Lầu 2, Nhà B, 116 Nguyễn Đình Chiểu, P. Đa Kao, Q. 1, TP HCM
Văn phòng Hà Nội:
Điện thoại: 0243.7713699
Tầng 3, nhà A7, 10 Nguyễn Công Hoan, Ba Đình, Hà Nội
Phòng Quảng cáo:
Quảng cáo: 028.62777616
Email: nghia@thuysanvietnam.com.vn
Giấy phép xuất bản: 69/GP-BTTT
ISSN: 0866-8043
Nơi in: In tại Công ty TNHH MTV Lê Quang Lộc (TP HCM)
Giá bán: 50.000đ - Giá PDF: 10.000đ
Thư tòa soạn
Thưa quý vị bạn đọc,
Nhìn lại năm 2024, ngành tôm đã kiên trì và nỗ lực vượt qua thử thách, khẳng định vị thế vững chắc trong xuất khẩu. Xuất khẩu tôm năm 2024 đạt 3,9 tỷ USD, tăng 14% so với năm 2023.
Tuy nhiên, ngành tôm thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang phải đối mặt với nhiều thách thức. Trong đó, ứng phó với biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh và tiêu chuẩn khắt khe từ thị
trường là những bài toán khó. Chính vì vậy, chuyển đổi xanh, phát triển
bền vững là xu thế tất yếu nhằm đảm bảo mục tiêu và định hướng phát
triển của ngành tôm trong tương lai.
“Xanh hóa vùng nuôi” sẽ là chủ đề chính của Tạp chí Thủy sản Việt
Nam phát hành trong tháng 03. Trên số báo này, Tạp chí Thủy sản Việt
Nam sẽ thông tin tới quý bạn đọc những vấn đề mang tính “sống còn”
của ngành tôm.
Với những bài phân tích, tư vấn phản biện chuyên sâu, các chuyên gia, nhà khoa học sẽ đưa ra giải pháp, định hướng phát triển phù hợp với bối cảnh hiện tại và tương lai cho con tôm Việt.
Ngoài ra, Tạp chí Thủy sản Việt Nam số 03 còn cung cấp thông tin về tình hình sản xuất, thị trường thủy sản trong và ngoài nước; thức ăn dinh dưỡng; những mô hình nuôi trồng hiệu quả; cách phòng, chống dịch bệnh thủy sản; cùng các hoạt động của cộng đồng doanh nghiệp. Đặc biệt, “Xanh hóa vùng nuôi” cũng là chủ đề xuyên suốt của “Hội chợ triển lãm Quốc tế công nghệ ngành tôm Việt Nam lần thứ 6 - VietShrimp 2025” sắp diễn ra tại TP. Cần Thơ từ ngày 26 – 28/03. VietShrimp 2025 không chỉ là sự kiện thương mại mà còn là diễn đàn học thuật, giúp doanh nghiệp, người nuôi tôm tiếp cận được kiến thức và công nghệ mới, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển ngành tôm theo hướng xanh, bền vững.
Trân trọng! Ban Biên tập
Xuất khẩu thủy sản tăng trưởng mạnh mẽ
Xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong tháng 2/2025 đạt 655,197 triệu USD, tăng trưởng 42,6% so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 2 tháng đầu năm 2025, kim ngạch xuất khẩu đạt 1,423 tỷ USD, tăng 18,2%. Trung Quốc, Nhật Bản và Hoa Kỳ là 3 thị trường lớn nhất, chiếm 52,6% tổng thị phần. Đặc biệt, xuất khẩu sang Trung Quốc tăng mạnh 80,8%.
Tôm vẫn là mặt hàng chủ lực với kim ngạch xuất khẩu 542,387 triệu USD, tăng 30,8% so với năm trước. Tháng 2, tôm đạt 231,406 triệu USD, tăng 33,9%. Ngành cá tra phục hồi với kim ngạch đạt 253,241 triệu USD, nhưng vẫn giảm nhẹ 0,8%. Xuất khẩu cá ngừ tháng 2 đạt 59,986 triệu USD, tăng 15,9%, trong khi xuất khẩu mực, bạch tuộc, nhuyễn thể có vỏ và cua ghẹ ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng lần lượt là 13,8%, 121,6% và 86,1%. Tuy nhiên, các sản phẩm khai thác vẫn đối mặt với áp lực từ các quy định IUU và MMPA, đòi hỏi truy xuất nguồn gốc chặt chẽ từ EU và Mỹ.
Cuối tháng 3/2024, EC sẽ đến kiểm
tra công tác chống khai thác IUU
Theo dự kiến, từ ngày 21 - 31/3, Đoàn Thanh tra của Ủy ban châu Âu (EC) sẽ đến Việt Nam để kiểm tra việc thực hiện các biện pháp chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU). Đoàn sẽ làm việc với các cơ quan quản lý, từ Ban Chỉ đạo chống khai thác IUU, Ban quản lý cảng cá đến doanh nghiệp, tập trung vào bốn nội dung chính: quản lý đội tàu, kiểm soát nguyên liệu thủy sản nhập khẩu, truy xuất nguồn gốc và thực thi pháp luật. Theo
Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Việt Nam đã triển khai nhiều giải pháp quyết liệt, như lắp đặt 100% thiết bị giám sát hành trình (VMS) trên tàu cá, kiểm soát chặt chẽ hoạt động xuất bến, nhập cảng và xử lý nghiêm các vi phạm. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, đây là cơ hội quan trọng để Việt Nam chứng minh nỗ lực, tiến tới gỡ bỏ “thẻ vàng” IUU. Thứ trưởng khẳng định, các địa phương cần quyết tâm hành động, không đối phó mà phải thực hiện nghiêm túc, triệt để các khuyến nghị của EC nhằm hướng tới một ngành khai thác thủy sản bền vững.
Sản lượng thủy sản tháng 2/2025
tăng 4%
Trong tháng 2/2025, sản lượng thủy sản của Việt Nam ước đạt 650.500 tấn, tăng 4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, sản lượng nuôi trồng đạt 362.500 tấn, tăng 4,6% so cùng kỳ 2024. Cá nuôi chiếm 258.700 tấn, tăng 5%, còn tôm đạt 58.000 tấn, tăng 5,8%. Đáng chú ý, sản lượng cá tra đạt 121.700 tấn, tăng 4,6%, nhờ giá nguyên liệu tăng và nhu cầu xuất khẩu khả quan. Tôm thẻ chân trắng có mức tăng mạnh 7,7%, đạt 36.500 tấn, do giá phục hồi vào đầu tháng 2 sau khi giảm nhẹ cuối tháng 1. Trong khi đó, sản lượng tôm sú đạt 16.700 tấn, tăng 3,1%. Về thủy sản khai thác đạt 288.000 tấn, tăng 3,2% so cùng kỳ, với cá đạt 220.900 tấn, tăng 3,1% và tôm đạt 11.300 tấn, tăng 3,2%. Riêng khai thác biển chiếm 270.500 tấn, tăng 3,3%. Lũy kế 2 tháng đầu năm, tổng sản lượng thủy sản đạt 1,24 triệu tấn, tăng 2,4% so với cùng kỳ.
Nguy cơ Mỹ cấm nhập khẩu nhiều
loại hải sản Việt Nam từ 2026
Mỹ vừa thông báo không công nhận Việt
Nam có hệ thống quản lý đánh bắt tương đương, đồng nghĩa với nguy cơ cấm nhập
khẩu nhiều loại hải sản từ ngày 1/1/2026
nếu Việt Nam không có hành động kịp thời. Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), để tránh lệnh cấm, Việt Nam cần đẩy mạnh hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao năng lực giám sát và đảm bảo tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế. Hiện, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực
như cá biển (302,8 triệu USD, tăng 13,6%), mực - bạch tuộc (101 triệu USD, tăng 13,8%), nhuyễn thể có vỏ (39 triệu USD, tăng 121,6%) và cua ghẹ (62,7 triệu USD, tăng 86,1%) vẫn có tiềm năng lớn, đặc biệt tại Trung Quốc. Tuy nhiên, các mặt hàng này cũng đối mặt với áp lực từ các quy định về khai thác bất hợp pháp (IUU) và Đạo luật Bảo vệ Động vật có Vú Biển (MMPA). “EU và Mỹ ngày càng siết chặt kiểm soát nguồn gốc. Nếu không đáp ứng truy xuất nguồn gốc đầy đủ, các mặt hàng này có thể bị từ chối nhập khẩu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến xuất khẩu. Chính phủ, doanh nghiệp và ngư dân cần phối hợp chặt chẽ để xây dựng chuỗi cung ứng bền vững”, đại diện VASEP nhấn mạnh.
Hà Tĩnh Sẵn sàng cho vụ nuôi tôm xuân hè 2025
Vụ Xuân Hè năm 2025, Hà Tĩnh dự kiến thả nuôi khoảng 2.250 ha tôm, chủ yếu là tôm sú và tôm thẻ chân trắng. Để đảm bảo vụ nuôi thắng lợi, ngành chuyên môn và chính quyền địa phương đã hướng dẫn người dân thực hiện nghiêm các quy trình kỹ thuật từ cải tạo ao đầm, xử lý môi trường nuôi đến lựa chọn con giống đạt chuẩn. Hiện tại, phần lớn diện tích ao đầm đã cơ bản hoàn thành công tác cải tạo. Người nuôi tôm tập trung nạo vét bùn đáy, xử lý nguồn nước bằng Chlorine, phơi ao từ 7 - 10 ngày và sử dụng vôi đúng liều lượng để ổn định pH, tiêu diệt mầm bệnh. Theo lịch thời vụ, từ tháng 3, tôm giống sẽ bắt đầu được thả nuôi. Với sự chuẩn bị kỹ lưỡng và tuân thủ quy trình kỹ thuật, người nuôi tôm Hà Tĩnh kỳ vọng vào một vụ mùa thuận lợi, góp phần phát triển nghề nuôi tôm bền vững.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường chính thức hoạt động
Từ ngày 1/3/2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, được thành
lập từ việc hợp nhất Bộ Tài nguyên và Môi trường với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, chính thức hoạt động. Ông Đỗ Đức Duy đã được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và
Môi trường vào ngày 18/2/2025 và cũng được chỉ định làm Bí thư
Đảng ủy Bộ nhiệm kỳ 2020 – 2025 vào ngày 24/2/2025. Trong cơ cấu tổ chức mới, Bộ đã tiến hành sáp nhập một số đơn vị để tinh gọn bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động. Trong đó, Cục Thủy sản và Cục Kiểm ngư đã được hợp nhất thành Cục Thủy sản và Kiểm ngư do ông Trần Đình Luân làm Cục trưởng. Việc sáp nhập này nhằm tăng cường quản lý, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, đồng thời nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát hoạt động khai thác và bảo vệ ngư trường.
Bình Thuận
Tập trung cấp, cấp lại giấy phép khai thác thủy sản
Nhằm quản lý chặt chẽ tàu cá và tiến tới
chấm dứt tình trạng khai thác bất hợp pháp (IUU), Chi cục Thủy sản Bình Thuận vừa triển khai kế hoạch cấp, cấp lại Giấy phép khai thác thủy sản (GPKTTS) trên toàn tỉnh.
Mục tiêu của kế hoạch là rà soát, loại bỏ các tàu cá không còn hoạt động, làm sạch dữ liệu trên hệ thống VNFishbase, đồng thời đảm bảo tất cả tàu cá đã đăng ký phải có GPKTTS theo Luật Thủy sản 2017. Chi cục Thủy sản yêu cầu chính quyền địa phương, đặc biệt là cấp xã, phối hợp chặt chẽ trong việc rà soát, hỗ trợ ngư dân hoàn thiện hồ sơ cấp phép. Cụ thể, từ ngày 1/3 - 20/3/2025, 4 tổ nghiệp vụ sẽ phối hợp với 7 địa phương ven biển để hướng dẫn, hỗ trợ cấp phép. Đồng thời, tàu cá không còn tồn tại hoặc đã bán ra ngoài tỉnh sẽ được phân loại và xử lý theo quy định. Hiện, toàn tỉnh còn 1.481 tàu cá chưa có hoặc hết hạn GPKTTS, tập trung
Thủ tướng Phạm Minh Chính trao quyết định thành lập Đảng bộ
Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho ông Đỗ Đức Duy, Bộ trưởng
Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong ngày 24/2 Ảnh: Nhật Bắc
chủ yếu tại Phan Thiết (491 tàu), La Gi (396 tàu) và Tuy Phong (355 tàu). Việc cấp phép kịp thời là yêu cầu cấp bách để ngành thủy sản đáp ứng quy định quốc tế và tránh các lệnh cấm xuất khẩu.
Thành phố Cần Thơ Người nuôi cá tra Thối Nốt phấn
khởi tái nuôi
Đến cuối tháng 2/2025, ngành nông nghiệp quận Thốt Nốt ghi nhận sự phát triển ổn định, đặc biệt trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản. Tổng sản lượng thủy sản thu hoạch đạt 13.306 tấn, trong đó cá tra chiếm 13.223 tấn, tăng 5.300 tấn so với cùng kỳ năm trước. Giá cá tra nguyên liệu cũng tăng so với tháng trước, giúp nông dân thu được lợi nhuận cao và tạo động lực tái đầu tư sản xuất. Quận hiện có 161,28 ha diện tích nuôi cá tra đạt chứng nhận an toàn thực phẩm, với 74 cơ sở nuôi cá tra đáp ứng tiêu chuẩn.
Công tác giám sát chất lượng, kiểm tra dư lượng và an toàn thực phẩm trong nuôi trồng được triển khai nghiêm túc. Ngoài ra, quận Thốt Nốt cũng thúc đẩy các chương trình
phát triển thủy sản bền vững, trong đó có
đề xuất thực hiện Dự án “Ứng dụng mô hình nuôi cá bông lau trong ao đất” trong năm 2025. Ngành chức năng địa phương tiếp tục hỗ trợ người nuôi cá tra qua kiểm dịch giống, phòng chống dịch bệnh và hướng dẫn đăng ký nuôi trồng, đảm bảo phát triển ổn định và hiệu quả.
Kiên Giang
Chủ động ứng phó hạn, mặn trong nuôi tôm
Trước tình hình nắng nóng kéo dài và xâm nhập mặn gia tăng, nông dân Kiên Giang đang tích cực triển khai các biện pháp bảo vệ vụ nuôi tôm. Theo dự báo, đỉnh điểm hạn, mặn sẽ diễn ra từ tháng 2 đến tháng 4-2025, ảnh hưởng lớn đến các huyện ven biển như An Minh, An Biên, U Minh Thượng, Vĩnh Thuận. Để hạn chế tác động bất lợi, người nuôi tôm tập trung cải tạo ao đầm, sên vét bùn đáy mương, duy trì chất lượng nước bằng các biện pháp kỹ thuật. Việc kiểm soát độ mặn khi lấy nước vào ao, giữ mực nước ổn định và bổ sung khoáng chất nhằm tăng sức đề kháng cho tôm cũng được chú trọng. Ngoài tôm sú, tôm thẻ chân trắng, nông dân một số khu vực chuyển sang nuôi cua xanh do khả năng thích nghi tốt hơn với độ mặn cao. Cùng với đó, chính quyền địa phương đã triển khai gia cố 29 đập ngăn mặn để đảm bảo nguồn nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Các giải pháp này giúp người dân chủ động ứng phó, giảm thiểu thiệt hại và duy trì hiệu quả nuôi trồng thủy sản trong mùa khô.
Nga
Sản lượng cá tuyết sụt giảm
Theo số liệu mới nhất từ Liên minh thủy sản
Nga, sản lượng khai thác cá tuyết cod tại Viễn
Đông năm ngoái giảm 6,4%, còn 107.000 tấn so với năm 2023. Trong khi đó, sản lượng tại khu vực Bắc Cực giảm sâu hơn 19,5%, còn 223.000 tấn. Tình hình khai thác cá tuyết tiếp tục phức tạp trong năm nay. Tính đến ngày 9/2, sản lượng đánh bắt tại khu vực Bắc Cực giảm thêm 13,8% so với cùng kỳ năm ngoái, chỉ đạt 19.300 tấn, so với mức 22.400 tấn của cùng kỳ năm trước. Theo German Zverev, Chủ tịch Hiệp hội sản xuất thủy sản Nga (VARPE), trữ lượng cá tuyết toàn cầu đang suy giảm, ảnh hưởng tiêu cực đến sản lượng khai thác của Nga, khiến giá cá tăng cao trên thị trường Nga và toàn cầu. Bộ Nông nghiệp Nga mới đây đã xây dựng dự thảo lệnh nhằm hạn chế hoạt động đánh bắt cá tuyết công nghiệp tại Viễn Đông vào năm 2025.
Thái Bình Dương 14 quốc gia nhận tài trợ GFC để quản lý cá ngừ
14 quốc gia Thái Bình Dương sẽ quản lý nguồn cá ngừ tốt hơn nhờ khoản tài trợ lớn từ
Quỹ Khí hậu xanh (GCF). Khoản tài trợ từ GCF, trị giá 156 triệu USD, đã được Tổ chức Bảo tồn Quốc tế và Cộng đồng Thái Bình Dương (SPC) bảo đảm. Đây là một trong những khoản tài trợ lớn nhất từ GCF mà các quốc gia đảo Thái Bình Dương tiếp cận được. Hiện, quần đảo Cook, Fiji, Micronesia, Kiribati, quần đảo Marshall, Nauru, Niue, Palau, Papua New Guinea, Samoa, quần đảo Solomon, Tonga, Tuvalu và Vanuatu cùng quản lý một phần ba sản lượng cá ngừ của thế giới. Tổng giám đốc SPC, Tiến sĩ Stuart Minchin cho biết, các quốc gia thuộc quần đảo Thái Bình Dương cung cấp hơn một nửa sản lượng cá ngừ của thế giới. Đây là nguồn thu nhập GDP lớn thứ hai đối với các quốc gia Thái Bình Dương trong khu vực.
Na Uy
Tăng cường thu thập dữ liệu đại dương để quản lý bền vững
Bộ Thương mại và Thủy sản Na Uy vừa công bố kế hoạch cải thiện thu thập và chia sẻ dữ liệu
dương để phục vụ công tác quản lý
Ảnh: Oanh Thảo
và Đại dương Na Uy, Marianne Sivertsen Næss, cho biết, tổng hợp các bộ dữ liệu này sẽ giúp cơ quan chức năng nâng cao hiểu biết về hệ sinh thái biển và tác động của ngành công nghiệp, từ đó đưa ra các quyết định và chính sách sáng suốt hơn. Sáng kiến này thuộc Kế hoạch Kinh doanh cho các vùng biển Na Uy, được công bố tháng 6/2024, nhằm phát triển bền vững ngành công nghiệp biển, tạo việc làm, tối đa hóa giá trị kinh tế và bảo vệ môi trường. Kế hoạch nhấn mạnh quy hoạch không gian biển và thúc đẩy hợp tác giữa các bên liên quan. Chính phủ đã đề ra mười nguyên tắc sử dụng không gian đại dương để quản lý tài nguyên biển một cách hệ thống và bền vững.
Peru
Cấm khai thác cá tuyết hake trong
mùa sinh sản
Bộ Sản xuất (PRODUCE) của Peru vừa cấm khai thác cá hake tại các khu vực chiến lược trên biển Peru, nhằm bảo vệ quá trình sinh sản của loài cá này và đảm bảo nguồn lợi lâu dài cho các thế hệ tương lai. Bên cạnh đó, sản phẩm cá hake chỉ được phép giao dịch nếu có chứng từ xác thực được khai thác trước khi lệnh cấm có hiệu lực. Theo PRODUCE, lệnh cấm góp phần gia tăng trữ lượng và đảm bảo tính bền vững của ngành khai thác thủy sản trong dài hạn. Mục tiêu cao nhất của PRODUCE nhằm bảo vệ hệ sinh thái biển và sinh kế cho ngư dân đánh bắt có trách nhiệm. Trước đó, Produce
CON SỐ & SỰ KIỆN
655,2 TRIỆU USD
Là kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong tháng 2/2025, tăng 42,6% so với cùng kỳ. Lũy kế, 2 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu thủy sản Việt Nam ghi nhận những tín hiệu tích cực với tổng kim ngạch đạt hơn 1,42 tỷ USD, tăng trưởng 18,2%.
32.500 ĐỒNG
Là mức giá cho 1 kg cá tra nguyên liệu tại Vĩnh Long, tăng 1.500 đồng/kg so với tháng trước, tăng 3.500 đồng/kg so cùng kỳ năm trước. Đây là mức giá cao nhất từ trước đến nay.
cũng công bố thực thi các biện pháp quản lý mới nhằm đảm bảo tính bền vững của nguồn lợi mực ống khổng lồ. Trong năm 2024, Peru tiến hành hơn 163.000 cuộc thanh tra về hoạt động đánh bắt bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU).
Mỹ
Giảm khí thải carbon trong nuôi trồng thủy sản
Công ty Captura, hãng công nghệ loại bỏ carbon tại California, vừa khởi động nhà máy thí điểm mới nhất tại Kona, Hawaii nhằm hỗ trợ các trang trại nuôi trồng thủy sản giải quyết thách thức về khí hậu và năng lượng. Đây là nhà máy thí điểm thứ ba và cũng là cuối cùng trong chương trình phát triển công nghệ Direct Ocean Capture (DOC) của Captura với quy mô thu giữ 1.000 tấn CO2 mỗi năm. Ông Steve Oldham, CEO của Captura cho biết, Công nghệ DOC trực tiếp thu CO2 từ nước biển, giúp đại dương hấp thụ thêm CO2 từ khí quyển. DOC kết hợp điện thẩm tách và chiết tách khí với hệ thống quản lý nước, khí mà không cần nguyên liệu đầu vào hay tạo chất thải. CO2 thu được dưới dạng khí tinh khiết, có thể dùng sản xuất nhiên liệu tái tạo hoặc cho các ngành công nghiệp. Tại Hawaii, CO2 thu giữ sẽ hỗ trợ các ngành như nuôi trồng thủy sản giảm phát thải carbon.
650.500 TẤN
Là sản lượng thủy sản của cả nước trong tháng 2/2025, tăng 4% so với cùng kỳ. Trong đó: Sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 362.500 tấn, tăng 4,6%; Sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 288.000 tấn, tăng 3,2%.
84.247 TÀU CÁ
Là tổng số tàu cá của cả nước có chiều dài từ 6m trở lên tính đến thời điểm
Đan Linh
Ngành tôm và mục tiêu
4,3 tỷ USD
Trong năm qua, hoạt động xuất
khẩu tôm của Việt Nam đã có những bứt phá mạnh mẽ, giữ vững vị thế tại nhiều thị trường
trọng điểm. Tuy nhiên, để duy trì phong độ, ngành tôm cần có thêm nhiều động lực phát triển, để có thể chinh phục mục tiêu 4,3
tỷ USD giá trị xuất khẩu.
Ngôi sao sáng
Năm 2025, lĩnh vực xuất khẩu được nhận
định có những cơ hội thuận lợi để tiếp tục tăng
trưởng nhờ sự phục hồi của kinh tế thế giới, lạm phát được kiểm soát, thị trường xuất khẩu được mở rộng theo lộ trình cắt giảm thuế quan trong các Hiệp định thương mại tự do. Là một mũi nhọn về xuất khẩu, ngành tôm Việt cũng đang chuyển mình mạnh mẽ để tận dụng tốt thời cơ.
Theo đánh giá của VASEP, triển vọng năm 2025 cho ngành tôm khá lạc quan, miễn là các yếu tố bất ổn như chiến tranh thương mại dưới thời chính quyền Tổng thống Donald Trump không gây thêm gián đoạn. Giá nhập khẩu trung bình tăng từ tháng 10/2024 và dự kiến duy trì ở mức cao trong suốt năm 2025 nhờ tồn kho ổn định, mang lại niềm tin cho cả nhà xuất khẩu và nhập khẩu. Mới đây, Hiệp hội này đã đưa ra thông tin về tình hình xuất khẩu ngành thủy sản 2 tháng đầu năm với nhiều tín hiệu tích cực; trong đó con tôm vẫn là ngôi sao sáng khi đóng góp 542,387 triệu USD trong 2 tháng đầu năm, tăng trưởng 30,8%. Riêng tháng 2/2025, kim ngạch xuất đạt 231,406 triệu USD, tăng 33,9%. Sự phục hồi này cho thấy ngành tôm đang lấy lại đà tăng trưởng sau giai đoạn giá thấp kéo dài trong năm 2023 - 2024.
Thành tựu này đến từ những lợi thế tại các
thị trường xuất khẩu chủ lực nhiều năm qua của tôm Việt. Cụ thể, năm 2024, tôm Việt
Nam đã xuất khẩu đến 107 thị trường, tăng thêm 5 thị trường so với năm 2023. Top 5 thị trường chính gồm: Trung Quốc và Hồng Kông (Trung Quốc), Mỹ, Nhật Bản, EU và Hàn Quốc. Nhóm thị trường này chiếm tới 76% tổng kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam.
Bà Phùng Thị Kim Thu, chuyên gia thị trường tôm của VASEP chia sẻ, EU hiện là thị trường đáng chú ý với lượng nhập khẩu tôm thẻ chân trắng tươi đông lạnh và chế biến giá trị gia tăng đạt 376.875 tấn từ thế giới trong năm 2024, tăng 4% so với 2023. Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam cần tập trung vào sản phẩm giá trị gia tăng và đa dạng hóa thị trường để duy trì lợi thế trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt từ Ecuador và Ấn Độ. Tôm thẻ chân trắng từng là mặt hàng thường xuyên có mặt trên các bàn ăn của tầng lớp trung lưu của Trung Quốc, được ưa chuộng vì giá cả phải chăng và dinh dưỡng phong phú. Tuy nhiên, khi tăng trưởng kinh tế chậm lại, tăng trưởng thu nhập của người lao động trung cấp và bình dân giảm, chi phí sinh hoạt tăng, người tiêu dùng ngày càng chú ý đến hiệu quả chi phí và protein thủy sản đang dần chuyển từ “ưa thích” sang “tùy chọn”. Người tiêu dùng cấp cao vẫn có ưu thế lựa chọn những mặt hàng hải sản cao cấp. Chính vì vậy, doanh nghiệp xuất khẩu tôm tiếp tục tăng cường thế mạnh xuất khẩu tôm hùm và đẩy mạnh quảng
bá, tiếp thị, có giải pháp hấp dẫn và kích thích nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng truyền thống như tôm chân trắng và tôm sú tại thị trường Trung Quốc, để tạo nên động lực cho ngành tồn tại ở thị trường lớn nhất châu Á.
Còn tại thị trường Mỹ, con tôm Việt Nam đang giữ thế cạnh tranh thứ hai, sau nhà cung ứng tôm Indonesia, kể từ khi Ấn Độ và Ecuador thu hẹp lượng xuất khẩu tôm sang thị trường này. Đối với sản phẩm tôm còn vỏ, nguồn cung của Việt Nam vào Mỹ tăng nhẹ so với năm trước. Còn sản phẩm tôm bóc vỏ, nguồn cung của Việt Nam tăng 21%, nguồn cung từ Ecuador và Ấn Độ tăng nhẹ (mỗi nước 2%), nguồn cung của Indonesia giảm 15%. Ấn Độ tiếp tục thống trị phân khúc sản phẩm này với thị phần 57%.
Chinh phục mục tiêu mới
Ông Lê Văn Quang, Tổng Giám đốc Tập đoàn Thủy sản Minh Phú cho rằng, sau thời gian nỗ lực triển khai các biện pháp kéo giảm giá thành sản xuất, khoảng cách chênh lệch giá tôm nguyên liệu của Việt Nam với Ecuador, Ấn Độ ngày càng thu hẹp. “Vụ tôm năm 2025 rất khả quan nhờ thời tiết thuận lợi, tôm ít bị bệnh, tỷ lệ hao hụt thấp. Mặt hàng tôm nguyên liệu loại 30 con/kg, và sản phẩm tôm chế biến giá trị gia tăng
Ảnh: Đăng Khoa
thì ngành hàng chế biến và xuất khẩu tôm Việt Nam năm 2025 có nhiều khả năng “cán đích” trên 4 tỷ USD”, ông Quang nhận định.
Cũng là doanh nghiệp thuộc top đầu về xuất khẩu tôm, trong tháng 2/2025, tháng 2/2025, sản lượng sản xuất tôm thành phẩm của Công ty CP Thực phẩm Sao Ta đạt 1.913 tấn, tăng 106% so cùng kỳ năm trước. Ngoài việc tập trung vào các thị trường chủ lực như Mỹ, EU và Nhật Bản, Sao Ta sẽ đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường Halal và Trung Đông. Ông Hồ Quốc Lực, Tổng Giám đốc Công ty CP Thực phẩm Sao Ta nhận định, ngành tôm thế giới đang cạnh tranh ngày càng gay gắt, vì vậy chế biến sâu chính là giải pháp để chiến thắng trên thị trường, phát triển ổn định ngành hàng này. Mặt khác, nhờ vào đầu tư công nghệ hiện đại, nên dù phải chịu sức ép cạnh tranh mạnh mẽ từ tôm giá rẻ của Ecuador, Ấn Độ, Indonesia, tôm Việt Nam vẫn có thể đứng vững, thậm chí chiếm thị phần lớn nhất trên thị trường quốc tế so với các quốc gia khác. Để đạt mục tiêu xuất khẩu năm 2025, VASEP kiến nghị, cần có các chính sách hỗ trợ hiệu quả, thiết thực cho doanh nghiệp, người nuôi như tạo điều kiện về vốn, giải quyết bất cập liên quan đến chi phí tuân thủ quy định và thủ tục hành chính. Có biện pháp bình ổn các chi phí đầu vào cho sản xuất như giá thức ăn tôm, tăng cường kiểm soát chất lượng con giống. Đẩy mạnh mã số vùng nuôi phục vụ cho truy xuất nguồn gốc; có chính sách đầu tư, khuyến khích nuôi ngoài tôm chân trắng và cần giữ thế mạnh nuôi tôm sú.
VASEP cũng đề xuất với Chính phủ, Bộ Ngoại giao, Bộ Công Thương tập trung các hoạt động ngoại giao kinh tế, đàm phán song phương và xúc tiến thương mại có mục tiêu tại các thị trường quan trọng như Hàn Quốc, Nhật Bản để khơi thông lợi thế cho xuất khẩu tôm Việt Nam. Để chủ động trước các yêu cầu của các nước nhập khẩu cũng như đảm bảo nuôi nuôi tôm bền vững, giảm thiệt hại do dịch bệnh gây ra, ông Phan Quang Minh, Phó Cục Chăn nuôiThú y cho rằng, các cơ sở nuôi cần chủ động xây dựng và triển khai chương trình giám sát dịch bệnh chủ động, đặc biệt là các bệnh nguy hiểm trên tôm theo quy định của Tổ chức Thú y Thế giới. Việc giám sát gắn với xây dựng cơ sở và chuỗi sản xuất an toàn dịch bệnh để phục vụ trong nước và xuất khẩu.
Vân Anh
VĂN BẢN MỚI
Ngày 25/1/2025, Văn phòng Chính phủ có Thông báo 30/TB-VPCP về kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà tại Hội nghị lần thứ XII Ban Chỉ đạo Quốc gia về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU). Theo đó, để thực hiện mục tiêu gỡ cảnh báo “thẻ vàng” hướng tới xây dựng ngành thủy sản bền vững, hiệu quả Phó Thủ tướng kết luận cần thực hiện đồng bộ các giải pháp dựa trên: (i) Pháp luật đồng bộ, minh bạch, rõ trách nhiệm, rõ thẩm quyền, nghiêm minh, thống nhất quản lý; (ii) Cơ sở dữ liệu liên thông, kết nối, công nghệ quản lý hiện đại và kiểm tra giám sát của các cơ quan quản lý để chuyển từ bị động ứng phó sang chủ động kiểm soát, bảo vệ khai thác nguồn lợi thủy sản bền vững. Vì vậy, yêu cầu các ban, bộ, ngành, địa phương cần xác định rõ trách nhiệm của từng cơ quan, cá nhân; phân công rõ nhiệm vụ, thời gian hoàn thành cụ thể; khẩn trương khắc phục các tồn tại, hạn chế hiện nay.
Ngày 10/2/2025, VASEP gửi công văn số 11/CV-VASEP tới Bộ NN&PTNT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), đồng kính gửi Cục Thủy sản về việc khơi thông thủ tục xuất khẩu nguyên liệu ruốc vào thị trường EU. Trong thời gian qua, theo phản ánh của một số doanh nghiệp thủy sản, tất cả các lô hàng chế biến từ nguyên liệu ruốc đều không thể xuất khẩu được sang EU do bất cập trong việc cấp Giấy xác nhận nguyên liệu khai thác (S/C) và Giấy chứng nhận nguồn gốc thủy sản khai thác (C/C). Do đó, đề gia tăng giá trị cho nghề khai thác ruốc truyền thống, duy trì sinh kế cho ngư dân, cũng như tạo điều kiện cho việc xuất khẩu sản phẩm ruốc sang EU không bị ách tắc. Hiệp hội trân trọng đề nghị Quý Bộ và Quý Cục xem xét ưu tiên đưa nội dung này vào kế hoạch trao đổi, làm việc với EC và có văn bản gửi EC đề nghị xem xét đưa con ruốc vào danh mục nêu tại Phụ lục I của Quy định (EC) 1005/2008 (Annex I, Council Regulation (EC) No
1005/2008), nhằm giúp các lô hàng chế biến từ nguyên liệu này được miễn trừ thực hiện các quy định về IUU của Quy định (EC) 1005/2008.
Ngày 17/2/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Công điện số 15/CĐ-TTg về việc chủ động ứng phó đợt xâm nhập mặn cao điểm ở ĐBSCL và TP Hồ Chí Minh. Trong đó, yêu cẩu Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục chỉ đạo theo dõi sát diễn biến, cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin về tình hình, dự báo thủy văn, nguồn nước, nguy cơ hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn tại ĐBSCL và TP Hồ Chí Minh đến cơ quan truyền thông, cơ quan chức năng, chính quyền địa phương để thông tin chính xác, kịp thời chỉ đạo triển khai thực hiện các biện pháp ứng phó phù hợp, hiệu quả, không để bị động, bất ngờ.
Ngày 20/2/2025, UBND tỉnh Quảng Ngãi có Công văn số 884/UBND-KTN về việc tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chống khai thác IUU chuẩn bị đón đoàn thanh tra EC lần thứ 5. Theo đó, Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu thủ trưởng các cơ quan, đơn vị và địa phương có liên quan khẩn trương rà soát, thực hiện đầy đủ các nội dung chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh về công tác chống khai thác IUU để triển khai thực hiện có kết quả, có sản phẩm cụ thể; trong đó, tập trung chỉ đạo triển khai một số nội dung về quản lý tàu cá, giám sát hoạt động của tàu cá, truy xuất nguồn gốc thủy sản khai thác và thực thi pháp luật.
Ảnh: Shutterstock
tài chính
Thời gian qua, nông nghiệp xanh được nước ta xác định là một trong những hướng đi quan trọng để phát triển đất nước hướng đến bền vững. Nhiều chính sách phát triển nông nghiệp xanh
được ban hành, đang phần nào thay đổi tư duy, nhận thức về nông nghiệp và tập quán canh tác của nông dân.
Trong đó, việc thúc đẩy đầu tư xanh và các nguồn vốn xanh đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Các nguồn vốn này không chỉ
xanh cho ngành
thủy sản
Phát triển tài chính xanh nói chung
và với ngành thủy sản nói riêng hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế dù có tiềm năng lớn.
giúp doanh nghiệp chú trọng đến vấn đề bảo vệ môi trường, mà còn tạo ra cơ hội để sử dụng các sản phẩm sạch, thân thiện với thiên nhiên. Từ đó, giúp các quốc gia đạt được các mục tiêu phát triển bền vững.
Cần khơi thông khuôn khổ pháp lý
Ở nước ta, sự quan tâm đến tín dụng xanh và các hình thức đầu tư xanh đang ngày càng tăng, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, gây tác động khó lường.
Dưới góc độ vĩ mô, từ năm 2012, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 432/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 20112020, trong đó đề cập đến nhiều cơ chế, chính sách, huy động nguồn lực tài chính để phát triển bền vững.
Để thực hiện các nhiệm vụ của Chiến lược tăng trưởng xanh, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 403/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 - 2020. Liên quan đến lĩnh vực tài chính - ngân sách nhà nước, Bộ Tài chính được giao chủ trì triển khai 2/66 hành động tăng trưởng xanh giai đoạn 20142020, bao gồm: Hình thành khung chính sách tài chính tăng trưởng xanh; Chi tiêu công theo tiêu chuẩn xanh.
Chính sách tài chính cho tăng trưởng xanh từng bước được hoàn thiện trên tất cả các kênh như chi ngân sách Nhà nước, hệ thống chính sách thuế, chính sách tín dụng cũng như phát triển thị trường vốn.
Bộ Tài chính đã ra Quyết định 1934/QĐ-BTC về việc ban hành Kế hoạch hành động của Bộ Tài chính thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030.
Theo đó, Bộ Tài chính đã phân công cụ thể các nhiệm vụ cho từng đơn vị chủ trì, đơn vị phối hợp cũng như nêu rõ thời gian thực hiện, kết quả đầu ra của mỗi nhiệm vụ cụ thể thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030 gồm 08 nhóm nhiệm vụ: (i) Xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước gắn kết với các mục tiêu tăng trưởng xanh; (ii) Truyền thông, giáo dục và nâng cao nhận thức; (iii) Phát triển
nguồn nhân lực và việc làm xanh; (iv) Huy động nguồn lực tài chính và thúc đẩy đầu tư cho
tăng trưởng xanh; (v) Khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; (vi) Hội nhập và hợp tác quốc tế; (vii) Thúc đẩy việc thực thi
Luật Sử dụng năng lượng tiết
kiệm và hiệu quả; hoàn thiện hệ
thống văn bản pháp quy về sử
dụng năng lượng hiệu quả; (viii)
Thúc đẩy việc thực thi Luật Sử
dụng năng lượng tiết kiệm và
hiệu quả; hoàn thiện hệ thống
văn bản pháp quy về sử dụng
năng lượng hiệu quả.
Thời gian qua, Ngân hàng
Nhà nước cũng ban hành một
số văn bản như Đề án phát triển
Ngân hàng xanh tại Việt Nam
vào năm 2018, hướng dẫn thực
hiện quản lý rủi ro về môi trường năm 2023.
Tuy nhiên, thực tiễn còn rất
nhiều doanh nghiệp ở các lĩnh
vực cần chuyển từ nâu sang
xanh trong bối cảnh chịu ảnh
hưởng lớn của thiên tai và biến
đổi khí hậu thì lại có rất ít thông tin và rất khó để tiếp cận các nguồn vốn xanh.
Theo nhiều chuyên gia, phát
triển tài chính xanh trong bối
cảnh hiện nay vẫn còn nhiều hạn
chế dù có tiềm năng lớn. Đầu
tiên, khung pháp lý còn chưa rõ ràng và đồng bộ, trong khi nhu cầu cho các dự án thủy sản nói chung lẫn nuôi tôm nói riêng vẫn
có dư địa lớn. Điều này dẫn đến việc các dự án gặp khó khăn
trong việc huy động vốn và phát
triển bền vững.
Mặt khác, Ngoài ra, các tổ chức tài chính, đặc biệt là các
ngân hàng thương mại, gặp khó khăn trong việc đánh giá rủi ro môi trường và xã hội liên quan đến các dự án xanh. Việc thiếu các công cụ và kỹ thuật đánh giá rủi ro xanh khiến nhiều ngân hàng e ngại khi cung cấp tín dụng cho các dự án này.
Những động thái cụ thể
Ở thời điểm hiện tại, nhiều tổ chức tín dụng đã bắt đầu có những chính sách thúc đẩy tài chính xanh trong lĩnh vực nông nghiệp, trong đó có thủy sản. Đầu tiên, có thể kể đến Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Với vị thế ngân hàng
chủ lực trong phát triển khu vực nông nghiệp, nông thôn, Agribank xác định thúc đẩy tăng
trưởng xanh, hướng tới phát triển bền vững là nhiệm vụ quan trọng, trọng tâm phát triển kinh
tế xanh từ “Tam nông”. Nhà băng
đã chủ động đồng hành tư vấn
sản phẩm dịch vụ tài chính phù
hợp và cấp tín dụng linh hoạt đối
với hộ nông dân và doanh nghiệp
áp dụng mô hình nông nghiệp
xanh, sạch, chất lượng cao tại
các địa phương. Thống kê cho thấy, đã có hơn 40.000 mô hình
xanh trên cả nước đang được tài
trợ bởi nguồn vốn từ Agribank.
Một ngân hàng quốc doanh
khác là Ngân hàng TMCP Đầu
tư và Phát triển Việt Nam năm ngoái cũng vừa ra mắt sản phẩm Khoản vay Liên kết Bền vững (SLL). Sản phẩm này của
BIDV được thiết kế để thúc đẩy các hoạt động sản xuất và kinh doanh bền vững, hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi hoạt động hướng tới giảm phát thải carbon.
Không chỉ nhóm Big 4, nhiều ngân hàng thương mại cổ phần cũng bắt đầu có những động
thái tương tự. Năm 2024, Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt (LPBank, nay đổi tên thành Ngân hàng Lộc Phát Việt Nam) và Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai (HAGL Group) chính thức ký kết hợp đồng tài trợ 5.000 tỷ đồng, ưu tiên đầu tư cho nông nghiệp xanh theo định hướng phát triển ngân hàng gắn với nhiệm vụ phát triển tín dụng xanh - ngân hàng xanh của LPBank.
Ngoài ra, cuối năm 2024, Ngân hàng TNHH một thành viên HSBC (Việt Nam) (HSBC Việt Nam) và Công ty Cổ phần Vĩnh Hoàn (Vĩnh Hoàn) đã tham gia ký kết một thỏa thuận tài trợ tín dụng xanh. Sự kiện này ghi dấu khoản tín dụng xanh đầu tiên mà HSBC Việt Nam cấp cho Vĩnh Hoàn, đồng thời là khoản tín dụng xanh đầu tiên mà ngân hàng tài trợ trong lĩnh vực thủy sản, thể hiện sự hỗ trợ của HSBC đối với Vĩnh Hoàn, một doanh nghiệp sản xuất thủy sản Việt Nam, trên hành trình phát triển bền vững. Để có thể nhận được khoản tín dụng thương mại xanh ngắn hạn nhằm hỗ trợ vốn lưu động cho hoạt động sản xuất thủy sản bền vững, Vĩnh Hoàn và các công ty con đã trải qua quy trình quản lý và phê duyệt tín dụng nghiêm ngặt về tài chính bền vững của HSBC. Đồng thời, khoản tín dụng xanh này cũng phải đáp ứng các tiêu chuẩn nghiêm ngặt của Bộ Nguyên tắc Tín dụng Xanh quốc tế do Hiệp hội thị trường cho vay (Loan Market Association) và Hiệp hội thị trường cho vay Châu Á - Thái Bình Dương (Asia Pacific Loan Market Association) phối hợp ban hành.
“Việc Vĩnh Hoàn theo đuổi mô hình kinh tế tuần hoàn trong sản xuất nuôi trồng thủy sản suốt nhiều năm qua giúp tối ưu hóa chuỗi giá trị, giảm thiểu chất thải và tạo ra giá trị từ các phụ phẩm”, bà Nguyễn Ngô Vi TâmCEO Vĩnh Hoàn cho biết.
Sản xuất xanh là xu thế tất yếu
TS. Lê Thanh Lựu, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nuôi
MỘT SỰ PHÁT TRIỂN RẤT ẤN TƯỢNG
Phóng viên: Thưa Tiến sĩ Lê Thanh Lựu. Là một người đã gắn bó cả cuộc đời với ngành thủy sản, nhìn lại chặng đường nhiều thế kỷ phát triển của thủy sản Việt Nam, nhất là lĩnh vực nuôi trồng, ông có nhận xét gì?
TS. Lê Thanh Lựu: Có thể nói rằng, trong 40 năm qua ngành nuôi trồng thủy sản đã có bước phát triển rất kì diệu, đặc biệt là khi có Chương trình 224 (Quyết định 224/1999/QĐ-TTg phê duyệt chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản thời kỳ 1999 - 2010 do Thủ tướng Chính phủ ban hành - PV) thì coi như đã có những bước phát triển mà làm cho nhiều nước trên thế giới phải thừa nhận, thán phục. Sự phát triển đó thể hiện ở ba điểm. Một là phát triển ở cả ba môi trường là ngọt, mặn, lợ, mặc dù nuôi biển vẫn yếu hơn một chút. Thứ hai là đa dạng các đối tượng nuôi. Và thứ ba là năng suất được cải thiện rất đáng kể vì phần lớn hướng tới nuôi thâm canh, siêu thâm canh, chỉ một phần nhỏ nuôi kết hợp là tômrừng, tôm - lúa. Chính vì vậy mà năng suất và sản lượng thủy sản đều tăng lên, góp phần tích cực cho xuất khẩu thủy sản. Có thể nói đây là sự phát triển rất ấn tượng.
Phóng viên: Trong bối cảnh hiện nay, để phát triển bền vững, ngành thủy sản định hướng đẩy mạnh lĩnh vực nuôi trồng, tuy nhiên, sẽ không phát triển mạnh về diện tích và chủ đích là nâng cao năng suất. Ông đánh giá như thế nào về chủ trương này và theo ông liệu ngành thủy sản sẽ gặp áp lực gì trong vấn đề này không?
TS. Lê Thanh Lựu: Thực ra, chủ trương nhìn chung là đúng, ưu tiên cho nuôi trồng, nhưng tôi có ý khác một chút. Theo tôi, hiện nay năng suất các đối tượng nuôi của chúng ta gần như đạt cao rồi, có thể nói là năng suất phần lớn ở trình độ thâm canh và siêu thâm canh, chẳng hạn như cá tra, cá quả, tôm… Các loài cá khác cũng vậy, như cá rô phi rồi cá rô ta các loại đều ở trình độ đó. Vì vậy, tôi cho rằng chúng ta không cần thiết phải mở rộng diện tích, và năng suất cũng không cần thiết phải tiếp tục nâng cao hay cải thiện, nhưng chúng ta phải làm sao cho doanh thu cao hơn và hiệu quả kinh tế tốt hơn. Để đạt được điều này thì cần phải có sự cải tiến về kỹ thuật, đặc biệt là với mô hình nuôi mà hiện nay chúng ta gọi là kinh tế tuần hoàn.
Thực ra, chúng ta đã có nền tảng của kinh tế tuần hoàn, trước đây chúng ta gọi là nuôi kết hợp, do đó, việc hiện nay chúng ta phải làm là đưa vào như thế nào để làm giảm chi phí, để tăng hiệu quả nuôi.
CÒN NHIỀU KHÓ KHĂN KHI THỰC HIỆN
“XANH HÓA”
Phóng viên: Hiện nay, Chính phủ chủ trương phát triển kinh tế xanh, ngành nông nghiệp cũng hướng tới tăng trưởng xanh. Và không ngoại lệ, ngành thủy sản cũng tiến tới thực hiện “xanh hóa”. Dưới góc nhìn của nhà khoa học, ông có thể chia sẻ thêm hướng đi “xanh hóa” của ngành thủy sản hiện nay?
TS. Lê Thanh Lựu: Dứt khoát chúng ta phải đi theo hướng đó. Kinh tế xanh là sản xuất không gây ô nhiễm, tuần hoàn, giảm phát thải khí nhà kính, giảm phế thải, tạo ra một nền sản xuất sạch. Thực ra chúng ta đã có nền tảng rồi, trước đây chúng ta có sản xuất cơ bản (VAC), và hiện nay là các mô hình như tôm - rừng, tôm - lúa, cá - lúa… Bước tiếp theo, chúng ta cố gắng giảm bớt sử dụng năng lượng truyền thống, thay vào đó là tăng sử dụng năng lượng tái tạo để giảm khí nhà kính. Cùng với đó, phải nâng cao nhận thức cho người dân để họ nhận biết sâu sắc hơn về biến đổi khí hậu, hiểu được nguyên nhân của biến đổi khí hậu là gì, là sự phát thải khí nhà kính, là sự nóng lên của khí quyển và nước đại dương, gây ra nhiều bão lụt, nhiều rủi ro…
Trong 3 năm trở lại đây, ngành thủy sản đã tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo xung quanh nội dung này. Cùng với đó, một số nghiên cứu khoa học cũng hướng tới điều này nhằm làm tăng nhận thức của người sản xuất cũng như tăng nhận thức của xã hội. Đây là một xu hướng không thể khác được. Ngành thủy sản cũng đang thực hiện theo xu hướng ấy.
Phóng viên: Theo ông, trong quá trình hiện thực hóa chủ trương “xanh hóa”, ngành thủy sản sẽ gặp những thuận lợi và thách thức gì và sẽ đạt được điều gì, thưa ông?
TS. Lê Thanh Lựu: Nói chung, thuận lợi để ngành thủy sản thực hiện “xanh hóa” là chủ trương của Đảng và Chính phủ rất rõ cho ngành nông nghiệp nói chung và ngành thủy sản nói riêng, mà cũng là chủ trương của nền kinh tế Việt Nam. Chính phủ đã có cam kết về việc chúng ta phải cân bằng phát thải,
TS. LÊ THANH LỰU
“Chúng ta không cần thiết phải mở rộng diện tích, và năng suất cũng không cần thiết phải tiếp tục nâng cao hay cải thiện, nhưng chúng ta phải làm sao cho doanh thu cao hơn và hiệu quả kinh tế tốt hơn. Để đạt được điều này thì cần phải có sự cải tiến về kỹ thuật, đặc biệt là với mô hình nuôi mà hiện nay chúng ta gọi là kinh tế tuần hoàn”.
Net Zero vào năm 2050. Chính ngành nông nghiệp cũng rất quyết liệt triển khai, ngành thủy sản cũng vậy. Tuy nhiên, vẫn có một số khó khăn khi ngành thủy sản thực hiện hướng đi này. Trước tiên, phải kể đến là việc cần sự đồng bộ và những tiêu chuẩn, tiêu chí, hướng dẫn cụ thể, thế nhưng hiện nay chúng ta chưa có, mặc dù chúng ta cũng đã xúc tiến nhưng chưa thành tiêu chuẩn được công bố, được Nhà nước công nhận để người dân theo. Thứ hai là nguồn kinh phí cho hoạt động này rất hạn hẹp. Chúng ta gần như không thu được mấy sự ủng hộ về tài chính, cho nên khó để tạo ra những mô hình, những hình mẫu, cũng như xây dựng các tiêu chuẩn, tiêu chí, mà yêu cầu của chúng ta phải thực hiện với nhiều loài; những loài nào quan trọng thì chúng ta đều phải xây dựng tiêu chuẩn, tiêu chí cả.
Thêm nữa, lực lượng cán bộ trong lĩnh vực này cũng đang thiếu. Để thay đổi, có lẽ sắp tới các trường đại học phải đặt quy định bao nhiêu chỉ tiêu ở lĩnh vực này, phải nghiên cứu vấn đề này, nếu không sẽ rất khó khăn.
RẤT KHÓ ĐỂ ĐẶT LỘ TRÌNH
Phóng viên: Vậy theo ông, ngành thủy sản cần lộ trình bao lâu để có thể hoàn thành được mục tiêu “xanh hóa”?
TS. Lê Thanh Lựu: Nếu tính lộ trình, điều này khó. Vì đây là chuyện của cả vấn đề tổ chức lẫn tài chính, nhưng nếu nỗ lực thì tôi nghĩ chúng ta vẫn làm được. Bởi theo tiêu chí tổng thể chung thì phát thải của ngành thủy sản so với các ngành nghề khác là ít. Trong đó, ngành thủy sản có những đối tượng nuôi là nguồn hấp thụ khí nhà kính rất tốt, ví dụ như nhóm rong tảo, hay nhóm nhuyễn thể. Những nhóm này không những không sinh ra phát thải mà còn rất giá trị, vừa cải tạo môi trường vừa hấp thụ khí nhà kính tốt.
Trong ngành thủy sản, phát thải xảy ra ở một số đối tượng nuôi, chủ yếu là cá và tôm, nhưng theo tính toán của các nhà nghiên cứu quốc tế, phát thải do nuôi trồng thủy sản là ít so với các ngành công nghiệp khác hay ngành nông nghiệp khác. Trong một cuộc họp vừa qua, các chuyên gia đã chia sẻ rằng hiện Liên hợp quốc chưa đặt ra vấn đề phải đưa ra bộ tiêu chí tính toán điều này. Đấy là ưu thế, nhưng nếu chúng ta không tiến hành thì sau này nó vẫn sẽ tồn tại. Cho nên, tôi nghĩ rằng nếu làm tốt thì chúng ta sẽ thực hiện
được việc cân bằng khí nhà kính theo cam kết của Chính phủ trong 25 năm nữa.
Phóng viên: Vậy còn nhiệm vụ trước mắt, ngành thủy sản cần làm gì để hiện thực hóa chủ trương “xanh hóa” này, nhất là với
người nuôi trồng thủy sản khi bối cảnh hiện nay vùng nuôi nhỏ lẻ vẫn rất lớn, thưa ông?
TS. Lê Thanh Lựu: Phải tổ chức sản xuất lại, đúng nghĩa của nó là phải làm theo chuỗi.
“Theo tiêu chí tổng thể chung thì phát thải của ngành thủy sản so với các ngành nghề khác là ít. Trong đấy, ngành thủy sản có những đối tượng nuôi là nguồn hấp thụ khí nhà kính rất tốt, ví dụ như nhóm rong tảo, hay nhóm nhuyễn thể. Những nhóm này không những không sinh ra phát thải mà còn rất giá trị, vừa cải tạo môi trường vừa hấp thụ khí nhà kính tốt”, TS. Lê Thanh Lựu nhấn mạnh.
Hiện nay, chúng ta có chuỗi nhưng rất lỏng lẻo, vì chúng ta không có cơ chế gắn kết, hợp tác. Khi làm theo chuỗi là sẽ tính được vấn đề phát thải, tính được trong chuỗi này ở chỗ nào sinh ra, cách khắc phục như thế nào. Và làm theo chuỗi nên có thể cải tiến công nghệ để giảm được phát thải.
Ví dụ, trong chuỗi thì anh cung cấp năng lượng cũng là một thành phần, anh cung cấp thức ăn, chế phẩm sinh học, làm giống… cũng nằm trong chuỗi. Về vấn đề năng lượng, nếu họ thực hiện chuyển dần sang năng lượng tái tạo, như năng lượng mặt trời chẳng hạn, chúng ta có thể hỗ trợ để giảm thiểu sử dụng năng lượng truyền thống. Hay thức ăn, khâu này phải áp dụng quy trình ra sao, chất lượng thế nào để có thể giảm hiệu suất thức ăn. Bên
chế phẩm cũng vậy, chúng ta không sử dụng hóa chất mà áp dụng biện pháp sinh học để cải tạo môi trường...
Hơn nữa, thành lập theo chuỗi có tổ chức hoạt động để cân đối lượng carbon, cứ nếu chỉ tính nuôi không sẽ rất khó và nó không trọn vẹn. Mặt khác, khi sản xuất theo chuỗi
rồi thì thị trường sẽ dễ dàng chấp nhận, bởi chúng ta có thể giám sát được quy trình nuôi, truy xuất được nguồn gốc. Vì hiện nay, nhiều sản phẩm của chúng ta không truy xuất được nguồn gốc. Chưa kể, qua quá trình chuỗi, chúng ta có khả năng nâng cao nhận thức cho người sản xuất, biết xu hướng sản xuất để giảm thiểu rủi ro.
Phóng viên: Theo ông, trong quá trình thực hiện mục tiêu này, ngành thủy sản và người nuôi cần những trợ lực gì, thưa ông?
TS. Lê Thanh Lựu: Hiện nay, chủ trương chính sách đã có rồi, tuy nhiên, tôi nghĩ cần thêm 3 giải pháp nữa. Một là phải hỗ trợ cho người dân. Nếu được thì cần có chính sách tài chính cho người dân vay vốn thực hiện. Thứ hai, có chính sách động viên để họ yên tâm làm. Thứ ba, khoa học phải tham gia tích cực để cùng người dân, người sản xuất - thành viên của chuỗi, tìm cách cải tiến, cải thiện để làm sao ngày càng nâng cao hiệu quả kinh tế cho người dân, mang lại kết quả tốt cho tất cả thành viên trong chuỗi. Trong đó, cần tăng cường hợp tác quốc tế, hợp tác khoa học để đưa ra các chương trình tối ưu cho người dân tham gia nhằm cải tiến công nghệ, nhận thức tốt hơn để hành động tốt hơn. Trân trọng cảm ơn ông!
Nâng cao
giá trị từ “XANH HÓA”
Phát triển nền nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu cơ, bền vững là
chủ trương của Đảng, Chính phủ, ngành nông nghiệp cũng hướng
đến nhằm giá tăng giá trị và bảo
vệ môi trường. Trong lĩnh vực
nuôi tôm, tại Việt Nam đã xuất
hiện nhiều mô hình nuôi theo xu
hướng này để tối ưu hóa đầu vào và đầu ra.
Định hướng tương lai
Nông nghiệp xanh được hiểu là một hệ thống sản xuất nông nghiệp nhằm bảo vệ
môi trường, sử dụng nguồn tài nguyên bền vững và bảo đảm an toàn thực phẩm. Mục tiêu của nông nghiệp xanh là tăng cường hiệu quả sử dụng tài nguyên; giảm ô nhiễm
môi trường, cải thiện thu nhập cho nông dân thông qua sản xuất bền vững; đồng thời phát triển các sản phẩm xuất khẩu có giá trị gia tăng và bền vững.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững. Cụ thể, Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013
cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, nhấn mạnh ba trụ cột kinh tế, xã hội và môi trường trong phát triển nông nghiệp; Quyết định số 885/QĐ-TTg ngày 23/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020 - 2030, trong đó nhấn mạnh phát triển ngành nông nghiệp hữu cơ có giá trị gia tăng cao, an toàn, thân thiện với môi trường, gắn với nền nông nghiệp tuần hoàn phục vụ tiêu thụ trong nước và quốc tế.
Nắm bắt chủ trương đó, Bộ NN&PTNT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã ban hành Kế hoạch hành động thực hiện chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 với mục tiêu phát triển nông nghiệp theo hướng sinh thái, hữu cơ,
cao chất lượng tăng trưởng, giá trị gia tăng, năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững; giảm thiểu ô nhiễm môi trường nông nghiệp, nông thôn, hướng đến nền kinh tế trung hòa cácbon vào năm 2050.
Những chính sách phát triển nông nghiệp xanh, nông nghiệp bền vững của Đảng và Nhà nước đã tạo bước tiến quan trọng trong chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp, tập quán canh tác của nông dân và nhận thức về phát triển bền vững.
Trong đó, lĩnh vực trồng trọt áp dụng quy trình canh tác GAP và mô hình sử dụng khí sinh học trong chăn nuôi. Nuôi trồng thủy sản đã áp dụng kiểm soát chất lượng từ ao nuôi đến bàn ăn. Nhờ triển khai nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp xanh, sạch nên sản phẩm nông nghiệp, thủy sản sạch,
truy xuất được nguồn gốc đã chiếm tỷ trọng ngày càng lớn.
Xanh trong vuông tôm
Theo các chuyên gia, “sản xuất xanh” trong nuôi tôm dựa trên các nguyên tắc bền vững, bao gồm: Giảm thiểu ô nhiễm môi trường, bảo vệ sức khỏe con người và động vật, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Mô hình sản xuất này mang lại nhiều lợi ích cho người nuôi, doanh nghiệp và xã hội.
Nắm bắt được nhu cầu khách quan, đồng thời hưởng ứng chủ trương của Đảng, Chính phủ và hành động của ngành thủy sản, Hội chợ Triển lãm Quốc tế Công nghệ ngành tôm Việt Nam lần thứ 6 năm 2025 (VietShrimp 2025) đã lựa chọn chủ đề “Xanh hóa vùng nuôi”. Theo chia sẻ của Ban Tổ chức, Hội chợ VietShrimp lần này không chỉ tạo cầu nối để các doanh nghiệp và người nuôi tôm trực tiếp gặp gỡ, trao đổi, mà còn là diễn đàn lớn để các bên cùng tìm giải pháp đưa ngành tôm phát triển ngày càng bền vững hơn, hiệu quả hơn, đặc biệt là những mô hình nuôi tôm đang là thế mạnh của nước ta. Vì đây được coi là điểm đột phá trong nuôi trồng và xuất khẩu tôm những năm tiếp theo.
Trong bối cảnh nền kinh tế chung vẫn chưa khởi sắc thực sự, nuôi trồng và xuất khẩu thủy sản, nhất là với con tôm còn những trở ngại nhất định, thì việc tìm ra hướng đi mới này được xem là lựa chọn thông minh. Vì thế, VietShrimp 2025 tiếp tục nhận được sự ủng hộ của nhiều doanh nghiệp thủy sản lớn trong nước và thế giới.
Cũng theo chia sẻ của đại diện Ban Tổ chức, các doanh nghiệp, đơn vị tham gia VietShrimp 2025 sẽ tập trung giới thiệu những mô hình, những sản phẩm, giải pháp theo hướng phát triển bền vững, nhất là khi bối cảnh nuôi tôm đang chịu nhiều tác động của vấn đề môi trường và biến đổi khí hậu. Với sự tham dự và đồng hành của các cơ quan quản lý nhà nước, các chuyên gia, doanh nghiệp và bà con nuôi tôm trong nước cũng như quốc tế, VietShrimp 2025 được hứa hẹn sẽ tiếp tục tìm được những giải pháp tối ưu phát triển ngành tôm.
Lĩnh vực nuôi tôm của nước ta có nhiều tiềm năng để phát triển “sản xuất xanh”. Và trên thực tế, nhiều mô hình nuôi tôm theo hướng “xanh” đang ngày càng được nhân rộng. Có thể kể đến là các mô hình tôm - rừng kết hợp, tôm - lúa... Cùng với đó, là nhiều mô hình nuôi tôm theo hướng tuần hoàn để tối ưu hóa đầu vào và đầu ra, như sử dụng năng lượng tái tạo (mặt trời, gió, biogas). Ứng dụng công nghệ nuôi tuần hoàn khép kín biofloc, biogas… Tuy nhiên, theo ý kiến của nhiều chuyên gia, để chủ trương, chính sách này đi vào thực tế, cần sự hưởng ứng của các doanh nghiệp và người nuôi tôm, vì họ mới là chủ thể trong quá trình thực hiện. Chính vì thế, làm sao để kết nối được các mắt xích liên quan trong chuỗi sản xuất, cũng như có sự đồng hành của cơ quan quản lý nhà nước và sự chia sẻ kinh nghiệm từ quốc tế… thực sự là yêu cầu cần thiết!
Ảnh: Huy Tùng
Ông Vũ Hồng Thái, Nhà sáng lập Công ty TNHH Aqua Mina
Aqua Mina
Kiến tạo giá trị từ thành công của khách hàng
Không chỉ dừng lại ở việc cung cấp giải pháp nuôi tôm, Aqua Mina còn xem thành công của khách hàng là trọng tâm trong chiến lược phát triển.
Ông Vũ Hồng Thái, Nhà sáng lập Công ty TNHH Aqua Mina đã có những chia sẻ với Tạp chí Thủy sản Việt Nam về cách công ty đồng hành cùng người nuôi, từ thiết kế ao nuôi đến tối ưu hóa hiệu quả sản xuất, nhằm giúp họ vượt qua thách thức và hướng tới sự phát triển bền vững.
Phóng viên: Nuôi tôm là khâu quan trọng nhất trong chuỗi giá trị ngành tôm. Tuy nhiên, hiện nay, mắt xích này được đánh giá là “lỏng” nhất, yếu nhất. Ông đánh giá như thế nào về vấn đề này?
Ông Vũ Hồng Thái: Đúng vậy, hiện tại nuôi tôm là mắt xích “lỏng” nhất trong chuỗi giá trị ngành tôm. Cá nhân tôi không dám đưa ra đánh giá chủ quan, nhưng có thể thấy rằng ngành nuôi tôm thực sự cần một hệ thống kiểm soát chặt chẽ hơn từ cơ quan quản lý nhà nước. Ví dụ, cần có quy định cụ thể về mật độ nuôi theo từng vùng để tránh tình trạng phát triển tự phát, không đồng bộ với hạ tầng của địa phương. Vấn đề tiếp theo là quy mô sản xuất. Việc phát triển các mô hình hợp tác xã hoặc
quả nhiều bài toán kỹ thuật.
Chẳng hạn, trong một khu vực nếu có hộ nuôi có kinh nghiệm và kỹ thuật tốt, các hộ khác có thể học hỏi và làm theo. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, mỗi hộ nuôi một kiểu, thiếu sự đồng bộ, khiến việc kiểm soát rủi ro trở nên khó khăn. Bên cạnh đó, ngành tôm vẫn chưa có quy chuẩn bắt buộc về thiết kế ao nuôi. Người nuôi có thể xây dựng ao tùy ý mà không cần xin phép hay tuân theo bản thiết kế cụ thể. Điều này gây ra nhiều bất cập trong việc bảo vệ môi trường và kiểm soát chất lượng. Trong khi ngành xây dựng yêu cầu tuân thủ các quy định về khoảng lùi, chiều cao, kết cấu khi xây nhà, thì nuôi tôm lại chưa có những tiêu chuẩn tương tự.
Một ví dụ thực tế là nhiều người nuôi đang áp dụng các kỹ thuật mà chưa hiểu rõ tác động. Chẳng hạn, rất nhiều trại nuôi không có khu xử lý thải mà bơm thẳng ra kênh gây ô nhiễm môi trường, bùng phát dịch bệnh không thể kiểm soát... Hay tại miền
“Với Aqua Mina, thành công của khách hàng là thành công của chúng tôi”
Về lâu dài, giải pháp quan trọng nhất vẫn là nâng cao năng lực quản lý và vận hành của chính người nuôi. Cần có các chương trình tập huấn để bà con hiểu rằng nuôi tôm không chỉ là làm nông mà là một ngành kinh doanh thực sự, đòi hỏi tư duy đầu tư và vận hành chuyên nghiệp. Khi tư duy này thay đổi, việc sản xuất cũng sẽ hiệu quả và bền vững hơn.
Phóng viên: Ngành cung ứng kỹ thuật cho nuôi tôm tại Việt Nam đang phát triển với nhiều cơ hội nhưng cũng đối mặt không ít thách thức, đặc biệt là tính mùa vụ và yêu cầu ngày càng cao của thị trường. Ông đánh giá thế nào về vấn đề này? Aqua Mina đã có chiến lược gì để thích ứng và mở rộng thị trường, đặc biệt là khi vươn ra quốc tế?
Ông Vũ Hồng Thái: Ngành cung ứng kỹ thuật cho nuôi tôm có những đặc thù riêng, trong đó tính mùa vụ là một thách thức lớn. Chẳng hạn, vào mùa khô, nhu cầu lắp đặt hệ thống ao nuôi, hồ tròn hay thiết bị hỗ trợ tăng mạnh, nhưng khi
bước sang mùa mưa, nhiều đơn vị lại rơi vào tình trạng thiếu việc làm, khiến chi phí vận hành đội lên và ảnh hưởng đến lợi nhuận.
Tuy nhiên, với chiến lược phù hợp, doanh nghiệp hoàn toàn có thể khắc phục vấn đề này.
Ví dụ, tại Việt Nam, khi nhu cầu ở miền Tây giảm, chúng tôi có thể dịch chuyển sang miền Trung hoặc miền Bắc, nơi có lịch thả tôm khác biệt. Bằng cách thống kê chính xác thời điểm thả giống ở từng khu vực, chúng tôi có thể lên kế hoạch tiếp cận thị trường và triển khai chiến lược marketing hiệu quả hơn.
Ngoài ra, thị trường Việt Nam có xu hướng cởi mở với công nghệ mới, sẵn sàng thử nghiệm và chấp nhận rủi ro. Đây là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp cung ứng kỹ thuật, khi có thể nhanh chóng triển khai những thiết bị, công nghệ tiên tiến từ nước ngoài.
Một điểm thú vị là trong những năm gần đây, nhiều người từ các ngành như xây dựng, kinh
tế kỹ thuật đã chuyển sang ngành tôm. Với tư duy tổ chức bài bản, họ đã nhanh chóng thành công, cho thấy rằng ngành này không chỉ cần
kiến thức chuyên môn mà còn đòi hỏi chiến
lược và năng lực quản lý hiệu quả.
Tóm lại, ngành cung ứng kỹ thuật cho tôm tại Việt Nam có tiềm năng phát triển mạnh mẽ nhờ lợi thế tự nhiên và sự cởi mở của thị trường. Tuy nhiên, để thành công, doanh nghiệp cần có chiến lược linh hoạt, thích ứng với tính mùa vụ và sẵn sàng đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe khi mở rộng ra quốc tế.
Phóng viên: Vừa qua, Aqua Mina đã trở thành công ty đầu tiên và duy nhất tại Việt
Nam xuất khẩu bồn nước di động sang Nhật
Bản. Xin ông chia sẻ thêm về hành trình đạt
được thành công này không? Điều gì khiến công ty ông lựa chọn Nhật Bản thay vì một
thị trường khác, thưa ông?
Ông Vũ Hồng Thái: Qua nghiên cứu thị
trường, chúng tôi nhận thấy Nhật Bản là một thị trường rất tiềm năng cho dòng sản phẩm hồ
tròn nổi và trang thiết bị thủy sản. Có ba lý do chính dẫn đến quyết định này.
Thứ nhất, biến đổi khí hậu ngày càng tác động mạnh mẽ đến ngành nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là hiện tượng thủy triều đỏ khiến việc nuôi trên biển trở nên khó khăn hơn. Điều này thúc đẩy nhu cầu về các hệ thống nuôi trồng trong môi trường kiểm soát, mà bồn nước di động của chúng tôi có thể đáp ứng hiệu quả.
Thứ hai, chi phí xây dựng các trang trại nuôi trồng thủy sản tại Nhật Bản rất cao, gấp 5-7 lần so với Việt Nam. Bồn nước di động giúp giảm
đáng kể chi phí này và đặc biệt, doanh nghiệp không cần xin phép xây dựng do sản phẩm có thể tháo lắp linh hoạt.
Thứ ba, Nhật Bản là quốc gia có hơn 70% diện tích là đồi núi, việc san lấp mặt bằng để xây dựng các trang trại lớn rất tốn kém và khó thực hiện. Bồn nước di động với đường kính từ 5 - 10 m có thể dễ dàng lắp đặt trên các địa hình bậc thang, giúp tối ưu không gian sử dụng.
Bên cạnh đó, sau đại dịch COVID-19, nhiều quốc gia, trong đó có Nhật Bản, đang đẩy mạnh chiến lược tự cung tự cấp thực phẩm. Chẳng hạn, Singapore đặt mục tiêu tự chủ 30% nguồn thực phẩm vào năm 2030. Quốc gia này cũng có những chính sách cởi mở hơn trong phát triển nuôi trồng thủy sản đô thị, như triển khai nuôi trên sân thượng. Nhờ tính linh hoạt và phù hợp với điều kiện địa phương, sản phẩm của chúng tôi đã thu hút sự quan tâm lớn từ khách hàng Nhật Bản. Gần đây, đã có hai đoàn khách hàng
hàng, thể hiện sự tin tưởng vào chất lượng và hiệu quả của sản phẩm. Ngoài Nhật Bản, nhiều quốc gia khác như Hàn Quốc và Singapore cũng đang quan tâm đến giải pháp này do tác động của biến đổi khí hậu. Chúng tôi tin rằng, với xu hướng phát triển bền vững và nhu cầu tối ưu hóa mô hình nuôi trồng, sản phẩm này sẽ tiếp tục mở rộng sang nhiều thị trường hơn trong tương lai.
Phóng viên: Ông đánh giá như thế nào về
VietShrimp qua các năm? Với Vietshrimp 2025 sắp tới, ông có những kỳ vọng gì về sự kiện này?
Ông Vũ Hồng Thái: VietShrimp đến nay đã tổ chức được sáu lần và tôi đã tham gia hầu hết các kỳ triển lãm. Lần đầu tiên tôi đến với
VietShrimp là tại Bạc Liêu, khi đó tôi vẫn chưa khởi nghiệp. Kể từ khi thành lập doanh nghiệp, tôi luôn tham gia sự kiện này mỗi năm. Anh em trong ngành vẫn hay nói đùa rằng
VietShrimp không chỉ là một sự kiện mà còn là dịp để tụ họp. Đây là cơ hội hiếm hoi để gặp gỡ những đồng nghiệp từ khắp các tỉnh, những người mà bình thường rất khó có dịp hội ngộ. Chính vì thế, không khí tại VietShrimp luôn sôi động và hào hứng, không chỉ bởi những thông tin chuyên ngành mà còn vì sự kết nối trong cộng đồng thủy sản.
Bên tôi hiện đã thiết kế những tour theo chủ đề (shrimp farm tour) để tối ưu trải nghiệm cho khách tham quan. Đặc biệt, với khách hàng quốc tế, họ không chỉ muốn tìm hiểu sản phẩm mà còn mong muốn có cái nhìn toàn cảnh về ngành tôm Việt Nam. Khi đến VietShrimp, họ không chỉ lắng nghe doanh nghiệp chúng tôi giới thiệu mà còn được tiếp cận nhiều góc nhìn khác nhau từ các đơn vị tham gia. Điều này giúp họ có thêm niềm tin vào thị trường và đưa ra quyết định hợp tác dễ dàng hơn. Với VietShrimp 2025 sắp tới, tôi kỳ vọng sự kiện sẽ tiếp tục mở rộng quy mô, thu hút nhiều doanh nghiệp và chuyên gia quốc tế hơn. Đây không chỉ là cơ hội để ngành tôm Việt Nam khẳng định vị thế mà còn là cầu nối giúp doanh nghiệp trong nước tiếp cận công nghệ, xu hướng mới và mở rộng quan hệ hợp tác trên thị trường toàn cầu. Trân trọng cảm ơn ông! Oanh Thảo
“Góc tối”
Những rủi ro chính xảy ra do môi trường nước ô nhiễm. chất lượng con giống chưa đảm bảo, vật tư đầu vào khó kiểm soát triệt để và kết cấu hạ tầng vẫn chưa đáp ứng, tất cả tạo nên “góc tối” cho mô hình nuôi tôm siêu thâm canh.
Nuôi tôm siêu thâm canh trong bể tròn
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II vừa có báo cáo về cơ cấu giá thành nuôi tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh. Nghiên cứu khảo sát các hộ nuôi bể tròn 500 m2 , nuôi 3 giai đoạn với mật độ giai đoạn 1 là 1.500 con/m2 FCR từ 1,1 – 1,4; tỷ lệ sống đến giai đoạn 3 là 55 - 60%. Trong cơ cấu giá thành, chi phí lớn nhất là thức ăn chiếm 50,2%; tiếp theo là thuốc, hóa chất 17,9%; năng lượng 10,4%; lao động 8,1%; giống 7,2%; cuối cùng là chi phí khác và khấu hao tài sản cố định.
Những yếu tố chính hạn chế hiệu quả: Vấn đề dịch bệnh, thiếu phát triển bền vững trong sản xuất, thiếu liên kết dọc trong chuỗi sản xuất, thiếu sự hợp tác giữa các đơn vị kinh doanh dịch vụ hỗ trợ, hạn chế trong đầu tư cơ sở hạ tầng đồng bộ.
Để giảm giá thành, trước hết cần: Nâng tỷ lệ thành công từ quy trình sản xuất (nuôi 2 - 3 giai đoạn), con giống chất lượng cao - sạch bệnh, duy trì chất lượng nước ao (xi phông - thay nước), giám sát môi trường nước từ khâu xử lý - vận hành ao nuôi (EHP, Vibrio…) định kỳ. Tiếp theo là mua các nguyên liệu đầu vào (thức ăn, thuốc - hóa chất) với giá tối ưu và qu ả n lý đúng quy trình. Bán sản phẩm tôm sạch giá cao (không dư lượng kháng sinh, đạt màu, quy trình nuôi ASC…).
Thực trạng ở tỉnh hàng đầu
cả nước
Tỉnh Bạc Liêu đang phấn đấu
trở thành trung tâm ngành công nghiệp tôm cả nước, năm 2024 nuôi 132.663 ha, sản lượng 305.300 tấn đứng đầu cả nước và xuất khẩu cũng đứng đầu với 1,13 tỷ USD.
Trong đó, nuôi tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh 2 - 3 giai đoạn với diện tích 7.361, năng suất bình quân 16,78 tấn/ha, sản lượng 123.537 tấn, chiếm 40,5% tổng sản lượng tôm nuôi toàn tỉnh. Nhiều cơ sở tập trung ứng dụng, phát triển nuôi tôm siêu thâm canh trong ao lót bạt/hồ tròn theo quy trình lọc nước tuần hoàn, tiết
kiệm nước (2 - 3 giai đoạn) kết hợp hệ thống biogas xử lý chất thải, nước thải. Bạc Liêu đã tăng cường
thực hiện cấp giấy xác nhận đăng ký đối tượng thủy sản nuôi chủ
lực: Cấp giấy xác nhận cho 22.250
cơ sở với diện tích 43.175,83 ha (46.602 ao), chiếm khoảng 44,74 % tổng số cơ sở nuôi tôm.
Bạc Liêu còn đứng đầu ĐBSCL và là một trong những tỉnh đứng đầu cả nước về sản xuất tôm giống chất lượng cao (chiếm hơn 50% của ĐBSCL và khoảng 22% cả nước). Năm 2024 sản xuất 24 tỷ post tôm chân trắng, 14 tỷ post tôm sú, đáp ứng nhu cầu trong tỉnh và xuất bán ngoài tỉnh. Trong đó, Tập đoàn Việt Úc đã được Bộ NN&PTNT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cấp phép sản xuất tôm thẻ chân trắng giống bố, mẹ; Công ty Cổ phần Việt Úc Bạc Liêu được Cục Thú y cấp Giấy chứng nhận cơ sở sản xuất giống an toàn dịch bệnh; Có 20 công ty, cơ sở sản xuất giống được Chi cục Chăn nuôi và Thú y cấp Giấy chứng nhận cơ sở sản xuất giống an toàn dịch bệnh.
Thế nhưng, lấy mẫu tôm và nước ương dưỡng tôm giống tại vùng nuôi tập trung và cơ sở thu mua tôm vẫn phát hiện nhiều mẫu
nhiễm dư lượng hóa chất, kháng sinh cấm. Diện tích tôm bị thiệt hại năm 2024 là 2.421 ha; trong đó, nuôi siêu thâm canh chiếm 30%; còn lại là nuôi thâm canh ao đất và ao lót bạt. Mức độ tôm nuôi thiệt hại chủ yếu trên 70%
(tôm sú 895 ha, tôm thẻ chân trắng 1.526 ha), nguyên nhân do môi trường và dịch bệnh. Trong đó, 41% do môi trường ô nhiễm khó kiểm soát, biến đổi khí hậu làm mầm bệnh phát sinh.
Sở NN&PTNT tỉnh Bạc Liêu
đánh giá: “Hoạt động nuôi tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh
hiện nay có sự phát triển nhanh, vẫn còn tình trạng xây dựng cơ
sở nuôi chưa đảm bảo theo quy
định, chưa tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường, tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm”.
Trung tâm Khuyến nông Quốc
gia nêu 8 hạn chế
Trung tâm Khuyến nông Quốc
gia đã nêu 8 hạn chế và bài học
kinh nghiệm trong nuôi tôm thẻ
chân trắng siêu thâm canh, cần
khắc phục, nếu không sẽ còn
gặp nhiều khó khăn hơn trong thời gian tới.
Một là đầu tư hệ thống công
trình, gồm xây dựng hạ tầng
cơ sở và trang thiết bị phục vụ
sản xuất. Đây là yếu tố đầu tiên
đảm bảo thành công bền vững, nếu không có hạ tầng cơ sở phù
hợp và trang thiết bị đáp ứng
phục vụ sản xuất tốt nhất thì cơ
hội mầm bệnh xâm nhập và tồn
lưu trong ao rất cao, gây nhiễm bệnh cho tôm, dẫn đến mô hình
không hiệu quả. Có trường hợp vụ nuôi thành công, người nuôi “thừa thắng xong lên” tiếp tục vụ nuôi mới liền, đến thời điểm nào
đó gặp sự cố thì đã muộn. Cho nên, dù đã đầu tư tốt thì sau mỗi vụ nuôi vẫn cần cho hệ thống ao nuôi nghỉ, kết hợp gia cố, tu sửa.
Hai là quản lý môi trường nước ao nuôi tất cả các tố lý – hóa – sinh.
Bao gồm: Nhiệt độ, ánh sáng, pH, ôxy hòa tan, độ kiềm, NH3, NO2, NO3, H2S, Mg/Ca/K (3/1/0,8), màu nước, hạt floc, vi khuẩn, tảo. Không bỏ sót yếu tố nào. Và
không thụ động chờ đợi sự thay đổi của một vài yếu tố môi trường
ở mức độ lớn, nghiêm trọng rồi mới quan tâm điều chỉnh, xử lý, vì nếu không chú trọng phòng ngừa trước là dễ thất bại.
Ba là tác động của diễn biến thời tiết khí hậu, cần được theo dõi thường xuyên, tích lũy kinh nghiệm về mùa vụ sản xuất trên vùng đất đang quản lý.
Đầu tư trang thiết bị phù hợp, chuẩn bị các chất quản lý môi trường và điều chỉnh môi trường sẵn sàng trong kho để kịp thời ứng phó, xử lý.
Bốn là vật tư, sản phẩm đầu vào. Cần cân nhắc điều kiện kinh
tế để quyết định mua sản phẩm
đầu vào (đặc biệt thức ăn) bằng tiền mặt 100%, 50% hay mua chịu để có được giá thành sản xuất và lợi nhuận phù hợp. Chọn nhà sản xuất, phân phối uy tín để có được sản phẩm đầu vào ổn định về giá và chất lượng. Năm là diện tích đất xây dựng hệ thống nuôi. Để nuôi tôm siêu thâm canh thành công và bền vững cần quan tâm dành một diện tích nhất định để thiết kế ao chứa lắng sẵn sàng đủ lớn, đảm bảo thể tích nước chứa lắng thay/ cấp cho ao nuôi. Sáu là điều phối thời gian vận hành quạt nước, thổi ôxy đáy, vận hành cho ăn (bằng máy hoặc bằng tay), gom chất thải, xi phông chất thải để đảm bảo gom chất thải về hố xi phông. Có thời gian cho xi phông đưa chất thải ra khỏi ao và không thất thoát thức ăn. Bảy là kiến thức nền và kinh nghiệm thực tế sản xuất. Cần thường xuyên cập nhật kiến thức chuyên môn và thực tiễn sản xuất. Hạn chế “quá đà” trong mở rộng diện tích sản xuất mà nên “từng bước” phát triển nhân rộng nếu đã có đầy đủ mọi điều kiện lên quan.
Tám là một số hạn chế khác liên quan. Trước hết là chất lượng con giống; Thiếu lao động kỹ thuật, lao động phổ thông; Điện và giá điện; Mức độ ô nhiễm kênh rạch công cộng có dấu hiệu gia tăng khó kiểm soát; Vi khuẩn “lờn thuốc”, biến đổi gen và bệnh mới xuất hiện. Bên cạnh, đầu tư hệ thống ao nuôi “bài bản” mang tính lâu dài, đầu tư một lần sử dụng được nhiều năm liền hay đầu tư tạm thời
CON TÔM
VÀ CÂU CHUYỆN MINH BẠCH NGUỒN GỐC
Nhu cầu tiêu thụ tôm thế giới ngày càng tăng cao, mở ra cơ hội lớn cho ngành tôm
Việt Nam cũng như một số nước. Tuy nhiên, khi cơ hội ngày càng rộng mở thì các quy định, tiêu chí đi kèm cũng ngày một khắt khe hơn. Do đó, ngoài việc đảm bảo ngon, sạch, đẹp, an toàn, giá cả phù hợp… sản phẩm tôm còn phải được truy xuất nguồn gốc một cách dễ dàng mới có thể thuyết phục được nhà nhập khẩu và người tiêu dùng, nhất là tại các thị trường lớn.
Những động thái tích cực
Theo các doanh nghiệp thủy sản, truy xuất nguồn gốc là việc cung cấp thông tin một cách thuyết phục về xuất xứ của sản phẩm từ khâu sản xuất cho đến bán hàng, thông tin truy xuất nguồn gốc không đơn thuần là những con số mà nó còn thể hiện cả một quy trình sản xuất sạch, an toàn và trách nhiệm. Trước yêu cầu đó, trong thời gian qua, không ít doanh nghiệp cung ứng đầu vào nuôi tôm và chế biến, xuất khẩu đã tiên phong xây dựng quy trình sản xuất nhằm nâng cao chất lượng và truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Tiên phong trong việc minh bạch truy xuất nguồn gốc tôm giống, bên cạnh các doanh nghiệp sản xuất giống lớn trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, phải kể đến 2 thủ phủ tôm giống lớn nhất cả nước là Hiệp hội tôm giống Bình
Thuận và Ninh Thuận. Ngay từ khi tôm bố mẹ nhập khẩu về đã được Chi cục Chăn nuôi và Thú y 2 tỉnh này giám sát trong suốt thời gian cách ly cho đến giai đoạn post và chỉ được xuất đi khi các xét nghiệm đều cho kết quả âm tính. Các thông tin về thời điểm nhập khẩu đàn tôm, tên cơ sở sản xuất, nguồn gốc, số lượng tôm bố mẹ, số giấy chứng nhận kiểm dịch… đều được thể hiện trên trên trang web của Hiệp hội nhằm giúp cho người nuôi tôm thương phẩm, cơ quan quản lý nơi đến dễ dàng xác minh nguồn gốc. Khi có yêu cầu xác minh đối với những lô tôm bị nghi ngờ từ các vùng nuôi, Hiệp hội và Chi cục đều nhanh chóng vào cuộc xác minh và trả lời bằng văn bản cụ thể.
Việc minh bạch nguồn gốc tôm cũng được các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu thực hiện rất nghiêm ngặt. Phóng viên Tạp chí Thủy sản Việt Nam từng được chứng kiến một trong những quy
Do đa số hộ nuôi nhỏ lẻ nên số cơ sở thuộc diện đăng ký, cấp mã số cơ sở nuôi lớn, làm cho tiến độ thực hiện chậm, gây khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu trong việc minh bạch xuất xứ, nguồn gốc
trình truy xuất nguồn gốc ngay từ khâu thu mua của một doanh nghiệp tôm lớn. Theo đó, sau khi
có kết quả xét nghiệm mẫu tôm
đã đạt các tiêu chí, dù việc thu mua được giao cho đại lý, nhưng doanh nghiệp vẫn cử cán bộ kỹ thuật đến tận ao tiến hành công
tác định vị ao nuôi, ghi nhận các thông tin về hộ nuôi và bấm giờ thu hoạch cũng như khi phương tiện chở tôm bắt đầu k hởi hành
về nhà máy. Tất cả những thông tin đều được gởi trực tiếp ngay sau đó về bộ phận phụ trách của Công ty. Ngay cả nguồn tôm nội
bộ được thu hoạch từ trang trại của mình, Công ty Cổ phần Thực phẩm Sao Ta cũng thực hiện đầy đủ các bước theo quy trình trên.
Va vấp là bình thường…
Chúng ta đều biết, từ năm
2019, phía Mỹ quy định buộc
các lô hàng tôm bán vào đây
phải khai báo nguồn gốc, tôm nuôi ở các ao nào, sản lượng thu
hoạch bao nhiêu... và danh sách mã ao phải báo trước để họ đối chiếu. Vì vậy, khi thấy có sự gia tăng sản lượng tiêu thụ tôm ở
Mỹ của Minh Phú bất thường, họ
đã tìm hiểu và kiện Minh Phú với
hành vi vi phạm xuất xứ và thuế chống bán phá giá, dù Minh Phú chỉ sử dụng khoảng 10% tôm Ấn
Độ nhập khẩu trong giai đoạn
ngắn. Vụ việc sau đó đã được
Minh Phú chứng minh rõ ràng
và thuyết phục được CBP, nhưng các chuyên gia khuyến nghị, các
doanh nghiệp khi xuất khẩu nên
nghiên cứu, xây dựng và triển khai cơ chế truy xuất nguồn gốc để bảo đảm đáp ứng yêu cầu của
nước nhập khẩu.
Ông Hồ Quốc Lực, Chủ tịch
HĐQT Công ty CP thực phẩm Sao
Ta cho rằng, các doanh nghiệp
khác rút kinh nghiệm, chú trọng
tìm hiểu k ỹ lưỡng hơn luật lệ nước
nhập khẩu để không bị vướng
vấp như nêu trên. Bởi thông tin
nhập khẩu tôm từ bất kỳ nguồn nào ngoài lãnh thổ Việt Nam đều
rất khó che giấu được bên nhập
khẩu. Khi họ thấy doanh nghiệp nào còn chưa rõ ràng về nguồn gốc sản phẩm thì chắc chắn họ lại tiếp tục khiếu kiện. Giám đốc một doanh nghiệp tôm lớn ở Cà Mau chia sẻ: “Thật ra, họ (nước nhập khẩu) không cấm chúng ta sử dụng nguồn tôm nhập khẩu để chế biến, nhưng vấn đề là chúng ta phải khai báo rõ ràng về số lượng, xuất xứ của nguồn tôm này”.
Minh bạch từ mã số cơ sở Đánh giá về tác động của vụ kiện đến hoạt động xuất khẩu tôm và ngư ờ i nuôi tôm, các doanh nghiệp cho rằng, vụ kiện dù không gây tác động lớn đển xuất khẩu tôm Việt Nam vào thị trường Mỹ, nhưng đây cũng là điều đáng để ngành tôm phải lo trong vấn đề minh bạch nguồn
gốc. Đáng lo là bởi số cơ sở nuôi được cấp mã số vùng nuôi đến hết năm 2024 vẫn còn rất thấp. Theo báo cáo tổng kết vụ tôm nước lợ năm 2024 của Cục Thủy
nuôi không chỉ tạo niềm tin cho người tiêu dùng mà còn nâng cao giá trị sản phẩm tôm
cạnh tranh xuất khẩu vào tất cả thị trường trên thế giới. Ngành tôm đang mang trên vai trọng trách tăng tốc trong năm 2025 và tăng trưởng 2 con số trong giai đoạn 2026-2030, nên bên cạnh việc tăng năng suất, giảm giá thành thì việc tăng tỷ lệ diện tích nuôi đạt chuẩn quốc tế (ASC, BAP, Ogranic…) và cấp mã số cơ sở nuôi là một trong những vấn đề quan trọng, giúp tăng tính minh bạch nguồn gốc, để từ đó tăng tính cạnh tranh và cơ hội xâm nhập vào tất cả các phân khúc tại những thị trường lớn. Với tình hình tương đối ổn định hiện nay ở Mỹ, thị trường tôm lớn nhất của Việt Nam thời điểm này, ngành tôm phải đoàn kết nỗ lực duy trì, bởi đây là thị trường hàng đầu tôm Việt. Có như vậy, mới đáp ứng mong đợi của cả chuỗi cũng như kỳ vọng của những nhà hoạch định, điều hành bên trên. Do đó, các Bộ, ngành và địa phương cần quan tâm nhiều hơn trong việc quy hoạch, định hướng, đặc biệt có những cơ chế, chính sách ưu đãi và nhất là sớm hoàn thành việc cấp mã số cơ sở nuôi để con tôm Việt Nam được minh bạch hơn về nguồn gốc, có nhiều cơ hội hơn trong cạnh tranh và phát triển bền vững hơn trong tương lai.
Xuân Trường
Mô hình nuôi tôm theo công nghệ RAS
Thách thức và giải pháp
Với việc duy trì điều kiện nước tốt và giảm thiểu các yếu tố bất lợi từ môi trường, mô hình nuôi tôm theo công nghệ RAS có thể giúp tăng năng suất vật nuôi, đồng thời giảm thiểu rủi ro do dịch bệnh. Tuy vậy, chi phí đầu tư lớn và yêu cầu kỹ thuật cao là thách thức không nhỏ. Nếu không tối ưu hóa chi phí vận hành và giá bán tôm không đủ cao, mô hình này có thể không mang lại lợi nhuận mong muốn.
Mô hình nuôi thủy sản RAS
(Recirculating Aquaculture System) là hệ thống nuôi tuần hoàn khép kín, hiện đại, giúp tối ưu hóa việc quản lý nước và môi trường nuôi. Mô hình này có thể áp dụng để nuôi nhiều loại động vật thủy sản có giá trị kinh tế cao. Nó giúp quản lý và xử lý chất thải hiệu quả. Bản chất của mô hình là áp dụng công nghệ RAS để kiểm soát chất lượng môi trường và tái sử dụng phần lớn nước trong quá trình nuôi bằng cách lọc và xử lý loại
bỏ các chất ô nhiễm, giảm thiểu lượng nước cần thay thế và góp phần bảo vệ môi trường.
Nguyên lý hoạt động của hệ thống RAS dựa trên việc luân chuyển nước liên tục qua các bước lọc, xử lý sinh học, cơ học, hóa học và lý học để duy trì chất lượng nước tốt cho vật nuôi. Nước được thu gom từ các ao nuôi sẽ
được xử lý qua nhiều giai đoạn, bao gồm:
- Lọc cơ học: Bước đầu tiên là loại bỏ các
chất rắn lơ lửng như phân, thức ăn thừa và các hạt cặn khác. Điều này thường được thực hiện bằng cách sử dụng các bộ lọc dạng màng, bể lắng hoặc lưới lọc.
- Lọc sinh học: Sau khi loại bỏ các chất rắn, nước sẽ được dẫn qua một bộ lọc sinh học (Bioreactor), nơi các vi sinh vật sẽ phân hủy hợp chất hữu cơ như Amoniac (NH3 ), Nitrit (NO2-), chuyển hóa chúng thành Nitrat (NO3 -), một dạng ít độc hại hơn đối với vật nuôi.
- Khử trùng: Sau quá trình lọc nước được khử trùng để loại bỏ vi khuẩn, virus hoặc mầm bệnh tiềm ẩn, được thực hiện bằng tia UV hoặc Ozon.
- Điều chỉnh pH và O2: Sau khi khử trùng, nước sẽ được bổ sung O2 và điều chỉnh pH để đạt mức phù hợp. Hệ thống sục khí hoặc thiết bị cấp ôxy hóa được sử dụng để bổ sung hàm lượng O2 hòa tan trong nước.
Nước sau khi được xử lý qua các giai đoạn
sẽ được luân chuyển trở lại ao/bể nuôi, giúp ổn định chất lượng và tiết kiệm nước, giảm thiểu nước thải xả ra môi trường.
Hệ thống lọc tuần hoàn RAS có những
ưu điểm:
- Tiết kiệm nước: Hệ thống này giảm lượng
nước cần thiết cho quá trình nuôi động vật thủy sản nhờ việc ổn định nhiệt độ, độ mặn, tái sử dụng nước đã qua xử lý, từ đó tiết kiệm tài nguyên nước, rất hữu ích trong những vùng khan hiếm nước và nhiệt độ thấp. - Kiểm soát môi trường nuôi: Hệ thống RAS cho phép kiểm soát chặt chẽ các thông số
môi trường như nhiệt độ, độ mặn, pH và hàm lượng ôxy, giúp tạo điều kiện tối ưu cho tôm phát triển và giảm thiểu nguy cơ dịch bệnh.
- Giảm thiểu ô nhiễm môi trường: Nhờ vào việc tuần hoàn nước và xử lý nước thải hiệu quả, lượng nước thải xả ra môi trường bên ngoài được giảm thiểu đáng kể, góp phần bảo vệ hệ sinh thái.
Thách thức khi áp dụng:
- Chi phí đầu tư ban đầu cao: Hệ thống RAS đòi hỏi đầu tư lớn về thiết bị và công nghệ như hệ thống lọc nước quy mô công nghiệp với các công đoạn chính như lắng, loại chất thải rắn, lọc sinh học, khử khí, ôxy hóa, diệt khuẩn và kiểm soát pH; hệ thống sục khí, máy bơm và các cảm biến giám sát chất lượng nước.
- Lãng phí: Giai đoạn đầu của chu kỳ nuôi tôm còn bé, lượng thức ăn hàng ngày thấp nên lượng chất thải trong môi trường còn ít nếu vận hành hệ thống RAS sẽ có mức chi phí cao.
- Đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao: Vận hành hệ thống RAS đòi hỏi phải có kiến thức và kỹ thuật cao, nên người nuôi cần được đào tạo bài bản
để đảm bảo hệ thống hoạt động hiệu quả.
- Bảo trì thường xuyên: Hệ thống cần được kiểm tra và bảo dưỡng định kỳ để đảm bảo các thiết bị lọc, khử trùng và sục khí hoạt động đúng cách.
- Tiêu hao năng lượng lớn: Tiêu thụ nhiều
điện năng cho các thiết bị: máy bơm, lọc, quạt và sục khí cung cấp O2; hệ thống xử lý nước: UV, ozone và vi sinh để duy trì chất lượng nước. Điều này làm tăng chi phí vận hành và kiểm soát môi trường cao, dẫn đến chi phí bảo trì và thay thế thiết bị cũng cao. Trung bình, chi phí đầu tư có thể gấp 3 - 5 lần so với mô hình nuôi truyền thống khác.
- Rủi ro kỹ thuật cao: Nếu không kiểm soát tốt, chất lượng nước dễ bị mất cân bằng hóa học và sinh học, gây ảnh hưởng đến sức khỏe tôm. Sự cố về hệ thống tuần hoàn (như hỏng máy bơm, mất điện) có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của vật nuôi.
Giải pháp khác
Hiện nay nuôi tôm ở nước ta đang áp dung rộng rãi là “ Mô hình nuôi tôm ít thay nước”. Trong đó: - Nước đầu vào qua hệ thống ao lắng-lọc, diệt khuẩn, diệt tạp và được bổ sung chế phẩm vi sinh (lọc cơ học, xử lý hóa học và sinh học)...;
- Ao nuôi có hệ thống sục khí, đảo nước để cung cấp O2; thu gom loại nước thải, bùn thải (cơ học); bổ sung chế phẩm vi sinh theo định kỳ và duy trì sự ổn định của tảo đơn bào trong ao nuôi (xử lý sinh học);
- Hệ thống xử lý nước thải: thu gom và loại bỏ chất thải rắn (cơ học), xử lý nước thải bằng chế phẩm vi sinh (sinh học), xử lý vi khuẩn gây bệnh (hóa học hoặc vật lý học); điều chỉnh pH, cung cấp O2 bằng hệ thống sục khí và các chất ổn định môi trường; có thể tái sử dụng nước (tuần hoàn nước) nếu cần. Như vậy với việc áp dụng mô hình nuôi truyền thống vẫn có thể đáp ứng được các mục tiêu về kỹ thuật, dễ vận hành và hiệu quả. Tóm lại, RAS là công nghệ tiên tiến, phù hợp với xu hướng phát triển bền vững, có thể áp dụng cho những địa điểm thiếu nước, nhiệt độ thấp kéo dài (cần tái sử dụng nước), các cơ sở sản xuất giống và nuôi thủy sản theo hình thức công nghiệp. Tuy vậy, để áp dụng có hiệu quả, cần xem xét về lợi thế của địa điểm áp dụng, chất lượng môi trường, vốn đầu tư, trình độ kỹ thuật, khả năng vận hành và hiệu quả kinh tế.
Ưu thế của RAS là: (1) khả năng xử lý nước thải, kiểm soát chất lượng nước ao nuôi và xử lý bùn thải; (2) khả năng tái sử dụng nước (tuần hoàn nước) theo hệ thống khép kín. Với những địa điểm thiếu nước, độ mặn không phù hợp, nhiệt độ thấp thì RAS là một giải pháp lý tưởng. Tuy vậy, vẫn có sự lựa chọn khác để kiểm soát chất lượng môi trường vùng nuôi. Ở vùng ven biển Việt Nam, nguồn nước biển dồi dào, độ mặn, nhiệt độ ổn định và khả năng tự làm sạch của môi trường cao, nên việc tuần hoàn tái sử dụng nước trong suốt một chu kỳ nuôi có thể không cần thiết, xét về hiệu quả kinh tế.
CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA
Trong những năm qua, Trung tâm 3K
3K - Hành trình
15 năm
Tự tin bước tiếp
Trung tâm Khảo nghiệm, Kiểm nghiệm, Kiểm định
Nuôi trồng thủy sản ra
đời hình thành nên một
đơn vị cung cấp dịch vụ
công phục vụ quản lý
nhà nước lĩnh vực thủy sản, đã và đang có sự
phát triển mạnh mẽ, có
sự tham gia của nhiều
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Trung tâm Khảo nghiệm, Kiểm nghiệm, Kiểm
định Nuôi trồng thủy
sản là đơn vị sự nghiệp trực thuộc
Tổng cục Thủy sản theo quy
định tại Quyết định số 05/2010/
QĐ-TTg ngày 25/01/2010 của
Thủ tướng Chính phủ. Hiện nay,
Trung tâm là đơn vị sự nghiệp
thuộc Cục Thủy sản được quy
định tại Quyết định số 215/QĐ-
TS-VP ngày 01/7/2024 của Cục
trưởng Cục Thủy sản.
Trung tâm có chức năng khảo
nghiệm, kiểm nghiệm, kiểm định
và cung cấp các dịch vụ công
trong nuôi trồng thủy sản phục vụ
nhiệm vụ quản lý nhà nước; thực
hiện đánh giá, chứng nhận sự phù
hợp và cung cấp các dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ tư vấn thuộc lĩnh
vực được giao theo quy định của pháp luật.
Từ đơn vị hoạt động hoàn toàn
dựa vào biên chế và ngân sách nhà nước giao ban đầu, đến nay Trung tâm là một trong số 04 đơn vị thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường (trước đây là Bộ NN&PTNT) được giao thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư (mức 1).
Ba giai đoạn rực rỡ Trong hành trình 15 năm đã qua của Trung tâm có thể chia 3 giai
đoạn chính trong, cụ thể như sau:
* Giai đoạn từ 2010 đến hết
năm 2015: Đây là thời gian khó khăn, nhiều thử thách của Trung tâm do mới thành lập và ở vào giai đoạn đầu triển khai công việc. Rất nhiều việc dồn tới do vừa phải xác định mục tiêu, hướng đi; cùng với đó là tăng cường năng lực cả về nhân sự và cơ sở vật chất, khơi thông biên chế, tìm nguồn tài chính để duy
trì hoạt động bộ máy... Với sự cố gắng của đội ngũ viên chức, người lao động trên cơ sở quyết tâm cao và sự năng động của lãnh đạo Trung tâm, sự ủng hộ, tạo điều kiện và quan tâm sát sao của Lãnh đạo Bộ, Lãnh đạo Tổng cục Thủy sản (nay là Cục Thủy sản) đã giúp Trung tâm từng bước tháo gỡ khó khăn, nhân lực dần tăng lên, cơ sở vật chất được đầu tư để tổ chức hoạt động công việc bắt nhịp theo chức năng, nhiệm vụ được giao.
* Giai đoạn từ 2016 đến 2018: Giai đoạn này, tập thể Lãnh đạo Trung tâm, Chi ủy, viên chức, người lao động tập trung hơn cho công việc chuyên môn. Trên cơ sở bám sát các quy định về quản lý lĩnh vực chuyên ngành thời kỳ này, nghiên cứu kỹ các nội dung chuyên môn, trong đó có những vấn đề khá sâu về kỹ thuật nuôi trồng thủy sản, kiến thức hóa lý, hóa sinh, vi sinh... Đồng thời gắn sát với các vấn đề phát sinh từ thực tiễn, tranh thủ ý kiến chuyên
gia, phát huy năng lực, sở trường của đội ngũ nhân lực hiện có của Trung tâm. Cùng đó, tranh thủ sự ủng hộ, phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan để thực hiện có hiệu quả, ngày càng đi vào thực chất các nhiệm vụ được giao, phục vụ quản lý nhà nước của Tổng cục Thủy sản trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản. * Giai đoạn từ năm 2019 đến nay: Cùng với dấu mốc Luật Thủy sản 2017 có hiệu lực thi hành từ 01/01/2019, Trung tâm chính thức bước vào thời kỳ mới với khá nhiều thay đổi. Sự thay
đổi này thực tế đã bắt đầu có sự chuyển động từ giữa năm 2018 khi Trung tâm được quán triệt
thực hiện Nghị quyết số 19 của
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII. Trung tâm
đã tổ chức lại hệ thống, giảm đầu mối từ 7 đơn vị xuống còn 5 đơn
vị trực thuộc. Đồng thời với cơ cấu tổ chức bộ máy là việc xác
định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Trung tâm phù hợp với thực tế và các quy định pháp luật hiện hành và phương án bố trí nhân sự theo cơ cấu tổ chức mới.
Trung tâm xúc tiến mạnh mẽ việc tăng cường năng lực quản lý hệ thống theo hướng chuyển đổi theo mô hình hoạt động của tổ chức đánh giá, chứng nhận sự phù hợp. Hệ thống quản lý chất lượng đáp ứng các Tiêu chuẩn ISO 9001:2015, ISO/IEC 17025:2017, ISO/IEC 17065:2015, ISO/IEC 170211:2012, ISO/IEC 17020:2012, các nguyên tắc HACCP và Hướng dẫn GMP, GAP có liên quan đã
được Trung tâm xây dựng, ban hành, áp dụng cho giai đoạn này và tương lai lâu dài, phù hợp với chính sách, mục tiêu chất lượng của Trung tâm.
Đồng thời, Trung tâm luôn duy trì tốt các công việc thường xuyên theo chức năng, nhiệm vụ
được giao để cung cấp dịch vụ, phục vụ quản lý nhà nước lĩnh vực nuôi trồng thủy sản.
Giai đoạn này, nhất là từ năm
2020 đến nay, Trung tâm đã đạt
được những kết quả tốt, trong đó có những lĩnh vực công việc đạt
mức xuất sắc. Trung tâm đã hoàn thành tốt các chức năng, nhiệm
vụ được giao, phục vụ tốt nhiệm
vụ quản lý nhà nước ngành thủy
sản, nhất là trong quản lý thức
ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi
trường trong nuôi trồng thủy sản.
Thành quả được ghi nhận
Có thể khẳng định, 15 năm
đã qua, Trung tâm luôn kiên trì
hướng tới việc minh bạch các hoạt động, chính trực trong chỉ
đạo, điều hành ngay từ chính
các công việc thường xuyên, hàng ngày của mỗi viên chức, người lao động, sự gương mẫu
của Lãnh đạo, người giữ chức
vụ quản lý. Từ năm 2018 đến nay
Trung tâm từng bước tạo dựng
giá trị của tổ chức bằng việc
xây dựng văn hóa gắn với tăng
cường kiến thức trong toàn thể
viên chức, người lao động để
từ đó lan tỏa niềm tin tới khách
hàng, đối tác với sự chân thành
nhất có thể.
Đến nay, Trung tâm trở thành
một tổ chức sự nghiệp công lập
thật sự tự chủ về tài chính, tiếp
tục phấn đấu đạt các mốc tự chủ
mới theo lộ trình và yêu cầu đổi
mới đối với các tổ chức đơn vị sự nghiệp công lập.
Với các thành tích đạt được, Trung tâm được cấp có thẩm
quyền công nhận là tập thể lao
động tiên tiến, xuất sắc suốt hành trình 15 năm xây dựng, phát triển. Từ năm 2020 đến nay liên tục là tập thể lao động
xuất sắc, được Bộ trưởng tặng
Cờ Thi đua đơn vị xuất sắc các
năm 2021, 2022; Bằng khen Bộ
trưởng năm 2021. Năm 2024
tiếp tục được Cục Thủy sản trình
Bộ tặng thưởng Cờ Thi đua. Các
tập thể đơn vị trực thuộc và nhiều
cá nhân được tặng giấy khen.
Dịp kỷ niệm 15 năm thành
lập Trung tâm, Bộ trưởng Bộ
NN&PTNT đã tặng thưởng Trung
tâm Cờ Tuyên dương - 15 năm
xây dựng và phát triển, là đơn
vị sự nghiệp công lập tự chủ
nhóm 1; 02 tập thể và 05 cá
nhân cũng nhận được Bằng khen
của Bộ trưởng vì thành tích xuất
sắc trong công tác; 19 cá nhân
được tặng Kỷ niệm chương “Vì
sự nghiệp nông nghiệp và phát
triển nông thôn”. Đây là những
phần thưởng cao quý và sự ghi nhận đáng trân trọng của Bộ đối
với Trung tâm nói chung cũng
như các tập thể và cá nhân thuộc Trung tâm.
Nỗ lực cho hành trình phía trước
Giai đoạn tiếp theo, Trung tâm tiếp tục kiên định con đường đã lựa chọn để ngày càng minh bạch, chính trực trong hoạt động; gần gũi, thân thiện với đối tác, khách hàng; đoàn kết, thống
nhất ý chí và hành động trong tổ
chức, chú trọng yếu tố con người trong toàn hệ thống để tiếp tục
xây dựng tốt Văn hóa, không
Trong hành trình 15 năm đã qua, Trung tâm Khảo nghiệm, Kiểm nghiệm và Kiểm định nuôi trồng thủy sản đã hoàn thành tốt và xuất sắc các chức năng, nhiệm vụ được giao, phục vụ tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước ngành thủy sản, nhất là trong quản lý thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường trong nuôi trồng thủy sản. Trung tâm đã có những kế hoạch quan trọng cho giai đoạn 2025 - 2030, tầm nhìn đến năm
triển của Trung tâm giai đoạn 20252030 và tầm nhìn đến 2045 phụ thuộc rất lớn vào sự
hướng
lựa chọn cùng
quyết tâm đổi mới, sáng tạo hơn nữa; phải có sự bứt phá cụ thể trong tư duy về chiến lược đầu tư, phát triển công việc, chăm sóc khách hàng. Trung tâm xác định mục tiêu “Hội nhập để nâng tầm” bằng việc chú trọng các công việc liên quan đến đào tạo, tuyển dụng lớp cán bộ thế hệ tiếp theo của Trung tâm với phương châm “Ngoại ngữ là nền tảng, Chuyên môn là cốt lõi” Thực hành và rèn luyện phương châm “Nghĩ sâu, Quyết đúng/Xử lý kỹ, Hành động nhanh” trong toàn hệ thống Trung tâm. Có được những thành quả ban đầu của hành trình 15 năm đã qua, Trung tâm luôn ghi nhớ và trân trọng cảm ơn sự quan tâm, tạo điều kiên của Bộ NN&PTNT, Tổng cục Thủy sản, Cục Thủy sản; sự lãnh đạo, chỉ đạo của các thế hệ Lãnh đạo Bộ, Lãnh đạo Tổng cục Thủy sản, Lãnh đạo Cục Thủy sản hiện nay. Trung tâm bày tỏ sự tri ân chân thành tới toàn thể khách hàng đã đồng hành và ủng hộ Trung tâm thời gian qua. Đồng thời vô cùng biết ơn các thế hệ công chức, viên chức, người lao động đã có thời gian đáng nhớ khi làm việc tại Trung tâm, đóng góp phần công sức quan trọng vào sự phát triển của Trung tâm trong hành trình đã qua. Chúng tôi mong mỏi và hy vọng quý vị sẽ tiếp tục đồng hành cùng Trung tâm trên chặng đường tiếp theo. Hành trình 15 năm đã qua, 3K tự tin bước tiếp trong hành trình tiếp theo của kỷ nguyên mới!
Công nghệ phát triển nuôi tôm bền
vững
Công nghệ đóng một vai trò quan trọng trong việc định
hình ngành nuôi tôm hiện đại. Sự kết hợp giữa khoa học
và công nghệ tiên tiến đã tạo ra những phương pháp
nuôi mới, giúp tăng năng suất, chất lượng sản phẩm,
đảm bảo sản xuất hiệu quả và bền vững.
Hiệu quả và bền vững
Hiện ở nước ta, các kỹ thuật và công nghệ tiên tiến đã và
đang được ứng dụng vào tất cả các khâu của quá trình nuôi
tôm, từ chọn giống, xử lý môi trường nước, cho ăn, quản lý
dịch bệnh và đến thu hoạch. Từ đó, giúp nâng cao năng suất, mật độ nuôi cũng như chất lượng tôm thương phẩm, kích cỡ
đồng đều, giảm hoặc tránh các tác động tiêu cực của môi
trường trong suốt quá trình nuôi, dễ dàng xử lý và kiểm soát
môi trường,…
Điển hình như công nghệ cải tiến di truyền đã trở thành giải
pháp đột phá trong bối cảnh dịch bệnh là một trong những
mối đe dọa lớn nhất đối với ngành tôm. Mục đích của việc cải
tiến di truyền là tạo ra những giống tôm có những ưu điểm vượt trội so với tôm giống thông thường, từ khả năng tăng trưởng nhanh, kháng bệnh tốt hơn, đến khả năng chịu đựng
môi trường khắc nghiệt.
Bên cạnh đó, công nghệ nuôi tôm không ngừng được cải
tiến và hoàn thiện. Ngoài những công nghệ nuôi tôm siêu thâm canh công nghệ cao, một số công nghệ nuôi tôm mới dựa vào nguồn thức ăn tự nhiên hoặc nguồn thức ăn thực vật đã được ứng dụng rộng rãi như Biofloc, sử dụng vi sinh để phân hủy chất hữu cơ, giảm thiểu việc thay nước. Hay hệ thống nuôi tuần hoàn (RAS - Recirculating Aquaculture System) để lọc và tái sử dụng nước, giúp kiểm soát chất lượng tốt hơn và giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Trong quy trình nuôi, việc ứng dụng công nghệ sẽ có mức độ đầu tư khác nhau, tùy từng trang trại. Tuy nhiên, ngoài lót bạt đáy ao thì hiện nay một số công nghệ được
ứng dụng phổ biến tại nhiều vùng nuôi, gồm quy trình cho ăn tự động dựa trên cảm biến theo dõi lượng thức ăn trong ao nuôi, thiết bị theo dõi chất lượng môi trường nước trong ao nuôi,...
Áp dụng rộng rãi
Những năm gần đây, việc áp dụng khoa học công nghệ trong nuôi tôm đang được quan tâm và đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần nâng cao giá trị ngành tôm phát triển bền vững. Người nuôi tôm đã từng bước ứng dụng khoa học công nghệ mới: công nghệ sinh học, nuôi nhiều giai đoạn, nuôi tuần hoàn,… kết hợp với đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng ở cả vùng nuôi và từng cơ sở nuôi (xây dựng hệ thống nhà kín, lồng nổi có mái che nhằm ổn định nhiệt, hạn chế sự lây lan mầm bệnh và những tác động khác gây ảnh hưởng đến sinh trưởng tôm nuôi,…).
Nhờ ứng dụng khoa học công nghệ, đến nay, mô hình nuôi tôm công nghệ cao xuất hiện ngày một nhiều hơn ở các địa phương như: Quảng Ninh, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bạc Liêu, Bình Thuận,… và khu vực ĐBSCL.
Tại Kiên Giang, thời gian qua, mô hình nuôi tôm công nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn tỉnh phát triển mạnh và đạt hiệu quả cao, nhiều quy trình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao được người dân áp dụng như mô hình nuôi tôm hai, ba giai đoạn ít thay nước hoặc tuần hoàn nước, có giải pháp xử lý, hạn chế ô nhiễm môi trường, sử dụng chip điện tử để theo dõi và kiểm soát các yếu tố môi trường.
Sử dụng máy cho ăn tự động, áp dụng công nghệ Biofloc, công nghệ sinh học lọc tuần hoàn (RAS),… trong các mô hình nuôi đạt suất cao, chất lượng sản phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Mật độ nuôi từ 250 - 300 con/m2, nhiều hộ nuôi cho năng suất đạt tới 40 - 50 tấn/ha.
Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường Bạc Liêu, các mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao tại địa phương cho tỷ lệ thành công cao, 85 đến 95% diện tích nuôi có lãi. Đây là các mô hình nuôi tôm tiên tiến, được đầu tư bài bản, quản lý nghiêm ngặt; khu nuôi được thiết kế hệ thống ao lắng lọc, ao chứa và xử lý nước thải,
Hệ thống ao ương, ao nuôi được lắp quạt và ôxy đáy; ao ương, ao nuôi, ao lắng được trải bạt hoàn toàn và được che lưới ở phía trên để giảm sự phát triển của tảo; tôm được ương, sau đó chuyển xuống ao nuôi và san thưa ra nhiều giai đoạn. Trong quá trình nuôi, các yếu tố môi trường được kiểm soát chặt chẽ, năng suất vụ nuôi cao.
Còn tại Cà Mau, những năm qua, Chi cục Thủy sản Cà Mau cũng đã kết hợp với Công ty CP Chăn nuôi C.P. Việt Nam triển khai mô hình nuôi tôm CPF-Combine 3 giai đoạn. Quy trình nuôi tuần hoàn khép kín, không sử dụng kháng sinh, lượng hóa chất sử dụng giảm. Ðồng thời, hạn chế chất thải, áp lực ô nhiễm môi trường vùng nuôi so với phương pháp nuôi thâm canh thông thường, tăng năng suất và tỷ lệ thành công với mật độ cao. Cũng nhờ áp dụng khoa học công nghệ, Cà Mau hiện đã gia tăng tổng sản lượng tôm nuôi (tôm sú, tôm thẻ chân trắng), đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu sang nhiều thị trường như: Nhật Bản, Mỹ, Australia, Canada, Hồng Kông (Trung Quốc), Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ,…
Gỡ rào cản
Ngành tôm càng ngày càng phát triển một phần nhờ thành quả của việc chuyển giao các ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên việc áp dụng công nghệ vào nuôi tôm vẫn còn tồn đọng nhiều vấn đề bất cập, cần xử lý. Trong đó, nguồn vốn đầu tư chính là rào cản lớn nhất do phần lớn người nuôi tôm thiếu vốn (chi phí đầu tư lớn), nhưng lại khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng do không đáp ứng đủ các điều kiện vay vốn. Cùng với đó là quy hoạch vùng nuôi chưa đồng bộ, hạ tầng thủy lợi chưa đáp ứng yêu cầu; người dân chưa thực sự tiếp nhận sự chuyển giao công nghệ, thay đổi kỹ thuật nuôi; hoạt động sản xuất vẫn tiềm ẩn nguy cơ bùng phát dịch bệnh,… Điển hình như với mô hình nuôi tôm siêu thâm canh có mật độ
Việc ứng dụng công nghệ trong nuôi tôm cũng
đòi hỏi kiến thức chuyên môn và nguồn vốn
đầu tư ban đầu nhất định. Do đó, người nuôi cần trang bị đầy đủ kiến thức và cân nhắc kỹ
lưỡng, lựa chọn công nghệ phù hợp với điều
kiện cụ thể của từng địa phương, khả năng tài chính để đảm bảo hiệu quả và tránh lãng phí.
Công nghệ được ứng dụng trong sản xuất tôm nhằm
cải thiện hiệu quả
Ảnh: Tép Bạc
nuôi quá dày, nếu không có trình độ quản lý tốt và áp dụng kỹ thuật cao rất dễ gây thất thoát lớn trong quá trình nuôi tôm, đặc biệt việc kiểm soát dịch bệnh sẽ gặp nhiều khó khăn. Đó là những lí do mà đến thời điểm hiện tại, qua thống kê, tỷ lệ mô hình áp dụng khoa học công nghệ trong nuôi tôm còn hạn chế so với kỳ vọng. Nhằm tháo gỡ khó khăn trong việc ứng dụng khoa học công nghệ trong nuôi tôm. Theo Cục Thủy sản và Kiểm ngư, cần tập trung ứng dụng khoa học, công nghệ mới để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm tôm đáp ứng với nhu cầu của thị trường quốc tế. Ưu tiên phát triển ngành tôm theo hướng nâng cao giá trị và phát triển bền vững. Trong đó, tập trung hướng dẫn người nuôi về kỹ thuật, khoa học công nghệ tiên tiến, phù hợp, hiệu quả; phát triển nuôi tôm và các khâu trong chuỗi sản xuất tôm theo hướng công nghệ cao để giảm lao động trực tiếp, hạn chế sự lây lan của dịch bệnh.
Chú trọng nâng cao trình độ, năng lực nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ trong ngành. Trong đó, vấn đề cần quan tâm đầu tiên là con giống, sau đó là công tác nghiên cứu về dịch bệnh - yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả và sự phát triển bền vững của ngành tôm Việt Nam.
Phát triển nuôi tôm theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất để nâng cao năng suất, sản lượng và giá trị sản phẩm, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Đặc biệt, cần có chính sách hỗ trợ tín dụng cho người nuôi tôm thúc đẩy, duy trì mô hình nuôi tôm công nghệ cao, thâm canh, siêu thâm canh ứng dụng công nghệ số, để vừa tạo ra sản lượng lớn phục vụ xuất khẩu vừa đảm bảo tốt công tác bảo vệ môi trường. Thanh Hiếu
Thị trường tôm toàn cầu 2025
Chuyển mình trước thách thức
Tăng trưởng khiêm tốn
Theo báo cáo của Rabobank, sản lượng nuôi tôm toàn cầu dự kiến tăng 2% vào năm 2025, trong đó, tốc độ tăng trưởng của ngành tôm châu Á và Mỹ Latinh
đạt vừa phải. Dựa trên khảo sát mới nhất từ RaboResearch và Liên minh thủy sản toàn cầu, sản lượng tôm thế giới ước đạt 6,1 triệu tấn vào năm 2025, sau khi tăng 1% vào năm 2024 và 4% vào năm 2023. Các chuyên gia phân tích nhấn mạnh, tình trạng dư cung sẽ dần cải thiện ở Mỹ Latinh vào năm 2025, trong khi tại châu
Á, các nhà sản xuất vẫn giữ tâm
lý lạc quan nhưng thận trọng, dẫn
đến tốc độ tăng trưởng khiêm tốn
ở cả hai khu vực.
Rabobank cũng dự báo sản
lượng tôm châu Á tăng 2% vào năm 2025, ghi nhận sự cải thiện so với hai năm qua do giá cả
tốt hơn và chi phí giảm sau giai
đoạn lợi nhuận thấp. Riêng sản
lượng tôm tại Trung Quốc dự kiến tăng 1,7%, đạt 1,2 triệu tấn, chủ yếu nhờ nâng cao hiệu suất từ các khoản đầu tư vào nuôi công nghiệp. Tại Ấn Độ, sản
lượng ước tăng 2%, đạt 1 triệu tấn, sau khi giảm 3% vào năm 2024 nhờ các sáng kiến thúc
đẩy tiêu thụ nội địa.
Trong khi đó, sản lượng tại Ecuador dự kiến tăng 3-4% vào năm 2025, sau mức tăng 2% ước tính cho năm 2024, đạt 1,3 triệu tấn. Những con số này cho thấy tốc độ tăng trưởng của ngành tôm Ecuador đã chững lại so với các năm trước, khi sản lượng tăng trung bình 14% từ năm 2010 đến 2023, trước khi chậm lại còn 4% vào năm 2024. Theo các chuyên gia phân tích, quá trình hợp nhất ngành giữa các nhà sản xuất lớn cùng với những tiến bộ công nghệ sẽ tiếp tục nâng cao năng suất tôm Ecuador.
Một số chuyên gia cho rằng, sản lượng tôm sú sẽ là điểm
sáng trong năm 2025, khi sự quan tâm đến loài tôm này ngày càng gia tăng nhờ những cải tiến
di truyền và chi phí nuôi các loài
thủy sản khác ngày càng cao.
Theo Rabobank, sản lượng tôm
sú toàn cầu dự kiến tăng 7% vào
năm 2025, đạt 672.000 tấn, chủ
yếu nhờ vào sự đóng góp của Việt Nam và Ấn Độ.
Thách thức thị trường
Năm 2024 đánh dấu một năm
đầy thách thức của thị trường
tôm toàn cầu trước những biến
động liên tục. Ecuador đối mặt
với không ít khó khăn, xuất khẩu
trong tháng 10 chạm đáy, chỉ đạt
190 triệu pound. Sự sụt giảm
này phản ánh những xu hướng
chung, gồm nguồn cung toàn
cầu bị thắt chặt, tâm lý mua hàng
thận trọng từ các thị trường quan trọng như Trung Quốc và châu
Âu, cũng như những chiến lược sáng tạo mà các nhà sản xuất
tôm áp dụng để vượt qua giai
đoạn biến động.
Willem van der Pijl, chuyên gia tại Shrimpinsight cho biết, người nuôi tôm trên toàn thế giới phải đối mặt với những nút thắt logistics, hạn chế thương mại và nhu cầu biến động khó lường. Tại thị trường Mỹ, thuế suất tăng cao cùng gián đoạn chuỗi cung ứng đã gây ra những tác động dây
chuyền, làm phức tạp dòng chảy xuất khẩu và dấy lên lo ngại về
các biện pháp bảo hộ ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, nguồn cung
tôm toàn cầu sụt giảm phần nào
giúp giá tôm nguyên liệu ổn định
hơn, góp phần giảm bớt tác động của nhu cầu suy yếu.
Các thị trường trọng điểm, đặc biệt Trung Quốc và châu Âu, ghi
nhận tình trạng nhu cầu tiêu thụ chậm lại. Các nhà nhập khẩu
giảm mua, chờ đợi cơ hội thị trường cuối năm. Trong khi đó, tại Ấn Độ, mùa tôm đã kết thúc, nhưng giá nguyên liệu cao khiến
nhiều người mua thận trọng. Các khách hàng lớn tại Mỹ tránh mua tôm số lượng lớn với giá cao vì vẫn còn hàng tồn kho giá rẻ hơn và kỳ vọng giá sẽ giảm trong thời gian tới. Chỉ số Platts Ecuador
Shrimp Marker phản ánh giá
tôm HOSO cỡ 30-40 con/kg, đạt
5.350 USD/tấn (FCA Guayaquil) vào ngày 13/1/2025, so với mức 4.800 USD/tấn (FCA) vào ngày 2/9/2024.
Trước thách thức từ thị trường, một số hãng sản xuất tôm đã
ứng phó bằng những cách sáng
tạo như chiến lược bán hàng linh
hoạt. Cụ thể, nhiều nhà xuất khẩu
đã vận chuyển tôm mà không có
thỏa thuận bán trước, giúp họ
điều chỉnh giá hoặc kế hoạch dự
trữ dựa trên điều kiện thị trường
thực tế khi hàng đến nơi. Mặc
dù sự thích ứng này mang lại lợi
ích ngắn hạn, nhưng cũng tạo ra
những thách thức, bao gồm biên lợi nhuận bị thu hẹp đối với người
mua và sự cạnh tranh gia tăng trong các thị trường nhập khẩu trọng điểm.
Tuy nhiên, khách hàng tại các thị trường lớn như Mỹ vẫn do dự trước việc đặt mua số lượng lớn với mức giá cao. Tổng khối lượng
tiêu thụ vẫn chưa đạt kỳ vọng, khiến triển vọng thị trường trong quý đầu tiên của năm 2025 còn nhiều bấp bênh.
Cơ hội cho châu Á Ngành tôm châu Á tiếp tục đối
mặt với sự bất ổn về giá cả trong
khi tỷ lệ sống trung bình còn thấp do dịch bệnh. Theo Rabobank, châu Á cần đầu tư vào năng suất và nâng tỷ lệ sống từ mức trung
bình 55% lên 80%, can thiệp y tế
và công nghệ cho ăn chính xác.
Cắt giảm chi phí chỉ là giải pháp
tạm thời và không tạo ra giá trị
bền vững trong dài hạn, Willem cho biết.
Các trang trại châu Á đã thu
thập một lượng lớn dữ liệu từ
những vụ mùa thất bại và các
đợt bùng phát dịch bệnh, nhưng vẫn chưa tận dụng chúng bằng phân tích dữ liệu lớn. Đã đến lúc xác định các yếu tố kích hoạt để dự báo sớm tình trạng dịch bệnh. Các nhà máy chế biến cần đóng vai trò trụ cột bằng cách liên tục thu mua tôm từ nông dân, cấp đông và lưu trữ. Điều này giúp giảm thiểu biến động giá trên thị trường quốc tế, mang lại sự ổn định cho người nuôi, khuyến khích họ sản xuất quanh năm, từ đó cải thiện khả năng dự báo nguồn cung của mỗi quốc gia. Châu Á cũng cần tận dụng lợi thế về khoảng cách, không chỉ hướng đến Trung Quốc mà còn toàn bộ khu vực như những thị trường thay thế tiềm năng. 2025 sẽ đánh dấu một năm áp dụng thuế chống bán phá giá (AD) và thuế chống trợ cấp (CVD) của Mỹ đối với tôm nhập khẩu. Liệu Trung Quốc tận dụng các quốc gia Đông Nam Á làm cơ sở sản xuất nhằm mục đích “thay đổi xuất xứ “ có mang lại lợi ích cho ngành hay không? Câu trả lời vẫn chưa rõ ràng, nhưng điều này có khả năng làm thay đổi thứ hạng của các quốc gia xuất khẩu hàng đầu.
Nhìn về tương lai, ngành tôm đang đứng trước một ngã rẽ quan trọng. Lượng tồn kho ở trang trại thấp cùng với nguồn cung toàn cầu giảm giúp duy trì phần nào ổn định giá, nhưng triển vọng sắp tới sẽ phụ thuộc vào sự phục hồi của nhu cầu. Các nhà sản xuất sẽ tiếp tục điều chỉnh chiến lược, cân đối chi phí và thích ứng với thị hiếu người mua đang thay đổi. Sự kiên cường và linh hoạt vẫn là yếu tố then chốt để vượt qua thách thức và nắm bắt cơ hội trong năm 2025. Tuấn Minh
Nghệ An Ngư dân “trúng” mùa cá trích sớm
Ngư dân tại các làng biển huyện Diễn Châu (Nghệ An) đang bước vào mùa khai thác cá trích với sản lượng khả quan. Tại vùng lộng, cách bờ từ 3 - 7 km, mỗi chuyến ra khơi, một bè mảng có thể thu về từ hơn 1 tạ đến gần 3 tạ cá trích. Giá cá trích tươi tại bãi biển dao động từ 22.000 - 30.000 đồng/kg, giúp ngư dân sau khi trừ chi phí có thể thu nhập từ 1 - 3 triệu đồng/ngày. Sản lượng đầu mùa ổn định hứa hẹn một vụ cá trích bội thu, đặc biệt khi bước vào chính vụ từ giữa tháng 3.
Đà Nẵng
Mất mùa ruốc biển, giá tăng nhưng khan hiếm
Mùa ruốc biển tại Đà Nẵng thường bắt đầu từ cuối tháng 2 và kéo dài đến tháng 4, nhưng năm nay sản lượng giảm mạnh, khiến nhiều tàu cá trở về với khoang trống. Dù ra khơi xuyên đêm, lượng ruốc đánh bắt được rất ít, trong khi chi phí xăng dầu và bảo dưỡng tàu thuyền vẫn tăng cao, gây nhiều khó khăn cho ngư dân. Nguồn cung khan hiếm khiến giá ruốc tăng lên 50.000 - 70.000 đồng/kg, nhưng thị trường vẫn khát hàng.
Bình Định Nhộn nhịp mùa câu cá ngừ đại dương
Những ngày qua, nhiều tàu câu cá ngừ đại dương tại Bình Định tấp nập cập cảng, mang về sản lượng lớn sau chuyến biển đầu năm. Đáng chú ý, giá cá ngừ hiện tăng hơn 5 giá so với trước Tết, đạt gần 100.000 đồng/kg, giúp nhiều tàu có lãi cao ngay từ đầu vụ. Tuy nhiên, theo ban quản lý cảng cá, số tàu đạt sản lượng từ 1,5 - 2 tấn trở lên không nhiều như năm ngoái, do con nước thay đổi khiến cá di chuyển xa hơn. Dù vậy, ngư dân vẫn lạc quan, nhanh chóng chuẩn bị nhiên liệu và nhu yếu phẩm để tiếp tục ra khơi, kỳ vọng những chuyến biển sau sẽ bội thu.
Phú Yên
Được mùa cá cơm
Những ngày gần đây, ngư dân Phú Yên liên tục trúng đậm cá cơm, với sản lượng đánh bắt dao động từ 2 - 3 tấn mỗi chuyến biển, thậm chí có tàu thu về 5 - 7 tấn sau một đêm khai thác. Với giá bán từ 12.00015.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí, mỗi tàu có thể lãi từ 20 - 40 triệu đồng. Theo ngư dân, cá cơm xuất hiện dày đặc tại vùng biển cách bờ 2 - 5 hải lý trong khoảng 10 ngày qua.
Bà Rịa – Vũng Tàu
Hải sản rớt giá, ngư dân lao đao
Những ngày qua, các cảng cá tại Bà Rịa – Vũng Tàu tấp nập tàu thuyền trở về sau chuyến biển đầu năm, nhưng niềm vui trúng mùa không trọn vẹn khi giá hải sản giảm mạnh. Dù sản lượng đánh bắt vẫn ổn định, giá bán lại sụt giảm đáng kể, với mức giảm khoảng 15.000 đồng/kg so với tuần trước.
Bến Tre
Giá tôm nguyên liệu tăng mạnh
Tại Bến Tre, giá tôm nguyên liệu, bao gồm TTCT và tôm sú, đang tăng cao, dao động từ 180.000 - 210.000 đồng/kg (loại 25 - 30 con/kg), gần gấp đôi so với cùng kỳ năm trước. Theo các thương lái, nhu cầu tiêu thụ trong nước đang tăng, trong khi các nhà máy đẩy mạnh thu mua để đáp ứng đơn hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, do đang trong giai đoạn nghịch vụ, sản lượng tôm giảm, nguồn cung hạn chế đã đẩy giá thu mua lên mức cao.
Hậu Giang
Giá lươn giống tăng do nguồn cung khan hiếm
Tại Hậu Giang, nhiều hộ chuyên sản xuất và cung ứng lươn giống cho biết giá lươn giống đang duy trì ở mức cao do nguồn cung hạn chế. Thời điểm từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau, lươn giống mẹ ít sinh sản, khiến lượng lươn con giảm đáng kể. Hiện giá lươn giống cỡ nhỏ (bằng tim nhang) dao động từ 1.500 - 1.700 đồng/con, trong khi loại lớn hơn (bằng đầu đũa ăn) có giá cao hơn. So với giai đoạn cao điểm sinh sản từ tháng 5 đến tháng 11, giá lươn giống hiện tăng trung bình 500 đồng/con.
Bạc Liêu
Giá tôm nguyên liệu phục hồi
Sau thời gian dài giảm sâu, giá tôm nguyên liệu tại Bạc Liêu đang dần phục hồi, tạo động lực cho người nuôi bước vào vụ mới. Hiện giá TTCT và tôm sú đã tăng từ 5.000 - 10.000 đồng/kg. Cụ thể, TTCT kiểm kháng sinh, dập đá ao bạt loại 30 con/kg được thương lái thu mua với giá 185.000 - 188.000 đồng/kg, loại 40 con/kg có giá 145.000 đồng/ kg, còn loại 90 con/kg ở mức 98.000 đồng/kg.
Kiên Giang
Giá ếch thịt giảm, ếch giống hút hàng
Tại Kiên Giang, sau thời gian duy trì ở mức cao, giá ếch thịt nuôi đã giảm 4.000 - 5.000 đồng/kg so với hơn một tháng trước, nhưng vẫn tương đương cùng kỳ năm ngoái. Hiện, ếch thịt loại nhất (cỡ 3 - 4 con/ kg) được thương lái thu mua với giá 57.000 đồng/kg, trong khi loại nhì (cỡ 5 - 6 con/kg) có giá 50.000 đồng/kg. Trong khi đó, tại các chợ, giá ếch nuôi bán lẻ dao động từ 90.000 - 110.000 đồng/kg, tùy vào việc làm sạch hay bán nguyên con.
Tín hiệu khởi sắc cho ngành tôm Kiên Giang
Sau một năm giá tôm xuống thấp, những tháng cuối năm 2024 và đầu năm 2025, thị trường tôm nguyên liệu tại Kiên Giang dần phục hồi, tạo động lực cho nông dân tiếp tục thả nuôi vụ mới. Theo ghi nhận, nhu cầu thu mua tôm phục vụ xuất khẩu và tiêu thụ dịp Tết Nguyên đán tăng mạnh, đẩy giá tôm lên cao. Tại khu vực Kiên Lương, TP Hà Tiên, tôm TTCT loại 100 con/kg được thu mua với giá 95.000 - 100.000 đồng/kg, loại 40 - 50 con/kg đạt 140.000 -145.000 đồng/kg. Đặc biệt, tôm ôxy phục vụ thị trường phía Bắc và Campuchia có giá cao hơn 10% so với giá thu mua của nhà máy, giúp người nuôi có lãi.
Lan Khuê
Mỹ
Nhiều hải sản đạt giá trị khai thác cao
Theo dữ liệu mới từ Sở tài nguyên biển Maine (DMR), tổng giá trị sản lượng khai thác thủy sản của Maine đạt 709.509.984 USD trong năm 2024, tăng 74 triệu USD so với năm 2023. Thống đốc bang Janet Mills cho biết, nhờ mức giá tôm hùm đạt 6,14 USD / pound, dù tổng sản lượng đánh bắt giảm hơn 10 triệu pound, ngư dân Maine vẫn thu về 528.421.645 USD. Mặt hàng có giá trị cao thứ hai là ngao vỏ mềm, đạt 15.461.017 USD. Dù mức tăng khiêm tốn hơn, Ủy viên DMR Patrick Keliher lưu ý rằng, nhiều dự án đã được triển khai vào năm 2024 nhằm cải thiện công tác quản lý nguồn tài nguyên này. Các loài hải sản khác cũng đạt trị giá cao, bao gồm hàu (14.852.101 USD), cá menhaden – loại mồi câu tôm hùm phổ biến (13.203.602 USD), và cá kình con Maine (12.201.545 USD).
Nhật Bản Giá cá ngừ vây xanh tươi tăng 37% do nguồn cung
khan hiếm
Giá bán buôn cá ngừ vây xanh tươi, nguyên liệu chính phục vụ các nhà hàng sushi cao cấp, đang tăng mạnh tại chợ Toyosu, Tokyo do nguồn cung khan hiếm. Trong tuần 9 (24/2-2/3), giá bán buôn các loại cá ngừ vây xanh nội địa chất lượng cao, kích cỡ trên 30kg đã chạm mốc 10.980 JPY/kg (74,52 Usd/kg), tăng 37% so với tuần trước. Lần đầu tiên giá sản phẩm này vượt mức 10.000 JPY/kg chỉ trong vòng 2 tuần mà nguyên nhân chính do nguồn cung biến động. Theo bản quản lý chợ Toyosu, lượng cá ngừ vây xanh đổ về chợ giảm 18% so với hai tuần trước, còn 26 tấn. Tính riêng lẻ, mỗi ngày chợ Toyosu tiếp nhận xấp xỉ 60 con cá, giảm 42%. Các loại cá cỡ lớn trên 100kg từ Shizouka có giá lên đến 13.500 JPY/kg vào ngày 27/2, theo sau là cá ngừ Chiba giá 13.000 JPY/kg. Ngược lại, giá cá ngừ vây xanh đông lạnh lại giảm mạnh, riêng các mặt hàng cao cấp hạ giá 20% so với tuần trước, còn 4.464 JPY/kg.
Indonesia
Giá tôm thẻ tăng nhẹ
Trong tuần 9 (24/2-2/3), tôm thẻ Indonesia đón nhận một đợt tăng giá mới đối với tất cả các kích cỡ. Theo dữ liệu từ nền tảng công nghệ nuôi tôm Jala, giá tôm các loại 30, 40, 50 và 60 con/kg lần lượt tăng nhẹ lên các mức 74.000 IDR/kg (4,52 USD); 69.600 IDR/kg (4,26 USD); 65.000 IDR/kg (3,98 USD) và 61.800 IDR/ kg (3,78 USD). Ngoài ra, tôm cỡ nhỏ 70, 80, 90 và 100 con/kg cũng tăng giá nhẹ, lần lượt đạt mức 60.000 IDR/kg (3,67 USD); 55.700 IDR/kg (3,40 USD); 53.500 IDR/kg (3,29 USD) và 52.800 IDR/kg (3,23 USD). Dữ liệu theo từng tháng cho thấy giá tôm thẻ tại Indonesia bắt đầu tăng từ tháng 1/2025 với hầu hết các kích cỡ. Hiện, giá tôm thẻ cổng trại loại 60 con/kg của Indonesia đang đứng vị trí thứ 5 trên thế giới, sau tôm Thái Lan (5,21 USD/kg); Trung Quốc (4,82 USD/kg), Việt Nam (4,60 USD/kg) và Ấn Độ (3,98 USD/kg).
Trung Quốc Cá rô phi “nặng gánh” thuế tại Mỹ
Theo Cơ quan Hải quan và Bảo vệ Biên giới Hoa Kỳ (CBP), quy định thuế bổ sung 10%, nâng tổng thuế suất lên 35%, được áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc kể từ ngày 4/2/2024. CBP khuyến nghị, để đủ điều kiện miễn thuế, hàng hóa phải nhập khẩu vào Mỹ trước ngày 7/3. Sau đó, vào ngày 4/3, Trung Quốc sẽ bị áp thuế bổ sung 10%, Tổng thống Trump tuyên bố vào ngày 27/2, nâng mức thuế đối với các sản phẩm cá rô phi nhập khẩu từ Trung Quốc lên 45%. Một hãng xuất khẩu rô phi tại Quảng Đông chia sẻ, nhà máy đã tạm dừng hoạt động vào giữa tháng 2 và đang tìm nguồn cung rô phi nguyên liệu. Công ty này cũng dự đoán 2025 sẽ là một năm chồng chất khó khăn với ngành rô phi của Trung Quốc khi giá sản phẩm này sẽ bị đẩy lên cao tại thị trường Mỹ và đối diện nguy cơ mất nhiều khách hàng truyền thống. Hải quan Trung Quốc cho biết, lượng rô phi sang Mỹ đạt 123.000 tấn vào năm 2024 với giá bán trung bình 3.384 USD/tấn tăng so mức 107.000 tấn của năm 2023 và giá 2.846 USD/tấn.
Châu Âu
Giá cá bơn tiếp tục tăng vọt
Theo dữ liệu tại các chợ đấu giá thủy sản châu Âu, giá cá bơn cỡ 41 - 80cm trong tuần 8 (21-23/2) đã tăng vọt so với tuần trước lên 4,23 EUR/kg (4,44 USD). Tuy nhiên, mức giá này vẫn thấp hơn 21% so với cùng kỳ năm ngoái. Các các loại cá bơn cỡ nhỏ hơn, gồm kích cỡ 3541cm và 31 - 35cm cũng tăng giá lần lượt lên 3,53 EUR/kg và 3,27 EUR/ kg, cao hơn mức giá tuần trước đó 3,15 EUR/kg và 2,86 EUR/kg; mặc dù thấp hơn so mức giá 4,15 EUR/kg và 3,55 EUR/kg của cùng kỳ năm ngoái. Giá các loại cá bơn cỡ nhỏ nhất 27-31cm cũng tăng so với tuần trước, đạt 2,19 EUR/kg với sản lượng khai thác kỷ lục 15,7 tấn trong tuần 8, tăng 50% so cùng kỳ. Chỉ có duy nhất mặt hàng cá bơn bỏ ruột, ướp lạnh, kích cỡ 33 - 38cm vẫn duy trì giá ổn định so với tuần trước, đạt 22,57 EUR/kg, giảm 8% so cùng kỳ năm ngoái.
Thái Lan
Giá tôm thẻ chạm mức cao nhất trong hai năm qua
Giá tôm thẻ tại Thái Lan đang tăng mạnh trong tuần 8 (17-23/2) và đạt mốc cao nhất trong vòng hai năm qua, theo dữ liệu của Talay Thai. Cụ thể, giá tôm thẻ cỡ 60 con/kg đã vọt lên 175 THB/kg (5,21 USD); trong khi tôm thẻ cỡ 80 con/kg lập kỷ lục 152,5 THB/kg (4,54 USD).
Riêng tôm cỡ 70 con/kg vẫn duy trì giá tương đương tuần trước, 170 THB/kg (5.06 USD). Diễn biến này cho thấy xu hướng tăng giá ổn định trong hai tuần qua của tôm thẻ xuất xứ Thái Lan trên thị trường quốc tế. Trong khi đó, giá tôm thẻ cỡ 60 con/kg của Trung Quốc vẫn thấp hơn Thái Lan, đạt 4,82 USD/kg. Tôm thẻ xuất xứ Việt Nam cũng tăng nhẹ lên mức 4,06 USD/kg, cũng đứng sau Thái Lan. Tôm thẻ Ecuador vẫn duy trì mức thấp nhất, chỉ 3,40 USD/kg. Tuấn Minh
Ngày 26/02/2025, tại trung tâm TP. Long Xuyên, An Giang, New Hope Vĩnh Long đã long trọng tổ chức Hội nghị giới thiệu sản phẩm “Thức ăn công năng cao cấp – FH68, FH88, FB32, FB44”.
Tham dự hội nghị có ông Câu Nguyên Hoa – Tổng giám đốc miền nam Việt Nam (Tập đoàn New Hope), ông Vạn Tiến – Tổng giám đốc New Hope Vĩnh Long cùng gần 250 đại biểu, khách mời.
Phát biểu khai mạc Hội nghị, ông Câu Nguyên Hoa – Tổng giám đốc miền nam Việt Nam (Tập đoàn New Hope) cho biết, Tập đoàn New Hope thành lập vào năm 1982, do ông Lưu Vĩnh Hảo sáng lập, là doanh nghiệp tư nhân tiên phong cùng với sự cải cách mở cửa và tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc. Trải qua hơn 40 năm hình thành và phát triển, New Hope đã nắm giữ vị trí số 1 thế giới về sản xuất thức ăn chăn nuôi với tổng sản lượng 2023 đạt trên 28,7 triệu tấn. Công ty kinh doanh trên cả nước Trung Quốc và hơn 20 quốc gia như Việt Nam, Philippines, Bangladesh, Indonesia, Campuchia, Sri Lanka, Singapore, Ai Cập…
Riêng tại Việt Nam có 10 Công ty sản xuất thức ăn chăn nuôi và 4 trại nuôi đã đi vào hoạt động từ Bắc đến Nam. Tập đoàn New Hope lấy việc “phát huy tài năng trẻ, hội nhập hóa, quốc tế hóa, sáng tạo và đổi mới công nghệ” làm động lực quan trọng cho sự phát triển, cơ chế hợp tác sáng tạo, tăng cường hóa khoa học kỹ thuật, nắm bắt cơ hội thị trường, mở ra một khởi đầu mới cho một thời đại trong công cuộc cải cách sâu rộng, đạt đến sự chuyển đổi và phát triển cao hơn.
New Hope Vĩnh Long luôn cố gắng để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, lấy khoa học kỹ thuật làm gốc, chất lượng là sinh mệnh, kiên trì theo đuổi và sản xuất ra những sản phẩm ngày càng hoàn hảo hơn. Thành công của khách hàng chính là niềm hạnh phúc to lớn đối với New Hope Vĩnh Long. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự tín nhiệm của khách hàng đã luôn tin tưởng, ủng hộ, đồng hành cùng New Hope trong suốt thời gian qua. Chúc cho New Hope Vĩnh Long cùng bà con có thật nhiều vụ mùa bội thu hơn nữa – ông Vạn Tiến, Tổng giám đốc New Hope Vĩnh Long chia sẻ.
Ông Tạ Cương và ông Triệu Bằng Phi – Giám đốc công thức đã luân phiên giới thiệu những đặc điểm, công dụng nổi bật của sản phẩm thức ăn công năng cao cấp FH68, FH88, FB32, FB44 cho quý đại lý và bà con nông dân. “Thức ăn công năng cao cấp FH68, FH88, FB32, FB44 với công thức ưu việt, luôn được cân đối dinh dưỡng toàn diện, bảo đảm cá phát triển nhanh, đáp ứng tốt nhu cầu dinh dưỡng theo từng giai đoạn, rút ngắn chu kỳ nuôi. Ngoài ra, 4 dòng sản phẩm này còn được bổ sung Hoạt Chất Công Năng đặc biệt, giúp cá tăng tỷ lệ sống, tăng cường khả năng hấp thu, củng cố hệ miễn dịch, cá khỏe, hệ số thức ăn thấp, hiệu quả nuôi trồng tối ưu, đem lại sự an tâm cho khách hàng.
Sau khi được tìm hiểu rõ ràng về sản phẩm, quý bà con cũng đã đưa ra lựa chọn tin tưởng và tiến hành đặt hàng, cũng như mang về cho mình những giải thưởng vô cùng hấp dẫn như: bộ chén đĩa Minh Long, túi Lộc 5 phân vàng 9999, đồng hồ Tissot, Macbook Air và đặc biệt là Iphone 16 promax 256 gb.
Bế mạc Hội nghị, ông Cao Phước Nhơn –
Giám đốc kinh doanh Bộ phận cá New Hope Vĩnh Long một lần nữa bày tỏ sự trân trọng và lời cảm ơn chân thành nhất đến quý đại lý và bà con đã luôn tin tưởng, đồng hành cùng New Hope Vĩnh Long trong suốt một chặng đường dài cũng như sắp tới. Chúc cho sự hợp tác giữa New Hope Vĩnh Long và quý khách hàng luôn bền chặt, cùng nhau phát triển và gặt hái ngày càng nhiều thành công hơn.
và dịch vụ chất lượng
cao
đến khách hàng!
Với hơn nhiều năm kinh
nghiệm trong lĩnh vực
cung cấp nguyên liệu
phục vụ cho nuôi trồng
thủy sản, công ty CP
BQ&Q đã khẳng định vị
thế là một trong những
doanh nghiệp cung cấp
nguyên liệu cho nuôi
trồng thủy sản hàng đầu
tại Việt Nam với các sản
phẩm chất lượng cao, ổn
định và lâu dài, hướng
tới mục tiêu an toàn
và thân thiện với môi
trường. Tính bền vững
đã trở thành một kỷ luật
kinh doanh quan trọng
đối với tương lai và sự
phát triển của BQ&Q.
Thông tin liên hệ:
Địa chỉ: H75, Khu Dân
Cư Thới An, Đường Lê Thị Riêng, Phường Thới An, Quận 12, thành phố
Mục tiêu
Cung cấp những sản phẩm và
dịch vụ chất lượng cao, đổi mới không ngừng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Phát triển các sản phẩm mới, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất, mục tiêu phát triển theo xu hướng sản xuất nông nghiệp bền vững.
Củng cố mối quan hệ hợp tác với các đối tác trong và ngoài nước.
Điểm mạnh
Đội ngũ: Sở hữu đội ngũ nhân
viên chuyên nghiệp, nhiệt huyết, giàu kinh nghiệm.
Sản phẩm đa dạng: Cung cấp đa dạng các sản phẩm chất
lượng cao, đáp ứng mọi nhu cầu
của khách hàng.
Đối tác uy tín: Hợp tác với các
đối tác lớn, uy tín trên thế giới,
đảm bảo nguồn cung ổn định và
chất lượng sản phẩm.
Cam kết chất lượng: Luôn đặt
chất lượng sản phẩm lên hàng
đầu, không ngừng cải tiến quy trình sản xuất và dịch vụ.
Tính bền vững: Hướng tới phát triển bền vững, bảo vệ môi trường và cộng đồng.
Chúng tôi chuyên cung cấp các sản phẩm chất lượng cao, bao gồm:
Yucca: Dạng bột, dạng lỏng, được sử dụng rộng rãi trong chăn nuôi để cải thiện chất lượng phân, giảm mùi hôi và tăng hiệu quả sử dụng thức ăn.
Vi sinh và Enzyme: Giúp cải thiện hệ tiêu hóa cho vật nuôi, tăng cường sức đề kháng và thúc đẩy tăng trưởng.
Thảo dược: Đa dạng các loại thảo dược tự nhiên, hỗ trợ điều trị và phòng bệnh cho vật nuôi.
Chất dinh dưỡng bổ sung: Vitamin, khoáng chất, axit amin... giúp bổ sung dinh dưỡng cần thiết cho vật nuôi.
Hóa chất xử lý nước: Sử dụng trong các hệ thống xử lý nước thải
và nước nuôi trồng thủy sản.
Với vai trò là đối tác phân phối tin cậy của các thương hiệu quốc tế, Công ty CP BQ&Q đã mang đến cho thị trường Việt Nam nhiều sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Các đối tác của chúng tôi gồm:
- Tập đoàn Kemira - Phần Lan
- Sonac - Hà Lan
- Novabay - Pháp
- Oceana - Brazil
- Tập đoàn Nouryon - Hà Lan
- BAJA AGRO INTERNATIONAL. SA.DE.C.V. - Mexico
- SCI - Hàn Quốc
- TEX BioScien - Ấn Độ
Thị trường
Sản phẩm của BQ&Q được phân phối rộng rãi trên toàn quốc, đáp ứng nhu cầu đa dạng cho thị trường.
WMW EXIM
trồng
Trong bối cảnh ngành thủy sản Việt Nam đang
chuyển mình mạnh mẽ, WMW EXIM mang đến những sản phẩm và giải pháp đổi mới trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi tôm. Chúng tôi cam kết cung cấp những sản phẩm chất lượng cao với giá thành hợp lý, đặt khách hàng lên hàng đầu và luôn đổi mới để phù hợp với xu hướng thị trường.
dòng đơn và đa chủng), giúp nâng cao hiệu quả nuôi trồng
mà không gây tác động tiêu
cực đến hệ sinh thái.
Đặc biệt, WMW EXIM chuyên biệt trong các sản phẩm có nguồn gốc từ thảo dược thiên nhiên, được phát triển dựa trên công nghệ tiêu chuẩn châu Âu và nguyên liệu thực vật tuyển
chọn từ Trung Quốc. Những
Sứ mệnh của chúng tôi
WMW EXIM không chỉ cung
cấp sản phẩm, mà còn hướng tới giá trị bền vững cho người nuôi. Chúng tôi mong muốn giúp các hộ nuôi tối ưu hóa hiệu quả đầu tư, nâng cao giá trị và uy tín tôm
Việt Nam trên thị trường quốc tế. Chúng tôi tin rằng, với những đổi
mới đúng hướng và sản phẩm chất lượng, ngành thủy sản Việt
Nam sẽ phát triển bên vững và mang lại lãi suất đáng kể cho
người nuôi.
Hợp tác toàn cầu - sáng tạo giải pháp
WMW EXIM tự hào về mạng
lưới đối tác quốc tế đầy uy tín, hỗ trợ chúng tôi trong việc phân phối những sản phẩm đầy tiềm
năng và giải pháp tích hợp cho
người nuôi. Chúng tôi không chỉ
tập trung vào cung ứng, mà còn
đầu tư mạnh mẽ vào nghiên cứu và phát triển, nhằm đưa ra những
sản phẩm đầy tiềm năng và phù
hợp với xu hướng thị trường.
Giải pháp sinh học - tương lai
của nuôi trồng bền vững
Một thách thức lớn trong
ngành nuôi trồng thủy sản tại
Việt Nam hiện nay là sự phụ
thuộc quá mức vào kháng sinh.
WMW EXIM chủ động giải
quyết vấn đề này bằng cách
giới thiệu các giải pháp sinh
học an toàn và thân thiện với
môi trường. Chúng tôi cung
cấp các sản phẩm Enzyme và
Probiotic tiên tiến (bao gồm cả
giải pháp này không chỉ giúp giảm thiểu sự phụ thuộc vào kháng sinh mà còn cải thiện chất lượng sản phẩm đầu ra, tối ưu hóa hiệu suất nuôi và đảm bảo tính bền vững của ngành thủy sản.
Đội ngũ tận tâm - định hướng
tương lai
Thành công của WMW EXIM không chỉ đến từ chất lượng sản
phẩm mà còn nhờ vào đội ngũ
nhân sự đầy nhiệt huyết và có
tầm nhìn xa. Chúng tôi không
ngừng học hỏi, sáng tạo và cải tiến để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Với phương châm “Đồng hành cùng người nuôi - Kiến tạo tương lai bền vững”, WMW EXIM không chỉ hướng đến trở thành một đơn vị nhập khẩu và phân phối hàng đầu tại Việt Nam mà còn là một đối tác đáng tin cậy trong ngành nuôi trồng thủy sản bền vững. Trong tương lai, WMW EXIM sẽ tiếp tục mở rộng danh mục sản phẩm, đầu tư mạnh mẽ vào công nghệ và phát triển thêm nhiều giải pháp tối ưu, giúp nâng cao vị thế của thủy sản Việt Nam trên bản đồ thế giới. Chúng tôi tin rằng, sự đổi mới không ngừng sẽ mang lại thành công bền vững cho cả doanh nghiệp và cộng đồng nuôi trồng thủy sản. WMW
Thông tin liên hệ: CÔNG TY TNHH XUẤT NHẬP KHẨU WMW (WMW IMPORT AND EXPORT COMPANY LIMITED) Số 36 Mạc Đĩnh Chi, Phường Đa Kao, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam MST: 0317696308 - 0898000008
Gieo chất lượng
- gặt thành công
Seven Hills là nhà phân phối độc quyền tại
Việt Nam của Tập đoàn thuốc và thức ăn bổ sung thủy sản Lexington, có nhà máy tọa lạc ở Singapore và văn phòng đại diện tại Tp. Hồ Chí Minh. Các phân khúc sản phẩm tập trung bao gồm: 1) Quản lý môi trường nước ao nuôi; 2) An toàn sinh học; 3) Chống stress; 4) Tăng cường hệ miễn dịch; 5) Dinh dưỡng bổ sung tổng hợp, tăng cường hấp thu và thúc đẩy tăng trưởng trên tôm/cá.
Hiện tại Seven Hills đã và đang phân phối các dòng sản phẩm được phản hồi tích cực về hiệu quả trên ao nuôi thực tế, giúp gặt hái liên tiếp nhiều vụ nuôi thành công trong thời gian vừa qua cho bà con vùng nuôi. Tiêu biểu như là men vi sinh Prolot Aqua, mật độ cao trên 10^10 cfu, bao gồm 9 loài probiotics khác nhau giúp xử lý ao nuôi hiệu quả. Đưa ao nuôi có mức NO2/NO3 mức 5 về 0 chỉ trong 1 nhịp đánh sau 1 ngày nhờ bộ đôi vi sinh Nitrosomonas và Nitrobacter. Men vi sinh thể hệ mới Virban, giúp tiêu diệt > 95% vi khuẩn gây bệnh vibrio trong ao tôm, giúp ao nuôi trở nên an toàn về mặt sinh học, tiếp cận an toàn để thay thế các chất sát khuẩn và kháng sinh, phòng và kiểm soát hiệu quả các bệnh như hội chứng chết sớm/hoại tử gan tụy cấp, phân trắng, phát sáng, TPD... trên tôm gây ra bởi Vibriosis, giữ cho ao nuôi được sạch, hết nhớt, tôm khỏe mạnh. Cả hai loại men trên đều có khả năng hoạt động tốt trong điều kiện thời tiết lạnh (>15 độ C), rộng độ mặn (3-45 ‰) và pH (5-9), được tuyển chọn và phân lập trực tiếp trong ao nuôi thủy sản, giúp chúng kích hoạt nhanh chóng khi tiếp xúc với nước ao nuôi. Dinh dưỡng bổ sung tổng hợp Aqua
GP giúp bù đắp các thông số dinh dưỡng thiếu hụt trong quá trình nuôi như khoáng đa lượng/vi lượng, vitamins, men vi sinh đường ruột và hai amino acid vô cùng quan trọng Methionin và Lysin giúp bảo vệ hệ gan và tăng hấp thu đạm từ thức ăn hiệu quả hơn, từ đó giúp tôm, cá tăng trưởng nhanh, đồng đều về kích cỡ, phòng tránh được các bệnh do thiếu hụt dinh dưỡng thiết yếu gây ra. Đặc biệt, Aqua GP giúp tôm lột xác mạnh, đồng đều về kích cỡ, hết cong thân – đục cơ – mềm vỏ. Khoáng tạt Aquimin Shrimp, hàm lượng khoáng cao, pha trộn tỷ lệ cân bằng, tôm dễ dàng hấp thụ qua vỏ để lột xác hiệu quả, ổn định độ kiềm trong ao. Algacop giúp kiểm soát tảo độc gây hại trong ao nuôi, đồng thời tiêu diệt ngoại ký sinh trùng giúp tôm, cá khỏe mạnh.. Ngoài ra, tập đoàn Lexington còn sản xuất thêm các sản phẩm thảo dược giúp bảo vệ gan như Optiliv, chống stress Lex Aqua C hay tăng cường hệ miễn dịch Immuno Force, khoáng hữu cơ Chelmin Aqua và men tiêu hóa Liquizym Aqua đang được triển khai tại thị trường Việt Nam nói riêng và các khu vực Đông Nam Á nói chung. Để tiếp đà mở rộng và phát triển trong năm 2025, Seven Hills đang tiến hành tuyển dụng nhân sự cùng đồng hành trong việc xây dựng thương hiệu trong nước với các vị trí từ tư vấn viên thị trường đến nhân sự cấp cao trong đội
ngũ quản lý, chấp nhận những nhân tố trẻ, chưa kinh nghiệm sẽ được đào tạo bày bản theo quy trình. Mọi chi tiết về vị trí tuyển dụng, xin vui lòng liên hệ hotline 0906327096 hoặc gửi thông tin về email bdm@sevenhillstrading. net, sales@sevenhillstrading.net
Lời kết, Seven Hills xin gửi lời cảm ơn đến Quý khách hàng đã ủng hộ và tin dùng sản phẩm của công ty trong thời gian qua. Seven Hills cam kết luôn luôn giữ vững niềm tin: “chất lượng thay lời nói” tới tất cả khách hàng, cho vụ nuôi thành công và bền vững.
Seven Hills
Niềm
tin từ chất lượng
Công ty TNHH KTCN Khoa Học Xanh tự hào là đơn vị nhập khẩu và phân phối chế phẩm sinh học, yucca, dinh dưỡng, khoáng, phụ gia, hóa chất, hàng đầu Việt Nam.
Với sự phát triển của khoa học công nghệ, việc ứng dụng công nghệ vi sinh, chế phẩm sinh học vào trong nông nghiệp, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản đang trở thành xu thế tất yếu. Tuy nhiên, điều mà bà con nông dân, người chăn nuôi trăn trở là làm thế nào để có thể sử dụng những sản phẩm chất lượng, đảm bảo an toàn và mang lại hiệu quả cao.
Thấu hiểu được tâm tư, nguyện vọng của những người làm nông nghiệp Việt Nam, Công ty TNHH KTCN Khoa Học Xanh ra đời với sứ mệnh mang đến những nguồn nguyên liệu chất lượng nhất cho ngành công – nông nghiệp nói chung và ngành thủy sản nói riêng.
Tuân theo sứ mệnh ấy, Khoa Học Xanh luôn tìm kiếm, sàng lọc kỹ lưỡng để chọn ra những sản phẩm tốt nhất từ các đối tác nhập khẩu uy tín đến từ Pháp, Mỹ, Italia, Ấn Độ, Mexico, Đức, Nhật, Hà Lan, Trung Quốc...
Các mặt hàng nguyên liệu nhập khẩu của Khoa Học Xanh như vi sinh - chế phẩm sinh học, yucca, dinh dưỡng, khoáng, phụ gia, hóa chất... được nghiên cứu kỹ lưỡng bởi đội ngũ chuyên gia vi sinh, công nghệ sinh học hàng đầu thế giới, đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn trong nước và quốc tế. Các sản phẩm trước khi đưa ra thị trường đều trải qua quy trình định nghiêm ngặt, đảm bảo an toàn, chất lượng và mang lại hiệu quả cao trong quá trình sử dụng. Công ty TNHH KTCN Khoa Học Xanh cam kết luôn mang đến cho bà con, nhà chăn nuôi, quý khách hàng những chế phẩm sinh học chất lượng, giá thành phải chăng, đội ngũ chuyên gia, nhân viên tư vấn tận tình, chu đáo. Công ty tự hào là người bạn đồng hành của bà con trong
suốt quá trình sản xuất, đưa ra phương án nuôi trồng hiệu quả, cho năng suất cao, hạn chế tối đa những rủi ro không mong muốn.
Nhờ sự tận tâm và cam kết mạnh, các chế phẩm sinh học do Khoa Học Xanh cung cấp luôn được quý khách hàng tin tưởng, sử dụng; giúp tăng năng suất, giảm chi phí giá thành, đem lại hiệu quả kinh tế vượt trội cho bà con nông dân và người chăn nuôi.
Bên cạnh đó, Khoa Học Xanh luôn nêu cao trách nhiệm của mình với môi trường và cộng đồng thông qua các giải pháp kinh doanh góp phần bảo vệ môi trường sống. Trong quá trình làm việc, công ty luôn chủ động tìm hiểu nhu cầu của bà con để phản hồi kịp thời, nhanh chóng, tạo sự an tâm tuyệt đối.
Hiện nay trên thị trường có rất nhiều đơn vị cung cấp chế phẩm sinh học, nhưng không phải đơn vị nào cũng uy tín và đáng tin cậy. Nếu bà con đang tìm kiếm các sản phẩm chế phẩm sinh học an toàn, hiệu quả cao trong quá trình sử dụng, hãy đến với Khoa Học Xanh. Các dòng sản phẩm tiêu biểu của công ty hiện nay đang phân phối gồm có:
- LY 234 – Nấm men đậm đặc, chất lượng cao
- OPTIPRO – Men vi sinh đường ruột đậm đặc
- YEAST CELL WALL – Beta-glucan & Mos tăng cường miễn dịch
- TPD CONTROL – Giải pháp ngăn ngừa và kiểm soát bệnh TPD
- BACILLUS LICHENIFORMIS, BACILLUS SUBTILIS …– Vi sinh đơn dòng làm sạch nước, hỗ trợ tiêu hóa
- CYTO - EHP – Giảp pháp hoàn toàn tự nhiên ngăn ngừa EHP
- WIIKONC: Diệt khuẩn an toàn, phổ rộng
- LIVERGUARD PLUS – Giải pháp hỗ trợ cho các vấn đề về gan
- LY 234, ACTIVE FEED DRY YEAST - Nấm men đậm đặc, chất lượng cao
- MIAVITA GOLD – Vitamin tổng hợp, tăng sức đề kháng
Và nhiều mặt hàng khác….
Góp mặt tại VIETSHRIMP 2025
Công ty TNHH KTCN Khoa Học Xanh vinh dự góp mặt tại sự kiện VIETSHRIMP 2025 với chủ đề “Xanh hóa vùng nuôi”. Chủ đề Vietshrimp năm nay cũng là mục tiêu mà Khoa Học Xanh luôn theo đuổi ngay từ khi thành lập.
Với vai trò là doanh nghiệp đồng hành, Khoa Học Xanh mang đến những sản phẩm công nghệ sinh học tiên tiến, được nhập khẩu trực tiếp từ các đối tác uy tín đến từ Pháp, Mỹ, Italia, Ấn Độ, Mexico, Đức, Nhật, Hà Lan, Trung Quốc.... Giúp bà con giải quyết hiệu quả các vấn đề về môi trường nước, dịch bệnh. Tại gian hàng A17+18+19+20, các sản phẩm nổi bật của công ty sẽ được trưng bày cùng rất nhiều tài liệu hữu ích cho người nuôi tôm. Hãy ghé thăm gian hàng của chúng tôi tại VIETSHRIMP 2025.
Thông tin liên hệ: Công ty TNHH KTCN Khoa Học Xanh
Địa chỉ: Lô LF26, đường số 2, Khu công nghiệp Xuyên Á, xã Mỹ Hạnh
Bắc, huyện Đức Hoà, tỉnh Long An Điện thoại: 091616.8200
Email: info@khoahocxanh.com
Khoa Học Xanh
AQUADELTA - Dr.Tom đồng hành cùng Vietshrimp 2025
nuôi trồng thủy sản
Hội chợ Triển lãm
Vietshrimp 2025, diễn ra từ ngày 2628/3/2025, là một trong những sự kiện quan trọng nhất trong ngành thủy sản Việt Nam.
Vietshrimp 2025 hứa hẹn sẽ là một nền tảng lý tưởng cho việc kết nối và hợp tác giữa các bên liên quan, nhằm nâng cao giá trị và phát triển bền vững cho ngành thủy sản nước nhà.
Ngành thủy sản Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức, từ biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường đến sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế. Để vượt qua những khó khăn này, việc áp dụng các giải pháp an toàn sinh học và công nghệ tiên tiến là điều cần thiết. Công ty Cổ phần Công nghệ AQUADELTA - thương hiệu Dr.Tom, tự hào là Nhà tài trợ Vàng của sự kiện, thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc đồng hành cùng sự phát triển bền vững của ngành thủy sản Việt Nam.
Dr.Tom không chỉ nổi tiếng trong lĩnh vực cung cấp các giải pháp nuôi trồng thủy sản
mà còn là một trong những nhà tiên phong trong lĩnh vực
nghiên cứu và phát triển các sản phẩm an toàn sinh học. Với sứ mệnh đem lại giá trị gia tăng
cho người nuôi trồng thủy sản,
Dr.Tom giới thiệu sản phẩm ViCHLORiNE, một giải pháp tiên tiến, nhằm nâng cao hiệu quả trong quy trình nuôi trồng.
Giới thiệu Vi-CHLORiNE
Vi-CHLORiNE là sản phẩm
được phát triển dựa trên những nghiên cứu về an toàn sinh học trong nuôi trồng thủy sản. Sản phẩm không chỉ giúp cải thiện chất lượng nước mà còn giảm
thiểu rủi ro nhiễm bệnh cho tôm
và cá. Khi nước ao nuôi được xử
lý bằng Vi-CHLORiNE, các mầm
bệnh có hại sẽ bị tiêu diệt, giúp tạo ra một môi trường sống an toàn và khỏe mạnh cho động vật thủy sản.
Trong bối cảnh các yếu tố
như ô nhiễm môi trường và biến
đổi khí hậu đang ngày càng gia
tăng, việc tạo ra một môi trường nuôi trồng an toàn và thân thiện với môi trường trở nên cấp thiết
hơn bao giờ hết. Vi-CHLORiNE
không chỉ giúp ổn định hệ sinh thái trong ao nuôi mà còn tối
ưu hóa năng suất và chất lượng
sản phẩm thủy sản. Điều này đặc
biệt quan trọng khi mà người tiêu dùng ngày càng yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm, cũng như an toàn thực phẩm.
Cam kết về an toàn sinh học
Dr.Tom luôn đặt an toàn sinh học lên hàng đầu trong tất cả các sản phẩm và dịch vụ mà mình cung cấp. Việc sử dụng ViCHLORiNE không chỉ là một biện pháp ngắn hạn để xử lý nước mà còn là một phần trong chiến lược dài hạn nhằm nâng cao sức khỏe
và chất lượng của tôm, cá trong quá trình nuôi trồng. Bằng cách
áp dụng các giải pháp an toàn sinh học, người nuôi trồng không chỉ bảo vệ sức khỏe cho động vật mà còn bảo vệ sức khỏe cho chính bản thân mình và người tiêu dùng. Trong khuôn khổ hội chợ Vietshrimp 2025, Dr.Tom sẽ tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề, nơi các chuyên gia sẽ chia sẻ những kiến thức mới nhất về an toàn sinh học, quy trình nuôi trồng và các phương pháp cải thiện năng suất. Những buổi hội thảo này không chỉ giúp nâng cao nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của an toàn sinh học trong nuôi trồng thủy sản mà còn tạo cơ hội cho các doanh nghiệp, nhà khoa học và nông dân kết nối, hợp tác để phát triển bền vững.
Chia sẻ kinh nghiệm thực tế Ngoài việc giới thiệu sản phẩm, Dr.Tom cũng sẽ chia sẻ các trường hợp thành công từ việc ứng dụng Vi-CHLORiNE trong thực tế. Những câu chuyện này sẽ minh chứng cho hiệu quả của sản phẩm, từ đó khuyến khích nhiều
người nuôi trồng áp dụng các giải
pháp an toàn sinh học trong hoạt
động của mình. Các ví dụ cụ thể
sẽ giúp người nuôi trồng hiểu rõ
hơn về cách mà Vi-CHLORiNE có thể cải thiện môi trường nuôi
trồng và nâng cao sản lượng cũng như chất lượng sản phẩm.
Vietshrimp 2025 là cơ hội
để các doanh nghiệp liên quan trong ngành thủy sản có cơ hội
kết nối và hợp tác. Dr.Tom hy vọng rằng, thông qua sự kiện này, họ sẽ tạo dựng được nhiều mối quan hệ hợp tác chiến lược với các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân có cùng tầm nhìn về phát triển bền vững. Việc hợp tác này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả sản xuất mà còn tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng khắt khe của thị trường.
Tầm nhìn về tương lai
Với tầm nhìn xa và những nỗ lực không ngừng nghỉ, AQUADELTA
- Dr.Tom không chỉ mong muốn
khẳng định vị thế của mình trong ngành mà còn đóng góp tích cực vào việc nâng cao chất lượng sản
phẩm thủy sản Việt Nam. Công ty tin rằng, sự phát triển bền vững của
ngành thủy sản không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn bảo vệ môi trường và sức khỏe của cộng đồng. Trong tương lai, Dr.Tom sẽ tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển các sản phẩm mới, đồng thời mở rộng các giải pháp an toàn sinh học để đáp ứng nhu cầu đa dạng của người nuôi trồng. Công ty cũng sẽ chú trọng vào việc đào tạo và nâng cao năng lực cho người nuôi trồng, để họ có thể áp dụng hiệu quả các giải pháp mà
Dr.Tom cung cấp.
Với sự đồng hành của Dr.Tom, người nuôi trồng thủy sản không chỉ có được những sản phẩm chất lượng mà còn được trang bị kiến thức và công cụ cần thiết để đối phó với những thách thức trong ngành. Đây chính là chìa khóa
giúp ngành thủy sản Việt Nam vươn xa hơn, không chỉ trong nước mà còn ra thế giới, khẳng định vị thế là một trong những ngành xuất khẩu hàng đầu của đất nước. Là đơn vị sản xuất, phân phối từ gốc nên mức giá Vi-CHLORiNE do Dr.Tom (thương hiệu chuyên thủy sản, thuộc hệ sinh thái VIETCHEM) cung cấp luôn được khách hàng đánh giá cao về chất lượng, giá thành và dịch vụ sau bán. Sản phẩm của chúng tôi liên tục được stock kho để đảm bảo số lượng hàng hóa, mức giá bán ra tốt nhất trên thị trường. Quý khách đang có nhu cầu mua Vi-CHLORiNE hãy liên hệ ngay cho Dr.Tom qua Hotline 0901071154 để được tư vấn, báo giá nhanh nhất.
Dr.Tom
THÔNG TIN LIÊN HỆ Dr.Tom: Địa chỉ Cần Thơ: Số 50 Lý Thái Tổ, P. Hưng Phú, Q. Cái Răng, TP. Cần Thơ
Hotline: 0901 071 154 - Email: cskh@drtom.vn
Website: dr.tom.vn
Biogency đồng hành cùng
VietShrimp 2025
BIOGENCY là thương
hiệu thuộc Công ty TNHH Đất Hợp được
thành lập từ năm 2003, chuyên cung cấp giải pháp sinh học xử lý môi trường và ao nuôi tôm.
Hiện BIOGENCY đang
là đại diện nhập khẩu
và phân phối chính
thức của thương hiệu
vi sinh của Microbe-lift
Ecological Laboratories
Inc.,(USA).
Với tầm nhìn “Dẫn đầu
về giải pháp xử lý khí
độc (NO2, NH3)” trong
ao nuôi tôm giúp người nuôi
tôm thành công, giảm chi phí,
BIOGENCY mang đến giải pháp
khác biệt và hiệu quả nhờ dòng
sản phẩm Microbe-Lift có thành
phần chứa chủng Nitrosomonas và Nitrobacter.
BIOGENCY cam kết đồng
hành cùng bà con nuôi tôm xử lý tối ưu các vấn đề:
- Xử lý khí độc
- Xử lý nước
- Xử lý đáy
- Men đường ruột
- Cấp cứu tôm nổi đầu
- Cắt tảo
- Tăng sinh khối cho vi sinh vật
BIOGENCY góp mặt tại sự kiện
VIETSHRIMP 2025
Đến với sự kiện VIETSHRIMP
2025, BIOGENCY tham gia với vai trò là doanh nghiệp đồng hành, mang đến giải pháp ứng dụng công nghệ sinh học tiên tiến cho bà con nuôi tôm, được nghiên cứu và phát triển bởi chuyên gia và đội ngũ kỹ thuật BIOGENCY. Với thông điệp “Không thay nước - Giảm nguy cơ EHP”, BIOGENCY chia sẻ cho bà con
giải pháp tối ưu nhất trong mùa vụ nuôi tôm 2025. Điểm nổi bật của Giải pháp chính là quy trình sinh học giảm thay nước, giúp kiểm soát và xử lý môi trường nước hiệu quả từ đó giảm dịch bệnh và tiết kiệm chi phí. Tại gian hàng B39, các sản phẩm được trưng bày sẵn sàng trên kệ, cùng rất nhiều tài liệu hữu ích, phần quà đã được BIOGENCY chuẩn bị. Hãy ghé thăm gian hàng của chúng tôi tại VIETSHRIMP 2025. BIOGENCY
Skretting Việt Nam
Dẫn đầu cung cấp giải pháp
dinh dưỡng bền vững cho
Skretting, tập đoàn toàn cầu hàng
đầu trong lĩnh vực cung cấp giải
pháp dinh dưỡng sáng tạo và bền
vững cho ngành nuôi trồng thủy
sản, đang đóng góp mạnh mẽ vào sự phát triển bền vững của
ngành thủy sản Việt Nam. Với hơn 125 năm kinh nghiệm, Skretting không ngừng cải tiến và nghiên cứu các sản phẩm dinh dưỡng chất lượng cao, mang đến những
giải pháp tối ưu giúp nâng cao hiệu quả nuôi trồng và tối ưu hóa chi phí sản xuất cho người nuôi.
Sự hiện diện toàn cầu và cam kết cung
cấp sản phẩm chất lượng
Trụ sở của Skretting được đặt tại Stavanger, Na Uy, với hơn 18 nhà máy sản xuất tại 19 quốc gia trên khắp thế giới. Hằng năm, Skretting cung cấp thức ăn dinh dưỡng cho hơn 60 loài thủy sản, từ giai đoạn con giống đến khi thu hoạch. Tập đoàn này đã và đang góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy sự phát triển ngành thủy sản toàn cầu, đồng thời mang lại những lợi ích bền vững cho các nhà nuôi trồng thủy sản trên toàn thế giới.
Tại Việt Nam, Skretting sở hữu các nhà máy sản xuất hiện đại tại Long An và cung cấp các giải pháp dinh dưỡng thủy sản chất lượng cao không chỉ cho thị trường trong nước mà còn cho khu vực Nam Á. Cam kết của Skretting là luôn đồng hành cùng người nuôi thủy sản trong hành trình phát triển bền vững, thông qua việc cung cấp các sản phẩm tối ưu giúp tiết kiệm chi phí và nâng cao năng suất nuôi trồng.
Sản phẩm dinh dưỡng tiên tiến của Skretting Skretting cung cấp một loạt các sản phẩm dinh dưỡng chất lượng cao, được phát triển từ những nghiên cứu chuyên sâu, đáp ứng nhu
cầu dinh dưỡng của nhiều loài thủy sản khác nhau, đặc biệt là tôm, cá, và lươn. Một số sản phẩm nổi bật bao gồm:
1. Elevia – Giải Pháp Tối Ưu Cho Tôm Giống Elevia cung cấp nguồn dinh dưỡng vượt trội cho tôm giống, giúp cải thiện chất lượng nước và tăng cường sức khỏe hệ thống nuôi. Đây là sản phẩm lý tưởng giúp tôm giống phát triển khỏe mạnh ngay từ giai đoạn đầu.
2. Jade – Dinh Dưỡng Cho Khởi Đầu Vững Chắc
Với nguyên liệu giàu dinh dưỡng và bổ sung probiotic hỗ trợ hệ tiêu hóa, Jade giúp tôm dễ dàng hấp thu và phát triển nhanh chóng trong giai đoạn ương vèo.
3. Impact – Cho Vụ Mùa Bộ Thu Impact là dòng thức ăn giúp tôm thẻ chân trắng phát triển ổn định và hiệu quả, mang lại lợi ích kinh tế vượt trội nhờ công thức dinh dưỡng cân đối và ổn định.
4. Titan – Giải Pháp Nuôi Tôm Tiết Kiệm Chi Phí Được thiết kế để tiết kiệm chi phí cho người
“Hội chợ Vietshimp sắp tới là một sự kiện quan trọng, mang lại cơ hội tuyệt vời cho các doanh nghiệp, đối tác, nhà sản xuất, nhà chế biến thủy sản và cộng đồng nuôi tôm giao lưu, chia sẻ kiến thức và kết nối với nhau. Tôi hoàn toàn tin tưởng vào sự thành công của hội chợ này và xin gửi lời chúc sức khỏe đến Ban tổ chức. Hy vọng rằng sự kiện sẽ diễn ra thành công rực rỡ, mang lại nhiều giá trị cho ngành thủy sản Việt Nam.”
Ông Duco Onnes – Tổng Giám Đốc Nutreco Việt Nam
5. Xpand – Tôm Lớn Nhanh Hơn, Tiêu Hóa Tốt Hơn Và Ao Nuôi Sạch Hơn
Xpand giúp cải thiện sức khỏe đường ruột của tôm, từ đó tăng tốc độ phát triển và cải thiện chất lượng môi trường nuôi.
6. Micro – Giải Pháp Dinh Dưỡng Dành
Cho Cá Giống
Micro giúp cá giống phát triển nhanh chóng, với hệ số chuyển đổi thức ăn tối ưu và hỗ trợ quản lý trại giống hiệu quả, góp phần giảm chi phí và nâng cao năng suất.
7. Til – Thức Ăn Chất Lượng Cho Cá Điêu Hồng
Til được thiết kế đặc biệt cho cá có vảy nuôi ở mật độ cao, giúp cải thiện tỷ lệ sống, tăng trưởng và chất lượng thịt cá, đồng thời giảm hệ số chuyển đổi thức ăn.
8. Stella EE – Thức Ăn Cao Cấp Cho Lươn
Stella EE là dòng thức ăn mới nhất dành cho lươn, giúp tăng trưởng mạnh mẽ, đạt màu sắc tươi sáng và giảm thiểu chi phí, mang lại lợi nhuận vượt trội cho người nuôi.
9. Stella S+ - Thức Ăn Chất Lượng Cho Cá Thát Lát
Stella S+ với công thức giàu protein dễ tiêu hóa và amino acids thiết yếu giúp cá phát triển nhanh, tăng sức đề kháng cùng hàm lượng đạm tối ưu đảm bảo cá tăng trưởng nhanh và FCR thấp.
10. Stella CT – Thức Ăn Cao Cấp Dành
Cho Cá Tầm
Với nguyên liệu đạt tiêu chuẩn Châu Âu, Stella CT giúp cá tầm phát triển khỏe mạnh, đồng thời mang lại lợi nhuận bền vững cho người nuôi.
Giải pháp dinh dưỡng và xử lý môi trường của Skretting
Ngoài các sản phẩm dinh dưỡng, Skretting còn cung cấp các giải pháp xử lý môi trường
và tăng cường sức khỏe cho tôm cá, giúp tối ưu hóa quá trình nuôi trồng và bảo vệ sức khỏe thủy sản. Các sản phẩm này bao gồm:
- Vi Sinh AOcare Probiotic: Giúp cải thiện chất lượng nước và duy trì môi trường sống ổn định cho tôm cá.
- Khoáng AOcare Mineral Balance: Cân bằng khoáng chất trong nước, hỗ trợ sự phát triển của thủy sản.
- Chất Diệt Khuẩn AOcare 3D: Giảm thiểu tác nhân gây hại trong môi trường nuôi trồng.
- Sản Phẩm Chống Ký Sinh Trùng Galea: Bảo vệ tôm cá khỏi các ký sinh trùng gây hại. Bên cạnh đó, các sản phẩm tăng cường sức khỏe bao gồm:
- Santron: Cải thiện sức khỏe đường ruột và tăng khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng.
- OptiPro: Kiểm soát hệ vi sinh đường ruột, giúp tôm cá phát triển khỏe mạnh.
- Relaxx: Ngăn ngừa stress hiệu quả, giúp cải thiện năng suất nuôi trồng.
- Stopat: Tăng cường và duy trì hệ vi sinh đường ruột, giúp tôm cá phát triển bền vững.
Các giải pháp này không chỉ giúp nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn góp phần giảm thiểu chi phí và nâng cao năng suất cho người nuôi.
Cam kết bền vững và chất lượng cao Skretting cam kết đóng góp vào sự phát triển bền vững của ngành nuôi trồng thủy sản thông qua việc nghiên cứu và phát triển các sản phẩm dinh dưỡng sáng tạo. Với tiêu chuẩn chất lượng và an toàn cao nhất, Skretting không chỉ giúp người nuôi nâng cao năng suất mà còn đảm bảo chất lượng sản phẩm thủy sản cho người tiêu dùng trong và ngoài nước.
Skretting cung cấp thức ăn thủy sản chất lượng cao cho thị trường trong nước và khu vực Nam Á, đồng thời tiếp tục giữ vững cam kết phát triển bền vững thông qua các giải pháp dinh dưỡng, cải tiến công nghệ và hợp tác chặt chẽ với người nuôi thủy sản. Đồng hành cùng người nuôi thủy sản trong hành trình phát triển bền vững Skretting sẽ tiếp tục là người bạn đồng hành đáng tin cậy của các nhà nuôi trồng thủy sản, mang đến các sản phẩm và giải pháp đột phá, hỗ trợ tối ưu hóa hiệu quả sản xuất và bảo vệ môi trường. Với cam kết bền vững và chất lượng, Skretting không ngừng nỗ lực để ngành nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh mẽ, bền vững và hiệu quả hơn trong tương lai. Skretting Việt Nam
nấm và vi khuẩn có hại
trong ao tôm giống và tôm thịt
Trong sản xuất giống và nuôi tôm
thương phẩm, nấm và vi khuẩn
có hại là nguyên nhân gây thiệt
hại nặng nề cho vụ nuôi. Đặc biệt như nấm đồng tiền (nấm chân
chó) trong các ao nuôi lâu năm, nấm gây dính chân trong sản xuất
giống.. và vi khuẩn có hại gây
bệnh cho tôm nuôi.
AQ-6S
Vi sinh chuyên xử lý chất hữu cơ dư thừaức chế triệt đển Vibrio spp., với các loài vi khuẩn như Bacillus subtilis, B. pumilus, B. amyloliquefaciens…
SLUDGE REMOVER TABLET
Vi sinh dạng viên nén chuyên xử lý nhớt bạt - ức chế nầm đồng tiền sau 24 - 48h với các chủng vi khuẩn hoạt lực mạnh như B. amyloliquefaciens B.subtilis, B. pumilus,…
Nguyên nhân
- Nấm đồng tiền hay còn gọi là nấm chân chó, thực chất là một loại địa y chứ không đơn thuần là một loại nấm. Nấm đồng tiền có mùi tanh nồng, thường bám chặt vào bạt, đất, đá, nhá cho ăn và các dụng cụ trong ao nuôi.
- Nấm gây dính chân tôm giống thường xuất hiện ở giai đoạn Zoea 2. Khi nước cấp vào bể ương chưa được xử lý kỹ, cho ăn tảo khô quá sớm hoặc kiểm soát lượng tảo cho ăn không chặt chẽ dẫn đến dư thừa chất hữu cơ tạo điều kiện cho nấm phát triển.
- Ngoài môi trường nước và bùn đáy ao, những nơi nấm bám vào cũng là nơi cư trú cho các loài vi khuẩn có hại gây bệnh cho tôm nuôi.
Tác hại
- Nấm đồng tiền có mùi tanh rất hấp dẫn với tôm nên tôm dễ dàng ăn phải các cá thể nấm này. Khi vào trong đường ruột, nấm sẽ sản sinh ra độc tố gây bệnh đường ruột làm tôm bỏ ăn, từ đó tôm ốp thân, còi cọc, chậm lớn và có thể chết. - Ở giai đoạn Zoea 2, khi bị nấm gây dính chân, ấu trùng tôm không thể di chuyển để bắt mồi, không thể chuyển giai đoạn dẫn đến chết. - Khi tôm ăn phải các cá thể nấm có vi khuẩn cư trú, các vi khuẩn có hại này sẽ là tác nhân cơ hội gây bệnh khi tôm đã bị bệnh đường ruột, gây thiệt hại nặng nề cho vụ nuôi.
Cách xử lý - Đối với các ao đã từng bị nhiễm nấm đồng tiền, thì bắt buộc khâu tẩy nấm và tiêu diệt bào tử nấm cần được chú trọng và xử lý một cách triệt để trước khi thả tôm, kết hợp với việc sử dụng chế phẩm vi sinh xử lý nước nhằm ức chế vi khuẩn có hại và bổ sung lợi khuẩn cho môi trường.
- Đối với ao nuôi đang có tôm:
Lưu ý khi dùng biện pháp cơ học như chà, tẩy các cá thể nấm, vì khi làm việc này có thể vô tình làm cho các bào tử nấm phát tán mạnh hơn và các cá thể nấm khi bị chà bong tróc ra sẽ phát sinh độc tố.
Giảm và kiểm soát lượng thức ăn cho ăn, bổ sung các dưỡng chất hỗ trợ hệ tiêu hóa tôm.
Nâng cao độ đục hoặc mực nước nhằm làm giảm ánh sáng, ngăn cản cản sự quang hợp của nấm sẽ làm nấm chết.
Tăng cường quạt nước, sụt khí
Tránh cho ăn gần bờ
Biện pháp sinh học: bổ sung chế phẩm vi sinh ức chế nấm và vi khuẩn có hại. - Đối với nấm gây dính chân ấu
xuất giải pháp từ Thái Nam Việt Nấm và vi khuẩn có hại gây thiệt hại không nhỏ cho vụ nuôi và rất khó để xử lý nếu đã bị nhiễm. Việc phát hiện sớm nấm xuất hiện trong ao sẽ giúp cho việc xử lý hiệu quả hơn. Sử dụng chế phẩm sinh học khống chế nấm và vi khuẩn mang lại hiệu quả cao và không gây ảnh hưởng đến môi trường nước, đảm bảo sự phát triển cho ấu trùng và tôm nuôi, hạn chế được tổn thất cho vụ nuôi.
ĐT: 0888 59 63 66
Email: info@thainamviet.com
Website: thainamviet.com
Ứng dụng Beta-Glucan và Manan
Oligosaccharides trong nuôi
tôm
Sức đề kháng kém hay
môi trường suy thoái là
những nguyên nhân khiến dịch bệnh trên tôm diễn
biến ngày càng phức
tạp. Do đó, các nhà khoa
học đã không ngừng tìm
kiếm những chất bổ sung
để nâng cao hệ miễn dịch cho tôm. Trong đó,
Beta-Glucan và Mannan
Oligosaccharides là giải
pháp được nhiều người
lựa chọn nhờ mang lại
hiệu quả cao.
xuất ra melanin sẽ bao phủ và tiêu diệt tế bào vi khuẩn, sau đó phóng thích ra ngoài lớp vỏ kitin. Trong quá trình thực bào, các gốc ôxy nguyên tử, gốc hydroxyl và hydrogen peroxide cũng được sinh ra, đây là những chất ôxy hóa mạnh có vai trò tiêu diệt vi khuẩn. Công dụng của Mannan
Oligosaccharides: Mannan
Oligosaccharides được trích ly từ vách tế bào nấm men
Củng cố hệ miễn dịch
Hệ miễn dịch (Immune System) là một hệ thống bao gồm các tế bào, mô và cơ quan trong cơ thể đóng vai trò bảo vệ cơ thể chống lại sự xâm nhập của virus, vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng và các kháng nguyên lạ gây bệnh từ bên ngoài.
Hệ thống miễn dịch của tôm là một hệ thống tự nhiên, không đặc hiệu, tức là bất kỳ tác nhân lạ nào cũng được phản ứng lại y như nhau và không có khả năng ghi nhớ. Bao gồm miễn dịch tế bào và miễn dịch dịch thể, cả hai cơ chế cùng giúp đỡ nhau trong
việc đào thải và loại bỏ sinh vật lạ gây hại cho tôm. Đặc biệt là các
loại vi khuẩn, virus, ký sinh trùng
gây bệnh.
Chất kích thích miễn dịch là
những hợp chất tự nhiên hỗ trợ
việc củng cố hệ thống miễn dịch
của sinh vật chủ, giúp ngăn chặn
sự xâm nhập của vi khuẩn hoặc
ký sinh trùng. Các chất này có
thể được áp dụng cho vật chủ
thông qua cả đường cho ăn và
đường tiêm.
Để đảm bảo sức khỏe nội tại
của tôm, người nuôi cần áp dụng
các biện pháp hỗ trợ nhằm kích
thích các phản ứng miễn dịch.
Điều này đặt ra yêu cầu sử dụng
các hợp chất bổ sung, giúp tôm
phát triển khả năng tự bảo vệ
mình chống lại các mầm bệnh mà
không phải sử dụng thuốc kháng sinh để phòng và điều trị bệnh.
Ngăn ngừa bệnh hiệu quả
Công ty liên doanh BioPharmachemie xin giới thiệu
sản phẩm BIO-ACTIVIT FOR SHRIMP với thành phần chính là Beta-Glucan và Mannan Oligosaccharides ở dưới dạng dung dịch.
Công dụng của Beta-Glucan (β-Glucan): Là chất bổ sung sinh học giúp tăng cường miễn dịch tự nhiên của con tôm, ngăn ngừa sự xâm nhập mầm bệnh từ bên ngoài như vi khuẩn, virus.
Cơ chế tác động của BetaGlucan lên hệ miễn dịch của tôm:
Đối với miễn dịch dịch thể: Beta-Glucan kích thích quá trình sản sinh các peptid kháng khuẩn AMPs (antimicrobial peptides) như là crustin, lectin, lysozyme,...) từ đó làm tăng khả năng kháng khuẩn.
Đối với miễn dịch tế bào: Beta-Glucan kích thích quá trình melanin hóa (melamization) và gia tăng quá trình thực bào (phagocytosis). Các bạch cầu có hạt (granular leucocyte) sản
Saccharomyces cerevisiae. Các nghiên cứu chứng minh được rằng Mannan Oligosaccharides có ảnh hưởng tích cực đến tình trạng sức khỏe đường ruột, giúp phòng vệ và ngăn vi khuẩn làm hại đường ruột của tôm. Ngoài ra, Beta-Glucan và Mannan Oligosaccharides còn giúp tăng cường quá trình hô hấp, kích thích tiêu hóa, giảm hệ số chuyển đổi thức ăn. Tóm lại, sản phẩm BIOACTIVIT FOR SHRIMP là sản phẩm sinh học giúp ngừa bệnh hiệu quả cho tôm, tôm ăn nhiều và mau lớn.
Liều dùng: Có thể sử dụng cho tôm giống và tôm nuôi thương phẩm.
- Tôm giống: Tùy từng giai đoạn có thể cho ăn trực tiếp hoặc trộn thức ăn.
- Tôm thương phẩm: 7 ml/kg thức ăn.
Sản phẩm giúp tôm tăng sức đề kháng sau 7 - 10 ngày sử dụng.
Đặng Hồng Đức
Cố vấn kỹ thuật Công ty liên doanh Bio-Pharmachemie
Sản phẩm BIO ACTIVIT for shrimp trên ao tôm
Nâng cao năng suất
nuôi
tôm thẻ chân
trắng với công nghệ
Nano Bubbles
Trước áp lực gia tăng nhu cầu thực phẩm sạch và sự biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến chất lượng nước, ngành nuôi tôm thẻ chân trắng đang hướng tới các giải pháp công nghệ tiên tiến để đảm bảo năng suất và tính bền vững. Một trong những công nghệ được xem là đột phá hiện nay chính là Nano Bubbles –giải pháp cung cấp oxy hòa tan hiệu quả, góp phần cải thiện môi trường nước và nâng cao năng suất nuôi trồng.
Nano Bubbles là các bong bóng khí có kích thước siêu nhỏ (80-120nm), có khả năng duy trì oxy hòa tan trong nước trong thời gian dài nhờ áp suất nội tại cao hơn môi trường xung quanh. Công nghệ này mang lại nhiều lợi ích vượt trội so với các phương pháp cung cấp oxy truyền thống cũ.
Trong các hệ thống nuôi tôm
thẻ chân trắng mật độ cao, việc
cung cấp đủ lượng oxy hòa tan là
yếu tố then chốt quyết định tỷ lệ
sống và tốc độ tăng trưởng. Ứng
dụng công nghệ Nano Bubbles
đã chứng minh khả năng giảm
tỷ lệ nhiễm bệnh nhờ môi trường
nước sạch, giàu oxy, đồng thời
thúc đẩy sự phát triển nhanh
và đồng đều của tôm. Đặc biệt,
công nghệ này giúp giảm nguy
cơ mắc bệnh Vibriosis – một
bệnh nhiễm khuẩn do vi khuẩn
Vibrio gây ra, thường xuất hiện
trong môi trường nước kém
chất lượng và stress môi trường.
Nano Bubbles giúp cải thiện
chất lượng nước, cung cấp đủ oxy, từ đó làm giảm hoạt động
của vi khuẩn Vibrio và bảo vệ sức
khỏe tôm.
Với khả năng duy trì oxy hòa
tan trong thời gian dài, hệ thống
Nano Bubbles chỉ cần hoạt động
Tạo môi trường giảm stress, ôxy hòa tan cao, giúp tôm phát triển mạnh mẽ
trong khoảng thời gian ngắn, giảm đáng kể tiêu thụ năng lượng. Điều này giúp giảm chi phí năng lượng, đồng thời duy trì môi trường nước giàu oxy, tối ưu hóa điều kiện sống cho tôm thẻ chân trắng.
Công nghệ Nano Bubbles đã
được nhiều trang trại nuôi tôm thẻ chân trắng tại Việt Nam áp
dụng, mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt. Với các hệ thống có công suất đa dạng từ 5m³/giờ đến hơn 20.000m³/giờ, Nano Bubbles đáp ứng linh hoạt các mô hình nuôi từ nhỏ lẻ đến quy mô công nghiệp.
BHN
Hình ảnh trang trại tôm áp dụng công nghệ Nano Bubbles
B.H.N
kiểm soát EHP trong nuôi tôm
EHP (Enterocytozoon hepatopenaei) là bệnh
nguy hiểm cho nghề
nuôi tôm hiện nay, làm
cho nhiều vụ nuôi phải
thu hoạch sớm, hoặc
mất trắng. Bệnh do vi
bào tử trùng gây hại
cho tôm nuôi, đặc biệt
là tôm thẻ chân trắng.
EHP không gây chết
nhanh như các bệnh
khác (TPD, EMS, WSSV)
nhưng làm giảm tốc độ
tăng trưởng, gây tổn
thất kinh tế lớn do tôm
không đạt kích thước thương mại.
Tác nhân gây bệnh:
Từ nguồn con giống nhiễm bệnh.
Từ vật chủ trung gian, ao nuôi không được xử lý kỹ trước khi thả giống.
Chất lượng nước không ổn định, các yếu tố môi trường liên
tục biến động, hàm lượng kim
loại nặng cao, … làm tăng nguy cơ bùng phát bệnh.
Dấu hiệu nhận biết bệnh:
Tôm nhiễm EHP thường có biểu hiện như: chậm lớn, đường ruột yếu, phân lỏng, kích thước không đồng đều.
Giải pháp giúp người nuôi
kiểm soát bệnh EHP hiệu quả:
Ngoài việc kiểm tra chất lượng con giống và cải tạo ao nuôi thật
kỹ ban đầu thì việc duy trì ổn định
môi trường nước là yếu tố tiên quyết để kiểm soát EHP. Giúp hạn
chế điều kiện thuận lợi cho EHP phát triển, cải thiện sức khỏe và sức đề kháng của tôm nuôi.
Nhằm hỗ trợ người nuôi tôm cải thiện hiệu quả chăn nuôi, Công ty Sitto Việt Nam chúng tôi đã nghiên cứu và ứng dụng thành công giải pháp giúp kiểm soát EHP tại các khu nuôi thường xuyên bị nhiễm
EHP trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng trong thời gian qua.
Chọn nguồn giống tốt: Sử dụng nguồn giống sạch bệnh, có phân tích kiểm tra con giống.
Xử lý ao nuôi trước khi thả giống: Cải tạo ao kỹ lưỡng, sát trùng ao nuôi nhằm loại bỏ bùn đáy, chất thải hữu cơ, các vật chủ trung gian và mầm bệnh tiềm ẩn.
Sử dụng vôi nông nghiệp hoặc chất sát trùng để tiêu diệt mầm bệnh.
Trong quá trình nuôi: Theo dõi và duy trì môi trường nước thường
xuyên: Các chỉ số pH, kiềm, nhiệt
sản phẩm Ultra-Green và Sitto Take Off từ khâu xử lý ban đầu trước thả giống đến khi thu hoạch. Tăng cường sử dụng men vi sinh để cải thiện hệ vi sinh trong ao, bổ sung Vitamin C và khoáng chất cho ăn để tăng cường sức đề kháng cho tôm.
Quy trình sử dụng sản phẩm Bộ đôi sản phẩm Ultra-Green và Sitto Take Off giúp ổn định các yếu tố môi trường, duy trì màu nước đẹp, ít bị nhớt bạt, hạn chế nấm. Tôm phát triển tốt, phân chặt, đường ruột đẹp, lớn nhanh, vỏ dày sáng đẹp. Là giải pháp tốt trong việc kiểm soát EHP, phù hợp với các khu vực có nguy cơ nhiễm bệnh cao (cụ thể ao đối chứng và khu vực xung quanh đều bị nhiễm khi 50 ngày tuổi). Khuyến nghị bà con nên áp dụng giải pháp này ngay từ đầu vụ nuôi không chỉ giúp kiểm soát bệnh EHP mà còn tăng hiệu quả kinh tế và phát triển bền vững trong nuôi trồng thủy sản.
Phòng Kỹ thuật Công ty TNHH Sitto
THỨC ĂN THỦY SẢN MACKAY MARINE MP VÀ MP PRO
Mang lại kết quả vượt trội
Xin giới thiệu Mackay Marine MP và MP Pro – Giải pháp dinh dưỡng tiên tiến
được nghiên cứu một cách khoa học và chuyên biệt dành cho giai đoạn ấu trùng và hậu ấu trùng tôm. Với công nghệ chế biến độc quyền, dòng thức ăn Mackay đảm bảo tính linh hoạt trong lựa chọn thành phần, khả năng tiêu hóa vượt trội, duy trì cấu trúc hạt và độ bền trong nước. Sản phẩm
được bổ sung các chất kích thích miễn dịch thiết yếu, chất dẫn dụ và prebiotic (thức ăn cho vi sinh vật có lợi), trong đó MP Pro còn tăng cường thêm chế phẩm sinh học nhằm nâng cao hiệu suất sinh trưởng. Được thiết kế để tối ưu hóa tăng trưởng, sức khỏe và tỷ lệ sống, Mackay Marine MP và MP Pro thiết lập tiêu chuẩn mới trong dinh dưỡng thủy sản.
Tính năng nổi trội và ưu điểm chính:
- Được phát triển bằng công nghệ chế biến độc quyền, giúp linh hoạt trong lựa chọn thành phần nguyên liệu, tập trung vào khả năng tiêu hóa.
- Duy trì cấu trúc hạt và độ bền trong nước.
- Cung cấp nguồn thức ăn dễ tiêu hóa hơn.
- Dòng thức ăn chuyên biệt có chứa các chất kích thích miễn dịch, chất dẫn dụ, thức ăn cho vi sinh và vi sinh độc quyền.
Công nghệ chế biến độc quyền
- Không sử dụng chất kết dính và carbohydrate làm giới hạn giá trị dinh dưỡng.
- Cho phép linh hoạt lựa chọn nguyên liệu trong khi vẫn đảm bảo độ bền của hạt thức ăn và độ ổn định trong nước (Hình 2).
Hình 1: Thử nghiệm tại Đại học Cần Thơ (Việt Nam) cho thấy Mackay MP và MP
Pro cải thiện tỷ lệ sống cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh hàng đầu
Hình 3: Protein mạch ngắn, peptides và axit amin tự do giúp cải thiện khả năng tiêu hóa của thức ăn
Hình 2: Độ bền trong nước của thức ăn Mackay MP so với thức ăn vi hạt hàng
Hình 4: Axit béo thiết yếu như DHA và EPA rất quan trọng trong sự phát triển mô thần kinh, cấu trúc màng tế bào và trao đổi chất. Phospholipid là thành phần quan trọng của màng tế bào. Cholesterol giúp củng cố màng tế bào và điều chỉnh tính thẩm thấu của tế bào
Chế độ dinh dưỡng cao cấp - Được phát triển từ nhiều nguyên liệu ưu việt giúp cân bằng tối ưu protein, lipid, carbohydrate và vi dưỡng chất, đáp ứng hiệu quả nhu cầu
biển có độ tiêu hóa cao, peptides và các axit amin tự do (ví dụ: Artemia), đảm bảo khả năng tiêu hóa vượt trội (Hình 3). - Bổ sung đa dạng các lipid thiết yếu (ví dụ: HUFA, phospholipid, cholesterol) giúp tăng trưởng mạnh mẽ và sức khỏe tối ưu (Hình 4).
Hình 5: Sự phát triển mạnh mẽ vi sinh vật trong đường ruột tôm sau khi cho thức ăn vào bể ương. Ấu trùng được cho ăn bằng chế độ dinh dưỡng Mackay MP cho thấy sự phát triển hệ vi sinh vượt trội trong đường ruột nhờ thức ăn vi sinh hiệu quả trong khẩu phần ăn.
Thức ăn chức năng với chất dẫn dụ, chất kích thích miễn dịch và thức ăn vi sinh độc quyền
- Vị ngon và tỷ lệ tiêu thụ thức ăn vượt trội nhờ các chất dẫn dụ tự nhiên.
- Chất kích thích miễn dịch độc quyền, được khoa học chứng minh, giúp tăng cường hệ miễn dịch cho tôm.
- Thức ăn cho vi sinh được lựa chọn kỹ lưỡng nhằm hỗ trợ hệ vi sinh đường ruột tôm ấu trùng và hậu ấu trùng, tăng cường sức đề kháng tự nhiên trước các mầm bệnh tiềm ẩn.
Mackay MP Pro – Chế độ dinh dưỡng vi sinh nâng cao giúp tối ưu hiệu suất cho trại giống
- Công nghệ tiên tiến tích hợp trực tiếp các
chủng vi sinh vật có lợi vào từng hạt thức ăn, giúp cung cấp hiệu quả vào đường ruột tôm, hỗ trợ sự phát triển mạnh mẽ của ấu trùng và hậu ấu trùng giai đoạn đầu.
- Mackay MP Pro chứa hơn 30 triệu CFU/g lợi khuẩn, giúp nâng cao hiệu suất sinh trưởng - ức chế vi khuẩn gây bệnh cơ hội nhờ sản sinh các phân tử hậu sinh học.
Hình 6: Một thí nghiệm thứ hai tại Việt Nam tiếp tục khẳng định rằng chế độ dinh dưỡng Mackay MP và MP Pro giúp tăng sinh khối Biomass bể nuôi đáng kể. Sự cải thiện này có liên quan trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng nhanh và tỷ lệ sống cao hơn, vượt trội so với các dòng thức ăn khác.
- Hiệu suất vượt trội của Mackay MP Pro được minh chứng qua Hình 1 và Hình 6. Cả hai dòng sản phẩm MP và MP Pro đều cho kết quả vượt trội so với các đối thủ cạnh tranh, giúp cải thiện tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm.
Dữ liệu an toàn sinh học
Sản xuất tại Hoa Kỳ – Được sản xuất tại nhà máy đạt chứng nhận FDA và GlobalG.A.P., đảm bảo quy trình xử lý, chế biến, đóng gói và bảo quản không gây nhiễm chéo. Sản phẩm đã được kiểm nghiệm và cho kết quả âm tính với các mầm bệnh nguy hiểm sau:
- Hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND/EMS)
- Bệnh nấm sợi Crayfish (Ca/A. astaci)
- Virus ánh kim giáp xác 1 (DIV1)
- Virus hoại tử cơ quan tạo máu và mô bạch huyết (IHHNV)
- Virus hoại tử cơ (IMNV)
- Virus gây bệnh còi trên tôm (MBV)
- Vi khuẩn hoại tử gan tụy (NHP-B)
- Virus gây bệnh trắng đuôi và cơ trên tôm thẻ chân trắng (PvNV)
- Virus hội chứng Taura (TSV)
- Bệnh đốm trắng (WSSV)
- Bệnh đuôi trắng hoặc đục cơ (WTD/ MrNV)
- Virus đầu vàng (YHV)
Thành phần cao cấp
Mackay MP và Mackay MP Pro là dòng thức ăn chuyên biệt, cao cấp của Great Salt Lake Artemia, được tối ưu hóa dinh dưỡng để cung cấp cho tôm nguồn đạm dễ tiêu hóa, lipid thiết yếu, chất kích thích miễn dịch, thức ăn vi sinh, các chủng vi sinh vật có lợi (riêng trong MP Pro), cùng vitamin và khoáng chất, giúp tăng cường sức khỏe, thúc đẩy tăng trưởng và nâng cao sức sống vượt trội.
Hướng dẫn cho ăn
- Liều lượng: Tính theo kg thức ăn trên mỗi triệu ấu trùng/tôm giống.
là mô hình nuôi tôm rất thân thiện môi trường, có tính bền
vững cao, sản phẩm phù hợp với xu thế tiêu dùng xanh
nên có giá trị và tính cạnh tranh cao. Tuy nhiên, do năng
suất thấp và chưa có nhiều diện tích được chứng nhận
nên thu nhập từ mô hình này hiện vẫn chưa cao.
Khác biệt và giá trị
Ông Hồ Quốc Lực – Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần thực
phẩm Sao Ta, cho rằng, dù hiện tại đa số người tiêu dùng
các nước đã quen với con tôm thẻ nhưng con tôm sú vẫn có
một vị trí và lợi thế cạnh tranh nhất định đối với ngành tôm
Việt Nam trên thị trường, nhờ có lợi thế lớn về giá trị và sự
khác biệt. Một vấn đề nữa cũng hết sức quan trọng và có tính quyết định đến hiệu quả nghề nuôi chính là kích cỡ tôm khi thu hoạch. Để bán được với giá cao, ngoài việc đảm bảo chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, nuôi đạt chuẩn quốc tế ra, kích cỡ tôm nhỏ nhất cũng phải vào cỡ 30 con/kg vì tôm sú càng lớn, giá bán càng cao. Do đó, tôm sú nuôi theo các mô hình: quảng canh, quảng canh cải tiến, tôm – lúa, tôm – rừng là phù hợp và dễ đạt chuẩn quốc tế nhất, kể cả chuẩn tôm sinh thái/hữu cơ.
Còn ông Lê Văn Quang - Chủ tịch Tập đoàn thủy sản
Minh Phú, tôm chứng nhận sinh thái Naturland có giá cao hơn so với tôm không chứng nhận, từ 15-20%. Với phương thức nuôi tôm hoàn toàn thiên nhiên, nếu tổ chức sản xuất tốt, toàn bộ sản phẩm tôm rừng Cà Mau rất dễ được chứng nhận sinh thái. Điều này giúp giải quyết vấn đề các yêu cầu ngày càng cao của quốc tế đối với phương thức nuôi tôm thân thiện với môi trường, cùng với các lo ngại về an toàn thực phẩm, giúp sản phẩm nhận được giá cao hơn trên thị trường. Tương tự, các mô hình nuôi quảng canh khác như tôm – lúa, vừa qua, các doanh nghiệp lúa gạo đã phối hợp
cùng doanh nghiệp ngành tôm thực hiện thành côngh và đạt chứng nhận hữu cơ cho cả 2 sản phẩm chính là lúa và tôm cũng tạo địa bàn tỉnh Cà Mau.
Ông Đặng Ngọc Sơn - Phó Tổng giám đốc Camimex Group kiêm Giám đốc Camimex Organic cho biết, ngay từ năm 2000, Camimex đã sớm nhận ra tiềm năng và giá trị cũng như xu thế thị trường về sản phẩm tôm sinh thái. Do đó, khi Chính phủ Thụy Sỹ tài trợ cho tỉnh Cà Mau dự án xây dựng vùng tôm sinh thái tại huyện Ngọc Hiển và Năm Căn, chúng tôi đã mạnh dạn tham gia ngay từ đầu và sau đó đã đạt được các chứng nhận tôm sinh thái của các tổ chức có uy tín, như: Naturlan, EU Organic, BIO Suise… Sản phẩm tôm sinh thái Cà Mau lần đầu tiên xuất khẩu vào Coop, chuỗi siêu thị lớn thứ 2 tại Thụy Sĩ mang lại lợi ích kinh tế rất lớn cho Công ty Camimex.
Lợi nhuận chưa tương xứng Trong hơn 20 năm qua, Việt Nam dẫn đầu về sản xuất tôm sinh thái/hữu cơ trên toàn cầu, nhưng ngày càng có nhiều nước tham gia sản xuất hơn. Trong khi đó, việc phát triển mô hình tôm sinh thái/hữu cơ của Việt Nam đến nay vẫn rất hạn chế chủ yếu là ở Cà Mau với 2 mô hình chủ lực là tôm – rừng và tôm – lúa, với các doanh nghiệp tham gia thực hiện và đạt chứng nhận, như: Tập đoàn thủy sản Minh Phú, Camimex, Seanamico và Casep… Trong đó, quy mô vùng nuôi tôm hữu cơ đạt
nhất và hoàn thiện chuỗi giá trị tôm sinh thái thông qua mô
hình Doanh nghiệp xã hội.
Tôm sú hữu cơ/sinh thái là loại hàng hóa đặc biệt được các doanh nghiệp và địa phương phát triển và đạt chứng nhận quốc tế đầu tiên trên thế giới. Hiện nay, mặc dù xu thế tiêu dùng thế giới chuyển sang sử dụng tôm thẻ nhiều hơn nhờ lợi thế giá rẻ, nhưng do không còn nhiều nước nuôi tôm sú khiến nguồn cung cũng hạn chế, nên việc tiêu thụ tôm sú cũng rất ổn định so với tôm thẻ. Tuy nhiên, dù giá bán khá ổn định nhưng do năng suất tôm còn thấp, nên lợi nhuận chưa thực sự hấp dẫn người nuôi. Do đó, để phát triển nghề nuôi tôm sú sinh thái/hữu cơ một cách hiệu quả và bền vững vấn đề quan trọng là chúng ta phải có con giống tốt, lớn nhanh, thức ăn đảm bảo chất lượng và giá thành hợp lý.
Giải pháo để đạt giá trị thực Nói về giải pháp xây dựng chuỗi tôm sú đạt chứng nhận, ông Đinh Xuân Lập – Phó Giám đốc ICAFIS nhận định,, tôm
sú là đối tượng ít cạnh tranh hơn do hiện tại trên thế giới chỉ
còn 6 quốc gia có nguồn tôm sú cung ứng cho thị trường là: Banladesh, Việt Nam, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia và
Philippines, nên thị trường tôm sú trong 20 năm qua luôn rất ổn định. Một lợi thế khác là tôm sú có thể nuôi đạt kích
cỡ lớn, mùi vị giống tôm hùm nên thuộc sản phẩm dành cho thị trường cao cấp, nhưng lại rất phù hợp với mô hình
nuôi trung bình thấp, như: quảng canh cải tiến, tôm – lúa, tôm – rừng và sản phẩm rất được thị trường ưa chuộng, nhất là một số thị trường lớn như: Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Australia, Dubai, Singapore… Tuy nhiên, do đặc điểm nghề nuôi tôm ở ĐBSCL chủ yếu ở quy mô hộ gia đình, nên khi xây dựng chuỗi liên kết, vấn đề quan trọng là làm sao nâng cao năng lực và vai trò của HTX/ THT trong việc ký kết hợp đồng vật tư đầu vào và tiêu thụ sản phẩm nhằm giảm giá thành nhưng vẫn đảm bảo chất
lượng nguồn vật tư đầu vào; giảm các khâu trung gian từ đó tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm tôm nuôi; tăng cường thực hành nuôi theo chứng nhận, nâng cao năng lực và sự tham gia của thương lái. Đối với doanh nghiệp tham gia
chuỗi, thường xuyên thông tin về các yêu cầu, tiêu chuẩn tôm nguyên liệu của từng thị trường nhập khẩu đến các
HTX/THT và lựa chọn những HTX/THT đạt yêu cầu của doanh nghiệp để đầu tư. Riêng các cơ quan quản lý, nghiên cứu cần thực hiện nhiều hơn các đề tài, dự án giúp nâng cao năng suất và chất lượng tôm sú; các chương trình sản xuất tôm hữu cơ, sinh thái để các trại nuôi có thể chủ động hơn nữa về nguồn giống.
Còn theo TS. Hoàng Tùng – Đại học Tasmania, để phát triển bền vững nghề nuôi tôm sú sinh thái/hữu cơ cần đánh giá hiệu quả thực tế để xây dựng chiến lược phát triển cụ thể; kế đến là định hướng chất lượng, xây dựng thương hiệu, cải thiện năng suất, hạ giá thành. Trong định hướng chiến lược phát triển cần cải thiện về năng suất, phương thức tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và phát triển thị trường, nhằm tiếp tục duy trì vị thế hàng đầu của Việt Nam về nuôi tôm trên thế giới. Trên cơ sở đó, cần quan tâm chỉ số giá trị sản xuất hay lợi nhuận là phù hợp khả năng cân đối cung –cầu như thế nào, năng lực cạnh tranh ra sao để từ đó chọn ra giải pháp kỹ thuật và lộ trình thực hiện phù hợp.
An Xuyên
Hoạt chất thực vật
Rào chắn dịch bệnh EHP
Techna - một hãng dinh
dưỡng tại Pháp đã tạo
ra phục gia gốc thực
vật có khả năng phòng
ngừa EHP trong nuôi
tôm ngay từ sự nảy
mầm của bào tử – giai
đoạn then chốt để hạn
chế dịch bệnh này.
Hiểm họa ký sinh trùng
Trong số các loài ký sinh trùng, vi bào tử trùng Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) là mối đe
dọa nghiêm trọng đối với ngành nuôi tôm, đặc biệt khu vực châu Á. Nhiễm EHP không gây ra các
dấu hiệu lâm sàng đặc trưng, nhưng tôm bị nhiễm thường còi cọc, chậm lớn, tỷ lệ biến đổi thức
ăn (FCR) tăng cao và tỷ lệ chết cao hơn. Tất cả những yếu tố này trực tiếp làm suy giảm năng suất
và lợi nhuận của trại nuôi tôm.
EHP chủ yếu tấn công tuyến
gan tụy, một cơ quan chịu trách nhiệm tiêu hóa và trao đổi chất
ở tôm. Vòng đời của EHP, điển hình của vi bào tử trùng, bao
gồm giai đoạn bào tử có khả năng đề kháng cao, giúp chúng tồn tại lâu trong môi trường và dễ dàng lây truyền.
Bào tử EHP được thải ra môi trường ao nuôi thông qua phân
của tôm nhiễm bệnh, tạo điều kiện cho sự lây lan qua nước. Ngoài ra, EHP còn có thể lây qua con đường ăn thịt đồng loại hoặc ô nhiễm từ các nguồn bên ngoài. Khi tôm ăn phải bào tử EHP, chúng sẽ nảy mầm trong đường tiêu hóa và thâm nhập vào tế bào biểu mô của tuyến gan tụy. Trong các tế bào này, ký sinh trùng sinh sôi, tạo ra các bào tử mới, sau đó được giải phóng trở lại đường ruột và môi trường, tiếp tục chu
kỳ lây nhiễm (Chaijarasphong et al., 2021).
Sự bùng phát của EHP thường liên quan đến các yếu tố môi trường và quản lý trong nuôi tôm. Chất lượng nước kém, mật độ cao và các hàng rào an toàn sinh học lỏng lẻo tạo điều kiện lý tưởng cho ký sinh trùng lây lan. Ngoài ra, EHP thường xuất hiện cùng với các mầm bệnh cơ hội như vi khuẩn Vibrio, làm trầm
trọng thêm mức độ nghiêm trọng của bệnh và gây khó khăn cho việc điều trị.
Tôm không có triệu chứng cũng có thể trở thành vật chứa mầm bệnh, âm thầm lây lan ký sinh trùng sang các đàn tôm khỏe mạnh. Hơn nữa, bào tử EHP có khả năng chống chịu cao trước các tác động môi trường, cho phép chúng tồn tại trong bùn đáy ao suốt thời gian dài, ngay cả sau khi đã thực hiện các biện pháp khử trùng hoặc phơi khô. Chính đặc tính bền bỉ này khiến việc loại trừ hoàn toàn trở nên vô cùng khó khăn (Chaijarasphong et al., 2021).
Giải pháp từ thực vật Sự tồn tại dai dẳng của EHP đang đặt ra thách thức lớn đối với người nuôi tôm trên toàn cầu.
thực để bảo vệ sức khỏe tôm cũng như đảm bảo tính bền vững kinh tế của ngành nuôi trồng thủy sản vẫn là ưu tiên hàng đầu của ngành.
Mới đây, TECHNA, một hãng dinh dưỡng tại Pháp đã sử dụng hoạt chất và phân tử, đặc biệt là hợp chất gốc từ thực vật để tạo ra hợp chất chống ký sinh trùng. Mono-glyceride của axit béo, bao gồm các biến thể chuỗi ngắn và trung bình như axit capric và axit caprylic, đã cho thấy tác dụng chống ký sinh trùng bằng cách phá vỡ màng lipid của ký sinh trùng và can thiệp vào quá trình trao đổi chất của chúng.
Ngoài ra, tinh dầu cũng được biết đến với đặc tính xua đuổi, tác động đến hệ thần kinh và nội tiết của ký sinh trùng nhằm giảm các hoạt động quan trọng như ăn uống và sinh sản. Các phân tử có nguồn gốc thực vật khác, bao gồm hợp chất phenolic và terpene, có khả năng ức chế các quá trình enzym thiết yếu đối với sự sống của ký sinh trùng. Các thử nghiệm in vitro được thực hiện tại phòng thí nghiệm ShrimpVet đã xếp hạng ba thành phần gốc thực vật dựa trên hiệu quả ức chế sự nảy mầm của bào tử EHP.
Bào tử EHP được tách từ tuyến gan tụy của tôm nhiễm bệnh và nuôi cấy trong dung dịch muối cân bằng Hank. Trong điều kiện này, ở nhiệt độ phòng (25-28°C), bào tử bắt đầu nảy mầm. Việc quan sát trực quan dưới kính hiển vi (x1000) xác định sự nảy mầm bằng cách theo dõi sự phát triển của lông roi. Tỷ lệ bào tử EHP có lông roi so với bào tử không có lông roi được tính toán để xác
định tỷ lệ nảy mầm.
Thí nghiệm bao gồm một nhóm đối chứng (chỉ sử dụng dung dịch Hank) và ba nhóm
thử nghiệm, trong đó mỗi nhóm
được bổ sung một sản phẩm
chứng minh tác dụng tích cực của EHPROTECT (2 - 4 kg/MT) đối với tôm nhiễm EHP. Những con tôm có trọng lượng ban đầu 1,6 g được nuôi trong các bể 250 L trong 50 ngày, trong đó có thử thách EHP từ ngày 16 đến ngày 23, tiếp theo là giai đoạn quan sát. Mỗi phương pháp điều trị được lặp lại trên sáu bể, mỗi bể chứa 50 con tôm. EHPROTECT đã được bổ sung vào khẩu phần ăn trước khi sản xuất. Tôm bị nhiễm EHP (đối chứng dương) cho thấy tốc độ tăng trưởng giảm, tỷ lệ chết tăng và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) cao hơn so với tôm không bị thử nghiệm (đối chứng âm). Việc bổ sung EHPROTECT với liều lượng 2 kg/MT và 4 kg/MT đã cải thiện đáng kể các chỉ số này. Tỷ
giảm
lượt
và
khác nhau ở nồng độ 0,0625% trong dung dịch Hank + bào tử EHP. Kết quả cho thấy các hợp chất phenolic đạt hiệu quả nhất trong việc kiểm soát sự nảy mầm của bào tử EHP, tiếp theo là hỗn hợp tinh dầu thực vật 2, trong khi hỗn hợp tinh dầu thực vật 1 có tác
động tối thiểu đến tỷ lệ nảy mầm (Hình 1).
Thử nghiệm in vivo với EHP
Techna đã kết hợp những thành phần gốc thực vật tốt nhất để tạo ra sản phẩm thương
mại EHPROTECT nhằm giảm thiểu các đợt bùng phát EHP và hạn chế ảnh hưởng của chúng. EHPROTECT đã trải qua các thử nghiệm để chứng minh hiệu quả. Một thử nghiệm in vivo được thực hiện tại ShrimpVet đã
FCR cải thiện lần lượt 41,8% và 56,0%, và trọng lượng cuối cùng cao hơn lần lượt 16,1% và 45,7% đối với tôm được điều trị với EHPROTECT ở liều 2 kg/MT và 4 kg/MT (Hình 2, 3). EHP vẫn là một mối đe dọa lớn đối với người nuôi tôm, đặc biệt là ở khu vực châu Á. Tuy nhiên, các phụ gia thức ăn, như EHPROTECT, có thể giúp giảm tác động của EHP thông qua nhiều cơ chế khác nhau. Các kết quả trên cho thấy EHPROTECT có thể hỗ trợ trong việc hạn chế các đợt bùng phát EHP và ngăn ngừa dịch bệnh này. Các biện pháp an toàn sinh học và phòng ngừa mạnh mẽ là những yếu tố quan trọng khác để giảm thiểu tác động của EHP.
CHUYÊN
TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA
Bạc Liêu
Nuôi cá kèo trên đất canh tác tôm - lúa
Mô hình nuôi mới này được Trung
tâm Khuyến nông tỉnh Bạc Liêu
thực hiện tại huyện Phước Long
và thị xã Giá Rai, góp phần nâng
cao thu nhập cho bà con nông dân trên vùng đất chuyển đổi.
Nhằm tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên trong ruộng lúa, tìm ra đối tượng nuôi mới phù hợp trong mô hình tôm - lúa, nâng cao thu nhập cho bà con nông dân trong vùng chuyển đổi, Trung tâm Khuyến nông tỉnh Bạc Liêu đã xây dựng mô hình nuôi cá kèo kết hợp trồng lúa tại huyện Phước Long và thị xã Giá Rai với diện tích 10 ha/08 hộ. Trong đó, mô hình hỗ trợ cho các hộ tham gia 50% cá kèo giống, lúa giống ST 24 và một số vật tư như vi sinh, thức ăn, phân bón sinh học.
Sau khi tham gia mô hình, anh Lộ Vũ Phong (ấp Phước Ninh, xã Phước Long, huyện Phước Long) đã có thu nhập từ 400 - 500 triệu đồng/ năm từ mô hình nuôi cá kèo đặc sản trong ruộng lúa. Với 50 công đất sản xuất nông nghiệp, anh Phong sử dụng 10 công để làm ao ương thủy sản và ao trữ nước, còn lại áp dụng mô hình lúa - cá kèo - tôm - cua. Năm 2021, dưới sự hướng dẫn của Trung tâm Khuyến nông tỉnh Bạc Liêu, anh Phong bắt đầu thả nuôi vụ đầu tiên khoảng 35.000 con cá kèo giống trong 10 công đất ruộng. Sau một thời gian nuôi, anh Phong thu hoạch và bán được 35 triệu đồng. Vụ thứ 2, anh Phong rút kinh nghiệm và thả nuôi 100.000 con cá kèo giống trong 40 công đất lúa và thu
được 160 triệu đồng.
Mô hình nuôi cá kèo kết hợp trong ruộng lúa tại Bạc Liêu bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế cao Ảnh: Trung tâm Khuyến nông Bạc Liêu
Theo anh Phong, để mô hình đạt hiệu quả cao, đầu tháng 5 anh sẽ đưa nước vào ruộng và dùng thuốc diệt cá tạp, đến giữa tháng 5 thì bắt cá kèo giống về ương và thả cá giống khi có mưa nhiều là thích hợp nhất. Đến tháng 7, anh sạ lúa và sau khi thu hoạch lúa xong là có thể thu hoạch cá kèo.
“Nuôi cá kèo trong ruộng lúa, quan trọng nhất là phải làm bờ bao thật kỹ, kiểm tra nguồn nước, tiếp đó là chọn cá giống đạt chất lượng. Nếu làm tốt 3 khâu này thì cá kèo nuôi mới đạt năng suất và chất lượng”, anh Phong chia sẻ.
Theo thống kê của Trung tâm Khuyến nông tỉnh Bạc Liêu, kết quả thực hiện mô hình tại thị xã Giá Rai cho thấy, năng suất cá kèo bình quân đạt 120kg/ha, cỡ thu hoạch từ 30 - 40 con/kg với giá bán 130.000 - 160.000 đồng/kg; năng suất lúa đạt 4 - 5 tấn/ha, giá bán 11.000 đồng/kg. Lợi nhuận chung của mô hình đạt 40 - 50 triệu đồng/ha.
Trong khi đó, kết quả thí điểm tại huyện Phước Long cho thấy, năng suất cá kèo đạt 150 kg/ha, cỡ thu hoạch 30 - 40 con/kg, giá bán 130.000 - 160.000 đồng/kg; năng suất lúa đạt từ 6 - 6,5 tấn/ha, giá bán 11.000 đồng/ kg. Tổng lợi nhuận của mô hình đạt 60 - 70 triệu đồng/ha.
Từ những kết quả đạt được của mô hình trình diễn nuôi cá kèo - cá đặc sản kết hợp trồng lúa trong năm 2024, ông Nguyễn Hoàng Vũ - Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Bạc Liêu đề xuất, chính quyền địa phương cần quan tâm phát triển, khuyến cáo nhân rộng đối tượng nuôi mới này trong mô hình tôm - lúa, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân trên vùng đất chuyển đổi.
Khánh Nguyễn
Kỹ thuật chuẩn bị ao nuôi tôm
Thực hiện tốt kỹ thuật chuẩn bị ao sẽ giúp tạo được môi trường thuận lợi cho tôm sinh trưởng và phát triển, đồng thời hạn chế dịch bệnh.
Điều kiện ao
Ao nuôi nên có diện tích từ 500 m2 trở lên, tốt nhất từ 1.000 - 3.000 m2 . Ao gần nguồn nước ra vào, thường xuyên giữ được mực nước từ 1,2 - 1,5 m. Ao nuôi cần có cống cấp và thoát nước đặt so le, để thuận tiện cho việc cấp và thoát nước. Bờ ao chắc chắn, không rò rỉ, thoáng đãng không bị cớm rợp.
Cải tạo ao
Sau khi thu tôm, các vật tư trang thiết bị như: lưới, xi phông, ống, vợt, xô, nhá, bộ sục khí đáy, dàn quạt khí, máy cho ăn,… phải
được vệ sinh sạch sẽ và khử trùng. Sau đó, phơi khô dưới ánh sáng mặt trời nhằm đảm
bảo vi khuẩn và mầm bệnh tiềm ẩn đã được tiêu diệt.
Tiếp theo, cần tháo cạn nước, phơi khô đáy ao, dồn chất thải lại và chuyển ra ngoài ao.
Phơi đáy ao cho đến khi nền đất đáy nứt nẻ.
Phơi ao giúp ôxy hóa các chất hữu cơ, giảm H2 S và mầm bệnh. Và đặc biệt người nuôi có thể tận dụng tia cực tím của ánh nắng mặt
trời diệt những vi khuẩn và mầm bệnh gây hại.
Phơi khô đáy ao trong 2 - 3 tuần. Riêng với ao không thể tháo hết nước do nước ngấm qua bờ thì nên sên vét bùn đáy ao (lớp bùn đen) một cách triệt để. Bùn đáy phải được bơm vào ao chứa bùn, không bơm bùn ra kênh rạch. Không nên bơm hay đổ bùn lên bờ ao vì nước mưa có thể đem các chất thải trở lại ao nuôi. Gia cố bờ ao, cống ao, hạn chế việc bị rò rỉ, phơi đáy ao tối thiểu 15 ngày.
Đối với ao có trải bạt, sau khi thu hoạch cần dùng bơm xịt rửa sạch bùn, rêu bẩn bám vào mặt bạt, đồng thời kiểm tra lại tình trạng bạt bờ, bạt đáy. Nếu bạt bị thủng cần vá ngay để tránh nền đất đáy bị phèn xì lên ao tôm trong quá trình nuôi. Tình trạng bạt bờ, bạt đáy quá cũ có thể thay mới. Kiểm tra nền đất đáy phía dưới bạt trải; nếu thấy nhiều bùn quá đen, cần cuộn lại bạt, loại bỏ bùn, dùng cát đổ xuống đáy dày 20 cm trở lên, nén chặt, phơi khô và trải bạt trở lại. Khi lót bạt cho ao, cần đảm bảo việc làm phẳng đáy và phơi khô đáy ao. Ao cần được đầm nén kỹ ở bờ, và nền đáy phải được nghiêng về hướng cống thoát nước. Ưu tiên sử dụng chất liệu vải địa chống thấm HDPE, vì nó giúp kiểm soát tốt quá trình nuôi tôm, đảm bảo vệ sinh, tăng năng suất, tiết kiệm chi phí. Từ đó giúp đạt lợi nhuận cao hơn trong vụ nuôi. Quá trình trải bạt không nên vuốt quá sát nền đáy, và cần thiết kế 3 đến 4 ống thoát khí nối từ đáy ống lên bờ. Điều này để tránh tình trạng khí tích tụ dưới đáy, gây phồng bạt khi đổ nước vào ao nuôi.
Cấp nước
Lấy nước vào ao qua túi lọc có kích thước từ 30 - 50 µm. Tốt nhất nên lấy nước từ ao lắng qua ao nuôi, sau đó tiến hành xử lý diệt tạp, gây màu nước, ổn định môi trường để tiến hành thả giống.
Nếu nước được lấy từ ao ngoài vào cần xử lý như sau: Chạy quạt nước liên tục 3 ngày để trứng cá và giáp xác nở hết rồi tiến hành diệt tạp bằng bột bã trà (saponin), hoặc các loại hóa chất chuyên dùng theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Thời điểm saponin cho hiệu quả cao nhất là từ 4 - 6 giờ sáng. Nên tăng liều sử dụng khi độ mặn của nước ao thấp hơn 10‰. Để xử lý ốc đinh hoặc rong đáy có thể dùng sunphat đồng (CuSO4) với nồng độ xử lý là 2 - 3 ppm (2 - 3 kg/1.000 m³). Lưu ý: Không lấy nước vào ao khi nước ngoài kênh/mương có nhiều váng bọt, màng nhầy, nhiều phù sa, nguồn nước nằm trong vùng có dịch bệnh, nước có hiện tượng phát sáng vào ban đêm. Hai ngày sau khi diệt tạp, tiến hành diệt khuẩn để loại trừ mầm bệnh có trong nước ao bằng Chlorine, TCCA, BKC,... Trong đó, Chlorine được dùng phổ biến nhất với liều xử lý là 25 - 30 ppm (25 - 30 kg/1000 m³). pH càng cao, hàm lượng chất hữu cơ càng nhiều thì cần phải tăng liều xử lý của Chlorine. Cho chạy quạt và sục khí liên tục trong vòng 3 - 5 ngày để phân hủy dư lượng hóa chất diệt khuẩn trong ao. Sau đó tiến hành kiểm tra dư lượng hóa chất bằng thuốc thử.
Gây màu nước
Mục đích của việc gây màu cho ao tôm là thúc đẩy sự phát triển của các loại tảo có lợi tự nhiên trong ao nuôi, với mật độ phù hợp. Với mỗi điều kiện môi trường nuôi khác nhau, sẽ có phương pháp gây màu tương ứng. Thông thường, để chuẩn hóa môi trường ao, người nuôi cần bổ sung các chất dinh dưỡng như Dolomite hoặc mật rỉ đường để kích thích sự phát triển của tảo có ích. Màu nước thích hợp cho ao nuôi tôm thường có màu xanh lục nhạt hoặc màu nâu, thể hiện sự cân bằng giữa các loài tảo và vi sinh vật có lợi trong ao. Những loài tảo này giúp cung cấp ôxy, hấp thụ dinh dưỡng dư thừa, và là nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm giai đoạn mới thả.
Thừa Thiên
Đổi
CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA
- Huế
đời nhờ nuôi thủy sản xen ghép
Mô hình nuôi thủy sản
xen ghép và kinh doanh
vật tư thủy sản của anh
Trương Ngọc Nhật, (xã
Phú Gia, huyện Phú
Vang, tỉnh Thừa Thiên -
Huế đã mang lại doanh
thu ấn tượng với hơn 23
tỷ đồng mỗi năm).
Lợi nhuận 2,35 tỷ đồng/năm
Anh Trương Ngọc Nhật bắt đầu hành trình khởi nghiệp với mô hình nuôi thủy sản trên diện tích 0,3 ha. Tuy nhiên, thời gian đầu, do bản thân chưa có nhiều kỹ thuật, kinh nghiệm nuôi nên thủy sản thường xuyên bị dịch bệnh, cuộc sống gia đình anh gặp rất nhiều khó khăn.
Đối mặt với thử thách và không tìm được hướng đi khả quan, có thời điểm, anh Ngọc đã lặn lội vào vùng đất Tây Nguyên làm rẫy. Thế nhưng, niềm khao khát làm giàu trên quê hương đã thôi thúc anh trở về, quyết tâm gắn
bó với ngành thủy sản.
Rút kinh nghiệm từ lần thất
bại, anh Nhật dành thời gian để học hỏi kiến thức từ tài liệu, sách vở cho đến các mô hình thành công thực tế. Thời điểm đó, anh
Nhật cũng may mắn nhận được
sự hỗ trợ từ các cấp Hội Nông
dân và cơ quan khuyến nông để phát triển mô hình nuôi thủy sản xen ghép và bước đầu mang lại hiệu quả.
Khi có được thành công, anh
Nhật đã quyết định mở rộng quy mô, hợp tác với các doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, áp dụng công nghệ tiên tiến vào mô hình. Đến nay, anh đã sở hữu 35 ao nuôi thủy sản, với diện tích từ mỗi ao từ 3.000 đến 5.000 m2 . Hàng
năm, anh thả nuôi khoảng 100 triệu con tôm thẻ chân trắng và nhiều loại thủy sản khác.
Nhờ nắm bắt kỹ thuật, xử lý dịch bệnh hiệu quả nên sản lượng từ nuôi trồng thủy sản mỗi năm rất khả quan, riêng tôm mỗi năm thu 15 tấn, cá dìa 54 tấn, cá đối 30 tấn và một lượng lớn cua. Hiện tại, doanh thu từ mô
hình nuôi xen ghép của anh đạt khoảng 11 tỷ đồng, với lợi nhuận
2 tỷ đồng mỗi năm.
Trước việc mô hình nuôi xen ghép ngày càng lan tỏa, nhu cầu vật tư phục vụ nuôi xen ghép ngày càng lớn, anh Nhật đứng ra mở đại lý cung ứng vật tư, con giống thủy sản cho người dân.
Hàng năm, doanh thu từ đại lý đạt 12 tỷ đồng. Như vậy, tổng doanh thu đạt 23 tỷ đồng, lợi nhuận mỗi năm 2,35 tỷ đồng. Hiện mô hình kinh tế của anh Nhật giải quyết việc làm thường xuyên cho 15 lao động ở địa phương với thu nhập bình quân từ 12 triệu đồng/người/tháng và tạo việc làm thời vụ cho 40 lao động.
Giàu lòng nhân ái
Cùng với chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, anh Nhật còn hỗ trợ người dân bằng việc cho mua nợ vật tư nuôi trồng thủy sản
vươn lên thoát nghèo và làm giàu. Bên cạnh đó, anh Nhật cũng là một trong những người luôn đi đầu trong tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện ở địa phương. Hàng năm, anh đều trích một phần lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh để tặng quà, hỗ trợ các hộ dân nghèo, cận nghèo và các hoàn cảnh kém may mắn ở trong và ngoài xã. Trong đó, có 3 hộ dân hoàn cảnh khó khăn được anh nhận hỗ trợ kinh phí hàng tháng.
Với những nỗ lực và thành công này, nhiều năm qua anh đã được các cơ quan, ban ngành khen thưởng. Tiêu biểu như, anh
được Hội Nông dân tỉnh Thừa Thiên - Huế trao tặng danh hiệu “Nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi giai đoạn 2016 - 2019”, cùng danh hiệu “Nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi năm 2022” từ
UBND huyện Phú Vang.
Đặc biệt, năm 2024, anh là một trong 63 nông dân trên cả nước
được Trung ương Hội Nông dân
Việt Nam trao tặng danh hiệu “Nông dân Việt Nam xuất sắc”.
Châu Phi
Nuôi
rô
phi
hỗn hợp giới tính
Các thử nghiệm gần đây tại Thái Lan cho thấy mô
hình nuôi cá rô phi hỗn hợp giới tính là giải pháp
thay thế tiềm năng cho phương pháp nuôi cá toàn
đực bằng hoóc-môn, đặc biệt là trong các trang
trại ở châu Phi.
Hỗn hợp hay đơn tính?
Mặc dù mô hình nuôi cá rô phi đơn tính rất phổ biến và việc sử dụng hormone steroid
để chuyển giới tính diễn ra khá rộng rãi, nhưng các nhà nghiên cứu từ Viện Nuôi trồng Thủy sản thuộc Đại học Stirling gần đây đã công bố một bài báo nghiên cứu về hiệu quả và tính khả thi của mô hình nuôi rô phi hỗn hợp giới tính so với mô hình nuôi rô phi toàn đực.
John Bostock, nghiên cứu viên tại Viện Nuôi trồng Thủy sản Stirling cho biết: “Mặc dù lượng steroid rất nhỏ và không làm gia tăng đáng kể hormone trong cá thương phẩm, vẫn tồn tại một số rào cản pháp lý và lo ngại liên quan đến phúc lợi, sức khỏe và an toàn, cũng như tác động môi trường”.
Nhằm tìm hiểu liệu đàn cá đơn tính có còn là lựa chọn tối ưu cho ngành công nghiệp rô phi hay không, các nhà nghiên cứu tại
Đại học Stirling đã hợp tác với trại sản xuất cá rô phi Nam Sai
Farms tại Thái Lan, để tiến hành
thử nghiệm thực địa, so sánh kết
quả giữa mô hình nuôi cá rô phi
sông Nile dòng Big Nin đơn tính với tốc độ tăng trưởng cao và mô
hình hỗn hợp giới tính.
Các lồng nuôi được đặt trên sông Bambopong để mô phỏng
điều kiện nuôi thường gặp. Do tốc độ tăng trưởng khác nhau
giữa cá đực và cá cái, mật độ thả
nuôi cũng được điều chỉnh giữa các lồng nuôi cá đơn tính và lồng
nuôi hỗn hợp.
“Cá rô phi cái phát triển chậm
hơn cá đực và tạo thịt kém hiệu quả hơn, vì vậy chúng tôi đã
quyết định tăng gấp đôi mật độ thả nuôi trong hai thí nghiệm.
Giả định rằng nếu tỷ lệ giới tính là 1:1, sau khi loại bỏ cá cái, số
lượng cá đực sẽ tương đương với lồng nuôi đơn tính”, Warren Turner - Giám đốc điều hành trang trại Nam Sai giải thích.
Thí nghiệm cho thấy, mặc dù rô cái phát triển khá chậm dẫn
đến sản lượng thu hoạch ở các
lồng nuôi hỗn hợp thấp hơn,
nhưng việc gấp đôi mật độ các lồng nuôi này lại giúp tổng sản
lượng lớn hơn.
“Những trường hợp cá cái đã
được phân loại vào tuần thứ tư và thứ tám cho kết quả tương đồng về sinh khối, tỷ lệ sống và FCR so với cá được xử lý bằng hormone.
Sản lượng fillet và thành phần
dinh dưỡng của thịt cũng không có sự khác biệt nào, vì vậy, từ góc độ sản xuất, việc loại bỏ cá cái là một chiến lược thành
công”, Amaya Alballat, giảng viên tại Viện Nuôi trồng Thủy sản Stirling, nhận xét.
Phù hợp với châu Phi
Sau khi thực hiện thí nghiệm
thực địa, các nhà nghiên cứu đã
xây dựng một mô hình tài chính
mô phỏng một doanh nghiệp nuôi cá rô phi theo phương pháp tiêu chuẩn, nhằm xác định khả năng sinh lời của việc nuôi cá rô phi theo phương pháp nuôi hỗn hợp giới tính.
Dựa trên giá thị trường hiện tại của cá rô phi tại Thái Lan,
phương pháp nuôi đơn tính vẫn mang lại lợi nhuận cao nhất. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu nhận thấy, nếu các nhà sản xuất có thể đạt được mức giá cao hơn 8% cho cá không điều trị hormone, thì lợi nhuận sẽ tương đương.
Mặc dù mô hình nuôi cá rô phi hỗn hợp giới tính không phù hợp với các nhà sản xuất tại Thái Lan, các nhà nghiên cứu kết luận phương pháp này có thể áp dụng ở nơi khác như một số khu vực thuộc châu Phi – nơi sẵn sàng tiêu thụ cá rô phi cỡ nhỏ, và trong một số trường hợp, giá của rô phi này có thể gấp đôi so với giá trên các thị trường châu Á. Do đó, các nghiên cứu về mô hình nuôi rô phi hỗn hợp giới tính vẫn đang tiếp tục tại Kenya và được đánh giá là chiến lược đáng theo đuổi.