13 Theo A. Šeberová, năng lực NCKH là một hệ thống mở và không ngừng phát triển, bao gồm các kiến thức tuyên bố và kiến thức quy trình trong lĩnh vực nghiên cứu, các thái độ và sự sẵn sàng của cá nhân cho phép các nhà khoa học thực hiện nghiên cứu trong khuôn khổ hoạt động nghề nghiệp của họ . Như vậy, nói một cách tổng quát, cũng như mọi NL khác, NLNCKH bao gồm 3 thành tố chủ yếu: kiến thức phương pháp luận NCKH, kĩ năng NCKH và thái độ NCKH. Trong phạm vi sáng kiến, chúng tôi đề xuất quy trình hình thành và phát triển một số kĩ năng NCKH cơ bản cho HS THPT với nội dung cụ thể ở hình dưới đây.
Cụ thể: a. Kĩ năng xác định vấn đề, ý tưởng nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, đọc và thu thập tài liệu, chúng ta phát hiện hoặc nhận ra các “vấn đề” và đặt ra nhiều câu hỏi cần nghiên cứu (phát triển “vấn đề” rộng hơn để nghiên cứu). Đôi khi người nghiên cứu thấy một điều gì đó chưa rõ ràng trong những nghiên cứu trước (hoài nghi khoa học) và muốn chứng minh lại. Đây là tình huống quan trọng nhất để xác định “vấn đề” nghiên cứu. Trong các hội nghị chuyên đề, báo cáo khoa học,… đôi khi có những bất đồng, tranh cải và tranh luận khoa học đã giúp cho các nhà khoa học nhận thấy