh
Quan trắc và cảnh báo môi trường nuôi trồng thủy sản
Tồn tại - thách thức và giải pháp
Quan trắc và cảnh báo môi trường (QT&CBMT) là hoạt động theo dõi, giám sát biến động về chất lượng môi trường nhằm dự báo sớm ô nhiễm, dịch bệnh, từ đó đưa ra cảnh báo giúp người nuôi kịp thời ứng phó; góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực đến hệ sinh thái, cung cấp dữ liệu phục vụ quản lý, quy hoạch, đảm bảo an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc. Bài viết này đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động QT&CBMT trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Thành tựu đã đạt được
Những năm vừa qua hoạt động quan trắc và cảnh báo môi trường (QT&CBMT) trong nuôi trồng thủy sản (NTTS) đã đạt được những bước tiến đáng kể, góp phần quan trọng vào việc phát triển bền vững ngành thủy sản:
Thứ nhất, xây dựng được hệ thống các trung tâm quan trắc và cảnh báo môi trường, bệnh thủy sản thuộc 04 Viện nghiên cứu và một số phòng thí nghiệm thuộc các chi cục thủy sản ở địa phương.
Thứ hai, ban hành được nhiều văn bản về quản lý, quy trình, quy
phạm. Đặc biệt gần đây đã ban hành Chương trình QT&CBMT phục vụ quản lý ngành Nông
nghiệp & Phát triển nông thôn số QĐ. Số 4255/QĐ.BNN.KHCN, trong đó xác đinh được các chỉ tiêu quan trắc môi trường vùng nuôi thủy sản bao gồm: Các thông số lý - hóa nước, dinh
dưỡng, trầm tích (bùn đáy)(1);
dư lượng thuốc bảo vệ thực vật,
Ion kim loại năng, tảo độc/thủy triều đỏ và nhóm vi sinh vật gây bệnh... Với tần suất quan trắc từ
2–4 lần mỗi tháng, tập trung ở
các nhóm đối tượng chủ yếu là:
Tôm nước lợ, cá tra, nhuyễn thể hai mảnh vỏ (nghêu, sò), cá biển
nuôi lồng-bè và một số đối tượng
nuôi nước ngọt(2)
Thứ ba, kết quả QT&CBMT đã góp phần không nhỏ giảm thiểu
rủi ro trong sản xuất, cung cấp
dữ liệu khoa học đáng tin cậy, hỗ
trợ quản lý vùng nuôi tập trung, nâng cao ý thức cộng đồng
người nuôi và từng bước tích hợp công nghệ mới.
Tồn tại – thách thức
Trên cơ sở tổng hợp thông tin và khảo sát bổ sung cho thấy:
Bao phủ dàn trải, thiếu trọng tâm
Kinh phí đầu tư hạn chế trong khi hệ thống cơ sở nuôi trồng nhỏ lẻ, phân tán trên nhiều vùng sinh thái khác nhau; đối tượng
nuôi đa dạng với nhiều phương
thức canh tác. Tần suất quan trắc ít (1-4 lần/tháng), với độ trễ trong công bố kết quả chậm (3-7 ngày) dẫn đến dữ liệu thiếu tính
kịp thời, không phản ánh đầy đủ đặc trưng biến động môi trường tại từng vùng và thời điểm. Cơ sở dữ liệu thiếu tính đồng bộ, gây khó khăn cho dự báo và quản lý.
Bất cập trong các chỉ tiêu quan trắc
Các nhóm thông số môi trường ở nguồn nước cấp, vùng nuôi; đối tượng, phương thức nuôi và vùng sinh thái, hiện còn không ít sự bất cập. Chẳng hạn như môi trường vùng nuôi nhuyễn thể hai mảnh vỏ và vùng nuôi cá lồng chịu ảnh hưởng bởi mùa vụ, thời tiết, sóng gió, mưa lũ và thủy triều thường biến động theo ngày, thậm chí theo giờ; do vậy, nếu áp dụng theo tần suất quan trắc 2-4 lần/tháng thì có thể chưa phù hợp. Nhuyễn thể hai mảnh vỏ là loài ăn lọc, thức ăn chủ yếu là tảo đơn bào, vi sinh vật và mùn bã hữu cơ, góp phần làm sạch môi trường, nên nếu
môi trường sạch chưa chắc đã tốt cho sinh trưởng và phát triển; đặc biệt chúng có thể khép vỏ để thích nghi khi môi trường biến đổi đột ngột.
Nguồn phát thải của nhóm Ion kim loại nặng, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV), kháng sinh và các hóa chất cấm ra môi trường chủ yếu do hoạt động công – nông nghiệp và người nuôi. Tuy vậy, theo kết quả phân tích mẫu tại các vùng nuôi tôm và cá tra tập trung năm 2021-2023, không phát hiện dư lượng các chất này(3). Có thể trước khi xả thỉ đã được xử lý, hoặc khi thải ra sông được hấp thu bởi thực vật đa bào, vi tảo, vi sinh vật; và người nuôi hiện nay tuân thủ việc không sử dụng các loại kháng sinh và chất cấm.
Nhóm thông số môi trường nhạy cảm (to C, S%o, pH, DO) trong ao nuôi thường thay đổi nhanh theo ngày, giờ; nếu chỉ quan trắc 1–4 lần/tháng và thời gian trả kết quả sau 3–7 ngày, thì khả năng cảnh báo sớm hầu như không hiệu quả...
Phương pháp thu, bảo quản và phân tích mẫu chưa đạt chuẩn: Việc lấy mẫu, bảo quản và vận chuyển đến phòng thí nghiệm hiện nay chủ yếu do cán bộ
Kim Sơ
phương thực hiện. Do thiếu trang thiết bị chuyên dụng trong thu, bảo quản, vận chuyển mẫu, và chưa được đào tạo bài bản về kỹ thuật nên nguy cơ sai lệch kết quả phân tích và làm giảm độ tin cậy của dữ liệu phân tích là
không tránh khỏi(4)
Thông tin cập nhật chậm, truyền thông một chiều: Quy trình cập nhật và truyền tải thông tin giữa các bên liên quan, cơ quan quan trắc - cơ quan quản lý - người nuôi, chưa đồng bộ. Người nuôi thường chỉ nhận được thông tin một chiều, thiếu kênh phản hồi, nên không thể gửi ý kiến, câu hỏi hoặc thông báo bất thường từ thực tế sản xuất trở lại hệ thống.
Nguồn lực đầu tư chưa đồng bộ: Một số trung tâm quan trắc
địa phương còn thiếu trang thiết
bị phân tích đồng bộ hiện đại,
năng lực chuyên môn của cán
bộ kỹ thuật còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phân tích các chỉ tiêu phức tạp, ảnh hưởng đến chất lượng và độ chính xác của dữ liệu thu thập.
Mạng lưới QT&CBMT từ Trung ương đến địa phương chưa đồng bộ: Thiếu quy hoạch tổng thể, đồng bộ mạng lưới QT&CBMT mang tính liên tỉnh, liên ngành, nên chưa tận dụng nguồn lực của các viện, trường và doanh nghiệp tư nhân. Thiếu sự kế thừa và liên kết lẫn nhau, dẫn đến sự lãng phí nguồn lực và làm giảm hiệu quả giám sát, cảnh báo môi trường. Thiếu cơ chế giám sát và tham chiếu: Chưa xác định rõ về cơ chế kiểm soát, giám sát chất lượng của thông tin, số liệu và dữ liệu cảnh báo; thiếu những quy định bắt buộc đồng bộ kèm theo dữ liệu quan trắc, sổ nhật ký, biên bản thu mẫu, nhật ký vận hành máy móc phân tích, xử lý số liệu dẫn đến khả năng kiểm chứng thông tin thu thập được khó khăn.
Việc tăng cường quan trắc tự động; phân cấp và xã hội hóa hoạt động QT&CBMT trong nuôi trồng thủy sản là một hướng
đi cần thiết nhằm thích ứng với bối cảnh ngân sách công hạn chế, vùng nuôi phân tán, đa dạng các đối tượng-phương thức nuôi và yêu cầu thông tin thời gian thực ngày càng cao. Để chủ trương này phát huy hiệu quả, cần xây dựng hành lang pháp lý phù hợp, hệ thống giám sát chặt chẽ và nền tảng dữ liệu đồng bộ. Đây không chỉ là giải pháp kỹ thuật, mà còn là một cải cách về thể chế quản lý môi trường trong nông nghiệp hiện đại.
Áp dụng công nghệ cao chậm: Việc ứng dụng công nghệ cao, hiện đại và số hóa trong QT&CBMT trong cập nhật, chia sẻ, dự báo và tích hợp cơ sở dữ
liệu quốc gia phục vụ công tác
dự báo, cảnh báo sớm và quản lý
còn chậm. QT&CBMT còn mang nặng tính bao cấp.
Giải pháp phát triển bền vững
Củng cố hệ thống và mạng
lưới QT&CBMT
Cần hoàn thiện hệ thống và
mạng lưới QT&CBMT trên cơ sở
kết nối các phòng thí nghiệm
trung ương và địa phương, các viện, trường và các doanh
nghiệp khoa học để tận dụng
nguồn lực, giảm thiểu gánh năng
ngân sách cho nhà nước và tạo
điều kiện thuận lợi cũng như hỗ
trợ tích cực cho người nuôi thủy
sản. Chỉnh sửa, bổ sung và hoàn thiện bộ tiêu chuẩn quốc gia về
quan trắc & cảnh báo môi trường
thủy sản, hệ thống giám sát độc
lập, với khung pháp lý quản lý vận hành minh bạch. Có thể thiết
kế mô hình đối tác công tư (PPP), đảm bảo dữ liệu có chất lượng,
được số hóa, công khai, và có chính sách hỗ trợ ban đầu.
Phân cấp và xã hội hóa hoạt
động QT&CBMT
Tăng cường phân cấp và xã hội hóa hoạt động QT&CBMT trong
nuôi trồng thủy sản một cách
hợp lý, có kiểm soát sẽ mang lại
nhiều lợi ích thiết thực như:
Tăng tính chủ động và linh
hoạt cho người nuôi: Người nuôi có thể chủ động lựa chọn các chỉ
tiêu, tần suất quan trắc phù hợp
với hình thức, đối tượng nuôi, giai
đoạn phát triển và điều kiện môi
trường cụ thể tại địa phương.
Đặc biệt trong các thời điểm giao mùa hoặc khi xuất hiện thời
tiết cực đoan. Ngoài ra, người nuôi có thể chủ động về tài chính
thay vì phụ thuộc vào ngân sách
nhà nước hoặc các chương trình
hỗ trợ không ổn định.
Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ: Khi nhiều
đơn vị tư nhân được phép tham gia cung cấp dịch vụ quan trắc, thị trường sẽ xuất hiện sự cạnh tranh, từ đó nâng cao chất
lượng dịch vụ và giảm chi phí.
Đồng thời thúc đẩy ứng dụng
các công nghệ mới như cảm
biến IoT, hệ thống cảnh báo tự
động, mô hình dự báo theo thời gian thực có thể được đưa vào
ứng dụng nhanh hơn thông qua
khu vực tư nhân.
Giảm tải và tăng hiệu quả cho
cơ quan quản lý nhà nước: Thay
vì thực hiện toàn bộ chuỗi hoạt
động QT&CBMT, cơ quan nhà nước có thể tập trung vào việc: Ban hành quy chuẩn, hướng dẫn
kỹ thuật; kiểm tra, giám sát chất lượng dịch vụ; chuẩn hóa và tích hợp dữ liệu từ nhiều nguồn; tập trung nguồn lực vào các vùng trọng điểm hoặc các tình huống khẩn cấp; và từng bước xóa bỏ tình trạng bao cấp về QT&CBMT trong nuôi trồng thủy sản. Đẩy mạnh việc sử dụng thiết bi quan trắc tự động Tăng cường sử dụng thiết bị quan trắc tự động trong nuôi thủy sản, đặc biệt là trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp và yêu cầu giám sát môi trường của nhóm các chỉ tiêu cốt lõi (to C, S%o, pH, DO, độ kiềm, NH3 /NH4 +, H2 S, TSS, NO2) theo thời gian thực ngày càng cao. Nhằm theo dõi môi trường theo thời gian thực, giảm phụ thuộc vào nhân lực, tăng tính chính xác, hỗ trợ ra quyết định theo hướng dữ liệu hóa… Hợp lý các thông số cần và cần quan trắc
Rà soát điều chỉnh các nhóm thông số quan trắc phù hợp với vùng nuôi, vùng sinh thái, hình thức, đối tượng nuôi và các giai đoạn phát triển của vật nuôi nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động QT&CBMT. Anh Vũ
Ghi chú: ( 1): Dùng từ “trầm tích” trong văn bản quản lý QĐ. Số 4255/QĐ.BNN.KHCN là không chính xác; (2): QĐ. Số 4255/QĐ.BNN.KHCN; (3) Đỗ Phương Chi, 2021-2023; Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giảm thiểu thuốc thú y, hóa chất, kháng sinh trong nước thải, bùn thải từ nuôi thâm canh tôm, cá tra (Nhiệm vụ bộ NN&PTNT); (4) Một số địa phương do thiếu phương tiện và kỹ thuật nên thu mẫu theo hình thức múc nước trực tiếp nước trên bề mặt.
Lớp phòng vệ đầu tiên
Da cá thực hiện nhiều chức năng cần thiết cho sự
sống: hoạt động như một hàng rào bảo vệ, tiếp nhận xúc giác, phương tiện giao tiếp và thậm chí tham gia
vào quá trình hô hấp và duy trì cân bằng thẩm thấu.
Vì vậy, đây là một cơ quan rất quan trọng giúp kết
nối cá với môi trường sống.
Không giống như con người và các động vật máu nóng khác có lớp da ngoài cùng bao gồm các tế bào chết, da cá là một cơ quan sống và có hoạt động trao đổi chất. Da và chất nhầy tạo nên một phần quan trọng của lớp bảo vệ đầu tiên chống lại ký sinh trùng, vi khuẩn và virus.
Cấu trúc da được tổ chức hoàn thiện và bao gồm lớp biểu bì ở ngoài cùng, vảy (có ở nhiều loài cá) và một lớp chất nhầy, các thành phần này kết hợp lại để bảo vệ cá khỏi mầm bệnh (hình 1).
Lớp biểu bì bao gồm nhiều lớp tế bào, tạo thành một hàng rào vật lý chống lại mầm bệnh và các tác nhân gây căng thẳng từ môi trường. Vảy có ở hầu hết các loài cá, tạo thành một lớp bảo vệ bổ sung, góp phần củng cố hàng rào vật lý tổng thể. Cuối cùng là một lớp chất nhầy bao phủ toàn bộ bề mặt ngoài của cá, nó hoạt động như một hàng rào tiền biểu mô. Chất nhầy chứa nhiều thành phần kháng khuẩn như immunoglobulin, lectin và lysozyme giúp kết dính và loại bỏ mầm bệnh.
Khi có mầm bệnh xâm nhập vào, da kích hoạt phản ứng miễn
Hình 1. Cấu trúc da cá
dịch bằng cách sản xuất cytokine
để báo hiệu và thu hút các tế bào
miễn dịch như bạch cầu trung
tính, tế bào mast và đại thực bào
đến để tiêu diệt mầm bệnh. Da
cũng chứa SALT, một loại mô bạch huyết giúp điều phối phản
ứng miễn dịch.
Vì vậy việc duy trì lớp da nguyên vẹn là rất quan trọng
đối với sức khỏe tổng thể và khả
năng kháng bệnh của cá. Bất kỳ
tổn thương hoặc suy yếu nào của da, như từ việc bắt và vận chuyển
cá, vết thương hoặc bệnh trên
da, đều có thể làm suy yếu khả
năng phòng vệ và khiến cá dễ bị
nhiễm trùng hơn.
Trong hệ thống nuôi, da của
cá hồi liên tục phải đối mặt với
nhiều thách thức khác nhau như
trầy xước, mật độ nuôi cao, môi
trường và nhiệt độ biến động liên
tục, chất lượng nước kém, v.v. Tất
cả những yếu tố gây căng thẳng này sẽ khiến da bị suy yếu, khả năng phòng vệ giảm, và quá trình
phục hồi tự nhiên sẽ chậm lại.
Do đó, lớp da nguyên vẹn với các chức năng hoạt động tốt là yếu tố quan trọng để ổn định sức khỏe cá. Để tăng cường sức khỏe da, từ đó nâng cao sức khỏe cá, việc giảm các yếu tố gây căng
thẳng và duy trì chất lượng nước
tối ưu là điều cần thiết. Bên cạnh
đó, việc cung cấp dinh dưỡng chất lượng cao và phù hợp sẽ hỗ trợ cá vượt qua những giai đoạn thách thức.
Stella CH chứa nhiều thành phần chức năng quan trọng đối với cấu trúc da. Từ đó tăng cường khả năng miễn dịch và
khả năng chống lại nhiễm trùng, giúp cá khỏe mạnh và tăng tỉ lệ sống. Hơn nữa, các thành phần này còn giúp cá ít bị thương và khi bị thương thì vết thương nhẹ và mau lành hơn.
Vậy, có gì trong gói hỗ trợ sức khỏe của Stella CH?
Beta-glucans
Beta-glucan, đặc biệt là những loại có nguồn gốc từ nấm men, có thể tăng cường hệ thống miễn dịch của cá. Chúng hoạt động
như chất điều hòa và kích thích hệ miễn dịch thông qua kích
hoạt nhiều tế bào miễn dịch khác nhau, bao gồm đại thực bào, bạch cầu trung tính và tế bào sát
thủ tự nhiên (NK) bằng cách liên
kết với các thụ thể trên bề mặt của các tế bào này.
Chúng cải thiện chức năng của các tế bào miễn dịch trong
việc bao bọc và tiêu diệt mầm bệnh (thực bào). Đồng thời betaglucans cũng kích hoạt quá trình sản sinh cytokine bằng cách kích thích giải phóng cytokine, đây là các phân tử truyền tín hiệu điều hòa phản ứng miễn dịch. Bằng cách cải thiện chức năng miễn dịch tự nhiên, beta-glucans tăng cường mọi tuyến phòng thủ đầu tiên chống lại mầm bệnh, bao gồm da, tế bào biểu mô và chất nhầy, giúp hỗ trợ cá chống lại nhiễm trùng và căng thẳng do môi trường tốt hơn, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng và nâng cao tỷ lệ sống.
Vitamin và khoáng chất Một số vitamin và khoáng chất đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ sức khỏe và bảo vệ da cá. Vitamin A, Vitamin D, Vitamin E và Vitamin C, cùng với các khoáng chất như kẽm, selen và đồng là những thành phần đặc biệt quan trọng để duy trì lớp da nguyên vẹn và khỏe mạnh nhờ vào khả năng hỗ trợ miễn dịch và bảo vệ chống lại căng thẳng do ôxy
Vitamin A rất cần thiết trong việc bảo vệ niêm mạc và hỗ trợ sức khỏe biểu mô ở da và các
vùng khác. Vitamin A cũng có vai trò điều hòa tăng trưởng, phát triển mô và hỗ trợ các chức năng miễn dịch. Vitamin D thúc đẩy hệ thống hàng rào niêm mạc ở da cá, tăng cường khả năng chống lại mầm bệnh. Còn Vitamin E hoạt động như một chất chống
ôxy hóa mạnh giúp bảo vệ tế bào khỏi bị tổn thương, củng cố sức khỏe da.
Vitamin C đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe da cá bằng cách hỗ trợ hình thành collagen, hoạt động như một chất chống ôxy hóa mạnh và tăng cường miễn dịch chống lại nhiễm trùng và các tác nhân gây căng thẳng từ môi trường. Nó giúp ngăn ngừa tổn thương do ôxy hóa, tăng cường hàng rào bảo vệ da và hỗ trợ chữa lành vết thương. Lớp collagen cũng giúp bảo vệ da khỏi tác hại của tia UV. Một số khoáng chất đóng vai trò quan trọng đối với tính
toàn vẹn, sức khỏe và khả năng bảo vệ của da cá và có thể ảnh
hưởng đến khả năng kháng bệnh và chống lại căng thẳng của cá.
Trong đó, kẽm, selen và đồng là ba khoáng chất quan trọng.
Kẽm là một nguyên tố vi lượng
thiết yếu cho cá, và sự thiếu hụt
của nó có thể dẫn đến mòn da và
các vấn đề khác. Kẽm hỗ trợ tăng
trưởng bằng cách tham gia vào
quá trình hình thành da, xương và mô liên kết. Ngoài ra, kẽm còn có
chức năng miễn dịch thông qua
điều hòa miễn dịch phòng thủ và
chữa lành vết thương ở cá. Tất cả
các yếu tố trên đều quan trọng để
duy trì một lớp da khỏe mạnh. Một
khoáng chất thiết yếu khác trong
Stella CH hỗ trợ sức khỏe lớp da là
Selen, nó kết hợp với vitamin E để
chống lại căng thẳng do ôxy hóa
và bảo vệ các thành phần tế bào khỏi bị tổn thương. Cùng với Selen
và kẽm, Đồng cũng góp phần giúp hỗ trợ lớp da khỏe mạnh.
Axit hữu cơ
Axit hữu cơ là một chất phụ gia thức ăn nổi tiếng được sử
dụng trong nuôi trồng thủy sản
để cải thiện tăng trưởng, hiệu quả sử dụng thức ăn và sức khỏe tổng thể của vật nuôi.
Chúng có thể giúp giảm lượng vi khuẩn trong đường tiêu hóa, cải thiện an toàn vệ sinh thức ăn và có khả năng thay thế kháng sinh trong một số trường hợp.
Axit hữu cơ cũng có thể hỗ trợ bảo vệ da cá bằng cách hoạt động
như tác nhân kháng khuẩn và cải thiện sức khỏe tổng thể của cá. Từ
đó, các vấn đề về da được ngăn
ngừa hoặc giảm thiểu. Chúng cũng có thể góp phần giúp tăng cường hấp thụ chất dinh dưỡng và nâng cao khả năng kháng bệnh.
Nhờ tác dụng kháng khuẩn, axit hữu cơ có thể ức chế sự phát
triển của vi khuẩn và nấm có hại
có thể gây ra nhiễm trùng da và
bệnh ở cá. Việc bổ sung axit hữu
cơ vào thức ăn giúp cải thiện sức
khỏe đường ruột, nhờ đó chất
dinh dưỡng được hấp thụ tốt hơn
và hệ thống miễn dịch được tăng
cường. Đường ruột khỏe mạnh
có thể tác động tích cực đến sức
khỏe da và giúp cơ thể cá chống
lại các bệnh nhiễm trùng tác
động lên da. Bằng cách hỗ trợ hệ thống miễn dịch mạnh mẽ và giảm nguy cơ nhiễm trùng, axit hữu cơ có thể gián tiếp góp phần giúp lớp da khỏe mạnh hơn.
Tóm lại, trong các hệ thống nuôi trồng thủy sản, thức ăn cho cá đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe của da cá. Thức ăn cần đảm bảo rằng cá nhận được các chất dinh dưỡng cần thiết cho lớp da khỏe mạnh để chống lại mầm bệnh. Sức khỏe lớp da tốt là rất quan trọng đối với phúc lợi cá và sự thành công của vụ nuôi. Stella CH được thiết kế để cung cấp không chỉ hỗn hợp cân bằng các chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển tối ưu của cá hồi mà còn bao gồm một gói hỗ trợ sức khỏe cao cấp với Beta-glucan, axit hữu cơ, nucleotide và hàm lượng vitamin và khoáng chất cao giúp hỗ trợ lớp nhớt khỏe mạnh và chữa lành vết thương hiệu quả. Đồng thời, thúc đẩy hệ thống miễn dịch và hệ vi sinh đường ruột mạnh mẽ, giảm nguy cơ mắc bệnh trong quá trình nuôi và cải thiện phúc lợi của cá. Một đàn cá được nuôi
Joao Sendao
Hình 3. Các lợi
Tận dụng cơ hội
Ngoài các sản phẩm được bảo vệ theo Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (USMCA), mức thuế tối thiểu 10% mới của Mỹ, cùng với
các mức thuế đối ứng theo từng quốc gia (đã tạm dừng đối với
tất cả các quốc gia ngoài Trung
Quốc) đã đưa tỷ lệ thuế trung bình đối với hàng nhập khẩu vào Mỹ lên mức cao nhất kể từ sau Thế chiến II, theo dữ liệu từ Ủy ban Thương
mại Quốc tế (ITC). ICT cho biết, Mỹ duy trì lệnh tạm hoãn thuế quan 90 ngày, trong khi tỷ lệ thuế cơ bản 10% vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, quyết định tạm hoãn áp thuế đang tạo hiệu ứng tích cực lên thị trường thủy sản, các đơn hàng bắt đầu tăng trở lại. Nhật Bản gấp rút xuất khẩu sò điệp và các mặt hàng khác sang Mỹ. Doanh nghiệp Ấn Độ tích cực vận động chính phủ can thiệp để Mỹ đã tạm hoãn áp dụng mức thuế bổ sung 26% vào tháng 4/2025, tạo điều kiện cho Ấn Độ xuất khẩu khoảng 40.000 tấn tôm sang Mỹ trong quý II/2025. Thái Lan và Hàn Quốc sẽ sớm khởi động các cuộc đàm phán. Liên minh châu Âu tạm thời đình chỉ thuế trả đũa Mỹ trong 90 ngày. Theo bà Julia Spies, Giám đốc Thương mại và Thị trường tại Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC) ở Thụy Sĩ, Mỹ thay đổi chính sách thương mại có thể tạo ra những cú sốc lớn cho thị trường. Do đó, các doanh nghiệp nên tập trung đẩy nhanh các lô hàng còn đang trong quá trình trung chuyển, vận chuyển đến quốc gia nhập khẩu cuối cùng, ít nhất là trong 90 ngày tới để hạn chế tối đa rủi ro bị áp thuế cao. Đồng thời, tích cực chủ động mở rộng xuất khẩu sang các thị trường khác như Trung Đông, châu Á.
Tái cấu trúc thị trường
Mức thuế 145% đối với cá rô phi Trung Quốc khiến thị trường “rối
Các nước xuất khẩu thủy sản đang chủ động ứng
phó thuế đối ứng của Mỹ bằng đàm phán, rà soát
thuế, tận dụng ưu đãi và đa dạng thị trường. Những
biện pháp này giúp giảm tác động tiêu cực và giữ đà
phát triển bền vững.
loạn” khi một số nhà nhập khẩu
Mỹ “ôm” hàng tồn kho, còn những
hãng khác tìm cách chuyển sang
nguồn cung thay thế. Giá cá da
trơn Trung Quốc đã tăng ngay lập
tức do thiếu nguồn cung thay thế
trong khi giá cá tra Việt Nam cũng nhích lên. Thị trường cá đáy, đặc biệt là cá tuyết, cá minh thái và cá bơn từ Trung Quốc, đang chịu áp lực lớn khi hàng tồn kho giảm và khó tìm kiếm nguồn thay thế.
Trước tình hình trên, thủy sản
Mexico đã chuyển hướng khỏi thị trường Mỹ, Trung Quốc, châu Âu và một số quốc gia Mỹ Latinh sang Canada, Brazil và Ấn Độ, theo báo cáo của ITC. Tương tự,
Việt Nam cũng đang giảm xuất
khẩu sang Mỹ và đẩy mạnh vào các thị trường Trung Đông, Bắc
Phi (MENA), châu Âu, Hàn Quốc.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhỏ
ở các quốc gia kém phát triển sẽ
gặp khó khăn về chi phí trong quá trình chuyến hướng này, theo ITC.
Tại Ấn Độ, nhiều doanh nghiệp
xuất khẩu tôm đang nỗ lực đa
dạng hóa thị trường, mở rộng sang
Trung Quốc, Nga và Canada. Hãng
thủy sản Coastal Corporation cho
biết một số khách hàng Mỹ sẵn
sàng chấp nhận mức thuế cao
hơn, nhưng công ty vẫn mở rộng
xuất khẩu sang các thị trường khác
để giảm phụ thuộc vào Mỹ. Bên
cạnh đó, Hiệp hội Xuất khẩu Thủy
sản Ấn Độ cũng vận động chính
phủ Mỹ xem xét miễn thuế cho
tôm Ấn Độ, đồng thời tìm kiếm các
giải pháp lâu dài để giảm thiểu tác
động của thuế quan.
Ngành tôm hùm Canada kêu gọi
chính phủ và các tổ chức liên quan
hỗ trợ để giảm thiểu tác động của thuế đối ứng. Theo Hội đồng Thủy sản Canada, thuế đối ứng 25%
có thể khiến sản phẩm tôm hùm
Canada không còn khả năng cạnh tranh trên thị trường Mỹ. Thủ tướng
Canada, ông Justin Trudeau, đã tuyên bố tăng cường các mối quan
hệ thương mại với các quốc gia khác, đặc biệt là châu Âu và châu Á. Doanh nghiệp Canada cũng phát triển thêm các sản phẩm chế biến như: Tôm hùm đông lạnh, thịt tôm hùm đóng gói sẵn và các sản phẩm ăn liền hoặc chế biến nhẹ, nhằm tăng giá trị gia tăng và mở rộng đối tượng tiêu dùng.
Theo Hiệp hội Xuất khẩu Thực phẩm Đông lạnh Bangladesh (BFFEA), Bangladesh đã xuất khẩu khoảng 10.000–12.000 tấn tôm sang Mỹ trong năm 2024. Tuy nhiên, việc Mỹ áp dụng thuế đối ứng 37% đối với tôm nhập khẩu đã làm tăng giá tôm Bangladesh tại thị trường Mỹ, kéo theo nguy cơ mất thị phần. Để đối phó, Bangladesh đang tìm kiếm
các thị trường thay thế như châu Âu và Trung Đông. Ngoài ra, nước này cũng kỳ vọng thúc đẩy xuất
khẩu tôm sú sang Trung Quốc
sau khi được quốc này miễn thuế 100% từ ngày 1/12/2024.
Đàm phán và xúc tiến
thương mại
Mexico, một đối tác thương mại chủ chốt của Mỹ tại Bắc Mỹ, đã quyết định thông qua Hiệp định
Thương mại Mỹ-Mexico-Canada (USMCA), để đàm phán nhằm đảm bảo các sản phẩm thủy sản, đặc biệt là tôm và cá, được hưởng những ưu đãi thuế quan tốt. Trong khi đó, Ấn Độ chủ động tìm kiếm các thỏa thuận thương mại mới, đồng thời cắt giảm thuế cho các sản phẩm quan trọng. Chính phủ Ấn Độ đã cử Bộ trưởng Thương mại Piyush Goyal sang Mỹ để đàm phán về các biện pháp giảm thuế. Ấn Độ cũng đặt mục tiêu tăng trưởng thương mại song phương lên 500 tỷ USD vào năm 2030. Ecuador quyết định giảm thuế nhập khẩu tôm từ Mỹ xuống 30% nhằm giảm
Ecuador. Đây là một biện pháp quan trọng giúp duy trì dòng chảy thương mại giữa hai quốc gia và tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập khẩu các sản phẩm tôm. Malaysia, với vai trò Chủ tịch ASEAN, đã thảo luận với các nước trong khu vực để phối hợp phản ứng. Indonesia chọn không áp dụng biện pháp đối ứng mà tập trung vào đàm phán với Mỹ và tìm kiếm các thị trường thay thế ở châu Âu.
Canada đã tận dụng lợi thế từ các Hiệp định thương mại tự do với EU (CETA) để tăng xuất khẩu sang châu Âu với thuế suất ưu đãi hoặc bằng 0; đồng thời đẩy mạnh quan hệ với các nước CPTPP như Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam –những thị trường đang có nhu cầu lớn về thủy sản cao cấp. Ông Scott Bessent, Bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ kêu gọi các nước tiến hành đàm phán dựa trên nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, tập trung vào việc xúc tiến thương mại, nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực từ các mức thuế đối ứng và duy trì sự ổn định trong quan hệ thương mại quốc tế.
Tuấn Minh
Xuất khẩu thủy sản vượt 3 tỷ USD
Theo VASEP, tháng 4/2025, xuất khẩu thủy sản đạt 850 triệu USD, đưa tổng kim ngạch 4 tháng đầu năm lên 3,09 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ 2024. Tôm dẫn đầu với 1,27 tỷ USD (tăng 30%), nhờ nhu cầu mạnh từ Trung Quốc, EU và Nhật Bản. Cá tra đạt 632,7 triệu USD, tăng 9%, dù tăng trưởng chậm lại do áp lực thuế và cạnh tranh từ cá rô phi. Cá rô phi gây chú ý với mức tăng 138%, đạt 19 triệu USD trong tháng 4. Nhuyễn thể, cua ghẹ và mực cũng tăng mạnh, cho thấy xu hướng đa dạng hóa sản phẩm đang phát huy hiệu quả.
Giá tôm nguyên liệu ổn định, có nơi tăng nhẹ cuối
tháng 4
Cuối tháng 4, giá tôm nguyên liệu tại nhiều địa phương tiếp tục xu hướng ổn định, một số nơi ghi nhận mức tăng nhẹ. Tại Phú Yên, giá tôm sú giữ nguyên so với cuối tháng 3: cỡ 50 con/ kg ở mức 220.000 đồng/kg; 40 con/kg ở mức 250.000 đồng/kg; 30 con/kg đạt 300.000 đồng/ kg. TTCT cỡ 100 con/kg ở mức 120.000 đồng/kg. Tại Quảng Bình, giá các loại tôm cũng không biến động. Cụ thể, tôm sú cỡ 20 - 30 con/ kg và tôm bộp 45 - 50 con/kg cùng đạt 480.000 đồng/kg; tôm đất 40 - 50 con/kg ở mức 420.000 đồng/kg; TTCT cỡ 30 - 40 con/kg ở mức 300.000 đồng/kg; tôm hùm cỡ 3 - 5 con/kg đạt 1.250.000 đồng/kg. Riêng tại Cà Mau, giá tôm có chuyển biến tích cực, tôm sú cỡ 30 con/ kg tăng 3.000 đồng/kg, TTCT cỡ 20 con/kg tăng 2.000 đồng/kg.
Hà Tĩnh
Giá hải sản tăng mạnh dịp lễ, ngư dân thu lãi cả chục triệu mỗi chuyến
Dịp nghỉ lễ 30/4 và 1/5, nhờ thời tiết thuận lợi và nhu cầu tăng cao từ khách du lịch, giá hải sản tại Hà Tĩnh tăng mạnh. Mực nhảy hiện lên tới 750.000 – 800.000 đồng/kg, tôm hùm đạt 1 – 1,3 triệu đồng/kg, cao hơn 100.000 – 250.000 đồng/kg so với ngày thường. Ngư dân tranh thủ vươn khơi, mỗi đêm đánh bắt có thể thu lãi cả chục triệu đồng sau khi trừ chi phí. Các cảng cá như Cẩm Nhượng, Kỳ Anh tấp nập tàu cập bến và thương lái mua bán từ sáng sớm, không khí buôn bán sôi động chưa từng thấy kể từ đầu năm.
Bình Định
Cá gần bờ được giá, ngư dân Nhơn Lý trúng lớn
Từ ngày 20/4, vùng biển gần bờ xã Nhơn Lý (TP Quy Nhơn, Bình Định) xuất hiện dày đặc cá lồ ồ và cá dưa gang, tạo điều kiện cho hàng trăm tàu thuyền và thuyền thúng ra khơi khai thác. Mỗi chuyến biển, ngư dân có thể thu từ 200 - 500 kg cá. Với giá bán sỉ tại bến lên tới 55.000 đồng/ kg cá lồ ồ và 40.000 đồng/kg cá dưa gang, mỗi tàu thu về từ 8 - 24 triệu đồng. Cá vừa cập bến đã được thương lái thu mua liên tục để kịp phân phối đến các chợ trong TP Quy Nhơn và các huyện lân cận.
Ninh Thuận
Ngư dân huyện Ninh Hải vào vụ cá Nam
Vụ cá Nam năm nay khởi động thuận lợi tại huyện Ninh Hải (Ninh Thuận) khi giá hải sản tăng cao, giúp ngư dân có thu nhập khá. Tại các cảng cá như Ninh Chữ, Mỹ Tân hay vịnh Vĩnh Hy, tàu thuyền tấp nập cập cảng với đầy khoang cá nục, cá ngừ, mực ống... Ngư dân Nguyễn Tánh (xã Thanh Hải) chia sẻ, mỗi chuyến biển khai thác hơn 7 tấn cá nục suông và cá ngừ, sau khi trừ chi phí còn lãi trên 50 triệu đồng. Gần bờ, giá cá nhái hiện ở mức 30.000 - 35.000 đồng/kg - cao hơn cùng kỳ năm ngoái.
Quảng Ninh
Giá hàu tăng gấp 3 sau bão, ngư dân Vân Đồn
phấn khởi thu hoạch
Sau nhiều tháng trắng tay vì bão số 3 (Yagi), ngư dân Vân Đồn (Quảng Ninh) bắt đầu thu hoạch lứa hàu đầu tiên với giá bán cao kỷ lục 25.000 –28.000 đồng/kg, gấp 2,5 – 3 lần so với trước bão. Tháng 3 vừa qua, sản lượng hàu thu hoạch đạt hơn 3.000 tấn; tháng 4 dự kiến lên đến 7.700 tấn nhờ thời tiết thuận lợi và lứa nuôi mới đã đến kỳ thu hoạch. Với mức giá hiện tại, người nuôi có thể đạt lợi nhuận trên 50% doanh thu, tạo nguồn vốn quan trọng để tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất.
ĐBSCL
Giá cá tra nguyên liệu ổn định
Cuối tháng 4/2025, giá cá tra nguyên liệu tại ĐBSCL tiếp tục giữ xu hướng tăng nhẹ, mang lại tín hiệu tích cực cho người nuôi sau thời gian dài giá thấp. Cụ thể, cá tra thương phẩm cỡ 0,85 - 1,1 kg/con đang được thu mua với giá từ 32.000 - 33.000 đồng/kg, tăng 500 - 1.000 đồng/kg so với đầu tháng. Loại cá có kích cỡ lớn hơn, từ 1,2 kg/con trở lên, hiện dao động quanh mức 30.000 – 31.000 đồng/kg. Giá tăng chủ yếu do nhu cầu chế biến phục vụ xuất khẩu ổn định, trong khi nguồn cung cá tra đạt chuẩn không quá dồi dào. Giới chuyên môn nhận định, nếu đơn hàng xuất khẩu tiếp tục khả quan và giá cá giống duy trì ở mức cao, giá cá tra nguyên liệu có thể tiếp tục tăng trong thời gian tới.
Giá tôm nguyên liệu tăng trở lại, tôm sú vượt mốc
300.000 đồng/kg
Sau giai đoạn biến động mạnh trong tháng 4, giá tôm nguyên liệu tại ĐBSCL đang có xu hướng phục hồi. Tôm sú cỡ 30 - 40 con/kg hiện đạt 250.000 - 300.000 đồng/kg, tăng 10.000 - 20.000 đồng so với tháng trước; loại 50 con/kg dao động khoảng 200.000 - 220.000 đồng/kg. Riêng tôm sú cỡ 20 con/kg dù giữ mức giá ổn định so với tháng 3, nhưng đã từng giảm sâu đến 55.000 đồng/kg trong tháng do tác động từ thị trường quốc tế. Trong khi đó, tôm thẻ các cỡ từ 80 con/kg trở lên cũng ghi nhận mức giảm 5 - 22% so với tháng trước.Sau khi Mỹ thông báo không tăng thuế với Trung Quốc và tạm hoãn áp dụng thuế đối ứng trong vòng 90 ngày, thị trường đã bắt đầu có dấu hiệu tích cực hơn, góp phần kéo giá tôm nguyên liệu tăng trở lại trong đầu tháng 5.
Lan Khuê
Trung Quốc
Giá cá rô phi lao dốc
Giá cá rô phi nguyên liệu bắt đầu
giảm mạnh từ ngày 9/4, thời điểm Mỹ
áp dụng thuế quan mới. Đến tuần 16 (14 - 20/4), giá hạ xuống dưới chi phí sản xuất: khoảng 8 NDT/kg (1,10 USD/ kg) đối với cỡ 500-800g và 6 NDT/kg với cỡ 300-500g. Phần lớn nhà máy
chế biến tại Hải Nam và Quảng Đông
đã ngừng nhận đơn hàng quốc tế. Một cơ sở chế biến lo ngại tình hình căng thẳng với Mỹ có thể khiến thị trường rối loạn trong mùa thu hoạch cao điểm tháng 6. Trước khủng hoảng, ngày 14/4, Liên minh Chế biến và Tiêu thụ thủy sản Trung Quốc (CAPPMA) phát động sáng kiến ổn định chuỗi cung ứng cá rô phi, kêu gọi nhà máy ngừng ép giá, duy trì thu mua hợp lý để bảo vệ người nuôi. CAPPMA đề xuất thu mua ổn định trong ba tháng tới, tăng chế biến, lưu trữ và xử lý công khai các doanh nghiệp ép giá; đồng thời thúc đẩy tiêu dùng nội địa.
Mỹ Latinh
Giá tôm bật tăng, thị trường toàn cầu dậy sóng
Giá tôm thẻ chân trắng Nam Mỹ đang tăng tại hai thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới gồm Trung Quốc và Mỹ. Tôm thẻ đông lạnh cỡ 30/40 tại Trung Quốc được giao dịch ở mức 39,5 - 40,8 nhân dân tệ/kg, tăng 0,5 - 1,5 nhân dân tệ chỉ trong hai tuần. Một số sản phẩm cao cấp, như tôm đông lạnh muối đóng gói 12kg, đã trở lại mức giá cao kỷ lục 475–500 nhân dân tệ/thùng (tương đương 41,7 nhân dân tệ/kg). Giới chuyên gia tại Thượng Hải nhận định đợt tăng giá giữa tháng 4 chỉ là khởi đầu, khi nhu cầu dự kiến còn tăng mạnh. Tại Mỹ, trong tuần 16, giá tôm bán buôn tăng 2–5% so với tháng trước. Đáng chú ý, giá tôm thẻ chân trắng từ Mỹ Latinh tăng mạnh hơn hàng châu Á. Các sản phẩm chế biến sâu và tôm sú cũng ghi nhận mức tăng tương tự. Các nhà xuất khẩu Ecuador nhanh chóng điều chỉnh giá theo xu hướng. Tại Trung Quốc, giá CFR tôm đông lạnh Ecuador loại 30/40 đạt 4,80 USD/kg, loại 20/30 tăng lên 5,70 USD/kg, và loại 40/50 nhích lên 4,60 USD/kg.
Mỹ
Nhập khẩu sò điệp tăng vọt
Tổng lượng sò điệp nhập khẩu của Mỹ trong tháng 2/2025 đạt 4.010
tấn, trị giá 47,9 triệu USD, tăng 88% về khối lượng và 30% về giá trị so với cùng kỳ năm trước (2.135 tấn, 36,9 triệu USD). Trong mùa khai thác 2024-25, đội tàu Mỹ chỉ đánh bắt được 15,6 triệu pound, thấp hơn đáng kể so với dự báo 24,2 triệu pound và 21,5 triệu pound của mùa trước. Cũng trong tháng này, Mỹ đã nhập khẩu 2.109 tấn (4,6 triệu pound) sò điệp từ Trung Quốc, trị giá 10,3 triệu USD, gấp gần 4 lần so với 515 tấn, trị giá 3 triệu USD cùng kỳ năm trước. Giá trung bình đạt 2,40 USD/pound, giảm 8% so với mức 2,61 USD/pound trong tháng 1/2025. Đây là thời điểm ghi nhận lượng nhập khẩu sò điệp Trung Quốc đạt kỷ lục kể từ tháng 12/2018. Tuy nhiên, sò điệp Trung Quốc đang chịu mức thuế lên tới 170%, và đối diện nguy cơ mất thị phần trước sò điệp Peru với mức thuế chỉ 10%.
Nga
Cua biển có thể quay lại thị trường Mỹ
Từ ngày 23–25/3, quan chức Mỹ và Nga đã gặp nhau tại Riyadh (Ả Rập Xê Út) để tìm giải pháp chấm dứt xung đột Ukraine và khôi phục quan hệ song phương. Kết quả là thỏa thuận “Sáng kiến Biển Đen” với lộ trình hòa bình nhiều bước, chỉ thực hiện nếu Mỹ đáp ứng sáu điều kiện, bao gồm việc dỡ bỏ trừng phạt với xuất khẩu thực phẩm và phân bón. Ông Hodges, Chủ tịch LHodges Seafood Consulting (Mỹ), dự đoán nếu lệnh trừng phạt được gỡ bỏ, cua Nga có thể quay lại thị trường Mỹ trong 6 - 9 tháng, gây áp lực lên cua Canada và khiến giá bán buôn hạ nhiệt. Cua Canada vẫn sẽ giữ ưu thế trong năm 2025, nhưng có thể suy giảm thị phần từ năm sau. Tồn kho cua tại Mỹ đang ở mức thấp kỷ lục với nguồn cung chủ yếu từ Na Uy. Tuy nhiên, mùa cua Na Uy sắp kết thúc và sẽ được thay thế bằng cua Canada.
Peru
Nới hạn ngạch, thị trường bột cá chao đảo
Theo Bộ Sản xuất Peru, mùa đánh bắt cá cơm bắt đầu vào ngày 22/4 tại vùng biển phía Bắc, với hạn ngạch lên tới 3 triệu tấn – mức cao nhất
kể từ năm 2018 và vượt xa dự báo trước đó (2,4 triệu tấn). Con số này cũng cao hơn nhiều so với 2,51 triệu tấn của vụ II/2024 và 2,475 triệu tấn vụ I/2023. Hạn ngạch tăng mạnh sẽ gây áp lực giảm giá bột cá toàn cầu, đặc biệt tại Trung Quốc. Năm ngoái, giá bột cá chất lượng cao tại Thượng Hải đã giảm từ 17.350 xuống 12.800 NDT/tấn. Năm 2024, Peru xuất sang Trung Quốc 833.000 tấn bột cá, chiếm 87% tổng xuất khẩu, gần gấp đôi năm 2023 do sản lượng năm đó sụt giảm vì El Niño. Theo Hiệp hội bộ cá, dầu cá thế giới (IFFO), giá bột cá toàn cầu ổn định trong tháng 3 sau khi tăng nhẹ đầu năm. Giá loại bột cá siêu cao cấp từ Peru và Chile tăng 1,3% lên 1.648 USD/tấn, nhưng vẫn thấp hơn 19% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, giá dầu cá tiếp tục giảm 9% trong tháng 3, còn 2.460 USD/tấn. Hiện bột cá Peru đang được chào bán 1.700 USD/tấn (CFR Trung Quốc), giá thực tế có thể thấp hơn.
Nhật Bản
Nhập khẩu cá tuyết đen vượt 10.000 tấn
Năm 2024, Nhật Bản nhập khẩu 10.006 tấn cá tuyết đen đông lạnh từ Mỹ, giảm 16% so với năm trước nhưng vẫn vượt mốc 10.000 tấn ba năm liên tiếp. Trong khi đó, giá nhập khẩu tăng 15%, từ 985 yên/kg (6,83 USD) lên 1.136 yên/kg (7,88 USD), do ngư dân tạm ngừng đánh bắt vì giá thấp kéo dài, theo báo Minato Shimbun. Năm 2012, nhập khẩu vượt 8.000 tấn với giá trung bình 1.024 yên/kg (7,10 USD), sau đó giá tăng mạnh do nhu cầu cá cỡ lớn tại Mỹ và các thị trường khác, đạt đỉnh 1.848 yên/kg (12,82 USD) năm 2017, khiến lượng nhập giảm xuống 5.258 tấn. Đến 2023, dù đồng yên yếu, giá vẫn giảm nhờ hạn ngạch tại Alaska tăng thêm. Tuy nhiên, từ 2024, các nhà sản xuất bắt đầu chùn bước trước giá thấp kéo dài. Giá nhập khẩu nửa cuối 2024 tăng dần: 1.047 yên/kg (tháng 8), 1.153 yên/kg (tháng 10), và quanh mức 1.200 yên/kg vào cuối năm. Đà tăng tiếp tục đến quý I/2025, đạt 1.355 yên/kg (9,41 USD), dù sản lượng nhập chỉ còn 1.307 tấn, giảm 13% so với cùng kỳ.
Tuấn Minh
VIETAQUA AWARDS 2025 trở
Giải thưởng Chất lượng vàng Thủy sản Việt Nam – VIETAQUA AWARDS 2025 dự kiến sẽ chính thức trở lại TP.HCM vào tháng 10/2025, mang theo nhiều kỳ vọng và đổi mới. Sự kiện tiếp tục khẳng định vai trò là sân chơi uy tín, nơi hội
tụ và tôn vinh cộng đồng những người đang nỗ lực không ngừng vì sự phát
triển bền vững của ngành thủy sản Việt Nam.
ây là giải thưởng duy nhất và chuyên sâu trong lĩnh vực thủy sản tại Việt Nam, nhằm tôn vinh các nhà lãnh đạo, doanh nhân, nhà quản lý, nhà đầu tư, nhà khoa học và các cá nhân tiêu biểu có đóng góp xuất sắc cho sự phát triển của ngành. Thông qua việc chia sẻ những câu chuyện thực tế, vượt qua thách thức và nắm bắt xu hướng thời đại số, các cá nhân và tổ chức sẽ cùng lan tỏa giá trị tích cực và truyền cảm hứng cho cộng đồng.
VIETAQUA AWARDS hướng tới thúc đẩy
chuỗi giá trị ngành thủy sản – từ nuôi trồng, khai thác đến chế biến và xuất khẩu. Giải thưởng
đặc biệt nhấn mạnh vai trò của ứng dụng khoa học công nghệ, an toàn sinh học, bảo vệ sức khỏe vật nuôi và người tiêu dùng.
Sứ mệnh của chương trình là trở thành hệ thống đánh giá và vinh danh chuyên môn đáng tin cậy, công nhận các thương hiệu, sản phẩm, dự án và cá nhân có chất lượng vượt trội, uy tín hàng đầu và được thị trường tín nhiệm.
thủy sản và tôn vinh những
tương lai xanh và phát triển.
Trải qua 4 mùa tổ chức thành công, VIETAQUA AWARDS đã khẳng định vị thế là một điểm đến uy tín, nơi kết
tin liên hệ:
Quyết định hoãn thuế đối ứng trong vòng 90 ngày của Tổng thống Mỹ Donald Trump được các doanh nghiệp thủy sản đánh giá là khoảng “thời gian vàng”, là cánh cổng mở ra lối thoát hiểm tạm thời cho các hợp đồng giao hàng trong quý II được hoàn thành đúng hạn. Không những thế, đây còn là khoảng thời gian quý báu để doanh nghiệp chuẩn bị các phương án, kế hoạch sản xuất, kinh doanh cho các kịch bản có thể xảy ra khi quyết định cuối cùng về thuế đối ứng được đưa ra.
“Thoát hiểm tạm thời”
Đó là cách ví von của các doanh nghiệp về quyết định hoãn thuế đối ứng trong 90 ngày của Tổng thống Mỹ Donald Trump. Còn việc liệu đối tác Mỹ có đẩy mạnh gom hàng trong thời gian này hay không, giám đốc một doanh nghiệp ngành tôm cho biết: “Không có tình trạng đối tác gom hàng ồ ạt như các dự đoán trước đó, mà thay vào đó chỉ là sự thúc giục đẩy nhanh tiến độ giao hàng thuộc các đơn hàng giao trong quý II từ phía đối tác. Tuy nhiên, đây cũng có thể xem là khoảng thời gian vàng, giúp doanh nghiệp tạm “thoát hiểm” với các hợp đồng có thời hạn giao hàng từ tháng 4-6 cho đối tác”. Nguyên nhân được cho là do thời gian vận chuyển từ Việt Nam đến Mỹ mất khoảng 38-45 ngày, nên doanh nghiệp chỉ còn khoảng 40-45 ngày để thu mua, chế biến (tính từ ngày quyết định hoãn thuế có hiệu lực). Đây là khoảng thời gian khá ngắn, cộng thêm nguồn tôm dự trữ ít, còn nguồn cung tôm nguyên liệu trong nước cũng không nhiều (do vụ nuôi đầu năm khó khăn), giá tôm trong nước tăng cao nên rất khó để thực hiện các hợp đồng mới.
Cạnh tranh tại thị trường Mỹ rất gay gắt, bởi đây là thị trường có biên lợi nhuận thấp nhất trong tất cả các thị trường. Tuy nhiên, theo ông Hồ Quốc Lực – Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Thực phẩm Sao Ta, Mỹ vẫn là một thị trường có quy mô tiêu thụ rất lớn. Chính vì dung lượng lớn, nên có độ dung sai giá cao –nghĩa là nếu sản phẩm của mình chất lượng hơn, có thể giá cao hơn 10% vẫn bán được. Bởi vậy, các doanh nghiệp vẫn luôn cố gắng duy trì, giữ vững thị trường này, nhằm ổn định sản xuất, giữ chân lao động, duy trì doanh thu, chủ động về dòng tiền cũng như
giữ nhịp thị trường. Đây cũng là một phần nguyên nhân lý giải vì
sao doanh số xuất khẩu từ đầu
năm đến nay của Sao Ta tăng trưởng khá cao nhưng lợi nhuận thì không tăng tương ứng.
Kịch bản sau 90 ngày
Tình hình xuất khẩu đang rất khó khăn. Các doanh nghiệp
đang tập trung tìm đường thoát
hiểm cho riêng mình. Đây cũng là
lý do khiến nhiều doanh nghiệp
đề nghị không nên nêu tên, doanh nghiệp của mình khi đưa ra các nhận định cũng như sách
lược đối phó. Theo nhận định của doanh nghiệp, mức thuế 46% chỉ mang tính giả định nhiều hơn là thực tế, nên các dự báo đều nghiêng về khả năng mức thuế cuối cùng sẽ vào khoảng 23%. Với mức thuế này, cộng thêm điều kiện các nước còn lại bị áp mức thuế 20%, thì con tôm Việt Nam vẫn
còn cơ hội cạnh tranh tại thị trường này. Còn trong trường
hợp mức thuế 46% được giữ
nguyên đối với tôm Việt Nam, còn các nước khác thì xoay quanh mức 20% thì việc “tạm dừng cuộc chơi” tại thị trường
Mỹ sẽ không còn là viễn cảnh.
Từ đây cho thấy, vấn đề không
hẳn nằm ở mức thuế cao hay thấp mà còn ở sự chênh lệch về thuế đối ứng giữa Việt Nam và
đối thủ. Hay nói một cách khác, nếu Việt Nam bị áp thuế cao, nhưng đối thủ cũng bị cao tương
tự, thì sự cạnh tranh không quá chênh lệch.
Lý giải thêm về điều này, theo các doanh nghiệp, tôm của Ấn
Độ hay Ecuador tuy giá rẻ nhưng họ chủ yếu xuất thô, vì thiếu lao
động, thiếu công nghệ chế biến sâu. Trong khi đó, các doanh nghiệp tôm Việt Nam đều đầu tư mạnh vào chế biến sâu, đủ tiêu chuẩn xuất vào các hệ thống phân phối cao cấp tại Mỹ, giá trị
cao. Dù tỷ suất lợi nhuận ở thị trường Mỹ là không cao, nhưng một khi mất thị trường này, chắc chắn doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp cũng như kim ngạch xuất khẩu toàn ngành sẽ giảm sút. Đây là điều mà doanh nghiệp không hề mong muốn, nhưng các kịch bản, phương án cho tình huống buộc phải rời bỏ thị trường Mỹ vẫn phải được chuẩn bị một cách chu đáo để không phải bị động.
Tự tin chuyển hướng thị trường
Tại Đại hội cổ đông thường niên mới đây, khi trả lời câu hỏi của cổ
đông về tình huống buộc phải rời
khỏi thị trường Mỹ, lãnh đạo Sao
Ta cho biết, kịch bản không có
thị trường Mỹ đã được chuẩn bị
từ 5 năm trước, nên chắc chắn
sẽ không bị động nhiều. Theo đó, nếu không thể tiếp tục xuất
sang Mỹ, Sao Ta sẽ tăng cường thâm nhập các thị trường khác, như: Canada, Úc, Hàn Quốc và đặc biệt là Nhật Bản, nơi mà họ đang có thế mạnh so với các đối thủ. Còn về con số ảnh hưởng cụ thể đến doanh số, lợi nhuận nếu phải rút khỏi Mỹ, theo các doanh nghiệp, đến hiện tại chưa thể nói trước được điều gì mà tùy thuộc vào từng điều kiện cụ thể của mỗi doanh nghiệp.
Kể từ khi con tôm Việt Nam vướng vào vụ kiện chống bán phá giá ở thị trường Mỹ và nhất là sau
khó khăn về cước vận chuyển do tác động từ dịch Covid-19, xung
đột quân sự… hầu hết các doanh
nghiệp xuất khẩu tôm đều xây
dựng cho mình chiến lược cùng
các kịch bản, phương án chuyển
hướng thị trường, nên một khi
buộc phải rút khỏi thị trường
Mỹ, thì họ cũng không phải quá lo lắng. Tuy nhiên, các doanh
nghiệp cũng thừa nhận, việc
điều chỉnh kế hoạch doanh số, lợi nhuận năm 2025 gần như là
điều phải làm, nhưng quan trọng
hơn là việc tìm hướng đi mới, thị trường mới, trong đó việc tập trung khai thác tốt lợi thế từ những thị trường đã có FTA với Việt Nam.
Theo chia sẻ của ông Lực với các cổ đông, việc mở rộng thị trường không phải bây giờ mới làm, mà đã thực hiện từ nhiều năm trước. Vì vậy, thời gian để tiếp cận thị trường mới nhìn chung sẽ không quá lâu, thậm chí chỉ trong năm nay đã có thể triển khai được, nhờ lợi thế là đã quen biết nhiều đối tác từ
lâu
Như vậy,
thị trường mới là có, nhưng không đến mức quá lớn hay không kiểm soát được.
“Trong năm nay, chúng tôi tiếp tục đẩy mạnh các thị trường mới như Canada, và Úc, vốn có tiêu chuẩn nhập khẩu khắt khe, nhưng nhờ vùng nuôi tốt, chúng tôi tự tin sẽ đáp ứng được yêu cầu. Ngoài ra, thị trường Hàn Quốc cũng đang có tiềm năng tăng sản lượng”, ông Lực cho biết thêm. Thời gian vẫn còn để các doanh nghiệp đề ra đối sách phù hợp cho mục tiêu trước mắt và chuẩn bị các bước tiếp theo cho một chiến lược lâu dài. Hy vọng, mọi thứ vẫn có thể nằm ở mức chấp nhận được như kỳ vọng của doanh nghiệp để ngành tôm đủ sức vượt qua khó khăn, khẳng định vị thế của mình trên thị trường thế giới.
CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA
Nấm men thủy phân cải thiện sức khỏe
đường ruột và biểu hiện gen cá
rô phi
Các phụ gia giàu hoạt
chất từ nấm men giúp
cá rô phi tăng sức đề
kháng trong điều kiện
nuôi căng thẳng, qua đó
giảm thiệt hại kinh tế do
dịch bệnh và tỷ lệ chết.
Người nuôi thủy sản đều biết rõ các phụ gia thức ăn có nguồn gốc nấm men như nucleotides, β-glucans và mannan-oligosaccharides (MOS) là chất điều hòa miễn dịch quan trọng, giúp cải thiện sức khỏe đường ruột và kiểm soát mầm bệnh ở cá rô phi. Trong đó, nucleotides là thành phần của dịch nội bào, còn β-glucans và MOS được chiết xuất từ thành tế bào nấm men.
Mới đây, hãng dinh dưỡng ICC Animal Nutrition ở São Paulo, Brazil đã sản xuất Hilyses® - phụ
gia thức ăn có nguồn gốc nấm
men Saccharomyces cerevisiae
thu được từ quá trình lên men mía để sản xuất ethanol. Trong quá trình này, nấm men bị phân hủy tế bào và thủy phân thành
phần nội bào. Sản phẩm có độ tiêu hóa cao, không chứa gluten, giàu nucleotides, nucleosides, axit amin, peptide, polypeptide, glutamine, MOS và β-glucans.
Thử nghiệm
Nghiên cứu được thực hiện tại
Trung tâm Maverick Innovation, Gazipur, Bangladesh, theo quy trình chuẩn của tổ chức. Hệ thống tuần hoàn (RAS) tại đây
gồm 64 bể sợi thủy tinh (300L mỗi bể) và 5 bể nuôi tạm thời (1.000L mỗi bể). Ngoài ra, hệ thống được trang bị bể lắng, bộ lọc trống, máy tách bọt, máy tạo khí ozone, máy lọc sinh học, bộ khử khí, bộ khử trùng UV và hệ thống tạo ôxy. Thử nghiệm kéo dài 89 ngày, trong suốt thời gian đó, các chỉ số môi trường được duy trì ở mức tối ưu cho cá rô phi. Chuẩn bị 4 nghiệm thức cho cá rô phi với thành phần giàu chất xơ (7.7±0.3% xơ thô), isoproteic
(29.8±0.09% đạm thô) và isoenergetic (3415.5±31.1 kcal/ kg). Các nghiệm thức được bổ sung Hilyses theo tỷ lệ: 0,5 g/kg (HL0.5), 1,0 g/kg (HL1.0) và 2,0 g/kg (HL2.0). Nghiệm thức đối chứng âm không bổ sung Hilyses.
Tất cả nghiệm thức được sản xuất tại nhà máy thức ăn công nghiệp
Arman ở Narsingdi, Bangladesh. Cuối thử nghiệm, chọn 4 con cá từ mỗi nghiệm thức, gây mê bằng dung dịch eugenol 90%.
Mẫu ruột của mỗi con cá được
lấy và đo các chỉ tiêu mô học bằng phần mềm Image Scan
Pro5. Hình ảnh mô ruột được chụp bằng kính hiển vi AmScope
1000. Chọn ngẫu nhiên ba con cá từ mỗi bể để phân tích biểu hiện gen thông qua lá lách. Mô lách được sử dụng để chiết RNA, tổng hợp cDNA và thực hiện PCR định lượng (RT-PCR) nhằm phân tích biểu hiện gen.
Cải thiện sức khỏe đường ruột và biểu hiện gen
Tăng trưởng của cá cải thiện tùy thuộc vào mức độ bổ sung phụ gia nấm men. Hiệu quả sử dụng thức
ăn tăng rõ rệt ở nhóm bổ sung phụ gia nấm men cao nhất (P<0.05).
Tương tự, tỷ lệ tích trữ protein và năng lượng cũng có xu hướng tăng. Chiều dài nhung mao (VL, µm) và tổng thể tích bề mặt (SV, mm³) ở nhóm nghiệm thức HL2.0 cao hơn đáng kể (P<0.05) so với nhóm đối chứng. Hơn nữa, xu hướng tăng tuyến tính theo mức bổ sung Hilyses cũng rõ ràng đối với hai chỉ tiêu này.
Biểu hiện của tất cả các gen mục tiêu tăng trưởng gồm IGF1, glyceralldehyde-3-phosphate dehydrogenase (G-3-P), ghrelin và hepcidin, đều tăng khi bổ sung Hilyses so với khẩu phần đối chứng. Sự gia tăng này có mối tương quan tuyến tính rõ rệt (P<0,05) với mức độ bổ sung nấm men. Tuy nhiên, mức tăng biểu hiện của gen ghrelin thấp hơn so với ba gen còn lại. Ở cá rô phi sông Nile, khi bị tiêm vi khuẩn gây bệnh, mức biểu hiện hepcidin tăng rõ rệt và có mối liên hệ chặt chẽ với các cơ quan trong cơ thể cá. Trong nghiên cứu này, biểu hiện gen hepcidin tăng tỷ lệ thuận với nồng độ Hilyses, có thể do cá hấp thụ ngày càng nhiều β-Glucan. Nghiên cứu cho thấy hiệu quả của phụ gia nấm men tùy theo liều lượng sử dụng. Các chất chuyển hóa từ nấm men là yếu tố chính giúp cải thiện cấu trúc vi nhung mao ruột, giảm căng thẳng và viêm ruột ở cá. Việc bổ sung Hilyses vào khẩu phần ăn giúp tăng biểu hiện hormone tăng trưởng và các gen liên quan, từ đó thúc đẩy tăng trưởng hoặc duy trì cân bằng nội môi trong điều kiện căng thẳng. Đặc biệt, sự gia tăng biểu hiện gen hepcidin có thể là chỉ dấu quan trọng cho thấy tác dụng điều hòa miễn dịch của các chất
Nguồn dinh
dưỡng
thay thế bột cá
Một thử nghiệm đột phá tại Trung Quốc
về peptide đậu nành đã thu hút sự quan
tâm của các chuyên gia nuôi trồng thủy
sản trong nước và quốc tế bởi nguyên
liệu này có khả năng thay thế bột cá với
tỷ lệ lên đến 50%.
ầu năm 2025, Công ty TNHH Công nghệ
Sinh học Jiangsu Fuhai (Fuhai Biotech) đã hoàn thành
thử nghiệm kéo dài 80 ngày với thức ăn chứa peptide đậu nành “không bột cá” dành cho cá vược miệng rộng tại Trung Sơn, tỉnh Quảng Đông. Thử nghiệm đã kết thúc bằng một sự kiện thu hoạch cá, với sự tham dự của hơn 40 chuyên gia đến từ các trường đại học, viện nghiên cứu và công ty sản xuất thức ăn thủy sản hàng đầu Trung Quốc.
Thiết kế thử nghiệm
Thử nghiệm được tiến hành từ ngày 25/6/2024 đến ngày 3/1/2025 trên ao đối chứng (0,23 ha) và ao thử nghiệm (0,15 ha). Trọng lượng ban đầu của cá khoảng 4,35 gram, mật độ 31.930 con cá/0,405ha trong nhóm đối chứng và 41.763 con cá/0,405ha trong nhóm thử nghiệm.
Nhóm đối chứng được cho ăn thức ăn thông thường chứa 40% bột cá Peru cao cấp. Đối với nhóm thử nghiệm, cá được cho ăn thức ăn ép đùn thông
thường trong 111 ngày, sau đó
là 80 ngày thử nghiệm với thức
ăn không chứa bột cá, trong đó
có 50% sản phẩm Fuhai. Cả hai ao đều được quản lý trong cùng
điều kiện.
Vào ngày 3/1/2025, 60 con cá
được chọn ngẫu nhiên từ mỗi ao để đo lường. Tiến sĩ Liang
Chao, Giám đốc thức ăn thủy sản tại Fuhai Biotech đã phân
tích chi tiết kết quả thử nghiệm,
tập trung vào sự khác biệt về tình trạng gan, hệ số gan (HSI) cao hơn và hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) ở nhóm Fuhai so với nhóm
đối chứng. Sự khác biệt về FCR có thể do mức protein khác nhau trong khẩu phần ăn, với hơn 50% trong thức ăn đối chứng và 45% trong thức ăn thử nghiệm.
TS Liang Chao đã xác định một số điểm cần cải thiện trong
công thức thức ăn của nhóm thử nghiệm, đặc biệt là về hàm
lượng và thành phần protein, chất béo cũng như việc bổ sung vi chất dinh dưỡng. Điều kiện thử nghiệm, bao gồm nhiệt độ cao vào mùa hè, việc cho cá ăn đến khi no và điều chỉnh chất lượng nước liên tục, đã tạo áp lực trao
đổi chất đáng kể lên cá. Ngoài ra, mật độ nuôi cao hơn nhiều của nhóm thử nghiệm cũng góp phần dẫn đến những khác biệt này.
Tiềm năng của peptide
đậu nành
Thử nghiệm này mang ý nghĩa toàn cầu, giới thiệu một công thức thức ăn đột phá thay thế bột cá bằng 50% peptide đậu nành.
Liang Chao nhận định, tỷ lệ thay thế bột cá thông thường chỉ vài
phần trăm sẽ không thể thu hút
được sự quan tâm rộng rãi đến vậy.
Kết thúc cuộc thử nghiệm, các nhà nghiên cứu đã thưởng
thức món cá hấp được chế biến
không sử dụng gia vị hay nước
sốt. Tất cả đều nhất trí khen ngợi
hương vị thơm ngon, kết cấu săn
chắc và không có mùi tanh. Các
chuyên gia cũng khuyến khích
Fuhai Biotech mở rộng các giải
pháp của mình để đáp ứng nhu
cầu của ngành nuôi trồng thủy
sản toàn cầu.
Sản phẩm của Fuhai sở hữu
cấu trúc viên nang lipid phủ peptide độc đáo, giúp tăng khả năng tiêu hóa và bảo vệ lipid khỏi quá trình ôxy hóa. Với hàm lượng
lipid lên đến 20%, nhu cầu phun dầu bên ngoài có thể được giảm thiểu hoặc loại bỏ hoàn toàn, từ đó hạn chế nguy cơ ôxy hóa dầu trong quá trình bảo quản, đặc biệt là tại các trang trại nuôi trồng khi được áp dụng đúng cách. Chuyên gia tham dự nhấn mạnh việc thay thế bột cá là khả thi và peptide đậu nành tỷ lệ cao an toàn và hiệu quả. Các thử nghiệm về thức ăn không bột cá của Fuhai Biotech, bao gồm một thử nghiệm quy mô lớn trên Đảo Seagull ở Quảng Châu vào năm 2023 và gần đây tại Trung Sơn, đều cho kết quả tích cực. Cá được nuôi bằng chế độ ăn thay thế có tỷ lệ ăn vào cao, sức khỏe tốt và không có dấu hiệu viêm ruột. Cùng đó, 50% peptide đậu nành trong khẩu phần thử nghiệm cho kết quả cá khỏe mạnh với tốc độ tăng trưởng và tiêu hóa bình thường. Điều này chứng tỏ mức độ sử dụng peptide đậu nành thấp hơn sẽ càng an
Đánh thức tiềm năng nuôi thủy sản
Đồng bằng sông Hồng
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia sẽ tiếp tục xây dựng các mô hình
trình diễn và tập huấn kỹ thuật, cùng đồng hành với các hộ nuôi trồng
thủy sản (NTTS) tại Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH).
Nhiều giải pháp thiết thực
Khu vực ĐBSH có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển nuôi thủy sản, thế nhưng khó
khăn, thách thức vẫn luôn hiện hữu. Trong đó, nhiều vấn đề nổi cộm đang đè nặng lên vai người nuôi như: con giống, thức ăn kém chất
lượng, quy trình nuôi chưa cải tiến, việc áp dụng công nghệ còn hạn chế, cơ sở hạ tầng
còn yếu kém, môi trường nước ô nhiễm, thiên tai, dịch bệnh…
Nhằm tìm ra các giải pháp nâng cao hiệu quả NTTS, mới đây, Trung tâm Khuyến nông quốc gia phối hợp với Cục Thủy sản và Kiểm ngư, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Hải Dương đã tổ chức Tọa đàm “Giải pháp phát triển nuôi thủy sản bền vững ở Đồng bằng
sông Hồng”. Sự kiện thu hút hơn 100 đại biểu, bao gồm đại diện các cơ quan quản lý, chuyên gia, doanh nghiệp và nông dân nuôi thủy sản. Để đánh thức tiềm năng NTTS Đồng bằng sông Hồng, ông Nhữ Văn Cẩn, Phó Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư cho rằng, các địa phương cần đẩy mạnh triển khai thực hiện chương trình tái cơ cấu ngành thủy sản theo hướng nâng cao giá trị và phát triển bền vững; gắn sản xuất với bảo vệ môi trường sinh thái, quan tâm đến vấn đề an toàn thực phẩm, nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm.
Đối với địa phương có nhiều diện tích tiềm năng để phát triển, ông Cẩn gợi ý nên có cơ chế khuyến khích, thu hút doanh nghiệp đầu tư để phát triển thành vùng sản xuất hàng hóa
tập trung, liên kết chuỗi, từ cung cấp vật tư đầu vào đến bao tiêu sản phẩm. Trong đó, ưu tiên phát triển nuôi cá lồng là các loài có giá trị kinh tế trên sông, hồ chứa như cá lăng, nheo, nheo Mỹ, rô phi đơn tính, cá chép... Với các tỉnh ven biển, ông Cẩn lưu ý nên tiếp tục đẩy mạnh phát triển nuôi các đối tượng chủ lực, có giá trị kinh tế như tôm sú, tôm thẻ chân trắng, cá biển, nuôi các loài nhuyễn thể, trồng rong biển vùng triều thấp, cửa sông; hướng tới phát triển nuôi trồng thủy sản vùng biển mở.
“Để thực hiện thành công kế hoạch năm 2025 và các năm tiếp theo, địa phương cần tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách phát triển thủy sản; đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng vùng NTTS tập trung theo công nghệ mới, tiên tiến, tăng năng suất, giảm giá thành; sản xuất NTTS đa giá trị, phong phú sản phẩm. Thực hiện tốt công tác quan trắc, cảnh báo môi trường vùng nuôi trọng điểm, khuyến cáo kịp thời đến người nuôi; kiểm tra, giám sát chặt chẽ và có biện pháp xử lý kịp thời tình hình dịch bệnh”, ông Cẩn gợi mở.
Thời gian qua, Trung tâm khuyến nông Quốc gia đã phối hợp với Trung tâm Khuyến nông các tỉnh phía Bắc, các viện nghiên cứu, các trường đại học đóng trên địa bàn xây dựng nhiều mô hình về khuyến ngư nhằm chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới đến với bà con nông dân. Đây là hoạt động có ý nghĩa, mang tính thuyết phục cao khi người nông dân được tận mắt nhìn thấy những kết quả sản xuất nông nghiệp qua việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới, từ đó họ tin tưởng và tự quyết định làm theo.
Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia Hoàng Văn Hồng nhấn mạnh: “Muốn nuôi thủy sản đạt hiệu quả cao, người nuôi không thể duy trì sản xuất nhỏ lẻ, manh mún mà cần nâng cao kỹ thuật, đồng thời, tích cực tham gia sản xuất cộng đồng, hướng tới liên kết theo chuỗi giá trị”.
Ông Hồng cho biết, thời gian tới, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia sẽ tiếp tục xây dựng các mô hình trình diễn và tập huấn kỹ thuật, cùng đồng hành với người nuôi. Đặc biệt, tăng cường hợp tác giữa hệ thống khuyến nông với các tổ chức, doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế theo hình thức hợp tác công tư tạo sức mạnh tập thể, góp phần phát triển hiệu quả và bền vững nghề NTTS tại khu vực ĐBSH nói riêng và cả nước nói chung.
Năm 2024, tổng diện tích NTTS của các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng
đạt 114.868 ha và 946.916 m3 lồng bè; sản lượng nuôi đạt 823.871 tấn, bằng 103 % so với cùng kỳ năm 2023. Trong
đó, diện tích NTTS mặn lợ đạt 20.531 ha và 45.000 m3 lồng bè, tập trung tại Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình với sản lượng 256.798 tấn. Diện tích NTTS nước ngọt đạt 94.336 ha và 901.916 m3 lồng bè. Sản lượng nuôi khoảng 567.073 tấn.
Mô hình nuôi cá nước ngọt “sông trong ao” của HTX Sản xuất và Thương mại Xuyên Việt, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương Ảnh:
Mở rộng cơ hội
Xuyên Việt COOP là một trong những đơn vị tiên phong nuôi cá nước ngọt thành công tại Đồng bằng sông Hồng. Ông Lê Văn Việt, Giám đốc công ty chia sẻ, bí quyết cốt lõi nằm ở khâu quản lý môi trường ao nuôi.
“Khi ứng dụng công nghệ nuôi “sông trong ao”, chúng tôi sử dụng thiết bị để tăng lượng ôxy trong môi trường nước chứ không đợi đến khi cá nổi lên mới quạt máy như cách làm của bà con. Chúng tôi cũng trộn các chế phẩm sinh học, men vi sinh để thúc đẩy quá trình trao đổi chất của cá, giúp cá lớn nhanh và khỏe mạnh”, ông Việt nói.
Xuyên Việt COOP đã ứng dụng công nghệ IoT trong quản lý hồ nuôi, với khả năng tự động cảnh báo các thông số môi trường nước và kết nối điều khiển các thiết bị xử lý, giúp tối ưu hóa điều kiện nuôi trồng. Nhờ áp dụng công nghệ này, công ty đạt sản lượng khoảng 200 tấn cá/ha, mỗi lứa cá cho thu hoạch chỉ sau 3 tháng nuôi.
Thành công của Xuyên Việt COOP hứa hẹn mở ra nhiều hướng đi mới cho người nuôi thủy sản Đồng bằng sông Hồng. Với địa hình tự nhiên đa dạng, nơi đây hoàn toàn có thể phát triển nhiều loại hình NTTS như nuôi bãi triều, nuôi mặn lợ; lồng bè trên sông, hồ chứa; nuôi ao, nuôi kết hợp trong ruộng lúa,... Một số địa phương có thể nuôi các đối tượng phục vụ xuất khẩu như tôm sú, tôm thẻ chân
trắng, cá song, cá vược, cá giò, các đối tượng nhuyễn thể như: hàu, tu hài, ốc hương… Theo thống kê của Cục Thủy sản và Kiểm ngư, ước tính diện tích tiềm năng có thể phát triển NTTS tại ĐBSH rất lớn với khoảng 163.237 ha, trong đó 82,9% diện tích nuôi nước ngọt, khoảng 17,1 % nuôi nước mặn, lợ. Ngoài ra, toàn vùng còn có hàng trăm nghìn ha diện tích mặt nước hồ chứa, hồ thủy điện, hồ thủy lợi có thể phát triển nuôi cá lồng bè, nuôi cá hồ chứa, nuôi cá lồng bè trên sông. Hiện nay, toàn vùng có 493 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản, trong đó có 60 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản nước ngọt và 433 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản mặn lợ. Hoạt động sản xuất, cung ứng giống cơ bản đáp ứng được khoảng 80% nhu cầu giống thả nuôi của khu vực. Người dân cũng đã chủ động áp dụng nhiều công nghệ mới trong NTTS như: mô hình sông trong ao; ương cá tầm không dùng trùn chỉ; sản xuất giống lươn ít bùn… nên năng suất, chất lượng thủy sản đều tăng cao. Năm 2025, ĐBSH đặt mục tiêu duy trì diện tích NTTS khoảng 115.000 ha (tăng 132 ha so với năm ngoái) và 948.000 m3 lồng bè (tăng 1.084 m3 so với năm trước). Sản lượng nuôi trồng thủy sản ước đạt 850.000 tấn (tăng 3% so với năm 2024).
Thùy Khánh
Thùy Khánh
Hành trình liên doanh Việt Úc - Biomar
Cộng hưởng hai thế mạnh, kiến tạo
giải pháp nuôi tôm toàn diện cho người nuôi
Trong bối cảnh ngành tôm Việt
Nam đang đứng trước yêu cầu
cấp thiết phải chuyển mình theo
hướng hiệu quả, bền vững và có trách nhiệm, sự liên tục đầu tư và đẩy mạnh hoạt động của
các liên doanh trong chuỗi giá trị trong ngành, như Tập đoàn Thủy
sản Việt Úc và Tập đoàn BioMar
kết hợp điểm mạnh của mỗi bên, đang mở ra các hướng đi mới, giàu tiềm năng và mang tính ứng
dụng cao cho người nuôi.
Liên doanh giữa Tập đoàn Thủy sản
Việt Úc và Tập đoàn BioMar được
hình thành từ năm 2021, đánh dấu bước đi chiến lược trong hành trình kết hợp giữa thế mạnh về công nghệ Di truyền, chủ
động chọn lọc tính trạng tôm bố mẹ, tôm giống chất lượng cao và kinh nghiệm chuyên sâu về dinh dưỡng thủy sản từ thức ăn tôm giống đến tôm thương phẩm. Việt Úc – Tập đoàn dẫn đầu về tôm giống công nghệ cao và hệ thống phân phối trải dài toàn quốc, đã đồng hành cùng
BioMar – Tập đoàn dinh dưỡng thủy sản đến từ Đan Mạch, với hơn 60 năm kinh nghiệm toàn cầu và hiện diện tại hơn 80 quốc gia. Điểm nổi bật của mô hình liên doanh này không nằm ở danh tiếng riêng lẻ của từng bên, mà ở quá trình cùng nhau nghiên cứu sâu sát thị trường, chia sẻ và ứng dụng các bí quyết công nghệ, phát triển các nghiệm thức khác nhau, thử nghiệm thực tế tại các trại nuôi và liên tục
điều kiện thổ nhưỡng, môi trường nuôi và nhu cầu của người nuôi tôm trong nước.
Hợp lực từ tôm giống đến dinh dưỡng –nền tảng cho giải pháp toàn diện
Năm 2024 và 2025 chứng kiến nhiều thách thức lớn cho ngành tôm, từ biến đổi khí hậu đến dịch bệnh nuôi trồng bùng phát. Trước bối cảnh đó, Tập đoàn thủy sản Việt Úc và Liên doanh Biomar Việt Úc liên tục có những phân tích và cam kết tôm giống chất lượng cao sạch bệnh, đảm bảo tính trạng đề kháng hơn, tăng trưởng hơn, thích nghi hơn, đạt đầu con hơn, cùng thức ăn được phân tích và cải tiến ưu việt hơn về dinh dưỡng và độ bắt mồi cho tôm theo từng giai đoạn. Sự kết hợp nghiên cứu, thử nghiệm qua từng vụ nuôi, đạt được những cải tiến có hiệu quả và tạo các giải pháp có chiều sâu. Vào thời điểm cấp thiết này của thị trường, sự cộng hưởng 2 bên còn thể hiện tinh thần đồng hành chiến lược với
riêng và ngành tôm Việt Nam nói chung: cung cấp giải pháp hoàn hảo hơn, từ con giống ưu việt, thức ăn chuyên biệt phù hợp, kỹ thuật nuôi, đến các giải pháp hỗ trợ kỹ thuật, phòng trị bệnh và vận hành trại. Tất cả đều hướng đến mục tiêu giảm rủi ro, nâng cao tỷ lệ thành công, lợi nhuận, tối ưu chi phí và bền vững hóa sản xuất cho người nuôi.
Cùng những thành công về nghiên cứu và phát triển về sản phẩm gần đây, năm 2025 cũng là thời điểm hoàn hảo để hai bên đẩy mạnh việc hợp tác kênh phân phối và nhân rộng mô hình, nhằm đưa giải pháp toàn diện đến gần hơn với cộng đồng người nuôi.
Am hiểu địa phương – Giải pháp toàn cầu
Bước phát triển này của Tập đoàn Thủy sản
Việt Úc và Liên doanh Biomar Việt Úc phản
ánh một xu thế phát triển tất yếu trong ngành thủy sản hiện đại: kết hợp giữa hiểu biết sâu
sắc về nhu cầu từng địa phương với năng lực công nghệ và tiêu chuẩn quốc tế trong nghiên cứu, phát triển và sản xuất. Đây không chỉ là chiến lược kinh doanh hiệu quả mà còn là lời cam kết lâu dài với người nuôi – rằng mọi sản phẩm, giải pháp đưa ra đều được phát triển từ thực tế và đáp ứng những nhu cầu riêng biệt của từng vùng miền.
Nhằm lan tỏa mạnh hơn các giải pháp này đến người nuôi, vào ngày 6 tháng 5 năm 2025 tại tỉnh Bến Tre, hợp tác liên kết cộng hưởng mảng Tôm giống của Tập đoàn Thủy sản Việt Úc và Liên doanh BioMar Việt Úc đã ký kết Biên bản ghi nhớ (MOU) về Chiến lược Kênh phân phối. Việc ký kết này đánh dấu sự phối hợp chặt chẽ hơn về phát triển thị trường. Theo đó, ngoài điểm mạnh tôm giống công nghệ cao, sản phẩm dinh dưỡng tôm cải tiến, hai bên đẩy mạnh kết hợp về hệ thống phân phối và đội ngũ chuyên gia tư vấn kỹ thuật, đội ngũ hỗ trợ trực tiếp tại trại, triển khai các mô hình và kỹ thuật tiên tiến, nhằm nuôi hiệu quả, thành công và phù hợp thực tế sản xuất đa dạng của bà con nuôi tôm các vùng miền khác nhau. Sự kiện không chỉ thể hiện sự tin tưởng và cam kết của hai bên, mà còn là cột mốc quan trọng trong hành trình phát triển dài hạn vì lợi ích thiết thực của người nuôi tôm Việt Nam –hướng tới một ngành tôm hiện đại, hiệu quả và bền vững hơn trong tương lai.
lãnh đạo và Đại diện Kinh doanh của 2 Tập đoàn chụp hình lưu niệm
Chia sẻ kinh nghiệm, hiểu biết thị trường và các ứng dụng công nghệ - khoa học
Ban
Sitto Việt Nam tại “Top Thai Brands 2025”
hiệu Thái Lan
thị trường Việt Nam
Sitto Việt Nam, thành viên của
Tập đoàn Sitto Thái Lan, chính
thức tham gia Triển lãm Top
Thai Brands 2025 từ ngày 14 –
17/5/2025 tại Trung tâm Hội chợ
và Triển lãm Sài Gòn (SECC). Đây
là sự kiện thương mại thường
niên do Cục Xúc tiến Thương mại
Quốc tế (DITP) – Bộ Thương mại
Thái Lan tổ chức nhằm giới thiệu
các thương hiệu Thái Lan uy tín
đến thị trường Việt Nam.
Tại sự kiện, Sitto Việt Nam sẽ giới thiệu các giải pháp nổi bật trong ba lĩnh vực chính gồm:
Thuốc Thủy sản: Dinh dưỡng và khoáng chất bổ sung, chất diệt khuẩn & xử lý môi trường, chế phẩm sinh học ao nuôi tôm,…
Nông nghiệp: Phân bón công nghệ tiết kiệm đạm, NPK, phân NPK hòa tan, phân hữu
cơ, phân bón lá,…
Thú cưng: Sản phẩm thức ăn, dinh dưỡng, hóa mỹ phẩm dành cho chó mèo
24 năm phát triển tại Việt Nam – Đối tác tin cậy của người nông dân
Đặt trụ sở tại KCN Biên Hòa 2 (Đồng Nai), với nhà máy sản xuất hơn 10.000 m², Sitto
Việt Nam hiện là một trong những thương hiệu Thái lan dẫn đầu trong lĩnh vực nông nghiệp – thủy sản tại Việt Nam. Các sản phẩm của Sitto được đánh giá cao nhờ khả năng nâng
cao năng suất cây trồng, cải thiện môi trường ao nuôi và tăng sức đề kháng cho vật nuôi.
Mở rộng sang lĩnh vực thú cưng – Bắt kịp xu hướng thị trường
Từ năm 2024, Sitto Việt Nam chính thức trở thành nhà phân phối độc quyền thương hiệu VetSynova – dòng sản phẩm cao cấp chăm sóc sức khỏe chó mèo. Việc mở rộng sang lĩnh vực petcare cho thấy định hướng phát triển linh hoạt và bắt kịp xu thế của doanh nghiệp trước sự tăng trưởng mạnh mẽ của thị trường thú cưng tại Việt Nam.
Gian hàng E112 – Kết nối, trải nghiệm và chia sẻ
Tại gian hàng E112 (Sảnh A1), Sitto Việt Nam sẽ mang đến không gian trưng bày trực quan cùng nhiều hoạt động tư vấn kỹ thuật sản phẩm và chăm sóc cây trồng, vật nuôi
hiệu quả. Đây là cơ hội để khách tham quan trực tiếp trải nghiệm các sản phẩm công nghệ cao và tìm hiểu các giải pháp phát triển bền vững trong nông nghiệp – thủy sản hiện đại. Thông tin sự kiện:
Thời gian: 14 - 17/05/2025 (9:00 - 20:00).
Địa điểm: Trung tâm Hội chợ và Triển lãm Sài Gòn (SECC) – 799 Nguyễn Văn Linh, Quận 7, TP.HCM. Gian hàng Sitto Việt Nam: Sảnh A1 – Quầy E112.
Sitto Việt Nam – Thương hiệu Thái Lan chính hiệu, đồng hành cùng người nông dân và cộng đồng thú cưng Việt Nam.
Đặng Thanh Hải Trưởng phòng Marketing - Sitto Việt Nam
Chiết xuất saponin
Hướng đi bền
vững cho sức
khỏe và năng suất thủy sản
Hiện nay, các chiết xuất thực vật
được sử dụng trong nuôi trồng thủy sản chứa nhiều hợp chất hoạt tính sinh học như flavonoid, phenol, polysaccharide, acid hữu
cơ, alkaloid, glycoside, terpenoid, tinh dầu, tannin, saponin và
steroid. Tất cả những hợp chất này có thể thúc đẩy tăng trưởng, tăng cường hệ miễn dịch, có tác
dụng kháng khuẩn, kích thích sự thèm ăn và giảm căng thẳng (Awad & Awaad, 2017).
Chiết xuất thực vật có ưu điểm là an toàn, ít tốn kém hơn, hiệu quả, sẵn có trên toàn cầu, có thể phân hủy sinh học và dễ dàng được bổ sung vào thức ăn viên (Logambal và ctv., 2000). Một trong những ứng viên tiềm năng trong chiết xuất thực vật là saponin, một hợp chất có trong nhiều loài thực vật. Saponin có thể tồn tại dưới dạng aglycone steroid hoặc triterpenoid, liên kết với một hoặc nhiều chuỗi đường (Oda và ctv., 2003).
Trong dinh dưỡng động vật, saponin được sử dụng để giảm nồng độ amoniac, loại bỏ mùi phân và hỗ trợ tăng trưởng. Ngoài ra, saponin còn có các hoạt tính sinh học khác như: tác dụng kháng đối với nhiều loại mầm bệnh, bao gồm vi khuẩn, virus, nấm và động vật nguyên sinh. Do đó, ngày nay, các ứng dụng thương mại của saponin không chỉ dừng lại ở việc sử dụng chúng như một phụ
gia thức ăn vật nuôi thông thường mà còn là hoạt chất bổ sung để hỗ trợ dinh dưỡng sức khỏe và phúc lợi cho động vật.
Saponin được chiết xuất từ cây vỏ xà phòng (Quillaja saponaria) và cây Mojave yucca ( Yucca schidigera) đã cho thấy tiềm năng rất lớn trong việc làm phụ gia thức ăn trong nuôi trồng thủy sản, giúp kích thích tăng trưởng tự nhiên (Acosta và ctv., 2019).
Nor-Feed đã và đang nghiên cứu, ứng dụng và phát triển các sản phẩm chiết xuất saponin dựa trên sự kết hợp với Feed In Tech, phòng nghiên cứu về dinh dưỡng động vật tại Pháp để sản xuất ra các sản phẩm chứa chiết xuất saponin cho các chức năng chuyên biệt khác nhau. Trong đó, sản phẩm Norponin Opti là một phụ gia bổ sung vào thức ăn hỗ trợ cho việc giảm NH3 từ đường ruột và sản phẩm
Norponin XO2 hỗ trợ phòng trị ký sinh trùng cho động vật thủy sản.
Thí nghiệm trên ếch về việc xử lý
trùng lông:
Thời gian: 01/08 - 10/08/2024
Địa điểm: Việt Nam
Loài: Ếch Thái (Rana sp.), trọng lượng: 120-
150g
• Đối chứng: không sử dụng Norponin® XO2
• Norponin XO2: 500 ppm Norponin® XO2
(Liều điều trị)
Hình 2 - Tổng số amonia-nitrogen thải ra (mg/L) sau 3 tuần thử nghiệm trên cá rô phi (Tilapia niloticus)
Số lần lặp lại: 4 lần Kết quả: Từ tuần thứ 3 của thí nghiệm, số lượng trùng lông ở lô Norponin XO đã giảm.
Cụ thể, số lượng trùng lông vào tuần thứ 5 đã giảm 93% so với lô đối chứng. Tuần thứ 7, số lượng trùng lông đã giảm mức thấp nhất, cho thấy hiệu quả của Norponin XO2 trong việc quản lý ký sinh trùng.
Thí nghiệm cá rô phi:
Thời gian thử nghiệm: 3 tuần (2018)
Địa điểm: Netherlands
Loài: cá rô phi (Tilapia sp.), trọng lượng: 24,7 g
• Đối chứng: không sử dụng Norponin® opti
• Norponin XO2: 500 ppm Norponin® opti Số cá/1 nghiệm thức: 120 con Kết quả: Kết quả chứng minh rằng Norponin® Opti có tác dụng có lợi trong việc giảm bài tiết amoniac-nitơ từ tuần đầu tiên của thử nghiệm và khoảng 30% (p <0,05) vào tuần thứ 3 của thử nghiệm.
Để biết thêm thông tin, vui lòng liên hệ qua email contactvn@norfeed.net.
Liên hệ kinh doanh: Mr. Bảo (+84) 355 147 250
Hình 1 - Số lượng trùng lông Balantidium entozoon trong mẫu ruột ếch (10x)
Kim Hoàng Quảng Nam
Nhân tố mới trong ngành sản xuất tôm giống
Lần đầu tiên tham gia Hội chợ Triển lãm Quốc tế công nghệ ngành tôm Việt Nam (VietShrimp), cùng với sự chỉn chu trong mọi khâu tổ chức, Công ty CP Giống thủy sản Kim Hoàng Quảng Nam đã để lại ấn tượng đẹp trong lòng khách tham quan và tạo một dấu mốc mới trong hành trình phát triển trên thị trường thủy sản.
Phát huy tối đa lợi thế
Tỉnh Quảng Nam có hơn 900 km sông ngòi tự nhiên của 11 tuyến sông, phân bố đều khắp các vùng trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, phía đông của tỉnh có đường bờ biển dài trên 125 km cùng hệ thống sông Trường Giang chạy song song trên biển đã tạo lợi thế lớn để tỉnh phát triển nuôi trồng thủy sản cả nước ngọt và nước lợ. Đây cũng là vùng đất đầy tiềm năng trong sản xuất con giống thủy sản.
Nắm bắt được những lợi thế này và với một tầm nhìn chiến lược, thực hiện Chủ trương kêu gọi đầu tư của tỉnh Quảng Nam giai đoạn năm 2017, 2018, Công ty CP Giống thủy sản Kim Hoàng Quảng Nam (gọi tắt là Công ty Kim Hoàng Quảng Nam) đã đầu
tư dự án “Cơ sở sản xuất giống thủy sản công nghệ cao” tại khu
sản xuất và kiểm định giống thủy sản tập trung tỉnh Quang Nam, đến tháng 5/2022, Công ty chính thức đi vào vận hành hoạt động theo định hướng phát triển đã đề ra và phát triển ổn định đến nay.
Lý giải về việc lựa chọn Quảng Nam để đặt nhà máy, ông Dương Thanh Thoại, Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Giống thủy sản Kim Hoàng Quảng Nam, cho biết: Quảng Nam có vị trí đặc biệt thuận lợi trong sản xuất con giống và có thế mạnh cạnh tranh vượt trội khi so với các tỉnh khác khi nói đến điều kiện sản xuất tôm giống. Bởi lẽ, nhiều tỉnh khác khu vực miền Trung dù có bề dày hàng thập kỷ sản xuất tôm giống, nhưng những vấn đề tự phát của các trại nhỏ lẻ là nguy cơ ảnh
hưởng đến chất lượng sản xuất con giống. Hơn nữa, dù các tỉnh khác có lịch sử sản xuất lâu đời nhưng trước đây hệ thống cơ sở
hạ tầng chưa hoàn thiện cũng như các hệ thống quản lý, xử lý môi trường chưa tối ưu sẽ là điểu
đáng quan ngại, là nguy cơ ảnh
hưởng đến chất lượng tôm giống.
“Thế nên, với Kim Hoàng, việc đưa nhà máy “đóng đô” tại tỉnh
Quảng Nam được coi là lợi thế cực lớn. Lợi thế về kiểm soát an toàn sinh học, về vị trí địa lý cũng như nguồn nước trong sạch, đảm
bảo đầu vào tốt nhất cho sản xuất con giống. Với định vị của sản phẩm và thị trường, chúng tôi hướng đến sản xuất con giống chất lượng cao cấp cho người nuôi, nhằm góp phần mang
đến sự thành công cho họ”, ông Dương Thanh Thoại khẳng định.
Để mạnh càng thêm mạnh, từ
tháng 4/2024, Kim Hoàng Quảng
Nam được gia nhập và trở thành thành viên của Mebi Group. Đây là một doanh nghiệp có định hình
phát triển toàn diện các lĩnh vực thú y, thủy sản với hơn 22 năm hình thành và tăng trưởng ổn định, hiện tại phát triển mạnh mẽ
chuỗi giá trị tôm từ con giống, sinh phẩm, quy trình nuôi, farm nuôi thương phẩm cho đến định hướng bao tiêu sản phẩm đầu ra.
Ông Dương Thanh Thoại, Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Giống
thủy sản Kim Hoàng Quảng Nam, chia sẻ: Theo công suất thiết kế, Kim Hoàng Quảng Nam có thể cung cấp ra thị trường 7 tỷ tôm post mỗi năm. Định hình đến năm 2030, Công ty sẽ kiến tạo trên cả 3 miền Bắc Trung Nam mỗi vùng một trung tâm hoàn thiện
như vậy. Trước mắt trong năm
2025 - 2026 này, Công ty đặt kế hoạch cung ứng khoảng 5 tỷ tôm
post, đáp ứng nhu cầu người nuôi trong nước và xuất khẩu.
“Mặc dù chưa đạt được con số như kỳ vọng, nhưng trong điều
kiện tình hình các công ty sản
xuất giống đang gặp khó khăn
như hiện nay thì đây có thể coi là một thắng lợi của Công ty Kim
Hoàng Quảng Nam. Và với giá trị hoàn thiện như vậy, Kim Hoàng Quảng Nam tự tin có thể đạt được các mục tiêu đặt ra”, Phó Tổng
Ông Dương Thanh Thoại, Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Giống thủy sản Kim Hoàng Quảng Nam: Chúng tôi sẽ cùng bà con viết nên thật nhiều câu chuyện thành công.
Giám đốc Dương Thanh Thoại nhấn mạnh.
Tiên phong đưa tôm giống “xuất ngoại”
Xét về tuổi nghề, Kim Hoàng
Quảng Nam chỉ là doanh nghiệp trẻ, tuy nhiên, có thể nói “sóng sau xô sóng trước” khi là doanh nghiệp Việt đầu tiên thành công
xuất khẩu chính ngạch tôm giống. Chia sẻ về thành tựu này, Phó Tổng Giám đốc Dương Thanh
Thoại cho biết: Ngay từ sau khi
gia nhập cùng Mebi Group, Hội
đồng quản trị Công ty Kim Hoàng
Quảng Nam đã rà soát và hoạch
định chiến lược rõ ràng về định
hướng phát triển trong 10 năm
tới. Công ty định vị phát triển thị
trường trên toàn quốc, kéo dài
từ Quảng Ninh đến Cà Mau. Đặc
biệt, Công ty đã thành công khi
đưa tôm giống Việt Nam đi “đánh
xứ người”. “Chúng tôi đã xuất khẩu chính ngạch tôm giống sang các
thị trường Đài Loan, Campuchia.
Đây là điều Kim Hoàng Quảng
Nam luôn mong muốn và khẳng
định vị trí thương hiệu sản phẩm
con giống của chúng tôi trên thị trường”, ông Dương Thanh Thoại tâm sự.
Chia sẻ thêm về hành trình này, ông Thoại cho biết: Để đưa con giống sang thị trường quốc tế, điều đầu tiên phải đạt được sự chấp thuận của họ với tiêu chuẩn khắt khe. Ví dụ như sản phẩm tôm giống bán ở thị trường Việt Nam, cần 3 tiêu chuẩn về mầm bệnh. Tuy nhiên, đối với thị trường quốc tế, như thị trường Đài Loan, để đảm bảo điều kiện xuất khẩu, chúng tôi phải chịu sự kiểm soát khắt khe về chất lượng và phải đạt 9 tiêu chuẩn về kiểm soát mầm bệnh. Khó khăn là vậy, nhưng những đòi hỏi cao này cũng là cơ hội để chúng tôi ngày càng hoàn thiện từ công nghệ kỹ thuật đến quy trình sản xuất.
“Thành công trong việc xuất khẩu sang thị trường quốc tế vừa là sự khẳng định với thị trường Việt Nam, đồng thời cho thấy chúng tôi hoàn toàn xứng đáng là một trong những doanh nghiệp sản xuất giống dẫn đầu thị trường trong nước”, ông Dương Thanh Thoại tự hào. Nói về bước đi trong hành trình “mang chuông đi đánh xứ người”, ông Thoại cho biết, sản xuất một con tôm post thì không khó, nhưng để có thể định vị được chất lượng, định vị được hiệu quả trong sản xuất của người nuôi tôm thì chúng tôi phải có rất nhiều sự chuẩn bị trước đó. Thứ nhất, phải
có đầu vào chất lượng, từ tôm bố mẹ hay các sản phẩm liên quan cần được lựa chọn từ các nhà cung cấp uy tín, được đánh giá nghiêm ngặt về nguồn gốc, chất lượng theo đúng quy trình.
“May mắn, chúng tôi là thành viên của Mebi Groups, một doanh nghiệp có hơn 22 năm trong ngành thú y thủy sản. Chúng tôi sử dụng các sản phẩm từ hệ sinh thái của chính mình, những sản phẩm này đã đạt tiêu chuẩn quốc tế và đã được xuất khẩu đi toàn cầu. Với mảng tôm giống, thực sự chưa có doanh nghiệp nào ở Việt Nam nắm nhiều lợi thế như chúng tôi”, ông Thoại tâm đắc.
Bí quyết “chinh phục đỉnh cao”
Chia sẻ về chiến lược vươn tầm, vị Phó Tổng Giám đốc của Kim Hoàng Quảng Nam nhấn mạnh: Để tạo ra một sản phẩm tốt thì chúng tôi luôn nghĩ phải làm sao vượt lên bứt phá mọi giới hạn về
điều kiện sản xuất. Chúng tôi đầu tư về nguồn nhân lực, về quy trình, về công nghệ, và luôn cầu thị học hỏi, cập nhật công nghệ mới, ứng dụng vào sản xuất. Cùng đó, nhân viên của Kim Hoàng Quảng Nam
luôn được đào tạo và training để tiếp cận những tiến bộ của thế giới. “Với ngành sản xuất tôm giống, không phải cứ làm lâu năm sẽ là lợi thế, mà chúng ta cần đảm bảo hạ tầng phải đồng bộ, con người phải được đào tạo và luôn cập nhật những kiến thức, những kỹ thuật mới, đặc biệt là với sản phẩm đầu vào cho sản xuất phải luôn được đánh giá đảm bảo chất lượng. Đây là điều chúng tôi đặt ra không ở giới hạn, không dừng lại
ở những thành công đã có. Chúng tôi luôn thay đổi, luôn cập nhật những cái mới để đi đến mục tiêu trở thành “vua” của ngành tôm
giống Việt Nam”, Phó Tổng Giám
đốc Dương Thanh Thoại chia sẻ.
Ông Dương Thanh Thoại nhấn
mạnh: “Sở dĩ chúng tôi có thể tự
tin như vậy là vì với ngành sản xuất
tôm giống hiện nay, Kim Hoàng
Quảng Nam tự hào là doanh nghiệp
áp dụng hoàn thiện và nghiêm
ngặt quy trình kiểm soát sản xuất
tôm giống như sự của đơn vị sản xuất ngành thuốc, dinh dưỡng…
Tất cả đều được quy chuẩn hóa.
Hơn nữa, trong quá trình sản xuất,
chúng tôi truy xuất được từ lúc tôm
bố mẹ về, kiểm tra sức khỏe trong
suốt quá trình sản xuất từ nauplii, zoa, mysis, đến post từng ngày
theo biểu đồ. Dựa trên đó, chúng
tôi có thể đánh giá và theo dõi sức
khỏe của các sản phẩm trong từng
giai đoạn. Đặc biệt, với Kim Hoàng
Quảng Nam, sản phẩm bán ra
không có nghĩa là xong, mà chúng
tôi sẽ đồng hành cùng với người
nông dân đi đến kết quả cuối cùng là sự thành công của người nuôi
tôm. Chúng tôi vẫn luôn học hỏi
nhưng cũng tin rằng với những cải
tiến, những phương pháp, những quy trình chuẩn đó, sản phẩm của mình đến tay bà con là tối ưu về
chất lượng, mang lại vụ mùa thành công cho họ.
Thành công của Kim Hoàng
Quảng Nam ngày hôm nay không chỉ ở bản lĩnh và tầm nhìn của Ban
Lãnh đạo Công ty, ở chiến lược phát triển, mà còn là sự đồng hành và tâm huyết với người nuôi tôm.
Ông Thoại cho biết, để đồng hành cùng người nuôi tôm, Kim Hoàng Quảng Nam có chương
trình bán hàng phù hợp theo từng thời điểm, cùng đó là hỗ
trợ, hướng dẫn cả quy trình nuôi.
Cụ thể, ở từng vùng trọng điểm chúng tôi thiết lập farm nuôi là mô hình trình diễn, Kim Hoàng
Quảng Nam áp dụng với cả quy
trình nuôi và sản phẩm đầu vào
để hướng dẫn cho người nông
dân làm sao nuôi tôm tốt nhất với
giá thành phù hợp nhất.
“Đặc biệt, chúng tôi sẽ cùng bà con đi đến câu chuyện thành công. Nghĩa là trong quá trình nuôi nếu rủi ro ở thời điểm bảo hành thì chúng tôi hỗ trợ đầy đủ.
Còn ngoài đó, chúng tôi sẽ xem
xét từng tình huống cụ thể để có giải pháp hỗ trợ cùng đồng hành với bà con nuôi tôm để đạt được kết quả hoàn mỹ. Đây là thành công của bà con nuôi tôm, cũng là thành công của chúng tôi và hơn hết là sự sống còn của doanh nghiệp”, ông Thoại khẳng định.
Hướng tới mục tiêu xa
Với tâm niệm, không dừng lại ở thành công hiện tại, Công ty Kim Hoàng Quảng Nam luôn có những chiến lược đi cùng với sự phát triển của ngành thủy sản. Ông Dương Thanh Thoại bật mí, đối với những năm tiếp theo, công ty đặt mục tiêu cho doanh nghiệp ở hai khía cạnh.
“Thứ nhất là ở thị trường trong nước, hiện nay mỗi năm nhu cầu
tôm giống Việt Nam rất lớn, ví dụ năm 2025, nhu cầu là 150 tỷ tôm post. Đây là con số thống kê chính thức của ngành chức năng, chưa tính những sản phẩm không chính thống được nhiều đơn vị nhỏ lẻ bán ra. Với nhu cầu như vậy, chúng tôi đặt mục tiêu trong 3 năm tới, Kim Hoàng Quảng Nam đứng trong top 3 doanh nghiệp dẫn đầu mảng tôm giống với 3 tiêu chí, bao gồm: Chất lượng là tiên quyết, sản phẩm hiện diện trên toàn thị trường và khách hàng nuôi tôm thành công vượt trội. Mục tiêu thứ hai là thị trường xuất khẩu. Hiện nay, gần như Kim Hoàng Quảng Nam là doanh nghiệp đầu tiên của Việt Nam xuất khẩu chính ngạch sang các thị trường nước ngoài. Chúng tôi đặt mục tiêu thâm nhập mạnh mẽ sang các nước nuôi trồng thủy sản ở khu vực Đông Nam Á và châu Á, để mang thương hiệu tôm giống Việt Nam và sắp tới là quy trình nuôi tôm của Việt Nam lan tỏa rộng hơn. Từ đó góp phần thúc đẩy mảng tôm Việt Nam phát triển, định vị sản phẩm tôm Việt Nam cũng như các quốc gia cùng phát triển trong ngành thủy sản”, ông Thoại nói.
Bệnh đường ruột trên tôm và
biện pháp xử lý triệt để
Bệnh đường ruột ở tôm
khá phổ biến với các
biểu hiện bệnh như phân
trắng, đứt khúc, trống
ruột, phân loãng,... kéo dài có thể dẫn đến hư
gan tụy của tôm. Bệnh
thường xảy ra ở tôm nuôi
sau 1 tháng, mức độ xảy
ra nhiều nhất vào giai
đoạn 60 - 90 ngày tuổi, gây ảnh hưởng rất lớn
đến sự thành công của
vụ nuôi.
Nguyên nhân
Nhiễm vi khuẩn Vibrio spp: khi chất lượng nước kém, mật độ Vibrio tăng cao, xâm nhập vào cơ thể và gây bệnh cho tôm. Hầu hết các chủng Vibrio đều có khả năng gây bệnh, khi vào đường ruột, vi khuẩn phá hủy thành ruột gây viêm, tôm không ăn được dẫn đến trống ruột, đứt khúc.
Nhiễm ký sinh trùng Gregarine (trùng 2 tế bào): khi tôm ăn phải ký chủ của loài Gregarine này như nhuyễn thể 2 mảnh vỏ, giun nhiều tơ, ốc... sẽ bị ấu trùng xâm nhập vào ruột, phát triển thành dạng trưởng thành, sống ký sinh và bám vào thành ruột. Khi mật độ Gregarine dày đặc sẽ làm tắc nghẽn ruột, hình thành những
AQUAFEED/AQUAMEDICA
Men đường ruột Ức chế phân trắng, phân loãng, trống ruột, đứt khúc sau 3 ngày
tổn thương ở đường ruột tạo
điều kiện cho tác nhân cơ hội tấn công gây bệnh cho tôm nuôi.
Thức ăn:
- Tôm ăn thức ăn bị ẩm mốc, nhiễm khuẩn gây ngộ độc cho tôm
- Tôm ăn phải tảo độc trong ao như tảo lam: Loài tảo độc này sẽ
tiết độc tố làm tê liệt lớp biểu bì mô ruột, làm ruột không hấp thu được thức ăn, tôm yếu và bị bênh.
Môi trường:
- Thời tiết thất thường như mưa nắng kéo dài cũng làm cho tôm yếu, bỏ ăn làm cho ruột trống
- Chất lượng nước kém: nước
đục, nhiều bọt dơ, tảo tàn, tảo nở hoa, khí độc... làm cho tôm stress, ăn kém hoặc bỏ ăn.
- Khi đường ruột tôm bị tổn
thương và suy giảm các chức năng
của cơ quan này, tôm không hấp
thụ được thức ăn làm giảm sức
khỏe tôm, cùng với sự tấn công
của các tác nhân cơ hội sẽ làm tôm
bệnh nghiêm trọng hơn và chết.
Tác hại
Mặc dù không gây chết hàng
loạt trong thời gian ngắn, nhưng
sẽ làm tôm bị bệnh mãn tính, khó
điều trị. Tôm bị bệnh, bỏ ăn, không
bắt mồi, còi cọc, không lớn, hoạt
AQ - 6S
Vi sinh xử lý môi trường
Chế phẩm vi sinh chuyên xử lý tảo, chất hữu cơ dư thừa và bùn đáy ao nuôi,ức chế triệt để Vibrio spp. ...
động yếu gây ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng tôm nuôi.
Các biện pháp phòng chống
bệnh đường ruột
Kiểm soát tốt chất lượng nước: diệt khuẩn định kỳ, xử lý chất hữu cơ dư thừa, bùn đáy ao, tảo độc, thường xuyên kiểm tra nồng độ ôxy hòa tan (>4ppm) tốt nhất là 5ppm (kích thích tôm ăn khỏe, lớn nhanh, ít bị bệnh tấn công).
Kiểm soát chất lượng thức
ăn và lượng cho ăn: Đảm bảo thức ăn sạch, hạn chế lượng thức ăn dư thừa gây ô nhiễm hữu cơ.
Tăng sức đề kháng và diệt mầm bệnh trong đường ruột tôm.
Sử dụng chế phẩm sinh học: - Chế phẩm vi sinh: Ổn định hệ vi khuẩn đường ruột, tăng mật
độ vi khuẩn có lợi trong đường
ruột tôm; chủng vi sinh đặc hiệu
chuyên ức chế ký sinh trùng; vi sinh xử lý nước và đáy ao nuôi để
BATENDO
Chế phẩm vi sinh đặc hiệu chuyên ức chế ký sinh trùng
phân hủy chất hữu cơ, thức ăn dư thừa.
- Chế phẩm Enzyme: Enzyme hỗ trợ tiêu hóa, Enzyme cắt tảo độc, xử lý nước ao ô nhiễm hữu cơ.
Đề xuất giải pháp
Bệnh đường ruột ở tôm nuôi tuy không gây chết hàng loạt nhưng lại làm giảm chất lượng tôm và năng suất vụ nuôi, do đó, cần được phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Tuy nhiên, việc điều trị bệnh có thể nhanh chóng và hiệu quả nhưng sẽ gây ảnh hưởng đến sự phát triển sau đó của tôm nuôi, do đó bệnh này chủ yếu phòng là chính. Sử dụng chế phẩm sinh học sẽ giải quyết được vấn đề mục tiêu và đảm bảo cho sự tăng trưởng và sức khỏe tôm, hạn chế được thiệt hại và nâng cao năng suất.
Thái Nam Việt
CÔNG
NGHỆ DI TRUYỀN ĐANG THAY ĐỔI DIỆN
MẠO
NGÀNH TÔM
Trong bối cảnh ngành nuôi tôm toàn cầu đang
đối mặt với áp lực ngày càng gia tăng về đạo
đức và quy định trong sản xuất tôm bố mẹ, CAT
khẳng định vị thế tiên phong khi ứng dụng các công cụ chọn giống hiện đại để nâng cao hiệu
quả sinh sản mà không cần đến biện pháp cắt
cuống mắt (eyestalk ablation).
Chuyển đổi bền vững
Trước đây, cắt cuống mắt được
áp dụng phổ biến như một phương pháp đơn giản để kích thích sinh
sản ở tôm mẹ – bằng cách làm giảm hormone ức chế tuyến sinh dục (GIH) và tăng hormone kích thích tuyến sinh dục (GSH). Tuy nhiên, phương pháp này đang chịu áp lực loại bỏ từ các thị trường xuất khẩu lớn như EU do lo ngại về phúc lợi động vật, cùng với những thách thức trong vận hành tại các trại giống.
Ngược lại, mô hình không cắt cuống mắt tuy có thể làm giảm 20–25% sản lượng ấu trùng mỗi con cái mỗi tháng, nhưng lại mang đến nhiều lợi ích dài
hạn: đàn tôm bố mẹ khỏe mạnh hơn, ít bị stress, chất lượng hậu ấu trùng (PL) được cải thiện, và đặc biệt là tiềm năng cải thiện di truyền vượt trội nhờ các công cụ chọn giống hiện đại.
Sức mạnh từ công nghệ gen: Chọn giống chính xác – Sinh sản tối ưu
CAT đã đầu tư vào các nền tảng giải trình tự gen và công nghệ định dạng SNP tiên tiến, mang đến những giải pháp chọn giống có độ chính xác cao và chi phí hợp lý, bao gồm:
Genotyping mật độ thấp: đến 1.000 SNPs
Genotyping mật độ trung bình: đến 10.000 SNPs
Genotyping mật độ cao: trên 10.000 SNPs
Giải trình tự toàn bộ hệ gen Giải trình tự toàn bộ hệ gen dạng “low-pass” có hiệu chỉnh (Imputation)
Những công cụ này cho phép CAT lựa chọn những con tôm có biểu hiện tốt về tần suất sinh sản, chất lượng tinh trùng, khả năng giao phối và chất lượng trứng – tất cả đều là các chỉ tiêu
quan trọng trong mô hình không cắt cuống mắt.
Chọn lọc di truyền: Tăng tốc và
chính xác hơn với công nghệ CAT cung cấp nhiều mô hình chọn giống phù hợp với quy mô và mục tiêu của từng chương trình:
Chọn lọc khối (Mass Selection): Chi phí thấp, dễ thực hiện, phù hợp với một số chỉ tiêu đơn; có thể sử dụng SNP để giám sát cận huyết.
Chọn lọc theo gia đình (Family Selection): Giúp cải thiện đồng thời nhiều chỉ tiêu, đảm bảo kiểm soát tốt cận huyết, hỗ trợ xây dựng trại nhân giống SPF.
Chọn lọc gen toàn diện (Genomic Selection): Tối ưu nhất về độ chính xác, kiểm soát cận huyết và duy trì tính đa dạng di truyền; phù hợp cho các chương trình quy mô trung và lớn.
Kết quả nghiên cứu tại Viện
Đại dương (Oceanic Institute)
cho thấy sự khác biệt lớn về hiệu suất sinh sản giữa các dòng tôm
không cắt cuống mắt dù được nuôi trong cùng điều kiện. Có
những gia đình mà tôm cái đẻ
đến 5–6 lần chỉ trong 6 tuần –chứng minh rằng tiềm năng di truyền là yếu tố quyết định và hoàn toàn có thể khai thác thông qua chọn lọc chính xác.
CAT tin rằng, việc trì hoãn chuyển đổi sang mô hình không
cắt cuống mắt là sự lãng phí thời
gian và tiềm năng di truyền quý giá. Với sự hỗ trợ của các công
cụ chọn giống di truyền hiện
đại, mô hình này không chỉ khả
thi, mà còn là con đường tất yếu hướng đến một ngành tôm
nhân văn hơn, bền vững hơn và
hiệu quả hơn.
Nấm men
Chìa khóa tự nhiên tăng hiệu quả vụ nuôi
Trong những năm gần
đây, việc sử dụng chế
phẩm sinh học trong
ngành chăn nuôi và nuôi
trồng thủy sản ngày
càng phổ biến, trong
đó nấm men (yeast)
đóng vai trò đặc biệt
quan trọng nhờ mang lại
nhiều lợi ích nổi bật.
Giảm căng thẳng (stress) do thay đổi môi trường, vận chuyển, tiêm phòng,...
Đặc biệt đối với các loài thủy
sản dễ bị ảnh hưởng do biến động
của môi trường thì việc bổ sung
nấm men vào khẩu phần ăn giúp
Lợi ích
Nấm men là một loại nấm đơn bào, rất nhỏ bé và chỉ có thể nhìn thấy được qua kính hiển vi. Tế bào nấm men có hình dạng tròn hoặc bầu dục. Saccharomyces cerevisiae là một loại nấm men thuộc nhóm vi sinh vật đơn bào, thường được biết đến trong sản xuất thực phẩm như bánh mì, bia, rượu, và gần đây là ứng dụng rộng rãi trong nuôi trồng thủy sản. Loại nấm men này giàu protein, vitamin nhóm B, enzyme, và các hợp chất hoạt tính sinh học. Nhờ đó, nấm men mang lại nhiều lợi ích nổi bật như:
Cải thiện tiêu hóa và hấp thu dinh dưỡng qua việc cân bằng hệ vi sinh đường ruột.
Tăng cường hệ miễn dịch, giúp vật nuôi chống lại mầm bệnh.
Hạn chế sử dụng kháng sinh, góp phần tạo ra sản phẩm an toàn, thân thiện với môi trường.
chúng phát triển ổn định, tăng sức
đề kháng và tỷ lệ sống cao hơn.
ACTIVE FEED
DRY YEAST -
Nấm men sống cao cấp
Công ty TNHH Kỹ thuật Công
nghệ Khoa Học Xanh hiện đang
phân phối sản phẩm Active Feed
Dry Yeast - dòng nấm men sống
chất lượng cao, nhập khẩu chính
hãng từ Angel Yeast, chuyên dùng
trong thủy sản và chăn nuôi
Thành phần: Saccharomyces
cereviase 2 x 1010 CFU/g.
Công dụng: Bổ sung nấm men sống kích thích sự phát triển của
các sinh vật có lợi, giúp chống lại
các vi khuẩn gây bệnh.
Kích thích tiêu hóa, giảm tiêu
tốn thức ăn, phục hồi hệ vi sinh
đường ruột sau khi sử dụng kháng sinh.
Cải thiện hệ vi sinh đường ruột, giảm hệ số FCR, tăng năng suất và lợi nhuận thu hoạch.
Kìm hãm sự tăng trưởng của các vi sinh vật gây bệnh gan thận mủ, phòng ngừa và giảm xuất huyết nội.
Tăng sức đề kháng, tăng tỷ lệ sống cho tôm cá.
Hỗ trợ xử lý nước: làm sạch nước, giảm độ nhờn, bọt nước, giảm nhớt bạt ao nuôi.
Đặc biệt, khống chế nấm đồng tiền (nấm chân chó) trong ao nuôi.
Liều dùng: Trộn 2 - 3 g/kg thức ăn. Có thể hòa tan với một lượng nước sạch vừa đủ rồi trộn trực tiếp vào thức ăn cho ăn.
Hoặc dùng 500 g + 40 lít nước
sạch + 2 đến 3 kg đường vàng
hoặc mật rỉ đường đã tiệt trùng
ủ sinh khối từ 4 - 8 giờ. Sau đó
dùng dung dịch sau sinh khối
trộn 10 - 20 ml/kg thức ăn cho
ăn. Còn lại tạt cho 500 m3 nước
để ngăn ngừa sự phát triển nấm
đồng tiền (nấm chân chó), các loại tảo độc,... trong ao.
Quy cách: 10 kg/thùng; 500g/ gói/20 gói/thùng.
Xuất xứ : Angel Yeast
Chúng tôi cam kết mang đến sản phẩm chất lượng cao - giá cả cạnh tranh - hỗ trợ tận tâm, góp phần nâng cao hiệu quả chăn nuôi, hướng đến nền nông nghiệp bền vững.
Thông tin liên hệ: Công ty TNHH KTCN Khoa Học Xanh
Địa chỉ: Lô LF26 đường số 2, Khu Công nghiệp Xuyên Á, xã
Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
ĐT: 0916168200 - Email: Info@khoahocxanh.com
Mua hàng dễ dàng thông qua mini App zalo BQQ Aqua
Nhằm mang đến sự thuận tiện tối đa cho khách hàng, Công ty Cổ phần BQ&Q chính thức ra mắt ứng
dụng Zalo Mini App mang tên BQQ Aqua.
BQQ Aqua là ứng dụng thuộc Công ty Cổ phần
BQ&Q, được phát triển và gắn trên nền tảng Mini App Zalo, nhằm phục vụ khách hàng trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi và thú y.
Những tính năng nổi bật của
BQQ Aqua:
1. Sản phẩm
Cập nhật đầy đủ hình ảnh, thông tin chi tiết, tài liệu và xuất xứ của từng sản phẩm.
Phân loại rõ ràng theo nhóm, giúp khách hàng dễ dàng tìm kiếm và lựa chọn: Yucca; Vi sinh & Enzyme; Thảo dược; Dinh dưỡng bổ sung; Sản phẩm xử lý nước.
2. Đặt hàng online & Theo dõi đơn mua
Dễ dàng thêm sản phẩm vào giỏ hàng và đặt mua trực tiếp trên ứng dụng.
Theo dõi trạng thái đơn hàng và liên hệ hỗ trợ nhanh chóng nếu cần.
Quản lý lịch sử mua hàng, tra cứu hóa đơn và ghi chú đơn hàng linh hoạt.
3. Ưu đãi - Khuyến mãi
BQQ Aqua thường xuyên triển khai các chương trình ưu đãi thiết thực, phù hợp với nhu cầu
sản xuất thực tế:
- Số lượng tặng và điều kiện áp dụng được cập nhật thường
xuyên trên ứng dụng và Zalo OA
(bấm quan tâm Zalo OA để được
cập nhật).
- Khách hàng mới hoặc khách có nhu cầu sử dụng số lượng
lớn sẽ được cung cấp hàng mẫu
miễn phí để dùng thử trước khi
đặt mua chính thức.
Chính sách giá tốt cho đơn hàng lớn:
- Khi đặt mua số lượng lớn, quý khách vui lòng liên hệ trực tiếp
qua Zalo OA hoặc hotline (0788 579 679; 1900 9030) để được tư vấn giá ưu đãi.
- Chính sách dành riêng cho đại lý, trang trại quy mô lớn, hoặc khách hàng lâu năm.
4. Tích điểm và Thẻ thành viên
- Tự động tích điểm với mỗi
200.000 VNĐ chi tiêu = 1 điểm.
Chương trình thẻ thành viên nhiều cấp độ với ưu đãi gia tăng theo từng hạng:
- Thành viên mới: Giảm
100.000 VNĐ cho đơn đầu tiên từ 5 triệu đồng.
- Hạng Đồng (2.500 điểm):
Nhận voucher 15 triệu, quà sinh nhật, ưu đãi hàng tháng.
- Hạng Bạc (5.000 điểm):
Nhận voucher 20 triệu, quà sinh nhật, ưu đãi độc quyền.
- Hạng Vàng (7.500 điểm): Nhận voucher 25 triệu, quà sinh nhật, sử dụng và giao hàng mẫu miễn phí, giao hàng ưu tiên giao hang nhanh.
- Hạng Kim Cương (10.000 điểm): Nhận voucher 40 triệu,
voucher du lịch, quà sinh nhật
VIP, giao hàng ưu tiên và quyền lợi đặc biệt.
5. Giao hàng nhanh
Với tính năng giao hàng hỏa tốc nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu của quý khách hàng để kịp thời sử dụng và sản xuất: Giao hỏa tốc (2 – 4 giờ): Áp dụng cho khu vực TP. HCM, Bình Dương, Long An (có tính phí). BQ&Q cam kết giao hàng đúng thời gian theo yêu cầu của quý khách. Ngoài ra, quý khách có thể lựa chọn các phương thức giao hàng khác:
Giao bằng xe công ty (1 - 3 ngày) miễn phí: Dành cho khu vực nội thành TP.HCM.
Giao hàng nhanh thông qua các ứng dụng giao hàng.
6. Thanh toán linh hoạt
Thanh toán khi nhận hàng (COD): thanh toán bằng tiền mặt khi nhận hàng (được kiểm tra hàng trước khi thanh toán)
Thanh toán qua Zalopay
Thanh toán chuyển khoản qua tài khoản ngân hàng của công ty BQ&Q
7. Tài liệu chuyên ngành Tài liệu kỹ thuật: Tổng hợp các tài liệu về bệnh học, quản lý môi trường, dinh dưỡng, vi sinh & Enzyme, thảo dược, yucca... Tài liệu sản phẩm: Cung cấp đầy đủ thông tin theo từng nhóm sản phẩm, giúp khách hàng hiểu rõ cách sử dụng và các thông tin chi tiết các sản phẩm.
8. Mini Game – Vòng quay may mắn
Chương trình “Vòng quay may mắn” dành cho mọi khách hàng sử dụng ứng dụng, bấm quan tâm Zalo OA để được cập nhật liên tục vòng quay may mắn. Áp dụng cho các đơn hàng có giá trị từ 5 triệu đồng trở lên. Với mỗi đơn hàng đủ điều kiện, khách hàng sẽ được 1 lượt quay may mắn. Diễn ra vào các dịp lễ, Tết, và các sự kiện đặc biệt của công ty. Quà tặng sẽ được gửi kèm với đơn hàng khi khách hàng tham gia chương trình.
Máy Nano Bubbles là thiết bị công nghệ hiện đại có
khả năng tạo ra các bọt khí siêu nhỏ, với kích thước
80 - 120 mm, không thể nhìn thấy bằng mắt thường.
Các bọt khí này còn gọi là “Nano Bubbles” hay bọt khí “Nano”, sở hữu những đặc tính đặt biệt như khả năng hòa tan cao, ổn định lâu trong nước và dễ dàng xâm nhập vào các cấu trúc vi mô, loại bỏ màng sinh học – ngăn chặn tảo độc, loại bỏ chất ô nhiễm – bùn – dầu mỡ, giúp duy trì môi trường nước khỏe mạnh, tiêu thụ ít năng lượng – giảm chi phí vận hành...
Công dụng của công nghệ Nano trong trại nuôi tôm 1. Cải thiện sức khỏe tôm, giảm stress ở mật độ cao
- Tăng cường sức đề kháng: Nano giúp cải thiện hệ miễn dịch của tôm, tăng khả năng chống lại các loại virus và vi khuẩn.
- Giảm căng thẳng cho tôm: Việc cải thiện chất lượng nước và dinh dưỡng giúp giảm stress cho tôm, từ đó giúp chúng phát triển mạnh mẽ và khỏe mạnh hơn.
- Hỗ trợ phục hồi nhanh chóng: Tôm bị bệnh hoặc tổn
thương có thể hồi phục nhanh chóng nhờ nano giúp kích thích quá trình tái tạo tế bào.
2. Tăng trưởng nhanh và hiệu
quả nuôi trồng
- Tăng trưởng nhanh hơn: Các
sản phẩm nano kích thích tôm ăn
khỏe và hấp thụ dinh dưỡng tốt
hơn, giúp tôm tăng trưởng nhanh và đạt trọng lượng lý tưởng.
- Giảm thiểu hao hụt: Nano giúp giảm tỷ lệ chết trong ao nuôi, nâng cao tỷ lệ sống sót và đảm bảo năng suất thu hoạch cao.
- Cải thiện tỷ lệ chuyển hóa thức ăn: Giúp tôm tiêu hóa thức
ăn hiệu quả hơn, giảm chi phí
thức ăn và tăng hiệu quả sản xuất.
3. Xử lý nước trong trại nuôi tôm
- Diệt khuẩn và nấm mốc: Các
sản phẩm nano giúp tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh trong môi trường
nước như Vibrio, Salmonella, giúp giảm nguy cơ nhiễm trùng cho tôm.
- Điều chỉnh pH và chất lượng
nước: Công nghệ nano giúp cân bằng pH nước, giảm nồng độ amoniac, nitrat, và các khí độc như hydrogen sulfide, cải thiện điều kiện sống cho tôm.
- Lọc và làm trong nước: Các
hạt nano có khả năng kết tủa và loại bỏ các tạp chất trong nước, giữ nước luôn sạch và trong, giảm thiểu rủi ro bệnh.
4. Hỗ trợ phòng ngừa và giảm nguy cơ bùng phát bệnh tật
- Tăng khả năng chống lại bệnh tôm: Nano có khả năng
kích thích sản xuất enzyme trong tôm giúp chúng hạn chế bị bệnh gan tụy, bệnh đốm trắng, và
bệnh đỏ mang.
- Giảm kháng sinh: Việc sử dụng
nano giúp giảm thiểu sự phụ thuộc
vào thuốc kháng sinh, đồng thời duy trì sức khỏe tổng thể của tôm. 5. Cải thiện chất lượng sản phẩm và an toàn thực phẩm
- Sản phẩm sạch, đạt chuẩn xuất khẩu: Tôm nuôi trong môi trường với công nghệ nano sẽ có chất lượng vượt trội, sạch và an toàn, đáp ứng tiêu chuẩn nghiêm ngặt của các thị trường quốc tế.
- Giảm tồn dư thuốc kháng sinh: Việc sử dụng nano giảm sự cần thiết phải dùng kháng sinh trong trại nuôi tôm, giúp sản phẩm cuối cùng đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm.
6. Tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả kinh tế
- Giảm chi phí quản lý ao nuôi: Công nghệ nano giúp giảm
Thông tin liên hệ: CÔNG TY TNHH B.H.N Số điện thoại: 028.668.101.95~96
Website: bhnenc.com
chi phí điều trị bệnh và duy trì
chất lượng nước, giúp nông dân tiết kiệm chi phí vận hành. - Tăng năng suất và giảm thời gian nuôi: Tôm phát triển nhanh và ít bệnh, giúp rút ngắn thời gian nuôi và tăng vòng quay sản xuất.
Với ưu điểm vượt trội, máy
Nano Bubbles không chỉ mang lại hiệu quả cao mà còn góp phần giảm thiểu tác động đến môi trường. Đây là một trong những giải pháp công nghệ xanh, mở ra hướng đi mới cho sự phát triển bền vững trong tương lai. B.H.N
Email: bhnenc@gmail.com Địa chỉ: Số DP-18 Dragon Parc2, KDC Phú Long, Đường Nguyễn Hữu Thọ, Xã Phước Kiển, Huyện Nhà Bè, TP. HCM
cùng
C.P.
Việt Nam
Trong bài viết này, C.P. Việt Nam kính mời quý khách hàng cùng đến với
1 câu chuyện rất ý nghĩa về hành trình hơn 20 năm phát triển kinh doanh
bền vững cùng C.P. Việt Nam từ anh Lê Thanh Vũ (Đại lý Khánh Ngân) tại
thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh.
Gần 30 năm về trước, trên mảnh đất duyên
Hải, tỉnh Trà Vinh, chàng thanh niên tuổi ngoài đôi
mươi, vóc dáng mảnh khảnh nhưng với cặp mắt đầy sắc sảo và tinh tường ôm trong mình
một hoài bão to lớn về ước mơ thay đổi cuộc sống trên chính mảnh đất ven biển quê hương
mình. Và ngày hôm nay, sau hàng chục năm nỗ lực, vượt qua không biết bao nhiêu khó khăn thử thách đã tôi luyện nên một
đến năm 2020 anh Vũ chính thức là đại lý kiễu mẫu C.P. Việt Nam”. Anh Vũ chia sẻ: “Quá trình hợp tác tôi luôn đánh giá cao về tầm nhìn và vai trò tiên phong trong nghề tôm của C.P., tôi cảm nhận Công ty C.P. có cái chất tương tự như tính cách của mình. Không những công ty có con giống, thức ăn chất lượng mà có hướng phát triển mô hình tốt”. Hồi ức về năm 2012, anh Vũ cho biết thời điểm đó nuôi tôm sú rất khó khăn, nhưng C.P. Hơn 20 năm phát triển kinh doanh
người doanh nhân đầy bản lĩnh mang tên Lê Thanh Vũ với cơ
ngơi kinh doanh đáng ngưỡng
mộ, từ các trang trại nuôi tôm
công nghệ cao cho đến hệ thống khách hàng vững chắc.
Điều đáng nói, trong suốt hành
trình phát triển sử nghiệp, anh
Vũ chỉ tâm đắc duy nhất với đối
tác C.P Việt Nam, bất chấp nhận
được nhiều lời mời chào từ các
doanh nghiệp khác trong suốt 20 năm phát triển kinh doanh
đầy thăng trầm của mình.
Đồng hành cùng C.P. Việt Nam - đối tác có hướng đi tiên phong trong nghành tôm có dịp gặp gỡ anh Vũ vào tháng 3/2025, chúng tôi được anh chia sẻ về cơ duyên đến với nghề tôm:
“Trước đây gia đình kinh doanh trong lĩnh vực vật liệu xây dựng, đến những năm 2000 nhận thấy tiềm năng phát triển ngành nuôi tôm tại địa phương, anh bắt đầu chuyển sang nuôi tôm sú bằng hình thức ao đất. Năm 2005, bắt đầu hợp tác làm đại lý cấp 1 C.P.,
Việt Nam luôn có các giải pháp giúp khách hàng nuôi tôm thành công. Từ nuôi tôm sú chuyển sang nuôi tôm thẻ, từ hình thức canh tác bằng ao đất đến Khi C.P. chia sẻ về mô hình nuôi tôm công nghệ cao CPF-COMBINE, CPF-COMBINE HOUSE anh đã triển khai áp dụng ngay và mang lại thành công liên tục. Sau đó tiếp tục cải tiến và nhân rộng, không những trang trại nhà mà hệ thống khách hàng hiện đều đã chuyển đổi sang mô hình nuôi của công ty. Tỷ lệ thành công từ đó đến nay đạt trên 80%.
Giải pháp thành công – 20 năm phát triển bền vững
Bên cạnh là đại lý phân phối các sản phẩm C.P. Việt Nam có uy tín trong khu vực, anh Vũ còn được biết đến là người nuôi tôm có nền tảng vững chắc từ kinh nghiệm sản xuất thành công. Hơn 20 năm đồng hành phát triển cùng C.P. Việt nam, anh Vũ đánh giá rất cao về chất lượng
sản phẩn và dịch vụ chăm sóc kỹ thuật mang lại.
Dẫn chúng tôi ra trang trại nuôi tôm của mình, anh Vũ chia sẻ: “ C.P. luôn tiên phong trong sản xuất bằng các công nghệ tiên tiến, hiện đại, đặc biệt là các thế hệ tôm giống, tôm giống C.P. luôn cho tỷ lệ sống cao, tốc độ lớn nhanh vượt trội, nuôi về được kích cỡ lớn và sức chống chịu với điều kiện thời tiết môi trường, dịch bệnh rất cao. Bên cạnh đó các sản phẩm thức ăn
C.P. cũng không ngừng cải tiến, mùi thơm, ít bụi, tôm bắt mồi rất tốt. Ngoài ra, trong quá trình nuôi anh và hệ thống khách hàng của mình luôn chăm sóc sức khỏe tôm bằng các chế phẩm sinh học Biotic C.P. Việt Nam, giúp tôm khỏe mạnh, lớn nhanh, đạt năng suất cao”.
“Đồng thời trong mỗi vụ nuôi anh em nhân viên C.P. luôn đồng
Trang trại nuôi tôm công nghệ cao theo mô hình CPF-COMBINE HOUSE
hành cùng đại lý và khách hàng.
Từ khâu chăm sóc, hỗ trợ thả tôm, san tôm hay đến lúc thu
hoạch tôm, anh em luôn nhiệt tình giúp khách hàng có được những vụ mùa thành công nhất, và đó cũng chính là lý do mà tôi gắn bó với C.P. Việt Nam” anh Vũ chia sẻ thêm.
Những tình cảm trân quý, mối quan hệ gắn kết giữa anh Vũ và C.P. Việt Nam có lẽ không chỉ dừng lại ở hai chữ đối tác mà chính là là tri kỷ. Đó là sự kết nối sâu sắc từ trong mọi quyết định kinh doanh, mỗi câu chuyện hàng ngày, sự đồng điệu cả về tinh thần cũng như cảm xúc.
Công ty Cổ phần chăn nuôi C.P. Việt Nam Xin được trân trọng tri ân và kính chúc anh Vũ cùng gia đình luôn dồi dào sức khỏe, hạnh phúc, kinh doanh phát triển thịnh vượng bền vững.
Kiểm soát bệnh do Streptococcus spp gây ra trên cá rô phi và điêu hồng
Nghề nuôi cá rô phi và cá điêu hồng trong thời gian gần đây phải đối mặt với nhiều rủi ro, trong đó bệnh
do Streptococcus spp gây ra khá phổ biến, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả vụ nuôi.
Cá rô phi, cá điêu hồng
được nuôi rộng rãi ở
các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam bộ, những năm gần đây mô hình đã lan rộng ra các tỉnh miền Bắc và miền Trung Việt Nam. Trong đó, mô hình nuôi lồng bè phát triển mạnh nhất, hàng năm cung cấp một sản lượng cá rất lớn cho xuất khẩu và tiêu thụ nội địa.
Tuy nhiên, nghề nuôi cá rô phi và cá điêu hồng trong thời gian gần đây phải đối mặt với nhiều rủi ro, trong đó bệnh do Streptococcus spp gây ra khá phổ biến, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả vụ nuôi. Nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy, bệnh do vi khuẩn Streptococcus spp gây ra làm thiệt hại lớn cho người nuôi cá rô phi và điêu hồng ở Việt Nam (Đặng Thị Hoàng Oanh và Nguyễn Thanh Phương, 2012; Trần Xuân Hạnh, và các cộng sự, 2013).
Nguyên nhân gây bệnh
Tác nhân chính của bệnh này là do vi khuẩn Streptococcus spp gây ra.
Triệu chứng
Khi cá bị nhiễm vi khuẩn Streptococcus spp thường thấy
có một số biểu hiện bên ngoài như cơ thể sậm màu, một bên hoặc hai bên mắt bị lồi và đục, xuất huyết ở các vây và xương nắp mang. Cá bị bệnh vận động khó khăn, bơi không có định hướng. Não, thận và tỳ tạng là những cơ quan bị tổn thương nhiều nhất và đây là lý do gây chết cá.
Phòng bệnh
Chọn cá giống khỏe mạnh và đồng đều về kích cỡ để thả nuôi.
Lựa chọn cá ở những cơ sở cung cấp có uy tín, chất lượng.
Thả cá với mật độ vừa phải, phù hợp với mức độ đầu tư của hộ nuôi, và điều kiện nuôi ao hoặc bè.
Cá giống trước khi thả nuôi nên tắm nước muối 4 - 5% trong 5 - 10 phút hoặc tắm BIO-OXYTETRA FOR AQUACULTURE liều 5 ppm (5 g/m3 nước), ngâm trong 5 - 10
phút để loại bỏ mầm bệnh.
Trong quá trình nuôi, cần quản
lý tốt thức ăn. Lựa chọn thức ăn chất lượng. Cho cá ăn vừa phải, tránh dư thừa thức ăn và thường xuyên bổ sung BIO NUTRI-FISH (chất dinh dưỡng) trong khẩu phần ăn để nâng cao sức kháng
bệnh cho cá.
Cần hạn chế các tác nhân khiến cá bị stress. Kiểm soát môi trường ao nuôi hợp lý, hạn
chế ô nhiễm, hạn chế biến động lớn các thông số môi trường nước như hàm lượng ôxy hòa tan, pH và nhiệt độ. Nếu nhiệt độ môi trường tăng > 320 C thì trộn cho cá ăn Vitamin C hoặc BIO ANTISHOCK for fish, liều 2 - 3 g/ kg thức ăn.
Định kỳ 2 - 3 tuần/lần tiến hành thay nước với lượng khoảng 1/3 lượng nước. Đồng thời, diệt khuẩn nguồn nước nuôi cá bằng BIO-IODINE COMPLEX FOR FISH hoặc BIO PARACIDE for Aqua liều 1 lít/2.000 m3 nước, giúp hạn chế vi khuẩn gây bệnh phát triển.
Trị bệnh
Sử dụng kháng sinh đặc trị BIO-OXYTETRA FOR AQUACULTURE với liều 2 gkg thức ăn. Cho ăn trong 5 - 7 ngày.
Hoặc dùng kháng sinh BIOAMOXICILLIN 50% FOR AQUACULTURE cũng cho kết quả rất tốt. Liều 2 g/kg thức ăn. Cho ăn trong 5 - 7 ngày. Sau thời gian 7 ngày điều trị bằng kháng sinh nên trộn men tiêu hóa BIO-VIZYME NEW FOR FISH hoặc BIO ENZYME FOR Aqua cho cá ăn liên tục 1 tuần để khôi phục hệ vi khuẩn có lợi trong đường ruột, giúp cá tiêu hóa và hấp thụ thức ăn tốt, nhờ vậy cá nhanh phục hồi và phát triển tốt.
Đặng Hồng Đức Cố Vấn kỹ thuật Công ty Bio Pharmachemie
Saponin
Dưỡng chất thiên nhiên cho tôm, cá
Saponin ngày càng được quan tâm trong dinh dưỡng thủy sản nhờ tiềm
năng cải thiện sức khỏe vật nuôi. Tuy nhiên, hiệu quả chỉ đạt được khi
chọn đúng loại và sử dụng với liều lượng phù hợp.
Hoạt chất sinh học
Saponin là hợp chất phổ biến trong thực vật, đặc biệt ở các loài cây họ đậu (đậu nành, cỏ linh lăng), diêm mạch, trà camellia, cỏ cà ri và yucca. Về mặt hóa học, saponin là các heteroside lưỡng tính, bao gồm một phần không phân cực gọi là sapogenin và một hoặc nhiều chuỗi đường phân cực. Cấu trúc này cho phép saponin tạo bọt ổn định khi tiếp xúc với nước.
Có hai nhóm saponin chính: saponin steroid (chứa 27 nguyên tử carbon) và saponin triterpenoid (gồm 30 nguyên tử carbon, phổ biến nhất trong thực vật). Saponin có tính hoạt động bề mặt và khả năng ly giải, giúp thực vật phòng vệ tự nhiên chống lại nấm, côn trùng và một số động vật ăn cỏ.
Một cây có thể chứa nhiều loại saponin, và sự biến đổi này phụ
thuộc vào yếu tố môi trường, giai đoạn phát triển và phương pháp canh tác. Saponin cũng có thể tác động đến môi trường xung quanh, ví dụ ức chế sự phát triển của các cây khác. Với đặc tính sinh học và hoạt động bề mặt, saponin được ứng dụng rộng rãi trong mỹ phẩm, dược phẩm và dinh dưỡng chăn nuôi, như chất điều chỉnh tiêu hóa, giảm amoniac và chống ký sinh
trùng. Nhu cầu về saponin ngày
càng tăng nhờ xu hướng tiêu thụ nguyên liệu tự nhiên.
Dưỡng chất “vàng”
Saponin trong nuôi trồng thủy
sản được chú trọng bởi nhiều tác
dụng tích cực đối với sức khỏe và
hiệu suất nuôi. Một trong những
lợi ích chính là cải thiện tiêu hóa, giúp tăng cường hấp thụ dinh
dưỡng, hỗ trợ cân bằng hệ vi sinh
vật đường ruột, giảm vi khuẩn có hại và thúc đẩy sự phát triển của
lợi khuẩn. Ngoài ra, saponin giúp cải thiện chức năng gan, nâng cao sức khỏe của vật nuôi và kích thích tính thèm ăn. Saponin cũng nổi bật với hoạt tính chống ký sinh trùng qua cơ chế xây dựng phức hợp với cholesterol và sterol trong màng tế bào của ký sinh trùng, làm giảm tính thấm màng và tiêu diệt chúng. Các nghiên cứu in vitro đã chứng minh hiệu quả của saponin đối với nhiều ký sinh trùng. Ví dụ, saponin làm tăng tỷ lệ chết của ngoại ký sinh trùng trong giai đoạn nhiễm trùng trên da cá.
Các saponin khác được đánh giá cao nhờ khả năng hạn chế sản xuất và bài tiết các chất thải chuyển hóa (NH, NH4 + , H2 S,), từ đó giảm tác động lên môi trường và cải thiện sức khỏe của con người lẫn vật nuôi. Trong nuôi trồng thủy sản, saponin giúp giảm khí amoniac trong các hệ thống nuôi thâm canh bằng cách điều chỉnh hệ vi sinh vật ruột, đồng thời cải thiện chất lượng nước, mức độ nitrit và nitrate. Các ứng dụng này làm cho saponin trở thành lựa chọn tiềm năng cho nuôi trồng thủy sản bền vững, giảm sử dụng kháng sinh và tăng hiệu quả thức ăn.
Cần chọn lựa kỹ lưỡng
Mặc dù có tiềm năng, saponin từ lâu đã bị xem là yếu tố kháng dinh dưỡng. Trong nuôi cá, tiêu thụ quá nhiều saponin, đặc biệt là từ bột đậu nành, có thể gây tổn thương cấu trúc nhung mao ruột. Điều này kéo theo sự nghi ngờ về saponin, nhất là khi nguyên liệu thức ăn gốc thực vật được sử dụng ngày càng rộng rãi trong nuôi trồng thủy sản để thay thế bột cá. Khi hòa vào nước với nồng độ cao, một số saponin có thể trở thành độc tố, làm hỏng biểu mô hô hấp của mang cá. Thực tế, saponin đôi khi được dùng để tiêu diệt cá trong ao. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy tác dụng của saponin phụ thuộc vào liều lượng, nguồn gốc và loại sử dụng. Khi chọn lựa kỹ lưỡng và dùng đúng liều lượng, saponin có thể mang lại lợi ích mà không gây tác dụng phụ như ở nồng độ cao.
Nor-Feed, một hãng dinh dưỡng tại Pháp, đang tiên phong trong nghiên cứu và ứng dụng saponin trong chăn nuôi. Công ty hợp tác chặt chẽ với đơn vị nghiên cứu tại Đại học Angers phát triển các giải pháp saponin an toàn, hiệu quả cho cá và tôm. NorFeed cho biết, tùy vào mục đích sử dụng, các cây trồng được chọn lựa kỹ càng để kiểm soát amoniac hoặc giảm rủi ro ký sinh trùng coccidia, với hàm lượng saponin và tác dụng sinh học được tối ưu hóa cho từng ứng dụng cụ thể. Mới đây, Nor-Feed đã phát triển phương pháp Q-Sap định lượng saponin trong dịch chiết, nhanh chóng và tin cậy.
Ứng dụng polyphenol trong nuôi trồng
thủy sản
Ngành nuôi trồng thủy
sản đang nỗ lực phát
triển theo hướng giảm kháng sinh và bền vững.
Chiết xuất thực vật giàu
polyphenol đóng vai trò quan trọng trong chiến lược này.
Giảm thiểu căng thẳng
Vật nuôi thủy sản có thể bị
căng thẳng do nhiều nguyên
nhân, bao gồm yếu tố vật lý, hóa
học, sinh học, và quy trình vận
chuyển, thả giống, điều trị bệnh, cho ăn… Căng thẳng kéo dài có
thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến
sức khỏe và tăng trưởng của vật
nuôi, làm tăng trạng thái ôxy hóa trong các tế bào đích. Khi đó, lượng gốc tự do ROS sản sinh
vượt quá khả năng trung hòa của
hệ enzyme chống ôxy hóa. Hệ
quả là một loạt rối loạn chuyển hóa xảy ra, bao gồm suy giảm hàng rào bảo vệ ruột, tăng biểu hiện các cytokine gây viêm, tổn
thương màng tế bào, rối loạn chức năng miễn dịch và thậm chí
ảnh hưởng đến DNA, làm thay
đổi quá trình tổng hợp protein.
Chiết xuất thực vật được sử dụng phổ biến trong nuôi trồng
thủy sản như giải pháp thay thế kháng sinh và chất kích thích miễn dịch. Đặc biệt, các chiết xuất giàu polyphenol mang lại nhiều lợi ích như giảm căng thẳng, kháng khuẩn, tăng trưởng, kích thích miễn dịch và chống ôxy hóa; từ đó cải thiện sức khỏe tổng thể của vật nuôi thông qua tăng cường miễn dịch, nâng cao đề kháng, giảm viêm và hạn chế tình trạng mất
cân bằng giữa gốc tự do và chất
chống ôxy hóa
Tăng cường miễn dịch
Nhiều nghiên cứu khoa học gần
đây đã chứng minh hiệu quả của
các chiết xuất giàu polyphenol khi
bổ sung vào thức ăn thủy sản. Các
hợp chất này không chỉ có hoạt
tính sinh học rõ rệt mà còn mang
lại nhiều lợi ích cho sức khỏe của
vật nuôi. Chúng giúp cải thiện
tăng trưởng, thành phần cơ thể, hoạt động enzyme tiêu hóa và hệ vi sinh đường ruột. Ngoài ra, polyphenol còn góp phần giảm kích ứng ôxy hóa, tăng cường khả năng chống ôxy hóa, nâng cao miễn dịch và kháng bệnh cho cá.
Đáp ứng miễn dịch ban đầu và tình trạng viêm có liên hệ mật thiết với tình trạng ôxy hóa của tế bào. Sự gia tăng gốc tự do ROS trong tế bào làm tăng giải phóng cytokine tiền viêm và cản trở phản ứng miễn dịch bẩm sinh. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các loài có hệ miễn dịch còn nguyên thủy, như động vật giáp xác. Nghiên cứu cho thấy
hợp, phản ứng này giúp giảm độ nhạy cảm với các tác nhân gây bệnh ký sinh trùng và vi khuẩn.
Polyphenol trà xanh: Đã được nghiên cứu rộng rãi suốt hơn 20 năm qua, với nhiều phát hiện quan trọng gồm cải thiện khả năng chống ôxy hóa và tăng cường miễn dịch ở cá hồi, cá chép, cá trắm, cá tầm lai, cá mú lai, cá rô phi, cá chép Koi, cá trắm đen, cá đù vàng và cá đối. Ngoài ra, polyphenol còn giúp cá chống lại vi khuẩn (như Vibrio, Photobacterium), thích nghi với stress do amoniac, dung nạp tốt hơn chế độ ăn nhiều chất béo, cải thiện sức khỏe gan và chuyển hóa lipid. Chiết xuất trà cũng hiệu quả trong việc ngăn ngừa hình thành các sắc tố thâm đen ở giáp xác ướp lạnh, góp phần giữ nguyên giá trị thương mại. Resveratrol: là một hợp chất lignan thuộc nhóm polyphenol, phổ biến trong nhiều loại thực vật. Nghiên cứu cho thấy resveratrol mang lại nhiều lợi ích cho nuôi trồng thủy sản như: giảm tình trạng mất cân bằng ôxy hóa gây ra bởi khẩu phần ăn nhiều chất béo, kháng viêm, tăng cường miễn dịch, chống ôxy hóa, điều hòa hệ vi sinh đường ruột và cải thiện tăng trưởng. Các loài được nghiên cứu gồm cá bơn turbot, cá diếc, cá chép, tôm thẻ chân trắng, cá rô phi, cá hồi vân, cá quả, cá hồi Đại Tây Dương và cá tráp Vũ Xương.
Axit ferulic và axit chlorogenic:
Là các polyphenol tự nhiên có trong nhiều loài thực vật, với tiềm năng ứng dụng cao trong nuôi trồng thủy sản. Axit chlorogenic
đã được chứng minh giúp ức chế
virus đốm trắng ở giáp xác, tăng tỷ lệ sống và giảm lây nhiễm.
Ngoài ra, hợp chất này còn giảm
độc tính amoniac, bảo vệ gan
ở cá trê vàng; cải thiện chuyển hóa lipid và chống ôxy hóa ở cá
vược miệng rộng ăn khẩu phần
nhiều chất béo; nâng cao chất
lượng thịt cá trắm cỏ; đồng thời
hỗ trợ tăng trưởng và tăng sức
đề kháng cho tôm thẻ chân trắng
trong điều kiện căng thẳng do độ
mặn và nitrit.
Axit ferulic đã được chứng minh có khả năng giảm căng thẳng ở nhiều loài thủy sản. Cụ thể, giảm căng thẳng do dầu cá
ôxy hóa ở tôm càng xanh và cá rô phi; sốc nhiệt ở cá rô phi; căng thẳng vi sinh ở tôm càng xanh và cá chép; căng thẳng do viêm ở cá tráp Vũ Xương; và căng thẳng do độc tố ở cá chép và cá trắm cỏ. Ở các loài không bị căng thẳng, bổ sung axit ferulic vào khẩu phần ăn cũng giúp cải thiện tăng trưởng và hiệu suất, như đã ghi nhận ở tôm thẻ chân trắng, cá hồi vân, cá tráp Vũ Xương, cá đù vàng và cá rô phi sông Nile.
Bên cạnh đó, nhiều chiết xuất giàu polyphenol khác cũng
đang được nghiên cứu, gồm: proanthocyanidin từ hạt nho, quercetin và rutin từ cây hoa hòe, fucoidan từ rong biển nâu, chiết
xuất nhân sâm, vỏ cây mộc lan, cùng nhiều loại khác. Các nghiên
cứu tập trung vào tác động đến
hệ vi sinh đường ruột, chức năng
bảo vệ của ruột, khả năng kháng bệnh và tính kháng khuẩn.
Dũng Nguyên
Theo Layn Natural Ingredients
CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA
Bến Tre Đổi đời từ
nuôi cá bông lau
Ông Lê Hồng Phương (xã Bình
Thắng, huyện Bình Đại, tỉnh Bến
Tre) hiện đang sở hữu trang trại
cá bông lau với diện tích trên 2 ha, mang lại lợi nhuận hơn 1 tỷ
đồng/năm.
Thay thế con tôm truyền thống
Ông Lê Hồng Phương là điển hình nông dân vượt khó, vươn lên làm giàu ngay trên mảnh đất quê hương nhờ mô hình nuôi cá bông lau. Ông Phương cho biết: “Ban đầu, tôi chọn con tôm là đối tượng khởi nghiệp. Tuy nhiên, từ năm 2014, do thời tiết, khí hậu diễn biến phức tạp khiến dịch bệnh trên tôm thường xuyên xảy ra, nhiều vụ nuôi bị mất trắng. Nhất là vào năm 2015, cứ 10 ao nuôi tôm thì có đến 8 ao bị dịch bệnh. Vì vậy tôi đành chuyển hướng sang đối tượng nuôi khác. Qua tìm hiểu ở nhiều kênh thông tin khác nhau, tôi đã mạnh dạn thử nghiệm nuôi cá bông lau”.
Nghĩ là làm, năm 2017, ông Phương tận dụng 1.200 m2 ao nuôi tôm lót bạt cải tạo để thả 200 con cá bông lau giống. Sau thời gian 20 tháng, cá bông lau phát triển tốt và đạt trọng lượng trên 2 kg/con, với giá hơn 150.000 đồng/kg, ông thu lợi nhuận khá cao.
Thấy được hiệu quả kinh tế từ cá bông lau mang lại, ông Phương đã mạnh dạn mở rộng quy mô. Theo đó, ông đầu tư cải tạo 6 ao nuôi tôm với tổng diện tích 2 ha và chuyển hẳn sang nuôi cá bông lau thương phẩm.
Để có cá thu hoạch quanh năm, ông
Phương áp dụng hình thức thả nuôi xoay vòng, chứ không thả cá đồng loạt ở các ao. “Cá nuôi khoảng 20 tháng sẽ đạt trọng lượng khoảng 4 kg/con. Giá bán tùy thời điểm, dao
động 90.000 - 150.000 đồng/kg. Lúc giá cá ở
mức thấp nhất, mỗi ao tôi đầu tư khoảng 800
triệu đồng vẫn có thể thu về 1,2 tỷ đồng”, ông
Phương chia sẻ.
Ngoài ra, hiện ở địa phương chưa có cơ sở nào sản xuất được cá bột, các trang trại
đều phải bắt cá nhỏ ngoài tự nhiên về thuần dưỡng rồi nuôi thành cá thương phẩm. Vì vậy, ông Phương đã sử dụng 1 ao nuôi có diện tích
1.000 m2 để thuần dưỡng cá bông lau giống, sau thời gian 7 ngày thì tiến hành thả ra ao đất. Cá bông lau giống xuất hiện hàng năm từ tháng 8 đến tháng 11 âm lịch. Đây cũng là thời điểm ông bắt đầu thu mua giống đem về thuần dưỡng và thả nuôi.
Những năm qua, ông Phương đã duy trì và phát triển hiệu quả diện tích thả nuôi cá bông lau thương phẩm, với lợi nhuận hàng năm khoảng 1 tỷ đồng.
Phát triển và mở rộng
Theo ông Phương, cá bông lau được biết đến là một loài thủy sản có phẩm chất thịt ngon, giàu dinh dưỡng nên rất được thị trường ưa chuộng, giá trị kinh tế cao. Do lượng cá bông lau trong tự nhiên dần ít đi nên việc khai thác, đánh bắt khó khăn, sản lượng đánh bắt không đủ đáp ứng nhu cầu của thị trường. Đây cũng là đối tượng dễ nuôi, ít bệnh cho nên không tốn nhiều công chăm sóc, thức ăn
cho cá chủ yếu từ nguồn cá vụn cũng dễ tìm và chi phí thấp. Từ thành công của ông Phương, nhiều hộ dân ở địa phương đã tìm đến học hỏi kỹ thuật và triển khai, cho hiệu quả kinh tế cao. Hiện, mô hình nuôi cá bông lau đã được nhân rộng tại 12 hộ dân trong xã Bình Thắng, hầu hết là các hộ chuyển đổi từ nuôi tôm, hộ nuôi nhiều nhất có diện tích 20.000 m2 và hộ nuôi ít nhất cũng có 5.000 m2
“Với nguồn lợi mang lại nhiều năm liền từ nuôi cá bông lau thương phẩm, tháng 4/2024, Hội Nông dân xã Bình Thắng đã vận động, tập hợp các hộ chuyển đổi từ ao nuôi tôm công nghiệp sang nuôi cá bông lau thương phẩm. Hội đã thành lập tổ hợp tác nuôi cá bông lau gồm 7 thành viên, tổng diện tích thả nuôi trên 93,6 ha với mục tiêu phát triển và mở rộng diện tích nuôi cá bông lau thương phẩm trên địa bàn xã”, ông Nguyễn Hồng Khanh, Chủ tịch Hội Nông dân xã Bình Thắng chia sẻ.
Nuôi cá rô phi nước mặn
ở Singapore
Dù gặp khó khăn về diện tích và chi phí, ngành nuôi trồng thủy
sản Singapore vẫn bứt phá nhờ công nghệ hiện đại, quản lý
thông minh và hướng đi mới với cá rô phi nước mặn.
Nhiều lợi thế
Năm 2019, Singapore triển khai chiến lược “30 by 30” với mục tiêu tự đáp ứng 30% nhu cầu dinh dưỡng vào năm 2030. Quốc đảo này tập trung nuôi các loài như cá vược châu Á, cá hồng, cá mú, cá đối, cá măng và cá rô phi. Một số loài, như cá rô phi, vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận thị trường. Dù được nuôi phổ biến trên toàn cầu, cá rô phi chưa được người tiêu dùng Singapore ưa chuộng do mùi bùn trong thịt cá, xuất phát từ các hợp chất geosmin và 2-methylisoborneol do tảo và vi khuẩn tạo ra trong môi trường nước giàu hữu cơ. Tuy nhiên, nhờ các tiến bộ trong nuôi trồng hiện đại như kiểm soát chất lượng nước, tối ưu hóa quy trình cho ăn và cải tiến hệ thống ao nuôi, vấn đề này đang dần được khắc phục. Cá rô phi nước mặn có lợi thế lớn nhờ chu kỳ nuôi ngắn, chỉ khoảng 6 tháng để đạt kích cỡ thương phẩm, so với 7 - 9 tháng ở cá vược châu Á và 9 - 11 tháng ở cá hồng. Thời gian nuôi ngắn giúp tăng số vụ trong năm, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế. Các thử nghiệm nuôi rô phi nước mặn tại khu vực Lim Chu Kang cho kết quả khả quan, với tỷ lệ sống đạt 80 - 85%. Mô hình nuôi cá rô phi nước mặn nhanh chóng thu hút sự quan tâm từ siêu thị, nhà hàng và doanh nghiệp, khiến nhu cầu thị trường vượt xa nguồn cung.
Ông Joe Ng - nhà sáng lập Century Aquaculture cho biết, trong năm 2024, trang trại của ông đã cung cấp gần 500.000 cá rô phi giống cho nông dân địa phương, với sản lượng dự kiến đạt 300 tấn, gấp 10 lần so với năm trước. Người nuôi cũng được hưởng giá bán cao hơn so với cá rô phi nhập khẩu.
Đổi mới công nghệ
Để thúc đẩy ngành nuôi trồng thủy sản, Cơ quan Thực phẩm Singapore (SFA) đã đầu tư hơn 23 triệu đô la Singapore (khoảng 17,6 triệu USD) vào các dự án phát triển sản xuất thực phẩm bền vững trong đô thị, chủ yếu tập trung vào lĩnh vực thủy sản.
Các sáng kiến này nhằm giải quyết các thách thức cốt lõi như di truyền, con giống, quản lý dịch bệnh và dinh dưỡng, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững của ngành. Một trong những trọng điểm là xây dựng các cơ sở lai tạo và trại ương cá giống quốc gia, nhằm cung cấp nguồn giống chất lượng cao, ổn định và giảm phụ thuộc vào nhập khẩu.
Trước nhu cầu ngày càng tăng, nông dân
Singapore được khuyến khích mở rộng sản xuất cá rô phi nước mặn. Ngành thủy sản
Singapore đã tập trung nguồn lực vào nghiên cứu và tối ưu quy trình sản xuất, cải thiện di
truyền, lai tạo và dinh dưỡng. Đặc biệt, việc phát triển cá giống toàn đực, vô sinh được xem là giải pháp hiệu quả để nâng cao năng suất và giảm cạnh tranh sinh sản trong đàn. Singapore đã thành công trong việc lai tạo cá rô phi đen với các giống vượt trội như GenoMar 1000 và GenoMar STRONG, mang lại tốc độ tăng trưởng nhanh hơn 30% và tỷ lệ sống cao hơn so với các giống hiện tại. Các kỹ thuật lai tạo tiên tiến này hứa hẹn sẽ tạo ra bước đột phá cho ngành sản xuất cá rô phi nước mặn tại Singapore.
Mặc dù cá rô phi có tiềm năng, chính phủ Singapore vẫn tiếp tục hỗ trợ nuôi các loài cá đã có vị thế như cá vược châu Á, cá hồng và cá mú. Việc duy trì đầu tư vào nghiên cứu, lai tạo và phát triển thị trường cho các loài này sẽ giúp ngành nuôi trồng thủy sản giảm rủi ro và đảm bảo nguồn cung chất lượng, ổn định. Phát triển nghề nuôi rô phi nước mặn song song với cá vược châu Á và các loài thủy sản khác sẽ tạo ra ngành thực phẩm nông nghiệp đa dạng, tự chủ và bền vững, từ đó nâng cao an ninh lương thực quốc gia.
Minh
Kinh nghiệm nuôi cá lồng, bè trên sông và hồ chứa
Nuôi cá lồng, bè trên sông và
hồ chứa là một trong những
hình thức khai thác có hiệu
quả tiềm năng mặt nước và
điều kiện sinh thái ở nhiều địa
phương của nước ta.
Ảnh: Tiến Huy
Lồng nuôi
Khuyến khích áp dụng nuôi thủy sản bằng lồng nhựa HPDE theo công nghệ Na Uy. Tùy vào điều kiện kinh tế và quy mô đầu tư của từng gia đình mà thiết kế khung lồng nuôi cho phù hợp, chiều cao mực nước lưới lồng để thả nuôi từ 2,5 m; trên các mặt của thành lồng có lớp lưới chắn cao 0,5 m để ngăn thức ăn trôi ra ngoài.
Vị trí
Chọn vị trí đặt lồng nuôi phải được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền; chọn khu vực hạ lưu hồ chứa, xa đập tràn. bến tập kết gỗ,…; chọn nơi thông thoáng, khuất gió, nước sâu hơn 3 m tại thời điểm mực nước hồ xuống thấp nhất, lưu thông nước tốt, lưu tốc dòng chảy 0,2 - 0,3 m/s. Không nên nuôi ở các điểm cuối eo ngách; vị trí đặt lồng cách bờ ít nhất 15 - 20 m.
Môi trường nuôi phải đảm bảo các yếu tố sau: pH 6,5 - 8,5; hàm lượng ôxy hòa tan > 5 mg/lít; NH3 < 0,01 mg/lít; H2 S < 0,01 mg/lít, nhiệt độ nước từ 20 - 330 C.
Con giống
Lựa chọn các cơ sở cung ứng con giống thủy sản có uy tín, đảm bảo truy xuất được nguồn gốc, có giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện sản xuất giống thủy sản.
Khi chọn giống, quan sát cá giống phải đồng đều, không dị tật, không bị xây xát; Hoạt động nhanh nhẹn, bơi theo đàn, phản ứng nhanh với tiếng động, ánh sáng, màu sắc sáng đẹp; không có các dấu hiệu khác về màu sắc, nghi có mầm bệnh.
Cá giống nuôi trong lồng yêu cầu phải có kích cỡ lớn, tốt nhất từ 8 - 12 cm. Cá giống được ương nuôi trong ao hoặc lồng riêng cho đến khi đạt kích thước trên mới đưa ra lồng nuôi thương phẩm. Thời gian thả cá giống tốt nhất vào buổi sáng hoặc chiều mát. Tránh thả cá vào lúc trời đang mưa to hay nắng gắt có thể làm cá bị sốc nhiệt, yếu dẫn đến cá chết. Trước khi thả cá nên tắm cho cá bằng nước muối 2% (20 g muối + 1 lít nước) trong thời gian 5 - 10
ký sinh trùng và chống nhiễm trùng các vết xây xát.
Cá giống được đóng trong túi nilon thì trước khi thả nên ngâm túi đựng cá vào trong nước ao khoảng 10 - 15 phút, để nhiệt độ trong túi nilon cân bằng với nhiệt độ môi trường nước ao nuôi, tạo điều kiện cho cá làm quen với môi trường sống mới. Khi thả mở miệng túi cho nước chảy từ từ vào để cá bơi tự nhiên ra.
Đối với cá giống được vận chuyển hở bằng ô tô quây bạt, trước khi thả giống cần cân bằng môi trường giữa nước ao với môi trường nước trên xe bằng cách vừa xả bớt nước trên thùng ra, đồng thời cấp thêm nước ở ao nuôi vào để cá
không bị sốc môi trường, sau đó mới tiến hành thả cá từ từ.
Thức ăn
Thức ăn sử dụng cho cá nuôi lồng bè hiện nay chủ yếu là thức ăn công nghiệp. Dùng thức ăn công nghiệp dạng viên nổi và không tan trong nước sẽ hạn chế sự thất thoát thức ăn và giảm thiểu ô nhiễm nước. Sử dụng thức ăn công nghiệp có hàm lượng đạm ≥ 30%.
Thứ c ăn công nghiệp được phép lưu hành tại Việt Nam; đảm bảo tiêu chuẩn, chất lượng theo quy định. Không cho cá ăn thức ăn bị mốc hay ôi thiu, quá hạn sử dụng sẽ dễ gây ngộ độc cho cá.
Cho cá ăn với khẩu phần từ 2 - 7%
trọng lượng thân, tùy vào loại thức ăn và trọng lượng cá nuôi.
Ngoài ra, có thể dùng thức ăn tự chế
biến cho cá ăn để giảm chi phí. Tuy nhiên, trong quá tình chế biến cần phải nắm vững nhu cầu dinh dưỡng của từng loại cá, đặc biệt là nhu cầu dinh dưỡng từng giai đoạn phát triển của chúng. Việc sử dụng các thành phần nguyên liệu có hàm lượng tinh bột nhiều như cám, tấm, sắn/ mì phải ở mức độ vừa phải tùy theo nhu cầu sử dụng của cá, dùng quá nhiều cá sẽ không tiêu hóa hết lượng thức ăn, gây ô nhiễm môi trường nuôi.
Định kỳ bổ sung Vitamin C, khoáng chất, men tiêu hóa vào thức ăn với liều lượng 5 - 10 g/kg thức ăn cho ăn liên tục 5 - 7 ngày để tăng sức đề kháng cho cá.
Cần giảm lượng thức ăn khi cá có hiện
tượng bắt mồi kém hay thời tiết thay đổi.
Trong quá trình nuôi cần theo dõi tăng
trưởng của cá để điều chỉnh lượng thức
ăn cho phù hợp. Định kỳ 15 ngày/lần kiểm tra tăng trưởng, trên cơ sở đó ước
lượng được khối lượng cá trong lồng từ
đó điều chỉnh lượng thức ăn cho cá.
Quan sát hoạt động bắt mồi của cá và mức độ ăn của cá để điều chỉnh lượng
thức ăn cho phù hợp. Vớt thức ăn cũ còn thừa trong lồng trước khi cho thức ăn mới.
Quản lý
Trong quá trình nuôi cá lồng, cần chú ý thường xuyên thay lưới lồng có mắt lưới phù hợp cho từng giai đoạn phát triển của cá; chuẩn bị các loại lưới ương, lưới nuôi cá các cỡ để san thưa cá; vừa đảm bảo vệ sinh lồng, kiểm tra số lượng cá và tạo môi trường thông thoáng cho cá phát triển.
Thường xuyên kiểm tra lồng, phát hiện các vết rách, rạn nứt để kịp thời khắc phục; loại bỏ rác trôi nổi và các vật cứng vào khu vực lồng nuôi. Các hộ nuôi phải có phương án neo giữ lồng hoặc di chuyển lồng vào nơi an toàn khi có bão lũ xảy ra và nước chảy xiết. Nếu cá có dấu hiệu bỏ ăn, ăn ít hoặc dấu hiệu bệnh cần tìm hiểu nguyên nhân, đánh giá sơ bộ để có biện pháp phòng, trị phù hợp đối với từng loại bệnh như: bệnh do ký sinh trùng, do nấm, do vi khuẩn, virus.
Khi phát hiện thủy sản có dấu hiệu không bình thường, nghi ngờ nhiễm bệnh, hoặc có hiện tượng chết bất thường phải báo ngay cho cán bộ thý y xã/phường hoặc cán bộ thú y ncấp huyện, cấp tỉnh để xác định nguyên nhân và hướng dẫn biện pháp xử lý kịp thời.
Thu hoạch
Sau 4 - 5 tháng nuôi kiểm tra khi cá đạt kích cỡ thương phẩm (500 - 600 g/con) thu hoạch toàn bộ hoặc có thể tiến hành thu tỉa cá lớn, tiếp tục nuôi các cá nhỏ hơn và đến cuối vụ thu hoạch toàn bộ. Trước khi thu hoạch, giảm cho cá ăn 2 - 3 ngày và ngày cuối cùng ngừng cho ăn.
Thanh Hiếu
Thường xuyên kiểm tra lượng thức ăn để có điều chỉnh phù hợp Ảnh: NNT
Bảo vệ thủy sản nuôi mùa nóng
Trước diễn biến phức tạp của thời tiết, người nuôi cần chú trọng công tác chăm sóc, bảo vệ thủy sản để hạn chế thiệt hại.
Thủy sản là động vật thuộc nhóm
máu lạnh nên điều kiện nhiệt độ môi
trường nước ảnh hưởng rất nhiều
đến đời sống của chúng. Nhiệt độ nước tăng
cao ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe thủy sản; gây sốc, giảm sức đề kháng, ảnh hưởng tỷ lệ sống; tạo điều kiện thuận lợi cho các tác nhân gây bệnh như vi khuẩn và virus gây bệnh phát triển.
Đối với ao nuôi tôm Thường xuyên kiểm tra và duy trì các yếu tố môi trường trong ngưỡng thích hợp, giữ mực nước trong ao tối thiểu từ 1,3 - 1,5 m; tăng cường chạy quạt nước để tránh hiện tượng phân tầng nhiệt độ, bổ sung ôxy hòa tan; sử dụng chế phẩm sinh học để xử lý nước và đáy ao nuôi. Với những hộ có điều kiện, có thể đầu tư lưới che cách mặt nước từ 0,8 - 1 m nhằm giảm ánh nắng tác động trực tiếp lên ao nuôi. Luôn trữ sẵn nguồn nước chất lượng trong ao chứa nhằm cung cấp nước kịp thời cho ao nuôi.
Người nuôi cần cho tôm ăn với khẩu phần và chế độ phù hợp theo kích cỡ và mật độ nuôi, giảm từ 15 - 30% lượng thức ăn trong những ngày nắng nóng, đồng thời bổ sung Vitamin C, khoáng vi lượng, men tiêu hóa vào thức ăn cho tôm để tăng sức đề kháng.
Hạn chế dùng sàng, vó để kiểm tra tôm vào lúc nắng nóng để tránh khả năng tôm bị đục cơ và chết.
Khi nhiệt độ tăng cao kéo dài và kèm theo các trận mưa dông bất chợt, tảo phát triển nhiều và tàn nhanh nên tôm hay bị dịch bệnh đốm trắng và hoại tử gan tụy cấp tính. Vì vậy, để hạn chế sự phát triển của tảo, cần thay nước vào buổi tối và sử dụng chế phẩm sinh học để duy trì các yếu tố môi trường nước trong khoảng thích hợp. Trường hợp khi tảo phát triển quá dày, cần tăng cường chạy quạt nước, sử dụng vôi CaCO3 và CaO đánh xuống ao vào thời điểm 21 - 22h, kết hợp thay nước. Sau đó dùng chế phẩm sinh học để ổn định lại nước ao. Quản lý khí độc NH3, H2 S bằng cách dùng men vi sinh xử lý
Đối với nuôi ao cá nước ngọt
Luôn duy trì giữ mực nước ao nuôi từ 1,5 m trở lên. Nếu ao không đủ độ sâu, nguồn nước cấp khó khăn ta cần che phủ một phần diện tích ao (15% diện tích) để làm nơi trú ẩn, tránh nắng nóng cho đối tượng nuôi (bèo tây, lưới đen,…).
Nên giảm lượng thức ăn trong những ngày nắng nóng kéo dài, giảm vào bữa trưa và tăng cường cho ăn vào chiều mát. Bên cạnh đó cần bổ sung dinh dưỡng, vitamin các loại,… và các khoáng chất vào thức ăn để tăng sức đề kháng, chống stress, kích thích tiêu hóa sẽ giúp cá nuôi bắt mồi và tiêu hóa thức ăn tốt hơn (liều lượng theo chỉ dẫn của nhà sản xuất) trong thời gian từ 5 - 7 ngày liên tục. Nên cho cá ăn vào thời điểm mát trong ngày (sáng từ 7 - 8 giờ, chiều từ 17 - 18 giờ).
Có thể tăng cường ôxy cho cá bằng cách bổ sung thêm nước hoặc sử dụng chạy máy quạt nước hoặc máy bơm tạo mưa cho ao nuôi để tuần hoàn nước, tăng ôxy, giảm các khí độc trong ao nuôi.
Quản lý bùn đáy ao và chất lượng nước bằng chế phẩm sinh học, tránh để hiện tượng tảo tàn, tảo độc phát triển trong ao nuôi khi nhiệt
độ nước cao và nắng kéo dài.
Ngoài ra, khi có mưa lớn cần tiến hành xả nước tầng mặt, tăng cường sục khí đảo nước tránh hiện tượng phân tầng gây thiếu ôxy tầng đáy, phát sinh khí độc.
Đối với thủy sản nuôi lồng, bè trên sông
Người nuôi cần hạn chế thả mới. Không nên thả nuôi quá dày rất dễ phát sinh dịch bệnh.
Thường xuyên vệ sinh lồng nuôi sạch sẽ và thông thoáng để lưu thông nước trong và ngoài lồng.
Theo dõi, kiểm tra sức khỏe thủy sản nuôi, vớt xác cá chết và chôn lấp.
Di chuyển lồng về nơi râm mát khi nắng nóng kéo dài. Nếu không di chuyển được cần hạ thấp lưới lồng, căng lưới mặt lồng để tránh thất thoát.
Đối với những nơi có hàm lượng vật chất hữu cơ nhiều thì cần đặt lồng nuôi cách đáy khoảng 1,5 - 2 m; bố trí khoảng cách giữa các lồng nuôi đảm bảo độ thông thoáng, thuận tiện trong quá trình chăm sóc, quản lý, vệ sinh lồng nuôi; khoảng cách giữa các bè nuôi tối thiểu 50 m. Không nên bố trí bè nuôi quá dày, cản trở dòng chảy, làm ôxy hòa tan vào nước trong bè nuôi cá giảm, cá nuôi sẽ bị nổi đầu do thiếu ôxy để hô hấp.
Cần giảm 50 - 70% lượng thức ăn hàng ngày hoặc ngừng cho ăn vào những ngày nắng nóng gay gắt. Chọn loại thức ăn có hàm lượng dinh dưỡng cao kết hợp với việc bổ sung Vitamin C, khoáng chất, chế phẩm sinh học để duy trì thủy sản nuôi trong giai đoạn nắng nóng gay gắt.
Tiến hành thu tỉa khi thủy sản nuôi đạt kích cỡ thu hoạch. Hạn chế đánh bắt, san thưa, vận chuyển, thả giống vào những ngày nắng nóng, thời điểm nắng nóng trong ngày.
Đối với nuôi ngao bãi triều
Tăng cường công tác quản lý vệ sinh mặt bãi, vây cọc, tránh để ngao bị dạt vào chân vây.
Người nuôi cần định kỳ kiểm tra, san bằng mặt bãi, khai thông vùng nước ở các bãi ngao nhằm tránh hiện tượng nước đọng cục bộ và giảm thiểu ảnh hưởng của sự chênh lệch nhiệt độ trong ngày làm ngao yếu và chết.
Vào thời điểm nắng nóng, đối với các bãi ngao nằm ở vùng cao triều, thời gian phơi bãi quá 4 giờ/ngày, thu gom xác ngao chết để hạn chế lây lan dịch bệnh.
Chủ động san thưa mật độ ngao nuôi cho hợp lý tùy theo từng giai đoạn nuôi đặc biệt chú trọng san thưa tại những bãi nuôi ở cao triều có thời gian phơi bãi quá 8h/ngày, có thể chuyển bớt sang nuôi ở bãi khác hoặc sàng lọc những cỡ ngao khác nhau để bán ra thị trường.
Sau khi thủy triều rút để lại lớp phù sa và vũng nước đọng. Cần rửa trôi lớp bùn và san phẳng mặt bãi, tránh tồn đọng những vũng nước vì vũng nước rất dễ hấp thụ nhiệt ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển của ngao.
Thu tỉa khi ngao đạt kích cỡ thu hoạch, đảm bảo mật độ nuôi phù hợp.
Người nuôi phải thường xuyên theo dõi diễn biến thời tiết trên các phương tiện thông tin đại chúng để chủ động các biện pháp quản lý môi trường, phòng, chống dịch bệnh cho các đối tượng nuôi. Tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ vùng, cơ sở nuôi, không nên nuôi tại những nơi nguồn nước không đảm bảo chất lượng. Thả giống với mật độ phù hợp và chăm sóc đúng kỹ thuật để hạn chế thiệt hại do nắng nóng và các hiện tượng thời tiết bất