

bài pháp vô ngôn
Biên mục trên xuất bản phẩm của Thư viện Quốc gia Việt Nam
Trần Đức
Xá lợi toàn thân - Bài Pháp Vô Ngôn / Trần Đức. - H. : Dân trí ; Công ty Xuất
bản Thiện Tri Thức, 2023. - 116 tr. ; 19 cm
ISBN 978-604-474-732-3
1. Đạo Phật 2. Chùa Đậu 3. Hà Nội

294.34350959731 - dc23

DTK0165p-CIP
TRẦN ĐỨC, XÁ LỢI TOÀN THÂN – BÀI PHÁP VÔ NGÔN
Cuốn sách được xuất bản theo hợp đồng bản quyền giữa
Tác giả Trần Đức và Công ty TNHH Xuất bản Thiện Tri Thức.
Bản quyền tiếng Việt © Công ty TNHH Xuất bản Thiện Tri Thức 2023 và tác giả
Không chấp nhận mọi hình thức sao chép, in ấn hoặc chuyển thể sang các hình thức
xuất bản điện tử nào mà chưa có sự cho phép của Thiện Tri Thức.
Team thực hiện: Thảo Triều - Khánh Minh - Biko - Giọt NắngMầu Quang Hưng - Áo Lam
Chú thích tranh bìa: tác phẩm Bài pháp vô ngôn, họa sĩ Lê Tuấn Anh, tranh thực
hiện tại chùa Đậu mùa hạ năm 2023. Toàn bộ tranh vẽ trong cuốn sách này là do
họa sĩ Lê Tuấn Anh thực hiện. Phần bản đồ ở trang 22 được họa lại theo Bản đồ
huyện Thượng Phúc in trên lụa trắng thời Nguyễn.
xá lợi toàn thân

bài pháp vô ngôn


Lời mở đầu
Chùa Đậu ở Thường Tín, Hà Nội là một địa
danh nổi tiếng, là chốn linh thiêng nghìn năm
tuổi. Nơi đây ghi dấu sự tu hành đắc đạo của
Thiền sư Đạo Chân thế danh Vũ Khắc Minh và
Thiền sư Đạo Tâm thế danh Vũ Khắc Trường.
Cũng tại nơi này xá lợi toàn thân của hai ngài đã
hiện hữu cùng tuế nguyệt suốt 400 năm qua.
Từ sự rung động trong lòng, những dòng chữ
trong cuốn sách đã được viết ra. Cuốn sách nhỏ
không đủ để viết lại lịch sử của ngôi chùa, cũng
không đủ sức để khắc họa chân dung về hai vị
thiền sư
… chỉ là men theo dấu chân như có - như
không của hai thiền sư đã lưu lại nơi đây để dò
Bài pháp vô ngôn
tìm đôi chút manh mối huyền cơ, để thắp sáng
ngọn đuốc tự thân trên hành trình hướng nội.
Không chỉ có tiếng nói của hai thiền sư mà
còn có tiếng nói của tổ Bồ Đề Đạt Ma, của Phật hoàng Trần Nhân Tông... đã cất lên từ miền miên viễn vang vọng nơi cuốn sách này. Rồi tất cả tan
biến như không có âm thanh nào được cất lên …
chỉ là khoảng không vắng lặng.
Chắc hẳn cuốn sách sẽ không làm hài lòng
những ai đi tìm kiếm thông tin về xá lợi toàn
thân của hai thiền sư hay nhằm củng cố một niềm
tin nào đó, nhưng có thể cuốn sách sẽ hòa điệu
cùng bạn hữu tương giao - những con người đang
trên hành trình hướng nội, hành trình soi lại bản
thân, hành trình trở về.
ĐẬU

Nguồn gốc Tứ pháp và việc thờ
nữ thần Pháp Vũ tại chùa Đậu
Cách đây 2600 năm một sự kiện mang tầm vóc vũ trụ đã diễn ra trên hành tinh này. Tại Ấn Độ
một hành giả sau nhiều năm tu hành khổ hạnh
bất thành đã đột ngột chuyển hướng trước sự ngỡ
ngàng của những người bạn đồng tu. Cánh cửa
mở ra, hành giả đó đã đi sâu vào thiền định và
trở nên toàn giác. Khổ đau bất tận đã đoạn tuyệt, nhất thể đã nhận ra chính mình và hiển bày qua
hình tướng một con người. Người đó vốn là thái
tử Tất Đạt Đa, sau khi giác ngộ hoàn toàn được
tôn xưng là Phật - Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Sự xuất thế của đấng toàn giác tạo lực đẩy xoay
vần bánh xe đảo chiều nơi tâm thức nhân loại,
Bài pháp vô ngôn
chuyển từ tâm mê sang tâm giác. Nhiều người
thời đó đã được thức tỉnh, tương truyền có tới
500 đệ tử của ngài đã chứng quả A La Hán và
hàng vạn kinh sách đã được lưu truyền cho hậu
thế. Số người chứng đắc đời nối đời dẫn lối dòng
chảy thức tỉnh mạnh mẽ đi vào thế giới này vượt
qua biên giới quốc gia và kéo dài suốt lịch sử nhân
loại từ đó đến nay.
Khoảng 700 năm sau khi Đức Phật thành
đạo, Phật Pháp từ Ấn Độ được truyền vào Việt
Nam. Thủa ấy, người dân Việt sinh sống chủ yếu
bằng nghề lúa nước và phân bố tập trung dọc
theo những con sông đặc biệt là khu vực châu thổ
sông Hồng. Với nền văn hóa lúa nước điển hình,
thiên nhiên là yếu tố đóng vai trò trọng yếu. Văn
hóa thờ các vị thần thiên nhiên trong dân gian
cũng bắt nguồn từ đó.
Các yếu tố ảnh hưởng tới nghề nông đã được
đúc kết trong câu “nhất nước - nhì phân - tam cần
- tứ giống”, vậy là “nước” đứng đầu và là yếu tố
đóng vai trò quan trọng số một. Tuy nhiên khi ấy
Nguồn gốc Tứ pháp...
hệ thống kênh mương chưa phát triển nên nước
phục vụ cho cây trồng vẫn chủ yếu phụ thuộc vào lượng mưa. Vùng châu thổ sông Hồng tuy
phì nhiêu nhưng thời tiết không kém phần khắc
nghiệt, có rất ít mưa vào mùa thu đông, và ngay
cả mùa xuân hạ cũng không hiếm năm hạn hán
kéo dài. Nếu năm nào lượng mưa ít thì năm đó
dân chúng sẽ mất mùa đói kém, do vậy cầu cho
“mưa thuận gió hòa” luôn gắn liền với sinh kế của người dân.
Khi các vị cao tăng Ấn Độ đặt chân tới nước
ta, giáo pháp đã nhanh chóng bén rễ và được đón
nhận mạnh mẽ. Luy Lâu (nay thuộc Bắc Ninh)
sớm trở thành trung tâm Phật giáo lớn sánh
cùng hai trung tâm Phật giáo đương thời là Bành
Thành và Lạc Dương ở Trung Hoa.
Có lẽ một phần vì sự đón nhận sâu rộng với
Phật pháp của người dân Việt mà việc thờ Phật
đã được đan quyện với văn hóa thờ thần thiên
nhiên. Sự đan quyện này hình thành nên hệ
thống thờ Tứ pháp trong các ngôi chùa đầu tiên
Bài pháp vô ngôn
ở Việt Nam. Gắn liền với sự ra đời của hệ thống
Tứ pháp là giai thoại Sỹ Vương dựng chùa cùng
sự tích Man Nương. Tứ pháp gồm: Pháp Vân -
thần mây, Pháp Vũ - thần mưa, Pháp Lôi - thần
sấm, Pháp Điện - thần sét. Đây là bốn vị nữ thần
mây - mưa - sấm - sét tất cả đều hướng tới việc
cầu mưa cho mùa vụ được tốt tươi.
Điều thú vị là, các vị thần lại được thờ trong
chùa, trong khi thông thường đình đền hay miếu
mới là nơi thờ thần. Điều thú vị nữa là, tên của
các ngôi chùa thờ các vị thần Tứ pháp lại gắn liền
với danh từ chỉ hành trạng tu Phật. Cụ thể, thần
Pháp Vân được thờ trong chùa Thiền Định, thần
Pháp Vũ được thờ trong chùa Thành Đạo, thần
Pháp Lôi được thờ trong chùa Phi Tướng, thần
Pháp Điện được thờ trong chùa Trí Quả.
Về tên của các chùa trong hệ thống Tứ pháp
cũng thay đổi theo thời gian. Từ tên ban đầu là:
Thiền Định Tự - Thành Đạo Tự - Phi Tướng Tự -
Trí Quả Tự về sau chuyển theo tên các vị thần Tứ
pháp trở thành: Chùa Pháp Vân - Chùa Pháp Vũ
Nguồn gốc Tứ pháp...
- Chùa Pháp Lôi - Chùa Pháp Điện. Theo thời
gian tên các chùa này cũng có thể đổi tên theo
tên địa danh hoặc cũng có thể tồn tại nhiều tên cùng một lúc.
Những ngôi chùa đầu tiên trên đất Việt chính
là những ngôi chùa gắn liền với việc thờ thần Tứ
pháp và được đặt tại Luy Lâu (Bắc Ninh). Về sau
các chùa theo hệ thống Tứ pháp dần lan rộng sang các vùng tiếp giáp như Hưng Yên, Hà Nam
trước khi vượt sang bên kia bờ sông Hồng vào Hà
Nội ngày nay. Tương truyền các chùa trong hệ
thống Tứ pháp tạo dựng về sau đều đến các chùa
Tứ pháp gốc ở Bắc Ninh để xin rước chân hương.
Hiện trên toàn vùng đồng bằng Bắc Bộ có
khoảng 58 di tích thờ Tứ pháp, phân bố ở những
địa phương: Bắc Ninh (5 di tích), Hà Nội (10 di tích), Hưng Yên (31 di tích), Hà Nam (11 di tích), Bắc Giang (1 di tích).
Chùa Đậu ở Thường Tín cũng là chùa được
dựng lên theo hệ thống thờ Tứ pháp đó. Chùa
Đậu vốn có tên là chùa Thành Đạo hay chùa
Bài pháp vô ngôn
Pháp Vũ. Tên thường gọi chùa Đậu được cho là
do sĩ tử tới đó hành lễ dễ đậu khoa thi, hay khi
vua chúa cũng như người tới cầu thỉnh thường
rất ứng đạt. Tuy nhiên đó chỉ là cách diễn dịch
của dân gian sau này. Khởi điểm của tên gọi chùa
Đậu được hình thành do rút gọn của chữ “Thành
Đạo” trong tiếng Hán thành chữ Đậu. Cách gọi rút gọn (gọi nôm) như vậy được thể hiện trong
nhiều chùa thuộc hệ thống Tứ pháp khác ở nước ta chứ không riêng chùa Đậu ở Thường Tín.
Như vậy lịch sử đã ghi nhận việc thờ thần
Pháp Vũ trong chùa là theo truyền thống thờ Tứ
pháp, xuất phát từ việc đan quyện cùng văn hóa
dân gian nhằm tương hỗ cho quá trình truyền bá
Phật pháp thuở ban đầu trên đất nước ta.
Tuy nhiên, như chúng ta đều biết chức năng
chính của một ngôi chùa vẫn là tu hành, nương
theo kinh Phật, lời tổ để chuyển hóa tâm thức từ
mê sang giác vẫn là điều trọng yếu.
Chùa Đậu - có tự bao giờ?
Câu hỏi được đặt ra là chùa Đậu ở Thường Tín
có tự bao giờ?
Vốn vẫn tồn tại ba quan điểm. Quan điểm
đầu tiên dựa theo thông tin trong cuốn sách đồng
tại chùa Đậu cho rằng, chùa có từ thế kỷ đầu
Công nguyên do Thái thú Sĩ Nhiếp dựng lên.
Quan điểm thứ hai cho rằng chùa có từ thời Lý
căn cứ theo bia đá ghi lại lịch sử chùa được khắc
vào năm 1639. Quan điểm thứ ba nói rằng chùa
có từ thời Trần do các nhà khảo cổ đã tiến hành
khai quật, khảo cứu tại chùa và chỉ phát hiện các
dấu tích dựng chùa từ nhà Trần.
Vào thời Trần các tông phái Phật giáo hợp
nhất về thiền phái Trúc Lâm do Phật hoàng
Bài pháp vô ngôn
Trần Nhân Tông sáng lập. Thời kỳ thiền tông
phát triển như vậy mà triều đình cho dựng mới
một chùa theo hệ thống Tứ pháp thì không phải
là một giả thuyết có tính thuyết phục cao. Việc
các nhà khảo cổ tìm được những dấu tích lớn của
thời Trần dưới lòng đất như đầu rồng bằng đá có
lẽ là minh chứng cho thấy vào giai đoạn này chùa
đã có đợt tu bổ. Lịch sử cũng ghi lại thời Trần, tổ
Pháp Loa (đệ tử nối pháp của Phật hoàng Trần
Nhân Tông) đã có đợt trùng tu các chùa ở quy
mô lớn trên cả nước. Có thể dấu tích cổ vật thời
Trần được tìm thấy ở chùa Đậu là do giai đoạn tu bổ này.
Trong khi Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại vào
thời Lý, nhà vua nhiều lần rước tượng Tứ pháp về
kinh thành để cầu mưa, cho thấy thời này rất coi
trọng hệ thống chùa Tứ pháp, thực tế cũng cho
thấy các chùa Tứ pháp bắt đầu lan rộng từ Bắc
Ninh sang các vùng lân cận với quy mô lớn chính
vào thời nhà Lý.
Còn quan điểm cho rằng chùa có từ thời Sỹ
Nhiếp dựa trên cuốn sách đồng tại chùa có vẻ
Chùa Đậu - có tự bao giờ?
không thực thuyết phục, vì thời đó Phật giáo mới
vào Việt Nam và tập trung phát triển tại kinh
thành Luy Lâu (Bắc Ninh). Hơn nữa hệ thống
Tứ pháp ở khu vực Thường Tín có đủ bốn chùa,
Pháp Vân - Pháp Vũ - Pháp Lôi - Pháp Điện (điều này được liệt kê trong bia đá khắc năm 1639 tại
chùa), và thường cả bốn chùa trong Tứ pháp sẽ
được dựng cùng nhau, vậy mà vào thời Lê Trung
Hưng các bia đá được lập tại chùa Đậu đều xác nhận là chùa được xây vào thời Lý. Có lẽ câu chuyện Sỹ Nhiếp dựng chùa được ghi lại trong sách đồng với sự tích Man Nương là biến thể của câu chuyện Sỹ Nhiếp dựng chùa Tứ pháp ở Bắc
Ninh. Ngoài ra một số nhà nghiên cứu văn hóa, dựa trên họa tiết đặc trưng trên sách đồng cho rằng niên đại của cuốn sách đồng tại chùa có từ thời Nguyễn - tức là nội dung trong sách được
viết mãi sau này.
Từ những phân tích trên cho thấy nhận định
rằng, chùa Đậu được lập vào thời Lý có tính
thuyết phục hơn cả. Tất nhiên khi không có
chứng cứ đầy đủ thì mọi quan điểm đưa ra chỉ là
giả thuyết dựa trên một góc nhìn nào đó.
Bài pháp vô ngôn
Tuy vậy dù chùa Đậu (Thường Tín) có từ
thời Sỹ Nhiếp hay thời Lý Trần, thì đây vẫn là
ngôi chùa cổ kính nghìn năm tuổi. Ngôi chùa
có thờ thần Tứ pháp như một biểu tượng về dấu
ấn Phật pháp được truyền bá vào nước ta thủa ban đầu.
Và hơn hết ngôi chùa chính là nơi chứng kiến
sự tu hành đắc đạo của hai thiền sư và là nơi lưu
giữ xá lợi toàn thân của hai ngài suốt gần nửa
thiên niên kỷ qua. Ngôi chùa có sự hiện diện xá
lợi toàn thân của hai vị thiền sư mới thực là bất
khả tư nghì (không thể nghĩ bàn), là ánh sáng bất
tận không ngừng tỏa chiếu tới muôn loài. Ngọn
lửa chứng đạo đó như vượt thoát thời gian chiếu
sáng tâm hồn đầy vướng bận của hành giả trên
hành trình trở về.
Nơi linh khí hội tụ
Về thăm chùa Đậu, chúng ta đều thấy chùa nằm
ngay gần bên bờ sông Nhuệ nên không ít người lầm tưởng chùa vốn “nổi lên” theo mạch sông
Nhuệ như bao ngôi chùa gần bờ sông khác.
Sự thực vượt xa ý nghĩa đó, cách chùa Đậu
hơn 5km đường chim bay là dòng sông Hồng
lớn nhất vùng bắc bộ. Và thật kỳ lạ từ dòng
sông Hồng tại vị trí gần bến đò Chương Dương
(Thường Tín) bỗng xuất hiện một nhánh nhỏ, hình thành một dòng nước chảy dài theo phương
vuông góc tiến gần tới bờ sông Nhuệ thì dừng lại
và uốn quanh một khu đất nhô cao. Dường như
dòng chảy dài hơn 5km từ sông Hồng đến đó chỉ
để cuộn quanh khu đất lạ kỳ này. Và trên khu đất
tuyệt đẹp đầy linh khí đó đã được tiền nhân dựng
lên một ngôi chùa với tên gọi ban đầu là Thành
Đạo Tự.

Nơi linh khí hội tụ
Dưới góc nhìn của một số nhà phong thủy, ngôi chùa là đại huyệt, là mảnh đất tu hành, là nơi hội tụ linh khí lớn với sức ảnh hưởng có thể mang tầm vóc quốc gia.
Dưới góc nhìn của thi nhân, thì sự hùng vĩ của sông Hồng đã phát tiết ra một dòng nước thanh tịnh và trồi lên một bông sen tuyệt đẹp, bông sen đó chính là chùa Đậu.
Tại chùa còn lưu giữ trên bia đá, khánh đồng, chuông đồng những vần thơ, bài văn tán thán sự thiêng liêng và vẻ đẹp siêu thoát của ngôi chùa qua các thời kỳ.
Đời vua Lê Thần Tông (thế kỷ XVII), chùa
Đậu được ngự phong là “Đệ nhất danh lam”. Quả
thực điều này khiến nhiều người ngỡ ngàng vì trên
đất nước ta đâu thiếu gì nơi cảnh đẹp tựa bồng lai
cùng rất nhiều ngôi chùa trác tuyệt, vậy mà vua
chúa lại ngự ban cho chùa Đậu danh xưng “Đệ nhất danh lam”. Thế mới thấy cảnh chùa khi xưa
đẹp mức nào. Thật may đến nay chùa vẫn nguyên
trên nền đất cũ, và dòng nước kỳ lạ từ sông Hồng
Bài pháp vô ngôn
năm xưa vẫn không ngừng tuôn chảy cuộn quanh
ngôi chùa.
Chỉ là, như còn thiếu một chút gì đó để sống
lại cảnh thế độc đáo nghìn năm xưa…
Mọi sự từ tâm, có lẽ phải từ tâm để sống dậy
cảnh xưa? Cảnh thanh tịnh cần kiến tạo từ tâm
thanh tịnh, cảnh đẹp tựa trăng rằm cần khởi phát
từ tâm ngời sáng! Danh xưng “Đệ nhất danh lam”
liệu có sớm trở lại nơi đây?
Dù tồn tại không ít văn bia suốt chiều dài
lịch sử ngợi ca về ngôi chùa tuyệt đẹp này, tuy
nhiên có lẽ điểm độc đáo nhất của ngôi chùa …
đã không được ghi lại trong bất cứ văn bia hay
sách sử nào của dân tộc!
Vượt lên trên mọi vẻ đẹp, mọi sự kỳ vỹ - ngôi
chùa là một thánh tích hiếm có. Ngôi chùa là
thánh tích chứng kiến sự tu hành đắc đạo của hai
thiền sư và cũng là nơi lưu lại xá lợi toàn thân của
hai ngài suốt nhiều thế kỷ.
Chúng ta thường nói nhiều đến các thánh
tích Phật giáo tại Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Quốc,
Nơi linh khí hội tụ
Myanmar, Thái Lan,... Đó là nơi gắn liền với cuộc
đời Đức Phật, là nơi gắn liền với các vị Bồ tát, các vị tổ giác ngộ. Vậy ở Việt Nam nơi Phật giáo
được bén rễ từ rất sớm với nhiều vị tổ sư đắc đạo, chúng ta có những thánh tích nào? Chắc hẳn là
đã tồn tại không ít thánh tích trên đất nước này, có điều nhận thức của xã hội về các thánh tích đó
hiện nay ra sao mới là vấn đề cần đặt ra.
Chùa Đậu nơi chứng kiến hai thiền sư trụ
trì tu hành đắc đạo nối tiếp nhau để lại xá lợi
toàn thân hẳn nhiên là một thánh tích lớn của
Phật giáo trên đất nước Việt Nam. Đã có không
ít các bậc cao tăng trên thế giới tỏ ra ngỡ ngàng
khi nghe nói về xá lợi toàn thân của hai thiền sư
chùa Đậu và bày tỏ mong muốn có dịp được tới
chiêm bái.
Tuy vậy hành trạng tu hành và hoằng pháp
của hai thiền sư ra sao? Xá lợi toàn thân bất hoại
là gì, có ý nghĩa thế nào? Và hậu thế nhận được gì
từ đó? Là những câu hỏi lớn với chúng ta khi tới
thăm thánh tích chùa Đậu.