Thủy sản VN tháng 7/2025

Page 1


Hội đồng Biên tập

Nguyễn Việt Thắng, Tiến sĩ

Dương Xuân Hùng, Trưởng Ban Biên tập

Đỗ Huy Hoàn, Nhà báo

Hoàng Hải Đăng, Thư ký Tòa soạn

Phạm Thu Hồng, Nhà báo

Dương Nam Anh, Nhà báo

Trần Anh Thư, Phóng viên

Trần Thị Kim Tiến, Phóng viên

Chủ nhiệm

Nguyễn Việt Thắng, Tiến sĩ

Phụ trách

Nguyễn Chu Hồi, Phó Giáo sư - Tiến sĩ

Chuyên gia

Phạm Anh Tuấn, Tiến sĩ

Trần Đình Luân, Tiến sĩ

Đào Trọng Hiếu, Tiến sĩ

Lê Văn Khoa, Tiến sĩ

Nguyễn Duy Hòa, Tiến sĩ

Nguyễn Khắc Bát, Tiến sĩ

Hồ Quốc Lực, Tiến sĩ

Lê Văn Quang, Chủ tịch Tập đoàn

Thủy sản Minh Phú

Mỹ thuật: Two Nguyễn

Trình bày: Phạm Dương

Kỹ thuật: Đăng Kiên

Hình ảnh: Dương Nghĩa

Đọc bản in: Anh Thư

Tòa soạn:

Điện thoại: 028.62777616

Email: toasoan@thuysanvietnam.com.vn

Lầu 2, Nhà B, 116 Nguyễn Đình Chiểu, P. Đa Kao, Q. 1, TP HCM

Văn phòng Hà Nội:

Điện thoại: 0243.7713699

Tầng 3, nhà A7, 10 Nguyễn Công Hoan, Ba Đình, Hà Nội

Phòng Quảng cáo:

Quảng cáo: 028.62777616

Email: nghia@thuysanvietnam.com.vn

Giấy phép xuất bản: 69/GP-BTTT

ISSN: 0866-8043

Nơi in: In tại Công ty TNHH MTV Lê Quang Lộc (TP HCM)

Giá bán: 50.000đ - Giá PDF: 10.000đ

Thư tòa soạn

Thưa quý vị bạn đọc,

Với vùng biển có đặc quyền kinh tế (EEZ) rộng trên 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền, tính đa dạng sinh học cao, Việt Nam có tiềm năng rất lớn để phát triển các hoạt động khai thác và nuôi trồng thủy sản trên biển.

Theo Cục Thủy sản và Kiểm ngư, tổng diện tích có tiềm năng nuôi biển ở nước ta đạt khoảng 500.000 ha (5.000 km2). Trong đó, vùng bãi triều rộng 153.300 ha; vùng vũng vịnh, eo ngách và ven đảo là 79.790 ha; vùng biển xa bờ đạt gần 167.000 ha, còn lại là các hình thức nuôi khác.

Việt Nam hiện có đủ điều kiện tự nhiên và kỹ thuật để trở thành một

cường quốc về nuôi biển – một trong những hướng phát triển mới, chủ đạo cho ngành thủy sản. Thực tế cho thấy, hoạt động này không chỉ đem lại giá trị kinh tế cao mà còn góp phần tạo nguồn cung nguyên liệu ổn

định cho xuất khẩu thủy sản, trở thành trọng điểm trong chiến lược phát triển nghề cá bền vững. Tuy nhiên, nghề nuôi biển nước ta hiện vẫn còn khá sơ khai. Những hộ ngư dân nuôi hải sản ở vùng ven bờ có quy mô nhỏ, manh mún, công nghệ thủ công lạc hậu, hiệu quả kinh tế chưa cao, thiếu tính bền vững. Bên cạnh đó, nhuyễn thể đang là sản phẩm chính trong cơ cấu sản lượng nuôi biển tại Việt Nam. Những loài có giá trị gia tăng cao hơn như cá biển, giáp xác, rong và tảo biển vẫn chưa được chú trọng khai thác và phát triển.

Ngày 04/10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định Phê duyệt Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trong đó, mục tiêu đến năm 2030 đạt hơn 1,45 triệu tấn sản lượng nuôi biển, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 1,8 – 2,0 tỷ USD.

Định hướng phát triển ngành nuôi biển của nước ta thời gian tới là phát triển nuôi biển công nghiệp với công nghệ tiên tiến, quy hoạch chặt chẽ, phương thức quản lý hiện đại; phát triển nuôi biển cả trên bờ, trong vùng biển ven bờ, xa bờ và ngoài khơi xa.

“Bứt phá trong nuôi biển” sẽ là chủ đề chính của Tạp chí Thủy sản Việt Nam phát hành trong tháng 07. Trên số báo này, Tạp chí sẽ thông tin tới bạn đọc những phân tích, góc nhìn chuyên sâu về nghề nuôi biển của

nước ta hiện nay. Từ đó, nhận diện khó khăn thách thức, đồng thời đưa ra những giải pháp tháo gỡ giúp nghề nuôi biển bứt phá trong tương lai gần, trở thành trụ cột ngành thủy sản.

Ngoài ra, Tạp chí Thủy sản Việt Nam số 07 còn cung cấp thông tin về tình hình sản xuất, thị trường thủy sản trong và ngoài nước; thức ăn dinh dưỡng; những mô hình nuôi trồng hiệu quả; cách phòng, chống dịch bệnh thủy sản; cùng các hoạt động của cộng đồng doanh nghiệp.

Trân trọng! Ban Biên tập

24

Kinh tế tuần hoàn và vai trò của ngành thủy sản

Đông Phong

Một số sản phẩm thủy sản sẽ được áp dụng thuế suất

Nuôi biển: Hiện trạng, lợi thế và thách thức

46

Chương trình “Chất lượng vàng Thủy sản Việt Nam

chính thức nhận hồ sơ

Mô hình nuôi tôm IMTA-RAS: Hướng đi bền vững cho nghề nuôi tôm công nghệ cao

Nguyễn Nhứt và Nguyễn Thanh Tùng

28

Không giao biển lâu dài, người nuôi không thể yên tâm đầu tư Thu Hồng

Trao quyền cho ngư dân trong phát triển kinh tế

Khách hàng C.P. Việt Nam

chinh phục kỷ lục: 15 con/kg cùng tôm giống CPF-Turbo G21

C.P. Việt Nam

động môi

trường từ chất thải thủy sản

Thùy Khánh

(phần 2)

Joao Sendao 40 Chinh phục đại dương: Cuộc đua nuôi biển ngoài khơi và cơ hội cho châu Á

Tuấn Minh

Nuôi biển qua góc nhìn doanh nghiệp

Xuân Trường

52

Thức ăn không bột cá, dầu cá: Tương lai cho ngành nuôi biển

Vũ Đức 54

Thức ăn tăng trưởng công nghệ cao: Giải pháp nâng chất lượng ấu trùng tôm

Dũng Nguyên

56

Cá rô phi 78: Cơ hội cho nông dân Hải Dương vươn ra thị trường lớn

Thùy Khánh

Ba giải pháp tăng tốc xuất khẩu cuối năm

Nhằm hoàn thành mục tiêu xuất khẩu 65 tỷ USD trong năm 2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã xác định 3 nhóm giải pháp trọng tâm để tăng tốc xuất khẩu trong nửa cuối năm. Thứ nhất, tiếp tục duy trì ổn định chuỗi cung ứng và đẩy mạnh phát triển các

ngành hàng có lợi thế như cà phê, hạt điều, thủy sản, gỗ và trái cây đặc sản – những mặt hàng còn nhiều dư địa tăng trưởng. Thứ hai, tận dụng tối đa các chính sách giãn thuế, chủ động điều chỉnh để cân bằng cán cân thương mại, nhất là với thị trường Hoa Kỳ. Thứ ba, thúc

đẩy xuất khẩu ngay từ đầu quý 3, tận dụng nhu cầu tăng cao dịp cuối năm và mùa lễ Tết ở các thị trường lớn như Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc... Bộ cũng yêu cầu các địa phương chủ động xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn, hoàn thiện mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói, đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu. Các doanh nghiệp cần linh hoạt chuyển hướng thị trường, tăng chế biến sâu để nâng cao giá trị và khả năng cạnh tranh trong bối cảnh chi phí logistics và thuế ngày càng gia tăng.

định không bán phá giá tại thị trường Mỹ. Sáu doanh nghiệp còn lại gồm Thủy sản Đại Thành, Hải sản Đông Á, Hùng Cá 6, Nam Việt, NTSF và XNK Thủy sản Cần Thơ đủ điều kiện nhận mức thuế riêng biệt và cũng được hưởng mức thuế 0%. Công ty CP Vĩnh Hoàn không có tên trong danh sách rà soát do đã được loại khỏi phạm vi áp thuế từ các kỳ sau năm 2025, theo thỏa thuận giữa Việt Nam và Mỹ kết thúc ngày 17/1/2025. Mức thuế toàn quốc của kỳ POR20 vẫn giữ ở 2,39 USD/kg với các doanh nghiệp khác. Việc nhiều doanh nghiệp được hưởng mức thuế 0% là tín hiệu tích cực cho ngành cá tra Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh Mỹ là thị trường xuất khẩu trọng điểm.

Hai kịch bản xuất khẩu thủy sản

cuối năm

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) cảnh báo, triển vọng xuất khẩu thủy sản nửa cuối năm 2025 phụ thuộc hoàn toàn vào chính sách thuế đối ứng của Mỹ, đặc biệt với ngành tôm – mặt hàng đang

đối mặt nguy cơ “thuế chồng thuế” gồm: Thuế đối ứng, thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp. Theo VASEP, hai kịch bản đã được đưa ra: Kịch bản 1: Nếu thuế đối ứng của Mỹ sau

ngày 9/7 chỉ ở mức 10%, kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2025 dự báo đạt khoảng 9,5 tỷ

USD, giảm 500 triệu USD so với dự báo trước đó. Các thị trường như Trung Quốc, EU, Nhật

Bản và ASEAN có thể phần nào hấp thụ lượng

hàng điều tiết từ thị trường Mỹ; Kịch bản 2:

Ngành nông nghiệp đặt mục tiêu thực hiện kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đạt 65 tỷ USD trong năm 2025 Ảnh: ST Xung đột Israel–Iran từ giữa tháng 6/2025 tạo ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Trung Đông Ảnh: Aalarabiya

Nếu thuế vượt 10%, thậm chí lên tới 46%, xuất

khẩu thủy sản có thể giảm mạnh xuống còn

9 tỷ USD hoặc thấp hơn. Khi đó, Mỹ sẽ không

còn là thị trường ổn định, nhất là với các mặt hàng có chuỗi cung ứng phức tạp như tôm.

gần gấp đôi so với năm 2020. Theo VASEP, 5 tháng đầu năm nay, xuất khẩu thủy sản sang Trung Đông đạt 130 triệu USD, giảm 12% do bất ổn leo thang. Đặc biệt, hai mặt hàng chủ lực là cá ngừ và cá tra - chiếm tới 70% thị phần - đang chịu áp lực nặng nề. Ba tác động lớn hiện nay gồm: Cước vận tải và bảo hiểm tăng do gián đoạn tại tuyến hàng hải Suez; thủ tục logistics tại các nước như Ai Cập, UAE trì trệ; giá dầu và chi phí sản xuất tăng cao khiến biên lợi nhuận doanh nghiệp co hẹp. Các doanh nghiệp nhỏ càng khó duy trì đơn hàng dài hạn. Tuy nhiên, VASEP nhận định vẫn có cơ hội nếu xử lý linh hoạt. Giải pháp là mở rộng sản phẩm chế biến sâu đạt chuẩn Halal, tăng số nhà máy đạt chứng nhận tại các nước Hồi giáo lớn, mở rộng thị trường sang các quốc gia mới nổi như Jordan, Pakistan... Chính phủ Việt Nam cũng đã vào cuộc, chỉ đạo khẩn ứng phó và hỗ trợ doanh nghiệp thông qua xúc tiến thương mại, hỗ trợ logistics và cải cách thủ tục.

Quảng Ninh

7 doanh nghiệp cá tra được Mỹ áp thuế 0%

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), Bộ Thương mại Mỹ (DOC) vừa công bố kết quả cuối cùng của đợt rà soát hành chính lần thứ 20 (POR20) đối với phi lê cá tra đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam, áp dụng cho giai đoạn từ 1/8/2022 đến 31/7/2023. Kết quả cho thấy có 7 doanh nghiệp Việt Nam được áp thuế chống bán phá giá 0%. Trong đó, Công ty TNHH Thủy sản Biển Đông và Công ty CP Thủy sản Biển Đông Hậu Giang được xác

Trong khi đó, ngành cá tra lạc quan hơn khi 7 doanh nghiệp Việt Nam được áp thuế chống bán phá giá 0% trong kỳ rà soát POR20. Nếu kiểm soát tốt thuế đối ứng, cá tra có thể tận dụng cơ hội bứt phá cuối năm.

Xung đột Trung Đông tác động mạnh tới thủy sản Việt Nam

Xung đột Israel - Iran từ giữa tháng 6/2025 đã tạo ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Trung Đông - khu vực từng

USD, tăng

Tiêu hủy gần 17 tấn ngao, hàu không rõ nguồn gốc Đội Quản lý thị trường số 1 tỉnh Quảng Ninh vừa phát hiện, thu giữ và tiêu hủy gần 17 tấn ngao và hàu sữa không rõ nguồn gốc, trị giá hơn 670 triệu đồng. Cụ thể, rạng sáng 28/6, lực lượng chức năng kiểm tra xe ô tô BKS 22C078.92 do ông N.Q.T (quê TP. Hải Phòng) điều khiển, phát hiện trên xe chở 9.100 kg ngao loại 11 - 13 con/kg không có giấy tờ hợp pháp. Tiếp đó, sáng 29/6, xe ô tô BKS 34C-076.44 do ông N.V.M (quê Lạng Sơn) điều khiển bị kiểm tra và phát hiện chở 7.660 kg hàu sữa loại 10 - 12 con/ kg cũng không có chứng từ, nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Theo khai báo, toàn bộ số hàng được

Xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tăng hơn 14% trong

6 tháng đầu năm

6 tháng đầu năm 2025, tổng giá trị xuất nhập khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam đạt khoảng 57 tỷ USD. Trong đó, xuất khẩu ước đạt 33,5 tỷ USD, tăng 14,3% so với cùng kỳ năm 2024; nhập khẩu ước đạt 23,5 tỷ USD, tăng 12,8%. Riêng ngành thủy sản ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng với kim ngạch xuất khẩu

đạt khoảng 5 tỷ USD, tăng 14,5%. Nông sản tiếp tục giữ vai trò chủ lực với giá trị xuất khẩu đạt 18,3 tỷ USD, tăng 16,8%; lâm sản đạt 8,7 tỷ USD, tăng 8,8%; chăn nuôi đạt 264 triệu USD, tăng 10,1%. Trong 11 nhóm mặt hàng chủ lực, có 9 nhóm giữ vững đà tăng trưởng như cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều, thủy sản, chăn nuôi và gỗ. Tuy nhiên, gạo và rau quả lại giảm mạnh: gạo giảm 9,8%, rau quả giảm 17,1%. Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết sẽ tiếp tục giữ vững thị trường truyền thống, chuyển hướng thị trường tiềm năng và tăng tốc xuất khẩu trong nửa cuối năm, phấn đấu đạt mục tiêu kim ngạch 65 tỷ USD trong năm 2025.

mua trôi nổi gần khu vực biên giới, đóng trong sọt và túi lưới để đưa vào thị trường nội địa tiêu thụ. Đội Quản lý thị trường số 1 đang tiếp tục hoàn tất hồ sơ xử lý theo quy định, đồng thời tiến hành tiêu hủy toàn bộ lô hàng vi phạm.

Thanh Hóa

Quyết liệt siết chặt quản lý tàu cá

Hưởng ứng Chỉ thị 32-CT/TW về chống khai thác IUU, tỉnh Thanh Hóa đang triển khai đồng bộ các biện pháp siết chặt quản lý tàu cá nhằm thực hiện mục tiêu gỡ “thẻ vàng” của Ủy ban Châu Âu (EC). Từ đầu năm 2025 đến nay, tỉnh đã tổ chức ba đợt kiểm tra lớn, xử phạt 79 tàu cá vi phạm với tổng số tiền trên 880 triệu đồng. Thanh Hóa hiện có 6.603 tàu cá, trong đó 1.062 tàu dài từ 15m trở lên – nhóm phải bắt buộc gắn thiết bị giám sát hành trình (VMS). Đến tháng 6/2025, chỉ còn 6 tàu chưa gắn VMS vì lý do khách quan. Ngoài ra, tỉnh cũng theo dõi 497 tàu có dấu hiệu mất tín hiệu hoặc mất kết nối GSHT quá thời gian quy định. Thanh Hóa đang chủ động phối hợp với các tỉnh lân cận để kiểm soát tàu vi phạm, đẩy mạnh số hóa dữ liệu nghề cá và tuyên truyền đến ngư dân. Tuy nhiên, tỉnh vẫn đối mặt nhiều thách thức như: hạ tầng cảng cá còn thiếu

đồng bộ, hệ thống truy xuất nguồn gốc chưa hoàn chỉnh, tình trạng tàu nằm bờ và chưa cập nhật giấy tờ vẫn còn. Lãnh đạo ngành

nông nghiệp địa phương khẳng định sẽ tiếp tục kiểm tra sát sao, xử lý quyết liệt, đảm bảo 100% tàu cá được giám sát qua VMS và tuân thủ quy định cập cảng, góp phần thực chất vào mục tiêu “gỡ thẻ vàng” IUU.

Quảng Nam (nay là TP Đà Nẵng) Xử phạt hơn 6 tỷ đồng vi phạm thủy sản

Trong 6 tháng đầu năm 2025, tỉnh Quảng Nam (nay là TP Đà Nẵng) đã xử phạt hơn 6 tỷ đồng đối với 22 vụ vi phạm hành chính trong lĩnh vực thủy sản, chủ yếu liên quan đến hành vi khai thác bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU). Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh, phần lớn vi phạm là do không lắp đặt hoặc mất kết nối thiết bị giám sát hành trình (VMS), chiếm hơn 54% tổng số vụ, với mức xử phạt trên 2,45 tỷ đồng. Ngoài ra, có 8 vụ vi phạm nghiêm trọng khác liên quan đến khai thác sai quy định, bị xử phạt hơn 3,2 tỷ đồng. Một số trường hợp bị xử lý do vi phạm đồng thời nhiều hành vi như khai thác ngoài vùng được phép, không ghi nhật ký, hoặc chuyển tải không đúng quy định. Đáng chú ý, 21 thuyền trưởng bị tước quyền sử dụng chứng chỉ từ 7,5 đến 10,5 tháng. Công tác thu hồi tiền phạt đạt hiệu quả cao, với 98,5% số tiền đã được nộp. Tỉnh sẽ tiếp tục tăng cường kiểm tra, đặc biệt với nhóm tàu câu mực hoạt động gần vùng biển Philippines, góp phần thực

hiện nghiêm cam kết với quốc tế trong nỗ lực gỡ “thẻ vàng” IUU.

Cà Mau Trung tâm thủy sản quốc gia tương lai

Với chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, tỉnh Cà Mau đang tiến từng bước vững chắc để trở thành trung tâm thủy sản quốc gia. Đặc biệt, chủ trương sáp nhập Cà Mau và Bạc Liêu – hai địa phương đầu tàu ngành thủy sản –không chỉ nhận được sự đồng thuận của người dân mà còn mở ra không gian phát triển mới cho vùng cực Nam. Hiện, Cà Mau dẫn đầu cả nước với 280.000 ha nuôi tôm, nổi bật với các mô hình tôm – rừng, tôm – lúa, tôm siêu thâm canh. Trong khi đó, Bạc Liêu được xác định là trung tâm công nghiệp ngành tôm, có bờ biển dài 56 km và vùng đặc quyền kinh tế rộng trên 20.000 km². Khi hợp nhất, tỉnh Cà Mau mới sẽ sở hữu gần 450.000 ha nuôi trồng, khai thác thủy hải sản; sản lượng ước đạt 570.000 tấn/ năm và kim ngạch xuất khẩu vượt 2,3 tỷ USD. Ngoài thủy sản, địa phương còn có tiềm năng lớn về du lịch, năng lượng tái tạo và hàng hải. Theo lãnh đạo tỉnh, đây là cơ hội để địa phương tăng tốc, khẳng định vị thế dẫn đầu cả nước về xuất khẩu thủy sản và nâng tầm thương hiệu tôm Cà Mau trên thị trường quốc tế.

Bình An

Nga Cắt giảm mạnh xuất khẩu cá sang châu Âu vào năm 2030

Nga sẽ giảm một nửa lượng cá xuất khẩu sang Liên minh châu Âu (EU) vào năm 2030, chuyển dần trọng tâm sang các “quốc gia thân thiện”, theo ông German Zverev – Chủ tịch

Hiệp hội các nhà sản xuất thủy sản toàn Nga (VARPE). Ông cho biết, giai đoạn 2021-2022, EU chiếm khoảng 14% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Nga, nhưng tỷ lệ này sẽ giảm còn 8% vào năm 2030. Việc chuyển hướng thị trường đang được thực hiện từng bước trong giai đoạn 2022-2025, song đối mặt nhiều thách thức như đàm phán hợp đồng mới và tìm kiếm đối tác. Ông Zverev nhấn mạnh, các lệnh trừng phạt từ EU đã làm hàng thủy sản Nga mất lợi thế cạnh tranh về giá, từ đó ảnh hưởng tiêu cực

đến ngành chế biến thủy sản châu Âu.

Mỹ

USDA mời thầu mua cá đáy và tôm

hồng theo Chương trình Section 32

Ngày 16/6/2025, Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) phát động mời thầu cung cấp cá đáy Đại Tây Dương và tôm hồng Thái Bình Dương thương mại, thuộc Chương trình Section 32

– sử dụng ngân sách liên bang để thu mua nông sản phục vụ các chương trình hỗ trợ dinh dưỡng. Cá đáy phải được giao từ 16/8/2025

đến 15/4/2026, trong khi tôm hồng giao trong khoảng 1/8-31/10/2025.

Ecuador

Thí điểm chương trình “Lương đủ sống” trong ngành tôm

Tổ chức Đối tác Tôm Bền vững (SSP) vừa phối hợp cùng IDH triển khai chương trình thí điểm đảm bảo lương đủ sống cho người lao động tại các trang trại tôm thành viên ở Ecuador. Sáng kiến chính thức khởi động ngày 11/6 tại Guayaquil, nhằm thiết lập chuẩn mực mới về trách nhiệm xã hội trong ngành tôm. Thông qua công cụ Salary Matrix – nền tảng số áp dụng phương pháp Anker – các doanh nghiệp có thể so sánh mức lương hiện tại với mức lương đủ sống tại địa phương để xác định chênh lệch và điều chỉnh phù hợp. Giám đốc SSP, bà Pamela Nath, khẳng định chương trình sẽ cung cấp bằng chứng cụ thể về cam kết phúc lợi người

Ảnh: Oanh Thảo

lao động, đồng thời truyền cảm hứng để toàn ngành nâng cao chuẩn mực xã hội. Lãnh đạo ngành tôm Ecuador khẳng định sáng kiến phù hợp với quy định trong nước và quốc tế, góp phần đưa Ecuador trở thành hình mẫu về tiêu chuẩn xã hội trong nuôi trồng thủy sản.

Na Uy

Lấy ý kiến công chúng về quy định mới thúc đẩy nuôi biển xa bờ

Chính phủ Na Uy đang lấy ý kiến cho đề xuất sửa đổi quy định phân bổ vùng nuôi cá hồi, nhằm thúc đẩy phát triển nuôi biển xa bờ - lĩnh vực được xem là hướng đi chiến lược của ngành thủy sản. Theo Bộ Thủy sản và Đại dương, thay vì cấp phép đơn lẻ như hiện nay, đề xuất mới sẽ cho phép phân bổ vùng quy mô lớn, yêu cầu doanh nghiệp lập kế hoạch tổng thể từ xây dựng đến vận hành và tháo dỡ hệ thống nuôi, đảm bảo phát triển dài hạn, an toàn sinh học và bền vững.

Malaysia Ứng dụng robot năng lượng mặt trời hiện đại hóa nuôi thủy sản

Các trại cá tại bang Pahang, Malaysia đang áp dụng AquaRover – robot năng lượng mặt trời do Đại học Malaya phát triển nhằm nâng cao hiệu quả và tính bền vững trong nuôi trồng thủy sản. Thiết bị này được trang bị cảm biến theo dõi pH, nhiệt độ, nồng độ amoniac, giúp giám sát chất lượng nước, phòng bệnh và điều chỉnh khẩu phần ăn hợp lý. Ngoài ra, AquaRover còn tự động làm sạch bề mặt

CON SỐ & SỰ KIỆN

33,5 TỶ USD

Là tổng giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản 6 tháng đầu năm 2025, tăng 14,3% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, giá trị xuất khẩu thủy sản ước đạt 5 tỷ USD, tăng 14,5%.

4,55 TRIỆU TẤN

Là tổng sản lượng thủy sản trong 6 tháng đầu năm, tăng 3,1% so với cùng kỳ 2024. Trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 2,58 triệu tấn, tăng 4,9%; sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 1,97 triệu tấn, tăng 1,0%.

ao, giảm nhu cầu lao động thủ công. Hoạt động hoàn toàn bằng năng lượng mặt trời, robot giúp tiết kiệm chi phí và thân thiện với môi trường. Với khoản tài trợ 222.000 MYR (khoảng 52.000 USD), AquaRover đã được thử nghiệm thành công: Nước ao trong hơn, cá khỏe mạnh và hiệu quả sử dụng thức ăn được cải thiện. Sáng kiến còn được đưa vào trường học để truyền cảm hứng khoa học và bảo vệ môi trường, hướng tới nền nông nghiệp hiện đại, xanh và thông minh.

Peru

Tạm dừng khai thác mực khổng lồ sau khi đạt hạn ngạch

Bộ Sản xuất Peru (PRODUCE) vừa ban hành Nghị quyết số 00112-2025, chính thức kết thúc hoạt động khai thác mực khổng lồ (Dosidicus gigas) từ 0h ngày 21/6/2025. Quyết định được đưa ra sau khi sản lượng khai thác đạt mức tối đa cho phép (LMCTP) là 304.209 tấn, theo hạn ngạch do Bộ trưởng phê duyệt cho giai đoạn 1/1 đến 31/8/2025. Việc dừng khai thác được Tổng cục Giám sát và Xử phạt đề xuất, dựa trên dữ liệu xác minh và quy định trong Luật Thủy sản Peru, nhằm bảo vệ nguồn lợi quốc gia và đảm bảo khai thác bền vững. Sau khi kết thúc, các tàu có giấy phép rời cảng trước thời điểm trên vẫn được phép cập bến để dỡ hàng. Nghị quyết do ông Daniel Hugo Collachagua Perez, Tổng cục trưởng, ký và công bố trên Cổng thông tin chính thức của Bộ Sản xuất.

Tuấn Minh

82.333 TÀU CÁ Là tổng số tàu cá trên cả nước tính đến ngày 18/4/2025. Trong đó, tàu dài từ 612m là 39.330 chiếc, từ 12 - 15m là 14.404 chiếc, từ 15 - 24m là 26.095 chiếc và trên 24m 2.453 chiếc.

7,52%

Là mức độ tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm 2025 so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức cao nhất của 6 tháng đầu năm giai đoạn 2011 - 2025. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,84%

Kinh tế tuần hoàn và vai trò

của ngành thủy sản

Cục Thủy sản và Kiểm ngư đóng vai

trò quan trọng trong Kế hoạch hành

động quốc gia thực hiện kinh tế tuần

hoàn đến năm 2035 của Bộ Nông

nghiệp và Môi trường.

Kế hoạch này không chỉ thúc

đẩy phát triển bền vững mà còn tạo ra những mô hình kinh

tế tuần hoàn hiệu quả trong ngành thủy sản, góp phần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường.

Ngành thủy sản, một trong những trụ cột kinh tế của Việt Nam. Với sản lượng xuất khẩu thủy sản đạt hàng tỷ USD mỗi năm, ngành này không chỉ mang lại giá trị kinh tế mà còn đối mặt với những thách thức lớn về quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Vai trò tiên phong

Cục Thủy sản và Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiên phong trong việc xây dựng các mô hình sản xuất tuần hoàn, từ nuôi trồng, khai thác đến chế biến, nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường và tối ưu hóa chuỗi giá trị.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường đặt ra mục tiêu triển khai hiệu quả các nhiệm vụ được giao trong Quyết định 222/QĐTTg, đảm bảo sự đồng bộ và phù hợp với

chức năng của các đơn vị trực thuộc. Đối với ngành thủy sản, mục tiêu cụ thể là xây dựng các mô hình nuôi trồng và khai thác bền vững, áp dụng các giải pháp kinh tế tuần hoàn để quản lý chất thải, tái sử dụng phụ phẩm và tối ưu hóa tài nguyên nước.

Cục Thủy sản và Kiểm ngư được yêu cầu phối hợp chặt chẽ với các đơn vị liên quan để xây dựng các chương trình truyền thông, nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, từ đó nâng cao nhận thức và kỹ năng thực hành kinh tế tuần hoàn trong cộng đồng ngư dân và doanh nghiệp.

Yêu cầu đặt ra là các đơn vị, bao gồm Cục Thủy sản và Kiểm ngư, phải chủ động xây dựng kế hoạch chi tiết, huy động nguồn lực và đảm bảo tiến độ thực hiện. Sự phối hợp giữa các đơn vị trực thuộc Bộ với các

khuyến ngư và phát triển thị trường sẽ giúp thúc đẩy sản xuất sạch hơn, sử dụng hiệu quả tài nguyên và tạo ra các sản phẩm thân thiện với môi trường.

Ngành thủy sản Việt Nam được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng trong kế hoạch hành động. Các nhiệm vụ này tập trung vào việc xây dựng các mô hình sản xuất tuần hoàn, từ việc quản lý chất thải trong nuôi trồng thủy sản đến tái sử dụng phụ phẩm trong chế biến. Ví dụ, phụ phẩm từ chế biến tôm, cá như vỏ tôm, đầu cá, da cá đều có thể được chế biến thành các sản phẩm giá trị cao hay thức ăn chăn nuôi, phân bón hữu cơ hoặc các sản phẩm sinh học, thay vì bị thải ra môi trường gây ô nhiễm.

Cục Thủy sản và Kiểm ngư cũng được giao nhiệm vụ nghiên cứu và triển khai các chương trình khuyến ngư, tập trung vào việc hướng dẫn ngư dân áp dụng các phương pháp nuôi trồng bền vững, sử dụng tài nguyên nước hiệu quả và quản lý chất thải theo mô hình tuần hoàn. Các mô hình thí điểm về quản lý chất thải trong nuôi trồng thủy sản sẽ được triển khai từ năm 2025 đến 2035, với mục tiêu tạo ra các chuỗi giá trị khép kín, giảm thiểu tác động môi trường và nâng cao giá trị kinh tế.

Xây dựng khung hướng dẫn

Cục Thủy sản và Kiểm ngư sẽ phối hợp với Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường để xây dựng khung hướng dẫn áp dụng kinh tế tuần hoàn trong ngành thủy sản. Khung hướng dẫn này sẽ bao gồm các tiêu chí cụ thể về thiết kế sinh thái, quản lý vòng đời sản phẩm và sử dụng nguyên liệu tái chế, từ đó hỗ trợ các doanh nghiệp thủy sản trong việc chuyển đổi sang mô hình sản xuất bền vững.

Trong giai đoạn 2025 – 2030, Cục Thủy sản và Kiểm ngư được phân công chủ trì và phối hợp trong nhiều nhiệm vụ cụ thể, được nêu chi tiết trong Phụ lục kèm theo Quyết định 2109/QĐ-BNNMT. Một trong những nhiệm vụ quan trọng là nghiên cứu và triển khai các mô hình thiết kế sinh thái trong nuôi trồng và khai thác thủy sản, đảm bảo đạt các tiêu chí của kinh tế tuần hoàn với sự

tham gia của các cơ quan, tổ chức liên quan và các địa phương ven biển.

Cục Thủy sản và Kiểm ngư cũng chịu trách nhiệm xây dựng các chương trình truyền thông và phổ biến kiến thức về kinh tế tuần hoàn, hướng tới đối tượng là ngư dân, doanh nghiệp chế biến và các cơ sở sản xuất. Các tài liệu truyền thông sẽ tập trung vào việc nâng cao nhận thức về lợi ích của kinh tế tuần hoàn, từ việc giảm chi phí sản xuất đến bảo vệ môi trường biển. Đồng thời, Cục sẽ phối hợp với Trung tâm Khuyến nông quốc gia để lồng ghép các nội dung kinh tế tuần hoàn vào các chương trình khuyến ngư, đảm bảo ngư dân được tiếp cận với các thực hành tốt nhất.

Một nhiệm vụ khác là nghiên cứu và thí điểm các giải pháp kinh tế tuần hoàn trong quản lý tài nguyên nước và khai thác thủy sản. Ví dụ, các mô hình nuôi trồng thủy sản tuần hoàn, sử dụng hệ thống lọc nước khép kín, sẽ được triển khai để giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước và tái sử dụng tài nguyên. Nghiên cứu

các công nghệ mới, hỗ trợ đổi mới sáng tạo trong ngành thủy sản, từ đó thúc đẩy

các hệ sinh thái khởi nghiệp liên quan

đến kinh tế tuần hoàn. Mục tiêu chiến lược Kế hoạch thực hiện kinh tế tuần hoàn của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, với sự tham gia tích cực của Cục Thủy

các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan nghiên cứu khoa học, địa phương và cộng đồng ngư dân, doanh nghiệp, không chỉ góp phần thực hiện các mục tiêu quốc gia mà còn tạo ra những thay đổi tích cực trong ngành thủy sản. Việc áp dụng các mô hình tuần hoàn sẽ giúp ngành thủy sản giảm thiểu tác động môi trường, tối ưu hóa tài nguyên và nâng cao giá trị kinh tế. Trong giai đoạn 2025-2035, ngành thủy sản được kỳ vọng sẽ trở thành một trong những lĩnh vực tiên phong trong việc thực hiện kinh tế tuần hoàn.

Với sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị trực thuộc Bộ và các đối tác quốc tế, Cục Thủy sản và Kiểm ngư sẽ tiếp tục đóng vai trò đầu tàu, đưa ngành thủy sản tiến gần hơn đến mục tiêu phát triển bền vững, thân thiện với môi trường và hiệu quả kinh tế cao. Kế hoạch này là cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc xây dựng một nền kinh tế xanh, tuần hoàn và bền vững.

Một số sản phẩm thủy sản sẽ được áp dụng thuế suất 0%, 5%

Ngày 1/7/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định 181/2025/NĐCP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng. Đối tượng áp dụng của Nghị định này bao gồm: Người nộp thuế; cơ quan quản lý thuế; các tổ chức, cá nhân khác có liên quan.

Theo đó, Nghị định này quy định chi tiết về người nộp thuế tại khoản 1, 4 và khoản 5 Điều 4 và người nộp thuế trong trường hợp nhà cung cấp nước ngoài cung cấp dịch vụ cho người mua là tổ chức kinh doanh tại Việt Nam áp dụng phương pháp khấu trừ thuế quy định tại khoản 4 Điều 4, đối tượng không chịu thuế tại Điều 5, giá tính thuế tại Điều 7, thời điểm xác định thuế giá trị gia tăng tại khoản 2 Điều 8, thuế suất tại khoản 1, 2 Điều 9, phương pháp khấu trừ thuế tại Điều 11, phương pháp tính trực tiếp tại khoản 1 Điều 12, khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào tại Điều 14 và hoàn thuế giá trị gia tăng tại Điều 15 của Luật Thuế giá trị gia tăng.

Đối tượng không chịu thuế

Trong lĩnh vực thủy sản, đối tượng không chịu thuế thực hiện theo quy định tại Điều 5

Luật Thuế giá trị gia tăng. Một số trường hợp được quy định chi tiết như sau: Sản phẩm thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của tổ chức, cá nhân tự sản xuất, đánh bắt bán ra và ở khâu nhập khẩu.

Trong đó, các sản phẩm chỉ qua sơ chế thông thường là các sản phẩm mới được làm sạch, phơi, sấy khô, bóc vỏ, cắt, xay, chia tách ra từng phần, bỏ xương, băm, lột da, nghiền, ướp muối, đóng hộp kín khí, bảo quản lạnh (ướp lạnh, đông lạnh), bảo quản bằng khí sunfuro, bảo quản theo phương thức cho hóa chất để tránh thối rữa, ngâm trong dung dịch lưu huỳnh hoặc ngâm trong dung dịch bảo quản khác và các hình thức bảo quản thông thường khác. Trường hợp không xác định được thì Bộ Nông nghiệp và Môi trường có trách nhiệm căn cứ vào quy trình sản xuất sản phẩm thủy sản nuôi trồng, đánh bắt do người nộp thuế cung cấp để xác định là sản phẩm chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc

đồng bán, gia công hàng hóa xuất khẩu (đối

với trường hợp bán, gia công); hợp đồng ủy thác xuất khẩu (đối với trường hợp ủy thác xuất khẩu). Chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa xuất khẩu. Tờ khai hải quan theo quy định.

Đối với dịch vụ xuất khẩu phải có: Hợp

đồng cung cấp dịch vụ với tổ chức, cá nhân

ở nước ngoài hoặc ở trong khu phi thuế quan.

Chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối với dịch vụ xuất khẩu.

Đối với dịch vụ của ngành hàng hải, phải có: Hợp đồng cung cấp dịch vụ với tổ chức

ở nước ngoài, người đại lý tàu biển hoặc yêu cầu cung cấp dịch vụ của tổ chức ở nước ngoài hoặc người đại lý tàu biển. Chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt của tổ chức ở nước ngoài hoặc có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt của người đại lý tàu biển cho cơ sở kinh doanh cung cấp dịch vụ. Riêng đối với dịch vụ sửa chữa tàu biển cung cấp cho tổ chức, cá nhân nước ngoài, để được áp dụng thuế suất 0%, tàu biển đưa vào Việt Nam phải làm thủ tục tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu theo quy định.

Mức thuế suất 5%

Tàu khai thác thủy sản tại vùng biển; máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Trong đó, máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất thủy sản, như: máy sơ chế, máy sấy nông sản, thủy sản và các loại máy chuyên dùng khác.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính hướng dẫn các loại máy chuyên dùng khác phục vụ cho sản xuất nông nghiệp thuộc đối tượng áp dụng mức thuế suất 5% theo quy định tại khoản này.

Ngoài ra, Nghị định 181/2025/NĐ-CP cũng quy định chi tiết: Nguyên tắc xác định giá tính thuế giá trị gia tăng; Phương pháp tính thuế; Phương pháp khấu trừ thuế; Điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu; Giá tính thuế đối với hàng hóa, dịch vụ bán ra và hàng hóa nhập khẩu; Giá tính thuế đối với hàng hóa, dịch vụ dùng để trao đổi, tiêu dùng nội bộ, biếu, tặng, cho và hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại; Giá tính thuế đối với dịch vụ do tổ chức nước ngoài, cá nhân ở nước ngoài cung cấp; Thời điểm xác định thuế giá trị gia tăng đối

Đối với lĩnh vực thủy sản, Điều 19 - Mức thuế suất 5% áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ quy định tại khoản 2 Điều 9 Luật Thuế giá trị gia tăng, một số trường hợp được quy định chi tiết như sau: Sản phẩm thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường, trừ sản phẩm quy định tại khoản 1 Điều 4 của Nghị định này về đối tượng không chịu thuế. Mủ cao su dạng mủ cờ rếp, mủ tờ, mủ bún, mủ cốm; lưới, dây giềng và sợi để đan lưới đánh cá. Trong đó, lưới, dây giềng và sợi để đan lưới đánh cá bao gồm các loại lưới đánh cá, các loại sợi, dây giềng loại chuyên dùng để đan lưới đánh cá không phân biệt nguyên liệu sản xuất.

với hàng hóa xuất khẩu, hàng hóa nhập khẩu; Hoàn thuế

với hàng hóa, dịch vụ

trị gia tăng 5%...

khoản chuyển tiếp Quy định tại khoản 3 Điều 37 Nghị định này (về việc Người bán đã kê khai, nộp thuế giá trị gia tăng theo quy định đối với hóa đơn đã xuất cho cơ sở kinh doanh đề nghị hoàn thuế): Áp dụng cho kỳ tính thuế từ tháng 7 năm 2025 hoặc quý 3 năm 2025.

Đối với dự án đầu tư đã

ngày 1/7/2025 mà vẫn đang trong giai đoạn đầu tư kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thì được áp

gia tăng 5% quy định tại Điều 31 Nghị định này áp dụng đối

Không giao biển lâu dài, người nuôi không

Với diện tích trên 1 triệu km2 mặt nước

biển, Việt Nam có triển vọng rất lớn

trong phát triển lĩnh vực nuôi biển. Tuy

nhiên, sau nhiều năm triển khai, nuôi

biển vẫn chưa có nhiều dấu hiệu bứt phá. Làm thế nào để đưa lĩnh vực này

trở thành mũi nhọn trong phát triển thủy

sản của tương lai luôn là một trăn trở

lớn. Vậy khó khăn vướng mắc của nuôi

biển hiện nay là gì và tháo gỡ như thế nào? Để trả lời câu hỏi này, hãy cùng

Tạp chí Thủy sản Việt Nam lắng nghe chia sẻ của PGS.TS. Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam.

Phóng viên: Thưa ông, lĩnh vực nuôi biển của nước ta hình thành từ khá sớm và có rất nhiều thế mạnh phát triển. Ông đánh giá thế nào về tiềm năng đó? PGS.TS. Nguyễn Hữu Dũng: Liên

Hợp Quốc xác định thế kỷ XXI là thế kỷ của biển cả và đại dương, trong đó mục tiêu cao nhất là nhân loại sẽ phát triển mạnh sự nghiệp canh tác biển và đại dương - cánh đồng cuối cùng của hành tinh.

Việt Nam đã thiết lập nền tảng vững chắc để phát triển bền vững nuôi biển, từ luật đến nghị định và các quy hoạch mang tính chiến lược cấp quốc gia. Những văn bản tổng thể, tích hợp đa ngành, mang tính khung, động và mở, nhằm dẫn dắt, cụ thể hóa các chủ trương, định hướng của Đảng, pháp luật của Nhà nước để xây dựng Việt Nam thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn.

Tiềm năng nuôi biển của nước ta là rất lớn. Theo FAO, với công nghệ hiện nay, các quốc gia có thể nuôi cá biển hữu

hiệu trên 0,1% diện tích vùng đặc quyền kinh tế, với năng suất bình quân có thể đạt 9.900 đến 11.200 tấn/km2 /năm (trung bình 100 tấn/ha/năm). Theo cách tính đó, với công nghệ hiện nay, Việt Nam có thể nuôi cá biển trên diện tích 1.000 km2, đạt sản lượng 10 triệu tấn cá mỗi năm. Cá biển nuôi có giá thấp nhất khoảng 4,5 - 5,0 USD/kg, nghĩa là cao gấp 4 - 5 lần cá tra. Nếu chỉ xuất khẩu thô thì 10 triệu tấn cá biển đã có thể thu về khoảng 45 - 50 tỷ USD, nghĩa là gấp gần 5 lần kim ngạch xuất khẩu thủy sản mỗi năm của nước ta hiện nay. Nếu chế biến sâu, tạo ra nhiều sản phẩm giá trị gia tăng - điều mà ngành chế biến thủy sản Việt Nam có thế mạnh hàng đầu trên thế giới - thì sẽ có thể đạt 60 - 70 tỷ USD/ năm. Đó là chưa kể hàng chục triệu tấn các loài sinh vật có giá trị cao khác, như các loài giáp xác, nhuyễn thể hai mảnh vỏ, rong biển, động vật đáy.

Phóng viên: Tuy nhiên, hiệu quả đến nay vẫn chưa đạt như kỳ vọng. Theo ông, đâu là nguyên nhân chính?

PGS.TS. Nguyễn Hữu Dũng: Vài chục năm qua, nuôi biển Việt Nam đã tự khởi phát, cả nước có khoảng 50.000 hộ ngư dân nuôi hải sản ở vùng ven bờ, với quy mô nhỏ, manh mún, công nghệ thủ công lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường, phát sinh dịch bệnh, hiệu quả kinh tế thấp và rất không bền vững. Việt Nam đang ở điểm khởi đầu của nuôi biển công nghiệp ở vùng xa bờ và đại dương, với nhiều thách thức.

Phát triển ngành công nghiệp nuôi biển vẫn đang vướng nhiều khó khăn, ách tắc. Có thể nêu một số điểm nghẽn đang cản trở việc thực hiện các chủ trương và chính sách nói trên như thiếu quy hoạch; thủ tục giao khu vực biển phức tạp; thiếu tiêu chuẩn và quy chuẩn. Cùng đó, nước ta hiện cũng chưa có cơ quan và thủ tục đăng kiểm cơ sở nuôi biển; chưa có bảo hiểm cho hoạt động nuôi biển; chưa có chính sách hỗ trợ nuôi biển. Chưa kể, đến nay, Việt Nam chưa có chương trình đào tạo nhân lực cho ngành công nghiệp nuôi biển, cả công nhân, trung cấp, cao đẳng, lẫn đại học.

Phóng viên: Trong các khó khăn ách tắc kể trên, điểm nghẽn lớn nhất là gì, và giải pháp tháo gỡ trong bối cảnh hiện nay là gì, thưa ông PGS.TS. Nguyễn Hữu Dũng: Qua theo dõi và trao đổi với ngư dân nhiều năm, tôi thấy điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thủ tục giao khu vực biển lâu dài cho dân. Không được giao biển lâu dài, ổn định thì người nuôi biển không có cơ sở pháp lý vững chắc và không thể yên tâm để đầu tư cơ sở nuôi biển bài bản, hiện đại.

Đối với đất, nếu chỉ giao quyền sử dụng 1 năm thì người dân chỉ dựng lều; giao 10 năm thì họ dựng nhà cấp 4; nhưng giao 50 năm thì họ xây nhà cao tầng ngay! Với quyền sử dụng khu vực biển, cũng tương tự như thế! Cho đến nay các địa phương chỉ tạm giao quyền sử dụng khu vực biển cho dân vài năm một, thì người dân chỉ làm bè nuôi bằng các vật liệu tận dụng, không thể đầu tư bài bản.

Hiện nay, thủ tục giao khu vực biển cho dân để nuôi biển thực hiện theo Nghị

định 11/2021/NĐ-CP, được điều chỉnh theo Nghị định 65/2025/NĐ-CP của

Chính phủ (trong đó có việc tăng thời

hạn giao biển cho nuôi trồng thủy sản từ

30 năm lên 50 năm), với một số thủ tục còn phiền phức, tốn nhiều thời gian của các người nuôi biển.

Trên tinh thần của “Bộ tứ Nghị quyết

Chiến lược” của Bộ Chính trị được ban

hành mới đây, các tỉnh cần nhanh chóng khắc phục điểm nghẽn này, theo các định hướng:

Một là, giao Sở Nông nghiệp và Môi trường là cơ quan duy nhất tiếp nhận hồ sơ, xin ý kiến của các cơ quan nhà nước hữu quan và trực tiếp thực hiện thủ tục giao biển cho tổ chức pháp nhân nuôi biển.

Hai là, xem xét bãi bỏ thủ tục báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các hoạt động nuôi biển ít có tác động xấu

đến môi trường, không tạo ra chất thải có hại, không sử dụng thức ăn (thí dụ: các loài nhuyễn thể, động vật đáy, trồng rong); quy định chủ đầu tư chỉ cần có cam kết bảo vệ môi trường, không cần báo cáo tác động môi trường. Ba là, xem xét áp dụng cách tính phí hợp lý cho việc sử dụng khu vực biển giao cho hợp tác xã và doanh nghiệp để nuôi thủy sản, bảo đảm nguyên tắc hợp lý, thực tế, hài hòa lợi ích giữa Nhà nước và ngư dân theo các nguyên tắc: Chỉ tính phí đối với phần diện tích thực tế được sử dụng để nuôi biển chứ không phải toàn bộ diện tích được giao; Quy định những mức phí khác nhau cho các vùng nuôi có điều kiện khác nhau, đối tượng nuôi khác nhau; Miễn phí một số năm đầu (thí dụ 5 năm), kể từ lúc giao khu vực biển. Bốn là, ban hành quy định về các điều kiện kỹ thuật cần thiết của các pháp nhân kinh tế để được giao quyền sử dụng khu vực biển lâu dài, bao gồm các điều kiện về tổ chức, đề án sản xuất kinh doanh, nhân lực và tài lực; ban hành quy chế xử lý vi phạm (nhắc nhở, cảnh cáo, thu hồi quyền sử dụng khu vực biển) đối với các pháp nhân vi phạm quy định bảo vệ môi trường, hệ sinh thái biển hoặc các quy định khác.

Năm là, ưu tiên giao biển cho các doanh nghiệp và hợp tác xã - hai thành

PGS.TS. Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam.

phần kinh tế trọng yếu, và là chủ thể tổ chức lại sản xuất để chuyển từ nuôi biển thủ công truyền thống sang nuôi biển thương mại bền vững. Sáu là, kiến nghị với Chính phủ về việc cấp “Sổ Xanh” xác nhận quyền sử dụng khu vực biển lâu dài cho các tổ chức, cá nhân được giao biển (tương tự như “Sổ Đỏ” đối với đất), và xây dựng Nghị định xác lập quyền tài sản đối với quyền sử dụng khu vực biển được giao dài hạn, giúp người nuôi biển chủ động hơn về tài chính.

Phóng viên: Vừa qua, Chính phủ đã ban hành quy định mới về giao khu vực biển cho ngành Nông nghiệp và Môi trường. Ông có thể phân tích thêm về ý nghĩa của quy định này trong phát triển lĩnh vực nuôi biển?

PGS.TS. Nguyễn Hữu Dũng: Trong năm 2025, Chính phủ rất quan tâm đến việc phát triển kinh tế biển, nhất là nuôi biển. Ngày 12/3/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 65/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số 40/2016/ NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên, môi trường biển, hải đảo và Nghị định số 11/2021/ NĐ-CP quy định việc giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển.

Ngày 19/6/2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã ban hành Thông tư số 10/2025/TT-BNNMT có hiệu lực từ ngày 01/7/2025, hướng dẫn thực hiện Nghị định 131/2025/NĐ-CP và Nghị định 136/2025/NĐ-CP, với trọng tâm là đẩy mạnh phân quyền, phân cấp cho địa phương.

Thông tư đánh dấu bước tiến lớn trong việc hợp thức hóa mô hình quản lý cộng đồng trong bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản. Đây là lần đầu tiên mô hình “đồng quản lý” được đưa vào văn bản dưới luật với tính pháp lý rõ ràng.

Với định hướng phân cấp sâu, minh

bạch hóa thủ tục và tăng cường vai trò

của cộng đồng, Thông tư số 10/2025

được kỳ vọng sẽ mở ra cách tiếp cận

mới trong quản lý ngành thủy sản. Việc trao quyền đúng chỗ, từ cấp xã đến tổ chức cộng đồng, không chỉ giúp giảm tải cho cơ quan trung ương, mà còn tạo

động lực để địa phương và người dân cùng chung tay gìn giữ nguồn lợi biển bền vững.

Phóng viên: Trong những kiến nghị đề xuất mà ông từng đưa ra, ông có đề nghị chỉ giao quyền sử dụng khu vực biển lâu dài cho các tổ chức kinh tế. Vì sao lại như vậy và ông đánh giá thế nào về năng lực nuôi biển của các hợp tác xã và giải pháp để cải thiện năng lực đó?

PGS.TS. Nguyễn Hữu Dũng. Cộng đồng xã hội của các cư dân vùng ven biển là người lãnh nhận cả hiệu quả lẫn hậu quả của các chính sách phát triển nuôi biển. Vì vậy, các tổ chức kinh tế của cộng đồng cư dân ven biển như doanh nghiệp, hợp tác xã, phải là động lực chủ yếu để hiện thực hóa hoài bão phát triển nuôi biển của đất nước.

Trong thực tế ở Việt Nam hiện nay và trong ít nhất 10 năm tới, lực lượng doanh nghiệp nuôi biển còn rất mỏng, các hợp tác xã vẫn sẽ là lực lượng chủ công hùng hậu nhất để thực hiện các đề án nuôi biển.

Tuy nhiên, phần lớn hợp tác xã nuôi biển có quy mô nhỏ, vốn ít, phạm vi hoạt động hẹp, tính liên kết nội bộ còn yếu, năng lực nội tại còn kém, mô hình tổ chức lỏng lẻo,

trình độ cán bộ quản lý còn hạn chế, hiệu

quả hoạt động chưa cao, năng lực cạnh tranh thấp, lợi ích mang lại cho thành viên

còn chưa được như mong muốn. Do đó, cần phải sớm tháo gỡ nút thắt này, giúp khu vực hợp tác xã phát triển nhanh và bền vững thời gian tới, thực hiện hiệu quả

Nghị quyết số 20-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Kế hoạch phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã giai đoạn 2021 - 2025 mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt.

Phóng viên: Vậy để lĩnh vực nuôi biển của nước ta phát huy hết tiềm năng thế mạnh, cần những định hướng và giải pháp gì, thưa ông?

PGS.TS. Nguyễn Hữu Dũng: Để khắc phục những khó khăn và phát triển bền vững ngành nuôi biển trở thành ngành

sản xuất hàng hóa quy mô lớn, công nghiệp, đồng bộ, an toàn, hiệu quả, cần có những định hướng và giải pháp sau:

Một là, ưu tiên quy hoạch không gian biển và ven bờ cho phát triển nuôi biển, nhất là nuôi biển công nghiệp quy mô lớn, theo phương thức nuôi công nghiệp hiện đại, quy mô lớn, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Hai là, thật sự đơn giản hóa thủ tục hành chính trong việc giao khu biển lâu dài cho dân; kiến nghị cấp sổ quyền sử dụng khu vực biển lâu dài (Sổ Xanh) cho nhà đầu tư, pháp chế hóa quyền sử dụng khu vực biển lâu dài thành quyền tài sản của nhân dân.

Ba là, xem xét chỉ giao khu vực biển lâu dài cho tổ chức kinh tế (doanh nghiệp, hợp tác xã) không giao cho cá nhân, song song với việc đẩy mạnh liên kết các

hộ dân thành tổ hợp tác, hợp tác xã và tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị.

Bốn là, đẩy nhanh việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, quy chuẩn kỹ thuật về nuôi trồng thủy sản và tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho các cơ sở nuôi biển, sản xuất, kinh doanh giống, thức ăn và sản phẩm xử lý môi trường; tăng cường kiểm tra, đánh giá, đánh giá, công nhận các cơ sở nuôi biển, sản xuất giống thủy sản.

Năm là, ứng dụng HDPE và composite là các vật liệu chủ đạo cho nuôi biển

công nghiệp; kiểm soát mật độ nuôi tại các vùng biển kín để giảm ô nhiễm môi trường; phát triển các mô hình nuôi biển đa dưỡng (IMTA) theo tiếp cận kinh tế tuần hoàn.

Sáu là, cần bổ sung nguồn ngân lực và tài chính cho các hoạt động phục vụ công tác cấp phép nuôi biển và giao khu vực biển. Đẩy mạnh việc chuyển đổi số trong công tác quản lý nhà nước về giao khu biển để nuôi trồng thủy sản. Bảy là, kêu gọi các tập đoàn lớn và doanh nghiệp mạnh xây dựng các cụm công nghiệp nuôi biển, đầu tư cơ sở hạ tầng, tổ chức cung ứng-tiêu thụ để phát triển nuôi biển ra xa bờ, giải quyết các vấn đề về môi trường, vốn, dịch vụ và kỹ thuật.

Và cuối cùng là kết hợp mô hình nuôi biển kết hợp du lịch trải nghiệm và điện gió, đóng tàu, vận tải biển để tạo ra nhiều giá trị gia tăng.

Phóng viên: Trong bối cảnh toàn cầu hướng tới phát triển bền vững, Việt Nam đang chứng kiến sự trỗi dậy của các mô hình kết hợp kinh tế và bảo vệ môi trường. Một trong số đó là “nuôi biển kết hợp du lịch” - giải pháp mang lại lợi ích kép. Dự đoán, mô hình này cũng sẽ bùng nổ từ năm 2025. Theo ông, việc phát triển mô hình này sẽ đem lại lợi ích như thế nào?

PGS.TS. Nguyễn Hữu Dũng: Theo tôi, mô hình này mang lại lợi ích về nhiều phương diện.

Về đặc tính tự thân, sự kết hợp giữa nuôi biển với du lịch biển là hướng phát triển bù đắp cho nhau và tạo điều kiện khai thác tối đa tiềm năng của mỗi lĩnh vực. Nuôi biển là hoạt động sản xuất có chu kỳ tương đối dài, thu hoạch và thu nhập tập trung vào từng thời điểm, trong khi du lịch lại là hoạt động dịch vụ chu kỳ ngắn, hoạt động diễn ra thường xuyên liên tục, với thu nhập đều đặn hàng ngày. Về sử dụng lao động, nuôi biển có chu kỳ sử dụng lao động phân bổ không đều, tập trung vào kỳ rải giống và thu hoạch, trong khi giữa các kỳ đòi hỏi ít nhân công, có thể sử dụng rất tốt cho du lịch có đặc tính sử dụng lao động phân bố đều đều.

Về đầu tư, có thể tiết kiệm được khá nhiều bằng việc sử dụng hạ tầng nổi được thiết kế cho cả hai mục đích nuôi biển và du lịch; yêu cầu kết cấu lồng bè nuôi và cơ sở hạ tầng du lịch phải vững chắc, đàng hoàng, khang trang, tiện cho du khách.

Về kinh tế, việc tích hợp du lịch với nuôi biển giúp tăng cường quảng bá thương hiệu sản phẩm hải sản, mở rộng thị trường tiêu thụ, đặc biệt là các sản phẩm sạch, an toàn, có chất lượng cao thông qua dịch vụ bán hàng làm quà cho du khách.

Và điều tích cực nhất là việc tích hợp hai hoạt động nuôi biển và du lịch đặt ra yêu cầu phải thường xuyên nâng cấp và chuyên nghiệp hóa cả hai lĩnh vực, môi trường nuôi và môi trường du lịch phải luôn được giữ gìn sạch đẹp, chất thải sản xuất và sinh hoạt phải được xử lý nghiêm chỉnh để không ảnh hưởng đến môi

trường và cảnh quan, mang lại những lợi ích cho việc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Việc phát triển nuôi biển kết hợp du lịch bền vững không chỉ tạo ra thu nhập gia tăng cho cộng đồng địa phương mà còn góp phần bảo vệ môi trường, hạn chế tác động tiêu cực đến hệ sinh thái biển.

Phóng viên: Ông có thể đưa một vài dẫn chứng các địa phương đã thực hiện hiệu quả mô hình nuôi biển với phát triển du lịch?

PGS.TS. Nguyễn Hữu Dũng: Hiện nay, đã có những mô hình nuôi biển bền vững gắn với du lịch phát triển thành công tại hầu khắp tỉnh, thành trên cả nước.

Tại Vân Đồn (Quảng Ninh), Công ty Nhựa Super Trường Phát (STP) có mô hình trang trại trồng rong kết hợp nuôi hàu Thái Bình Dương và du lịch trải nghiệm tại đảo Phất Cờ.

Tại tỉnh Bình Thuận (nay là tỉnh Lâm Đồng), nuôi hải sản kết hợp du lịch sinh thái là một trong những định hướng phát triển đến năm 2030. Điển hình là huyện đảo Phú Quý, các chủ bè đã kết hợp nuôi trồng, làm dịch vụ lặn biển ngắm san hô, chế biến hải sản tươi sống phục vụ du khách.

Tại Bà Rịa - Vũng Tàu (nay là TP Hồ Chí Minh), du khách bị hấp dẫn bởi mô hình nuôi trồng thủy sản trên các làng bè ở xã Long Sơn. Hợp tác xã Như Ý Long Sơn đã phát triển khu vực du lịch sinh thái với các dịch vụ ẩm thực và nghỉ dưỡng ngay tại vùng nuôi hàu. Còn tại Côn Đảo, việc tham quan nuôi trai lấy ngọc và mua sắm ngọc trai đã trở thành hoạt động không thể thiếu khi du khách đến tham quan đảo.

Tại tỉnh Kiên Giang (nay là tỉnh An Giang), với hệ thống đảo và bờ biển đa dạng, đã phát triển mô hình nuôi cá lồng bè kết hợp du lịch ở các khu vực như

Nam Du, An Sơn, Lại Sơn, Hòn Tre, xã Hòn Nghệ, Sơn Hải, Hà Tiên và đặc biệt là ở Phú Quốc.

Việc tích hợp nuôi biển với du lịch không chỉ tạo ra nguồn thu nhập bổ sung đáng kể mà còn giúp phát triển đa dạng hoạt động du lịch trải nghiệm và quảng bá thương hiệu thủy sản của các vùng biển. Và đó chính là những việc làm chủ động góp phần phát triển bền vững kinh tế biển của một đất nước có diện tích vùng biển đặc quyền kinh tế rộng 1 triệu km2, gấp 3 diện tích đất liền!

Trân trọng cảm ơn ông!

Thu Hồng (Thực hiện)

Điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thủ tục giao khu vực biển lâu dài cho dân. Không được giao

biển lâu dài, ổn định thì người nuôi biển không có cơ sở pháp lý vững chắc và không thể yên tâm để đầu tư cơ sở nuôi biển bài bản, hiện đại. Cho đến nay các địa phương chỉ tạm giao quyền sử dụng khu vực biển cho dân vài năm một, thì người dân chỉ làm bè nuôi bằng các vật liệu tận dụng, không thể đầu tư bài bản.

Phát triển nuôi biển gắn với du lịch tại nhiều địa phương triển khai phát huy hiệu quả

Ảnh: ST

Trao quyền

cho ngư dân trong phát triển kinh tế

Bảo Hân

Báo động nguồn lợi thủy sản

Hiện nay, nguồn lợi thủy sản ở nước ta đang đối mặt với nguy cơ cạn kiệt do nhiều nguyên nhân. Việc sử dụng các phương tiện đánh bắt mang tính hủy diệt như lưới kéo, xung điện, và các hình thức khai thác tận diệt khác.

Theo kết quả điều tra, giai đoạn 2010 - 2020, trữ lượng trung bình nguồn lợi hải sản ở vùng biển Việt Nam ước tính khoảng 3,95 triệu tấn, trong khi sản lượng khai thác gần tương đương với số đó khiến nguồn lợi đã và đang suy giảm, đặc biệt là nhóm hải sản tầng đáy. Sản lượng khai thác thủy sản nội đồng khoảng 200.000 tấn/năm, nhưng, nguồn lợi này hiện cũng đang bị suy giảm, một số loài có nguy cơ cạn kiệt.

Theo các chuyên gia trong ngành, thủy sản là loại tài nguyên tái sinh, hằng năm chỉ sinh sản bổ sung một số lượng nhất định. Mặt khác, trong điều kiện quản lý nghề cá cho phép ngư dân tiếp cận tự do, đã khiến cho vấn đề càng trở nên trầm trọng, nguồn lợi ngày càng cạn kiệt, và hệ lụy là thu nhập trong các chuyến biển giảm và dần dần có thể mất sinh kế của người dân.

Để thay đổi tình hình, hàng loạt các chương trình, kế hoạch bảo vệ nguồn lợi thủy sản đã được phê duyệt, đặc biệt là ở các vùng biển ven bờ, nhiều khu bảo tồn biển được thành lập. Cùng đó, ngành thủy sản và các địa phương tích cực thực hiện hoạt động thả giống tái tạo nguồn lợi, trong đó tập trung vào các loài có giá trị kinh tế, loài bản địa và loài thủy sản nguy cấp, quý, hiếm.

Nâng cao vai trò của ngư dân Giới chuyên gia nhận định, để nguồn lợi thủy sản phát triển bền vững bên cạnh sự quản lý của nhà nước thì cần phải dựa vào cộng đồng, chia sẻ trách nhiệm

Thực hiện đồng quản lý với trọng tâm là giao quyền và trách nhiệm cho ngư dân không chỉ góp phần phát triển nghề cá bền vững mà còn đảm bảo lâu dài cho sinh kế của ngư dân.

Thả cá tái tạo nguồn lợi thủy sản là hoạt động được nhiều địa phương thực hiện thường xuyên. Ảnh: ST

quản lý trên cơ sở hài hòa lợi ích giữa các bên. Đây cũng là phương thức đồng quản lý mà nhiều địa phương đã thực hiện từ

những năm qua.

Quy định trong Luật Thủy sản năm 2017 đã chỉ rõ, đồng quản lý nhằm thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng ngư dân địa phương trong công tác quản lý, giám sát và bảo vệ các khu vực biển được giao quyền khai thác, sử dụng để nâng cao chất lượng nguồn lợi

thủy sản và đời sống người dân.

Đồng quản lý thúc đẩy tự chủ và đóng góp tích cực của cộng

đồng người làm nghề cá trong công tác bảo tồn và sử dụng hợp

lý nguồn lợi thủy sản.

Bên cạnh đó, đây còn là giải pháp hữu hiệu để đảm bảo sinh kế lâu dài của ngư dân. Chính vì thế, đã có nhiều dự án dành cho chương trình này.

Mới đây, Hội Nông dân tỉnh Đồng Tháp khởi động Dự án Nâng cao năng lực quản lý, tạo sinh kế người dân tham gia mô

Tại Cà Mau, xuất phát từ thực tiễn khôi phục sinh cảnh biển bằng các mô hình rạn nhân tạo, tỉnh đã và đang tiến hành xây dựng mô hình đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản dựa vào cộng đồng. Dự án đồng quản lý của tỉnh được thí điểm tại hai xã Khánh Bình Tây và Khánh Bình Tây Bắc. Tổ đồng quản lý bảo vệ và khai thác khu vực rạn đã được thành lập, đại diện cho các nhóm ngư dân sử dụng các loại nghề thân thiện như: bẫy ốc mực, câu mực, lưới rê... Ông Nguyễn Thành Huy, Chủ tịch Hội Thủy sản tỉnh

khai thác và sử dụng hợp lý nguồn lợi, đảm bảo sự phát triển ổn

hình đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản gắn với phát triển du lịch ở tỉnh. Dự án do Chương trình Phát triển Liên hợp quốc tài trợ.

Dự án hướng đến mục tiêu nâng cao năng lực quản lý, điều hành cho đại diện các tổ cộng đồng; tạo sinh kế, tăng thêm thu nhập cho các thành viên tham gia thực hiện

đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Từ đó góp phần bảo vệ môi trường bền vững, duy trì cân bằng sinh thái, chống suy kiệt nguồn lợi thủy sản.

Các tổ cộng đồng này hoạt

động theo phương án bảo vệ và

khai thác nguồn lợi thủy sản vào

mùa nước lũ tràn đồng và những

khúc sông tập trung những loài

thủy sản bản địa sinh sống. Kết

hợp bảo vệ nguồn lợi thủy sản với

nuôi trồng thủy sản và các hoạt

động sinh kế, nhằm góp phần

nâng cao thu nhập cho thành viên

tham gia; góp phần giảm nghèo

bền vững cho người dân và bảo

đảm môi trường sinh thái.

của nghề cá và sinh kế bền vững cho cộng đồng ngư dân ven biển. Đồng thời chia sẻ trách nhiệm giữa các bên liên quan, giải quyết vấn đề tài chính và phát huy tính tự lực của cộng đồng. Mặt khác, mô hình được kỳ vọng tạo tiền đề thể chế hóa quyền cộng đồng trong việc quản lý tài nguyên biển, đồng thời mở ra cơ hội phát triển sinh kế mới cho người dân như mở rộng các loại hình du lịch câu cá giải trí, du lịch sinh thái làng biển...”. Phát biểu tại một cuộc hội thảo, ông Lê Minh Hoan, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho rằng, đồng quản lý góp phần nâng cao ý thức và trách nhiệm của người dân địa phương trong hoạt động khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản, từng bước thực hiện chủ trương xã

Nuôi

biển bền vững

Hành

trình giảm thiểu tác động môi trường

từ chất thải thủy sản

Trong bối cảnh ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam đang đối

diện với nhiều thách thức về môi trường, xu hướng nuôi biển

bền vững trở thành mục tiêu cấp bách.

Thách thức từ chất thải trong nuôi thủy sản

Nuôi biển không chỉ là ngành kinh tế trọng yếu mà còn là chìa khóa quan trọng cho xuất khẩu và phát triển kinh tế, xã hội của các tỉnh ven biển. Tuy nhiên, hoạt động này cũng tạo ra khối lượng chất thải không nhỏ, bao gồm thức ăn thừa, phân cá và hóa chất quản lý.

Theo đánh giá của các chuyên gia, chất thải nếu không được xử lý phù hợp thì có thể gây ô nhiễm nghiêm trọng, làm suy thoái môi trường sống và ảnh hưởng đến đối tượng nuôi. Hiện tượng tàn phá hệ sinh thái biển đang trở thành mối nguy lớn, đặt ra câu hỏi về tính bền vững của ngành.

Ngoài ra, việc thiếu quy hoạch tổng thể trong vùng nuôi biển dẫn đến tình trạng quá tải môi trường. Tại một số khu vực, mật độ lồng bè quá cao làm cạn kiệt ôxy trong nước, gây thiệt hại cho người nuôi. Thực tế, tại Phú Yên, hàng loạt vụ cá chết bất thường trong những năm gần đây đều có liên quan đến ô nhiễm từ chất thải nuôi biển không được kiểm soát.

Công tác giám sát môi trường và quản lý chất thải cũng còn hạn chế. Nhiều địa phương thiếu nguồn lực để thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường một cách đồng bộ. Đồng thời, nhận thức của một số người nuôi còn chưa đầy đủ, khiến việc sử dụng thức ăn và hóa chất không kiểm soát càng làm tình trạng ô nhiễm trầm trọng hơn.

Một thách thức khác đó là ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến môi trường biển, dẫn đến tăng nhiệt độ nước biển, axit hóa và mực nước biển dâng đều ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và chất lượng nuôi trồng.

Điểm sáng cho tương lai

Trong bối cảnh đó, mô hình nuôi đa loài (Integrated Multi-Trophic Aquaculture - IMTA)

được đánh giá như một giải pháp tích cực giúp cải thiện môi trường nuôi biển. Hệ sinh thái nhân tạo kết hợp nhiều loài khác nhau, trong đó loài đáp ứng chức năng định dưỡng và lọc chất thải như rong biển và động vật thân mềm sẽ hấp thu các chất dư thừa từ loài nuôi chính. Ví dụ, rong biển có khả năng hấp thụ nitơ và phốt pho từ chất thải, trong khi các loài thân mềm như hàu và vẹm ăn các hạt hữu cơ lơ lửng, giúp cải thiện chất lượng nước. Đây là cách tự nhiên

để giảm thiểu ô nhiễm, tăng năng suất và thúc

đẩy sự bền vững của hệ thống nuôi trồng.

Thực tế tại Quảng Ninh và Khánh Hòa cho

thấy IMTA giúp giảm khí thải, bảo tồn sinh

thái biển và cung cấp nguồn thu nhập ổn

định. Mô hình còn góp phần tăng năng suất do tận dụng nguyên liệu, đặc biệt thu hút nhà

đầu tư khi xu hướng sản xuất xanh đang trở thành xu thế.

Một trong những mô hình nổi bật là tại đảo Phất Cờ, huyện Vân Đồn (tỉnh Quảng Ninh) kết hợp nuôi cá, rong và hàu nhằm tận dụng triệt để điều kiện sinh thái và hỗ trợ lọc nước, cải thiện môi trường.

Ông Vũ Anh Tư, Viện phó Viện Nuôi trồng thủy sản STP cho biết: “Chúng tôi áp dụng mô hình nuôi đa canh tại Vân Đồn, kết hợp nuôi cá, rong và hàu. Nuôi rong thì hàu sẽ được tăng cường dinh dưỡng, tăng cường lọc nước, tăng cường lượng ôxy trong nước biển, giúp cho quá trình nuôi cá an toàn hơn, môi trường tốt hơn”.

Năm 2024, Khánh Hòa có tổng diện tích nuôi trồng thủy sản khoảng 3.864 ha với tổng sản lượng đạt 22.570 tấn. Trong đó, tôm hùm là đối tượng nuôi biển trọng điểm với tổng số lồng thả nuôi là 99.790 ô lồng và sản lượng đạt 3.300,9 tấn. Tiếp đến là cá chẽm, cá mú, cá bớp, cá hồng, cá chim trắng, cá bè với sản lượng 9.258,7 tấn. Nhiều doanh nghiệp và hộ dân ứng dụng công nghệ nuôi lồng bằng vật liệu mới HDPE đạt hiệu quả cao về sản lượng nuôi biển. Ngoài ra còn có rong biển với diện tích thả khoảng 131,5 ha, sản lượng 1.018,5 tấn (rong sụn 302,5 tấn, rong nho 716 tấn).

Một số đối tượng khác cũng mang lại hiệu quả kinh tế như tu hài, vẹm xanh, ngao hai cùi…

Theo ông Nguyễn Duy Quang - Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Khánh Hòa, công nghệ nuôi biển theo quy mô công nghiệp bằng lồng HDPE không chỉ giúp thích ứng với biến đổi khí hậu mà còn phù hợp với cảnh quan, bảo vệ môi trường, giúp tăng sản lượng cá biển nuôi. Dựa trên số liệu về kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng trưởng qua các năm, ông Quang nhận định, nếu khai thác tốt tiềm năng lợi thế biển của địa phương, đồng thời kết hợp các chính sách khuyến khích phát triển phù hợp, dự kiến năm 2025 xuất khẩu thủy sản của Khánh Hòa sẽ thu về gần 1 tỷ USD.

Vai trò của chính sách và đầu tư Các chương trình đào tạo và hội thảo chuyên

đề tại các tỉnh ven biển như Khánh Hòa, Phú Yên đã được triển khai nhằm nâng cao nhận thức và kỹ thuật cho người dân. Tại Phú Yên, tháng 8/2024, Trung tâm Khuyến nông tỉnh

đã tổ chức hội thảo “Giải pháp nuôi trồng và phát triển thủy sản bền vững” tại Sông Cầu, hướng dẫn chuyển đổi sang lồng HDPE, gắn camera giám sát, chọn giống phù hợp - giải pháp thiết thực giúp giảm thiệt hại và nâng cao chất lượng sản phẩm biển. Song song đó, 50 lớp tập huấn và 19 lớp thực hành hiện trường đã trang bị kỹ thuật nuôi tiên tiến, tăng năng lực sản xuất cho người dân ven biển. Qua thực tế triển khai tại địa phương, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Khánh Hòa nhận định, nghề nuôi trồng thủy sản đòi hỏi mức đầu tư lớn, mức độ rủi ro cao nên khó khăn trong việc tiếp cận các chính sách; chưa có chính sách cụ thể về hỗ trợ một lần sau đầu tư để khuyến khích chuyển đổi mô hình nuôi truyền thống sang mô hình nuôi biển công nghệ cao.

Một hành trình bền vững không thể thiếu vai trò hỗ trợ từ chính phủ. Do vậy, nhà nước cần đẩy mạnh các chính sách vốn vay, đầu tư hạ tầng và chuyển giao kỹ thuật. Những đề án thí điểm ở khu vực tiềm năng sẽ là cơ sở quan trọng góp phần nhân rộng các giải pháp xanh trong nuôi trồng thủy sản. Nuôi biển bền vững không chỉ là chiến lược kinh tế quan trọng mà còn là giải pháp thiết yếu để bảo vệ môi trường và ứng phó với những thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu. Sự kết hợp giữa các mô hình tiên tiến như IMTA, ứng dụng khoa học công nghệ và chính sách hỗ trợ đồng bộ đã và đang chứng minh hiệu quả, qua đó góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường và tăng năng suất, giá trị của sản phẩm.

*Từ ngày 1/7/2025, tỉnh Phú Yên chính thức sáp nhập với tỉnh Đắk Lắk.

Thùy Khánh

Theo báo cáo của Cục Thủy sản và Kiểm ngư, tính đến hết năm 2024, tổng sản lượng thủy sản của cả nước đạt 9,609 triệu tấn, tăng 2,0% so với năm 2023 (9,379 triệu tấn). Riêng nuôi trồng có 1,3 triệu ha nuôi nội địa và 9,7 triệu m³ lồng nuôi biển (tương đương so với năm 2023), tổng sản lượng khoảng 5,753 triệu tấn, tăng 3,7% so với năm 2023.

Nuôi biển

Hiện trạng, lợi thế và

thách thức

Nuôi trồng thủy sản biển

(Marine aquaculture hay mariculture) là hình thức

nuôi dưỡng và khai thác sinh vật thủy sinh trong

môi trường nước mặn tự nhiên, bao gồm các khu

vực như vùng ven bờ, eo vịnh, biển mở, vùng triều, trên triều và khu

vực quanh các hải đảo.

Hoạt động này không

chỉ nhằm cung cấp sản

phẩm thủy sản phục

vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước

và xuất khẩu, mà còn góp phần

giảm áp lực lên nguồn lợi khai

thác tự nhiên, cải thiện sinh kế và tăng cường sự hiện diện, thực thi

chủ quyền quốc gia trên biển.

Việt Nam, với đường bờ biển

dài hơn 3.260 km và vùng đặc quyền kinh tế rộng khoảng 1

triệu km², với tài nguyên nước dồi dào, sở hữu diện tích lớn các bãi triều, vùng ngập mặn tại

cửa sông, khu vực ven đảo, các eo vụng kín gió và vùng biển xa

bờ, phân bố đa dạng trên nhiều

vùng và tiểu vùng sinh thái đặc

thù thuận lợi cho phát triển nuôi biển. Ngoài ra, nguồn gen thủy

sản bản địa phong phú với nhiều

nhóm loài có giá trị kinh tế cao

là một lợi thế chiến lược để phát

triển ngành nuôi trồng thủy sản

biển theo hướng công nghiệp,

bền vững và hội nhập quốc tế.

Trong những năm gần đây,

Việt Nam đã xác định nuôi biển

là một trong những trụ cột chiến

lược trong định hướng phát triển

ngành thủy sản, với mục tiêu

hướng tới nghề cá hiện đại, bền

vững, và tạo ra đột phá không chỉ cho ngành thủy sản mà còn cho

toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Để hiện thực hóa định hướng

này, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách quan trọng. Cụ thể, Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành

Trung ương về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt

Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đã nhấn mạnh vai trò then chốt của nuôi biển. Tiếp theo, Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 11/3/2021 của Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt “Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam

đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, và Quyết định ngày 4/10/2021 về “Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đến

năm 2030, tầm nhìn đến năm

2045”, đã cụ thể hóa các mục

tiêu và giải pháp phát triển nuôi

biển trong dài hạn.

Tuy vậy, ngành nuôi biển hiện vẫn đang đối mặt với nhiều hạn chế không nhỏ về: Hạ tầng kỹ thuật, các yếu tố vật tư đầu vào, cơ chế - chính sách, vấn đề môi trường - dịch bệnh và thị trường tiêu thụ, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu, thiên tai, thời

tiết cực đoan, cạnh tranh quốc tế và hệ thống quản lý nhà nước còn phân tán, thiếu đồng bộ. Trong bối cảnh đó, mục tiêu cốt lõi của phát triển nuôi biển là xây dựng ngành nuôi thủy sản biển trở thành một ngành sản xuất hàng hóa quy mô lớn, có tính cạnh tranh cao, vận hành theo hướng kinh tế –xã hội – môi trường bền vững. Điều này đòi hỏi phải sử dụng hợp lý tài nguyên biển, nâng cao năng lực khoa học – công nghệ, và tối ưu hóa chuỗi giá trị sản phẩm.

Lợi thế phát triển Để phát triển một ngành nghề hoặc khởi nghiệp, cần trả lời ba câu hỏi cốt lõi: 1) Làm cho ai? (ai sẽ là người sử dụng sản phẩm); 2) Làm ở đâu? (địa điểm nào có lợi thế phát triển tốt nhất); 3) Làm như thế nào? (quy trình công nghệ nào là phù hợp). Trong đó, việc lựa chọn địa điểm phù hợp để phát triển nuôi biển là yếu tố nền tảng. Điều này đòi hỏi phải có sự phân tích lợi thế sinh thái của từng vùng, từ đó xác định các khu vực nuôi hợp lý, đảm bảo hiệu quả kinh tế, giảm thiểu rủi ro môi trường, và góp phần phát triển nuôi biển theo hướng bền vững:

a) Vùng cửa sông, ven bờ, eo vịnh (Lagoon, estuary, bay-inlet zones)

Lợi thế: Gần bờ, dễ tiếp cận, kiểm soát, đầu tư thấp, phù hợp hộ nuôi nhỏ lẻ.

Nhược điểm: Chịu tác động từ nước thải sinh hoạt, nông nghiệp, công nghiệp dẫn đến tích tụ N, P, hữu cơ, gây phú dưỡng và bùng phát tảo (Eutrophication). Ít luân chuyển thủy triều, nước tù, ôxy thấp (gây stress cho đối tượng nuôi). Vùng này dễ gây nên rủi ro dịch bệnh cao nếu nuôi cá/tôm với mật độ lớn.

Khuyến nghị: 1) Chỉ nên trồng rong, nuôi nhuyễn thể lọc nước (hàu, vẹm, điệp, hến); 2) Có thể làm vùng đệm sinh thái cho các hệ thống nuôi lân cận (Bio-buffer zones); 3) Kết hợp mô hình IMTA (nuôi đa loài tích hợp) có thể cải thiện chất lượng nước.

b) Vùng biển khơi (Offshore aquaculture zones)

Ưu điểm: Khả năng tự làm sạch cao (Luân chuyển thủy triều, dòng hải lưu mạnh), ít chịu tác

động chất thải từ đất liền. Thích hợp nuôi cá có giá trị cao bằng lồng HDPE lớn, bán hở hoặc kín theo công nghệ Na Uy, Nhật Bản. Nhược điểm: Sóng gió lớn, yêu cầu thiết bị chịu lực cao, chi phí

đầu tư lớn. Xa bờ nên tốn chi phí vận chuyển, giám sát, bảo trì. Rủi ro cao do thiên tai, bão lớn ở miền Trung, cần bảo hiểm và dự báo tốt. Người nuôi khó tiếp cận phát triển.

Khuyến nghị: Chỉ nên khuyến khích doanh nghiệp lớn đầu tư, có đồng bộ công nghệ và bảo hiểm rủi ro. Kết hợp nuôi – khai thác –dịch vụ hậu cần cảng cá tại các cụm đảo gần bờ.

c) Vùng trên triều ( Supratidal zones)

từ xa bờ thông qua ống hút hoặc

hệ thống kênh lọc tuần hoàn để

phát triển nuôi thủy sản theo

hình thức công nghiệp kiểm soát

tốt môi trường.

Lợi ích: Giảm phụ thuộc vào

vùng biển khơi sóng gió. Chủ

động kiểm soát chất lượng

nước, phù hợp nuôi công nghệ

cao trên cạn. Giảm chi phí vận

hành dài hạn nếu đầu tư bài

bản ban đầu. Tạo nền tảng hình

thành “làng cá” ven biển: Trạm

cấp nước, khu nuôi, sơ chế-chế

biến, logistics gắn với sinh kế

bền vững.

Khó khăn: Chi phí đầu tư hệ

thống cấp nước lớn. Phải quy

hoạch kỹ để tránh nhiễm mặn

vào đất nông nghiệp. Cần thiết kế chống xói lở bảo vệ bờ biển và rừng phòng hộ.

Khuyến nghị: Áp dụng cho các vùng cát ven biển miền Trung, nơi đất nông nghiệp kém hiệu quả, có sẵn nguồn lao động và gần trục giao thông. Kết hợp nuôi – trồng – du lịch sinh thái (ví dụ: mô hình “Fish-Village Resort”).

Thách thức

Thiếu quy hoạch không gian biển và vùng nuôi ổn định: Chưa có quy hoạch không gian biển cụ thể cho nuôi biển, dẫn đến xung đột sử dụng với các ngành khác như du lịch, giao thông hàng hải, dầu khí, điện gió. Ngư dân và doanh nghiệp chưa được giao quyền sử dụng vùng biển ổn định dẫn đến thiếu an toàn đầu tư, khó tiếp cận vốn, hiện nuôi mang tính tự phát, thiếu kiểm soát môi

trường và dịch bệnh.

Hạn chế về hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ hậu cần: Thiếu hệ thống cảng chuyên dụng, khu neo đậu, kho lạnh, cơ sở bảo trì lồng bè hiện đại. Không có khu dịch vụ giống tập trung ngoài biển, hệ thống cung cấp điện nước, liên lạc, vận tải còn yếu. Khó khăn trong vận chuyển giống, thức ăn,

Vùng trên triều là vùng nằm phía trên cao triều, thường là vị trí nằm trong đê ngăn mặn hoặc vùng cát và hải đảo... Ý tưởng: Dẫn nước biển sạch

sản phẩm thu hoạch từ lồng/bè về bờ và ngược lại.

Chưa phát triển công nghệ, thiết bị phù hợp: Lồng nuôi chủ yếu là bằng tre gỗ truyền thống, dễ hư hỏng trong điều kiện gió bão. Thiếu công nghệ nuôi biển xa bờ, chịu sóng, tự động hóa, dẫn đến chi phí cao, rủi ro lớn.

Chưa sản xuất được thiết bị chuyên dụng cho nuôi biển khơi như lồng HDPE, hệ thống theo dõi từ xa...

Thiếu giống chất lượng cao: Nguồn giống phụ thuộc vào khai thác tự nhiên hoặc nhập khẩu, chất lượng không ổn định, nguy cơ mang mầm bệnh. Chưa hoàn thiện quy trình sản xuất giống nhiều loài sinh vật biển có giá trị

(cá biển, bào ngư, tôm hùm...) và

chưa có hệ thống kiểm soát chất

lượng giống đầu vào hoàn chỉnh.

Vốn đầu tư và chính sách hỗ

trợ: Ngư dân và doanh nghiệp khó tiếp cận vốn tín dụng ưu đãi.

Thiếu chính sách tín dụng đặc thù cho nuôi biển (như bảo hiểm, thế chấp quyền sử dụng vùng nuôi...).

Chính sách hỗ trợ hiện còn thiếu

ổn định, chậm triển khai, hoặc không đủ sức hấp dẫn.

Thị trường tiêu thụ chưa ổn định, giá trị chưa cao: Sản phẩm nuôi biển hiện nay chủ yếu tiêu thụ nội địa và xuất khẩu tiểu ngạch, giá bấp bênh. Thiếu kết nối với chuỗi giá trị: chế biến sâu, chứng nhận chất lượng (ASC, VietGAP, EU...), truy xuất nguồn gốc. Chưa xây dựng thương hiệu quốc gia cho sản phẩm nuôi biển, dẫn đến giá trị gia tăng thấp.

Thảo luận

Để hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững, cần có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các cấp chính quyền, cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Các giải pháp trọng tâm bao gồm: Hoàn thiện cơ chế, chính sách và khung pháp lý về nuôi biển; Quy

hoạch không gian biển hợp lý, xác lập rõ vùng nuôi ổn định; Đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, từ vùng nuôi, cảng cá đến hậu cần nghề cá; Đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ tiên tiến và công nghệ nuôi biển xa bờ; Hoàn thiện hệ thống cung ứng vật tư đầu vào nội địa; Tổ chức lại sản xuất theo mô hình liên kết chuỗi giá trị hiện đại, phù hợp với điều kiện tự nhiên – xã hội từng vùng, hướng tới kinh tế tuần hoàn và phát thải thấp. Lợi thế về điều kiện vùng và tiểu vùng sinh thái đặc trưng, thuận lợi cho phát triển nuôi trồng thủy sản theo nhiều đối tượng và hình thức khác nhau. Trong đó, vùng trên triều là khu vực có tiềm năng phát triển nuôi cá biển tập trung theo hình thức công nghiệp, quy mô lớn, hiện đại. Tại đây, có thể xây dựng chuỗi giá trị khép kín từ khâu sản xuất hoặc ương dưỡng con giống, nuôi, cung cấp thức ăn và vật tư đầu vào, đến khâu chế biến và xuất khẩu. Việc cung cấp nước biển sạch có thể thực hiện thông qua hệ thống đường ống hút từ vùng biển ngoài khơi; đồng thời, nước thải được xử lý đạt tiêu chuẩn trước khi xả thải ra môi trường, hoặc có thể tái sử dụng để cung cấp cho các vùng trồng rong và nuôi nhuyễn thể. Đối với vùng cửa sông, ven bờ và các eo vụng, nên ưu tiên phát triển trồng rong biển và nuôi nhuyễn thể, phù hợp với đặc điểm thủy lý và khả năng tự làm sạch của môi trường. Ngoài ra, có thể phát triển các mô hình nuôi ghép tích hợp như cá biển – rong biển – nhuyễn thể, trên cơ sở thiết kế hợp lý để tận dụng sinh khối dư thừa và chất thải làm nguồn dinh dưỡng tuần hoàn, góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường và nâng cao hiệu quả sinh thái – kinh tế của hệ thống nuôi.

MÔ HÌNH NUÔI TÔM IMTA-RAS

HƯỚNG ĐI BỀN VỮNG CHO NGHỀ NUÔI TÔM CÔNG NGHỆ CAO

Trong bối cảnh nghề nuôi tôm tại Việt

Nam, đặc biệt là ở Đồng bằng sông Cửu Long, đang đối mặt với hàng loạt thách thức như suy giảm chất lượng nước, ô nhiễm môi trường, chi phí sản xuất tăng cao và dịch bệnh phức tạp, việc tìm kiếm các mô hình nuôi tôm bền vững, hiệu quả và thân thiện môi trường là yêu cầu cấp thiết. Mô hình nuôi tôm tuần hoàn tích hợp đa loài không xả thải (IMTA-RAS) do nhóm tác giả N. Nhut và N.T. Tung nghiên cứu và công bố trên tạp chí quốc tế “Aquacultural Engineering” (Nhut and Tung, 2025) đã mở ra một hướng đi mới đầy tiềm năng cho ngành thủy sản Việt Nam. Khác với hình thức nuôi tôm truyền thống vốn tiêu tốn lượng lớn nước và phát thải đáng kể ra môi trường, mô hình IMTA-RAS hoạt động hoàn toàn theo nguyên lý tuần hoàn khép kín, tích hợp nuôi các loài sinh vật khác nhau gồm tôm thẻ chân trắng ( Litopenaeus vannamei), cá rô phi (Oreochromis niloticus), rong biển xanh (Cladophora glomerata) và rong đỏ (Gracilaria tenuistipitata). Sự kết hợp này không chỉ giúp xử lý chất thải hữu cơ và vô cơ một cách tự nhiên mà còn nâng cao hiệu quả sử dụng dinh dưỡng, cải thiện chất lượng nước và tạo ra các sản phẩm phụ có giá trị kinh tế.

Trong suốt chu kỳ nuôi 124 ngày, hệ thống không sử dụng nước mới, không xả thải ra môi trường và không cần thay nước, thể hiện ưu thế vượt trội về bảo vệ môi trường và an toàn sinh học. Tỷ lệ sống của tôm đạt 62,2% và đạt cỡ thương phẩm trung bình 50,3g/ con, tương đương năng suất 6,9 kg/m². Đặc biệt, hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) ở mức 1,59 cho thấy khả năng sử dụng thức ăn hiệu quả. Bên cạnh đó, cá rô phi và rong biển phát triển tốt nhờ sử dụng chất thải từ tôm, mang lại thêm giá trị kinh tế khoảng 6,46% tổng doanh thu.

Một trong những điểm nổi bật của mô hình là khả năng tận dụng và tái sử dụng chất dinh dưỡng trong hệ thống. Khoảng 45,9% tổng lượng nitơ và 27,6% tổng lượng phospho được giữ lại trong sinh khối tôm, cá và rong biển. Điều này cho thấy khả năng giảm thiểu tác động môi trường của mô hình và hướng tới việc sử dụng tài nguyên đầu vào một cách hiệu quả. Về mặt chất lượng sản phẩm, 100% tôm và cá sau thu hoạch đều đạt tiêu chuẩn xuất

khẩu về màu sắc, mùi vị và kích cỡ. Các chỉ số như hàm lượng protein, khoáng và chất béo trong sinh khối đều cao, có thể phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau từ tiêu dùng tươi sống đến chế biến và chiết xuất dưỡng chất. Không chỉ đạt hiệu quả sinh học và kinh tế, mô hình IMTA-RAS còn chứng minh được tính khả thi cao khi vận hành: Thiết kế hệ thống đơn giản, sử dụng thiết bị phổ thông như bể nhựa lót HDPE, máy sục khí, máy bơm tuần hoàn và không yêu cầu kỹ thuật vi sinh phức tạp. Do đó, mô hình hoàn toàn phù hợp với các hộ nuôi quy mô vừa và nhỏ, dễ triển khai tại các vùng ven biển, vùng chuyển đổi hoặc vùng nuôi bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu. Từ kết quả nghiên cứu này, có thể khẳng định mô hình IMTA-RAS là một giải pháp nuôi tôm bền vững trong tương lai. Mô hình này không chỉ giảm thiểu chi phí vận hành, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên mà còn phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế xanh, giảm phát thải và bảo vệ hệ sinh thái thủy vực.

Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam hướng tới mục tiêu phát triển nghề nuôi thủy sản công nghệ cao, thân thiện môi trường, mô hình IMTA-RAS cần được quan tâm đầu tư, chuyển giao công nghệ và nhân rộng ứng dụng trong thực tiễn.

Để nhân rộng mô hình, cần sự phối hợp giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp trong việc cải tiến công nghệ, chuẩn hóa quy trình kỹ thuật, lồng ghép hệ thống năng lượng tái tạo (như điện mặt trời), tích hợp công nghệ số (IoT) để giám sát tự động chất lượng nước, sinh trưởng và dịch

bệnh. Bên cạnh đó, cơ quan quản lý cần ban hành chính sách hỗ trợ tài chính, tín dụng xanh, đào tạo kỹ thuật và xây dựng mô hình trình diễn tại các địa phương trọng điểm nuôi tôm. Tóm lại, mô hình nuôi tôm tuần hoàn tích hợp đa loài IMTA-RAS không chỉ là bước tiến về mặt kỹ thuật mà còn là chiến lược phát triển bền vững cho ngành tôm Việt Nam. Mô hình xứng đáng được khuyến khích nhân rộng nhằm hướng tới một ngành thủy sản hiện đại, thân thiện môi trường và có khả năng thích ứng cao trước những biến động của thị trường và khí hậu.

Trích từ nguồn tạp chí Aquaculture Engineering Journal

Tài liệu tham khảo Nhut, N., Tung, N.T., 2025. Design and performance of a zero-discharge integrated multi-trophic aquaculture recirculation system for the intensive culture of whiteleg shrimp (Litopenaeus vannamei). Aquac Eng 102589. https://doi.org/10.1016/j. aquaeng.2025.102589.

Khách hàng C.P. Việt Nam

CPF-Turbo G21

C.P. Việt Nam xác nhận kỷ lục 15 con/kg tại khu nuôi khách hàng Đoàn Ngọc Thú và khách hàng Vũ Trường Giang tại tỉnh Cà Mau

Nhân viên C.P. Việt Nam cùng anh Quyền thăm tôm giống CPF-Turbo G21 chinh phục kỷ lục 15 con/kg

Là sản phẩm tôm giống được C.P. Việt Nam cho ra mắt vào đầu năm 2025, tôm giống thế hệ mới CPF-Turbo G21 mang các ưu điểm nổi bật như: Tôm giống 100% sạch bệnh, sức đề kháng đỉnh cao, tốc độ lớn nhanh vượt trội và khả năng nuôi về kích cỡ lớn 15-12con/kg. Được đông đảo Quý khách hàng trên khắp cả nước đón nhận sau hơn 5 tháng cho ra mắt, tôm giống

C.P. Việt nam tiếp tục khẳng định vị thế của mình với hiệu quả nuôi xuất sắc, hàng loạt kỷ lục 15con/kg đã được xác lập.

Tiên phong chọn thả tôm giống CPF-Turbo G21 ngay sau thời điểm ra mắt, trong vụ nuôi vừa qua anh Phạm Văn Quyền tại huyện Năm Căn tỉnh Cà Mau đã xuất sắc đưa đàn tôm của mình xác lập kỷ lục 15 con/kg đầu tiên trong năm nay vô cùng ấn tượng.

Giải pháp nuôi hiệu quả Có dịp gặp gỡ anh Quyền vào tháng 6/2025, chúng tôi được anh cho biết hiện tại anh có 16 trang trại đang vận hành theo mô hình CPFCombine từ C.P. Việt Nam. Với gần 120 ao nuôi, mỗi năm các trang trại của anh cung cấp cho thị trường hàng trăm tấn tôm thịt chất lượng cao. Chia sẻ về giải pháp nuôi giúp đạt hiệu quả

Nhân viên C.P. Việt Nam cùng anh Quyền trong buổi thu hoạch tôm CPF-Turbo G21 kích cỡ 15 con/kg

cao, anh Quyền cho biết anh luôn tin chọn sử dụng các sản phẩm chất lượng cao đến từ C.P. Việt Nam. Trong vụ nuôi đầu năm 2025 này, ngay sau khi tham dự sự kiện ra mắt dòng sản phẩm tôm giống mới CPF-Turbo G21 về, các khu nuôi anh đã đồng loạt chọn thả tôm giống C.P., đồng thời sử dụng các sản phẩm thức ăn cùng chế phẩm sinh học đến từ C.P. Việt Nam và cho hiệu quả vượt trội.

Dẫn chúng tôi ra thăm khu nuôi tôm số 9 đang tiến hành cho thu hoạch, anh Quyền chia sẻ: “C.P. Việt Nam luôn tiên phong đưa ra những giải pháp mới, thích ứng với điều kiện nuôi ngày càng khắc nghiệt. Điển hình như tôm giống CPF-Turbo G21 năm nay có tốc độ lớn rất nhanh, sức đề kháng cao, chống chịu được với thời tiết dịch bệnh phức tạp và tỷ lệ sống cao. Hiện tại, riêng khu nuôi số 9 này, đầu năm nay tôi đã cho thu hoạch hơn 60 tấn tôm kích cỡ 30 về lớn, trong đó có lô đạt kích cỡ kỷ lục 15con/ kg với tổng sản lượng 16,2 tấn tôm.”

Tận mắt chứng kiến lứa tôm kích cỡ 15 con/ kg đang cho thu hoạch, chúng tôi được anh

Quyền chia sẽ thêm: “Bằng việc kết hợp sử dụng thức ăn công nghệ dinh dưỡng đột phá từ

C.P. như Goal Care, Nasa, Goal Fast. Tôm giống

C.P. không chỉ lớn nhanh, có sức đề kháng cao,

mà còn giúp tôm chắc thịt, đẹp màu, bán được oxy với giá cao, thương lái rất yêu thích.”

Hướng đi bền vững

Bên cạnh gặt hái được nhiều thành tựu trong đầu tư nuôi tôm, anh Quyền cũng là đại lý phân phối rất có uy tín trong khu vực. Nền tảng vững chắc từ kinh nghiệm sản xuất thành công chính là thế mạnh của Đại lý trong việc hỗ trợ dịch vụ kỹ thuật cho khách hàng của mình.

Bằng việc tin tưởng sử dụng 100% tôm giống, thức ăn C.P. Việt Nam cùng các sản phẩm Biotic chất lượng cao, trong vụ nuôi đầu năm nay hệ thống khách hàng của anh Quyền cùng xác lập thêm 2 kích cỡ kỷ lục 15 con/kg vô cùng ấn tượng.

Có thể nói trong điều kiện thị trường giá tôm còn nhiều động, nhưng với giải pháp hoàn chỉnh từ C.P. Việt Nam chính là “chìa khoá thành công” giúp Quý khách hàng tự tin nuôi tôm về kích cơ lớn, đảm bảo tối ưu lợi nhuận.

Xin cám ơn anh Quyền và Quý khách hàng đã luôn tin yêu, đồng hành cùng C.P. Việt Nam. Kính chúc anh và Quý khách hàng có những vụ mùa thành công thắng lợi, xin trân trọng.

C.P. Việt Nam

sức khỏe (phần 2)

Cũng giống như con người, mỗi loài cá có

nhu cầu dinh dưỡng

khác nhau – và cá hồi

không phải ngoại lệ.

Việc nắm rõ đặc điểm

sinh học từng giai đoạn phát triển, từ cá bột

đến cá trưởng thành và

cá bố mẹ, sẽ giúp nhà

sản xuất xây dựng công

thức thức ăn phù hợp, nâng cao hiệu quả tăng

trưởng, tối ưu chi phí

và duy trì sức khỏe cho đàn cá.

Mức Astaxanthin trong thức ăn

Hàm lượng Astaxanthin trong

thức ăn là một yếu tố quan trọng

ảnh hưởng đến mức Astaxanthin

trong cơ của cá hồi. Một số

nghiên cứu đã chỉ ra rằng, khi

hàm lượng Astaxanthin trong

thức ăn thấp nhưng cho cá ăn

trong thời gian dài cũng dẫn đến

hàm lượng tích trữ trong cơ cao.

Do đó, sự tích trữ Astaxanthin

xảy ra dần dần theo thời gian

cùng với sự tăng trưởng của cá.

Ngoài ra, khi tăng hàm lượng astaxanthin trong thức ăn sẽ

dẫn đến sự gia tăng Astaxanthin

trong cơ. Mức astaxanthin trong

thức ăn khoảng 40 – 60 mg/kg

được nghiên cứu là có hiệu quả

cho sắc tố tối ưu ở cá hồi. Mức Astaxanthin thực tế trong thức

ăn thương mại cho cá hồi hiện nay thường vào khoảng 50 – 70 mg/kg.

Thành phần thức ăn Astaxanthin là một sắc tố hòa

tan trong chất béo và việc tăng hàm lượng chất béo trong thức

ăn đã được chứng minh là có cải thiện khả năng tiêu hóa và tích trữ Astaxanthin ở cả cá hồi

Đại Tây Dương và cá hồi vân. Tuy nhiên, sự tăng lên về màu sắc

khó nhận biết được bằng mắt, có

thể được giải thích là do sự gia

tăng của chất béo trong cơ khi

tăng hàm lượng chất béo trong thức ăn. Một số nguyên liệu thô được biết là ảnh hưởng đến sắc

tố cơ, theo hướng tích cực hoặc tiêu cực. Skretting liên tục đánh giá tác động của nguyên liệu thô lên sự hấp thụ và tích trữ sắc tố trên cá. Việc sử dụng bột gluten bắp là một ví dụ phổ biến về việc tăng hàm lượng một nguyên liệu thô trong thức ăn làm giảm sắc tố ở cá hồi. Gluten bắp có

chứa carotenoids vàng, lutein và zeaxanthin. Các chất này không

được tích trữ trong cơ cá hồi nhưng có thể cản trở quá trình hấp thụ astaxanthin. Kiến thức về cách các nguyên liệu thô khác nhau, khi sử dụng riêng lẻ hoặc kết hợp, ảnh hưởng đến sắc tố là rất quan trọng trong công thức thức ăn để đảm bảo sắc tố tối ưu ở các loài cá hồi.

rằng cả những cá thể có ít sắc tố nhất cũng đạt được màu mong muốn. Mức sắc tố cao trong thức ăn không đảm bảo rằng cả đàn cá sẽ đạt được mức astaxanthin mong muốn. Nhiều yếu tố, bao gồm sự khác biệt về tiêu hóa, hấp thụ, vận chuyển sắc tố trong máu và lưu trữ ở cấp độ cá thể có thể dẫn đến độ lệch về màu sắc. Hơn nữa, quá trình thành thục có thể làm giảm sắc tố trong cơ của cá thành thục so với khi cá chưa thành thục. Sự khác biệt về hàm lượng astaxanthin cũng có thể thấy ở những phần khác nhau trên cùng một miếng phi lê. Hàm lượng sắc tố ở phần sau (vùng đuôi) có thể cao hơn 30 – 40 % so với phần trước của miếng phi lê. Tăng liều lượng sắc tố trong thức ăn sẽ làm tăng hàm lượng

sắc tố trong cơ và ảnh hưởng đến ấn tượng thị giác. Tuy nhiên, khi

hàm lượng sắc tố trong cơ thịt cá trên 6 – 8 mg/kg cá, mắt người sẽ ít có khả năng nhận biết sự khác biệt giữa các mẫu. Điều này

chứng tỏ sự khác biệt về màu sắc rất khó phân biệt ở những mức astaxanthin quá cao như vậy khi quan sát bằng mắt. Skretting khuyến cáo bắt đầu cho cá ăn

thức ăn có sắc tố sớm đối với cá hồi vân để tối đa hóa quá trình tích trữ sắc tố trong cơ và giảm thiểu sự khác biệt về màu sắc giữa các cá thể trong đàn.

Phương pháp đo màu Do sự khác nhau của màu sắc

thịt cá, như đã đề cập ở trên, người nuôi cá cần có thông tin về hàm lượng sắc tố có trong sản phẩm.

Việc đánh giá màu sắc trực quan thường được thực hiện bằng quạt đo màu như DSM SalmoFan™, đây là một công

cụ được công nhận rộng rãi và thường được sử dụng trong ngành nuôi cá hồi. SalmoFan có điểm màu từ 20 đến 34, trong đó

số cao biểu thị màu đỏ đậm hơn

và ngược lại. Cá hồi khi đạt cỡ thu hoạch thường có điểm màu

cơ vào khoảng 25 – 27 trên thang

SalmoFan, nhưng điều này phụ

thuộc rất nhiều vào kỳ vọng của khách hàng và thị trường. Đánh

giá màu sắc bằng mắt là phép đo

chủ quan và kết quả có thể khác

biệt giữa những người đánh giá

khác nhau. Cần cẩn thận chuẩn

hóa các điều kiện khi thực hiện

các phép đo như vậy. Để giảm

thiểu sự sai biệt của kết quả quan

sát, cần sử dụng những người

đánh giá được đào tạo và điều

kiện ánh sáng chuẩn hóa (hộp

đèn). Gần đây, các phương pháp

kỹ thuật số để đánh giá màu sắc đã được phát triển giúp loại trừ

sự khác biệt do con người như trên. Trên thị trường hiện nay có

nhiều ví dụ về phương pháp phân tích hình ảnh của mẫu cá, hoặc phép đo màu kỹ thuật số.

Sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC) là phương pháp phân tích chính xác và được ưa chuộng nhất để tách và định lượng sắc

tố carotenoids. Nguyên lý của

phương pháp này là chiết xuất

sắc tố từ mẫu thịt bằng dung môi và sau đó tách riêng các sắc tố carotenoids khác nhau để đo

lường. Phổ hồng ngoại gần (NIR) là một kỹ thuật phân tích khác mà Skretting đã phát triển các

mô hình hiệu chuẩn chính xác

để xác định lượng astaxanthin và

các thành phần chính khác trong

mẫu thịt cá.

Những phát triển mới và triển

vọng tương lai

Ngành nuôi trồng thủy sản

đang không ngừng tăng trưởng

và phát triển để đáp ứng nhu cầu

thị trường về các sản phẩm cá

hồi. Thành phần thức ăn và công

nghệ nuôi đã thay đổi đáng kể trong những thập kỷ qua. Hiện

tại, thông tin về tác động của

những thay đổi như vậy đối với

sắc tố ở các loài cá hồi còn hạn

chế. Skretting có hơn 30 năm kinh nghiệm trong việc theo dõi

chất lượng cá và sắc tố phi lê và chúng tôi sẽ tiếp tục phát triển năng lực và chuyên môn này để hỗ trợ khách hàng đạt được các

sản phẩm cao cấp.

Stella CH Với sức hút ngày càng tăng

của thị trường Việt Nam đối với

các sản phẩm cá hồi, việc sản

xuất cá hồi vân hiệu quả trong

giai đoạn nuôi thương phẩm trở

nên quan trọng hơn bao giờ hết.

Stella CH là thức ăn cho cá hồi

mới nhất của Skretting Vietnam

được thiết kế riêng để đáp ứng

các nhu cầu của cá và hỗ trợ

tăng trưởng nhanh trong quá

trình nuôi. Stella CH giúp người nuôi cá hồi tối đa hóa hiệu quả

sản xuất và cung cấp chất lượng

phi lê cao cấp với kết cấu phi lê

tốt hơn và sắc tố cân bằng.

Stella CH được phát triển dựa

trên nhu cầu dinh dưỡng đặc biệt

của cá hồi vân và 4 yếu tố chính

được cân nhắc là: (1) Đạm và

axit amin dành riêng cho sự phát triển cơ, (2) Năng lượng cao và

cải thiện việc sử dụng chất béo, (3) Mức vitamin và khoáng chất

tối ưu để tăng trưởng nhanh, và

(4) Hỗ trợ sức khỏe.

Nhờ công thức chính xác, tiết

kiệm chi phí, và sự cân bằng giữa năng lượng và đạm, quá trình hấp thụ và sử dụng chất dinh dưỡng

đạt hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, một chất tăng năng suất được đưa vào công thức để cải thiện quá trình chuyển hóa và vận chuyển chất béo vào manh tràng môn vị, đây là phần ruột nơi hầu hết chất béo được hấp thụ. Quá trình này giúp cá tăng trưởng tốt hơn và chất lượng phi lê cao cấp đồng thời ngăn ngừa tích tụ chất béo trong ruột và gan. Hiểu được tầm quan trọng của màu sắc phi lê, Stella CH đã được thiết kế để bắt đầu quá trình tích trữ sắc tố càng sớm càng tốt và duy trì hàm lượng trong thức ăn khi lượng sắc tố trong cơ đã đạt đến mức cần thiết. Vì carotenoids có tác dụng bảo vệ chống lại quá trình oxy hóa trong cả thức ăn và trong cơ thể cá, nên tác động của nguyên liệu đối với sắc tố cũng được cân nhắc khi lựa chọn nguyên liệu. Cuối cùng, Stella CH đã được thêm vào một hỗn hợp dinh dưỡng cao cấp dựa trên chuyên môn của Selko với các axit hữu cơ mạch trung bình và mạch ngắn, Beta-glucan, nucleotides và hàm lượng vitamin và khoáng chất cao giúp hỗ trợ hệ thống miễn dịch và hệ vi sinh đường ruột khỏe mạnh, giảm nguy cơ nhiễm bệnh trong suốt vụ nuôi và cải thiện phúc lợi cho cá.

(Hoài An lược dịch)

Chinh phục đại dương

Cuộc đua nuôi biển ngoài khơi và cơ hội cho châu Á

Nuôi biển xa bờ đang trở thành lời giải cho bài toán quá tải ven bờ và biến đổi khí hậu. Cuộc đua công nghệ nuôi biển trị giá hàng tỷ USD đang nóng lên, đặt châu Á – trung

tâm thủy sản toàn cầu trước ngã

rẽ: Bứt phá hay tụt hậu?

Đi trước bằng công nghệ Sức ép từ ô nhiễm, dịch bệnh, và đô thị hóa ven biển đang buộc ngành nuôi trồng thủy sản phải dịch chuyển ra xa bờ – nơi có không gian rộng hơn, môi trường trong sạch hơn và dòng chảy mạnh hơn giúp vật nuôi tăng trưởng tốt hơn. Theo FAO, nuôi biển ngoài khơi là phân khúc tăng trưởng nhanh nhất trong ngành thủy sản, với tiềm năng đóng góp gấp đôi sản lượng hiện tại vào năm 2050.

Na Uy là hình mẫu tiêu biểu cho nuôi biển công nghệ cao, với hơn 1,5 triệu tấn cá hồi mỗi năm, phần lớn đến từ các lồng nuôi ngoài khơi quy mô công nghiệp. Các dự án như Ocean

theo vùng thay vì từng điểm, mở rộng khu vực nuôi và yêu cầu doanh nghiệp lập kế hoạch tổng thể, đầu tư hạ tầng hiện đại, đảm bảo an toàn sinh học. Ngoài ra, doanh nghiệp muốn tham gia đấu thầu phải đáp ứng tiêu chí năng lực kỹ thuật. Trung Quốc hiện chiếm khoảng 65% sản lượng nuôi biển toàn cầu, chủ yếu nhờ sự kết hợp giữa quy mô khổng lồ và các công nghệ tiên tiến. Các giàn nuôi Deep Blue 1,  Guoxin 1 hay loạt lồng thép ngoài khơi

Đông Hải cho thấy tầm nhìn dài hạn trong chiến lược thủy sản quốc gia. Trung Quốc cũng đang thúc đẩy các trang trại nuôi cá biển xuất khẩu sang Hàn Quốc, Nhật Bản, và châu Âu.

Dù đi sau, Mỹ đang tăng tốc đầu tư vào nuôi biển ngoài khơi, với mục tiêu đạt sản lượng 500.000 tấn/năm vào năm 2040. Các dự án như Velella Epsilon tại Florida hay kế hoạch phát triển vùng nuôi ở Vịnh Mexico và Hawaii cho thấy, Mỹ không muốn bị bỏ lại trong cuộc đua “xanh” giữa lòng đại dương.

Thị trường nhiều dư địa

Thị trường tiêu thụ cá biển nuôi đang tăng trưởng mạnh mẽ, khi người tiêu dùng toàn cầu ngày càng ưu tiên thực phẩm sạch, tươi

sống và truy xuất được nguồn gốc. Từ châu Âu đến châu Á, phân khúc nhà hàng, sashimi và chế biến cao cấp sẵn sàng chi trả cao cho sản phẩm cá biển nuôi bền vững.

Cá hồi Na Uy là minh chứng điển hình.

Dẫn đầu thế giới về sản lượng cá hồi Đại Tây

Dương, Na Uy xuất khẩu hơn 1,3 triệu tấn trong năm 2023, trị giá gần 13 tỷ USD. Cá hồi

Na Uy hiện có mặt tại hơn 150 quốc gia, chủ yếu là châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và

Hàn Quốc, với chuỗi cung ứng lạnh toàn cầu và quy trình kiểm soát chất lượng chặt chẽ.

Tại châu Á, Nhật Bản nổi tiếng là thị trường khó tính, đặc biệt trong phân khúc cá sashimi.

Các loài cá mú như cá mú chấm cam, song hoa rất được ưa chuộng nhờ chất lượng thịt vượt trội. Nhật Bản nhập khẩu hàng chục nghìn tấn cá mú tươi sống mỗi năm từ Đông

Nam Á, bên cạnh các loài như cá cam Nhật

Bản, cá hồng, cá chim vây vàng, cobia phục vụ riêng cho thị trường nhà hàng cao cấp. Giá

các sản phẩm này thường cao gấp 3-5 lần so

với cá nước ngọt thông thường.

Sự gia tăng tầng lớp trung lưu tại Trung

Quốc, Ấn Độ, Indonesia cũng góp phần thúc

đẩy nhu cầu tiêu thụ cá biển nuôi sạch và có thương hiệu. Ngay cả Trung Quốc, vốn là

nước sản xuất lớn, cũng trở thành thị trường tiêu thụ mạnh cho cá hồi, cá cam hay cá

chẽm nhập khẩu hoặc nuôi công nghệ cao trong nước. Trong khi đó, châu Âu và Bắc Mỹ tiếp tục ưu tiên sản phẩm có chứng nhận bền vững và kiểm soát chất lượng nghiêm ngặt.

Trước xu thế toàn cầu hướng tới thực phẩm chất lượng cao, cá biển nuôi tại châu Á đứng trước cơ hội lớn. Nếu đầu tư đồng

thị trường rõ ràng, ngành có thể chuyển dịch từ sản lượng sang chất lượng bền vững, sinh lời cao và có vị thế trên thị trường thực phẩm thế giới.

Châu Á tăng tốc Hiện chiếm hơn 80% sản lượng thủy sản nuôi toàn cầu, nhưng phần lớn hoạt động nuôi trồng ở châu Á vẫn tập trung tại vùng nước ngọt và ven bờ. Với lợi thế đường bờ biển dài, nhiều vịnh kín và nguồn lợi cá biển bản địa giá trị cao, khu vực này được xem là tâm điểm tiềm năng cho nuôi biển ngoài khơi. Trước thách thức thiếu đất nuôi trồng và tác động của biến đổi khí hậu, Singapore đang tiên phong phát triển mô hình nuôi biển xa bờ công nghệ cao nhằm đảm bảo an ninh lương thực. Nổi bật là trang trại nổi Eco-Ark tại vùng biển Pulau Ubin, được thiết kế như một hệ thống nuôi khép kín với công nghệ RAS. EcoArk có thể sản xuất tới 166 tấn cá mỗi năm, gấp gần 20 lần lồng nuôi truyền thống mà chỉ cần 2 nhân công vận hành. Hệ thống còn được tích hợp trí tuệ nhân tạo, cảm biến và camera để theo dõi sức khỏe đàn cá và tối ưu cho ăn. Đây là một phần trong chiến lược “30 by 30” của Singapore – hướng đến sản xuất 30% nhu cầu thực phẩm trong nước vào năm 2030. Indonesia đang triển khai nuôi cá hồng, cá song bằng lồng composite cỡ lớn xa bờ Java và Sulawesi, bước đầu cho kết quả khả quan. Philippines đẩy mạnh nuôi cá ngừ, cá hồng tại Nam Mindanao, tận dụng lợi thế thị trường Nhật Bản. Ấn Độ đầu tư vào cá cobia và chẽm tại Tamil Nadu và Kerala, với hỗ trợ từ chính phủ. Tuy nhiên, chi phí đầu tư lớn, rủi ro thiên tai, thiếu quy hoạch vùng nuôi và nguồn giống chất lượng vẫn là rào cản đáng kể. Dù vậy, với sự hậu thuẫn từ chính sách, công nghệ và khu vực tư nhân, châu Á hoàn toàn có thể phát triển các vùng nuôi biển hiện đại, quy mô lớn và bền vững.

Nuôi biển ngoài khơi không còn là lựa chọn mà là xu hướng tất yếu – nhằm bảo đảm an ninh lương thực, nâng cao giá trị sản phẩm và giảm áp lực lên vùng ven bờ. Nếu hành động quyết liệt, châu Á hoàn toàn có thể trở thành trung tâm nuôi biển ngoài khơi của thế giới trong thập kỷ tới.

Tuấn

Xuất khẩu cá ngừ phục hồi trong tháng 5/2025, doanh nghiệp tăng tốc giao hàng sang Mỹ

Xuất khẩu cá ngừ của Việt

Nam trong tháng 5/2025

đạt hơn 91 triệu USD – mức cao nhất từ đầu năm đến nay, tăng 8% so với cùng kỳ 2024. Sau thời gian chững lại do lo ngại về “thuế đối ứng” từ Mỹ, xuất khẩu sang thị trường này bất ngờ tăng

mạnh 37% trong tháng 5, cho thấy các doanh nghiệp đã chủ động đẩy nhanh giao hàng trước thời điểm kết thúc giai đoạn hoãn thuế 90 ngày (9/7/2025). Ngược lại, xuất khẩu sang EU lại sụt giảm 11%. Trong khi xuất khẩu sang Hà Lan và Italy vẫn tăng nhẹ (lần lượt 11% và 15%), thì thị trường Đức lại giảm sâu. Tại khu vực Trung Đông, xung đột giữa Israel và Iran tiếp tục ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động xuất khẩu, khiến kim ngạch sang Israel giảm 42%, sang Ảrập Xêút và UAE giảm lần lượt 89% và 52%.

Thanh Hóa - Nghệ An Giá tép biển phơi khô tăng cao, hút hàng thương lái

Mùa khai thác tép biển (hay moi) vụ Chiêm tại các làng chài ven biển Thanh Hóa - Nghệ An (tháng 6 - 7 âm lịch) đang diễn ra nhọc nhằn nhưng đem về giá trị kinh tế cao. Giá tép tươi hiện dao động từ 12.00014.000 đồng/kg; nhưng nếu phơi đủ nắng đạt chất lượng khô, giá tăng lên 65.000 - 68.000 đồng/kg, gấp khoảng 5 lần so với tép tươi. Khổ nạn của nghề khai thác tép là phụ thuộc hoàn toàn vào thời tiết: Nắng lớn thì phơi nhanh, chất lượng tốt, giá cao; trời “ẩm ương” là phải bán tươi, dễ bị ép giá. Hiện tại là đầu mùa, tép còn nhỏ nhưng thương lái thu mua sẵn sàng, giúp người dân có nguồn vốn tiếp tục khai thác. Nhờ giá khô cao, thu nhập tăng rõ rệt so với khai thác tép tươi, hỗ trợ tận gốc chuỗi giá trị sản phẩm biển nhỏ lẻ này.

Hải Dương

Giá cá xuống thấp, nhiều hộ nuôi đối mặt nguy cơ thua lỗ

Giá cá nước ngọt tại Hải Dương đang ở mức thấp, khiến người nuôi gặp nhiều khó khăn. Ngày 24/6, cá rô phi loại 2,5 kg/con được bán với giá 33.000 đồng/kg, cá trắm cỏ 4 - 5 kg/con có giá 50.000 - 52.000 đồng/kg, cá chép 3 kg/con ở mức 40.000 - 42.000 đồng/ kg, giảm 5.000 - 10.000 đồng/kg so với cùng kỳ năm trước. Với mức giá này, người nuôi chỉ lãi khoảng 3.000 đồng/kg, thậm chí có thể lỗ nếu gặp rủi ro như cá mắc bệnh hay hao hụt trong quá trình nuôi. Nhiều hộ phải nuôi cầm chừng, hoặc bỏ ao trống để tránh thua lỗ. Theo người dân, giá cá giảm chủ yếu do phải qua nhiều khâu trung gian, khiến giá thu mua tại ao thấp trong khi giá bán lẻ vẫn cao. Ngoài ra, nguồn cung thực phẩm thay thế như thịt gà, tôm và thịt lợn hiện khá dồi dào, làm giảm nhu cầu tiêu thụ cá trên thị trường.

Quảng Trị

Ngư dân phấn khởi vào vụ cá Nam, sản lượng đạt gần 50% kế hoạch năm

Những ngày cuối tháng 6, thời tiết ổn định sau bão số 1 tạo điều kiện thuận lợi để ngư dân Quảng Trị vươn khơi khai thác vụ cá Nam – vụ đánh bắt chính trong năm (từ tháng 4 - tháng 9). Theo Sở NN&PTNT tỉnh, từ đầu vụ đến nay, sản lượng thủy sản toàn tỉnh đạt khoảng 14.300 tấn, tương đương 47,5% kế hoạch cả năm. Hiện có khoảng 100 tàu cá đang hoạt động trên các ngư trường truyền thống, chủ yếu bằng nghề lưới vây, chụp và câu. Nhiều tàu đánh bắt đạt hiệu quả cao, mỗi chuyến thu về 4 - 5 tấn cá, doanh thu từ 100 - 150 triệu đồng. Thuyền viên được trả lương từ 7 - 15 triệu đồng/tháng, tùy tàu và sản lượng.

Quảng Ngãi

Cua Huỳnh đế mang trứng được thu mua giá cao để thả về biển

Vào cao điểm mùa sinh sản cua Huỳnh đế (tháng 3 - 6), một trong những loài hải sản quý có giá trị kinh tế cao, thị trường ghi nhận mức thu mua đặc biệt dành cho những cá thể mang trứng. Tại huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), giá cua Huỳnh đế mang trứng dao động từ 700.000800.000 đồng/kg - cao hơn khoảng 15 - 20% so với giá thị trường thông thường. Ngày 6/6, Ban Quản lý Khu bảo tồn biển Lý Sơn phối hợp nhóm thiện nguyện đã thu mua 35 con cua Huỳnh đế mang trứng với tổng trọng lượng hơn 8 kg và thả lại về môi trường biển tự nhiên.

Giá cá điêu hồng tăng mạnh nhờ tín hiệu xuất khẩu

Nghề nuôi cá điêu hồng tại hồ Định Bình tỉnh Gia Lai đang đón nhận tín hiệu tích cực khi Công ty TNHH Mãi Tín Bình Định - doanh nghiệp 100% vốn Nhật Bản - bắt đầu thu mua cá điêu hồng làm sashimi phục vụ thị trường Nhật. Giá thu mua hiện đạt 60.000 - 65.000 đồng/kg, tăng 10.000 - 15.000 đồng so với năm trước. Hiện sản phẩm cá điêu hồng tại đây chủ yếu tiêu thụ nội địa. Tuy nhiên, mô hình nuôi còn manh mún, thiếu liên kết và chưa đồng đều về chất lượng giống, vật tư. Để mở rộng xuất khẩu sang châu Âu, doanh nghiệp đề xuất tỉnh hỗ trợ xây dựng vùng nuôi an toàn thực phẩm và hoàn thiện hồ sơ pháp lý.

An Giang Khai thác thủy sản đạt 170.000 tấn, hướng tới chuỗi xuất khẩu bền vững

Từ đầu năm đến nay, Kiên Giang (nay là An Giang) đạt tổng sản lượng thủy sản khai thác và nuôi trồng hơn 304.240 tấn, đạt 36,6% kế hoạch năm và tăng 9,8% so cùng kỳ; riêng khai thác thu về khoảng 169.759 tấn – tương đương 40,4% kế hoạch. Tỉnh đang tái cơ cấu ngành nghề theo hướng bền vững: giảm khai thác ven bờ, đẩy mạnh khai thác vùng khơi và ưu tiên phương thức khai thác thân thiện với môi trường. Các loài chủ lực như cá chim, cá ngừ, cá cơm, tôm biển, mực, ghẹ… đều duy trì sản lượng ổn định.

Canada

Nguồn cung khan hiếm, giá cua tuyết

Thị trường cua tuyết tại Newfoundland tuần này ghi nhận giá tăng nhẹ ở nhóm kích cỡ 5-8, trong khi các kích cỡ còn lại giữ mức ổn định.

Tuy nhiên, sự chênh lệch giá giữa loại 5-8 và loại lớn hơn (8-up) đang trở thành điểm nóng của ngành. Theo các bên trong chuỗi cung ứng, cua tuyết cỡ lớn, đặc biệt là phân loại 8-up và 10-up, vốn đã khan hiếm, nay càng hiếm hơn trong mùa vụ năm nay, khiến việc thu mua trở nên khó khăn hơn so với những năm trước. Hiện tại, mức chênh lệch giữa cua 5-8 và 8-up đã tăng lên 5,25 USD/kg, so với 4,40 USD cùng kỳ năm ngoái và chỉ 1,68 USD vào đầu tháng 7/2023. Sự giãn rộng này cho thấy đồng thời nhu cầu gia tăng đối với cua cỡ nhỏ và tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng nguồn cung cua cỡ lớn.

mahi
áp

Thị trường cá mahi (cá nục heo) đang đối mặt với tình trạng khan hiếm nguồn cung nghiêm trọng và giá tăng kỷ lục. Sản lượng toàn cầu giảm mạnh do vụ khai thác yếu tại Trung và Nam Mỹ – khu vực chiếm phần lớn nguồn cung. Nhiều nhà nhập khẩu chuyển sang châu Á, nhưng lượng cá tại đây vẫn không

dù xuất khẩu từ khu vực này tăng 72,8% và lần đầu vượt Trung - Nam Mỹ. Việt Nam dẫn đầu nguồn cung châu Á với 3,3 triệu pound, song tổng lượng vẫn thấp hơn mức tối thiểu năm 2016-2017. Thị trường còn chịu thêm sức ép từ bất ổn thương mại, đặc biệt khi thỏa thuận tạm hoãn áp thuế của Mỹ sắp hết hiệu lực vào ngày 9/7. Nếu không được gia hạn, thuế nhập khẩu với cá mahi từ Việt Nam và Indonesia có thể tăng vọt trở lại, gây thêm khó khăn cho ngành giữa bối cảnh nguồn cung toàn cầu vẫn chưa hồi phục.

Hàn Quốc Giảm nhập khẩu cá đuối đông lạnh giữa biến động cung - cầu

Nhập khẩu cá đuối đông lạnh vào Hàn Quốc trong 5 tháng đầu năm 2025 đạt 2.836 tấn, giảm 3% so với cùng kỳ năm ngoái, cho thấy nhu cầu tiêu thụ yếu hơn và sự dịch chuyển trong nguồn cung. Riêng tháng 5, sản lượng nhập khẩu giảm mạnh 18% xuống còn 558 tấn. Tuy nhiên, giá nhập khẩu trung bình lại tăng nhẹ 2%, lên mức 3,84 USD/kg. Mỹ tiếp tục là nguồn cung lớn nhất, chiếm 42% với 1.181 tấn, theo sau là Argentina (669 tấn), Nga (236 tấn), Việt Nam (169 tấn) và Indonesia (151 tấn). Về giá, Tây Ban Nha dẫn đầu với mức cao nhất 5,77 USD/kg, trong khi Suriname (Nam Mỹ) có mức giá thấp nhất chỉ 1,98 USD/kg. Tổng giá trị nhập khẩu cá đuối đông lạnh trong tháng 5 đạt 1,90 triệu USD, giảm 18% so với cùng kỳ, đưa tổng kim ngạch 5 tháng đầu năm xuống còn 10,89 triệu USD, giảm nhẹ 1% so với năm ngoái. Dù chỉ chiếm 0,73% trong tổng lượng thủy sản nhập khẩu, cá đuối đông lạnh vẫn giữ vị thế là mặt hàng ngách có chỗ đứng riêng trong thị trường thủy sản Hàn Quốc.

Trung Quốc

Tự chủ nuôi

tôm, xuất khẩu từ Ecuador và Ấn Độ lao đao

Trung Quốc đang tăng tốc nuôi tôm trong nước, đẩy mạnh công nghệ nhà kính và nhận trợ cấp chính phủ. Dự kiến đến năm 2032, sản lượng nội địa đạt 3,5 triệu tấn, gần như đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ và khiến nhập khẩu giảm mạnh từ gần 1 triệu tấn xuống chỉ còn 60.000 tấn. Ecuador, hiện chiếm 73% lượng tôm nhập khẩu vào Trung Quốc, bị ảnh hưởng nặng, đối mặt dư cung và giá giảm sau giai đoạn xuất khẩu tăng mạnh. Tại Mỹ, nhu cầu yếu và thuế quan khiến nhập khẩu tôm suy giảm, buộc Ecuador và Ấn Độ tìm hướng đi mới. Ấn Độ có lợi thế về chế biến sâu nhưng nông dân gặp khó vì giá giảm, nhiều người cân nhắc chuyển sang nuôi tôm sú. Trong bối cảnh thị trường lớn co hẹp, các nước xuất khẩu buộc phải mở rộng sang EU, Trung Đông và Đông Nam Á.

Trung Quốc

Giá cá rô phi vẫn ổn định sau bão

Bất chấp bão Hudie đổ bộ vào Hải Nam và Quảng Đông ngày 14/6, giá cá rô phi tại Trung Quốc vẫn ổn định. Tại Trạm Giang và Mậu Danh (Quảng Đông), cá cỡ 500-800g được thu mua ở mức 8,3 NDT/kg (1,16 USD), giảm nhẹ 0,1 NDT. Giá tại Hải Nam và Quảng Tây giữ nguyên lần lượt 8,2 và 8,6 NDT/kg. Bão mang theo gió mạnh cấp 11 nhưng không gây thiệt hại lớn cho các trại nuôi, chỉ làm chậm thu hoạch tại một số nơi. Dự kiến mùa thu hoạch lớn tiếp theo sẽ bắt đầu từ cuối tháng 6. Tại Mỹ, giá fillet cá rô phi đông lạnh tuần qua nhìn chung ổn định, dù chịu ảnh hưởng từ mức thuế 55% áp với hàng Trung Quốc. Trong khi đó, nguồn cung fillet tươi từ Brazil và Colombia vẫn dồi dào, nhưng thị trường có thể đối mặt áp lực giảm giá nếu nhu cầu vào mùa hè không tăng.

Ấn Độ Giảm thuế nhập khẩu tôm Mỹ để tháo gỡ căng thẳng

thương mại

Chính phủ Ấn Độ đang xem xét hạ thuế nhập khẩu tôm từ Mỹ nhằm tạo thế cân bằng trong đàm phán Thỏa thuận thương mại song phương (BTA). Động thái này được kỳ vọng sẽ giúp giảm căng thẳng xoay quanh các mức thuế cao mà Mỹ đang áp lên tôm Ấn Độ, gồm 17,7% tổng thuế (trong đó có 5,77% thuế chống trợ cấp, 1,8% thuế chống bán phá giá và 10% thuế cơ bản). Đáp lại, Ấn Độ hiện đánh thuế 30% lên tôm tự nhiên từ Mỹ. Theo các quan chức, nếu Mỹ điều chỉnh chính sách thuế, New Delhi sẵn sàng linh hoạt hơn nhưng vẫn bảo vệ lợi ích ngành tôm nội địa. Việc giảm thuế sẽ giúp thúc đẩy xuất khẩu sang Mỹ – thị trường chiếm gần 1/3 tổng kim ngạch thủy sản xuất khẩu của Ấn Độ (trên 6 tỷ USD năm 2024-25). Nếu các mức thuế hiện hành được áp dụng đầy đủ, xuất khẩu thủy sản Ấn Độ sang Mỹ có thể giảm hơn 400 triệu USD, theo Tổ chức Sáng kiến Nghiên cứu Thương mại Toàn cầu (GTRI). Hiệp hội các nhà xuất khẩu thủy sản Ấn Độ kỳ vọng, vấn đề thuế sẽ được ưu tiên trong các vòng đàm phán sắp tới.

Sau thời gian tạm ngừng, chương trình “Chất lượng vàng Thủy sản Việt Nam”

đã chính thức quay trở lại vào năm 2025 và nhận được sự đón nhận tích cực từ cộng đồng thủy sản cả nước. Đây là cơ hội để các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân tiêu biểu

được tôn vinh vì những đóng góp bền bỉ cho sự phát triển của ngành thủy sản Việt Nam. Ra đời từ năm 2010, “Chất lượng vàng Thủy sản Việt Nam” là giải thưởng có quy mô quốc gia do Hội Thủy sản Việt Nam chủ trì, nhằm tôn vinh những cá nhân, tập thể có đóng góp nổi bật trong nuôi trồng, khai thác, chế biến và xuất khẩu thủy sản.

Trải qua nhiều mùa tổ chức thành công, danh hiệu ngày càng khẳng định uy tín và lan tỏa mạnh mẽ trong toàn ngành. Sự trở lại vào năm 2025 đánh dấu một cột mốc đáng chú ý, tiếp tục tiếp lửa cho những người đang nỗ lực vì một ngành thủy sản xanh – sạch – phát triển bền vững.

Chương trình “Chất lượng vàng Thủy sản Việt Nam” 2025 đã chính thức khởi động và nhận hồ sơ. Đây là cơ hội vinh danh dành cho cá nhân, tổ chức có đóng góp nổi bật trong ngành thủy sản.  Hỗ trợ cộng đồng, gắn bó với nông – ngư dân

Chính thức nhận hồ sơ tham dự mùa giải 2025

Thời gian nhận hồ sơ:

Từ nay đến ngày 1/9/2025

Hình thức nộp hồ sơ:

Cách 1: Đăng ký thông tin theo form:  TẠI ĐÂY

Cách 2: Gửi thư tới email: vietaquaawards@ gmail.com để được cán bộ chương trình trực tiếp hướng dẫn đăng ký

Cách 3: Liên hệ Hotline: 0383.299.231 (Ms. Nga Dang)

Đối tượng và tiêu chí tham gia

Chương trình hướng đến các tập thể, doanh nghiệp và cá nhân hoạt động trong toàn chuỗi giá trị ngành thủy sản.

Tiêu chí xét chọn gồm:

 Hiệu quả sản xuất – kinh doanh

 Ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo

 Đóng góp bảo vệ môi trường, nguồn lợi thủy sản Chương

 Thúc đẩy hội nhập và phát triển thương hiệu quốc gia

Danh hiệu “Chất lượng vàng Thủy sản Việt Nam” không chỉ là một phần thưởng, mà còn là sự ghi nhận xứng đáng cho những đóng góp âm thầm, bền bỉ vì một ngành thủy sản phát triển toàn diện và bền vững. Mỗi hồ sơ gửi về là một câu chuyện truyền cảm hứng, là minh chứng sống động cho tinh thần vượt khó, đổi mới và sáng tạo. Hãy nhanh tay gửi hồ sơ tham dự Danh hiệu “Chất lượng vàng Thủy sản Việt Nam” 2025 –nơi tôn vinh những nỗ lực không ngừng nghỉ vì một ngành thủy sản sạch, hiện đại và hội nhập quốc tế.

Nuôi biển

qua góc nhìn doanh nghiệp

Khi nguồn lợi thủy sản

khai thác từ tự nhiên

đang ngày càng cạn

kiệt, việc phát triển nuôi

trồng thủy sản nội địa là

có giới hạn (do vấn đề

môi trường và diện tích),

thì việc phát triển nghề

nuôi biển được xem là

giải pháp khả thi nhằm

đáp ứng nhu cầu thị

trường và đảm bảo phát

triển thủy sản bền vững.

Tiềm năng và lợi thế lớn

Những năm qua, con cá chẽm

được Công ty Australis Aquarium – một doanh nghiệp thủy sản tại

Mỹ nuôi lồng bè trên vùng biển

của tỉnh Khánh Hòa rất thành

công cả về năng suất lẫn chất

lượng. Điều này được minh

chứng khi 80% sản phẩm được

xuất khẩu sang thị trường Mỹ với

giá bán rất tốt. Bên cạnh con cá chẽm, còn khá nhiều đối tượng nuôi biển khác rất tiềm năng đã và đang khẳng định tính hiệu quả

khi được ngư dân, doanh nghiệp đưa vào nuôi. Nếu như các tỉnh miền Trung có thế mạnh về nuôi

tôm hùm, cá bớp, cá mú, cá bè vẫu hay hải sâm, rong biển… thì

khu vực ĐBSCL cũng biết tận dụng, phát huy thế mạnh nuôi

biển với các đối tượng: Nghêu, sò huyết (ven bờ), cá chim vây vàng, cá hồng Mỹ, cá bóp, cá mú trân châu… Ngoài những đối tượng nuôi biển nhằm cung cấp thực phẩm, còn có những đối

tượng nuôi biển cho mục đích dùng làm dược liệu, mỹ phẩm, trang sức, như: Cá ngựa, rong biển, ngọc trai… mang lại giá trị kinh tế rất lớn.

Chúng tôi đã từng có mặt tại vùng nuôi trai lấy ngọc của Công ty Ngọc trai Hoàng Gia tại khu

Đầm Môn, Hòn Tằm của tỉnh Khánh Hòa. Theo Nghệ nhân Hồ Thanh Tuấn – Chủ tịch HĐQT

Công ty Ngọc trai Hoàng Gia, vùng biển Khánh Hòa này là trai phát triển tốt nhất cho chất lượng ngọc cao cấp nhất. Anh Tuấn chia sẻ: “Trước đây, tôi chỉ chuyên nuôi trai lấy ngọc và chế tác thành các sản phẩm trang sức. Những năm gần đây, tôi bắt

nhận ra một nguồn lợi rất lớn từ việc phát triển trai giống

cả trong và ngoài nước”. Từ năm 2017 trở lại đây, hàng ngàn ngư dân ở xã Hòn Nghệ, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang (cũ) trước đây vốn chỉ

đánh bắt ven bờ, thu nhập bấp

bênh đã có được thu nhập ổn

định hơn từ nghề nuôi cá mú, cá bớp, hay cá bè vẫu… Đối tượng nuôi lồng bè của ngư dân phổ biến là cá bóp, cá mú, cá chim, cá hồng mỹ, cá chim vây vàng.

Trong đó đối tượng bớp, cá mú

được xem là một trong những

đối tượng được nuôi phố biến nhất. Tôm hùm cũng đang được thử nghiệm nuôi tại một số xã đảo của huyện, nhưng quy mô còn nhỏ lẻ.

Giới thiệu với chúng tôi về nghề nuôi cá bè vẫu, bà Lê Thị Ngọc

Thảo - xã Hòn Nghệ, không giấu niềm vui: “Nuôi cá trong lồng bè tính ra cũng không quá khó, chỉ cần có con giống tốt, thức ăn đầy đủ và chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật được hướng dẫn thì hiệu quả và tỷ lệ thành công sẽ khá cao. Ở đợt nuôi thử nghiệm đầu tiên, dù chỉ thả nuôi khoảng 1.000 con giống, nhưng tôi cũng có lời khoảng 35 triệu đồng”. Cũng như bà Thảo, anh Lâm Việt Thuần cũng tập tành nghề nuôi biển đầu tiên bằng con cá mú trân châu và ngay trong lần đó, anh đã có mức lợi nhuận 50 triệu đồng chỉ với 36 m2 lồng nuôi. Bà Thảo, anh Thuần và những hộ nuôi cá lồng bè ở Hòn Nghệ đều cho rằng, mô hình nuôi biển đã đem đến hiệu quả kinh tế rất rõ rệt, giúp ngư dân mạnh dạn chuyển đổi từ nghề đánh bắt ven bờ sang nuôi lồng bè nhưng vẫn đảm bảo sinh kế ngày một nâng cao.

Còn thiếu một thương hiệu Theo anh Võ Điền Trung Dũng – Giám đốc Công ty TNHH Đại Ngư Nghiệp, người được mệnh danh là “Vua cá chẽm miền Tây”, bên cạnh thị trường nội địa, con cá chẽm còn có thuận lợi là được thị trường nhiều nước châu Á, châu Âu, Mỹ, Canada, Australia, Trung Đông… ưa chuộng, nên

dư địa phát triển còn rất lớn. Tuy

nhiên, cái thiếu hiện nay của con cá chẽm cũng như một số loại cá biển có giá trị khác chính là

thương hiệu. Lý giải điều này, anh

Dũng cho biết: “Đó là do chúng ta chưa mở rộng được thị trường, chưa quảng bá mạnh, chưa xây dựng được thương hiệu cho các đối tượng nuôi này nên còn

nhiều thị trường tiềm năng chưa biết đến sản phẩm của chúng ta”. Cùng trăn trở về câu chuyện thương hiệu, ông Võ Thành Hiệp – Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Hưng Trường Phát (Bến Tre), chia sẻ: “Tuy đã có chứng nhận MSC và thị trường tiêu thụ lớn, nhưng do chưa có thương hiệu nên hiệu quả nghề nghêu vẫn chưa tăng tương xứng. Nếu có thương hiệu nghêu Việt Nam trên kệ hàng bán lẻ nước ngoài, tôi tin chắc rằng, thành công của

nghề nghêu sẽ còn lớn hơn nhiều so với hiện nay”.

Nhắc đến công tác quảng bá, xúc tiến thị trường, anh Dũng vẫn còn cảm thấy tiếc: “Tôi vẫn còn nhớ, tại Hội nghị Cấp cao Diễn

đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái

Bình Dương (gọi tắt là APEC) năm 2017 tổ chức tại Đà nẵng, trong số thực đơn đãi khách có con cá chẽm, nhưng chúng ta không tận dụng được cơ hội này

để quảng bá hình ảnh con cá chẽm với bạn bè quốc tế”. Do đó, theo anh Dũng, để con cá chẽm

phát triển tương xứng với tiềm năng, lợi thế thì Chính phủ phải

đi đầu, sau đó đến bộ, ngành, nhằm giới thiệu, tiếp thị mặt

hàng cá chẽm của Việt Nam đến các quốc gia khác, để đối tác

biết, tìm đến Việt Nam như một

chỉ dẫn địa lý về nguồn cung có

chất lượng và đảm bảo nhu cầu

về số lượng. Còn theo ông Hiệp, dẫu biết việc xây dựng thương

hiệu là công việc chính của

mỗi doanh nghiệp, nhưng hiện

phần lớn doanh nghiệp không

đủ nguồn lực và kinh nghiệm để thực hiện công việc này. Vì vậy, rất cần có sự hỗ trợ từ phía Chính

phủ, các Bộ, ngành có liên quan và địa phương để con nghêu nói riêng và thủy sản Việt Nam nói chung sớm có được thương hiệu trên thị trường thế giới.

Nâng tầm vị thế nuôi biển Lâu nay, khi nói về điểm yếu trong cạnh tranh của các mặt hàng thủy sản thì yếu tố giá thành luôn được xếp hàng đầu. Điểm yếu này chủ yếu xuất phát từ quy mô nuôi nhỏ lẻ, manh mún, thiếu chuyên nghiệp nên năng suất, sản lượng không ổn định.

Điều này không chỉ làm tăng giá thành mà còn gây khó cho doanh

nghiệp trong việc chủ động xây dựng kế hoạch đơn hàng với

đối tác. Một khó khăn nữa đối với nuôi biển đó là sự thiếu hụt nguồn giống chất lượng, tạo nên một nút thắt không đáng có kiềm hãm sự phát triển của nghề nuôi biển. Không những thế, nuôi biển

đòi hỏi nguồn vốn khá lớn để đầu tư lồng bè, con giống, thức ăn… nhưng đa phần ngư dân đều thiếu vốn, còn ngân hàng thì rất ngại đầu tư vì rủi ro cao. Liên quan đến câu chuyện giá thành và cạnh tranh của sản phẩm nuôi biển, hầu hết các doanh nghiệp đều cho rằng, nếu đầu tư đến nơi đến chốn và chọn đối tượng lợi thế thì chúng ta không ngại cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của các nước.

Anh Dũng khẳng định: “Tôi cũng có nghiên cứu con cá chim vây vàng, cá rô phi hay cá mú nhưng thấy không thể cạnh tranh với

Trung Quốc về giá thành, mà chỉ có con cá chẽm, cá hồng Mỹ và cá bớp là có đủ sức cạnh tranh với Trung Quốc và một số quốc

gia khác. Riêng con cá chẽm, tôi có thể khẳng định, cho đến thời điểm này, giá thành nuôi của chúng ta hoàn toàn đủ sức

cạnh tranh với một số nước, như: Malaysia, Thái Lan… đặc biệt là lợi thế hơn Trung Quốc nhờ nuôi

được quanh năm”. Lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Khánh Hòa cho biết, Sở và Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III đã xây dựng mô hình thí điểm nuôi biển công nghệ cao tại vùng biển hở thuộc xã Cam Lập, thành phố Cam Ranh bằng lồng tròn HDPE đối với cá và lồng vuông đối với tôm hùm. Các lồng nuôi được lắp đặt thiết bị camera giám sát, hệ thống định vị trên biển, cho nên có thể giám sát từ xa 24/7 trên thiết bị điện tử, rất hữu ích cho nuôi trồng thủy sản ngoài khơi. Mô hình đã được tổng kết giai đoạn đầu, đem lại hiệu quả rất tốt. Với nhiều lợi thế về nuôi biển, tỉnh Phú Yên cũng đã ban hành Kế hoạch về nuôi biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Theo đó, đến năm 2030, Phú Yên sẽ mở rộng thêm vùng biển hở xa bờ hơn 6 hải lý với diện tích mặt nước nuôi biển 3.650 ha. Chuyển đổi ít nhất 50% số lồng, bè nuôi truyền thống theo quy hoạch sang lồng HDPE, phát triển ngành nuôi biển đạt trình độ tiên tiến với phương thức quản lý hiện đại và trở thành ngành hàng chủ lực. Tương tự, tỉnh Quảng Ninh cũng đã hình thành nhiều vùng nuôi biển tập trung, áp dụng mô hình nuôi công nghiệp với lồng bè hiện đại bằng nhựa HDPE phù hợp quy chuẩn về vật liệu nổi. Để nâng tầm nghề nuôi biến, Quảng Ninh đã đề xuất Bộ báo cao Chính phủ đưa tỉnh vào danh sách được hỗ trợ cơ chế tín dụng đặc thù cho nuôi biển, chính sách bảo hiểm nuôi biến, nhất là đối với vùng nuôi xa bờ và nuôi biến ứng dụng công nghệ cao. Xuân Trường

Các nghiên cứu trên

nhiều loài cá biển cho

thấy tiềm năng loại bỏ

hoàn toàn bột cá và dầu

cá khỏi thức ăn, nhưng

vẫn cần tinh chỉnh khẩu

phần để đạt hiệu quả sử

dụng thức ăn cao hơn.

Liên minh F3 Future of

Fish Feed đã thực hiện

8 thử nghiệm trên các

loài cá cam Hawaii (Seriola rivoliana), cá cam California (Seriola dorsalis), cá vược miệng rộng (Micropterus salmoides), cá chim Florida ( Trachinotus carolinus) và cá hồng Mỹ (Sciaenops ocellatus), … với công thức hoàn toàn không chứa nguyên liệu từ cá, hướng tới mô hình nuôi biển bền vững hơn.

Cá cam Hawaii

Cá cam Hawaii non  (trọng lượng trung bình 282 g) được thả vào 8 bể nuôi thể tích 4 tấn (30 con/bể) và cho ăn theo hai

chế độ: khẩu phần thử nghiệm

F3 (Bảng 1) và khẩu phần thương mại. Sau 56 ngày, mật

độ nuôi được giảm một nửa để tạo không gian tăng trưởng, và giai đoạn nuôi kéo dài thêm 28 ngày, tổng cộng 84 ngày. Cá

được cho ăn 2 lần/ngày đến khi

đạt khoảng 1 kg, sau đó giảm

còn 1 lần/ngày. Kết thúc thí nghiệm, cá được cân, làm sạch nội tạng và phi lê để xác định tỷ lệ thịt.

Trong 56 ngày đầu, cá ở cả hai nhóm có tốc độ tăng trưởng tương đương. Tuy nhiên, ở giai đoạn sau, cá ăn khẩu phần F3

tăng trưởng chậm hơn so với nhóm ăn khẩu phần thương mại.

Chỉ số nội tạng (VSI) cao hơn ở nhóm ăn khẩu phần thương mại, giúp tỷ lệ phi lê giữa hai nhóm tương đương nhau. Hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR) không khác biệt đáng kể, dao động quanh

mức 1,31.

Đáng chú ý, trong đánh giá

cảm quan, 62% người tham gia ưa thích hương vị cá ăn khẩu

phần F3; 19% chọn cá ăn khẩu phần thương mại và 19% không nhận thấy sự khác biệt (Meigs và cs., 2020).

Cá cam California

Cá cam giống, nặng khoảng 20g, được nuôi trong hệ thống RAS với bể composite tròn 1.000L. Mỗi bể chứa ngẫu nhiên 15 con, duy trì nhiệt độ nước 22°C, độ mặn 34,5 mg/L và ôxy hòa tan từ 10-12 mg/L.

Cá được cho ăn theo lô lặp bốn lần, gồm hai khẩu phần: khẩu phần F3 (phụ phẩm gia cầm, tảo Spirulina và đạm ngô cô đặc) và khẩu phần đối chứng FM+FO (bột cá, dầu cá). Thức ăn được cấp bằng máng tự động theo nhu cầu, khoảng 5-10% trọng lượng cơ thể mỗi ngày trong 64 ngày. Kết thúc thí nghiệm, cá được lấy mẫu để đánh giá các chỉ tiêu: tăng trưởng, tỷ lệ sống, FCR, thành phần hóa học cơ thể, mô học gan - ruột và hàm lượng glycogen trong gan. Kết quả cho thấy, cá ăn khẩu phần F3 tăng trưởng chậm hơn và FCR cao hơn so với

chứng, nhưng không khác biệt rõ rệt so với nhóm chỉ thay thế bột cá (giữ nguyên dầu cá). Điều này cho thấy dầu tảo có thể thay thế hiệu quả dầu cá trong khẩu phần.

Tỷ lệ sống giữa các nhóm tương đương nhau. Cá ăn khẩu phần F3 có hàm lượng lipid thấp, độ ẩm cao và tích lũy glycogen trong gan nhiều nhất. Mô học ruột cũng ghi nhận nhóm F3 có số lượng tế bào đài (goblet cell) cao hơn (Stuart và cs., 2020).

Cá vược miệng rộng

Cá vược miệng rộng non được nuôi trong 20 bể RAS với mật độ 7,4 kg/m³, nhiệt độ 28°C và ôxy hòa tan 8 mg/L. Cá được chia làm hai nhóm (mỗi nhóm 80 con), cho ăn khẩu phần F3 hoặc thức ăn thương mại 3 lần/ngày trong 84 ngày.

Kết thúc thí nghiệm, các chỉ tiêu như tăng trọng, hệ số điều kiện (K), hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR), chỉ số gan (HSI), chỉ số nội tạng (VSI) được đánh giá. Mẫu mô gan, lách, thận đầu, ruột trước và ruột sau (3 cá/bể) được nhuộm hematoxylin–eosin hoặc xanh Prussian để phân tích bệnh lý và phát hiện hemosiderin. Ngoài ra, hàm lượng lipid, glycogen và glucose gan cũng được xác định.

Kết quả cho thấy, không có khác biệt đáng kể giữa hai nhóm về tăng trưởng, K, HSI, VSI, mức độ hemosiderin, không bào hóa gan, glycogen, lipid, glucose và cấu trúc mô ruột. Tuy nhiên, nhóm ăn F3 có FCR kém hơn.

Sau đó, cá được chuyển sang bể RAS khác (757L), mật độ giảm còn 3,1 kg/m³ và tiếp tục nuôi 126 ngày đến cỡ thương phẩm. Cá ăn F3 vẫn tăng trưởng tốt nhưng FCR thấp hơn, trong khi K và HSI tương đương nhóm còn lại.

Phân tích đồng vị δ15 N và δ¹³C bằng máy khối phổ (Europa 20-

20) cho thấy, có thể phân biệt cá ăn khẩu phần không chứa bột/dầu cá (FM/FO) trong suốt

quá trình, từ đó hỗ trợ truy xuất

nguồn gốc.

Một nghiên cứu khác đánh giá tác động của các loại dầu thay thế dầu cá (dầu lanh, dầu cải, dầu tảo – dùng riêng hoặc

kết hợp) đến tăng trưởng cá vược. Kết quả cho thấy không

ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu

suất, nhưng thành phần axit béo

phản ánh rõ khẩu phần. Tỷ lệ

omega-3/omega-6 thấp nhất ở

dầu cải, cao nhất ở dầu tảo; do

đó cần nghiên cứu thêm về chất

lượng fillet và tác động của các

nguồn lipid thay thế như đã thấy

ở các loài thủy sản khác.

Cá chim Florida

Cá chim Florida non (15g) được nuôi trong hệ thống tuần

hoàn nước (RAS) với độ mặn

thấp (3 mg/L) và cho ăn các

khẩu phần thử nghiệm gồm: khẩu phần dành cho cá hồi Đại

Tây Dương, khẩu phần chứa bột cá và dầu cá (FM+FO), cùng các

công thức thay thế. Mỗi bể 110L thả 10 cá thể, chia ngẫu nhiên theo khẩu phần, lặp lại ba lần (n = 30 cá/khẩu phần). Cá được cho ăn thủ công hai lần/ngày đến khi no trong 94 ngày.

Cuối thử nghiệm, các chỉ tiêu như tăng trọng, FCR và tỷ lệ sống được ghi nhận. Ngoài ra, 3 cá thể mỗi bể (n = 9/khẩu phần)

được kiểm tra HSI, tỷ lệ mỡ nội tạng (IPF), tỷ lệ phi lê và hệ số thể trạng (K). Cá mỗi nhóm còn

được nghiền đồng nhất để phân tích thành phần cơ thể.

Kết quả sau 12 tuần cho thấy không có khác biệt đáng kể giữa

các khẩu phần về tăng trưởng, FCR, tỷ lệ sống, HSI, IPF, K hay

tỷ lệ phi lê, dù khẩu phần FM+FO cho hiệu quả sử dụng thức ăn cao hơn.

Phân tích thành phần hóa

học toàn thân cũng không cho thấy sự khác biệt rõ rệt giữa các

khẩu phần. Trong một nghiên

cứu khác (Riche et al., 2022),

khẩu phần không chứa FM và FO nhưng bổ sung tảo Spirulina và

dầu tảo cho kết quả tăng trưởng

và sống sót tương đương khẩu

phần FM+FO, và tốt hơn khẩu

phần chỉ dùng dầu đậu nành.

Tuy một số nghiên cứu trước

đây đã loại riêng lẻ bột cá hoặc

dầu cá khỏi khẩu phần, các thử nghiệm lần này là những nghiên cứu đầu tiên đánh giá hiệu quả của khẩu phần hoàn toàn không chứa cả hai thành phần này (Alfrey et al., 2022; Riche et al., 2022).

Cá hồng Mỹ

Cá hồng Mỹ giống (3,2g/con)

được nuôi trong bể 38L theo mô hình RAS, ở độ mặn 5,3g/L, nhiệt độ 27,5°C và ôxy hòa tan 6,88mg/L. Mỗi bể chứa 15 con, bố trí ngẫu nhiên với 4 lần lặp

lại cho mỗi khẩu phần ăn (tổng cộng 60 con/khẩu phần). Cá được cho ăn no hai lần mỗi ngày, trong 56 ngày.

Kết thúc thí nghiệm, các chỉ tiêu sản xuất được thu thập tương tự như với cá chim Florida, trừ hệ số điều kiện K. Kết quả cho thấy không có khác biệt đáng kể giữa khẩu phần F3 và khẩu phần có bột cá (FM) và dầu cá (FO) về 6 chỉ tiêu chính: tăng trọng, hiệu quả sử dụng thức ăn (FE), tỷ lệ sống, tỷ lệ phi lê, hệ số gan (HSI) và hệ số nội tạng (IPF). Tuy nhiên, cá ăn khẩu phần F3 có hàm lượng lipid toàn thân và hiệu quả chuyển hóa protein thấp hơn. Tương tự cá chim, đây là một trong những nghiên cứu đầu tiên cho thấy có thể thay thế đồng thời bột cá và dầu cá trong khẩu phần ăn cho cá hồng Mỹ giống mà không ảnh hưởng đến hiệu quả tăng trưởng và năng suất nuôi.

Các nghiên cứu cho thấy, thức ăn thủy sản không chứa bột cá, dầu cá (F3) hoàn toàn khả thi trong nuôi cá biển thương phẩm, với hiệu suất tăng trưởng tương đương và chất lượng cảm quan tích cực ở nhiều loài. Dù còn một số hạn chế về khả năng tiêu hóa, độ ngon miệng và ảnh hưởng mô học tạm thời, các vấn đề này có thể khắc phục bằng tinh chỉnh công thức và công nghệ chế biến. Khi nhu cầu dinh dưỡng của từng loài được xác định rõ, F3 sẽ trở thành lựa chọn phổ biến, đặc biệt trong bối cảnh nguyên liệu biển ngày càng đắt đỏ. Về mặt kinh tế, chuyển sang sử dụng đạm thay thế từ phụ phẩm không chỉ giảm chi phí mà còn tăng lợi nhuận, hỗ trợ ổn định ngành và mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường cho người tiêu dùng.

Nguồn cung tôm thẻ bố mẹ sạch bệnh (SPF) chủ yếu từ châu Mỹ, phục vụ thị trường châu Á – nơi chiếm đến 80% sản lượng tôm toàn cầu. Tuy nhiên, quá trình kích thích sinh sản tôm vẫn dựa vào thức ăn tươi sống như giun nhiều tơ. Dù mang lại hiệu quả, giun nhiều tơ lại là nguồn lây lan mầm bệnh nguy hiểm như EHP và vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus –tác nhân gây hội chứng tôm chết sớm (EMS/ AHPND). Gần đây, giun SPF nhập từ châu Âu được sử dụng nhiều hơn nhờ chi phí hợp lý và chất lượng đảm bảo. Tuy nhiên, việc nuôi giun SPF đòi hỏi đầu tư cao, cần kiểm tra định kỳ để giữ sạch bệnh, trong khi vẫn thiếu hệ thống chứng nhận độc lập về tiêu chuẩn SPF. Ngoài ra, chất lượng dinh dưỡng của giun phụ thuộc lớn vào khẩu phần và điều kiện nuôi.

Trước nhu cầu hiểu biết sâu hơn về dinh dưỡng tôm bố mẹ giai đoạn thành thục và sinh sản còn hạn chế, nhiều doanh nghiệp đã

đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển các dòng thức ăn công nghiệp giàu dinh dưỡng, kích thích bắt mồi tốt, giúp cải thiện hiệu suất sinh

Thức ăn tăng trưởng công nghệ cao

Giải pháp nâng chất lượng ấu trùng tôm

Thức ăn tăng trưởng công nghệ cao đang mở ra hướng đi an toàn sinh học, giúp nâng chất lượng giống và từng bước thay thế thức ăn tươi sống trong sản xuất ấu trùng tôm.

sản và giảm nguy cơ dịch bệnh. Đây được xem là chìa khóa giúp ngành sản xuất giống tôm chuyển mình theo hướng bền vững và hiệu quả hơn.

Thức ăn chuyên biệt cho giai đoạn thành thục

Để đảm bảo an toàn sinh học trong giai đoạn thành thục, các nhà cung cấp tôm bố mẹ hàng đầu đã chuyển sang sử dụng hoàn toàn thức ăn công nghiệp. Tuy nhiên, khi tôm được bàn giao cho các trại giống, thức ăn tươi sống lại bắt đầu xuất hiện trong khẩu phần.

Việc sử dụng thức ăn tươi không kiểm soát là nguyên nhân phổ biến dẫn đến bùng phát dịch bệnh, do nhiều mầm bệnh nguy hiểm có thể xâm nhập hệ thống qua con đường này. Thách thức đặt ra là cân bằng giữa nhu cầu dinh dưỡng, kích thích sinh sản và yếu tố an toàn sinh học. Một số giải pháp đang được áp dụng gồm: Sử dụng thức ăn tươi được xử lý vệ sinh, cấp đông và xác nhận SPF; Trữ đông giun nhiều tơ trong thời gian ngắn để tiêu diệt mầm bệnh nhưng vẫn giữ được giá trị dinh dưỡng; Dùng

giun nhiều tơ sống có chứng nhận SPF; Tăng cường hoặc thay thế hoàn toàn bằng thức ăn công nghiệp chuyên biệt.

Zeigler Bros., Inc (là một trong những đơn vị tiên phong trong giải pháp này. Sản phẩm Redi-Mate – thức ăn bán ẩm dành riêng cho giai đoạn thành thục và sinh sản của tôm chân trắng đã chứng minh hiệu quả vượt trội tại các trại giống ở châu Á và Mỹ Latinh. RediMate không chỉ giúp cải thiện tỷ lệ sinh sản mà còn nâng cao an toàn sinh học, giảm chi phí và tăng lợi nhuận.

Thay thế thức ăn tươi sống Ở hầu hết các trại ương tôm bố mẹ tại

Mỹ Latinh, giun nhiều tơ sống hầu như đã biến mất khỏi khẩu phần. Thay vào đó, các trại chuyển sang nguyên liệu đông lạnh (giun nhiều tơ, nhuyễn thể, krill, mực…) và gần đây là RediMate.

Trong một thử nghiệm thương mại tại Trung Mỹ, ba bể đối chứng được cho ăn khẩu phần truyền thống (mực, vẹm, Artemia, giun nhiều tơ đông lạnh và thức ăn khô). Ba bể còn lại thay thế 59% khẩu phần tươi sống bằng RediMate. Tất cả bể đều thả 360 tôm thẻ cái (đã cắt cuống mắt) và 300 tôm thẻ đực cùng nguồn gốc.

Sau sáu tuần, RediMate mang lại kết quả ấn tượng: Loại bỏ hoàn toàn giun nhiều tơ đông lạnh, giảm 43% vẹm, 43% Artemia và 20 % mực; Được tôm bố mẹ ăn vượt mức 5% khối lượng thân (ướt) mỗi ngày; Tăng 24% tỷ lệ sống của tôm bố mẹ do cắt nguồn lây bệnh từ giun đông lạnh; Duy trì sản lượng nauplius cao, tương đương khẩu phần truyền thống. Kết quả này khẳng định thức ăn bán ẩm công nghiệp không chỉ duy trì năng suất sinh sản mà còn nâng cao an toàn sinh học, trở thành giải pháp bền vững cho trại giống tôm bố mẹ tại khu vực Mỹ Latinh.

Tối ưu dinh dưỡng

Tại các trại giống ở châu Á, kích thước và khả năng sinh sản của tôm bố mẹ thường

được ưu tiên hơn yếu tố an toàn sinh học. Nhằm giảm chi phí mà vẫn duy trì hiệu quả sinh sản, Zeigler đã thử nghiệm thay thế 50% giun nhiều tơ sống bằng sản phẩm Redi-Mate trong giai đoạn thành thục thương mại. Kết quả cho thấy, không có sự khác biệt đáng kể về năng suất sinh sản giữa nhóm sử dụng Redi-Mate và nhóm đối chứng dùng

hoàn toàn giun sống. Điều này chứng minh Redi-Mate có thể thay thế một phần giun sống mà không ảnh hưởng đến chất lượng sinh sản và số lượng trứng.

Nhờ kết quả khả quan, ngày càng nhiều trại giống trong khu vực chuyển sang áp dụng chiến lược bổ sung dinh dưỡng bằng chế phẩm thương mại trong giai đoạn thành thục.

Giá trị dinh dưỡng chuẩn

Giá trị thực sự của thức ăn thành thục nằm

ở hàm lượng dinh dưỡng, không phải độ ẩm bởi nước không mang giá trị dinh dưỡng. Vì vậy, để so sánh chính xác giữa các loại khẩu phần đang được sử dụng tại các trại giống

trên thế giới, mọi chỉ số từ khối lượng đến chi phí cần được quy đổi về trọng lượng khô. Cụ thể, 1kg giun nhiều tơ chỉ cung cấp khoảng 170g chất khô, còn mực cung cấp 200g, trong khi 1kg Redi-Mate cung cấp tới 730g. Dù thức ăn công nghiệp trông có vẻ ít hơn về khối lượng, tôm thực chất nhận được nhiều dưỡng chất hơn. Để hấp thụ lượng dinh dưỡng tương đương Redi-Mate, tôm phải ăn lượng giun hoặc mực gấp 3,5 - 4 lần.

Vì vậy, chi phí thức ăn nên được tính theo USD/kg trọng lượng khô, thay vì trọng lượng tươi. Quan trọng hơn, hiệu quả dinh dưỡng không chỉ phụ thuộc vào hàm lượng chất khô, mà còn ở khả năng tiêu hóa và hấp thu dưỡng chất của tôm, cũng như mức độ phối trộn hợp lý của các thành phần.

Redi-Mate được phát triển với trọng tâm là khả năng kích thích bắt mồi, đồng thời bổ sung chất chống ôxy hóa và Vpak giúp tăng cường miễn dịch và hỗ trợ sức khỏe đường

Việc sử dụng thức ăn tươi không kiểm soát là nguyên nhân phổ biến dẫn đến bùng phát dịch bệnh.

ruột trở thành giải pháp tối ưu cho giai đoạn thành thục.

Nhằm đơn giản hóa việc xây dựng khẩu phần khi sử dụng thức ăn công nghiệp trong giai đoạn thành thục, nhóm nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản Zeigler (Z-ARC) đã phát triển một công cụ tính khẩu phần tiện lợi.

Công cụ này dựa trên tỷ lệ giữa trọng lượng ướt và trọng lượng khô của từng loại thức ăn. Người dùng chỉ cần nhập số lượng tôm bố mẹ (phân theo giới tính) và trọng lượng trung bình của chúng để tính tổng sinh khối. Tiếp theo, quản lý trại điền tỷ lệ cho ăn hằng ngày (tính theo % trọng lượng cơ thể) tương ứng với từng loại thức ăn sử dụng. Ví dụ, khẩu phần bao gồm: 10% giun nhiều tơ, 15% mực và 5% vẹm.

Dũng Nguyên Theo Globalseafood

Cá rô phi 78

CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA

Cơ hội cho nông dân Hải Dương

vươn ra thị trường lớn

Mới đây, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã

chuyển giao giống cá rô phi 78 chất lượng cao

cho nông dân xã Tam Kỳ, huyện Kim Thành (tỉnh

Hải Dương), qua đó giúp bà con tiếp cận công nghệ giống tiên tiến, hướng tới sản xuất hiệu quả và bền vững.

Điểm đặc biệt của cá rô phi 78

Tại lễ chuyển giao, ông Lê Quốc Thanh, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, chia sẻ: “Chúng tôi không chỉ trao cho bà con giống cá rô phi mới mà còn mang đến một quy trình sản xuất khép kín. Mô hình này không chỉ đảm bảo chất lượng sản phẩm mà còn tạo đầu ra ổn định, giúp nông dân giảm rủi ro trong sản xuất.”

Cá rô phi 78 là giống cá được chọn lọc từ giống nhập nội 14Ca10, có tốc độ sinh trưởng nhanh, khả năng kháng bệnh cao, và thích nghi tốt với điều kiện khí hậu của miền Bắc. Loại cá này có thể đạt trọng lượng từ 1,5 - 2 kg/con chỉ sau 5 - 6 tháng nuôi, rút ngắn đáng kể thời gian sản xuất. Đặc biệt, chất lượng thịt cá thơm ngon, ít xương, rất

được thị trường ưa chuộng.

Trước đó, cá rô phi 78 là đã được nuôi thử nghiệm tại một số tỉnh

miền Bắc, kết quả cho thấy năng suất tăng từ 20 - 30% so với giống

cũ. Với khả năng kháng bệnh tốt, chi phí đầu vào cũng giảm đáng

kể, giống cá này có thể mang lại

lợi nhuận cao hơn cho người nuôi.

Trong dịp này, Trung tâm

Khuyến nông Quốc gia trao tặng cá rô phi 78 cho người dân

xã Tam Kỳ nuôi trên diện tích 2 ha, với mật độ nuôi khoảng 2,5 con/m². Những hộ dân tham gia không chỉ được cung cấp cá giống mà còn được các kỹ

sư khuyến nông hướng dẫn chi

tiết từ khâu cải tạo ao nuôi, xử lý

nguồn nước đến quản lý thức ăn và phòng ngừa dịch bệnh.

Nguồn nước dùng trong mô

hình được lấy từ nhánh sông

Thái Bình, xử lý đảm bảo đạt các

tiêu chuẩn kỹ thuật. Trước khi

thả giống, hộ nuôi phải kiểm tra các thông số như độ pH (6,5 - 8)

và hàm lượng ôxy hòa tan (trên 5 mg/l). Những tiêu chuẩn này

giúp đảm bảo môi trường nuôi lý

tưởng, hạn chế rủi ro dịch bệnh.

Cơ hội mới cho người nông dân

Nhiều nông dân tại huyện Kim

Thành bày tỏ phấn khởi khi được

tham gia chương trình. Ông Vũ

Văn Viên, một hộ nuôi cá tại xã

Tam Kỳ, chia sẻ: “Trước đây, gia

đình tôi gặp nhiều khó khăn vì giống cá cũ hay bị bệnh, phát triển chậm. Nay được cung cấp giống mới cùng sự hỗ trợ kỹ thuật

đầy đủ, tôi tin rằng vụ nuôi này sẽ đạt hiệu quả cao hơn”.

Bên cạnh đó, các kỹ sư khuyến nông còn tổ chức các lớp tập huấn ngay tại địa phương, giúp bà con nắm rõ các biện pháp kỹ thuật hiện đại, từ việc phối trộn thức ăn đến xử lý dịch bệnh trong mùa hè.

Bà Phạm Thị Đào, Phó Giám

đốc Sở Nông nghiệp và Môi

trường tỉnh Hải Dương, đánh giá:

“Việc chuyển giao giống cá rô

phi 78 không chỉ nâng cao năng

suất mà còn mở ra hướng đi mới

trong chuyển đổi cơ cấu vật nuôi.

Đây là bước chuẩn bị quan trọng

để người dân sẵn sàng với các

tiêu chuẩn của thị trường trong

nước và quốc tế”.

Cũng theo bà Đào, tỉnh Hải

Dương sẽ tiếp tục nhân rộng mô

hình này ra các vùng trọng điểm

chăn nuôi thủy sản khác. Đồng

thời, chính quyền địa phương

cũng đang xây dựng kế hoạch phối hợp với các doanh nghiệp để đảm bảo đầu ra cho sản phẩm, giúp nông dân yên tâm sản xuất. Với sự hỗ trợ từ các cơ quan chuyên môn, cùng sự đồng hành của các doanh nghiệp, mô hình nuôi cá rô phi 78 hứa hẹn không chỉ giúp bà con Hải Dương có thêm mùa vụ bội thu, mà còn góp phần xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế bền vững. Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cam kết sẽ tiếp tục hỗ trợ các địa phương khác triển khai mô hình tương tự. Ông Lê Quốc Thanh cho biết: “Chúng tôi mong muốn xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại, nơi sản xuất gắn liền với tiêu thụ và xuất khẩu. Những giống cá đặc sản như cá rô phi 78 sẽ là chìa khóa để nâng tầm thủy sản Việt Nam trên bản đồ quốc tế”.

*Ngày 1/7/2025, tỉnh Hải Dương chính thức sáp nhập với Thành phố Hải Phòng.

Thùy Khánh

TTKNQG
nuôi Ảnh: Bảo Toàn

Bình Định xây chuỗi liên kết cá điêu hồng

Hướng tới thị trường quốc tế

Với nỗ lực từ các cơ

quan chức năng và doanh nghiệp, Bình Định

đang tập trung xây dựng

chuỗi liên kết nuôi cá

điêu hồng trong lòng

hồ Định Bình theo tiêu

chuẩn an toàn thực

phẩm, hướng tới mục

tiêu xuất khẩu sang châu Âu và các nước

phát triển.

Tăng cường liên kết phát triển

nghề nuôi cá lồng bè

Hồ chứa Định Bình, huyện Vĩnh

Thạnh là một trong những vùng nuôi thuỷ sản giàu tiềm năng tại

Bình Định. Với dung tích chứa

đến 226 triệu m3 và nguồn nước dồi dào quanh năm, khu vực này

đã trở thành trung tâm nuôi cá lồng bè, đặc biệt là cá điêu hồng. Theo Trung tâm Khuyến nông

Bình Định, nghề nuôi cá lồng bè trong lòng hồ Định Bình đã bắt

đầu từ năm 2011. Hiện nay đã có hơn 32 hộ dân tại huyện Vĩnh

Thạnh thực hiện nuôi cá trong lòng hồ này với 460 lồng nuôi, tổng thể tích khoảng 23.000 m3

Đối tượng nuôi chính bao gồm cá

điêu hồng, cá thác lác cườm và một số loài cá nước ngọt khác.

Ước tính năm 2024, sản lượng cá thương phẩm đạt 750 tấn, riêng cá điêu hồng đã chiếm 600 tấn. Thị trường tiêu thụ cá

thương phẩm nuôi lồng trên hồ

Định Bình chủ yếu là nội tỉnh; ngoài ra, còn xuất bán cho một số tỉnh, thành lân cận như Đà

Nẵng, Gia Lai, Kon Tum…

Ông Nguyễn Văn Thành, một

nông dân tại xã Vĩnh Hảo, chia sẻ: “Trước đây, việc nuôi cá chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và tự phát. Nhưng nhờ sự hỗ trợ từ

các chương trình khuyến nông, chúng tôi đã học được nhiều kỹ thuật mới, giúp tăng năng suất

và giảm rủi ro”.

Mặc dù đem lại nguồn thu nhập ổn định, tuy nhiên nghề nuôi cá trong lòng hồ Định Bình vẫn còn nhiều khó khăn. Các hộ nuôi hiện vẫn mang tính tự phát, thiếu đồng bộ về con giống, thức ăn và các quy trình kỹ thuật. Điều này khiến cho giá thành sản xuất

cao và hiệu quả kinh tế chưa đạt như kỳ vọng.

Chiến lược phát triển theo hướng bài bản, quy mô

Nhận thức được những hạn chế đó, Sở Nông nghiệp và Môi

trường Bình Định đã tạo điều

kiện xây dựng chuỗi liên kết nuôi

cá điêu hồng đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Ông Huỳnh Việt Hùng,

phẩm đủ điều kiện để xuất khẩu trong thời gian tới”, bà Họa My cho hay.

Ngay trong tháng 6/2025, Công ty TNHH Mãi Tín Bình Định đã bắt đầu thu mua cá điêu hồng nuôi trong lòng hồ Định Bình, đợt đầu tiên khoảng 5 - 7 tạ cá điêu hồng với giá từ 60.000 - 65.000 đồng/kg.

Ông Nguyễn Nhị ở thị trấn Vĩnh Thạnh, người có thâm niên hơn 10 năm nuôi cá nước ngọt trong lòng hồ Định

có giá 50.000 đồng/kg, thì năm nay đã tăng khiến người nuôi rất mừng.

Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Bình Định cho biết: “Việc

phát triển nghề nuôi cá điêu hồng cần được tổ chức lại theo hướng

tập trung và bền vững. Chúng tôi

đang triển khai các chương trình hỗ trợ nông dân tiếp cận kỹ thuật nuôi an toàn và kết nối với các doanh nghiệp để đảm bảo đầu ra ổn định cho sản phẩm. Ngoài ra, Trung tâm còn phối hợp với Chi cục Thủy sản để kiểm tra định kỳ

chất lượng nước và tình hình dịch bệnh trong các khu vực nuôi, giúp bà con giảm thiểu rủi ro và nâng cao hiệu quả sản xuất”.

Theo bà Phan Bích Ngọc Họa My, Phó Giám đốc Công ty TNHH Mãi Tín Bình Định, hiện công ty đã kết nối được với khách hàng có nhu cầu nhập khẩu cá điêu

hồng sang thị trường châu Âu.

Tuy nhiên, việc chứng nhận tiêu chuẩn an toàn để đạt yêu cầu

của các thị trường khắt khe vẫn

là thách thức lớn.

“Từ tháng 6/2025, chúng tôi đề nghị cá điêu hồng nuôi trong lòng hồ Định Bình tham gia chương

trình giám sát dư lượng các chất độc hại trong thủy sản và xây dựng quy trình nuôi an toàn thực phẩm. Điều này sẽ đảm bảo sản

“Việc tăng giá cá là tín hiệu tốt, nhưng điều quan trọng hơn là chúng tôi cần có thị trường ổn định và được hỗ trợ kỹ thuật để phát triển bền vững”, ông Nhị bày tỏ. Được biết, Trung tâm Khuyến nông Bình Định sẽ tổ chức đào tạo, tập huấn quy trình nuôi cá cho nông dân theo tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời, Chi cục Thủy sản và Chi cục Quản lý Chất lượng Nông lâm sản của tỉnh sẽ hướng dẫn các thủ tục để bảo đảm cá điêu hồng đủ điều kiện xuất khẩu. Với những bước đi đúng hướng, Bình Định đang dần khẳng định vị trí của mình trên bản đồ thủy sản nước nhà, từng bước đóng góp vào chiến lược xuất khẩu và hội nhập kinh tế quốc tế. Xa hơn, việc thúc đẩy liên kết sản xuất không chỉ giới hạn ở cá điêu hồng mà còn có thể mở rộng sang các đối tượng thủy sản khác. Điều này sẽ giúp Bình Định tận dụng tối đa tiềm năng tự nhiên, góp phần phát triển kinh tế địa phương và cải thiện đời sống cho người dân vùng nông thôn. *Ngày 1/7/2025, tỉnh Bình Định chính thức sáp nhập với tỉnh Gia Lai.

Khánh Nguyễn

Vũ Đình Thung

ưu hiệu quả selen trong nuôi tôm thẻ chân

Một nghiên cứu tại

Brazil đã so sánh hiệu

quả của ba nguồn

selen khác nhau nhằm

cải thiện tốc độ tăng

trưởng, sức đề kháng

ôxy hóa và chất lượng

thịt của TTCT nuôi ở độ

mặn thấp, từ giai đoạn

ương đến tăng trưởng.

thương phẩm kéo dài 90 ngày, với mật độ 100 con/m³. Tôm

được cho ăn viên thức ăn đường

kính 2 mm, cho ăn hai lần mỗi

ngày bằng khay trong bể.

Chỉ tiêu đánh giá

Phân tích sinh trắc học một mẫu đại diện tương ứng 20%

tổng sinh khối theo định kỳ 15 ngày/lần. Các chỉ tiêu theo dõi

gồm: trọng lượng sống, tăng trọng, lượng thức ăn tiêu thụ và hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR).

Kết thúc giai đoạn nuôi thương phẩm, toàn bộ tôm được thu hoạch để xác định trọng lượng sống cuối cùng, tăng trọng, FCR và tỷ lệ sống. Ngoài ra, 30

cá thể từ mỗi nghiệm thức được

đo riêng chiều dài và khối lượng.

Đầu và vỏ được loại bỏ để tính tỷ

mà không qua giai đoạn thích nghi. Cá thể được xem là chết khi không còn cử động hoặc phản ứng với kích thích cơ học. Mỗi nghiệm thức được lặp lại 5 lần, mỗi lặp lại gồm 100 con tôm. Các chỉ tiêu chất lượng nước (pH, ôxy hòa tan, độ dẫn điện) được theo dõi liên tục trong suốt quá trình thử nghiệm. Tỷ lệ chết được ghi nhận và sử dụng để tính toán tỷ lệ sống sót.

Các nghiệm thức gồm:

SS 0.3: 0,3 mg Se/kg từ natri selenit

SS 0.6: 0,6 mg Se/kg từ natri selenit

SeYeast 0.3: 0,3 mg Se/kg từ selenium nấm men

SeYeast 0.6: 0,6 mg Se/kg từ selenium nấm men

Thiết kế thí nghiệm

Thử nghiệm được tiến hành

tại Khoa Nuôi trồng Thủy sản, Đại học Nông nghiệp Liên bang Brazil, gồm hai giai đoạn dưới điều kiện độ mặn thấp.

Giai đoạn 1 – Thích nghi và tăng trưởng sớm

Ấu trùng tôm chân trắng giai

đoạn PL11 được nuôi thích nghi trong 20 ngày đến khi đạt PL30. Sau đó, tôm được đếm, cân và phân bố vào các bể polypropylene 500 L có sục khí và hệ thống cấp nước riêng, với mật độ 600 con/ m³. Giai đoạn này kéo dài cho đến khi tôm đạt trọng lượng dưới 0,5 g (PL30–65).

Giai đoạn 2 – Nuôi thương phẩm

Khi vượt ngưỡng 0,5 g, tôm

chuyển sang giai đoạn nuôi

lệ thịt. Phân tích thành phần thịt

được tiến hành trên cả tôm tươi

và tôm đông lạnh sau 30 và 60 ngày bảo quản.

Thử nghiệm khả năng sống sót

dưới điều kiện độc tính nitrit

Cuối giai đoạn 2, nhóm nghiên

cứu tiến hành thử nghiệm đánh giá khả năng chống chịu nitrit –

một tác nhân gây stress thường dùng để mô phỏng điều kiện môi

trường bất lợi đối với tôm. Thử nghiệm tập trung vào tỷ lệ sống sót, không nhằm đánh giá khả năng kháng bệnh mà phản ánh sức chịu đựng trước stress cấp tính do nitrit.

Tôm được phơi nhiễm với liều nitrit xác định từ các thử nghiệm sơ bộ, đảm bảo đạt tỷ lệ chết mục tiêu 80-90% trong thời gian ngắn

OH-SeMet 0.3: 0,3 mg Se/kg từ OH-SeMet (Selisseo®)

OH-SeMet 0.6: 0,6 mg Se/kg từ OH-SeMet (Selisseo®)

Kết quả

Bảng 2 cho thấy khẩu phần cơ bản chứa 0,73 mg Se/kg thức ăn. Các nguồn selenium khác nhau được bổ sung để đạt nồng độ mục tiêu 0,3 và 0,6 ppm.

Tích lũy selenium và chỉ số

chống ôxy hóa Kết quả phân tích nồng độ selenium trong cơ thể tôm (Bảng 3) không ghi nhận khác biệt đáng kể giữa các nhóm tại thời điểm bắt đầu thí nghiệm. Tuy nhiên, sau giai đoạn bổ sung, nguồn selenium ảnh hưởng rõ rệt đến hàm lượng selenium tích lũy. Nhóm sử dụng OH-SeMet đạt giá trị cao nhất (P < 0,001), trong khi nhóm SS không ghi nhận sự gia tăng đáng kể, cho thấy SeMet là nguồn selenium có sinh khả dụng cao nhất (P = 0,0003).

Ban đầu, các chỉ số chống ôxy hóa giữa các nhóm không có sự khác biệt (P > 0,05), phản ánh sự đồng nhất đầu vào. Trong giai

đoạn tăng trưởng, tôm bổ sung OH-SeMet và SeYeast cho thấy nồng độ GSH và hoạt tính enzym

GSH-Px cao hơn so với nhóm SS (P = 0,0483 và P = 0,0394, tương ứng). Ngoài ra, chỉ số T-AOC tăng đáng kể ở nhóm OH-SeMet (P = 0,0015), trong khi SeYeast cho kết quả trung gian, không khác biệt đáng kể so với hai nhóm còn lại (P > 0,05) – như minh họa ở Hình 1.

Hiệu suất tăng trưởng

Giai đoạn 1

Sau 35 ngày thí nghiệm (Bảng 4), các nguồn selen đều cho thấy tác động tích cực đến tăng trưởng của tôm, trong đó OHSeMet mang lại kết quả ổn định và vượt trội nhất. Sự cải thiện về tăng trưởng gắn liền với khả năng chống chịu tốt hơn, nhờ vai trò thiết yếu của selen trong hệ thống phòng vệ chống ôxy hóa.

Tôm được cho ăn OH-SeMet đạt tỷ lệ sống cao hơn, trọng lượng lớn hơn và hiệu quả chuyển hóa thức ăn tốt hơn so với các nhóm còn lại. Điều này cho thấy OH-SeMet là nguồn selen hiệu quả trong giai đoạn ương giống (PL30–PL65), hỗ trợ tăng trưởng và sống sót nhờ tăng sức đề kháng trước các áp lực từ mật độ nuôi cao.

Giai đoạn 2

Kết quả từ Giai đoạn 2 tiếp tục khẳng định vai trò thiết yếu của hệ thống phòng vệ chống ôxy hóa – trong đó selen giữ vai trò trung tâm – đối với tăng trưởng tối ưu ở tôm. Cả nguồn và liều bổ sung selen đều ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ sống, tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn.

Các dạng selen hữu cơ, đặc biệt là OH-SeMet và SeYeast, cho hiệu quả vượt trội so với natri selenit, nhiều khả năng nhờ khả năng hấp thu cao và hỗ trợ tốt hơn trong điều kiện stress ôxy hóa. Tôm đã được bổ sung selen hiệu quả từ Giai đoạn 1 tiếp tục

duy trì hiệu suất ổn định và cao

hơn trong giai đoạn 2 - cho thấy lợi ích dài hạn về sức chống chịu

trong môi trường nuôi thực tế.

Tăng liều bổ sung nhìn chung giúp cải thiện hiệu suất ở tất cả các nguồn. Đáng chú ý, OH-

SeMet ở mức 0,3 mg/kg đạt hiệu quả tương đương SeYeast ở mức

0,6 mg/kg, cho thấy hiệu lực sinh học cao hơn ở liều thấp hơn. Sản lượng sinh khối cũng phản ánh xu hướng này, với hiệu quả rõ rệt từ các nguồn selen hữu cơ, đặc biệt là OH-SeMet ở liều cao hơn.

Sản lượng và chất lượng thịt

Tỷ lệ thịt không chịu ảnh hưởng đáng kể từ tương tác giữa nguồn selen và mức bổ sung (P = 0,0575). Tuy nhiên, nhóm bổ sung OH-SeMet cho tỷ lệ thịt cao hơn rõ rệt so với SS và Se-Yeast (P < 0,001) (Hình 2).

Chất lượng thịt được đánh giá qua các chỉ tiêu cảm quan và công nghệ chế biến: - Lực cắt: Phản ánh độ săn

chắc của thịt. Giá trị cao hơn cho thấy cấu trúc cơ vững chắc và độ đàn hồi tốt – đặc điểm được ưa chuộng vì liên quan đến độ tươi.

- Độ sáng (L)* : Thể hiện độ tươi

của thịt qua cảm quan thị giác.

L* cao cho màu thịt sáng, tươi;

ngược lại, L* thấp có thể gợi ý thịt già hoặc bảo quản chưa đạt.

- Sắc tố: Đo cường độ màu hồng/đỏ – yếu tố liên quan đến

khẩu phần ăn và tình trạng sức

khỏe. Mức sắc tố cao là dấu hiệu

thịt có chất lượng tốt, trong khi sắc tố thấp thường đi kèm với

stress hoặc sức khỏe kém.

- Khả năng giữ nước (WHC) và

hao hụt sau chế biến (cooking loss): WHC cao giúp thịt mọng

nước, giảm thất thoát dịch trong chế biến; cooking loss thấp phản ánh khả năng giữ nước và dưỡng chất hiệu quả.

- Trạng thái selen tối ưu hỗ trợ biểu hiện selenoprotein, giúp

bảo vệ cơ thịt khỏi ôxy hóa, từ đó duy trì cấu trúc và tăng WHC.

- Độ pH: Là yếu tố quan trọng

quyết định kết cấu, thời gian

bảo quản và ổn định vi sinh. pH

lý tưởng trong khoảng 6,0-6,5; pH >7 có thể là dấu hiệu tôm bị stress hoặc thịt bắt đầu hư hỏng.

Khả năng chống chịu stress nitrit

Nitrit thường được sử dụng như yếu tố gây stress tiêu chuẩn

để đánh giá khả năng chống chịu của tôm, thay vì phản ứng miễn dịch với mầm bệnh. Trong thí nghiệm này, tỷ lệ sống được dùng làm chỉ số chính.

Tôm được bổ sung OH-SeMet trong khẩu phần cho tỷ lệ sống cao nhất và ổn định nhất, với sự khác biệt đáng kể bắt đầu từ giờ thứ 4 đến giờ thứ 7. Ngược lại, nhóm bổ sung SeYeast và SS ghi nhận tỷ lệ sống giảm nhanh hơn, đặc biệt SS ở liều 0,3 mg/ kg cho kết quả thấp nhất ngay tại giờ thứ 5.

Tăng hàm lượng selen lên 0,6 mg/kg nhìn chung cải thiện tỷ lệ sống ở hầu hết các nguồn, cho thấy phản ứng theo liều, ngoại trừ nhóm SeYeast, trong đó liều 0,3 mg/kg lại đạt hiệu quả cao hơn.

Phân tích thống kê cho thấy cả nguồn selen và liều lượng đều ảnh hưởng có ý nghĩa

sống, với tương tác giữa hai yếu tố trở nên rõ rệt từ sau giờ thứ 3. Kết luận OH-SeMet cho thấy ưu thế vượt trội so với selen vô cơ và selen từ nấm men, thể hiện qua hiệu

tăng trưởng và năng

tôm cải thiện rõ rệt. Hiệu quả này có liên quan đến khả năng tăng cường chống chịu stress, thể hiện qua mức tăng các chỉ số chống ôxy hóa như GSH-Px và T-AOC. Nhờ khả năng bảo vệ tốt hơn trước stress ôxy hóa, OH-SeMet giúp duy trì hiệu suất ở giai đoạn đầu và cải thiện tỷ lệ sống trong điều kiện stress nitrit. Đồng thời, việc bổ sung OH-SeMet cũng cải thiện đáng kể độ săn chắc và độ sáng thịt – những yếu tố quan trọng nâng cao giá trị thương phẩm của tôm.

Sản phẩm Selisseo® của tập đoàn Adisseo chứa 100% hydroxyselenomethionine (OHSeMet), là nguồn selen hữu cơ tinh khiết và có sinh khả dụng cao và đậm đặc nhất hiện có trên thị trường.

Hình 2
Adisseo

Công nghệ Nano Bubbles

Hướng đi

bền vững cho sức khỏe và năng suất thủy sản

Trong bối cảnh ngành

nuôi trồng thủy sản đang

đối mặt với nhiều thách thức như ô nhiễm môi trường, dịch bệnh gia tăng và biến đổi khí hậu, việc tìm kiếm một giải pháp công nghệ bền vững, hiệu quả đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Một trong những bước tiến nổi bật hiện nay chính là ứng dụng công nghệ Nano Bubbles – giải pháp tối ưu cho việc cung cấp ôxy và cải thiện chất lượng nước trong ao nuôi.

Nano Bubbles (bọt khí nano) là các bọt khí siêu nhỏ, có đường kính khoảng 200 nanomet. Nhờ kích thước siêu nhỏ này, Nano Bubbles có khả năng phân tán đều trong nước, duy trì lâu hơn mà không nổi lên mặt nước nhanh như các bọt khí thông thường. Điều này giúp tăng cường khả năng hòa tan ôxy trong nước một cách liên tục và hiệu quả, đáp ứng nhu cầu ôxy ổn định cho tôm, cá trong mọi giai đoạn phát triển.

Lượng ôxy hòa tan là yếu tố then chốt trong nuôi trồng thủy sản. Khi ôxy đầy đủ, tôm sẽ ăn khỏe, lớn nhanh và ít bị stress.

Đồng thời, quá trình phân hủy chất thải, bùn đáy, và các hợp chất hữu cơ cũng diễn ra nhanh chóng hơn, giúp cải thiện đáng kể chất lượng nước. Đây là yếu tố quan trọng giúp giảm tỷ lệ mắc bệnh và nâng cao tỷ lệ sống của vật nuôi.

Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp ôxy, công nghệ Nano Bubbles còn có khả năng hỗ trợ quá trình khử trùng khi kết hợp

với ozone hoặc các tác nhân ôxy hóa khác. Bọt nano giúp ozone hòa tan tốt hơn, tiếp xúc trực tiếp với các vi khuẩn, vi sinh vật gây bệnh và phân hủy chúng một cách triệt để. Nhờ đó, môi trường ao nuôi trở nên trong sạch, an toàn hơn mà không cần sử dụng nhiều hóa chất, giúp hướng đến một nền nuôi trồng xanh – sạch – bền vững

Một điểm cộng nữa là Nano

Bubbles giúp giảm thiểu chi phí

điện năng so với các hệ thống cấp ôxy truyền thống như máy quạt nước, máy sục khí. Việc tiết kiệm năng lượng, hóa chất, giảm

rủi ro dịch bệnh và nâng cao năng suất chính là những lợi ích

thiết thực khiến nhiều trang trại nuôi tôm hiện đại đang chuyển

hướng sang công nghệ này.

Có thể nói, Nano Bubbles đang dẫn đầu xu hướng đổi mới trong

ngành thủy sản, không chỉ vì tính

hiệu quả mà còn vì tầm nhìn dài

hạn – hướng đến sức khỏe thủy sản ổn định và năng suất vượt

trội. Không phải là xu hướng tạm

thời, Nano Bubbles chính là nền

tảng công nghệ cốt lõi trong

hành trình nâng cao giá trị chuỗi

nuôi trồng thủy sản – nơi sức

khỏe và năng suất cùng song

hành. Với những lợi ích vượt trội về ôxy, môi trường và chi phí vận

hành, công nghệ Nano Bubbles

không chỉ là giải pháp hiện tại

mà còn là chìa khóa dẫn lối cho một tương lai nuôi trồng thủy sản an toàn, hiệu quả và bền vững. B.H.N

Website: bhnenc.com

Email: bhnenc@gmail.com

Nâng cao chất lượng

lươn giống

Hiện nay, nghề sản xuất lươn giống phát triển

khá mạnh ở ĐBSCL nhất là tỉnh Vĩnh Long. Tuy

nhiên, tỷ lệ sống và chất lượng con giống còn

thấp và chưa ổn định. Vì vậy, để nâng cao chất

lượng lươn giống cấp thiết cần thực hiện tốt

các biện pháp kỹ thuật tân tiến.

Nguồn nước

Tuyệt đối không lấy nước nhiễm phèn, nhiễm mặn, nhiễm hóa chất kim loại nặng, ô nhiễm…

Nguồn nước cung cấp cho lươn bố mẹ và bể ương lươn con đạt tiêu chuẩn sinh hoạt càng tốt.

Nguồn nước sạch sau khi lắng lọc, được khử trùng bằng Iodine để loại bỏ vi khuẩn, nấm… có hại cho lươn.

Nuôi vỗ lươn bố mẹ

Chọn lươn bố mẹ khỏe mạnh nuôi vỗ cho lươn sinh sản (tỷ lệ con cái nhiều hơn con đực, có thể 2 cái 1 đực hoặc 3 cái 2 đực).

Lươn là loài lưỡng tính lúc nhỏ là con cái, nhưng sau khi đẻ 1 thời gian thì lươn thành lươn đực. Nên

chọn lươn về nuôi vỗ ở giai đoạn đẻ sai nhất (con cái dài khoảng 2530 cm và con đực dài trên 45 cm).

Khẩu phần cho lươn sinh sản ăn: Lươn có thể ăn thức ăn tự nhiên như cá nhỏ, tép, ốc, trùn quế…, lươn cũng có thể ăn thức ăn công nghiệp độ đạm cao >42%.

Tuy nhiên, để đủ dưỡng chất khi

cho ăn thức ăn công nghiệp, cần bổ sung thêm BIO SELEVIT E liều

lượng 1 - 2 ml/10 kg thể trọng, chất dinh dưỡng BIO NUTRIFISH liều lượng 10 g/kg thức ăn và Vitamin C liều 2 g/kg thức ăn. Mỗi

ngày cho lươn ăn 1 cữ chiều. Nhờ

đó giúp lươn đẻ nhiều trứng, tăng

tỷ lệ trứng có phôi, trứng có chất

lượng tốt, tăng tỷ lệ trứng nở…

Ấp trứng

Sau khi nuôi vỗ lươn bố mẹ

khoảng 2 tháng chúng sẽ đẻ trứng.

Lươn đẻ trứng vào ban đêm, vớt trứng vào buổi sáng, rửa sạch đưa

vào khay (hoặc thau nhựa) chứa

nước có pha sẵn sản phẩm BIO PARACIDE for Aquaculture chứa hoạt chất Bronopol liều lượng

100 ppm và ngâm trong 30 phút.

Mục đích loại bỏ vi khuẩn, vi nấm, nguyên sinh động vật gây bệnh.

Tiếp theo thay nước mới có sục

khí 24/24 và ấp trong khoảng 5 -

7 ngày trứng sẽ nở hết. Chuyển

lươn con qua khay mới (hoặc thau nhựa) có sục khí và thay

nước mỗi ngày.

Ương nuôi lươn con Khu vực ấp và ương trứng phải

sạch sẽ, có mái che, thoáng mát, tránh ánh nắng trực tiếp…

Sau khoảng 3 - 4 ngày lươn con tiêu hết noãn hoàng, bắt đầu cho lươn ăn trùn chỉ (trùn chỉ cũng phải ngâm rửa bằng BIO Paracide liều lượng 100 ppm trong 15 phút để loại bỏ mầm bệnh vi nấm, bệnh nhiễm khuẩn…), lượng thức ăn chiếm 8 - 10% trọng lượng thân. Sau 3 tuần cho ăn trùn chỉ thì tập cho lươn ăn thức ăn công nghiệp có độ đạm >40%. Quá trình cho lươn ăn thức ăn công nghiệp, nhằm giúp lươn giống có sức khỏe tốt, ít bệnh, giảm hao hụt, lớn nhanh… Lưu ý, trong khẩu phần thức ăn cho lươn, thường xuyên bổ sung thêm men tiêu hóa Biozyme, Vitamin C và Bio Nutrifsh giúp tăng sức kháng bệnh cho lươn. Cho lươn con ăn ngày 3 - 4 cữ, lượng thức ăn khoảng 4 - 8% trọng lượng thân. Hàng ngày tối thiểu 2 lần cần thay nước và xi phông cặn bã, chất bẩn… Trong quá trình ương nuôi lươn giống sau 3 - 4 tuần, có thể lọc sàn (phân cỡ) cỡ lớn nuôi riêng, cỡ nhỏ nuôi riêng, để hạn chế tình trạng tranh giành thức ăn. Sau đó 2 - 3 tuần tiếp tục phân cỡ lần nữa. Sau hơn 2 tháng ương thì lươn lớn đạt trung bình khoảng 500 con/kg, thì lúc này có thể sang bể nuôi lươn thương phẩm, hoặc bán cho các trại chuyên nuôi lươn thịt. Nuôi lươn thịt có thể nuôi trong bể xi măng, hoặc bể lót bạt có để giá thể chùm nilon, hay vỉ tre… tùy điều kiện hộ nuôi. Đặng Hồng Đức Cố vấn kỹ thuật công ty liên doanh Bio Pharmachemie

New Hope Vĩnh Long tổ chức

hội nghị giải pháp nâng cao hiệu quả nuôi tôm tại Mường Thanh Luxury Cần Thơ 25.6.2025

Ngày 25/6/2025, tại Mường Thanh Luxury Cần Thơ, New Hope Vĩnh Long

đã long trọng tổ chức Hội nghị Giải pháp nâng cao hiệu quả nuôi tôm. Sự

kiện diễn ra tốt đẹp với sự tham dự đông đảo của quý đại lý/khách hàng,

đối tác, các chuyên gia thủy sản và đặc biệt là hơn 30 Tinh Anh Thủy Sản

New Hope Hải Ngoại cùng tham dự để trợ lực cho Đội ngũ kinh doanh tôm New Hope Vĩnh Long phát triển.

Phát biểu khai mạc Hội nghị, ông Vạn Tiến –Tổng giám đốc New Hope Vĩnh Long thay mặt Công ty cảm ơn sự tham dự của đông đảo đại biểu, khách mời, cùng cảm ơn quý đại lý/khách hàng đã tin tưởng New Hope Vĩnh Long. Công ty TNHH New Hope Vĩnh Long thuộc Tập đoàn New Hope, chuyên nghiên cứu phát triển, sản xuất và kinh doanh thức ăn thủy sản. Với thế mạnh về công nghệ sản xuất hiện đại và đội ngũ nhân tài được tuyển chọn từ nhiều nơi, Công ty New Hope Vĩnh Long đã và đang tập trung đầu tư thị trường thủy sản, h ướng tới dịch vụ ngày càng hoàn hảo hơn. Tại New Hope Vĩnh Long, chất lượng sản phẩm bắt đầu từ sự kiểm soát nghiêm ngặt, nguyên liệu đầu vào được kiểm nghiệm kỹ lưỡng. Trước khi được nhập vào kho New Hope Vĩnh Long, nguyên liệu được kiểm tra lấy mẫu từng bao, đảm bảo chất lượng ổn định, an toàn. Thức ăn cũng sẽ được kiểm tra kỹ lưỡng các tiêu chuẩn, đạt chuẩn mới đủ điều kiện đóng bao thành

phẩm. Đặc biệt, trước khi đưa ra thị trường, thức ăn thành phẩm được chuyển đến farm thực nghiệm của New Hope Vĩnh Long để kiểm tra, chứng thực kết quả về chất lượng.

Ông Trần Hải Hoa – Tổng giám

đốc kinh doanh Thủy sản BU cho biết, Tập đoàn New Hope thành lập vào năm 1982. Trải qua hơn 40 năm hình thành và phát triển, New Hope đã và đang nằm trong những tập đoàn hàng đầu về sản

xuất thức ăn chăn nuôi, với tổng sản lượng năm 2024 đạt trên 26 triệu tấn.

Ông Triệu Bằng Phi – Giám

đốc công thức đã giới thiệu cho quý đại lý và bà con nông dân về các đặc điểm, nguyên lí tạo nên công thức đặc thù của thức ăn

tôm New Hope Vĩnh Long. Các sản phẩm của New Hope Vĩnh

Long luôn được cân đối dinh

dưỡng toàn diện, bảo đảm con tôm phát triển nhanh, đáp ứng tốt nhu cầu dinh dưỡng theo

Cũng trong khuôn khổ hội nghị, New Hope Vĩnh Long còn kết hợp với các chuyên gia về thuốc thủy sản, cùng hơn 30 Tinh Anh Thủy Sản New Hope Hải Ngoại chia sẻ các kinh nghiệm, cũng như giải pháp nuôi tôm khỏe, ít bệnh, tạo môi trường nuôi hiệu quả, bền vững. Sau khi được tìm hiểu rõ ràng về sản phẩm, quý bà con cũng đã đưa ra lựa chọn tin tưởng và tiến hành đặt hàng, cũng như mang về cho mình những giải thưởng vô cùng hấp dẫn. Quý khách hàng Đại lý Trần Văn Thoại đã là người may mắn nhất trúng giải đặc biệt, sở hữu cho mình 01 chiếc ô tô VF3.

New Hope Vĩnh Long luôn cố gắng để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, lấy khoa học kỹ thuật làm gốc, chất lượng là sinh mệnh, kiên trì theo đuổi và sản xuất ra những sản phẩm ngày càng hoàn hảo hơn. Thành công của khách hàng chính là niềm hạnh phúc to lớn đối với New Hope Vĩnh Long. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự tín nhiệm của khách hàng đã luôn tin tưởng, ủng hộ, đồng hành cùng New Hope Vĩnh Long trong suốt thời gian qua. Chúc cho cộng đồng người nuôi tôm Việt Nam nói chung và quý hộ nuôi của New Hope Vĩnh Long nói riêng ngày càng có thật nhiều vụ mùa bội thu hơn nữa. Chúc cho sự hợp tác giữa New Hope Vĩnh Long và quý khách hàng luôn bền chặt, cùng nhau phát triển và gặt hái thật nhiều thành công hơn.

từng giai đoạn, rút ngắn chu kỳ nuôi. Từ đó, ông đưa ra các giải pháp đề xuất, cộng hưởng các nhóm theo từng mục đích, để người nuôi có thể lựa chọn giải pháp nào phù hợp nhất.

New Hope Vĩnh Long

Giải quyết vấn đề đất phèn trong ao nuôi

tôm

Trên thế giới hiện nay có khoảng 15 triệu ha đất phèn, tập trung nhiều nhất ở khu vực Đông Nam Á (chiếm 50% diện tích). Trong đó, diện tích

đất nhiễm phèn ở ĐBSCL là 41,1%

ở hầu hết các tỉnh: Cà Mau, Bến Tre, Trà Vinh, Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, An Giang, Vĩnh Long, Hậu Giang; ĐBSCL đóng góp 71% diện tích nuôi trồng thủy sản và 54% sản lượng thủy sản của cả nước.

Ảnh hưởng của phèn đến sự phát triển của tôm:

- Khó gây màu nước do tảo phát triển chậm, đặc biệt đối với tôm con (PL) ở giai đoạn đầu thì màu nước cực kỳ quan trọng. - Làm giảm pH trong ao nuôi, mà pH là một trong các yếu tố quan trọng trong quá trình nuôi, tăng độc tính của khí độc.

- pH thấp làm tôm stress, kém ăn, khó lột xác, mềm vỏ, chậm lớn, tôm màu xám đen, hợp chất phèn lơ lửng bám vào mang, cản trở quá trình hô hấp của tôm - pH thấp ảnh hưởng đến sự hoạt hóa các Enzyme trong ao. Từ đó làm cho việc sử dụng các sản phẩm vi sinh hoặc chế phẩm sinh học xử lí nước đáy, bổ sung thức ăn không hiệu quả.

Để hạn chế phèn trong ao ta nên:

Chọn địa điểm xây dựng ao nuôi ở các vùng đất ít bị nhiễm phèn; chuẩn bị và cải tạo ao nuôi thật kỹ, bón lót vôi đáy ao, sên rửa lại nhiều lần cho sạch trước khi cấp nước vào ao nuôi; xử lý nguồn nước cấp vào thật sạch, nên sử dụng kít kiểm môi trường để xem có hàm lượng sắt trong nước cấp không.

Cách xử lý ao bị nhiễm phèn:

1. Lót bạt toàn bộ nền đáy và

bờ ao:

- Đây là cách sử dụng màng

bạt để bao bọc lót xuống đáy ao hồ nuôi tôm Các loại bạt

này thường được làm từ chất

liệu nhựa với kích thước, độ dày

khác nhau phù hợp với diện tích

của ao tôm và nhu cầu sử dụng

của các hộ nuôi tôm cá. Các vật

liệu phổ biến nhất của bạt lót ao

nuôi tôm đó chính là HDPE, PVC và cao su EPDM. Đây đều là các nguyên liệu nguyên sinh có độ bền cao đồng thời không gây

độc hại cho tôm giống và người sử dụng. Cách này có tác dụng chính trong ngăn phèn, chống xói mòn, tạo môi trường nuôi hợp vệ sinh, hạn chế rủi ro bệnh tật ở tôm nuôi.

2. Sử dụng hóa chất (EDTA hoặc vôi):

- Vôi: Cách xử lý này được rất nhiều hộ nuôi sử dụng. Nhưng là thực tế có những ao độ phèn cao, 1000m2 phải dùng cả một tấn vôi mới ngăn chặn được. Đó chính là điểm hạn chế của cách xử lý này. Sử dụng số lượng quá lớn, vừa tốn công tạt vừa gây tốn kém chi phí.

- Đánh EDTA cũng là một cách hay để ngăn chặn phèn sắt tức

thời, phèn nhôm EDTA không có tác dụng nhiều, khi đánh EDTA, nó sẽ làm kết tủa Fe trong nước, giảm phèn và chìm xuống đáy ao, khi người nuôi quạt nước thì

vô tình kéo kết tủa của phèn sắt

lên luôn thì nó cứ tồn tại trong môi trường nước, không hết triệt

để, vài ngày phải đánh lại.

Điểm hạn chế của hai cách xử lý này là:

- Chi phí rất cao: Lót bạt, vệ

Trước và sau khi xử lý phèn

bằng AQUALUM CONC

sinh ao bạt, khó gây màu nước, nhân công.

- Sử dụng hóa chất khối lượng lớn gây tốn kém chi phí và công tạt.

- Hóa chất chỉ giải quyết được phèn nhôm, phèn sắt không có tác dụng nhiều.

- Phèn vẫn còn tồn dư trong nước chứ không mất đi, có thể bị xì phèn sau những trận mưa.

3. Sử dụng vi sinh xử lý phèn:

Hiện nay, sử dụng vi sinh cũng là cách xử lý phèn trong ao nuôi tôm được rất nhiều hộ nuôi áp dụng.

Ưu điểm của phương pháp này là tiết kiệm, thân thiện môi trường và hiệu quả cao và kéo dài.

Hiện nay, Công ty Thái Nam

Việt đã nghiên cứu và phát triển thành công dòng  sản phẩm vi

sinh đặc biệt có khả năng phân hủy cả phèn sắt và phèn nhôm trong ao nuôi một cách hiệu quả. Sau 3 ngày sử dụng sản phẩm, màu nước ao sẽ trong xanh đẹp, tôm khỏe hơn, ăn lên mồi. Chỉ khi giải quyết được vấn đề phèn trong ao nuôi thì việc sử dụng các sản phẩm vi sinh xử lý nước đáy mới hiệu quả AQUALUM CONC – sản phẩm vi sinh xử lý phèn – hiệu quả ngay từ lần đầu tiên sử dụng – hiệu quả cho cả phèn sắt và phèn nhôm.

Nam Định

Làm giàu trên quê hương

Lựa chọn lập nghiệp trên mảnh đất quê hương,

đến nay anh Nguyễn Văn Bình, Giám đốc Hợp

tác xã (HTX) Nuôi trồng thủy sản Hải

Điền, thị trấn Cồn (huyện Hải Hậu) đã

hái những “quả ngọt” khi xây dựng

được mô hình kinh tế bền vững, cho

thu nhập hàng tỷ đồng mỗi năm.

Chuyển đổi thành công

Anh Bình sinh ra và lớn lên tại xã Hải Chính (nay là thị trấn Cồn, huyện Hải Hậu), nơi đây có nghề truyền thống sản xuất muối, công việc vất vả mà thu nhập không cao. Diện tích đất ngày một thu hẹp, thu nhập thiếu ổn định, nhiều người dân phải bỏ xứ đi các tỉnh làm thuê mưu sinh. Bản thân anh Bình từng vào tận miền Nam làm ăn nhiều năm liền. Tuy nhiên, với khát vọng làm giàu trên quê hương, năm 2014, anh Bình trở về quê, quyết tâm chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, mang lại giá trị kinh tế cao. Nhờ tích cóp được một số vốn và kinh nghiệm, anh bắt tay đào ao nuôi trồng thủy sản trên diện tích đất làm muối được các cấp chính quyền địa phương cho phép chuyển đổi.

Những năm đầu, việc nuôi cá, tôm vùng nước mặn mang lại thành công, anh Bình mạnh dạn đề nghị chính quyền cho thuê thêm diện tích để mở rộng

sản xuất, đồng thời tập hợp một

số hộ gia đình trong vùng thành lập HTX. Đến tháng 7/2018, HTX

Nuôi trồng thủy sản Hải Điền

chính thức được thành lập và ra mắt với 13 thành viên, với diện tích sản xuất 12,5 ha, được cải

tạo thành 45 ao, đầm nuôi các

loại cá nước mặn, nước lợ như: cá đối mục, cá vược, cá mú, tôm,…

Từ khi đi vào hoạt động đến nay, HTX đã liên kết các thành viên cùng nhau sản xuất, kinh doanh theo chuỗi khép kín, từ

việc nhân giống, cung cấp thức

ăn chăn nuôi, chế biến sản phẩm

đến bao tiêu đầu ra thông qua tư thương các chợ đầu mối, chuỗi

cửa hàng thủy hải sản ở thành phố Nam Định, huyện Hải Hậu và

một số tỉnh lân cận,... Nhiều sản

phẩm của HTX đang được khách

hàng tin dùng lựa chọn như chả

mực, chả cá, tôm sú, cá mú, cá

vược, cá thu cắt khúc, tôm nõn, trong đó các sản phẩm chả cá, chả mực đã được chứng nhận

đạt sản phẩm OCOP cấp tỉnh.

Đa dạng đối tượng nuôi

Bên cạnh việc duy trì nuôi các

loại cá nước mặn, nước lợ đặc

sản và chế biến sản phẩm thủy

hải sản, anh Bình luôn năng động

tìm hướng đi mới cho HTX. Vào

năm 2021, sau lần đi thăm quan các mô hình mới do Hội Nông dân huyện Hải Hậu giới thiệu, anh Bình đã thử nghiệm trên diện tích 3.000 m2, thả 30 vạn con ốc hương giống.

Để có được hiệu quả, anh Bình đã đầu tư lưới che trên ao nhằm giảm cường độ ánh nắng, giảm lượng nước mưa trực tiếp vào ao nuôi. Đồng thời, anh xây hệ thống ao lắng lọc để xử lý nước đạt tiêu chuẩn trước khi cấp vào ao nuôi. Nhờ tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật, môi trường luôn đảm bảo nên ốc hương sinh trưởng tốt, không bị dịch bệnh. Anh Bình liên tiếp gặt hái được thành công trong các vụ nuôi tiếp theo.

Hiện, gia đình anh Bình đang có 42 ao với tổng diện tích là

2,7 ha nuôi ốc hương và các loại cá đặc sản. Năm 2024, anh Bình xuất bán khoảng 12 tấn ốc

hương thương phẩm với giá bán

từ 230.000 - 250.000 đồng/kg (size ốc hương từ 90 - 100 con/ kg). Mô hình nuôi ốc hương, cá

đặc sản đã mang lại doanh thu

tiền tỷ mỗi năm cho anh Bình.

Không dừng lại ở đây, anh Bình

tiếp tục nhân rộng mô hình nuôi

ốc hương đến các hộ thành viên HTX, nghiên cứu mô hình nuôi cua trong hộp nhựa để kiểm soát dịch bệnh, đồng thời tiếp tục triển khai sản phẩm OCOP đối với ốc hương, nõn tôm, cá thu cắt lát.

Ngoài làm kinh tế giỏi, anh Bình còn luôn gương mẫu đi đầu thực hiện các phong trào thi đua Hội Nông dân phát động. Từ năm 2020 đến nay, anh Bình đã tham gia vận động và ủng hộ gần 100 triệu đồng xây dựng nông thôn mới ở địa phương.

*Ngày 1/7/2025, tỉnh Nam Định, Hà Nam chính thức sáp nhập với tỉnh Ninh Bình. Nguyễn

TỐI ƯU HÓA NUÔI CÁ MÚ

TRONG HỆ THỐNG TUẦN HOÀN RAS

Nhu cầu cá mú tăng mạnh giữa lúc nguồn cung biến động, hệ thống RAS

nổi lên như lời giải đầy tiềm năng. Theo bà Alex Lin – Giám đốc Khoa

học Aquaculture Technologies Asia (Hồng Kông), thành công không đến

từ việc rập khuôn mô hình, mà từ thiết kế phù hợp từng loài, kiểm soát

sinh học chặt chẽ và ứng dụng công nghệ thông minh.

Cá mú thuộc chi Epinephelus và Plectropomus, từ lâu đã nổi tiếng với giá trị kinh tế cao và được thị trường quốc tế ưa chuộng. Tuy nhiên, đây cũng là loài cá có yêu cầu nuôi khá khắt khe, dễ mắc bệnh và nhạy cảm với môi trường. Để cải thiện năng suất, người nuôi đang chuyển sang các giống có khả năng thích nghi tốt hơn như cá mú nghệ, mú cọp hay các dòng lai tạo. Dù vậy, khâu sản xuất giống vẫn là điểm nghẽn lớn của ngành. Phần lớn nguồn giống hiện nay vẫn đến từ các cơ sở quy mô nhỏ, nuôi trong ao đất truyền thống, dẫn đến tình trạng nguồn cung thiếu ổn định, phụ thuộc mùa vụ và giá cả biến động mạnh.

RAS – mô hình nuôi thương phẩm bền vững

Muốn vận hành hiệu quả mô hình RAS với cá mú, trước hết cần giải bài toán thiết kế hệ thống theo từng điều kiện thực tế. Một hệ thống phù hợp cần giải quyết đồng thời bốn yếu tố then chốt: quy mô thị trường, áp lực tài chính, rủi ro sinh học và yêu cầu vận hành.

Quy mô thị trường và chu kỳ tiêu thụ là cơ sở để xác định kích cỡ bể, số lượng hệ thống

độc lập và kế hoạch nuôi theo lô. Mô hình RAS đòi hỏi đầu tư lớn và tiêu thụ nhiều năng lượng – đặc biệt là khi mở rộng thương mại.

Trong khi đó, rủi ro sinh học luôn rình rập, nhất là với một loài nhạy cảm như cá mú. Giống kém chất lượng hoặc không rõ nguồn gốc có thể gây bùng phát dịch bệnh trên diện rộng. Cùng với đó là yêu cầu kỹ thuật khắt khe: hệ thống lọc, kiểm soát ôxy, chất lượng nước đều phải được theo dõi và bảo trì liên tục, đòi hỏi đội ngũ vận hành có trình độ chuyên môn cao.

Dù chi phí đầu tư cao và kỹ thuật phức tạp, RAS lại mang đến nhiều lợi thế vượt trội cho ngành cá mú từ sản xuất giống đến thương phẩm.

Ở khâu cá bố mẹ, hệ thống cho phép điều chỉnh nhiệt độ linh hoạt để kiểm soát quá trình thành thục sinh dục, chủ động thời điểm sinh sản và tiết kiệm năng lượng. Trong giai đoạn ương, RAS giúp kiểm soát chất lượng nước nghiêm ngặt, đồng thời tận dụng dòng nước thải để tái sử dụng vào nuôi tảo hoặc ấu trùng Artemia. Với hệ thống thiết kế phân khu rõ ràng từ trại giống, ấp trứng, ương đến khu thương phẩm, mỗi khu đều có hệ thống lọc riêng biệt,

tạo ra “rào chắn” sinh học giúp ngăn ngừa lây lan dịch bệnh.

Một điểm cộng khác là hệ thống “purging” – giúp cá thải sạch mùi lạ trước khi xuất bán. Điều này đặc biệt quan trọng khi hướng tới những thị trường yêu cầu cao về chất lượng cảm quan như Nhật Bản hay châu Âu.

Kiểm soát rủi ro sinh học

Vấn đề lớn nhất của RAS, theo bà Lin, là mối nguy sinh học trong môi trường nuôi kín mật độ cao. Việc liên tục đưa cá giống mới đôi khi từ nhiều nguồn vào cùng hệ thống sẽ làm tăng nguy cơ dịch bệnh và pha tạp di truyền.

Do đó, cá giống sạch bệnh đạt chuẩn SPF là yếu tố bắt buộc. Dù điều kiện nuôi phức tạp, công ty của bà đã đạt tỷ lệ sống lên đến 70 - 80%, thậm chí có lô đạt tới 95%. Độ ổn định này giúp giảm chi phí, tăng khả năng dự đoán và tối ưu hóa chuỗi sản xuất.

Mặt khác, việc kiểm soát di truyền cũng được chú trọng. Phân tích ty thể cho thấy trong quần thể cá mú có ít nhất 42 nhóm di truyền khác nhau. Việc chọn cá bố mẹ từ các nhóm này giúp cải thiện năng suất sinh sản, nhưng cũng khiến kích cỡ cá không đồng đều gây khó khăn cho khâu chế biến và xuất khẩu. Bước tiến công nghệ AI Truyền thống nuôi cá mú lâu nay vẫn dựa vào kinh nghiệm dẫn đến sự thiếu nhất quán trong kết quả. Theo bà Lin, yếu tố quyết định lại nằm ở hành vi của cá – điều

gian

làm

trộn đàn. AI có thể nhận diện từng cá thể, đo chiều dài, theo dõi thay đổi và từ đó điều chỉnh chiến lược cho ăn hoặc phân loại tự động. Trong một nghiên cứu thử nghiệm, hệ thống ban đầu không thể theo dõi chính xác bể 800 con cá, nhưng sau quá trình “đào tạo”, AI đã nhận diện thành công từng cá thể, mở ra hướng đi mới cho sản xuất chính xác và tiết kiệm nhân công.

Bà Lin nhấn mạnh: “RAS không phải là hệ thống cắm điện là chạy.” Nó đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng về kỹ thuật, tài chính và kiến thức sinh học chuyên sâu. Cá giống SPF là điều kiện tiên quyết để phòng bệnh. Đa dạng di truyền cần được kiểm soát bằng chương trình chọn giống bài bản để tránh chênh lệch kích thước. Và cuối cùng, yếu tố công nghệ – đặc biệt là trí tuệ nhân tạo theo dõi hành vi – sẽ đóng vai trò ngày càng lớn trong việc vận hành hiệu quả và nâng cao năng suất của hệ thống nuôi cá mú bằng RAS.

CHUYÊN

TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA

Nuôi lồng bè

Trước khi vào mùa mưa bão, cần kiểm tra các lồng bè, hệ thống dây neo, phao nổi để đảm bảo chúng vẫn vững chắc.

Cần gia cố thêm nếu cần thiết, như buộc chặt lại các dây neo, kiểm tra độ bền của lưới và các vật liệu khác. Đồng thời, lựa chọn vị trí eo kín gió và chuẩn bị sẵn thuyền máy để sẵn sàng di chuyển lồng, bè đến nơi an toàn khi có mưa bão xảy ra.

Nếu không di chuyển được cần

hạ lồng, bè xuống sâu để giảm

bớt sóng đánh làm hư lồng.

Những nơi có dòng chảy lớn

phải dùng những tấm phên

hoặc tấm bạt che chắn phía

trước lồng, bè để ngăn bớt

dòng chảy mạnh trực tiếp lên

cá nuôi.

Vệ sinh lồng, bè sạch sẽ và thông thoáng để thoát nước

được nhanh.

Sử dụng vôi bột đựng trong

bao tải treo ở đầu nguồn nước

hoặc khu vực cho ăn trong

các lồng, bè để khử trùng môi

trường nước, diệt các tác nhân

gây bệnh cho cá nuôi. Treo túi cách mặt nước khoảng 1/3 - 1/2 độ sâu của nước trong

lồng, bè. Liều lượng sử dụng là

2 - 3 kg vôi/10 m3 nước. Khi vôi

tan hết lại tiếp tục treo túi khác. Theo dõi thường xuyên mực

nước và dòng chảy xung quanh

lồng, bè. Nếu có dấu hiệu dòng chảy mạnh có thể làm sập

lồng, bè cần có kế hoạch di dời hoặc gia cố.

Ao nuôi tôm

Người nuôi cần kiểm tra và tu bổ lại đê bao cho chắc chắn

đảm bảo giữ được nước. Cần phát quang những cành, cây xung quanh bờ đê, để tránh cành lá rơi vào ao làm ô nhiễm ao nuôi và đề phòng khi có gió

lớn cây đổ có thể làm vỡ đê bao sẽ làm thất thoát cá. Nạo vét

kênh mương, khơi thông dòng chảy đảm bảo thoát nước tốt khi có mưa lớn.

Lắp lưới xung quanh ao là

một phương pháp hiệu quả nhằm ngăn tôm bị dòng nước lũ cuốn trôi. Có thể lắp lưới rộng

1 - 1,5 m và buộc chặt để chịu được áp lực của dòng nước lũ mạnh, giữ tôm bên trong ao. Khu vực ao nuôi tôm gần biển nên trồng cây chắn gió, chắn cát bay. Chuẩn bị thêm các bao tải đất, cát bảo vệ đê, các thiết bị nuôi tôm được che chắn, buộc cẩn thận.

Đối với những ao nuôi chưa thả giống, người nuôi nên tăng cường gia cố lại bờ ao, giàn quạt, máy sục khí,… để sẵn sàng thả giống khi mưa bão đi qua. Lắp đặt máy bơm nước để kiểm soát mực nước trong ao, ngăn ngừa nguy cơ ngập lụt. Một trong những bước quan trọng là đảm bảo hệ thống

thoát nước của ao hoạt động hiệu quả. Hệ thống thoát nước, tương tự như hệ thống tràn, có thể được thực hiện bằng cách tạo các kênh thoát nước trên bờ kè để dẫn nước thừa ra khỏi ao. Phương pháp này đặc biệt hiệu quả nếu lũ lụt chỉ xảy ra ở một số phần nhất định của ao. Đồng thời, tiến hành vệ sinh các kênh

đầu vào và ra của ao, ít nhất một lần/tháng và kiểm tra định kỳ để

đảm bảo nước chảy thông suốt.

Khi xảy ra mưa lũ, độ mặn của nước trong ao nuôi sẽ biến động rất mạnh. Để hạn chế hiện tượng giảm độ mặn đột ngột trong ao nuôi tôm, người nuôi phải có kế

hoạch điều tiết nước: Trước khi mưa to cần phải lấy nước có độ mặn thích hợp vào ao, giữ mực nước trong ao cao nhất. Trong khi mưa nên tránh các hoạt động làm xáo trộn nước trong ao nuôi và sau khi mưa cần nhanh chóng rút bớt nước ở tầng mặt của ao.

Đối với các vùng nuôi đất bị chua phèn, rắc vôi quanh bờ ao trước khi mưa phòng nước trôi phèn xuống làm biến động pH ao nuôi.

Bước vào mùa mưa lũ, các thông số môi trường sẽ có sự biến động lớn làm cho tôm yếu, giảm sức đề kháng. Do đó, các cơ sở nuôi cần có các biện pháp phòng bệnh, nâng cao sức đề kháng cho tôm bằng cách bổ sung vitamin, khoáng vi lượng, men tiêu hóa vào khẩu phần ăn của tôm định kỳ 10 - 15 ngày/đợt, mỗi đợt từ 5 - 7 ngày.

Người nuôi cần kiểm tra hoạt động của tôm nuôi, các yếu tố môi trường nước trước và sau mưa để

Trước mùa mưa bão, người nuôi cần chủ động dự trữ các loại vôi, chế phẩm sinh học, men vi sinh dùng để xử lý môi trường nước. Bên cạnh đó, người nuôi cũng cần thường xuyên theo dõi, kiểm tra yếu tố môi trường như: pH, nhiệt độ, độ kiềm, độ mặn, độ trong,… để có biện pháp điều chỉnh phù hợp.

có biện pháp xử lý kịp thời. Chuẩn bị máy phát điện, máy sục khí đề phòng khi điện bị mất.

Ao nuôi cá

Kiểm tra và tu bổ lại bờ ao cho chắc chắn, bờ ao nên cao hơn mực nước cao nhất hàng năm 0,5 m.

Kiểm tra hệ thống xả tràn cho ao nuôi. Chuẩn bị lưới, đăng chắn, cọc tre để cắm khi nước tràn hoặc vỡ bờ tránh thất thoát cá nuôi.

Khơi thông dòng chảy ở các sông, mương xung quanh ao để việc thoát nước được dễ dàng.

Chuẩn bị máy bơm nước chống ngập khi cần thiết (chuẩn bị thêm máy phát điện nếu có để

đề phòng điện lưới bị mất).

Phát quang cây xung quanh bờ ao để hạn chế cành, lá cây rơi xuống ao làm ô nhiễm ao nuôi khi có bão lũ, đồng thời phòng khi gió lớn gây đổ cây vỡ bờ ao.

Rải vôi bột xung quang bờ ao với liều lượng 1 - 2 kg/100 m2 để ổn định pH cho ao nuôi khi có mưa lũ.

Bổ sung vitamin vào thức ăn cho cá để tăng cường sức đề kháng. Điều chỉnh lượng thức ăn

khi có mưa bão/thay đổi thời tiết để hạn chế ô nhiễm môi trường,

tránh lãng phí.

Chủ động xử lý môi trường

nước bằng vôi bột với liều lượng

2 - 3 kg/100 m3 hoặc một số hóa

chất được phép sử dụng trong nuôi thủy sản (như TCCA, BKC, Chlorine,...) theo đúng liều lượng

hướng dẫn của nhà sản xuất để

khử trùng nước ao nuôi, phòng bệnh cho cá.

Nuôi cá trong ruộng lúa

Để đảm bảo an toàn cho ruộng nuôi, cần gia cố, tu bổ ruộng nuôi và tính thời vụ nuôi hợp lý.

Ruộng nuôi phải có đê bao chắc chắn không rò rỉ và cao hơn mực nước cao nhất 0,5 m để vượt lũ, xung quanh ruộng nuôi phải bố trí nhiều cống thoát nước, tùy

thuộc vào diện tích của ruộng nuôi để bố trí số lượng cho phù hợp. Trên bờ đê cần có lưới vây xung quanh ruộng nuôi.

Hàng ngày kiểm tra lưới để khắc phục trường hợp lưới rách hoặc nước chảy làm trống dưới chân lưới sẽ thất thoát tôm, cá. Thường xuyên kiểm tra hệ thống cống, bờ vùng, đắp lại những nơi xung yếu chống nước tràn qua bờ. Dọn sạch

đăng cống, mương rãnh để nước thoát nhanh đề phòng tắc nước.

Những vùng nuôi cá ruộng lúa lớn có thể cấm khai thác cá bằng cách đăng lưới hình chữ V, như vậy sẽ làm ngăn cản dòng chảy đồng thời giảm diện tích thoát nước. Cần chuẩn bị máy bơm nước để tiêu nước khi cần thiết. Nếu thủy sản đạt đến kích cỡ thương phẩm thì nên thu hoạch ngay.

với vùng nuôi nhuyễn thể Không nên thả giống ở thời điểm mùa mưa lũ. Tiến hành kiểm tra, tu bổ lại hệ thống đăng chắn để chống thất thoát ngao khi mực nước dâng cao. Sau mưa bão, ngao thường tập trung vào các góc đăng, chắn,do đó cần tiến hành san đều ra toàn bãi.

Đối với ốc hương nuôi, tiến hành gia cố, tu sửa bờ ao, bể nuôi để hạn chế hư hỏng, sạt lở do mưa bão. Thường xuyên cập nhật tình hình thời tiết, có kế hoạch trữ nước cấp có độ mặn thích hợp trong ao chứa và vệ sinh môi trường xung quanh ao/bể nuôi trước những ngày mưa lớn. Trong thời điểm mưa lớn, không nên cho ốc ăn để tránh ốc ngoi lên mặt cát dẫn đến ốc bị chết do độ mặn thay đổi đột ngột, đồng thời bơm nguồn nước cấp đã dữ trữ sang ao nuôi liên tục để giữ độ mặn trong nước ao nuôi không bị xuống thấp (đảm bảo độ mặn giữ >15‰). Sau khi mưa kết thúc, kiểm tra các thông số chất lượng nước như độ mặn, hàm lượng ôxy trong ao đảm bảo phù hợp trước khi cho ốc ăn trở lại.

Thanh Hiếu

Ảnh hưởng của nước phèn, độ mặn lên tăng trưởng và enzyme tiêu hóa của cá tra giống

Nghiên cứu của Đỗ Thị Thanh Hương và cộng sự giúp đánh giá ảnh hưởng kết hợp của pH thấp do nước phèn gây ra cùng với độ mặn lên tăng trưởng và hoạt tính enzyme tiêu hóa của cá tra nước ngọt, từ đó có thể mở rộng vùng ương nuôi cá tra tới các khu vực nhiễm phèn, nhiễm mặn và thích ứng với tình trạng biến đổi khí hậu.

Tính cấp thiết

Theo Đỗ Thị Thanh Hương và cộng sự, cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) là loài cá da trơn nước ngọt có giá trị kinh tế cao và là một trong những đối tượng nuôi thế mạnh

ở các tỉnh vùng ĐBSCL như: An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Hậu Giang.

Tuy nhiên, hiện nay tình hình biến đổi khí hậu đã và đang trở thành vấn đề đáng quan tâm nhất ở vùng ĐBSCL với hiện tượng nước biển dâng cao và nước mặn xâm nhập vào nội đồng. Do đó, các vùng nuôi cá nước ngọt nói chung và cá tra nói riêng có khả năng bị ảnh hưởng bởi sự xâm nhập mặn.

Theo Bôi và cộng sự (2020), vấn đề xâm nhập mặn là đáng lo ngại nhất đối với hoạt

động ương nuôi cá tra, đặc biệt ở khu vực vùng ven biển. Ngoài ra, ĐBSCL có diện tích đất nhiễm phèn rất lớn, hơn 1,6 triệu ha chiếm 41% diện tích vùng với mức pH thấp đến 3,5 (Khang và ctv.,1998; Cục trồng trọt, 2017). Do diện tích đất phèn lớn như vậy nên việc phát triển ngành nuôi trồng thủy sản còn gặp nhiều khó khăn, đất phèn ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường nước như pH thấp và do đó cản trở việc nuôi trồng thủy sản. Đất phèn chứa một lượng lớn axit sulfuric, tạo ra môi trường axit với độ pH rất thấp và dần đi vào môi trường ao hồ, kênh rạch làm cho động vật thủy sản còi cọc, ốm yếu hoặc chết (Dent & Pons, 1995).

Ngoài yếu tố pH, độ mặn cũng là yếu tố có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của động vật thủy sản. Nghiên cứu của Ha et al., (2021) cho thấy tốc độ tăng trưởng của cá tra bột khi ương ở độ mặn từ 0 đến 9‰ sau 2 tháng nuôi không có sự khác biệt giữa các mức độ mặn, tuy nhiên khi độ mặn tăng cao hơn 9‰ thì tăng trưởng của cá giảm và tỷ lệ sống cao nhất ở 6‰. Phuc (2015) nghiên cứu trên cá tra giai đoạn giống cho thấy cá sống tốt trong điều kiện độ mặn từ 2‰ đến 10‰, độ mặn từ 14‰ đến 18‰ tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá giảm thấp.

Các nghiên cứu trên chỉ đánh giá tác động riêng lẻ của pH hoặc độ mặn lên động vật thủy sản. Nhưng với tình trạng biến đổi khí hậu như hiện nay cộng với ý thức sử dụng và cải tạo đất phèn, mặn của người dân chưa cao đã và đang làm gia tăng diện tích đất bị nhiễm phèn, nhiễm mặn ở ĐBSCL (Minh &Vũ, 2015). Do đó, sự giảm pH do phèn gây ra trong tự nhiên hoàn toàn có thể xảy ra đồng thời với sự xâm nhập mặn. Vấn đề đặt ra là tác động kết hợp của hai

yếu tố nước phèn có pH thấp và độ mặn đến đời sống cá nước ngọt nói chung và cá tra nói riêng vẫn chưa có nhiều thông tin.

Nghiên cứu dưới đây của Đỗ Thị Thanh

Hương và cộng sự giúp đánh giá ảnh hưởng kết hợp của pH thấp do nước phèn gây ra cùng với độ mặn lên tăng trưởng và hoạt tính enzyme tiêu hóa của cá tra nước ngọt, từ đó có thể mở rộng vùng ương nuôi cá tra tới các khu vực nhiễm phèn, nhiễm mặn và thích ứng với tình trạng biến đổi khí hậu.

Phương pháp thực hiện

Để thực hiện nghiên cứu này, nhóm tác giả

đã lựa chọn cá tra giống có kích cỡ 15 - 20 g/ con, hoạt động khỏe mạnh, sạch bệnh, không bị dị hình dị tật, bơi theo đàn và không có dấu hiệu bệnh. Cá được đem về thuần dưỡng trong bể 2 m2 trong thời gian 2 tuần để ổn định và làm quen với môi trường mới. Nước ót (80 - 90‰), sau khi vận chuyển về trại thí nghiệm, nước được xử lý bằng Chlorine với nồng độ 30 ppm, sục khí mạnh và liên tục ít nhất 2 đến 3 ngày trước khi sử dụng. Đất phèn được nhóm tác giả mua về sau đó cho đất vào nước máy theo tỷ lệ thể tích 50% đất: 50% nước, cho đất từ từ rã trong nước, khuấy đất lên và để lắng khoảng 3 ngày để thu được mẫu nước phèn có pH thấp (khoảng 2 - 3) sử dụng trong thí nghiệm. Thức ăn dùng trong thí nghiệm là thức ăn hỗn hợp viên nổi cho cá giống giai đoạn từ 10 g đến 100 g có hàm lượng đạm là 30%.

Cá tra giống có kích cỡ trung bình 15,22 ± 0,93 g/con được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên gồm 9 nghiệm thức với 3 mức pH là 5,5, 6,5 và 7,5 kết hợp cùng 3 mức độ mặn 3‰, 6‰ và

9‰. Mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần, mật

độ bố trí là 40 con/bể 500 L (300 L nước). Thí nghiệm được thiết kế với hệ thống tuần hoàn gồm 36 bể (27 bể nuôi và 9 bể chứa), mỗi bể có thể tích 500 L. Mỗi nghiệm thức bao gồm 3 bể nuôi liên kết với 1 bể có chứa nước phèn và độ mặn phù hợp với từng nghiệm thức. Bể chứa được sử dụng nhằm dễ dàng điều chỉnh pH và độ mặn theo yêu cầu nhờ sự tuần hoàn nước giữa các bể. Độ mặn bể nuôi được nâng

mong muốn cùng một thời điểm. Sau đó, pH được giảm ở nghiệm thức pH 5,5 và 6,5, sử dụng nước phèn được chuẩn bị như mô tả ở trên, thêm từ từ vào bể thí nghiệm nhằm giảm 0,25 đơn vị pH mỗi 2 giờ. Nghiệm thức có pH thấp nhất (pH 5,5) được tiến hành trước, sau đó đến nghiệm thức 6,5 để các nghiệm thức đạt mức pH cùng thời điểm. Nghiệm thức pH 7,5 không bổ sung nước phèn, chỉ sử dụng nước máy pha với nước ót để đạt độ mặn mong muốn. Sau khi độ mặn và pH ở các bể đạt mức pH thí nghiệm thì bắt đầu tính thời gian thí nghiệm. Thời gian thí nghiệm là 60 ngày. Thí nghiệm được sục khí liên tục. Cá được cho ăn 2 lần/ngày lúc 8h, 16h và cho ăn theo nhu cầu của cá. Thức ăn được cân trước khi cho cá ăn. Sau khi cho cá ăn 30 phút tiến hành thu thức ăn thừa, sấy khô đến khối lượng không đổi và quy theo ẩm độ của thức ăn ban đầu để tính lượng thức ăn cá sử dụng nhằm xác định tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR). Số lượng và khối lượng cá chết được ghi nhận hàng ngày để tính tỷ lệ sống và FCR. Nước được thay 2 lần/tuần bằng cách xi phông cặn ở đáy bể, mỗi lần thay 30% lượng nước và thay nước mới có mức pH và độ mặn phù hợp với từng nghiệm thức.

Kết quả Sau 60 ngày nuôi, qua các phương pháp thu mẫu, tính toán chỉ tiêu tăng trưởng, phân tích enzyme tiêu hóa, xử lý số liệu, nhóm tác giả kết luận:

Nước phèn và độ mặn có ảnh hưởng đến cá ở các mức độ khác nhau. Môi trường pH 5,5 và độ mặn 6 và 9‰ làm giảm tăng trưởng, tăng FCR ở cá. Cá ở nhóm pH 6,5 và nhóm độ mặn 3‰ có khối lượng, chiều dài, tốc độ tăng trưởng tuyệt đối (DWG) và tốc độ tăng trường tương đối (SGR) cao nhất và FCR thấp nhất (p < 0,05). Tỷ lệ sống của cá chỉ bị ảnh hưởng ở nghiệm thức pH 5,5 - 6‰ và pH 5,5 - 9‰. Hoạt tính enzyme tiêu hóa trypsin tăng ở pH 7,5 - 3‰ và chymotrypsin giảm ở pH 5,5 kết hợp độ mặn 6 và 9‰, hoạt tính amylase tăng ở độ mặn 6 và 9‰. Từ đó cho thấy cá tra có khả năng tăng trưởng tốt trong môi trường nhiễm phèn pH 6,5 và nhiễm mặn nhẹ 3‰.

Ứng dụng tiềm năng và lợi

của Polyphenol lên chất lượng trứng cá

Tổng quan

Phụ phẩm từ nho đã được sử dụng trong nhiều ngành công nghiệp như mỹ phẩm, thực phẩm và thức ăn chăn nuôi, đặc biệt là trong ngành nuôi trồng thủy sản. Các nghiên cứu cho thấy các hoạt động chính của phụ phẩm từ nho là chống ôxy hóa và kháng khuẩn. Trong nuôi trồng thủy sản, nhu cầu thay thế kháng sinh, hóa chất bằng chiết xuất thực vật đã khiến phụ phẩm từ nho trở thành một nguồn dinh dưỡng thực vật mới với nhiều lợi ích thiết thực.

Chất lượng trứng và hiệu suất phát triển trong giai đoạn đầu của cá con phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng và số lượng chất dưỡng chất được cá mẹ tích lũy trong trứng. Việc tích lũy này không chỉ phụ thuộc vào chất lượng khẩu phần ăn (mức độ phong phú và toàn vẹn của dưỡng chất) mà còn vào phụ thuộc vào khả năng trao đổi chất hiệu quả của cá bố mẹ, giúp lưu trữ hiệu quả các dưỡng chất thiết yếu trong noãn hoàn.

Sản phẩm chiết xuất từ nho Norgrape 80 từ Norfeed rất giàu các chất chống ôxy hóa, đã được chứng minh là chứa 80% polyphenol, trong đó 60% là proanthocyanidin và 0,75% là anthocyanin. Norfeed thực hiện nghiên cứu nhằm tìm ra tính hữu dụng Norgrape 80 trong chế độ ăn của cá bố mẹ mang lại hiệu quả lên chất lượng trứng của cá hồi.

Thông tin thử nghiệm

Nghiên cứu được thực hiện trên cá hồi vân thương mại ở miền nam châu Âu, bao gồm 2 nhóm:

Nhóm đối chứng (CTL): khẩu phần tiêu chuẩn.

Nhóm bổ sung (NG): khẩu phần tiêu chuẩn được bổ sung thêm 80 ppm NorGrape® 80 trong suốt 6 tháng trước giai đoạn sinh sản.

Kết quả thử nghiệm

Hàm lượng chất khô trong trứng từ nhóm cá bố mẹ được bổ sung cho thấy sự gia tăng đáng kể, với mức trung bình tăng thêm +3,9% hàm lượng vật chất khô (p<0.001). Mặc dù trọng lượng tươi của trứng nhóm NG thấp hơn một chút

(giảm 1 mg/trứng), sự gia tăng đáng kể về hàm lượng vật chất khô (DM) đã giúp mỗi quả trứng của nhóm NG chứa trung bình thêm 1,85 mg vật chất khô (p<0.001).

Kết luận

Những kết quả này phù hợp với các quan sát trước đây trên cá hồi vân giống tại trạm thí nghiệm của INRAe, trong đó cũng ghi nhận sự gia tăng hàm lượng vật chất khô và tỷ lệ sống sót của phôi tốt hơn cùng với sự phát triển vượt trội hơn trong giai đoạn đầu của cá con sau khi noãn hoàng được hấp thụ. Mặc dù có sự khác biệt về di truyền, khẩu phần ăn và môi trường nuôi dưỡng, những kết quả này vẫn nhấn mạnh tính nhất quán của tác động tích cực từ NorGrape trong việc cải thiện quá trình chuyển giao dưỡng chất từ cá bố mẹ sang trứng. Điều này góp phần sản xuất ra cá giống có chất lượng cao hơn.

Norfeed

Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.