4
là lĩnh vực then chốt đào tạo ra hệ thống nhân lực trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0. 3. Vai trò, vị trí của môn Ngữ Văn trong nhà trƣờng phổ thông Chúng ta đều biết rằng môn Ngữ văn là môn học vô cùng quan trọng trong
IC IA L
việc đào tạo con ngƣời, bồi dƣỡng trí tuệ, tâm hồn và nhân cách cho học sinh. Nhà văn Nga lỗi lạc M.Go – ro – ki đã từng viết : “Văn học là nhân học”. Còn giáo sƣ Hà Minh Đức từng khẳng định “Văn học không chỉ là một nguồn tri thức mà còn là nguồn năng lượng tinh thần lớn lao, có ý nghĩa cổ vũ, tiếp sức cho con
FF
người trong cuộc sống”.
O
Từ tầm quan trọng của văn học đối với việc hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh, mỗi GV dạy văn không chỉ xác định cho mình một nhiệm vụ
N
đơn giản là cung cấp cho học sinh một lƣợng tri thức nhất định, mà quan trọng
Ơ
hơn là ngƣời GV thông qua các bài giảng của mình làm cho học trò “tự cảm thấy
H
môn văn thật sự cần thiết cho sự khôn lớn tinh thần”(Đỗ Kim Hồi), làm cho các
N
em thấy đƣợc thấm vào từng trang văn là tâm hồn, là trí tuệ, là những nghĩ suy,
Y
trăn trở, là tâm sự của nhà văn trƣớc cuộc đời, là tấc lòng mà nhà văn muốn gửi
U
gắm đến các thế hệ độc giả của mình.
Q
Bộ môn Ngữ văn trong chƣơng trình giáo dục THCS hiện hành là sự tích hợp của ba phân môn: Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn. Trong đó phân môn
M
Tập làm văn vừa “khó”, “khô” “khổ” nhƣng lại là phân môn đánh giá đƣợc đầy
KÈ
đủ nhất các năng lực của học sinh. Vì vậy, đây cũng chính là phân môn đòi hỏi
ngƣời GV phải dành nhiều tâm sức nhất. Hơn nữa, xã hội ngày càng phát triển
ẠY
càng đòi hỏi con ngƣời phải năng động sáng tạo, biết chủ động ứng dụng lí
D
thuyết vào cuộc sống, biết bày tỏ, bảo vệ ý kiến của riêng mình. Bất kì lĩnh vực nào ta cũng phải đƣa ra ý kiến, quan điểm của cá nhân mình và làm thế nào để ý kiến mình đƣa ra thuyết phục đƣợc ngƣời nghe. Từ đó ta thấy môn Ngữ văn nói chung và văn nghị luận nói riêng càng khẳng định đƣợc vai trò, ý nghĩa trong thời kì mới.