Người Chăn nuôi 106 - Tháng 8/2025

Page 1


NGƯỜI CHĂN NUÔI SỐ 106 - 8/2025

CƠ QUAN CHỦ QUẢN

Hiệp hội Gia cầm Việt Nam

HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP

TS. Nguyễn Thanh Sơn

TS. Nguyễn Quý Khiêm

Nhà báo Dương Xuân Hùng

Nhà báo Đỗ Huy Hoàn

Thư ký tòa soạn Nguyễn Chi

TỔNG BIÊN TẬP

TS. Nguyễn Thanh Sơn

TRƯỞNG BAN BIÊN TẬP

Nhà báo Đỗ Huy Hoàn

HỘI ĐỒNG KHOA HỌC

GS.TS. Nguyễn Duy Hoan; PGS.TS. Phạm Kim Đăng; PGS.TS. Bùi Hữu Đoàn; PGS.TS. Ngô Thị Kim Cúc; PGS.TS. Lê Văn Năm; TS. Lê Minh Lịnh; TS. Bạch Quốc Thắng; TS. Hoàng Tuấn Thành

CỘNG TÁC NỘI DUNG

Thu Hồng; Vũ Mưa; Kim Tiến; Phan Thanh Cường; Nguyên Anh; Hoàng Vũ; Minh Thanh; Dương Nghĩa; Lê Cung; Thùy Khánh; Sao Mai; Quỳnh Nga...

MỸ THUẬT: Nguyễn Nam Sơn

KỸ THUẬT VI TÍNH: Phạm Dương TÒA SOẠN

P906, tầng 9, Tòa nhà CT4, The Pride, KDT An Hưng, phường Hà Đông, Hà Nội.

Điện thoại: 0243 77 11 756; Email: nguoichannuoivn@gmail.com Website: nguoichannuoi.vn

TRỊ SỰ Nguyễn Thanh Đức

GIẤY PHÉP XUẤT BẢN: 156/GP-XBĐS

Khuôn khổ: 24,5 x 31 cm

Nơi in: Công ty TNHH MTV Quân đội I và Công ty Cổ phần In Sao Việt

LIÊN HỆ QUẢNG CÁO:

Ms. Ánh: 0963 555 554

Ms. Ngọc: 098 999 1977

Ms. Na: 0978 233 492

Email: quangcaoncn@gmail.com

LIÊN HỆ ĐẶT BÁO:

Ms. Ngọc Ánh: 0963 555 554

Email: phathanhtggc@mail.com

SỐ TÀI KHOẢN: 261.10.00.3454936

Tên tài khoản ngân hàng: TẠP CHÍ THẾ GIỚI GIA CẦM

Tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) Chi nhánh Tràng An Swift code: BIDV VNVX. CITAD: 012022001

Địa chỉ Ngân hàng: Số 11 Cửa Bắc, phường Ba Đình, TP. Hà Nội Ấn phẩm sử dụng sản phẩm giấy thân thiện với môi trường.

Thưa quý vị bạn đọc!

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hiện cả nước có 926 ổ dịch tả heo châu Phi, tại 34 tỉnh/thành phố chưa qua 21 ngày. Số heo buộc phải tiêu hủy được cập nhật lên Hệ thống thông tin dịch bệnh động vật (VAHIS) là hơn 330.000 con (chiếm khoảng 0,9% tổng đàn).

Trước tình hình này, các cấp bộ, ngành từ Trung ương đến các địa phương đã rốt ráo vào cuộc quyết liệt, nhiều cuộc họp khẩn được tổ chức cùng đó là các đoàn công tác của ban ngành chuyên môn đến tận các vùng dịch. Các địa phương cũng đang “gồng mình” với cuộc chiến ngăn chặn dịch tả heo châu Phi; một cuộc

chạy đua với thời gian - vừa để cứu đàn heo, vừa để giữ vững sinh kế cho người dân. Một trong những giải pháp được đẩy mạnh triển khai đó là công tác tiêm phòng vaccine.

Việt Nam hiện đã tự chủ được 218 loại vaccine nội địa, đáp ứng khoảng 80% nhu cầu phòng bệnh trong nước và bắt đầu xuất khẩu sang các thị trường như Philippines, Myanmar và Indonesia. Với vaccine dịch tả heo châu Phi, trong giai đoạn từ năm 2023 - 2025, cả nước đã có 1.047.097 con heo được tiêm phòng vaccine dịch tả heo châu Phi tại 45 tỉnh/thành phố (trước sáp nhập). Trong đó, số heo bị chết sau khi tiêm phòng chiếm tỷ lệ thấp, chỉ khoảng 0,1%. Đến nay, các doanh nghiệp đã sản xuất, cung ứng ra thị trường khoảng 7,8 triệu liều vaccine phòng bệnh dịch tả heo châu Phi. Tuy nhiên, tỷ lệ tiêm phòng còn thấp do người nuôi e ngại, chưa tin vào chất lượng vaccine nội địa. Như nhận định của Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến, điểm nghẽn lớn hiện nay là sự thiếu nhất quán trong tổ chức tiêm vaccine tại nhiều địa phương. Tình trạng tiêm chủng mang tính hình thức, tỷ lệ bao phủ thấp, giám sát lỏng lẻo đã làm suy yếu hiệu lực của các chương trình quốc gia, tiềm ẩn nguy cơ dịch bệnh tái bùng phát trên diện rộng. Nguyên nhân chính khiến người dân chưa “mặn mà” với việc tiêm phòng, đó là tâm lý “một lần bất tín vạn lần bất tin”.

Một trong những nguyên nhân khác cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả phòng, chống dịch bệnh chăn nuôi đó là hệ thống thú y cơ sở, lực lượng là “chốt chặn” đầu tiên và quan trọng bảo vệ đàn vật nuôi lại đang tồn tại nhiều hạn chế. Khó khăn lớn nhất được nêu rõ trong báo cáo của các địa phương là tình trạng thiếu hụt nhân lực và chế độ đãi ngộ chưa tương xứng, nhất là cán bộ thú y viên cấp xã.

Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà đã yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Cục Chăn nuôi và Thú y rà soát toàn bộ hệ thống bộ máy tổ chức thú y từ Bộ - Cục - Chi cục vùng - cấp tỉnh - đến cấp xã, trạm thú y. Cần phân định vai trò của các chi cục thú y vùng, trung tâm/phòng thí nghiệm quốc gia, bảo đảm phối hợp thông suốt giữa cấp cơ sở và các đơn vị kỹ thuật ở Trung ương; mỗi đơn vị phải được giao nhiệm vụ cụ thể, kèm nguồn lực, kinh phí. Những nội dung này đã được phân tích, dưới góc nhìn của các nhà quản lý, chuyên gia, qua các tuyến bài viết chuyên sâu trên số báo phát hành kỳ tháng 8/2025 của Đặc san Người Chăn nuôi. Mời quý độc giả đón đọc!

Trân trọng!

NGƯỜI CHĂN NUÔI SỐ 106 - 8/2025

Việt Nam lần đầu đăng cai Hội nghị Chăn nuôi Thú y heo Thế giới 2026

Hội nghị Chăn nuôi Thú y heo Thế giới lần thứ 28 (IPVS 2026) sẽ diễn ra từ ngày 16 - 19/6/2026 tại Việt Nam. Đây là sự kiện khoa học quốc tế uy tín, diễn ra hai năm một lần, quy tụ hàng nghìn chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp và nhà quản lý trong lĩnh vực chăn nuôi - thú y.

Việc Việt Nam được chọn làm nơi tổ chức IPVS 2026 là một vinh dự lớn, khẳng định vị thế và năng lực ngày càng cao của ngành chăn nuôi - thú y trong nước. Sự kiện không chỉ là cơ hội để các nhà khoa học cập nhật kiến thức, chia sẻ kinh nghiệm mà còn là cầu nối giúp thúc đẩy chuyển giao công nghệ, kết nối hợp tác quốc tế. Điều này góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của ngành chăn nuôi heo, một ngành kinh tế mũi nhọn của Việt

Nam. Hội nghị cũng đánh dấu cột mốc 70 năm thành lập Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh, đơn vị đăng cai tổ chức.

VIỆT ANH

Được tổ chức định kỳ hai năm một lần từ năm 1969, IPVS là hội nghị khoa học quốc tế uy tín bậc nhất trong lĩnh vực chăn nuôi và thú y heo Ảnh: NLU

Nâng cao giám sát an toàn thực

phẩm nguồn gốc động vật

Ngày 5/8 tại Hà Nội, Viện Chăn nuôi phối hợp Tổ chức FAO khởi động Dự án “Tăng cường năng lực giám sát vệ sinh an toàn thực phẩm có nguồn gốc động vật theo cách tiếp cận Một sức khỏe”, do Chính phủ Hàn Quốc tài trợ, thực hiện 2025 - 2029. Dự án nhằm nâng cao năng lực hệ thống giám sát, thúc đẩy phối hợp liên ngành giữa y tế, nông nghiệp và môi trường, ứng phó kịp thời nguy cơ mất an toàn thực phẩm, đặc biệt trong bối cảnh bệnh truyền nhiễm từ động vật gia tăng. Hoạt động này được kỳ vọng góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng, phát triển chăn nuôi bền vững và khẳng định cam kết của Việt Nam cùng các đối tác quốc tế trong thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.

MINH KHUÊ

Phát triển chăn nuôi gắn với du lịch sinh thái, thích ứng biến đổi

khí hậu

Vừa qua, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và Sở Nông nghiệp và Môi trường Khánh Hòa đã tổ chức diễn đàn về giải pháp phát triển chăn nuôi bền vững. Diễn đàn tập trung vào việc ứng phó với tác động của biến đổi

khí hậu tại các tỉnh Nam Trung bộ và Tây Nguyên, đồng thời gắn kết với du lịch sinh thái. Các mô hình chăn nuôi kết hợp du lịch sinh thái đã được triển khai hiệu quả, mang

lại giá trị gia tăng và đa dạng hóa sinh kế cho người dân. Tại diễn đàn, các chuyên gia, nhà quản lý và nông dân đã cùng thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm về phát triển kinh tế trang trại, du lịch nông nghiệp, từ đó tìm ra những giải pháp thiết thực, giúp ngành chăn nuôi phát triển bền vững và đóng góp vào kinh tế nông thôn.

THÙY KHÁNH

Cần sớm có hướng dẫn tiêm

vaccine ASF

Chiều 8/8 tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến đã làm việc với các đơn vị liên quan và 3 doanh nghiệp sản xuất vaccine dịch tả heo châu Phi (ASF) về công tác phòng, chống dịch. Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh tầm quan trọng của vaccine trong công tác phòng chống dịch. Theo đó, đề nghị Cục Chăn nuôi và Thú y sớm ban hành hướng dẫn chi tiết, đầy đủ về quy trình tiêm vaccine ASF. Đồng thời, yêu cầu khẩn trương triển khai tiêm vaccine cho heo đực giống và heo nái. Hiện có 3 loại vaccine ASF đã được cấp phép lưu hành tại Việt Nam, sản xuất bởi Công ty Navetco, AVAC và Dacovet.

MINH CHÂU

PHÚ THỌ

Ngày 5/8, Thứ trưởng Bộ Nông

Phú Thọ về công tác phòng, chống bệnh dịch tả heo châu Phi (ASF). Đây là một trong năm tỉnh chịu thiệt hại nặng nề nhất cả nước, với hơn 36.000 con heo bị tiêu hủy. Tại buổi làm việc, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến đánh giá cao nỗ lực của địa phương, nhưng cũng nhấn mạnh việc phải quyết liệt hơn nữa trong công tác phòng, chống dịch. Ông chỉ đạo Phú Thọ cần coi “chống dịch như chống giặc”, yêu cầu cán bộ cơ sở bám sát địa bàn, quản lý chặt chẽ và không cấp phép giết mổ nhỏ lẻ. Đồng thời, tỉnh cần tăng cường sử dụng vôi bột, hóa chất khử trùng và huy động cả hệ thống chính trị để giám sát, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, ngăn chặn dịch bùng phát trở lại.

KHÁNH NGUYỄN

THÁI NGUYÊN

Ứng dụng công nghệ cải thiện nguồn giống bò bản địa

Tháng 7/2023, Viện Chăn nuôi đã triển khai Dự án ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật xây dựng mô hình trang trại chăn nuôi bò lai sinh sản khép kín đảm bảo an toàn sinh học tại 2 xã Hà Hiệu (nay là xã Phúc Lộc) và Đồng Lạc (nay là xã Nam Cường). Dự án lựa chọn 5 hộ để thực hiện mô hình. Các hộ tham gia được hỗ trợ 30% bò giống, vật tư và phối giống; ứng dụng quy trình chăn nuôi khép kín. Sau 2 năm triển khai Dự án, đàn bò sinh sản đã cho ra đời 38 bê lai chất lượng cao, gồm 26 bê lai Brahman và 12 bê lai BBB.

Bê mới sinh đạt trọng lượng từ 24 - 35 kg, khi cai sữa đạt 100 - 180 kg, vượt trội rõ rệt so với các giống bò truyền thống. HÀ MY

QUẢNG NINH

Thu hút nhiều dự án chăn nuôi lớn

Đầu tiên phải kể đến, dự án chăn nuôi heo công nghệ cao của Công ty CP Chăn nuôi Greentech (xã Đường Hoa) đã chính thức đi vào vận hành đầu năm 2025. Quy mô dự án này là hơn 45 ha, với 5.000 con heo nái, 20.000 con heo giống, 40.000 con heo thịt (2 - 3 lứa/năm). Tiếp theo là dự án Dabaco Quảng Ninh do Công ty CP Tập đoàn Dabaco Việt Nam làm chủ đầu tư, với quy mô 3.600 con heo nái, cho ra 7.000 - 10.000 con heo giống/năm. Cùng với đó là dự án chăn nuôi heo công nghệ cao mở rộng (giai đoạn 2) tại xã Ba Chẽ của Công ty CP Khai thác Khoáng sản Thiên Thuận Tường, với quy mô 6.000 con heo thương phẩm/năm; các dự án chăn nuôi heo công nghệ cao NHP tại xã Đông Ngũ của Công ty CP Chăn nuôi NHP Đông Hải, dao động 2.400 - 3.000 con heo nái/năm, tổng đàn (cả nái, giống, thương phẩm) 30.000 - 70.000 con heo/năm.

ĐỒNG NAI

Gần 130.000 con heo được truy xuất

nguồn gốc

Tính đến cuối tháng 6/2025, toàn tỉnh đã có 1.224 cá nhân, tổ chức gồm: siêu thị, cửa hàng tiện lợi, chợ, cơ sở giết mổ, thương nhân, cơ sở chăn nuôi, bếp ăn tập thể khu công nghiệp… đăng ký tham gia truy xuất nguồn gốc heo và được cấp tài khoản. Từ đó, đã có hơn 129,7 nghìn con heo được truy xuất nguồn gốc. Tính đến nay, toàn tỉnh có gần 1,9 nghìn trang trại (đạt hơn 90% số trang trại toàn tỉnh) đã đăng ký khai báo trên phần mềm Quản lý đàn và thông tin dịch bệnh (TeFood). Tuy nhiên, duy trì khai báo qua phần mềm trong tháng 7/2025 chỉ có 175 trang trại (đạt hơn 9,2% so với số trang trại đã đăng ký) gồm: 93 cơ sở chăn nuôi heo với tổng đàn hơn 356,3 nghìn con; 65 cơ sở chăn nuôi gà với tổng đàn hơn 5,7 triệu con; 5 trang trại chăn nuôi bò với tổng đàn gần 3,3 nghìn con; 12 cơ sở chăn nuôi vịt với tổng đàn hơn 226 nghìn con.

TÂY NINH

92 cơ sở chăn nuôi đạt chứng nhận an toàn dịch bệnh

Trong đó, có 73 trại chăn nuôi gia cầm, gồm 44 trại gà đạt chứng nhận đối với bệnh cúm gia cầm H5N1 và Newcastle; 24 trại gà và 5 trại vịt đạt chứng nhận đối với bệnh cúm gia cầm H5N1. Đối với nhóm chăn nuôi heo, có 18 trại được cấp giấy chứng nhận an toàn dịch bệnh, gồm 14 trại đạt tiêu chuẩn an toàn đối với các bệnh lở mồm long móng, dịch tả heo cổ điển và dịch tả heo châu Phi; 3 trại đạt chứng nhận đối với các bệnh trên đồng thời bổ sung thêm bệnh tai xanh; 1 trại chỉ đạt chứng nhận an toàn đối với bệnh dịch tả heo châu Phi. Ngoài ra, tỉnh có 1 trại chăn nuôi bò đạt chứng nhận an toàn dịch bệnh đối với các bệnh lở mồm long móng, sảy thai truyền nhiễm và lao.

▶ Tính đến hết tháng 7, tổng đàn vật nuôi trong toàn tỉnh Phú Thọ có gần 1,85 triệu con heo, gần 37,7 triệu con gia cầm, gần 252.000 con bò, khoảng 165.000 con trâu. Tổng sản lượng thịt hơi các loại 7 tháng năm 2025 đạt trên 283.000 tấn. Toàn tỉnh hiện có trên 5.200 trang trại chăn nuôi tập trung; hình thành 219 chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm nông - lâm - thủy sản.

▶ Ngày 14/8, tại kỳ họp thứ hai, Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Trị nhiệm kỳ 2021 - 2026 đã thông qua Nghị quyết quy định mức hỗ trợ sản xuất nông nghiệp để khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch hại thực vật trên địa bàn. Đối với lĩnh vực chăn nuôi, Quảng Trị hỗ trợ 15.000 - 30.000 đồng/ con gia cầm và 600.000 - 7.000.000 đồng/con, tùy chủng loại và ngày tuổi của gia súc.

▶ ThS Lê Hồng Trung, Phó Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y Nghệ An cho biết, phần lớn các trang trại quy mô lớn tại tỉnh đã áp dụng tốt biện pháp an toàn sinh học. Khoảng 70% trang trại vừa và nhỏ, cùng 50% hộ chăn nuôi, cũng đã tiếp cận và triển khai quy trình này. Nghệ An xác định phát triển chăn nuôi tuần hoàn là hướng đi tất yếu, nhằm thích ứng biến đổi khí hậu, tiết kiệm tài nguyên và giảm nguy cơ ô nhiễm môi trường.

▶ Tập đoàn Hòa Phát vừa công bố thông tin sau 7 tháng, doanh nghiệp đã ghi nhận mức tăng trưởng lợi nhuận 135% trong lĩnh vực chăn nuôi gia cầm so với cùng kỳ năm ngoái. Kết quả này là nhờ giá trứng tăng mạnh trong bối cảnh nguồn cung giảm. Sản lượng duy trì ổn định gần 1 triệu quả trứng gà mỗi ngày, tương đương công suất cao nhất trong năm 2024.

CHĂN NUÔI SỐ 105 - 6/2025

Gỡ

vướng

mắc, giảm gánh nặng cho ngành

chăn nuôi

Ngày 12/8/2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường có công văn số 5414/BNNMT-CNTY gửi Thủ tướng Chính phủ phản ánh về một số vướng mắc

khi áp dụng Luật Thuế Giá trị gia tăng đối với nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, sản phẩm giống vật nuôi, sản phẩm chăn nuôi.

Theo đó, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính chủ trì tham mưu trình

Chính phủ đề nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung quy định tại điểm d khoản 2 Điều 9 Luật Thuế Giá trị gia tăng vừa mới có hiệu lực từ 1/7/2025.

Gặp khó khi quy định bị chồng chéo

Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, quy định hiện hành đang tồn tại mâu thuẫn: Điều

5 của Luật quy định thức ăn chăn nuôi, sản phẩm giống vật nuôi, sản phẩm chăn nuôi thuộc diện không chịu thuế; nhưng Điều 9 lại

đưa những mặt hàng này vào nhóm chịu thuế suất 5%. Sự chồng chéo này gây lúng túng cho cơ quan thuế, khó khăn cho doanh nghiệp và hộ sản xuất, nhất là khi chi phí nguyên liệu đầu vào và giá thức ăn chăn nuôi vẫn ở mức cao.

Cụ thể, khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 5

Luật Thuế Giá trị gia tăng quy định đối tượng không chịu thuế bao gồm: “Sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của tổ chức, cá nhân tự sản xuất, đánh bắt bán ra và ở khâu nhập khẩu.

Sản phẩm giống vật nuôi theo quy định của pháp luật về chăn nuôi, vật liệu nhân giống cây trồng theo quy định của pháp luật về trồng trọt. Thức ăn chăn nuôi theo quy định của pháp luật về chăn nuôi; thức ăn thủy sản theo quy định của pháp luật về thủy sản.

Tuy nhiên, tại điểm d khoản 2 Điều 9

Luật Thuế Giá trị gia tăng lại quy định mức thuế suất 5% áp dụng đối với: “Sản phẩm cây trồng, rừng trồng (trừ gỗ, măng), chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường, trừ sản phẩm quy định tại

khoản 1 Điều 5 của Luật này”.

Về thức ăn chăn nuôi, khoản 25 Điều 2 Luật Chăn nuôi quy định: “Thức ăn chăn nuôi

là sản phẩm mà vật nuôi ăn, uống ở dạng tươi, sống hoặc đã qua chế biến bao gồm thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh, thức ăn đậm đặc, thức ăn bổ sung và thức ăn truyền thống”.

Khoản 29 Điều 2 Luật Chăn nuôi quy định: “Thức ăn truyền thống là sản phẩm nông nghiệp, thủy sản, công nghiệp chế biến được sử dụng phổ biến theo tập quán trong chăn nuôi bao gồm thóc, gạo, cám, ngô, khoai, sắn, bã rượu, bã bia, bã sắn, bã dứa, rỉ mật đường, rơm, cỏ, tôm, cua, cá và loại sản phẩm tương tự khác”.

Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, thức ăn truyền thống là các nguyên liệu có nguồn gốc thực vật là sản phẩm cây trồng chưa qua chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường như thóc, gạo, cám, ngô, khoai, sắn… thuộc đối tượng

không chịu thuế VAT theo quy định tại Điều 5 Luật Thuế Giá trị gia tăng.

Theo nội dung Công văn: “Việc một số cơ quan thuế tại địa phương áp dụng mức thuế suất 5% đối với các mặt hàng này theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 9 Luật Thuế Giá trị gia tăng là không phù hợp, đồng thời tạo ra gánh nặng chi phí đáng kể cho doanh nghiệp và người chăn nuôi. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp nhỏ không có khả năng nhập khẩu trực tiếp hoặc không thể thu mua nguyên liệu từ nông dân mà phải qua trung gian sơ chế”. Bộ Nông nghiệp và Môi trường lý giải do thức ăn chăn nuôi là đối tượng không chịu thuế VAT theo quy định tại khoản 3 Điều 5 Luật Thuế Giá trị gia tăng, nên thuế đầu vào không được khấu trừ, buộc doanh nghiệp Theo các chuyên gia, khi luật rõ ràng, thống nhất, việc thực thi sẽ hiệu quả hơn, hạn chế được tranh chấp và tạo môi trường thuận lợi cho phát triển sản xuất Ảnh: BAF

phải hạch toán vào chi phí sản xuất, làm tăng giá thức ăn chăn nuôi và sản phẩm chăn nuôi, cuối cùng người tiêu dùng trong nước phải gánh chịu.

Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thức ăn chăn nuôi đều áp dụng VAT đối với nguyên liệu đầu vào theo khoản 3 Điều 5 Luật Thuế Giá trị gia tăng; một số doanh nghiệp áp dụng theo khoản 5 Điều 9 Luật Thuế Giá trị gia tăng nhưng để treo thuế. Một số doanh nghiệp sản xuất cầm chừng vì chưa biết hạch toán kinh doanh thế nào khi quy định thuế chưa rõ ràng.

Kiến nghị sửa đổi

Theo quy định của Luật Chăn nuôi, heo con cai sữa hoặc gia cầm con một ngày tuổi được sinh ra từ các đàn giống bố mẹ với mục

đích nuôi thịt là đối tượng không chịu thuế

VAT theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Luật Thuế Giá trị gia tăng. Do vậy, việc một số cơ quan thuế ở địa phương áp dụng mức thuế suất 5% đối với các mặt hàng này theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 9 Luật Thuế Giá trị gia tăng là không phù hợp. Do các đơn vị phân phối giống không được khấu trừ thuế đầu ra nên việc trả thêm 5% VAT sẽ làm tăng giá thành sản phẩm đầu ra, tăng giá thực phẩm đến tay người tiêu dùng trong nước, gây bất lợi lớn cho các trại chăn nuôi, đặc biệt trong bối cảnh thị trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt như hiện nay.

Vì vậy, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề nghị Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan tham mưu trình Chính phủ đề nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung quy định tại điểm d khoản 2 Điều 9 Luật Thuế Giá trị gia tăng theo trình tự, thủ tục rút gọn.

Việc sửa đổi theo hướng: sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường

được sử dụng làm thức ăn chăn nuôi; sản phẩm giống vật nuôi; sản phẩm chăn nuôi là

đối tượng không chịu thuế, giống như quy

định đối với thức ăn chăn nuôi, sản phẩm giống vật nuôi, sản phẩm chăn nuôi tại Điều

5 Luật Thuế Giá trị gia tăng.

Trong thời gian điểm d khoản 2 Điều 9

Luật Thuế Giá trị gia tăng chưa được sửa đổi, bổ sung, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề nghị Thủ tướng Chính phủ đồng ý cho ban hành Nghị quyết của Chính phủ về nội dung

sửa đổi, bổ sung trên. VÂN ANH

VĂN BẢN MỚI

☐ Ngày 1/8/2025, Đảng ủy Bộ Nông nghiệp và Môi trường có Công văn số 284-CV/ĐU yêu cầu các địa phương tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đồng bộ, quyết liệt các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch tả heo châu Phi (ASF). Trong đó, yêu cầu các tỉnh ủy, thành ủy tổ chức quán triệt, triển khai đến các cấp ủy, chính quyền thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 34-CT/ TW ngày 20/5/2019 của Ban Bí thư về tăng cường lãnh đạo công tác phòng, chống ASF, cùng các chỉ thị, công điện của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Đồng thời, khẩn trương kiện toàn tổ chức bộ máy, tăng cường năng lực cho cơ quan thú y địa phương; bố trí đầy đủ kinh phí, nguồn lực để triển khai hiệu quả Kế hoạch quốc gia phòng, chống ASF giai đoạn 2020 - 2025. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức phòng, chống dịch bệnh trong toàn hệ thống chính trị và người dân; tập trung tổ chức đồng bộ các biện pháp kỹ thuật, đặc biệt là tiêm phòng vaccine; chủ động phòng dịch, dập dịch nhanh chóng. Thường xuyên chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân lơ là, chủ quan, không kịp thời phát hiện hoặc xử lý dứt điểm ổ dịch, để dịch lan rộng gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến đời sống nhân dân và hoạt động sản xuất kinh doanh.

☐ Ngày 5/8/2025, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1671/QĐTTg phê duyệt phương án cắt giảm, đơn giản hóa các quy định, thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh thuộc phạm vi quản lý của Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Theo Quyết định, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh trong 13 lĩnh vực: Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; biến đổi khí hậu; biển và hải đảo; chăn nuôi và thú y; đo đạc, bản đồ và thông tin địa lý; khí tượng thủy văn; khoa học và công nghệ; lâm nghiệp và kiểm lâm; môi trường; quản lý tài nguyên nước; xây dựng và quản lý công trình thủy lợi; thủy sản và kiểm ngư; trồng trọt và bảo vệ thực vật. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành.

☐ Ngày 6/8/2025 Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Công điện số 128/CĐ-TTg yêu cầu các bộ ngành, địa phương triển khai một số nhiệm vụ, giải pháp quan trọng thúc đẩy tăng trưởng, kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Trong đó có nội dung về tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, phát triển nông nghiệp xanh. Theo đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương có liên quan: a) Khẩn trương triển khai hiệu quả các giải pháp đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, nhất là lương thực, thực phẩm để bảo đảm nguồn cung đáp ứng đầy đủ nhu cầu trong nước, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống; đồng thời tăng cường, đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng Việt Nam có thế mạnh sang các thị trường, khu vực Trung Đông, Nam Mỹ, châu Phi, nhất là trong khối ASEAN. b) Tập trung chỉ đạo tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn, bền vững. Rà soát quy hoạch, kế hoạch sản xuất theo hướng đa dạng hóa sản phẩm, đa dạng thị trường để chủ động thích ứng linh hoạt với biến động, nhu cầu mới của thị trường; đẩy mạnh xây dựng chỉ dẫn địa lý, thương hiệu sản phẩm, cấp mã số vùng trồng, vùng nuôi, xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc hàng hóa chặt chẽ, tránh gian lận thương mại, nhất là đối với các ngành hàng có nguy cơ lẩn tránh nguồn gốc xuất xứ cao; đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp. c) Theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết, thiên tai, bão, lũ để chủ động cảnh báo, hướng dẫn ứng phó kịp thời, giảm thiểu đến mức thấp nhất thiệt hại, bảo đảm an toàn tính mạng và tài sản của nhân dân; hỗ trợ người dân khắc phục hậu quả thiên tai, sớm khôi phục sản xuất và ổn định cuộc sống. d) Phát hiện sớm, ngăn chặn, đẩy lùi các loại bệnh dịch phá hoạt cây trồng, vật nuôi. Có giải pháp căn cơ, hiệu quả để đẩy lùi và ngăn chặn có hiệu quả dịch tả heo châu Phi.

VACCINE CHO CHĂN NUÔI

"VŨ KHÍ" CHIẾN LƯỢC TRONG PHÒNG, CHỐNG DỊCH

Trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp nhất là với chăn nuôi heo thì việc tiêm phòng vaccine được coi là giải pháp căn cơ nhất. Vaccine không chỉ là lá chắn bắt buộc để bảo vệ đàn vật nuôi mà còn là yếu tố then chốt để ngành chăn nuôi Việt Nam khẳng định vị thế, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Cùng đặc san Người Chăn nuôi lắng nghe chia sẻ của đại diện nhà quản lý, doanh nghiệp, nhà khoa học và đối tác quốc tế về vấn đề này.

ÔNG PHÙNG ĐỨC TIẾN, THỨ TRƯỞNG BỘ NÔNG NGHIỆP

VÀ MÔI TRƯỜNG

Cần xây dựng lại niềm tin

vaccine cho người dân

Trong bối cảnh chăn nuôi nông hộ nhỏ vẫn chiếm tỷ trọng lớn và khó đảm bảo an toàn sinh học, vaccine chính là giải pháp trọng tâm và bắt buộc. Điểm nghẽn lớn hiện nay là sự thiếu nhất quán trong tổ chức tiêm vaccine tại nhiều địa phương. Tình trạng tiêm chủng mang tính hình thức, tỷ lệ bao phủ thấp, giám sát lỏng lẻo đã làm suy yếu hiệu lực của các chương trình quốc gia, tiềm ẩn nguy cơ dịch bệnh tái bùng phát trên diện rộng. Nguyên nhân chính khiến người dân chưa “mặn mà” với việc tiêm phòng, đó là tâm lý “một lần bất tín vạn lần bất tin”. Thực tế, nhiều trường hợp người dân tiêm vaccine xong nhưng heo vẫn chết, trong khi không có ai chịu trách nhiệm. Ở lĩnh vực khoa học công nghệ, ngành Thú y đã có những bước tiến đáng kể như nghiên cứu thành công vaccine tái tổ hợp phòng dịch tả heo châu Phi, giải trình tự gen các chủng virus mới. Tuy nhiên, chúng ta cần tiếp tục đầu tư có chiều sâu vào hệ thống giám sát, cảnh báo, chẩn đoán và sản xuất vaccine nội địa. Trong điều kiện hạ tầng còn hạn chế, tôi đề nghị đẩy mạnh xã hội hóa, thuê dịch vụ trong các khâu như kiểm nghiệm, cấp phép và quản lý vaccine, không thể duy trì cơ chế độc quyền vì sẽ dẫn tới kẽ hở cho tiêu cực.

ÔNG NGUYỄN VĂN LONG, VỤ TRƯỞNG VỤ KHOA HỌC VÀ

CÔNG NGHỆ

Sản xuất vaccine nội địaYếu tố then chốt để đối phó

dịch bệnh

Thời gian qua, công tác phòng, chống dịch bệnh động vật vẫn còn nhiều khó khăn, đặc biệt là trong việc tiêm phòng. Tỷ lệ tiêm phòng thấp đối với nhiều loại bệnh như dại (60%) hay viêm da nổi cục (47%) cho thấy một thực trạng đáng lo ngại. Từ thực tế này cho thấy, việc sản xuất vaccine thú y trong nước để chủ động đối phó với tình hình dịch bệnh gia tăng là rất cần thiết. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ vaccine trên thế giới đang tạo ra cơ hội lớn để Việt Nam học hỏi và hợp tác, đồng thời các chi cục chăn nuôi, thú y, thủy sản và các doanh nghiệp liên quan cần phối hợp chặt chẽ để thực hiện hiệu quả. Với những thành tựu đã được thế giới ghi nhận, Việt Nam có tiềm năng lớn để tiếp tục phát triển và sáng tạo ra các loại vaccine mới, đáp ứng nhu cầu bảo vệ sức khỏe vật nuôi và người tiêu dùng. Cùng với xu hướng xã hội hóa nguồn lực và sự tham gia mạnh mẽ của các doanh nghiệp, ngành thú y và chăn nuôi Việt Nam đã sẵn sàng áp dụng những công nghệ tiên tiến, phát triển các

loại vaccine hiện đại.

- CHUYÊN

ÔNG NGUYỄN NHƯ SO, CHỦ TỊCH TẬP ĐOÀN DABACO

Tiên phong sản xuất vaccine, khẳng định vị thế

Việt Nam trên bản đồ sinh học toàn cầu

Với hơn 60.000 heo nái cơ bản và sản lượng hơn 1,5 triệu heo thịt/ năm, Dabaco nhận thức rõ tầm quan trọng của việc kiểm soát dịch bệnh. Khi dịch tả heo châu Phi (ASF) lần đầu xuất hiện tại Việt Nam năm 2019, Dabaco đã xác định sứ mệnh tiên phong nghiên cứu và phát triển vaccine. Thông qua hợp tác với Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), Dabaco đã tiếp cận thành công công nghệ virus nhược độc ASF-G-Delta I 177L và nhanh chóng phát triển vaccine DACOVAC-ASF2, với hiệu quả bảo hộ lên đến 80 - 100%. Việc khánh thành Nhà máy sản xuất vaccine DACOVET vào tháng 3/2025 là một cột mốc quan trọng. Với tổng vốn đầu tư hơn 300 tỷ đồng và công suất 200 triệu liều mỗi năm, nhà máy được trang bị dây chuyền hiện đại từ Mỹ, Đức, Nhật Bản. Đây là nhà máy duy nhất tại Việt Nam ứng dụng công nghệ đóng gói tự động và kiểm soát chất

lượng nghiêm ngặt, cung cấp sản phẩm vaccine chất lượng quốc tế cho ngành chăn nuôi. Dabaco đang và sẽ tiếp tục

nghiên cứu phát triển các dòng vaccine cho gia súc, gia cầm, từng bước khẳng định vị thế của Việt Nam trên bản đồ công nghệ sinh học toàn cầu.

Hướng tới sự cạnh tranh công bằng và bền vững

Trong bối cảnh thị trường Việt Nam ngày càng mở cửa và hội nhập sâu rộng, ngành vaccine thú y cần hướng tới sự cạnh tranh công bằng và bền vững. Theo chúng tôi, để đáp ứng tốt hơn nhu cầu thực tiễn, các doanh nghiệp sản xuất trong nước nên tập trung vào bốn yếu tố then chốt: Đáp ứng dịch tễ tại chỗ, nghĩa là vaccine phải phù hợp với đặc thù dịch bệnh trong nước và dịch tễ khu vực trại. Đảm bảo an toàn, không chỉ bảo hộ bệnh hiệu quả, tránh lây nhiễm chéo mà còn đảm bảo an toàn lâu dài, không bài thải mầm bệnh ra môi trường.

Nâng cao hiệu quả để cải thiện năng suất chăn nuôi. Cuối

cùng, chi phí sản xuất hợp lý nhằm đảm bảo tính cạnh tranh. Với vai trò nhà phân phối, Olmix Asialand Việt Nam liên tục

cập nhật thông tin dịch bệnh mới/tái nổi cho nhà sản xuất để đưa về các giải pháp tiên tiến đáp ứng ba yếu tố: bảo vệ sức khỏe, đảm bảo an toàn môi trường và nâng cao hiệu quả sản xuất. Dù đóng góp nhỏ, chúng tôi tự hào là “lá cờ xung phong” trong chiến lược phát triển bền vững quốc gia.

ÔNG

NGUYỄN THÀNH CÔNG, PHÓ CHỦ TỊCH UBND

TỈNH SƠN LA

Bí quyết tiêm phòng hiệu quả và đẩy mạnh tuyên truyền

Là một trong những địa phương có tỷ lệ tiêm phòng cao và kiểm soát dịch bệnh tốt, Sơn La đã chứng minh hiệu quả của việc đầu tư cho công tác phòng, chống dịch. Trong 5 năm qua (2020 - 2025), tỉnh đã bố trí ngân sách 81 tỷ đồng để mua vaccine tiêm phòng cho đàn vật nuôi. Bên cạnh đó, Sơn La cũng đẩy mạnh xã hội hóa để tăng tỷ lệ bao phủ. Bí quyết thành công của Sơn La không chỉ nằm ở việc tiêm phòng tốt mà còn ở sự quyết liệt xử lý khi phát hiện ổ dịch, bao gồm tiêu hủy gia súc mắc bệnh và ngăn chặn hành vi vận chuyển gia súc, gia cầm bệnh. Thực tế cho thấy, nguyên nhân khiến tỷ lệ tiêm phòng vaccine dịch tả heo châu Phi ở nhiều nơi còn thấp là do người chăn nuôi chưa “mặn mà” và tâm lý chủ quan, đặc biệt đối với các hộ nhỏ lẻ. Để giải quyết vấn đề này, Sơn La đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền về ý nghĩa và vai trò của vaccine trong phòng, chống dịch bệnh. Khi người chăn nuôi hiểu rõ được tầm quan trọng, việc tiêm phòng mới thực sự trở thành một “lá chắn” vững chắc, bảo vệ ngành chăn nuôi địa phương.

ÔNG NIKLAS BIRKNER, TỔNG GIÁM ĐỐC BOEHRINGER

INGELHEIM VIỆT NAM

Sức khỏe vật nuôi gắn liền với sức khỏe cộng đồng

Đại diện cho một trong những công ty hàng đầu trong lĩnh vực sức khỏe thú y toàn cầu, các chiến dịch tiêm phòng của Boehringer

Ingelheim Việt Nam suốt 5 năm qua đã chứng minh cam kết: “khi

động vật khỏe mạnh thì con người cũng khỏe mạnh hơn”. Với vai trò là một công ty dẫn đầu trong lĩnh vực này, Boehringer

Ingelheim Việt Nam luôn mang đến những giải pháp y tế tiên

tiến, đồng hành cùng các đối tác để nâng cao nhận thức và lan

tỏa hành động thiết thực. Mục tiêu của doanh nghiệp là “Mỗi mũi tiêm phòng không chỉ là hành động để bảo vệ vật nuôi mà còn là một bước tiến quan trọng trong hành trình bảo vệ sức khỏe cộng đồng tại Việt Nam”. Đây là tầm nhìn chiến lược, nhấn mạnh mối liên kết chặt chẽ giữa sức khỏe động vật, an ninh lương thực và sức khỏe con người, đồng thời cũng khẳng định vai trò không thể thiếu của các doanh nghiệp quốc tế trong việc hỗ trợ phát triển ngành chăn nuôi bền vững tại Việt Nam.

VACCINE LÁ CHẮN CHO CHĂN NUÔI BỀN VỮNG

Trong bối cảnh ngành chăn nuôi ngày càng chịu tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu, toàn cầu hóa thương mại và sự gia tăng của dịch bệnh động vật, vaccine đã khẳng định vai trò như “lá chắn thép” bảo vệ sức khỏe đàn vật nuôi.

Chăn nuôi Việt Nam trong kỷ nguyên vaccine

Từ cuối thế kỷ XX, với sự hỗ trợ của Nhà nước, ngành thú y từng bước xây dựng các chương trình tiêm phòng bắt buộc, mở rộng đối tượng tiêm và tăng cường năng lực sản xuất vaccine trong nước. Những loại vaccine quan trọng như lở mồm long móng, cúm gia cầm H5N1, tai xanh trên heo, dịch tả vịt… được sản xuất hoặc nhập khẩu và phân phối đến hầu hết các tỉnh, thành. Nhiều địa phương đã áp dụng chính sách hỗ trợ kinh phí mua và chi phí tiêm cho các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ. Với

tiết khí hậu nóng ẩm, dịch bệnh luôn tiềm ẩn nguy cơ lớn tại các địa phương. Chính vì thế, việc sử dụng vaccine được coi là giải pháp đặc biệt quan trọng. Và Việt Nam là một trong số ít quốc gia áp dụng tiêm phòng đại trà cúm A/H5 cho gia cầm. Nhờ đó, trong nhiều năm qua, số ổ dịch cúm gia cầm độc lực cao giảm mạnh so với giai đoạn trước năm 2005.

Đối với ngành chăn nuôi heo, Việt Nam đứng trong nhóm 10 quốc gia sản xuất thịt heo lớn nhất thế giới, với tổng đàn khoảng 30 triệu con. Các bệnh nguy hiểm trên heo gồm: Dịch tả heo châu Phi (ASF), Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản (PRRS - tai xanh), Lở mồm long móng (LMLM), dịch tả heo cổ

điển (CSF)… Trong đó, ASF từ năm 2019 đã gây thiệt hại nghiêm trọng, làm tiêu hủy hàng triệu con, ảnh hưởng lớn tới nguồn cung thịt và giá cả. Tuy nhiên, với việc phủ rộng tiêm phòng vaccine, những dịch bệnh nguy hiểm này đã được kiểm soát khá hiệu quả, hạn chế thiệt hại kinh tế. Không chỉ bảo vệ đàn vật nuôi, vaccine còn đóng vai trò quan trọng trong

Dấu ấn quan trọng của vaccine “made in Vietnam”

Trong chiến lược phát triển chăn nuôi bền vững, vaccine được coi là trụ cột cùng với các biện pháp an toàn sinh học và quản lý chuồng trại hợp lý. Sự kết hợp này tạo ra một hệ thống phòng thủ đa lớp giúp ngăn chặn mầm bệnh xâm nhập, phát hiện sớm và hạn chế lây lan, đặc biệt với các vật nuôi chủ lực như heo và gia cầm.

Từ những năm 2000, Việt Nam bắt đầu chú trọng hơn đến việc chủ động phòng bệnh trong chăn nuôi thông qua tiêm phòng vaccine. Giai đoạn đầu, phần lớn vaccine được nhập khẩu từ các quốc gia có nền công nghiệp sinh học phát triển như Trung Quốc, Mỹ, Pháp, Hàn Quốc... Tuy nhiên, từ năm 2012 trở lại đây, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu quan trọng trong việc tự chủ sản xuất vaccine thú y.

Tính đến năm 2024, cả nước có 92 cơ sở sản xuất thuốc thú y đạt tiêu chuẩn GMPWHO, trong đó có 12 đơn vị chuyên sản xuất vaccine. Việt Nam hiện đã tự chủ được 218 loại vaccine nội địa, đáp ứng khoảng 80% nhu cầu phòng bệnh trong nước và bắt đầu xuất khẩu sang các thị trường như Philippines, Myanmar và Indonesia.

Và vaccine đã thể hiện rõ vai trò chiến lược. Cụ thể, trước năm 2005, Việt Nam chủ yếu kiểm soát dịch cúm gia cầm thông qua tiêu hủy và kiểm dịch. Tuy nhiên, sau nhiều đợt bùng phát nghiêm trọng, Bộ NN&PTNT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã triển khai chương trình tiêm phòng cúm gia cầm đại trà, kết hợp với truyền thông và kiểm soát vận chuyển gia cầm. Vaccine NavetVifluvac ra đời trong bối cảnh đó, được đánh giá có hiệu quả phòng bệnh cao, giúp giảm thiểu số ổ dịch và thiệt hại kinh tế trong suốt hơn một thập kỷ.

Với đàn gia súc, Việt Nam hiện sản xuất được nhiều loại vaccine phòng bệnh LMLM. Năm 2023, cả nước đã tiêm hơn 46 triệu liều

▶ Tính đến nay, Việt Nam còn có 12 cơ sở sản xuất vaccine thú y đạt chuẩn GMP-WHO và có khả năng sản xuất 218 loại vaccine khác nhau, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu.

▶ Đại diện Cục Chăn nuôi và Thú y cho rằng, để nâng cao tỷ lệ tiêm phòng

thành công, cần sự vào cuộc đồng bộ của cơ quan quản lý, người chăn nuôi và đặc biệt là các doanh nghiệp cung ứng vaccine. Ở đây, doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở việc cung cấp vaccine mà trong quá trình triển khai, cần tích cực đồng hành, hỗ trợ kỹ thuật, đảm bảo quy trình vận chuyển, bảo quản đúng chuẩn, hướng dẫn tiêm phòng đúng đối tượng, liều lượng và kịp thời xử lý các sự cố sau tiêm nếu có.

vaccine LMLM, góp phần khống chế hiệu quả các đợt bùng phát cục bộ.

Và không thể không nhắc đến dịch tả heo châu Phi, bệnh gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành chăn nuôi heo từ năm 2019 đến nay. Sau nhiều năm nghiên cứu, Việt Nam đã phát triển thành công 3 loại vaccine ASF gồm: NAVET-ASFVAC sử dụng cho heo từ 8 - 10 tuần tuổi; AVAC ASF LIVE sử dụng cho heo từ 4 tuần tuổi; Dacovac-ASF2, đang trong quá trình mở rộng sản xuất thương mại. Đến giữa năm 2025, đã có khoảng 7 triệu liều vaccine ASF được sản xuất, trong đó 4 triệu liều dùng trong nước, hơn 1 triệu liều xuất khẩu.

Thành công trong nghiên cứu và sản xuất vaccine phòng ASF không chỉ giúp kiểm soát dịch bệnh nguy hiểm này mà còn khẳng định năng lực khoa học - công nghệ của Việt Nam trong lĩnh vực thú y.

Thách thức trong sử dụng vaccine tại Việt Nam

Mặc dù đạt nhiều kết quả tích cực, việc sử dụng vaccine trong chăn nuôi vẫn còn những hạn chế nhất định. Đơn cử như tỷ lệ bao phủ chưa đồng đều, đặc biệt ở các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, vùng sâu, vùng xa, chủ yếu là do chi phí tiêm phòng, khó khăn trong vận chuyển, bảo quản vaccine, cũng như hạn chế về nhận thức của người chăn nuôi. Nhiều nơi, phải đến khi có dấu hiệu dịch người dân mới tìm đến vaccine, thay vì chủ động phòng ngừa. Chi phí vẫn là gánh nặng với nhiều hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, nhất là khi vaccine cần tiêm nhiều lần hoặc không được trợ giá. Thậm chí không ít người vẫn còn hoài nghi về hiệu quả thực tế, lo ngại về tác dụng phụ hoặc phản ứng sau tiêm, dẫn đến việc trì hoãn sử

nơi còn mỏng, khối lượng công việc lớn, chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu tiêm phòng diện rộng cũng là một phần hạn chế trong đó. Để phát huy tối đa hiệu quả của “lá chắn thép” vaccine, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, như tăng cường hỗ trợ tài chính cho hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, bao gồm trợ giá vaccine và hỗ trợ chi phí tiêm, nhằm nâng tỷ lệ bao phủ ở tất cả các vùng. Đầu tư hạ tầng cơ sở, đảm bảo vaccine luôn được bảo quản và vận chuyển đúng quy chuẩn tới tận hộ chăn nuôi. Khuyến khích nghiên cứu, phát triển vaccine nội địa, đáp ứng đặc thù dịch tễ của Việt Nam, giảm phụ thuộc nhập khẩu và chủ động nguồn cung. Cần minh bạch dữ liệu và thông tin khoa học về hiệu quả vaccine; triển khai các chương trình thí điểm, báo cáo độc lập để xây dựng niềm tin với người chăn nuôi. Nhà nước nên có chính sách trợ giá vaccine cho hộ nghèo, hộ nuôi nhỏ lẻ; đồng thời tăng cường lực lượng thú y cơ sở. Đầu tư hơn nữa cho các doanh nghiệp nội địa trong việc nghiên cứu vaccine thế hệ mới. Mặt khác, tăng cường phối hợp giữa Nhà nước, doanh nghiệp sản xuất vaccine và người chăn nuôi để xây dựng các chương trình tiêm chủng quốc gia, giám sát hiệu quả và xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh… Vaccine là chiến lược phòng bệnh chủ động, giúp ngành chăn nuôi tiến gần hơn tới mục tiêu bền vững, thân thiện với môi trường và có trách nhiệm với cộng đồng. Và khi “lá chắn thép” này kết hợp với các biện pháp an toàn sinh học và quản lý hiệu quả, ngành chăn nuôi Việt Nam hoàn toàn có thể vững vàng trước những thách thức dịch bệnh, đáp ứng nhu cầu trong nước và mở rộng xuất khẩu.

PHẠM

CHĂN NUÔI SỐ 105 - 6/2025

Gấp rút kiện toàn hệ thống thú y cơ sở

Lực lượng thú y cơ sở được coi là "chốt chặn" đầu tiên tại các địa phương khi dịch bệnh xảy ra. Việc duy trì và phát huy nội lực của đội quân này sẽ là mấu chốt để ngăn chặn dịch bệnh bùng phát và lây lan rộng từ mỗi ổ dịch nhỏ.

Báo động dịch bệnh bùng phát

Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, dịch tả heo châu Phi vẫn tiếp tục bùng phát mạnh.

Trong những tuần đầu tháng 8, dịch bệnh lan rộng với tốc độ báo động. Số ổ dịch từ 514 vào giữa tháng 7 đã tăng lên 972 vào đầu tháng 8, với số heo bị mắc bệnh hoặc buộc tiêu hủy vượt 100.000 con. Dịch bệnh xuất hiện tại 710 xã/phường thuộc 30/34 tỉnh, thành, chiếm hơn 21% tổng số xã/phường trên cả nước, gây thiệt hại nghiêm trọng và đe dọa

ngành chăn nuôi heo tại nhiều địa phương.

Hiện cả nước vẫn còn hơn 250 ổ dịch chưa qua 21 ngày. Các tỉnh chịu thiệt hại nặng nhất gồm: Tuyên Quang, Cao Bằng, Quảng Trị,

Phú Thọ và Quảng Ngãi… Nhằm ngăn chặn dịch bệnh lây lan rộng hơn nữa, Thủ tướng Chính phủ ra công điện về việc triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp phòng, chống bệnh dịch tả heo châu Phi. Trong đó, yêu cầu lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương tăng cường chỉ đạo, huy động lực lượng, các nguồn lực hợp pháp để kịp thời phát hiện, xử lý dứt điểm các ổ dịch, không để bùng phát dịch bệnh, hạn chế phát sinh ổ dịch mới; kiên quyết xử lý tiêu hủy heo mắc bệnh, nghi mắc bệnh; chủ động triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ người chăn nuôi bị thiệt hại do dịch bệnh theo đúng quy

định của pháp luật; ngăn chặn và kiên quyết

xử lý nghiêm các trường hợp mua bán, vận chuyển heo bệnh, vứt xác heo chết làm lây lan dịch bệnh, ô nhiễm môi trường. Cùng đó, nhanh chóng phong tỏa vùng dịch; cung cấp hóa chất, vôi bột cho các “điểm nóng” để tránh lây lan. Các lực lượng chức năng được yêu cầu kiểm soát nghiêm ngặt việc vận chuyển heo, thịt heo, buôn bán không rõ nguồn gốc, xử phạt nghiêm vi phạm. Đồng thời, tuyên truyền và nâng cao năng lực người dân, hướng dẫn chăn nuôi an toàn sinh học, cũng như giám sát cơ sở giết mổ bất hợp pháp. Quan trọng hơn, vận động các chủ trang trại sử dụng vaccine

Sức mạnh từ các “chốt chặn” tại cơ sở

Cùng với việc áp dụng các biện pháp kiểm soát, giám sát chặt chẽ để khống chế dịch bệnh, nhiều ý kiến cho rằng, các địa phương cần tăng cường vai trò của lực lượng thú y cơ sở. Bởi theo chia sẻ của người trong cuộc, sở dĩ dịch bệnh lây lan nhanh cũng bởi các “chốt chặn” trở nên mong manh.

Lực lượng thú y cơ sở (cán bộ xã/phường, trạm thú y, cộng tác viên thú y) là mắt xích quan trọng trong hệ thống thú y quốc gia. Họ phát hiện và báo cáo sớm các dấu hiệu bất thường ngay từ hiện trường. Hơn nữa, là người địa phương nên họ có thể hiểu rõ từng hộ nuôi và có mối liên hệ mật thiết với người dân. Đây là yếu tố giúp họ xử lý dịch bệnh hiệu quả hơn. Cùng với đó, họ còn thực hiện tốt các biện pháp chuyên môn như khuyến cáo tiêm phòng vaccine, áp dụng nghiêm túc biện pháp an toàn sinh học, tiêu hủy đúng cách, cách ly, khử trùng chuồng trại. Đồng thời, tổ chức thực hiện tại chỗ từ việc xây dựng kế hoạch phòng, chống, tiêm vaccine định kỳ đến giám sát và xử lý ổ dịch kịp thời…

Tuy nhiên, hiện nay lực lượng này đang dần mỏng đi, bởi nhiều nguyên nhân, trong đó có việc số lượng nhân sự ít nhưng việc nhiều dẫn đến tình trạng quá tải trong khi thu nhập thực sự thấp. Có nơi sau trừ bảo hiểm, mỗi cán bộ còn chưa đến 2 triệu đồng/tháng.

Nhiều xã thiếu vật tư tiêu hủy, khử trùng, thiết bị lấy mẫu, lều tiêu độc khử trùng... đã ảnh hưởng đến công tác phòng dịch, và thậm chí có những địa phương chưa được

➢ Tháng 3/2021, Thủ tướng

Chính phủ đã ra Quyết định 414/ QĐ-TTg phê duyệt Đề án tăng cường năng lực hệ thống cơ quan quản lý chuyên ngành thú y các cấp, giai đoạn 2021 - 2030; với mục tiêu kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý

chuyên ngành thú y các cấp, củng cố và tăng cường năng lực, bảo đảm tổ

chức thực hiện các hoạt động thú y có hiệu lực, hiệu quả. Đây là cơ sở quan trọng để tái hiện lại sức mạnh

PHÓ THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ TRẦN HỒNG HÀ

Yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Cục Chăn nuôi và

Thú y rà soát toàn bộ hệ thống bộ máy tổ chức thú y từ BộCục - Chi cục vùng - cấp tỉnh - đến cấp xã, trạm thú y. Trong

đó, cần xác định rõ trách nhiệm của từng cấp, nhất là trong bối

cảnh nhiều địa phương đã sáp nhập đơn vị hành chính, tinh gọn bộ máy, nhiều xã phường không còn đủ nhân lực chuyên môn. Địa phương nào không thực hiện đúng quy định về tổ chức

lực lượng thú y, không bố trí đủ nhân sự, tổ chức thì Bộ Nông nghiệp và Môi trường phải chỉ rõ, không nói chung chung. Cần phân định vai trò của các chi cục thú y vùng, trung tâm/phòng thí nghiệm quốc gia, bảo đảm phối hợp thông suốt giữa cấp cơ sở và các đơn vị kỹ thuật ở Trung ương; mỗi đơn vị phải được giao nhiệm vụ cụ thể, kèm nguồn lực, kinh phí.

(Thông tin tại buổi làm việc với Bộ Nông nghiệp và Môi trường, các bộ ngành liên quan về tình hình dịch tả heo châu Phi ngày 15/8)

Cần những giải pháp hữu hiệu

Đợt bùng phát dịch tả heo châu Phi hiện nay được đánh giá là nghiêm trọng nhất kể từ khi dịch xảy ra tại Việt Nam vào tháng 2/2019. Với gần 1.000 ổ dịch, hơn 100.000 con heo chết và tiêu hủy, ngành chăn nuôi heo đang đối diện thách thức rất lớn.

Trong thời điểm này, lực lượng thú y cơ sở là tuyến đầu không thể thay thế trong phát hiện, xử lý và hạn chế lây lan dịch bệnh. Họ là những người thường xuyên trực tiếp tiếp xúc với các nguy hiểm do mầm bệnh từ vật nuôi sang. Vậy nên, chỉ khi được trang bị đầy

đủ vật lực, kỹ năng và được hỗ trợ chính sách hợp lý, họ mới có thể bảo vệ được đàn heo tại mỗi địa phương, góp phần đảm bảo nguồn cung thực phẩm và ngăn chặn cú sốc của ngành chăn nuôi mũi nhọn này.

Để làm tốt công tác phòng chống dịch bệnh vật nuôi cần phải thực hiện đồng bộ các biện pháp chuyên môn ngay từ cơ sở, mà lực lượng nòng cốt để thực hiện công tác này chính là nhân viên thú y cấp xã. Do đó, cần giải pháp hữu hiệu nhằm tăng cường hiệu quả lực lượng thú y cơ sở; như củng cố đội ngũ nhân sự và cải thiện chế độ đãi ngộ, phụ cấp rủi ro; chú trọng đầu tư trang thiết bị cơ sở để đảm bảo mọi hoạt

của lực lượng thú y cơ sở, nhằm ngăn chặn dịch bệnh từ sớm và từ gốc. phê duyệt kinh phí chống dịch. Không ít hộ chăn nuôi giấu dịch, bán chạy heo bệnh do cơ chế bồi thường chưa đủ khuyến khích khai báo. Chưa kể, công tác quản lý cơ sở giết mổ nhỏ lẻ yếu - tạo mối nguy lớn cho sự lây lan của dịch…

Thêm vào đó, cần có chiến lược nhằm đào tạo chuyên sâu liên tục, cập nhật kỹ thuật lấy mẫu, xử lý ổ dịch, tiêm chủng và quản lý vùng an toàn. Đồng thời, minh bạch về chính sách bồi thường, khuyến khích hộ chăn nuôi khai báo sớm, cũng như tăng cường truyền thông cộng đồng, nhất là với chăn nuôi nông hộ, về nguy cơ dịch bệnh và biện pháp phòng, chống. Ngoài ra, lực lượng chức năng cần quản lý nghiêm ngặt và xử phạt nghiêm các vi phạm trong quản lý giết mổ tại các cơ sở nhỏ lẻ. Đồng thời, xây dựng vùng an toàn dịch bệnh, kết hợp tiêm chủng và giám sát thường xuyên.

Khi sức mạnh và vai trò của thú y cơ sở được củng cố bằng chính sách, cơ sở vật chất và năng lực thực hành, họ sẽ trở thành hàng rào phòng chống dịch hiệu quả. Dịch tả heo châu Phi hay bất cứ dịch bệnh nguy hiểm nào cũng đều có thể bị kiểm soát, ổn định sản xuất chăn nuôi sẽ được giữ vững, an toàn thực phẩm được đảm bảo, và niềm tin của người nông dân được khôi phục.

Lực lượng thú y cơ sở là “chốt chặn” đầu tiên và quan trọng bảo vệ đàn vật nuôi Việt Nam khỏi các dịch bệnh nguy hiểm. Tuy nhiên, để họ thực sự gắn bó với nghề, cần phát huy thông qua chính sách đãi ngộ thỏa đáng, phù hợp với nhiệm vụ họ đảm nhận.

Dịch bệnh có thể bùng phát bất cứ lúc nào, nhưng nếu có thú y cơ sở vững mạnh, địa phương cũng sẽ dễ dàng chế ngự, không để dịch bệnh lây lan vượt tầm kiểm soát hay những vật nuôi nhiễm bệnh bị vứt bỏ tùy tiện tại nhiều địa phương trong thời gian qua.

BẢO HÂN

VACCINE THẾ HỆ MỚI

Bệ phóng chăn nuôi bền vững

Cuộc cách mạng vaccine đang diễn ra trong ngành chăn nuôi toàn cầu không chỉ đơn thuần là công cụ phòng bệnh, mà trở thành nền tảng công nghệ, giúp bảo vệ vật nuôi, giảm thiểu kháng sinh và đảm bảo an toàn thực phẩm.

Công nghệ vaccine thế hệ mới đang kết hợp chặt chẽ với AI, sinh học phân tử và sản xuất quy mô địa phương để tạo ra chủng vaccine tối ưu, linh hoạt và an toàn Ảnh: Politico

4 trụ cột

Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, giao thương và di chuyển ngày càng gia tăng đã làm gia tăng nguy cơ lan truyền dịch bệnh, đe dọa nghiêm trọng đến ngành chăn nuôi. Những đại dịch như COVID-19 hay dịch tả heo châu Phi (ASF) đã cho thấy khả năng bùng phát nhanh chóng và sức tàn phá lớn của các bệnh truyền nhiễm xuyên biên giới. Ngay cả các bệnh đã từng được kiểm soát như lở mồm long móng (FMD), cúm gia cầm hay ASF vẫn liên tục tái xuất hiện tại nhiều nơi. Để ứng phó hiệu quả, ngành chăn nuôi cần xây dựng chiến lược sức khỏe vật nuôi toàn diện, dựa trên bốn trụ cột: an toàn sinh học, chẩn đoán chính xác, phòng ngừa chủ động và quản lý hiệu quả. Trong đó, tiêm phòng là biện pháp phòng bệnh cốt lõi, với ba bước then chốt: xác định đúng bệnh, chọn đúng vaccine và quản lý tiêm phòng tốt. Đặc biệt, yếu tố quản lý quyết định trực tiếp đến hiệu quả miễn dịch, bao gồm việc lựa chọn sản phẩm uy tín, đào tạo nhân sự, thực hành đúng kỹ thuật và bảo quản vaccine đúng điều kiện. Một chương trình tiêm phòng hiệu quả

cần đảm bảo: Nhân sự được đào tạo bài bản, nắm rõ kiến thức về vaccine và kỹ thuật tiêm

đúng chuẩn; Nguồn cung đáng tin cậy: mua

từ cơ sở thú y uy tín, có dự phòng ít nhất 10%

lượng vaccine; Kiểm tra kỹ sản phẩm: bao bì,

hướng dẫn sử dụng, hạn dùng và cảm quan;

Bảo quản đúng điều kiện: tránh ánh sáng

trực tiếp, duy trì nhiệt độ 2 - 8°C, ghi nhận nhiệt độ thường xuyên.

Bên cạnh đó, vai trò của bác sĩ thú y trong việc xây dựng, giám sát và tuân thủ lịch tiêm phòng bằng các loại vaccine phù hợp là yếu tố không thể thiếu. Khi thực hành tiêm phòng được thực hiện đúng cách và đồng bộ, không chỉ giúp tăng năng suất, giảm tổn thất kinh tế mà còn góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng, phúc lợi động vật và đảm bảo an ninh lương thực bền vững.

6 quy trình giám sát

Ngành chăn nuôi heo tại châu Á đang liên tục đối mặt với nhiều dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Trong đó, virus PCV2 từng gây thiệt hại nghiêm trọng vào đầu những năm 2000 và ASF bùng phát tại Trung Quốc từ năm 2018 vẫn là mối đe dọa lớn. Ngoài ra, các bệnh như PRRS, PEDV và FMD tiếp tục ảnh hưởng đến sức khỏe đàn vật nuôi. Trước bối cảnh đó, việc tăng cường an toàn sinh học, giám sát dịch tễ và tiêm phòng hiệu quả là nền tảng quan trọng để đảm bảo tính bền vững của ngành chăn nuôi. Ông

Juver Membrebe, Giám đốc Kỹ thuật khu vực châu Á của Biogenesis Bagó, cho biết: “Người chăn nuôi thường thắc mắc liệu quy trình tiêm phòng hiện tại đã đủ tốt chưa. Vì vậy, chúng tôi luôn khuyến khích thực hành tiêm đúng kỹ thuật, đồng thời thiết lập hệ thống theo dõi hiệu quả vaccine, nhằm điều chỉnh kịp thời và phát hiện sớm những bất thường”. Ông Juver chia sẻ 6 quy trình giám sát hiệu quả vaccine đơn giản, thực tế và dễ triển khai gồm: Lập kế hoạch và chuẩn bị; Lấy mẫu; Xét

nghiệm; Phân tích dữ liệu; Báo cáo - phản hồi và Hành động - điều chỉnh.

Trước tiên, người chăn nuôi cần xác định rõ mục tiêu giám sát: đánh giá hiệu lực vaccine, thời gian miễn dịch hay phát hiện virus lưu hành. Chọn đàn đại diện theo nhóm tuổi, xây dựng kế hoạch lấy mẫu cùng bác sĩ thú y và phối hợp sớm với phòng xét nghiệm về loại mẫu, thời gian lấy và điều kiện bảo quản. Tiếp theo, lập lịch lấy mẫu tại các mốc thời gian quan trọng sau tiêm. Với bệnh FMD, cần lấy mẫu nhiều thời điểm. Việc chọn phương pháp xét nghiệm phụ thuộc vào từng bệnh: ELISA thường dùng để theo dõi đáp ứng miễn dịch, FMD phù hợp với kỹ thuật VNT, có thể kết hợp PCR nếu cần phát hiện virus.

Kết quả xét nghiệm cần được phân tích để đánh giá mức kháng thể theo thời gian, từ đó xác định hiệu lực miễn dịch. Việc sử dụng phần mềm quản lý dữ liệu sẽ giúp phát hiện xu hướng, điều chỉnh chiến lược tiêm phòng và xây dựng báo cáo rõ ràng. Từ kết quả theo dõi, đề xuất điều chỉnh lịch tiêm, loại vaccine hoặc cách tổ chức tiêm. Cuối cùng, thiết lập lịch giám sát định kỳ và đào tạo nhân viên, nhằm duy trì hiệu quả phòng bệnh và nâng cao năng lực ứng phó dịch bệnh.

Cuộc đua công nghệ

Tại châu Âu, người chăn nuôi có thể theo dõi và lưu trữ thông tin tiêm phòng vaccine cho từng con heo. Ngày 21/5 tại Bern (Thụy Sĩ), MSD Animal Health ra mắt giải pháp

▶ AI và học sâu đang được ứng dụng nhằm tối ưu lựa chọn epitope (kháng nguyên B và T cell), dự đoán phản ứng miễn dịch và rút ngắn thời gian tiền lâm sàng, nhằm giảm đáng kể sự phụ thuộc vào thí nghiệm trên động vật. Đây là bước tiến quan trọng để thực hiện vaccine cá nhân hóa theo loài vật nuôi và vùng địa lý.

“Swine Protect & Connect”, tích hợp hai công nghệ chủ lực: thiết bị tiêm vaccine không kim IDAL và hệ thống nhận diện cá thể LeeO. IDAL thế hệ 3 cho phép tiêm vaccine chính xác, không gây đau, đồng thời tự động ghi nhận thông tin như số lô vaccine, vị trí tiêm và người thực hiện. Trong khi đó, LeeO sử dụng thẻ tai điện tử để định danh từng con heo, theo dõi đầy đủ vòng đời từ heo nái đến heo thịt.

Thiết bị đọc LeeO có thể gắn trực tiếp vào máy tiêm IDAL và kết nối Bluetooth với thiết bị di động, giúp cập nhật dữ liệu tức thì. Nhờ đó, mỗi con heo có một “hộ chiếu sức khỏe” điện tử đặc biệt hữu ích với các trại chăn nuôi quy mô lớn và nhà máy chế biến cần tăng cường phúc lợi động vật hoặc truy xuất nguồn gốc.

Mới đây, Mỹ đã thử nghiệm vaccine mRNA LNP chống virus H5N1 xuất hiện

ở bò sữa, với kết quả mức kháng thể trung hòa rất cao ngay ở liều 50 µg và 500 µg, đáp ứng mạnh với các chủng virus H5N1 hiện lưu hành trên bò. Đây là lần đầu tiên vaccine

mRNA được thử nghiệm trên đàn bò lớn và cho kết quả rất ấn tượng.

Ở Trung Quốc, Công ty Ringpu đã xây dựng nhà máy vaccine mRNA quy mô GMP, với công suất dự kiến hơn 100 triệu liều mỗi năm. Hãng ArkeaBio đang phát triển vaccine giảm khí methane ở bò giúp giảm 1 liều tiêm có thể quy đổi thành giảm khí nhà kính tương

đương hàng tỷ tấn CO₂ mỗi năm.

Theo ông Juver Membrebe, đây là thời

điểm vàng để thúc đẩy chính sách hỗ trợ nghiên cứu, liên kết công tư và nội địa hóa vaccine. Việc đa dạng hóa vaccine trong nước giúp giảm phụ thuộc ngoại nhập, chủ động ứng phó với dịch bệnh mới và biến đổi khí hậu, đặc biệt cho các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, Thái Lan.

TUẤN MINH

(Theo Pigprogress/WorldPoutry)

CHÂU ÂU

Nỗ lực ngăn chặn dịch bệnh

bùng phát

Trong bối cảnh dịch bệnh trên động vật ngày càng gia tăng và lan rộng, tiêm vaccine cho vật nuôi cần được xem là ưu tiên chiến lược tại châu Âu.

Không thể tiếp tục do dự

Châu Âu đang đối mặt với làn sóng bùng phát mới của hàng loạt dịch bệnh nghiêm trọng trên vật nuôi như cúm gia cầm, dịch tả heo, lở mồm long móng hay bệnh lưỡi xanh trên bò… Bất chấp thực tế rằng vaccine đã sẵn có với nhiều loại bệnh, không ít quốc gia vẫn ngần ngại sử dụng do lo ngại rào cản thương mại, khi nhiều thị trường nhập khẩu vẫn từ chối sản phẩm thịt và sữa có nguồn gốc từ vật nuôi đã tiêm phòng. Điển hình, sau một thập kỷ không ghi nhận ca nhiễm bệnh lở mồm long móng (FMD), châu Âu đã phát hiện ba ca chỉ trong 3 tháng đầu năm nay tại Đức, Hungary và Slovakia. Tuy nhiên, chỉ có Slovakia quyết định sử dụng vaccine khẩn cấp do EU và các nước láng giềng hỗ trợ; hai nước còn lại lựa chọn phong tỏa và truy vết.

“Tôi cho rằng điều quan trọng là cần xem tiêm phòng như một công cụ và quyết định sử dụng dựa trên tình hình dịch tễ và kinh tế cụ thể của từng quốc gia. Nhưng đồng thời, cần loại bỏ những rào cản thiếu cơ sở khoa học cản trở việc tiêm phòng” - bà Emmanuelle Soubeyran, Tổng Giám đốc Tổ chức Thú y Thế giới (WOAH) nhấn mạnh.

Dù còn nhiều trở ngại, một số chuyển biến tích cực đã xuất hiện. Mỹ và Canada mới đây đã đồng ý nới lỏng quy định nhập khẩu gia cầm từ EU sau khi công nhận độ an toàn của chiến dịch tiêm phòng quy mô lớn cho vịt tại Pháp sau năm 2023. Nhờ chiến dịch này, sản lượng gia cầm của Pháp đã phục hồi mạnh mẽ, ở mức cao nhất trong nhiều năm. Đón đầu xu hướng, Hà Lan cũng đang triển khai thí điểm tiêm phòng cho gà đẻ trứng. Ngược lại, tại Mỹ - nơi đang vật lộn với đại dịch cúm gia cầm nghiêm trọng, Bộ trưởng Y tế Robert F. Kennedy Jr. thậm chí đề xuất để virus tự lây lan trong đàn nhằm tạo miễn dịch cộng đồng, một ý tưởng bị giới thú y hàng đầu đánh giá là “điên rồ”.

Phá bỏ rào cản

Các rào cản này không chỉ đến từ các quy định kỹ thuật mà còn từ tâm lý xã hội, khi người tiêu dùng một số nơi vẫn e ngại thực phẩm từ động vật đã tiêm vaccine. Theo bà Soubeyran, WOAH sẽ trực tiếp đối thoại về vấn đề này trong Đại hội thường niên với trọng tâm nới lỏng các hạn chế nhập khẩu và thúc đẩy cách tiếp cận hợp lý hơn với tiêm phòng.

“Chúng tôi muốn xử lý tận gốc những rào cản, cả về kỹ thuật lẫn chính trị,” bà nói. Được bầu làm Tổng Giám đốc vào năm ngoái với nhiệm kỳ 5 năm, bà Soubeyran đang theo đuổi hướng tiếp cận chủ động và đa phương nhằm tái định hình tư duy tiêm phòng trong chăn nuôi.

Rào cản lớn nhất cho việc đẩy mạnh tiêm phòng vẫn là nguồn tài chính. Tuần trước, một số Bộ trưởng Nông nghiệp EU đã kêu gọi phân bổ thêm ngân sách cho công tác phòng ngừa dịch bệnh, trong đó Bồ Đào Nha đề xuất xây dựng một chiến lược vaccine chung toàn khối. Hồi tháng 1, Nghị viện châu Âu cũng chỉ trích Ủy ban châu Âu sau khi cơ quan này xác nhận sẽ không hỗ trợ ngân sách phòng chống bệnh trên động vật trong các năm tới. Trên bình diện toàn cầu, các đợt cắt giảm viện trợ và rút khỏi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) dưới thời Tổng thống Donald Trump cũng đã ảnh hưởng đáng kể đến các chiến dịch tiêm phòng. Mặc dù, từ chối bình luận cụ thể về đóng góp của Mỹ cho WOAH, bà Soubeyran khẳng định: “Khi đầu tư vào sức khỏe động vật, chúng ta đang củng cố an ninh lương thực, thúc đẩy thương mại quốc tế và bảo vệ sức khỏe toàn cầu”.

VŨ ĐỨC (Theo Politico)

7 tháng, thị trường nhập khẩu sữa, sản phẩm sữa tăng mạnh

Theo Cục Hải quan Việt Nam, kim ngạch nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa 7 tháng đầu năm 2025 đạt trên 858,08 triệu USD, tăng 35% so với 7 tháng đầu năm 2024. Riêng tháng 7/2025 kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này đạt 129,21 triệu USD, giảm 13,7% so với tháng 6/2025 nhưng tăng 27,3% so với tháng 7/2024. New Zealand, Mỹ, Australia, Ireland và Thái Lan là các thị trường chủ yếu cung cấp sữa và sản phẩm cho Việt Nam; trong đó nhập khẩu nhiều nhất từ New Zealand đạt 268,23 triệu USD, chiếm 31,3% trong tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này của cả nước, tăng mạnh 60,4% so với 7 tháng đầu năm 2024; riêng tháng 7/2025 đạt 38,22 triệu USD, giảm 0,12% so với tháng 6/2025 nhưng tăng 46,7% so với tháng 7/2024.

Xuất khẩu thịt và sản phẩm thịt tăng trong quý II/2025

Thông tin từ Cục Hải quan Việt Nam, trong quý II/2025, Việt Nam xuất khẩu được 6,29 nghìn tấn thịt và sản phẩm thịt, trị giá 30,08 triệu USD, tăng 17,7% về lượng và tăng 0,4% về trị giá so với quý I/2025; so với quý II/2024 tăng 1,6% về lượng và tăng 15,9% về trị giá. Tính chung 6 tháng đầu năm 2025, Việt Nam xuất khẩu thịt và sản phẩm thịt của Việt Nam đạt 11,6 nghìn tấn, trị giá 60,03 triệu USD, tăng 0,9% về lượng và tăng 20,9% về trị giá so với 6 tháng đầu năm 2024. Việt Nam xuất khẩu thịt và sản phẩm thịt chủ yếu sang các thị trường thuộc khu vực châu Á, trong đó xuất khẩu sang thị trường Hồng Kông chiếm 39,91% về lượng và chiếm 57,07% về trị giá, đạt 2,5 nghìn tấn, trị giá 17,16 triệu USD.

Nhập khẩu thịt và các sản phẩm thịt sẽ khó tăng đột biến

Quý II/2025, Việt Nam nhập khẩu 236,9 nghìn tấn thịt và sản phẩm từ thịt, trị giá 463,37 triệu USD, tăng 10,6% về lượng và tăng 6% về trị giá so với quý I/2025; so với quý II/2024 tăng 9,8% về lượng và tăng 12,3% về trị giá. Trong quý II/2025, Việt Nam nhập khẩu 34,5 nghìn tấn thịt heo, trị giá 92,33 triệu USD, giảm 0,3% về lượng, nhưng tăng 0,5% về trị giá so với quý I/2025; còn so với quý II/2024 tăng 26,5% về lượng và tăng 50,3% về trị giá. Nga, Brasil, Tây Ban Nha, Canada, Ba Lan là 5 thị trường lớn nhất cung cấp thịt heo cho Việt Nam trong quý II/2025. 6 tháng đầu năm 2025, Việt Nam nhập khẩu 451,2 nghìn tấn thịt và sản phẩm từ thịt, trị giá 900,56 triệu USD, tăng 11,8% về lượng và tăng 14,9% về trị giá so với 6 tháng đầu năm 2024. Thời gian tới, do nguồn cung thịt của Việt Nam được cải thiện, dự kiến nhập khẩu thịt và các sản phẩm thịt sẽ khó có sự tăng đột biến.

Giá thịt heo có xu hướng giảm

Theo Bộ Công thương, những tháng đầu năm 2025, giá thịt heo trong nước tăng do dịch tả heo châu Phi (ASF) bùng phát trở lại khiến nguồn cung lợn giảm. Tuy nhiên, sang tháng 7/2025, giá heo hơi trên cả nước có xu hướng giảm so với tháng 6/2025, dao động khoảng 62.000 - 71.000 đồng/kg. Cụ thể: Cuối tháng 7/2025, giá heo hơi tại khu vực miền Bắc dao động trong khoảng 62.000 - 69.000 đồng/ kg, giảm 5.000 - 7.000 đồng/kg so với cuối tháng 6/2025; Giá heo

hơi tại khu vực miền Trung và Tây Nguyên dao động trong khoảng

71.000 - 74.000 đồng/kg, giảm từ 7.000 - 9.000 đồng/kg; Giá heo hơi tại khu vực miền Nam cuối tháng 7/2025 dao động trong khoảng 64.000 - 71.000 đồng/kg, giảm từ 7.000 - 9.000 đồng/kg so với những ngày cuối tháng 6/2025.

HÀ NỘI

Người tiêu dùng lo ngại thịt heo

Tại một số siêu thị trên địa bàn TP Hà Nội sáng 13/8, cho thấy giá thịt heo mát Meat Deli được cập nhật từ hệ thống của winmart.vn ghi nhận biến động nhẹ, dao động trong khoảng 115.122 - 163.122 đồng/kg và được giảm giá 20% theo chương trình ưu đãi dành cho hội viên của WinMart. Giá thịt lợn tại Công ty Thực phẩm tươi sống Hà Hiền được bán với giá từ 89.000 - 190.000 đồng/kg. Trong đó, mỡ heo có giá thấp nhất trong các sản phẩm được khảo sát, niêm yết tại mức 89.000 đồng/kg. Tiếp đến là thịt chân giò với giá bán 126.000 đồng/kg. Nhỉnh hơn một chút là hai sản phẩm sườn già và thịt nạc vai với giá bán tương ứng 134.000 đồng/kg và 136.000 đồng/kg. Còn tại các chợ dân sinh, sức mua thịt heo thời gian gần đây cũng sụt giảm đáng kể. Trước tình trạng buôn bán ế ẩm, nhiều tiểu thương bày tỏ mong muốn chính quyền và cơ quan chức năng đẩy mạnh tuyên truyền, xác nhận rõ tình hình dịch bệnh để người dân yên tâm sử dụng thịt heo.

HƯNG YÊN

Người chăn nuôi mừng và lo khi giá trứng tăng mạnh

Ông Nguyễn Hữu Tuệ, Giám đốc HTX chăn nuôi Nguyễn Gia cho biết, tính đến thời điểm hiện nay, giá trứng gà giao dịch tại trang trại của HTX tăng thêm 100 đồng/quả và giá bán là khoảng 2.600 - 2.700 đồng/quả. HTX đang duy trì trên 10 vạn trứng/ngày. Giá trứng hiện nay so với đầu năm là một tin vui lớn cho người chăn nuôi sau một thời gian dài thua lỗ vì giá thấp. Tuy nhiên, theo quan điểm của ông Tuệ, việc giá trứng gia cầm tăng, một nguyên nhân quan trọng là do thị trường thời điểm gần đây rơi vào tình trạng thiếu hụt trứng thực sự do nhiều cơ sở chăn nuôi, sản xuất trứng gia cầm có thời gian dài gặp khó khăn vì giá trứng xuống thấp nên họ bỏ sản xuất hoặc thu hẹp quy mô.

ĐÔNG NAM BỘ

Giá trứng gà tăng cao

Trong nửa tháng qua, người chăn nuôi gia cầm tại vùng Đông Nam bộ phấn khởi vì giá trứng gà đã hồi phục mạnh. Nhiều trang trại chăn nuôi gà tại các tỉnh Tây Ninh, Đồng Nai… giá bán buôn từ 2.200 - 3.000 đồng/quả. Giá tại các chợ truyền thống ở TP Hồ Chí Minh dao động từ 3.800 - 4.000 đồng/quả trứng gà đồi, 3.200 - 3.500 đồng/quả trứng gà ta. Trứng gà công nghiệp 3.300 đồng/quả. Các loại trứng này tăng từ 1.000 - 1.500 đồng/quả so với hồi tháng 7 vừa qua. Còn tại các siêu thị Winmart, mặt hàng trứng gà được niêm yết giá mới. Đơn cử, trứng gà ta quê giỏ 10 quả giá 55.500 đồng/giỏ (áp dụng từ đầu tháng 8), trứng gà Omega3 Dabaco giá 57.600 đồng/hộp 10 quả (áp dụng từ 1/8), trứng gà DHA giá 59.400 đồng/hộp 10 quả (áp dụng từ 1/8).

ANH VŨ

(Tổng hợp)

NGƯỜI CHĂN NUÔI SỐ 106 - 8/2025

Tiêu thụ thịt bình quân đầu người theo nhóm thu nhập và loại thịt.

Đơnvị:kg/người/năm(tínhtheotrọnglượngbánlẻtươngđương).

Nguồn: OECD/FAO (2025)

Xuất khẩu thịt bò Brazil

Nguồn: foodmarket.com

Giá ngô tăng trở lại

Kết thúc phiên giao dịch hàng hóa thế giới ngày 7/8, đã có 6/7 mặt hàng nông sản tăng giá. Trong đó, giá ngô bật tăng trở lại sau chuỗi dài giảm sâu, đạt mức 151,37 USD/tấn, tăng 1,25%. Giá ngô tăng khi thị trường đón nhận loạt số liệu tích cực từ báo cáo xuất khẩu của USDA, cụ thể là doanh số bán ngô của Mỹ trong tuần kết thúc ngày 31/7 đạt 3,33 triệu tấn (vụ mới: 3,16 triệu tấn; vụ cũ: 170.400 tấn), con số vượt xa kỳ vọng thị trường, vốn chỉ dự đoán trong khoảng 1,4 - 2,9 triệu tấn. Song song đó, báo cáo xuất khẩu đơn hàng lớn hàng ngày của USDA cũng xác nhận các đơn hàng trong niên vụ 2025 - 2026 trong ngày 6/8, gồm 105.000 tấn bán cho Guatemala và 106.680 tấn bán cho Mexico, cho thấy nhu cầu ổn định từ các đối tác truyền thống tại khu vực Trung Mỹ.

TRUNG

QUỐC Dừng miễn thuế với thịt nhập

từ Mỹ Theo đó, một số sản phẩm thịt từ Mỹ, đặc biệt thịt bò và thịt heo sẽ một lần nữa phải chịu mức thuế bổ sung mà Trung Quốc đã áp đặt trong cuộc chiến thương mại bắt đầu vào năm 2018, và đã được tạm dừng một phần vào năm 2020 sau thỏa thuận “giai đoạn một” giữa Mỹ và Trung Quốc. Theo USMEF, mức thuế quan thực tế đối với thịt heo Mỹ sẽ tăng từ 57% lên 87%, áp dụng cho cả thịt heo cắt miếng và phụ phẩm heo, một phân khúc xuất khẩu chính sang Trung Quốc. Mặc dù chưa có thông tin chi tiết về tất cả các loại thịt và sản phẩm được đề cập, nhưng các nhà xuất khẩu Mỹ đã cảnh báo rằng khả năng cạnh tranh của ngành sẽ bị ảnh hưởng so với các nhà cung cấp như Brazil, Argentina và Australia, những nước có thỏa thuận tốt hơn với Trung Quốc.

NHẬT BẢN

Nhập khẩu thịt bò giảm

Theo Cục Thống kê Thương mại Nhật Bản, nhập khẩu thịt bò của nước này trong 6 tháng đầu năm 2025 đạt 236.712 tấn, giảm 35.262 tấn, tương đương 13% so với cùng kỳ năm 2024. Lượng nhập khẩu giảm từ các nhà cung cấp chính bao gồm Australia, Mỹ, Canada và New Zealand. Nhật Bản hiện là quốc gia nhập khẩu thịt bò lớn thứ hai châu Á, với Australia là thị trường nhập khẩu lớn nhất, chiếm thị phần 47,1%.

CHÂU

ÂU

Số ca mắc ASF ở heo rừng tăng gấp đôi

Xuất khẩu thịt heo theo tháng của Anh (gồm cả nội tạng)

6 tháng đầu năm 2025, đã có 6.892 con heo rừng tại châu Âu mắc dịch tả heo châu Phi (ASF), gấp đôi so với cùng kỳ năm 2024. Ba Lan đứng đầu với 2.374 ca nhiễm bệnh; tiếp theo là Đức 1.612 ca; Latvia 636 ca; Hungary 609 ca và Litva 468 ca. Ngược lại, các ổ dịch trên heo nuôi vẫn tương đối ổn định, 6 tháng đầu năm ghi nhận 264 ca, tăng 66 ca so với năm 2024.

EU

Áp đặt thuế chống bán phá giá dứt điểm với lysine nhập khẩu từ Trung Quốc Mức thuế được áp dụng là: 47,7% đối với Tập đoàn Meihua;

áp dụng từ ngày 12/7/2025 cho tất cả các dạng lysine, gồm lysine HCl, lysine sulphate và lysine dạng lỏng, được phân loại theo các mã TARIC tương ứng.

TRUNG QUỐC

Nhập khẩu thịt heo tăng

6 tháng đầu năm 2025, Trung Quốc nhập khẩu 1,3 triệu tấn thịt trâu, bò, trị giá 6,65 tỷ USD, giảm 9,5% về lượng và giảm 3,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. Ngoài ra, quốc gia này nhập khẩu 439,8 nghìn tấn thịt và phụ phẩm của gia cầm, với trị giá 1,31 tỷ USD, giảm 0,9% về lượng và giảm 5% về trị giá. Trong khi đó, nhập khẩu thịt heo tăng 5,1% về lượng và tăng 9,8% về trị giá, với lượng đạt 530,03 nghìn tần, trị giá 1,06 tỷ USD.

AUSTRALIA

thịt bò Canada

Ngày 29/7, Cơ quan Thanh tra Thực phẩm Canada (CFIA) cho biết, Australia đã chính thức dỡ bỏ lệnh cấm kéo dài 22 năm đối với việc nhập khẩu thịt bò và các sản phẩm từ bò của Canada. Mới đây, Australia cũng đã dỡ bỏ lệnh cấm tương tự đối với thịt bò nhập khẩu từ Mỹ. Đây là tin vui cho 2 quốc gia Bắc Mỹ này, tuy nhiên, giới phân tích cho rằng Mỹ và Canada khó có thể thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu đáng kể sang Australia, do Mỹ đang thiếu hụt nguồn cung trong nước và phải nhập khẩu thịt bò từ chính Australia, Canada và các quốc gia khác. Được biết, Australia đã áp đặt hạn chế nhập khẩu thịt bò Canada từ năm 2003, sau khi Canada thông báo về trường hợp bệnh bò điên đầu tiên trong nước.

MỸ

Giá thịt bò tăng chóng mặt

Thời gian gần đây, giá thịt bò xay tại Mỹ tăng lên khoảng 6,12 USD/pound tương đương 13 USD/kg, tăng gần 12% so với cùng kỳ năm 2024; giá trung bình của tất cả các loại bít tết bò tươi cũng tăng 8%, ở mức 11,49 USD/pound. Tuy nhiên, đây không phải là một hiện tượng mới diễn ra gần đây. Giá thịt bò tại Mỹ đã tăng đều trong suốt 20 năm qua do thịt bò là món ăn rất được ưa chuộng tại quốc gia này trong khi nguồn cung gia súc trong nước còn hạn hẹp, liên tục suy giảm. Theo Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), tính đến ngày 1/1/2025, Mỹ có 86,7 triệu con bò và bê, giảm 8% so với mức đỉnh gần đây nhất vào năm 2019 và là mức gia súc thấp nhất kể từ năm 1951.

ARGENTINA

Lần đầu tiên xuất khẩu ngô sang Trung Quốc

Ngày 29/7, NABSA -Cơ quan hàng hải Argentina - cho biết lần đầu tiên Argentina sẽ xuất khẩu ngô sang Trung Quốc kể từ khi Bắc Kinh phê duyệt việc nhập khẩu ngô của nước này vào năm 2023. Lô hàng gồm 24.718 tấn ngô rời cảng Quequén, phía Đông Nam tỉnh Buenos Aires vào ngày 15/8. Argentina hiện là nhà xuất khẩu ngô lớn thứ ba thế giới, với sản lượng xuất khẩu đạt 35 triệu tấn, trị giá 7,128 tỷ USD vào năm 2024. Cũng trong đầu tháng 7/2025, sau nhiều năm đàm phán, Trung Quốc đã cho phép nhập khẩu lô hàng khô đậu tương đầu tiên từ Argentina và hiện lô hàng thứ hai cũng đã được thương thảo.

BRAZIL

Theo dữ liệu mới nhất của cơ quan thống kê Brazil, nước này đã xuất khẩu gần 276.900 tấn bò tươi (đông lạnh và ướp lạnh) trong tháng 7/2025, tăng 15,3% so với tháng 6/2025 và tăng 17% so với cùng kỳ năm 2024. Con số này đã phá vỡ kỷ lục trước đó vào tháng 10/2024, khi đó đạt 270.300 tấn. Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu thịt bò đứng đầu chiếm khoảng 52% lượng thịt bò xuất khẩu của Brazil; Mỹ

CHĂN NUÔI SỐ 105 - 6/2025

VPA hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh xúc tiến thương mại

Sáng 4/8, tại Hà Nội, đoàn công tác của Hiệp hội Gia cầm Việt Nam (VPA), do Chủ tịch VPA Nguyễn Thanh Sơn làm trưởng đoàn cùng Công ty CP Triển lãm Công nghệ và Sự kiện Quốc tế (ITEC), đối tác của VPA đã có chuyến thăm và làm việc tại Công ty CP Thuốc thú y Toàn Thắng (Toàn Thắng - Ecovet). Chia sẻ tại buổi làm việc, ông Phạm Đắc Thắng, Tổng Giám đốc Công ty cho biết, Toàn Thắng - Ecovet chuyên kinh doanh, sản xuất thuốc thú y, thuốc thủy sản, chế phẩm sinh học có chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế và là một trong những doanh nghiệp hàng đầu trong ngành chăn nuôi tại Việt Nam. Công ty tiên phong ứng dụng các công nghệ cao từ châu Âu trong sản xuất thú y là công nghệ nano vi bọc và công nghệ kích hoạt phân tử. Ông Nguyễn

Trung Chính, Giám đốc Công ty ITEC cho biết, ITEC là đối tác của VPA, hiện ITEC và Hiệp hội hợp tác triển khai chuỗi các sự kiện - hội nghị - hội thảo chuyên ngành, các hoạt động xúc tiến thương mại, hội chợ triển lãm của VPA. Nhân dịp này, Công ty

Toàn Thắng - Ecovet và Công ty ITEC đã ký kết tham gia gian hàng quốc gia tại Triển lãm ILDEX 2026 tại TP Hồ Chí Minh theo sáng kiến của VPA. Cùng đó, đoàn công tác của VPA đã thực hiện

Ra mắt Tập đoàn Dược Thú y Việt Nam

Tập đoàn Dược Thú y Việt

Nam vừa ra mắt trên cơ sở hợp nhất chiến lược kinh doanh của hai thương hiệu dược thú y lâu đời là Công ty CP Thuốc thú y Trung ương 1 (Vinavetco) và Công ty CP Dược thú y Cai Lậy (Mekovet); chính thức hoạt động từ ngày 11/8/2025.

Với hệ thống quản trị chuẩn hóa theo GMP-WHO, ISO 22000, Tập đoàn đặt mục tiêu trở thành tập đoàn hàng đầu về lĩnh vực dược thú y không chỉ ở Việt Nam, mà còn hướng tới khu vực, cung cấp giải pháp chăn nuôi toàn diện, đảm bảo môi trường xanh, sức khỏe cộng đồng. Thời gian tới, Tập đoàn cũng sẽ triển khai ngay hệ thống phần mềm quản trị nguồn lực doanh nghiệp tiên tiến SAP S/4HANA và đầu tư mạnh mẽ cho các lĩnh vực quan trọng như: Nghiên cứu xây dựng nhà máy vaccine, phát triển kháng sinh thế hệ mới, chế phẩm sinh học có nguồn gốc thảo dược, dinh dưỡng chức năng phục vụ chăn nuôi; thành lập trung tâm đổi mới sáng tạo R&D chuyên sâu; mở rộng thị trường quốc tế.

VÂN ANH

JAPFA VIỆT NAM Hỗ trợ 8.000 gà giống cho nông dân Đồng Nai

Ngày 29/7, Công ty TNHH Japfa Comfeed Việt Nam phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã Long Hà (tỉnh Đồng Nai) trao tặng gà giống và 4 tấn thức ăn chăn nuôi cho 80 hộ nông dân

có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn. Đây là hoạt động nằm trong

chuỗi dự án “Đồng lòng vì cộng

đồng”, được Japfa triển khai trong nhiều năm qua, nhằm góp phần phát triển nông nghiệp bền vững và cải thiện sinh kế cho người dân nông thôn. Giống gà được trao tặng năm nay là gà Mía phù hợp với điều kiện chăn nuôi của địa phương, dễ chăm sóc và cho hiệu quả kinh tế tốt. Tất cả gà con đều được tiêm vaccine, phân loại trống mái trước khi giao đến người dân. Bên cạnh đó, mỗi hộ còn được hỗ trợ thêm 50 kg cám, nhằm giảm chi phí đầu vào và đảm bảo nguồn dinh dưỡng cần thiết cho gà trong giai đoạn đầu phát triển.

TẬP ĐOÀN HÒA PHÁT Thu lợi lớn từ mảng gia cầm

Tập đoàn Hòa Phát vừa công bố thông tin cho biết sau 7 tháng, doanh nghiệp đã ghi nhận mức tăng trưởng lợi nhuận 135% trong lĩnh vực chăn nuôi gia cầm so với cùng kỳ năm ngoái. Kết quả này là nhờ giá trứng tăng mạnh trong bối cảnh nguồn cung giảm. Sản lượng duy trì ổn định gần 1 triệu quả trứng gà mỗi ngày, tương đương công suất cao nhất trong năm 2024. Trứng gà Hòa Phát hiện có mặt tại hơn 100 siêu thị, chuỗi cửa hàng tiện lợi và điểm bán lẻ tại Hà Nội, Hưng Yên, Hải Phòng cùng nhiều tỉnh, thành khác. Ngoài kênh bán lẻ, sản phẩm còn được tiêu thụ qua các bếp ăn tập thể, trường học, nhà hàng, nghi thức gắn biển “Hội viên Hiệp hội Gia cầm Việt Nam” cho Công ty Toàn Thắng - Ecovet. Đây là dấu mốc khẳng định mối quan hệ hợp tác chính thức, lâu dài giữa doanh nghiệp và VPA. BAN TRUYỀN THÔNG VPA

khách sạn và khu công nghiệp. Đại diện doanh nghiệp thông tin, thời gian tới, Hòa Phát sẽ phát triển thêm các dòng sản phẩm mới, nhằm đa dạng hóa lựa chọn và nâng cao giá trị sử dụng cho người tiêu dùng.

DABACO

Hoàn thành 101% mục tiêu lãi cả năm chỉ sau 6 tháng

Thông tin tại cuộc họp định kỳ đánh giá kết quả kinh doanh quý II/2025 và triển khai nhiệm vụ quý III/2025 của Tập đoàn Dabaco cho thấy, quy trình tiêm vaccine và đảm bảo an toàn sinh học được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, giúp các đơn vị giữ ổn định, đảm bảo an toàn dịch bệnh. Theo đó, tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính của Tập đoàn như sản xuất thức ăn chăn nuôi, gia súc gia cầm, dầu thực vật đều đạt kết quả tốt. Ước tính doanh thu trong 6 tháng đầu năm 2025 đạt 12.537 tỷ đồng, tăng trưởng 7,3% so với cùng kỳ năm 2024, và lợi nhuận đã hoàn thành 101% mục tiêu cả năm, tăng gấp 4,6 lần so với cùng kỳ năm 2024. Về kế hoạch kinh doanh nửa cuối năm, Chủ tịch Tập đoàn Dabaco Nguyễn Như So cho biết, quý III/2025 sẽ đánh dấu cột mốc chiến lược khi Tập đoàn khởi công loạt dự án trong các mảng kinh doanh cốt lõi, gồm: Nhà máy Thức ăn Chăn nuôi tại tỉnh Hà Tĩnh (dự kiến khởi công trong tháng 7/2025), các dự án Khu chăn nuôi công nghệ cao tại các tỉnh Quảng Ninh, Quảng Trị, Thanh Hóa, Thái Nguyên, Lào Cai…

BÌNH

VINAEGG

trứng cút ăn liên theo chuẩn quốc tế

Công ty TNHH Sản xuất thương mại VINAEGG là một trong số ít doanh nghiêp chế biến sản phẩm trứng cút ăn liền thanh trùng, tiệt trùng với quy mô lớn, công nghệ hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế. Sản phẩm của doanh nghiệp đã xuất khẩu vào nhiều thị trường khó tính. Trứng cút tươi vừa thu hoạch từ trại nuôi được đưa về nhà máy chế biến, từ các khâu luộc, bóc vỏ trứng, tiệt trùng và đóng gói tuân theo quy trình nghiêm ngặt của tiêu chuẩn FSSC 22000. Đây là tiêu chuẩn quốc tế gần như cao nhất hiện nay, được các thị trường khó tính chấp nhận như: Nhật Bản, châu Âu, Mỹ… Nhờ tự chủ công nghệ, VINAEGG tiết kiệm chi phí đầu tư, vận hành và không phụ thuộc chuyên gia nước ngoài, góp phần giảm giá thành sản xuất. Bên cạnh đó, Công ty còn đầu tư trang trại nuôi chim cút công nghệ cao 80.000 con và liên kết bao tiêu trứng cho nông dân theo mô hình khép kín. Ngoài trứng cút, VINAEGG đang thử nghiệm thêm sản phẩm nông sản tiệt trùng như khoai, bắp và một số sản phẩm chăn nuôi khác.

HỒNG HẠNH

ty Trần Nhơn Hiếu cho biết, từ quy trình chăn nuôi đến giết mổ, chế biến của Công ty đều ứng dụng công nghệ hiện đại và tuân thủ các tiêu chuẩn khắt khe của Nhật Bản. Doanh nghiệp đang có kế hoạch mở rộng thị trường xuất khẩu các sản phẩm thịt gà đi Hong Kong và các nước châu Âu. Ngoài ra, doanh nghiệp đang triển khai kế hoạch xây dựng thêm nhà máy giết mổ, chế biến hiện đại, quy mô lớn ngay tại vùng sản xuất Đồng Nai.

Theo đó, với tổng vốn đầu tư khoảng 80 tỷ đồng, Dự án trại heo giống ANT của Công ty TNHH ANT tại xã Đak Pơ sẽ triển khai trên diện tích 156.205 m2, được đầu tư hệ thống chuồng sàn, lạnh, khép kín để thả nuôi 2.400 con heo nái và 50 con heo đực giống, dự kiến mỗi năm xuất chuồng 72.000 heo con. Từ quý II/2026 đến quý I/2027, nhà đầu tư triển khai xây dựng, đến quý II/2027 đưa trại heo giống vào hoạt động. Sản phẩm đầu ra cāa trang trại chăn nuôi là heo con, dự tính mỗi năm xuất chuồng có 72.000 heo con/năm, mỗi con khoảng 6,5 kg. Khối lượng heo xuất bản trong 1 năm là 468 tấn heo/ năm. ANT là doanh nghiệp sở hữu 100% vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi của doanh nghiệp này tại Khu công nghiệp Nhơn Hòa (Bình Định) đang hoạt động hiệu quả.

NGỌC ANH

TẬP ĐOÀN MAVIN

Khởi công xây dựng tổ hợp nhà máy thức ăn chăn nuôi 350 tỷ đồng ở Sơn La

Ngày 16/8, tại xã Chiềng

Mung, huyện Mai Sơn, Tập đoàn

Mavin đã tổ chức Lễ khởi công

tổ hợp nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi và chế biến nông

sản Mavin Mai Sơn. Tổ hợp nhà

máy do đơn vị thành viên của Tập

đoàn Mavin là Công ty TNHH

Mavin Mai Sơn đầu tư xây dựng

KOYU & UNITEK

Mở rộng thị phần sản phẩm

Công ty TNHH Koyu & Unitek là doanh nghiệp tiên phong đầu tư chuỗi chăn nuôi khép kín đến giết mổ, chế biến thịt gà xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản. Hiện trung bình mỗi tháng, Công ty giết mổ, chế biến khoảng 1 triệu con gà với sản lượng xuất khẩu đạt từ 300 - 350 tấn/tháng, với khoảng 40 sản phẩm chế biến khác nhau. Đơn vị đang tiếp tục đẩy mạnh đa dạng các dòng hàng chế biến để mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu. Tổng giám đốc Công

trên diện tích hơn 109.000 m², với tổng vốn đầu tư là 350 tỷ đồng. Tổ hợp có 2 hạng mục chính, gồm: Nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm công suất 200.000 tấn/năm; Nhà máy chế biến nông sản công suất 300.000 tấn/năm. Sau khi tổ hợp hoàn thành đưa vào sử dụng sẽ góp phần tăng giá trị nông sản địa phương thông qua chế biến sâu, đưa công nghệ chế biến hiện đại vào sản xuất, hướng tới chuẩn mực quốc tế, cùng với đó tạo thêm việc làm cho lao động địa phương, tăng thu ngân sách, cải thiện cán cân thương mại nông sản. Dự kiến năm 2026, nhà máy sẽ đưa sản phẩm ra thị trường, phục vụ khách hàng và đóng góp cho sự phát triển của tỉnh Sơn La.

AN

CUỘC CÁCH MẠNG KHÔNG KHÁNG SINH

TRONG CHĂN NUÔI

Từ “tấm lưới an toàn”

đến chiến lược dài hạn

Kháng kháng sinh không chỉ là vấn đề y học, mà còn là thách thức toàn cầu đối với ngành chăn nuôi. TS. Bernhard Eckel, Đại diện Dr. Eckel

Animal Nutrition GmbH & Co. KG đã có những chia sẻ với Đặc san Người

Chăn nuôi về kinh nghiệm và giải pháp thực tiễn giúp giảm sử dụng kháng sinh mà vẫn duy trì hiệu quả sản xuất.

PV: Vì sao kháng kháng sinh vẫn là vấn đề trung tâm trong ngành chăn nuôi hiện đại, thưa ông?

TS. Bernhard Eckel: Kháng kháng sinh là một trong những thách thức sức khỏe lớn nhất hiện nay, không chỉ trong y học mà còn tác động đến toàn bộ hệ sinh thái. Trong nhiều thập kỷ, kháng sinh là “tấm lưới an toàn” cho chăn nuôi thâm canh, nhưng cái giá phải trả là quá đắt: Gia tăng kháng thuốc, siết chặt quy định và giảm niềm tin người tiêu dùng.

Tại Dr. Eckel, chúng tôi chọn hướng đi khác: Xây dựng mô hình chăn nuôi khỏe mạnh, hiệu quả mà không phụ thuộc vào thuốc. Chúng tôi tin vào tương lai nơi năng suất và trách nhiệm đi song hành - bền vững, an toàn và hiệu quả.

PV: Theo ông, thách thức lớn nhất khi giảm kháng sinh nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả chăn nuôi là gì?

TS. Bernhard Eckel: Khi kháng sinh không còn là giải pháp nhanh, việc xây dựng một hệ thống chăn nuôi khỏe mạnh từ bên trong trở thành yêu cầu cấp thiết. Trong đó, quản lý và đào tạo là thách thức quan trọng nhất. Những yếu tố tưởng chừng đơn giản như cân đo thức ăn, vệ sinh chuồng trại hay kiểm soát các chất gây ô nhiễm quyết định thành công của cả trang trại. Người chăn nuôi cần được hướng dẫn thực hành đúng cách để đạt hiệu quả bền vững.

PV: Vì sao sức khỏe đường ruột lại là trọng tâm chiến lược của Dr. Eckel?

TS. Bernhard Eckel: Đường ruột là trung tâm kết nối giữa dinh dưỡng và hệ miễn dịch, đóng vai trò quyết định sức khỏe tổng thể của

vật nuôi. Một đường ruột yếu sẽ khiến vật nuôi sức đề kháng kém, tăng trưởng chậm và dễ mắc bệnh. Ngược lại, khi đường ruột khỏe mạnh, khả năng chống chịu, sức sống và hiệu quả chăn nuôi được cải thiện toàn diện. Chính vì thế, chăm sóc và duy trì sức khỏe đường ruột được xem là trọng tâm chiến lược của Dr. Eckel, vì đây là nền tảng để khai thác tối đa tiềm năng của vật nuôi.

PV: Phytogenic (chất bổ sung từ thực vật) đóng vai trò gì trong việc giảm sử dụng kháng sinh?

TS. Bernhard Eckel: Phytogenic, hay các chất bổ sung từ thực vật, đóng vai trò như hệ miễn dịch tự nhiên, giúp bảo vệ vật nuôi từ bên trong. Chúng không chỉ hỗ trợ tiêu hóa mà còn kháng khuẩn, chống viêm và cân bằng hệ vi sinh đường ruột, đồng thời không để lại tồn dư và không gây kháng thuốc. Sử dụng phytogenic là cách tiếp cận chủ động, giúp vật nuôi khỏe mạnh ngay từ đầu thay vì phụ thuộc vào kháng sinh khi bệnh xuất hiện.

PV: Có bằng chứng nào cho thấy PFAs cải thiện sức khỏe và hiệu quả vật nuôi không?

TS. Bernhard Eckel: Hoàn toàn có. Các nghiên cứu khoa học và kết quả thực tế đều chứng minh điều này. Với sản phẩm Anta®Phyt, chúng tôi ghi nhận những cải thiện rõ rệt: hiệu quả sử dụng thức ăn tốt hơn, tỷ lệ chết giảm, hiệu suất ổn định trên nhiều loài vật nuôi.

Trong thử nghiệm với gà đẻ, năng suất tăng hơn 20% và chất lượng trứng được cải thiện đáng kể. Những kết quả tương tự cũng được ghi nhận ở heo con và bê: vật nuôi khỏe mạnh hơn, ít cần

quả kinh tế cao hơn. Đây không phải là kỳ vọng, mà là tiến bộ thực sự mà PFAs mang lại.

PV: Điều gì làm Anta®Phyt khác biệt, thưa ông?

TS. Bernhard Eckel: Anta®Phyt là sự kết hợp tinh tế giữa khoa học và tự nhiên. Thành phần chính gồm hoa bia và cam thảo, vừa có khả năng kháng khuẩn mạnh, vừa hỗ trợ hệ miễn dịch. Hoa bia nhắm trực tiếp vào các vi khuẩn đường ruột có hại như Clostridium, trong khi cam thảo giúp tăng sức đề kháng nội sinh.

Sản phẩm không chỉ giải quyết triệu chứng trước mắt mà còn xây dựng khả năng chống chịu lâu dài cho vật nuôi. Quan trọng hơn, hiệu quả này đã được kiểm chứng thực tế tại các trang trại, trong điều kiện chăn nuôi khắt khe nhất.

PV: Ông nhìn nhận thế nào về vai trò tương lai của kháng sinh trong chăn nuôi?

TS. Bernhard Eckel: Kháng sinh nên là giải pháp ngoại lệ, không phải công cụ sử dụng thường xuyên. Chúng chỉ nên được dùng trong những trường hợp bệnh lý thực sự - điều này là trách nhiệm với vật nuôi, người tiêu dùng và cả thế hệ tương lai.

Tin vui là ngành chăn nuôi đã có những công cụ thay thế hiệu quả: phytogenic, vệ sinh chuồng trại tốt, dinh dưỡng tối ưu và di truyền bền vững. Khi kết hợp các yếu tố này, nông dân hoàn toàn có thể giảm hoặc loại bỏ sự phụ thuộc vào kháng sinh mà vẫn đạt hiệu quả mong muốn. Điều này không chỉ khả thi mà đang được triển khai thực tế.

PV: Ông kỳ vọng gì từ cơ quan quản lý và ngành chăn nuôi trong tương lai, thưa ông?

TS. Bernhard Eckel: Chúng ta cần nhiều hơn những lệnh cấm - cần nguồn cảm hứng và một lộ trình rõ ràng để khuyến khích đổi mới, hỗ trợ những nhà sản xuất có trách nhiệm và tưởng thưởng những ai dám khác biệt.

Các công cụ đã có, khoa học sẵn sàng. Quan trọng là dám nghĩ khác, dám đầu tư và hướng tới việc xây dựng sức khỏe vật nuôi bền vững. Tại Dr. Eckel, chúng tôi cam kết đồng hành cùng quá trình chuyển đổi này - không chỉ theo kịp xu hướng, mà còn góp phần định hình tương lai ngành chăn nuôi.

Trân trọng cảm ơn ông!

NGHĨA DƯƠNG - OANH THẢO (Thực hiện)

MIND FARM

Đơn vị cung cấp tinh heo chất lượng cao

Chất lượng tinh heo đóng vai trò quan trọng đến tỷ lệ đậu thai, năng suất đàn và hiệu quả kinh tế của người chăn nuôi. Hiểu được điều đó, Công ty TNHH Nông nghiệp Mind Farm (gọi tắt là Mind Farm) đã tiên quyết trong việc cung cấp tinh heo chất lượng cao ra thị trường; mang đến giải pháp tăng năng suất vượt trội trong chăn nuôi, tiến đến nền nông nghiệp công nghệ cao.

Tiêu chuẩn chọn đực giống khai thác tinh của Mind Farm

Mind Farm luôn có tiêu chuẩn khắt khe với việc lựa chọn đực giống đưa vào sử dụng khai thác tinh:

- Chọn heo từ 18 - 20 tuần tuổi (tiêu chí ban đầu);

- Trọng lượng đạt từ 90 - 110 kg (tiêu chí ban đầu);

- Sức khỏe tốt, ngoại hình đẹp;

- Siêu âm độ dày mỡ lưng, độ dày cơ thăn;

- Diện tích cơ thăn, tỷ lệ mỡ giắt, siêu âm tinh hoàn;

- Đáp ứng yêu cầu chỉ số VAC bằng siêu âm;

- Đáp ứng tiêu chuẩn chỉ số ADG, FCR tiêm chủng vaccine Myco, Circo, FSV, FMD, PRRS, giả dại…

điểm

nổi bật của tinh heo Mind Farm

Mind Farm ứng dụng công nghệ cao (IMV của Pháp) kiểm soát chặt chẽ từ khâu sản xuất tinh đến khi sản phẩm đến tay người chăn nuôi:

- Liều tinh luôn đạt chuẩn VAC: Thể tích đạt 50 ml/liều; Hoạt lực tinh trùng >70%; Nồng độ 2,5 tỷ tinh trùng/liều.

- Sản xuất tinh khép kín: Ứng dụng dây chuyền công nghệ IMV (Pháp) khai thác, đóng gói tự động; đảm bảo an toàn sinh học, chất lượng tinh đồng đều.

- Dải nhiệt độ rộng nhất thị trường: Bảo

quản trong dải nhiệt độ từ 10 - 25°C; đảm bảo

tinh luôn đạt chất lượng cao nhất.

- Hạn sử dụng cao nhất thị trường: Tinh

có thời gian sống tối đa tới 7 ngày khi bảo

quản đúng tiêu chuẩn.

Ông Hầu Tiến Kiên, khách hàng sử dụng

đực giống Mind Farm, chia sẻ: “Từ khi bắt

được dòng đực của Công ty Mind Farm, trang trại nhà tôi được rất nhiều bà con ủng

hộ đến đây lấy tinh mang về cung cấp cho con nái. Hầu như ngày nào, lúc nào tôi khai thác

ra đều “cháy” tinh, thậm chí khách hàng phải

đặt trước, gọi điện cho tôi thì mới có tinh chứ không thì gần như là hết…”.

Còn ông Hoàng Đức Sơn (NPP tinh heo

Mind Farm tại Sông Lô - Vĩnh Phúc) cho biết: “Đến năm 2025 là được 3 năm tôi nhập tinh của Công ty Mind Farm về để sử dụng cho đàn heo của gia đình và phân phối cho các hộ chăn nuôi trong khu vực. Sử dụng tinh

Mind Farm tỷ lệ đậu thai cao; đẻ sai, con đẹp; nuôi con thịt đạt biểu từ 130 - 140 kg, rất đạt yêu cầu của bà con chăn nuôi”.

Heo thịt từ tinh Mind Farm -

Năng suất vượt trội

Tinh heo Mind Farm được khai thác từ nguồn đực giống Duroc Đài Loan - dòng gen cao sản hướng thịt. Khi lai tạo với nái 2 máu (Landrace x Yorkshire) cho ra đời heo con 3 máu (heo thịt) với hàng loạt ưu điểm nổi bật:

- Tốc độ tăng trưởng vượt trội: ADG 850920 g/ngày, giúp rút ngắn thời gian xuất chuồng.

- Khung xương to, dài đòn, cơ bắp phát triển đồng đều: Heo đạt 135 - 140 kg vẫn chưa đổ mỡ, tỷ lệ đạt móc cao.

- Tỷ lệ nạc cao: Đáp ứng yêu cầu thị trường về thịt heo nạc, chất lượng cao; thịt đỏ, dẻo thơm.

- Sức đề kháng tốt, con khỏe mạnh: Giảm chi phí thuốc thú y, nâng cao hiệu quả chăn nuôi.

Bên cạnh đó, Mind Farm còn sản xuất tinh ông bà từ dòng Landrace, Yorkshire nhập khẩu từ Đan mạch.

Nhiều hộ chăn nuôi và chủ trang trại heo cũng ghi nhận:

- Tỷ lệ đậu thai luôn trên 90% với kỹ thuật phối đúng;

- Đàn heo con đồng đều, khỏe mạnh, giảm tỷ lệ hao hụt;

- Hiệu quả kinh tế tăng 15 - 20% nhờ giảm chi phí nuôi và tăng giá bán.

Tiêu biểu có ông Trần Văn Y (NPP tinh heo Mind Farm tại Sơn Dương, Tuyên Quang). Ông Y cho biết: “Trại khách hàng

của tôi đang sử dụng tinh heo của Mind Farm đạt tỷ lệ đẻ rất cao, trung bình từ 14 - 15 con, có con nái vượt trội đạt 20/20 con… Tỷ lệ đậu thai cao, thường đạt 90 - 95% trở lên nên rất là tốt. Hiện tại, quy mô của tôi đang là 60 nái, trong đó có 20 nái hậu bị và 40 nái sinh sản. So với trước thì mỗi năm tôi tăng từ 20 - 30% tổng đàn”.

Ông Hầu Tiến Kiên (khách hàng sử dụng đực giống Mind Farm) chia sẻ thêm: “Ngoại hình con heo từ sản phẩm heo đực Mind Farm đẻ ra rất là tốt. Heo trường nó dài, đạt khoảng 130 - 140 kg, tỷ lệ nạc cao. Tôi cảm thấy rất ưng ý về dòng lợn đực này…”.

“Nhìn chung, để đánh giá về chất lượng tinh Mind Farm thì tôi thấy rất ổn định, tốt và đảm bảo năng suất cho bà con chăn nuôi. Tinh của Công ty Mind Farm chất lượng tốt. Phải nói là tinh heo Mind Farm chất lượng cao”, ông Hoàng Đức Sơn (NPP tinh heo Mind Farm tại Sông Lô - Vĩnh Phúc) đánh giá.

CÔNG TY TNHH NÔNG NGHIỆP MIND FARM

Địa chỉ: BT4-31 Hoa Viên, KĐT

Đặng Xá, xã Thuận An, TP. Hà Nội Hotline: 0975.095.915

Website: https://mindfarm.vn/

UV-VIỆT NAM

Giải pháp từ công nghệ

sinh học trong cuộc

chiến phòng, chống dịch tả heo châu Phi

UV-Việt Nam, với vai trò là đối tác tin cậy trong lĩnh vực chăn nuôi, đã và đang ứng dụng công nghệ sinh học để hỗ trợ phòng, chống dịch tả heo châu Phi. Nhằm hỗ trợ người chăn nuôi ứng phó dịch bệnh, mới đây, UV-Việt Nam đã tổ chức Hội thảo chuyên đề về dịch tả heo châu Phi - Hiện trạng & Giải pháp kiểm soát hiệu quả, quy tụ sự tham dự của nhiều trang trại chăn nuôi heo quy mô lớn trên toàn quốc.

Dịch tả heo châu Phi đang bùng phát trên diện rộng, lan khắp cả nước và gây thiệt hại nặng nề cho người chăn nuôi. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, riêng tháng 7/2025 và đầu tháng 8, đã ghi nhận 571 ổ dịch mới tại 29 tỉnh, thành phố, với hơn 73.488 con heo chết và bị tiêu hủy, mức cao nhất từ đầu năm.

Sự bùng phát mạnh mẽ này không chỉ khiến nhiều hộ mất trắng đàn, mà còn đẩy chi phí sản xuất lên cao, đe dọa nguồn cung thịt heo và gây bất ổn cho toàn ngành chăn nuôi. Trong bối cảnh đó, việc tìm kiếm giải pháp khoa học, kịp thời là yêu cầu cấp bách.

Hội thảo chuyên đề về dịch tả heo châu Phi - Hiện trạng & Giải pháp kiểm soát hiệu quả được trình bày bởi PGS.TS Đỗ Tiến Duy (Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh)

- chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực bệnh truyền nhiễm trên heo và ThS Lê Đức Hải, Giám Đốc R&D, Công ty Cổ phần UV Nội dung tập trung vào ba trụ cột chính:

- Cập nhật tình hình dịch bệnh và nguyên nhân lây lan;

- Các biện pháp an toàn sinh học theo tư duy mới và kiểm soát dịch;

- Ứng dụng công nghệ sinh học, đặc biệt là Interferon trong hỗ trợ phòng và điều trị.

Sự kiện không chỉ mang tính chuyên môn đầy tính thực tiễn, mà còn tạo diễn đàn để các chủ trại kết nối, trao đổi kinh nghiệm, và tiếp cận các giải pháp khả thi áp dụng ngay trong thực tế.

Tại Hội thảo, Interferon được nhấn mạnh như một giải pháp sinh học giàu tiềm năng, có khả năng:

- Kích hoạt mạnh mẽ hệ miễn dịch; - Ức chế quá trình nhân lên của virus ASF

độc lực trung bình & nhẹ;

- Giảm biến chứng, giảm tỷ lệ chết và rút

ngắn thời gian hồi phục của đàn heo.

Thực tế tại Việt Nam, ứng dụng Interferon trong chăn nuôi heo đã cho kết quả tích cực, đặc biệt ở các đàn trong vùng dịch hoặc có nguy cơ cao.

Với nhà máy công nghệ sinh học tiên tiến, cùng quy trình sản xuất khép kín, UVGLUCANRON.S1 là minh chứng cho cam kết của UV-Việt Nam trong việc mang đến giải pháp khoa học - thực tiễn, góp phần bảo vệ ngành chăn nuôi Việt Nam.

Dịch tả heo châu Phi vẫn là thách thức lớn đối với ngành chăn nuôi. Sự kết hợp giữa kiến thức chuyên môn, công nghệ sinh học và giải pháp thực tiễn như hội thảo chuyên đề và sản phẩm UV-GLUCANRON.S1 chính là chìa khóa để giúp người chăn nuôi vượt qua khó khăn, hướng tới một ngành chăn nuôi an toàn và bền vững.

CHIẾN DỊCH THỨC ĂN CHĂN NUÔI SẤY KHÔ EU

Chuyên gia châu Âu hợp tác cùng

trang trại Việt Nam

nâng cao hiệu quả thức ăn cho bò sữa

Từ ngày 14 - 18/7/2025, trong khuôn khổ Chiến dịch Thức ăn chăn nuôi sấy khô châu Âu từ Tây Ban Nha và Ý, đồng tài trợ bởi Liên minh châu

Âu và được dẫn dắt bởi Hiệp hội Các nhà sản xuất thức ăn sấy khô Ý (FILIERA); Italian Foraggi và AEFA - hai chuyên gia dinh dưỡng vật nuôi từ châu Âu đã tham gia đoàn kỹ thuật tại Việt Nam để thực hiện chuỗi hội thảo thực hành và các chuyến thăm trang trại.

Diễn ra từ năm 2024 đến 2026, Chiến dịch

Thức ăn chăn nuôi sấy khô từ Tây Ban Nha và Ý nhằm quảng bá nguồn thức ăn chăn nuôi

sấy khô chất lượng cao đến từ Tây Ban Nha và Ý tại các thị trường Việt Nam, Indonesia, Nhật Bản và Đài Loan. Với chủ đề “Dinh

dưỡng nguyên chất từ mỗi cọng cỏ khô trong từng giọt sữa”, chuỗi hoạt động tại Việt Nam tập trung giới thiệu sản phẩm cỏ sấy khô hâu Âu đến ngành chăn nuôi trong nước thông qua các buổi trao đổi chuyên môn và xây dựng quan hệ hợp tác, đồng thời nhấn mạnh lợi ích về dinh dưỡng và tính bền vững của thức ăn sấy khô sản xuất tại châu Âu.

Những điểm nhấn trong chương trình

tại Việt Nam (14 - 18/7/2025)

Hai chuyên gia dinh dưỡng vật nuôi giàu kinh nghiệm đến từ châu Âu đã đồng hành

cùng đoàn công tác trong lịch trình dày đặc các hoạt động kỹ thuật, bao gồm:

• Gặp gỡ hai hiệp hội ngành chăn nuôi tại Hà Nội (15/7):

Đoàn đã gặp gỡ và trao đổi chuyên môn với hai hiệp hội lớn trong ngành là VINARUHA và AHAV, nhằm mở rộng cơ hội hợp tác trong tương lai.

• Hội thảo kỹ thuật tại TP Hồ Chí Minh (16/7):

Tổ chức tại W Business Center, hội thảo đã thu hút sự tham gia của các nông hộ, chuyên gia dinh dưỡng, nhà nhập khẩu và đại diện ngành sữa. Buổi thảo luận mang tính tương tác cao xoay quanh chiến lược nuôi dưỡng theo chuẩn châu Âu và những lợi ích thực tiễn từ giải pháp cỏ sấy khô EU.

• Hội thảo kỹ thuật tại TP Hồ Chí Minh (16/7):

Tổ chức tại W Business Center, hội thảo đã thu hút sự tham gia của các nông hộ, hiệp hội gia súc, chuyên gia dinh dưỡng, nhà nhập khẩu và đại diện ngành sữa. Buổi thảo luận mang tính tương tác cao xoay quanh chiến lược nuôi dưỡng theo chuẩn châu Âu và những lợi ích thực tiễn từ giải pháp cỏ sấy khô EU.

• Thăm thực địa tại trang trại Dalatmilk và Nutimilk (17/7):

Tại hai trang trại sữa tiêu biểu của Việt Nam, các chuyên gia châu Âu đã tiến hành khảo sát thực tế, quan sát hệ thống cho ăn, đồng thời đưa ra các khuyến nghị, nhằm nâng cao hiệu quả thức ăn, sức khỏe đàn gia súc và sản lượng sữa.

Chương trình đã mang đến một nền tảng kết nối thiết thực giữa chuyên gia châu Âu và các đơn vị chăn nuôi Việt Nam trong việc tiếp

➢ Chi tiết các hoạt động và thông tin mới về thức ăn chăn nuôi sấy khô EU sẽ được cập nhật sớm. Để biết thêm thông tin về chiến dịch và các sự kiện sắp tới, hãy truy cập website chính thức tại www.eufodder.com hoặc đăng ký nhận bản

tin tức hàng quý, bao gồm thông tin về sản xuất, sản phẩm, cách sử dụng và giá cả qua email vietnam@eufodder.com hoặc số điện thoại +84 942301918.

cận các giải pháp nuôi dưỡng tiên tiến, hiệu quả và thân thiện với môi trường.

Các buổi làm việc tại trang trại nhằm chứng minh khả năng tích hợp hiệu quả của thức ăn chăn nuôi sấy khô chất lượng cao từ châu Âu vào hệ thống chăn nuôi địa phương, từ đó tối ưu hóa hiệu suất sản xuất, đồng thời hỗ trợ phúc lợi vật nuôi và thúc đẩy phát triển bền vững. Các cuộc họp tư vấn trực tiếp tại chỗ cũng tạo cơ hội thảo luận sâu về chất lượng ủ chua, quản lý nguồn thức ăn thô và cách điều chỉnh chương trình dinh dưỡng phù hợp với khí hậu nhiệt đới.

Những nỗ lực hợp tác này phản ánh sứ mệnh cốt lõi của Chiến dịch Thức ăn chăn nuôi sấy khô EU: xây dựng cầu nối kỹ thuật, thúc đẩy dinh dưỡng dựa trên khoa học và

nuôi dưỡng sự phát triển song phương giữa ngành sữa châu Âu và Đông Nam Á.

Hướng tới tương lai

Sau khi hoàn thành thành công chương trình tại Việt Nam, Chiến dịch Thức ăn chăn nuôi sấy khô EU sẽ tiếp tục triển khai các hoạt

động tại những thị trường trọng điểm khác trong khu vực châu Á như Indonesia, Nhật

Bản và Đài Loan; mang chuyên môn châu Âu đến gần hơn với các nhà sản xuất trong khu vực đang tìm kiếm giải pháp tiên tiến về dinh dưỡng và phát triển chăn nuôi bền vững. Những sự kiện sắp tới sẽ tiếp tục tăng cường

hợp tác quốc tế và giới thiệu các giải pháp chăn nuôi tiên tiến đến từ châu Âu, được điều chỉnh phù hợp với điều kiện từng quốc gia.

Mọi thông tin chi tiết hoặc đăng ký tham gia các hoạt động sắp tới, vui

lòng liên hệ:

Email: vietnam@eufodder.com

Điện thoại: +84 94 230 1918

Website: www.eufodder.com

Tại Việt Nam, chiến dịch sẽ tiếp tục với các sáng kiến sắp tới như tham gia ILDEX Vietnam 2026 và một chuyến xúc tiến thương mại của các công ty Việt Nam đến châu Âu dự kiến diễn ra vào tháng 8 hoặc 9/2026.

VACCINE CÔNG NGHỆ

ĐÒN BẨY CHO NGÀNH CHĂN NUÔI VIỆT NAM VƯƠN TẦM

Trước những thách thức từ dịch bệnh, vaccine Vaxxitek® HVT+IBD+ND đã mang đến giải pháp đột phá, phòng ngừa cùng lúc ba bệnh nguy

hiểm. Sản phẩm này không chỉ bảo vệ đàn gia cầm một cách hiệu quả mà còn mở ra con đường phát triển bền vững, giúp ngành chăn nuôi Việt Nam tự tin vươn ra thị trường quốc tế.

Theo các chuyên gia, ba căn bệnh Marek, Gumboro và Newcastle vẫn luôn là nỗi ám

ảnh đối với người chăn nuôi gia cầm, gây thiệt hại kinh tế hàng tỷ đồng mỗi năm. Thiếu đi một giải pháp phòng bệnh hiệu quả, toàn diện và bền vững, ngành chăn nuôi khó có thể phát triển ổn định và vươn ra các thị trường xuất khẩu tiềm năng.

Bức tranh thách thức từ dịch

bệnh

ThS. BSTY Nguyễn Thị Thu Năm (Khoa

Chăn nuôi Thú y, Trường Đại học Nông Lâm

TP Hồ Chí Minh) đã chỉ ra những mối đe dọa cụ thể mà người chăn nuôi phải đối mặt.

Bệnh Marek, gây ra bởi virus herpes, không

chỉ khiến gà bị u lympho ác tính mà còn làm

suy giảm hệ miễn dịch, mở đường cho nhiều

bệnh kế phát. Tỷ lệ chết có thể lên tới 30%, và thiệt hại kinh tế toàn cầu ước tính lên đến 1 - 2 tỷ USD/năm.

Tương tự, bệnh Gumboro thường gây

bệnh trên gà con, phá hủy cơ quan miễn dịch quan trọng là túi Fabricius, làm giảm khả

năng đáp ứng miễn dịch và hiệu suất chăn nuôi. Đàn gà mắc bệnh thường còi cọc, chậm lớn, và dễ nhiễm các bệnh khác. Bên cạnh đó, Newcastle có khả năng lây lan cực nhanh, tỷ lệ chết có thể lên tới 90% ở gà thịt nếu không có biện pháp phòng ngừa kịp thời và hiệu quả. Để phòng bệnh cho gia cầm, người chăn nuôi truyền thống thường phải chủng ngừa nhiều loại vaccine và kết hợp sử dụng kháng sinh để kiểm soát các bệnh kế phát. Tuy nhiên, cách làm này không chỉ tốn kém về chi phí, nhân công mà còn gây stress cho đàn gà, ảnh hưởng đến phúc lợi động vật và làm gia tăng nguy cơ tồn dư kháng sinh, một rào cản lớn khi hướng đến các thị trường xuất khẩu. Vaxxitek ® HVT+IBD+ND: Ba tác động trong một giải pháp

Trước bối cảnh đó, hội thảo “Vaccine công nghệ - Chăn nuôi bền vững”, được tổ chức bởi Công ty TNHH Thuốc Thú Y Boehringer Ingelheim Việt Nam phối hợp cùng nhà phân phối chiến lược Olmix Asialand Việt Nam

đã giới thiệu một giải pháp đột phá: vaccine Vaxxitek® HVT+IBD+ND. Đây là vaccine công nghệ cao, có khả năng phòng đồng thời ba bệnh quan trọng: Marek, Gumboro và Newcastle chỉ trong một liều tiêm duy nhất. ThS. BSTY Phạm Hào Quang, chuyên viên kỹ thuật của Boehringer Ingelheim Animal Health Việt Nam chia sẻ những ưu điểm vượt trội của sản phẩm. Theo đó, vaccine được chỉ định sử dụng cho gà con một ngày tuổi hoặc tiêm vào trứng có phôi 18 - 19 ngày tuổi tại nhà máy ấp. Việc này giúp gà hình thành miễn dịch sớm, được bảo vệ ngay từ những ngày đầu đời, thời điểm mà gà con dễ bị tổn thương nhất. Giải pháp “ba trong một” này mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho người chăn nuôi. Việc sử dụng vaccine công nghệ giúp giảm đáng kể số lần chủng ngừa, từ đó tiết kiệm chi phí nhân công và giảm thiểu căng thẳng cho đàn vật nuôi. Việc giảm căng thẳng cho gà không chỉ cải thiện phúc lợi động vật mà còn góp phần nâng cao hiệu suất chăn

nuôi toàn diện. Về mặt miễn dịch, Vaxxitek®

HVT+IBD+ND cho hiệu quả bảo hộ bệnh Marek sau 4 - 5 ngày tiêm, và bảo hộ bệnh Gumboro và bệnh Newcastle sau khoảng 2128 ngày. Quan trọng hơn, sản phẩm còn giúp gà tăng trọng tốt hơn, giảm tỷ lệ chết và hạn chế đáng kể việc bài thải virus ra môi trường, qua đó tăng cường an toàn sinh học cho toàn bộ trang trại.

Minh chứng từ thực tiễn sản xuất

Để chứng minh hiệu quả của Vaxxitek®

HVT+IBD+ND, hội thảo đã đưa ra nhiều ví dụ thực tế từ các mô hình chăn nuôi thành công tại khu vực phía Nam.

Tại một trại gà trắng quy mô lớn 260.000 con ở tỉnh Tây Ninh, kết quả thu được rất ấn tượng. Sau khi chuyển sang sử dụng Vaxxitek® HVT+IBD+ND tại nhà máy ấp, kết hợp với một liều vaccine sống phòng bệnh IBD tại trại, tỷ lệ chết của đàn gà đã giảm tới 43,37% so với lô đối chứng (sử dụng vaccine ND vô hoạt và chủng ngừa hai mũi vaccine sống phòng bệnh IBD tại trại). Điều này cho thấy vaccine Vaxxitek® HVT+IBD+ND đã tạo ra một lá chắn miễn dịch vững chắc, bảo vệ đàn gà khỏi những mầm bệnh nguy hiểm. Chỉ số FCR hiệu chỉnh 2,2 kg cũng giảm 3,03%, phản ánh hiệu suất sử dụng thức ăn tốt hơn, giúp người chăn nuôi tiết kiệm chi phí thức ăn. Ngoài ra, tỷ lệ bệnh tích ở chân và ghẻ da của lô gà sử dụng Vaxxitek® HVT+IBD+ND cũng thấp hơn lần lượt 22,17% và 10,12%.

Chia sẻ từ các chủ trang trại cũng đã mang đến những câu chuyện đầy thuyết phục. Ông Nguyễn Văn Ngọc, chủ chuỗi trang trại chăn nuôi gà trắng Chí Thành với hơn 30 năm kinh nghiệm, đã chứng kiến sự thay đổi lớn từ khi sử dụng vaccine công nghệ này. Ông cho biết: “Khi sử dụng vaccine này cho 110.000 con gà đẻ, tỷ lệ hao hụt lúc gà 18 tuần là 170 con, trọng lượng đạt 1,55 kg (trước đó chỉ đạt 1,4

➢ Với những thành công bước

đầu, Vaxxitek® HVT+IBD+ND được

kỳ vọng sẽ mở ra hướng đi mới cho

ngành chăn nuôi gia cầm Việt Nam, nơi hiệu quả sản xuất gắn liền với

bền vững sinh học và trách nhiệm

với môi trường. Đây chính là đòn

bẩy quan trọng để ngành chăn nuôi

nước ta vươn tầm, tự tin chinh phục

những thị trường khó tính nhất.

THÔNG TIN DOANH NGHIỆP

kg) và tỷ lệ đẻ đạt 93% (24 tuần tuổi). Điều này giúp giảm thiểu chi phí và công sức, mang lại sự thay đổi lớn, cải thiện sức khỏe đàn gà, nâng cao hiệu quả chăn nuôi”. Cùng quan điểm, ông Lê Phương Hải, một chủ trang trại gà trắng khác, cũng bày tỏ sự hài lòng. Trước đây, dù tiêm đầy đủ các loại vaccine, gà vẫn còi cọc và bệnh tái phát. Sau khi chuyển sang Vaxxitek® HVT+IBD+ND, kết quả vượt mong đợi: sau 40 ngày nuôi, gà đạt trọng lượng trung bình 2,76 kg, FCR 1,44 và tỷ lệ hao hụt chỉ 3%. Những con số này không chỉ là thành công của riêng ông mà còn là minh chứng rõ nét cho hiệu quả vượt trội của vaccine công nghệ.

Chăn nuôi bền vững: Tiêu chuẩn của hội

nhập quốc tế

Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, ngành chăn nuôi Việt Nam đang phải đối mặt với yêu cầu ngày càng cao từ các thị trường xuất khẩu, đặc biệt là Nhật Bản, Hàn Quốc và EU. Các thị trường này đòi hỏi rất khắt khe về kiểm soát dịch bệnh, hạn chế sử dụng kháng sinh và đảm bảo phúc lợi động vật.

Ông Vũ Mạnh Hùng, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Hùng Nhơn, Phó Chủ tịch Hiệp hội

Nông nghiệp số Việt Nam nhấn mạnh, thành công trong chăn nuôi hiện đại không chỉ đến từ đam mê và kinh nghiệm mà còn cần sự kết hợp của những giải pháp công nghệ tiên tiến. Để đáp ứng các tiêu chuẩn xuất khẩu, việc áp dụng các vaccine công nghệ như vaccine Vaxxitek® HVT+IBD+ND là một bước đi thiết yếu. Những giải pháp này không chỉ bảo vệ đàn vật nuôi mà còn giúp người chăn nuôi xây dựng một mô hình sản xuất an toàn, minh bạch, có thể truy xuất nguồn gốc. Để hỗ trợ người chăn nuôi một cách toàn diện, Boehringer Ingelheim và Olmix Asialand đã cung cấp hệ thống hỗ trợ kỹ thuật đồng bộ, bao gồm dịch vụ tiêm chủng chuyên nghiệp VTS, phòng xét nghiệm chẩn đoán và tư vấn kỹ thuật trực tiếp tại trại. Mô hình hỗ trợ này giúp người chăn nuôi kiểm soát tốt hơn các rủi ro dịch bệnh, nâng cao năng suất và đảm bảo chất lượng sản phẩm. KHÁNH NGUYỄN

Hành trình kiến tạo giá trị vì sức khỏe vật nuôi

Từ những ngày đầu hình thành, Vemedim đã xác định sứ mệnh là người bạn đồng hành đáng tin cậy của ngành chăn nuôi Việt Nam. Với bề dày gần 35 năm kinh nghiệm và là đơn vị Việt Nam có uy tín toàn cầu trong lĩnh vực thuốc thú y, sản phẩm Vemedim được xuất khẩu đến 52 quốc gia trên thế giới, trong đó có: Mỹ, Australia, châu Âu, Hàn Quốc…

Tổng công ty Vemedim Corporation
Tham gia triển lãm Vietstock

Chứng chỉ lưu hành tại Nga

Chứng nhận lưu hành tại USA

Phát triển bền vững bằng công nghệ vượt bậc

Luôn lấy chất lượng làm cốt lõi, Vemedim đầu tư mạnh mẽ vào hệ thống sản xuất chuẩn GMP, trang thiết bị hiện đại và quy trình kiểm soát nghiêm ngặt. Đặc biệt, chúng tôi tự hào tiên phong áp dụng công nghệ BFS

Products: Các sản phẩm được chiết, đóng gói bằng công nghệ Blow - Fill - Seal, cùng hệ thống ống tiêm nạp sẵn vô trùng (Aseptic Prefilled Syringes) - giải pháp an toàn tuyệt

đối trong điều trị. Những bước tiến vượt bậc này giúp Vemedim không chỉ đứng đầu tại

Việt Nam mà còn từng bước khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế.

Thành tựu khẳng định vị thế top 1 thuốc thú y - thủy sản Việt Nam

Vemedim là đơn vị có số lượng thị trường xuất khẩu thuốc thú y nhiều nhất Việt Nam với 52 quốc gia và vùng lãnh thổ, sở hữu danh mục hơn 2.000 sản phẩm đa dạng đạt chuẩn quốc tế, đáp ứng toàn diện nhu cầu từ thú y, thủy sản đến thú cưng. Chúng tôi là một trong số ít doanh nghiệp trong ngành đạt chứng nhận ISO 9001, ISO 14001 và GMPWHO, Vilas 139 và các chứng nhận lưu hành ở nhiều quốc gia trên thế giới, với hệ thống phân phối rộng khắp toàn quốc. Những con số ấn tượng này chính là minh chứng cho vị thế top 1 thuốc thú y, top đầu thuốc thủy sản, ➢ Nhà máy sản xuất thuốc thú y, thủy sản, thuốc thú cưng của Vemedim có tổng vốn đầu tư gần 63 triệu USD, được xây dựng theo công nghệ hiện đại hàng đầu thế giới song hành với tiêu chí thân thiện với môi trường. Chúng tôi cam kết tiếp tục dẫn đầu, đồng hành cùng khách hàng trên hành trình phát triển bền vững và thịnh vượng.

và thuốc thú cưng uy tín, chất lượng tại Việt Nam.

Tự hào thương hiệu Việt - vươn tầm quốc tế Vemedim không ngừng đổi mới để phục vụ cộng đồng chăn nuôi Việt Nam bằng những sản phẩm chất lượng cao, thân thiện với môi trường và hiệu quả vượt trội. Với đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm, hệ thống R&D hiện đại và khát vọng vươn xa, Vemedim tự hào là biểu tượng của sự uy tín, chất lượng và đổi mới trong ngành thú y Việt Nam.

VEMEDIM

Nhập

lô hàng máy phân loại trứng tự động

Tiếp tục thực hiện sứ mệnh chuyển giao thiết bị máy phân loại trứng gà hiện đại vào lĩnh vực chăn nuôi - một bước tiến nâng cao hiệu quả sản xuất, tiết kiệm chi phí, tối ưu hóa thời gian lao động và gia tăng lợi nhuận bền vững cho các trang trại chăn nuôi tại Việt Nam. Trong những ngày đầu tháng 8/2025, Công ty TNHH B.H N đã nhập lô hàng máy phân loại trứng tự động đóng vỉ để chuẩn bị lắp đặt cho khách hàng tại miền Nam.

Những lợi ích khi sử dụng máy phân loại trứng gà

1. Tối ưu hóa chi phí vận hành Tiết kiệm nhân công: Thay thế từ 3 - 10 lao động tùy công suất máy, giảm chi phí thuê và quản lý nhân sự. và tiết kiệm điện năng: Có thể vận hành linh hoạt một phần hệ thống khi sản lượng ít, giảm chi phí điện. Giảm tổn thất do hư hỏng trứng: Tránh va chạm trong quá trình phân loại thủ công, giảm tỷ lệ trứng vỡ/giập.

2. Hỗ trợ quản lý và báo cáo

Cân và phân loại chính xác trọng lượng trứng gà. Hiển thị số lượng trứng phân loại theo từng size, từng ngày quản lý số lượng trứng nhập đầu vào trong ngày. Tính trọng lượng trung bình, tổng sản lượng. Hỗ trợ xuất dữ liệu cho quản lý tồn kho, lập kế hoạch bán hàng, truy xuất lô sản xuất.

3. Thiết kế hiện đại, linh hoạt

Tùy chỉnh theo nhu cầu từng trang trại:

Công suất của mỗi trang trại, số cổng phân loại, hệ thống đóng gói, chiều dài băng tải...

Chiếm diện tích nhỏ gọn: Phù hợp nhiều quy mô trang trại trang trại; Vận hành dễ dàng - bảo trì thuận tiện.

Trứng gà từ các trang trại sau khi được

xử lý phân loại, làm sạch, đạt tiêu chuẩn chất lượng cao giúp các chủ trang trại bán trứng được giá tốt cung cấp vào các chuỗi nhà hàng, quán ăn, siêu thị, xuất khẩu… Quá trình phân loại trứng gà bằng máy được xử lý nhẹ nhàng, nhanh chóng giúp hạn chế nứt vỡ so với việc phân loại trứng thủ công bằng tay.

Công ty TNNHH B.H.N đã có gần 12 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực cung cấp các thiệt bị chăn nuôi, đặc biệt là máy phân loại trứng gà cho các trang trại, chăn nuôi, cơ sở sản xuất trứng gà. Chúng tôi đã cung cấp ra thị trường rất nhiều dòng máy phân loại trứng khác nhau như: 10.000 trứng/giờ - 20.000 trứng/giờ - 30.000 trứng/giờ - 60.000 trứng/

giờ phù hợp với từng công suất trứng ở từng trang trại chăn nuôi.

Chúng tôi với đội ngũ kỹ thuật công nghệ tiên tiến hiện đại, hướng tới sự phát triển bền vững trong tương lại, với châm ngôn đặt lợi ích khách hàng lên hàng đầu, đưa nên sản xuất nông nghiệp chăn nuôi Việt Nam vươn tầm thế giới. Chúng tôi cam kết mang máy móc thiết bị tiêu chuẩn chất lượng tốt, dịch vụ khách hàng tận tâm.

Thông tin liên hệ:

tư vấn miễn phí và trải nghiệm công nghệ tiên tiến nhất trong ngành chăn nuôi hiện nay. Hotiline: 028.668.10195/ 028.668.10196.

Hữu Thọ, xã Nhà Bè, TP.HCM Số điện thoại: 028.668.101.95

Website: bhnenc.com

Email: bhnenc@gmail.com

DỊCH TẢ HEO CHÂU PHI

HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT HIỆU QUẢ

1Khoa Chăn Nuôi Thú Y, Trường Đại học Nông Lâm TP HCM

2Phòng thí nghiệm Y sinh Chăn nuôi (ABR Lab), Trường Đại học Nông Lâm TP HCM

Thách thức lớn nhất ở thời điểm hiện tại

được người chăn nuôi quan tâm là hai dịch bệnh nguy hiểm: Dịch tả heo châu Phi (ASF) và Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản (PRRS). Đây là hai mầm bệnh có đặc điểm dịch tễ phức tạp, tỷ lệ bệnh/chết cao, khả năng gây suy giảm miễn dịch cấp tính và gây

ảnh hưởng lớn đến năng suất chăn nuôi heo.

Trong bối cảnh lưu hành trên diện rộng của ASF và PRRS với hậu quả nghiêm trọng, sự kiểm soát hiệu quả hai dịch bệnh này là một vấn đề then chốt, cần được chỉ ra để giúp người chăn nuôi an tâm và đảm bảo sự ổn

định tiến đến phát triển đàn heo bền vững.

Dịch tả heo châu Phi - sự biến đổi độc lực và tác động

ASFV thuộc họ Asfarviridae, là virus

DNA sợi kép có cấu trúc phức tạp, lây truyền chủ yếu qua tiếp xúc trực tiếp, môi trường, thức ăn/nước uống vấy nhiễm, và đặc biệt có thể lây truyền qua vector sinh học như ve mềm Ornithodoros spp. Tùy theo độc lực của chủng virus, ASFV có thể gây ra thể bệnh quá cấp tính với tỷ lệ chết lên tới 100%, hoặc thể mãn tính với tỷ lệ chết thấp nhưng khó chẩn đoán phát hiện qua lâm sàng, nhất là ở heo nái và heo con. Ngoài ra, dấu hiệu lâm sàng

và bệnh tích khi nhiễm ASFV rất đa dạng phụ

thuộc vào nhiều yếu tố như tình trạng miễn dịch của vật chủ, độc lực của chủng virus nhiễm, liều tiếp xúc và đường lây nhiễm. Các thử nghiệm gây nhiễm cho thấy đường tiêm bắp và nhỏ mũi (liều cao) cho tỷ lệ mắc bệnh gần như tuyệt đối, trong khi các hình thức gây nhiễm qua thức ăn, nước uống hoặc tiếp xúc trực tiếp thường cho kết quả thấp hơn. Sự đa dạng di truyền của ASFV là một thách thức lớn trong kiểm soát bệnh. Hiện nay, Việt Nam đã ghi nhận sự đa dạng gien của các chủng ASFV, gồm có chủng genotype II độc lực cao, chủng tái tổ hợp genotype I và genotype II, chủng genotype II độc lực thấp (ASF-GUS-Vietnam), và chủng “likevaccine” độc lực thấp, tạo ra một sự phức tạp trong công tác chẩn đoán và cấp bách về giám sát dịch bệnh, khả năng gây bệnh và tái tổ hợp giữa các chủng mầm bệnh ASFV. Các chủng ASFV đa dạng tạo ra một sự đa dạng lâm sàng và bệnh tích gây ra trong các ổ dịch ở thực địa; trong đó, tần suất các ổ dịch không điển hình của thể cấp tính được ghi nhận phổ biến hơn ở các trang trại, bước đầu được xem là thể bán cấp tính hoặc mãn tính, có đặc điểm khó nhận biết bằng đánh giá lâm sàng mà phải chờ kết quả xét nghiệm. Chủng

virus ASFV độc lực thấp được người chăn nuôi đánh giá là có khả năng lây lan nhanh và cao hơn bình thường, bởi do nhiễm cận lâm sàng, lâm sàng nhẹ hoặc không rõ ràng nên khi phát hiện ra thì mầm bệnh đã âm thầm lây lan trong đàn heo ở phạm vi rộng của trại, kể cả xét nghiệm kháng nguyên mầm bệnh cũng có thể cho kết quả âm tính giả do hàm lượng virus thấp vào thời điểm thu mẫu (giá trị Ct phát hiện dương tính thường nằm ở khoảng 30 - 35).

Đối phó với thực trạng đa dạng chủng nhiễm và lâm sàng, các phương pháp chẩn đoán nhanh, chính xác, nhạy cảm cao đóng vai trò quan trọng trong việc chủ động tầm soát sự lưu hành của virus trong đàn heo và ngăn chặn kịp thời sự lây nhiễm cận lâm sàng và các vấy nhiễm ở môi trường, vật chủ trung gian truyền bệnh... để tránh việc lây lan thầm lặng ASFV nhất là các chủng độc lực thấp. Sự biến đổi của chủng genotype II tạo ra các biến thể đang lưu hành, sự xuất hiện của chủng tái tổ hợp của genotype I/II và các chủng “vaccine-like” sống nhược độc, khiến cho việc chẩn đoán trở nên khó khăn và tốn kém. Các quy trình PCR được khuyến cáo bởi (WOAH, 2023) trước đó vẫn có thể sử dụng để đánh giá sự hiện diện của ASFV

Hình 2: Tam giác vòng truyền lây bệnh truyền nhiễm lấy vai trò yếu tố trung gian truyền lây làm trung tâm và biện pháp ngăn ngừa

Hình 3. Mô hình tiếp cận an toàn sinh học mới: so sánh sự khác biệt về quản lý các yếu tố nguy cơ vào trang trại trong quá khứ với hiện tại và tương lai. Không gian trại được phân biệt ra ba vùng với giám sát phù hợp:  Nguy cơ Vùng đệm -  Vùng sạch. Tất cả yếu tố nguy cơ vào trại được giới hạn, quản lý, kiểm soát và kiểm dịch ở vùng nguy cơ đầu tiên. Vùng đệm thêm một lớp tiếp tục được kiểm dịch chặt chẽ và có ý nghĩa về không gian và thời gian đảm bảo giảm thiểu tối đa nguy cơ nhằm bảo vệ vùng an toàn tốt nhất.

nhưng không có khả năng phân biệt các kiểu gen (genotype) khác nhau và không phân biệt được chủng virus vaccine hay thực địa. Chính vì thế, sự chủ động giám sát lâm sàng, tầm soát qua xét nghiệm để chẩn đoán sớm ca nhiễm và chủng nhiễm ở trại là bước đầu tiên của biện pháp ngăn ngừa dịch bệnh, từ đó có đủ thời gian ra quyết định chọn giải pháp kiểm soát/ngăn chặn sự lây lan hiệu quả và góp phần chủ động trong công tác an toàn và an ninh sinh học của trang trại.

Giải pháp kiểm soát

Các biện pháp kiểm soát bệnh tổng thể Sự hình thành và tồn tại của mầm bệnh truyền nhiễm được mô tả ở vòng truyền lây cơ bản, gồm các đối tượng chính là nguồn bệnh (mầm bệnh), thú cảm thụ (vật chủ) và môi trường; trong đó yếu tố truyền lây trung gian (vectors: sinh học hay phi sinh học) có vai trò quan trọng do có tính chất di động và truyền lây mầm bệnh qua lại giữa các đối tượng trong vòng truyền lây. Chính vì thế, nguyên lý của phòng bệnh truyền nhiễm là

cắt đứt 1 trong 3 khâu của vòng truyền lây

bệnh. Nếu muốn vật chủ không bị bệnh thì

phải tạo ra sức đề kháng qua tiêm phòng chủ

động. Mầm bệnh sẽ bị tiêu diệt nếu nguồn bệnh (heo mắc bệnh) được kiểm dịch, tiêu

hủy hay chôn cất hợp lý. Sự vấy nhiễm mầm

bệnh có thể bị loại trừ khỏi môi trường qua hoạt động vệ sinh khử trùng hoặc để lâu một

thời gian ở môi trường bất lợi. Heo sống

trong môi trường sạch sẽ (không mầm bệnh) thì sẽ không nhiễm mắc bệnh. Mỗi mầm bệnh truyền nhiễm trên heo có đặc điểm sinh bệnh học khác nhau về thời gian ủ bệnh, thời điểm và con đường bài thải, tồn tại bên ngoài môi trường và cách thức lây nhiễm nên chúng ta sẽ có các biện pháp phù hợp và hiệu quả khác nhau. Các biện pháp cụ thể thường được chọn lựa áp dụng hoặc phối hợp trong kiểm soát và xử lý dịch bệnh như

ở dưới đây:

◆ Loại đàn, tái đàn

◆ Xét nghiệm và loại heo

◆ Cai sữa sớm, tách biệt

◆ Đóng đàn

◆ Tiêm phòng chủ động

◆ Phơi nhiễm tự nhiên

◆ Dùng thuốc (kháng sinh, interferon...)

Trong đó, biện pháp loại đàn/tái đàn và xét nghiệm/loại heo nhắm đến loại trừ nguồn

bệnh/mầm bệnh; biện pháp tiêm phòng chủ động, phơi nhiễm tự nhiên hoặc dùng thuốc tác động vào vật chủ để tạo miễn dịch chủ động hay bị động; và biện pháp di chuyển tách biệt heo đến nơi khác, cai sữa sớm/tách

biệt và đóng đàn nhắm đến đối tượng là môi trường nuôi an toàn không có mầm bệnh. Mỗi biện pháp đều có tính ưu và nhược điểm nhưng trong thực tế các mầm bệnh truyền nhiễm quan trọng trên heo có tính phức tạp nên cần chọn lựa và áp dụng phối hợp các biện pháp mới đem lại hiệu quả trong thực tế. Hiện nay, an toàn sinh học (ATSH) được xem là một chiến lược quan trọng, cần thiết và có tính bao quát và cần nhiều nguồn lực để thực hiện; nên bên cạnh ATSH người quản lý an toàn dịch bệnh cần chọn kết hợp các biện pháp chuyên biệt hơn như đề cập ở trên. Ở “kỷ nguyên” dịch bệnh truyền nhiễm phức tạp, “chúng ta cần thiết thay đổi tự duy cũ sang tư duy mới trong chăn nuôi an toàn dịch bệnh”, tiếp cận an toàn sinh học mới. Trong tiếp cận an toàn sinh học mới, tất cả các yếu tố an toàn sinh học kể trên được xem xét, phân loại và sắp đặt vào không gian an toàn sinh học nhất định của trại (bên ngoài và bên trong). Để đạt được an toàn sinh học theo tiếp cận mới, cấu trúc (mô hình) trại cần được phân định ra thành 3 vùng an toàn sinh học khác nhau về mặt không gian (Hình 3), được đặt tên là vùng Nguy cơ, vùng Đệm và vùng Sạch; 3 vùng này ngăn cách nhau bởi các lớp hàng rào an toàn sinh học, hàng rào an toàn sinh học ngăn cách các vùng không chỉ là tường rào (phần cứng) mà còn là quy trình hoạt động của trại (phần mềm), được tái sắp xếp theo một trật tự mới. Các yếu tố nguy cơ cao từ bên ngoài sẽ được loại bỏ, ngăn chặn từ hàng rào bên ngoài hoặc chỉ cho nhập trại ở đúng vị trí nhất định (Vùng nguy cơ) và được xử lý nguy cơ

KHOA HỌC KỸ THUẬT

NGƯỜI CHĂN NUÔI SỐ 106 - 8/2025

bỏ hoặc xử lý triệt để sự vấy nhiễm và cần áp dụng “thời gian nghỉ tối thiểu cần thiếtempty time” để chấm dứt sự sống của mầm bệnh theo một cách tự nhiên theo thời gian; bên cạnh đó hạn chế sự tiếp xúc, nhiễm chéo và tồn lưu mầm bệnh trong các vùng của trại nuôi. Vùng Đệm là hàng rào an toàn sinh học bảo vệ thứ hai để đảm bảo các yếu tố nguy cơ được loại bỏ hoàn toàn mầm bệnh theo không gian và thời gian trước khi cho phép đi vào vùng Sạch. Vùng Sạch là vùng bảo vệ cuối cùng, có tính an toàn cao của trại chăn nuôi, tại đây hoạt động sinh trưởng và phát triển của heo được diễn ra hiệu quả.

Interferon và tiềm năng ứng dụng phòng bệnh do virus

Interferon (IFN) và vai trò sinh học

Interferon (IFNs) là các cytokine kháng virus đóng vai trò then chốt trong phản ứng miễn dịch bẩm sinh đối với các bệnh nhiễm virus. Interferon là nhóm protein thuộc hệ miễn dịch tự nhiên, được tế bào vật chủ sản xuất khi phát hiện sự xâm nhập của virus. Có ba loại chính: Interferon loại I (IFN-α, IFN-β), loại II (IFN-γ), và loại III (IFN-λ), mỗi loại có vai trò riêng trong điều hòa miễn dịch. Interferon loại I là tuyến phòng thủ đầu tiên chống virus, kích hoạt hàng loạt gien kháng virus trong tế bào, ức chế sự sao chép của virus, đồng thời hỗ trợ huy động tế bào miễn dịch tiêu diệt tế bào nhiễm bệnh. Interferon loại II tăng cường đáp ứng miễn dịch đặc hiệu, trong khi loại III hoạt động chủ yếu ở các mô biểu mô như đường hô hấp và ruột. Nhờ khả năng cản nhiễm và ngăn chặn sự phát triển và lan truyền của virus, interferon đã được ứng dụng trong phòng và điều trị các bệnh do virus trên người và động vật. Virus xâm nhập kích hoạt IRFs trong tế bào cảm nhiễm và pDCs (plasmacytoid dendritic cell), dẫn đến tiết IFNα, IFNβ, IFNλ. Các IFNs tác động lên tế bào chưa nhiễm thông qua thụ thể IFNαR hoặc IL10R2/IFNλR1, kích hoạt đường truyền tín hiệu JAK-STAT và hình thành phức hợp ISGF3 (STAT1, STAT2, IRF9). ISGF3 thúc đẩy phiên mã ISGs, tạo các chất hiệu quả kháng virus (antiviral effectors) (OAS, RNase L), yếu tố điều hòa dương (IRF7, PRRs), và yếu tố điều hòa âm (USP18), giúp thiết lập trạng thái kháng virus và hạn chế sự nhân lên của virus.

Tác động của ASFV lên miễn dịch bẩm sinh và khả năng của Interferon trong đáp ứng kháng virus

Virus Dịch tả heo châu Phi (ASFV) chủ yếu xâm nhập và gây ảnh hưởng đến đại thực bào và tế bào tua gai (dendritic cells – DCs), là những thành phần quan trọng trong hệ miễn dịch bẩm sinh. ASFV cũng có khả năng điều hòa biểu hiện của các thụ thể miễn dịch trên đại thực bào, bao gồm CD14, CD16 và MHC-I, từ đó làm suy giảm chức năng kháng virus và làm giảm khả năng hoạt hóa tế bào NK. Mức độ nhạy cảm với interferon của các chủng ASFV là khác nhau. Một số chủng, bao gồm cả loại độc lực cao và giảm độc lực, cho thấy nhạy cảm với IFN-α và IFN-γ, đặc biệt là trên đại thực bào phế nang heo (PAMs). Tuy nhiên, các chủng độc lực cao như Georgia 2007 không bị ức chế rõ ràng bởi IFN-α, trong khi các chủng giảm độc lực như NH/P68 lại rất nhạy cảm với IFN-α, có thể do mất các gen thuộc vùng MGF360 và MGF505. Ở đại thực bào, tác dụng của IFN-α còn phụ thuộc vào liều lượng, ở liều cao (800 U/mL), ASFV độc lực cao có thể bị ức chế bởi IFN-α. Quá trình trưởng thành của DCs dưới tác động của IFN-α làm giảm khả năng cảm nhiễm với ASFV. Interferon type I (IFN-I) đóng vai trò trung tâm trong kháng virus. Nhiều nghiên cứu cho thấy các chủng ASFV độc lực cao có xu hướng ức chế sản xuất IFN-I, còn các chủng giảm độc lực thì cảm ứng mạnh IFN-α và IFN-β. ASFV sử dụng nhiều cơ chế để ức chế sản xuất IFN. Các protein được mã hóa bởi gien thuộc MGF360 (A276R) và MGF505 (A528R) có khả năng ức chế hoạt động của IRF3 và NF-κB, dẫn đến giảm sản xuất IFN-β. Tuy nhiên, một số nghiên cứu in-vivo lại ghi nhận sự tăng biểu hiện IFN-α, IFN-β và IFN-γ trong huyết thanh heo nhiễm ASFV độc lực cao, cho thấy khả năng virus né tránh interferon phụ thuộc vào đặc điểm của tế bào đích và điều kiện vi môi trường trong cơ thể vật chủ.

Mặc dù ứng dụng IFN trong phòng trị ASFV chưa phổ biến, nhưng hiệu quả của interferon trong kiểm soát ASF là có tiềm năng. Dữ liệu in-vitro cho thấy, IFN của người và bò có thể ức chế sự nhân lên của virus, song các bằng chứng in-vivo cần được nghiên cứu nhiều hơn. Gần đây, nghiên cứu của tác giả người Trung Quốc và cộng sự chỉ ra rằng việc sử dụng kết hợp IFN-α và IFN-γ tái tổ hợp (liều 105 U/kg) giúp làm giảm tải lượng ASFV, tăng biểu hiện các gien kích hoạt bởi interferon (ISG) và cải thiện triệu chứng lâm sàng ở heo nhiễm. Tóm lại, IFN đóng vai trò then chốt trong đáp ứng miễn dịch chống ASFV, nhưng cơ chế né tránh IFN

Hình 4. Tín hiệu interferon tạo sự thiết lập trạng thái kháng virus trong các tế bào chưa bị nhiễm. Sự nhận diện sự nhiễm virus trong các tế bào đã bị nhiễm dẫn đến sự sản sinh IFN-β và IFN-λ, trong khi việc nhận diện virus bởi các tế bào tua gai chuyên biệt (pDCs) làm sản

J, 2023. 42: e112907. https://doi.org/10.15252/embj.2022112907.

của ASFV vẫn chưa được hiểu đầy đủ. Cần thêm nhiều nghiên cứu in-vivo và in-vitro để làm rõ các con đường điều hòa IFN và phát triển chiến lược phòng chống hiệu quả. Ứng dụng IFN (I và II) trong phòng trị ASFV có tiềm năng thực tiễn, cần được xem xét đánh giá ở cả phòng thí nghiệm và trên thực địa để tìm ra ứng dụng hiệu quả cụ thể cho chủng ASFV nhiễm, mục đích phòng hoặc trị, đối tượng heo và liều lượng/đường cấp tối ưu.

Kết luận

ASF là một trong những bệnh truyền nhiễm nguy hiểm nhất ở heo hiện nay, với khả năng biến đổi đa dạng, gây hậu quả kinh tế nặng nề. Sự kết hợp đồng bộ và phù hợp các biện pháp phòng bệnh được mô tả ở phần trên là cần thiết. Ứng dụng chế phẩm có tính năng sinh học như interferon (IFN type I và II), có tiềm năng mang lại hiệu quả tốt trong các trường hợp kiểm soát nhiễm trùng virus, hỗ trợ điều trị và tăng cường hiệu quả của tiêm phòng.

Trước thực trạng bệnh truyền nhiễm mới nổi, tái nổi thường xuyên xuất hiện, tiếp tục có sự gia tăng hơn. Người chăn nuôi cần có đầu tư nhiều hơn về kiến thức, để “vá lại, tư duy lại” các lỗ hổng phòng bệnh và miễn dịch đàn. Có nhiều giải pháp phòng bệnh từ tổng thể đến cụ thể, trong đó an toàn sinh học nghiêm ngặt và theo tiếp cận mới là chìa khóa thành công chung trong kiểm soát hiệu quả các dịch bệnh từ bên ngoài và nội bộ bên trong trại. ☐

Robot và tự động hóa trong chăn

nuôi gia cầm

Việc tích hợp robot vào sản xuất trứng đang cách mạng hóa ngành công nghiệp gia cầm, thúc đẩy những tiến bộ đáng kể về hiệu quả, phúc lợi động vật và phòng ngừa dịch bệnh.

Robot cung cấp một giải pháp sáng tạo cho những thách thức này, cho phép quản lý chính xác, giảm sự phụ thuộc vào lao động thủ công và tăng cường các biện pháp an toàn sinh học.

Giải pháp robot trong chăn nuôi gia cầm mang lại nhiều lợi ích, bao gồm:

- Nâng cao hiệu quả: Hệ thống tự động hóa hợp lý hóa các hoạt động hàng ngày, giảm nhu cầu lao động cho các công việc thiết yếu như vệ sinh, giám sát và quản lý trang trại.

- Cải thiện phúc lợi động vật: Công nghệ giám sát thông minh cho phép phát hiện sớm các vấn đề sức khỏe, cho phép can thiệp kịp thời nhằm giảm thiểu căng thẳng và tỷ lệ tử vong ở gia cầm.

- An toàn sinh học và Kiểm soát dịch bệnh: Bằng cách hạn chế sự tương tác của con người với gia cầm, hệ thống robot làm giảm nguy cơ lây truyền bệnh, tăng cường vệ sinh trang trại và an toàn sinh học tổng thể.

- Ra quyết định dựa trên dữ liệu: Hệ thống quản lý trang trại dựa trên IoT cung cấp khả năng giám sát và phân tích theo thời gian thực, trang bị cho người nông dân những thông tin chi tiết có giá trị để tối ưu hóa năng suất và tính bền vững.

1. Sharky 430: Robot vệ sinh tự động

Sharky 430 là giải pháp làm sạch bằng robot tiên tiến được thiết kế riêng cho các chuồng nuôi và chuồng đẻ. Được phát triển với sự hợp tác của Envirologic, robot làm sạch tự động này hoạt động không cần ray dẫn hướng, giúp nó thích ứng cao với nhiều mô hình trang trại khác nhau.

Các tính năng chính bao gồm:

- Tay làm sạch linh hoạt: Được thiết kế để tiếp cận các khu vực thường không thể tiếp cận như tổ, sào đậu và máng ăn bên trong, đảm bảo quy trình làm sạch kỹ lưỡng. - Hoạt động tự động 24/7: Hoạt động liên tục, kể cả ban đêm, giảm nhu cầu lao động và cải thiện hiệu quả tổng thể.

- An toàn sinh học được tăng cường: Bằng cách giảm thiểu sự tiếp xúc của con người với môi trường gia cầm, Sharky 430 giúp ngăn ngừa sự lây truyền dịch bệnh, thúc đẩy hệ sinh thái trang trại lành mạnh hơn.

- Tiết kiệm chi phí: Giảm sự phụ thuộc vào lao động thủ công, dẫn đến giảm chi phí vận hành và cải thiện lợi nhuận dài hạn.

2. Hệ thống giám sát sức sống (VIM):

Cách mạng hóa quản lý sức khỏe gia cầm

VIM là một công cụ tiên tiến liên tục đánh giá sức khỏe và phúc lợi của đàn gia cầm bằng các cảm biến và phân tích dữ liệu hiện đại. Hệ thống này đóng vai trò quan trọng trong việc:

- Phát hiện sớm bệnh tật: Bằng cách theo dõi các chỉ số sức khỏe chính, VIM cho phép người chăn nuôi xác định các vấn đề sức khỏe tiềm ẩn trước khi chúng trở nên nghiêm trọng, đảm bảo can thiệp kịp thời.

- Nâng cao phúc lợi động vật: Hệ thống cung cấp thông tin chi tiết về hành vi và phúc lợi của đàn, cho phép người chăn nuôi điều chỉnh các biện pháp quản lý để giảm căng thẳng và cải thiện năng suất.

- Tối ưu hóa sản xuất: Quản lý sức khỏe chủ động giúp giảm thiểu gián đoạn sản xuất trứng, đảm bảo năng suất ổn định và hiệu suất tổng thể của trang trại tốt hơn.

3. Big Packer: “Người đóng gói” nông trại chuyên nghiệp

Big Packer là hệ thống đóng gói trang trại tiên tiến được thiết kế để đạt hiệu quả cao, dễ bảo trì và xử lý trứng nhẹ nhàng. Giải pháp tự động này làm sạch, vận chuyển và đóng gói trứng vào khay với sự can thiệp tối thiểu của con người, đảm bảo hoạt động trơn tru và liền mạch.

- Đóng gói hiệu quả, liên tục: Loại bỏ sự chậm trễ bằng cách đảm bảo quy trình đóng gói ổn định mà không cần chờ đợi một hàng trứng đầy.

- Xử lý trứng nhẹ nhàng: Công nghệ được thiết kế chu đáo đảm bảo trứng được vận chuyển an toàn và chắc chắn.

- Dễ vận hành: Hệ thống điều khiển và quản lý thân thiện với người dùng giúp vận hành đơn giản.

- Bảo trì nhanh chóng và dễ dàng: Thiết kế dễ tiếp cận cho phép vệ sinh và bảo trì nhanh chóng, giảm thời gian chết.

- Thiết kế nhỏ gọn và bền bỉ: Được thiết kế để sử dụng lâu dài với cấu trúc chắc chắn giúp tăng cường độ tin cậy và tuổi thọ.

TĂNG SANG

(Theo Big Dutchman)

KIỂM SOÁT BỆNH HÔ HẤP TRÊN HEO CON

THUẬT PHÒNG VÀ ĐIỀU TRỊ HIỆU QUẢ

Bệnh hô hấp trên heo con là một trong những nhóm bệnh phổ

biến và gây thiệt hại kinh tế lớn trong chăn nuôi. Nguyên

nhân gây bệnh thường do vi khuẩn hoặc sự phối hợp của

nhiều tác nhân, trong đó điều kiện môi trường và sức

đề kháng kém là yếu tố thuận lợi làm bệnh bùng phát.

Để kiểm soát hiệu quả, cần triển khai đồng bộ các biện

pháp phòng ngừa và áp dụng phác đồ điều trị hợp lý khi

bệnh xuất hiện.

An toàn sinh học

Trước hết, công tác an toàn sinh học là nền tảng để giảm nguy cơ nhiễm bệnh.

Chuồng nuôi cần được thiết kế thông thoáng, đảm bảo lưu thông không khí nhưng tránh gió lùa trực tiếp vào heo. Nhiệt độ nên duy trì ở mức 26 - 300C với heo theo mẹ và 24280C với heo sau cai sữa; độ ẩm 60 - 70% để hạn chế mầm bệnh phát triển. Việc vệ sinh chuồng, máng ăn, máng uống phải được thực hiện hàng ngày, đồng thời khử trùng định kỳ 1 - 2 lần/tuần bằng các loại thuốc sát trùng luân phiên hoạt chất. Heo mới nhập trại phải có giấy kiểm dịch, được cách ly ít nhất 2 - 3 tuần trước khi nhập đàn chính. Ngoài ra, cần kiểm soát chuột, ruồi, muỗi, chim hoang để ngăn mầm bệnh xâm nhập.

Tiêm phòng vaccine

Song song với an toàn sinh học, tiêm phòng vaccine đúng lịch là biện pháp không thể thiếu. Đối với heo con, lịch tiêm phòng thường bao gồm: Vaccine Mycoplasma hyopneumoniae lúc 3 - 5 tuần tuổi (nhắc lại sau 2 - 3 tuần), vaccine PCV2 ở 3 - 4 tuần tuổi, vaccine PRRS và cúm heo tùy tình hình dịch tễ của từng trại. Vaccine cần được bảo quản ở nhiệt độ 2 - 80C, không để đông đá và tiêm đúng kỹ thuật để đạt hiệu quả miễn dịch tối đa.

Quản lý stress sau cai sữa

Giai đoạn sau cai sữa là thời điểm heo con dễ mắc bệnh hô hấp nhất do thay đổi môi trường, thức ăn và tách mẹ, vì vậy quản lý stress sau cai sữa rất quan trọng. Quá trình

cai sữa nên diễn ra nhẹ nhàng, kết hợp bổ sung Vitamin C, Vitamin E, selen và các chất điện giải để tăng sức đề kháng. Mật độ nuôi hợp lý (0,3 - 0,35 m²/con) giúp giảm áp lực bệnh tật. Thức ăn phải đảm bảo tiêu hóa tốt, giàu năng lượng và đạm dễ hấp thu.

Giám sát sức khỏe đàn heo hằng ngày là khâu cần thiết để phát hiện sớm heo bệnh. Những dấu hiệu cảnh báo gồm ho, thở gấp, chảy mũi, bỏ ăn, chậm lớn. Khi phát hiện, cần tách riêng heo bệnh, giữ ấm và tiến hành điều trị ngay theo phác đồ phù hợp.

Khi bệnh xảy ra, việc xác định nguyên nhân càng sớm càng tốt giúp lựa chọn thuốc chính xác. Trong điều kiện trại có thể dựa vào triệu chứng và bệnh tích để chẩn đoán ban đầu; nếu có điều kiện, gửi mẫu xét nghiệm để định danh tác nhân và làm kháng sinh đồ.

Phác đồ điều trị

Về phác đồ điều trị tham khảo, có thể áp dụng một trong các lựa chọn sau tùy tình trạng bệnh và tư vấn thú y:

• Tylosin tartrate: 10 - 15 mg/kg thể trọng, tiêm bắp 1 lần/ngày, 3 - 5 ngày.

• Tulathromycin: 2,5 mg/kg thể trọng, tiêm bắp 1 liều duy nhất, hiệu quả với trường hợp khó bắt heo nhiều lần.

• Tilmicosin: 10 mg/kg thể trọng, tiêm bắp 1 lần/ngày, 3 ngày.

• Doxycycline (đường uống): 10 mg/kg thể trọng, trộn thức ăn hoặc nước uống, 5 - 7 ngày.

• Enrofloxacin: 2,5 - 5 mg/kg thể trọng, tiêm bắp, 3 - 5 ngày.

Điều trị kháng sinh cần tuân thủ liều

lượng và thời gian, không ngừng thuốc khi triệu chứng vừa giảm để tránh tái phát và kháng thuốc. Bên cạnh đó, điều trị hỗ trợ giúp heo hồi phục nhanh hơn: Bổ sung điện giải + vitamin C pha nước uống 3 - 5 ngày, tiêm vitamin ADE + selen 1 - 2 lần/tuần để tăng sức đề kháng, sử dụng men tiêu hóa và acid hữu cơ để ổn định đường ruột và giảm stress. Trong quá trình điều trị, cần chú ý kiểm soát lây lan trong đàn. Heo bệnh phải nuôi riêng, chuồng phải khử trùng thường xuyên, dụng cụ chăm sóc không dùng chung với đàn khỏe. Nhân viên chăm sóc heo bệnh nên làm việc sau khi đã chăm sóc đàn khỏe để tránh lây chéo. Sau mỗi lứa nuôi, áp dụng nguyên tắc “cùng vào - cùng ra”, vệ sinh và sát trùng chuồng, để trống 5 - 7 ngày trước khi nuôi lứa mới. Nhìn chung, kiểm soát bệnh hô hấp trên heo con đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ giữa an toàn sinh học, tiêm phòng, quản lý môi trường và chăm sóc nuôi dưỡng hợp lý. Khi bệnh xảy ra, phải chẩn đoán nhanh, điều trị đúng phác đồ và kết hợp chăm sóc hỗ trợ. Thực hiện đồng bộ các biện pháp này sẽ giúp đàn heo phát triển khỏe mạnh, đạt tăng trọng tốt và giảm thiểu tổn thất kinh tế cho người chăn nuôi.

HOÀNG NGÂN

Phòng trị bệnh lở mồm long móng ở dê

Bệnh lở mồm long móng ở dê là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, do virus gây ra, có khả năng lây lan mạnh và hầu như không có phương pháp điều trị hiệu quả, nên dễ gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi.

Nguyên nhân

Bệnh lở mồm long móng do virus gây nên. Ở Việt Nam đã phát hiện chủ yếu 3 type gây bệnh là A, O và Asi.

Đặc điểm dịch tễ

Loài mắc bệnh: Loài động vật móng guốc chẵn như trâu, bò, heo, dê, cừu, hươu, nai... Gia súc non bị bệnh nặng và dễ bị chết hơn gia súc trưởng thành. Trong tự nhiên, virus có thể lây nhiễm chéo giữa các loài với nhau. Bệnh cũng có thể lây sang người nhưng hiếm xảy ra.

Nguồn bệnh: Virus có trong nước bọt, dịch mụn nước, sữa, tinh dịch, các chất bài xuất, bài tiết của con vật mắc bệnh; dịch tiết trong đường hô hấp trên của người có thể lưu giữ virus trong 24 - 48 giờ. Virus lở mồm long móng thường được bài xuất ra ngoài trước khi con vật có biểu hiện triệu chứng lâm sàng của bệnh; với type O, heo bài xuất viruss trước khi có dấu hiệu lâm sàng đầu tiên 10 ngày, bò và cừu 5 ngày, trung bình 2,5 ngày. Heo mắc bệnh có thể bài thải 400 triệu đơn vị lây nhiễm virus lở mồm long móng/ngày; loài nhai lại bài thải khoảng 120 nghìn đơn vị lây nhiễm/ngày.

Đường truyền lây: Bệnh có thể lây trực tiếp do tiếp xúc giữa động vật mẫn cảm và động vật mắc bệnh khi nhốt chung, hoặc chăn thả chung trên đồng cỏ. Hoặc lây gián tiếp qua thức ăn, nước uống, máng ăn, máng uống, nền chuồng, dụng cụ chăn nuôi, tay chân, quần áo người chăn nuôi bị nhiễm virus. Bệnh lây lan từ vùng này sang vùng khác, nước này sang nước khác qua biên giới theo đường vận chuyển động vật, sản phẩm động vật ở dạng tươi sống có mang mầm bệnh (kể cả thịt ướp đông, da, xương, sừng, móng, sữa).

Triệu chứng

Triệu chứng lâm sàng phụ thuộc vào mức

độ mẫn cảm của dê đối với virus, tình trạng sinh lý của dê và độc lực của virus.

Thời kỳ ủ bệnh thường từ 2 - 5 ngày, nhiều nhất 21 ngày. Dê bị bệnh sốt cao 40 - 410C,

kém linh hoạt, con vật lờ đờ, miệng, mũi khô, đi tập tễnh sau đó chỉ nằm một chỗ. Dê kém ăn rồi bỏ ăn do xuất hiện nhiều mụn nước nhỏ bằng hạt đậu mọc sâu ở lớp niêm mạc miệng, vành mõm, nướu răng, lưỡi gây đau đớn.

Dê bị long móng, bàn chân sưng to, phần tiếp giáp giữa móng và chân bị nổi mụn nước, sau đó vỡ ra, nhiễm trùng lở loét, mưng mủ. Khi bệnh nặng có thể bị tụt móng.

Ở dê cái còn xuất hiện mụn trên bầu vú, nếu dê cái trong thời kỳ nuôi con sẽ không cho con bú. Có thể gây sẩy thai ở dê cái mang thai. Các vùng da có mụn trở nên tái xám. Sau khi các mụn vỡ ra sẽ để lại các vết loét rất sâu và làm cho dê đau đớn.

Bệnh tích

Một số trường hợp xuất hiện nhiều mụn nước ở họng, thực quản, dạ dày và ruột. Viêm xuất huyết toàn bộ đường ruột từ miệng tới hậu môn. Cơ tim biến chất, mềm, dễ nát, có vết xám, trắng nhạt hay vàng nhạt (tim có vằn). Màng tim sưng, chứa nước trong hơi đục. Màng tâm nhĩ có chấm xuất huyết đỏ bằng đầu đinh ghim.

Ch ẩ n đo á n b ệ nh

Chẩn đoán lâm sàng: Dựa vào các triệu chứng, bệnh tích điển hình của bệnh: dê sốt cao, có các mụn nước và vết loét trên miệng, chân, móng, vú…

Chẩn đoán phòng thí nghiệm: Xác định căn nguyên gây bệnh bằng phương pháp ELISA kháng nguyên hoặc phương pháp PCR.

Phòng bệnh

- Khi chưa có dịch: Tiêm phòng vaccine là biện pháp phòng bệnh hữu hiệu nhất. Thực hiện quy trình chăn nuôi an toàn sinh học, lựa chọn con giống khỏe mạnh, biết rõ nguồn gốc từ vùng không có dịch bệnh lở mồm long móng. Chuồng trại phải đảm bảo vệ sinh thú y, thường xuyên quét dọn sạch sẽ, định kỳ tiêu độc, khử trùng 1 lần/tuần. Kết hợp chăm sóc nuôi dưỡng tốt, khẩu phần thức ăn của dê

phải đầy đủ thành phần dinh dưỡng cần thiết cho từng giai đoạn phát triển. - Khi có dịch: Khi thấy dê có hiện tượng ốm, sốt, bỏ ăn, chảy nước dãi, có bọt, có mụn nước ở vùng miệng, quanh móng chân hoặc chết bất thường phải tiến hành cách ly ngay những con ốm ra khu vực riêng; không được chăn thả, không bán chạy, không giết mổ, vứt xác gia súc chết và chất thải của chúng ra môi trường.

Báo ngay cho thú y hoặc chính quyền địa phương để được hướng dẫn biện pháp xử lý kịp thời. Thực hiện tiêu hủy những con chết, những con ốm nặng không có khả năng hồi phục theo đúng quy trình kỹ thuật có sự giám sát của cán bộ thú y, không làm phát tán mầm bệnh ra môi trường.

Thực hiện ngay công tác vệ sinh, khử trùng, tiêu độc. Đối với hộ có dịch phun hóa chất ngày 1 lần, xã có dịch 2 ngày 1 lần, thực hiện liên tục trong suốt thời gian có dịch. Tiêm phòng vaccine bao vây ổ dịch, tiêm từ ngoài vào trong, người tiêm phòng phải thực hiện tốt an toàn sinh học không làm lây lan dịch bệnh. Chấp hành các quy định về phòng, chống dịch của chính quyền địa phương và quy định của pháp luật về thú y.

Điều trị

Điều trị tại chỗ: Rửa các vết loét ở miệng, lưỡi, chân, móng, bầu vú bằng một trong các dung dịch như nước muối, axit citric 1% hoặc thuốc tím 1%, phèn chua 2% (hoặc dùng các loại trái cây chua như khế, chanh vắt lấy nước, nhúng vào vải gạc sạch rồi rửa nhẹ lên vết loét ở miệng, lưỡi ngày 2 lần).

Tiêm kháng sinh Procain Penicilin 1 ml/10 - 20 kg/trọng lượng, ngày 1 lần, liên tục 3 ngày để đề phòng bội nhiễm. Bôi thuốc mỡ Penicilin, Tetracyclin vào vết thương.

Bổ sung dinh dưỡng để tăng sức đề kháng cho dê và thức ăn chứa axit để có thể điều chỉnh độ pH đường ruột (pH = 5) nhằm tăng khả năng diệt khuẩn. NGUYỄN AN

ĐỘNG HỌC PROTEIN

VÀ CHIẾN LƯỢC DINH DƯỠNG

CHO HEO CON

Động học protein và phương pháp đo lường

loại protein này ngày càng trở nên quan

trọng, đặc biệt trong phối trộn khẩu phần cho heo con.

Gần đây, khái niệm động học protein đã

trở thành chủ đề thu hút trong lĩnh vực dinh

dưỡng chăn nuôi và đề cập đến một thành phần mới trên thị trường được gọi là “huyết tương thực vật”. Nhiều người chăn nuôi quan tâm và đặt câu hỏi về động học protein cũng như tác động đối với các phương pháp phối trộn khẩu phần hiện đại, đặc biệt quan trọng cho heo con có hệ tiêu hóa chưa hoàn thiện và nhu cầu protein cao.

Chìa khóa dinh dưỡng ở heo cai sữa

Trong dinh dưỡng vật nuôi hiện đại, đặc biệt là với heo cai sữa, khái niệm động học protein ngày càng được quan tâm. Đây là chỉ số thể hiện tốc độ và vị trí protein được phân giải trong hệ tiêu hóa, từ đó quyết định khả năng hấp thu axit amin - yếu tố thiết yếu cho quá trình tăng trưởng và phục hồi sau cai sữa. Với hệ tiêu hóa còn non nớt, heo con rất cần nguồn đạm dễ tiêu, nhanh giải phóng và hấp

thu hiệu quả. Ngược lại, nếu protein không

được tiêu hóa triệt để, chúng có thể trở thành

nền tảng cho vi khuẩn có hại phát triển, gây

rối loạn hệ vi sinh đường ruột.

Việc đo lường động học protein hiện nay

được thực hiện qua nhiều phương pháp như

thử nghiệm in vitro sử dụng enzyme tiêu hóa

(pepsin, pancreatin), đo độ hòa tan nitơ ở các

mức pH khác nhau trong môi trường dạ dày,

ruột, hoặc thí nghiệm in vivo trên heo bằng cách lấy mẫu dịch tiêu hóa tại các vị trí trong đường ruột. Ngoài ra, các mô hình toán học kết hợp dữ liệu từ thí nghiệm giúp dự đoán động thái giải phóng và hấp thu axit amin một cách chi tiết và khoa học hơn. Đặc biệt, tốc độ tiêu hóa protein còn phụ thuộc vào đặc tính và công nghệ xử lý nguyên liệu đầu vào. Các biện pháp như xử lý enzyme, lên men, ép đùn hay nhiệt độ cao đều có thể làm thay đổi cấu trúc protein, từ đó ảnh hưởng đến tốc độ giải phóng axit amin. Việc lựa chọn đúng loại nguyên liệu giàu đạm, kết hợp công nghệ xử lý phù hợp sẽ giúp cải thiện hiệu quả khẩu phần, tăng khả năng tiêu hóa và hấp thu, đặc biệt quan trọng trong giai đoạn nuôi heo cai sữa, nơi ranh giới giữa tăng trưởng và rối loạn rất mong manh.

Tối ưu tốc độ tiêu hóa protein Một nghiên cứu mới đây đã làm sáng tỏ vai trò quan trọng của tốc độ tiêu hóa protein đối với tăng trưởng của heo sau cai sữa, đặc biệt trong bối cảnh ngành chăn nuôi ngày càng hạn chế sử dụng kháng sinh. Thử nghiệm được tiến hành với bốn công thức khẩu phần khác nhau, kết hợp giữa hai mức protein thô (16% và 19%) và hai loại protein tiêu hóa nhanh hoặc chậm. Kết quả cho thấy, heo được nuôi bằng khẩu phần chứa protein

tiêu hóa nhanh có tốc độ tăng trưởng vượt trội, ngay cả khi hàm lượng protein thô ở mức thấp. Đặc biệt, nhóm heo ăn khẩu phần đạm thấp nhưng tiêu hóa nhanh vẫn tăng trưởng ngang bằng hoặc tốt hơn nhóm dùng khẩu phần đạm cao nhưng tiêu hóa chậm. Tuy nhiên, việc ứng dụng động học tiêu hóa protein vào thực tế vẫn còn nhiều thách thức. Trước hết, các phương pháp đo lường in vitro thường không phản ánh đầy đủ điều kiện tiêu hóa thực tế trong cơ thể heo, nơi chịu ảnh hưởng của enzyme, vi sinh vật đường ruột và nhu động ruột. Thêm vào đó, để tận dụng tốt protein tiêu hóa nhanh, khẩu phần cần đi kèm với nguồn năng lượng hấp thu tương ứng như lactose hoặc sucrose, nhằm đảm bảo đồng bộ về tốc độ chuyển hóa, tránh thất thoát axit amin và giảm hiệu suất tăng trưởng.

Ngoài ra, không phải tất cả protein tiêu hóa nhanh đều giống nhau. Sự khác biệt về thành phần axit amin, độ hòa tan và yếu tố kháng dinh dưỡng có thể ảnh hưởng đến hiệu quả thực tế. Cùng với hệ tiêu hóa còn non nớt của heo con, việc chọn lựa nguồn protein cần được cân nhắc kỹ lưỡng, ưu tiên cân bằng giữa tốc độ tiêu hóa và khả năng hấp thu. Mặc dù, còn nhiều giới hạn về chi phí và kỹ thuật, nhưng các nhà chuyên môn đánh giá đây là hướng đi hứa hẹn trong xây

▶ Hiện tại, động học protein đang mở ra một góc nhìn mới mẻ và hữu ích cho các chuyên gia dinh dưỡng heo con, như một công cụ bổ trợ bên cạnh các chỉ số truyền thống. Khi nghiên cứu tiếp tục tiến xa, khái niệm này hoàn toàn có thể trở thành một trong những nền tảng quan trọng của dinh dưỡng heo con hiện đại.

dựng khẩu phần hiệu quả, phù hợp xu thế phát triển bền vững.

Triển vọng

Động học protein là một lĩnh vực nghiên cứu đầy hứa hẹn, với tiềm năng tạo ra cuộc cách mạng trong dinh dưỡng heo con. Tuy nhiên, để ứng dụng hiệu quả vào thực tiễn, khái niệm này vẫn đang được hoàn thiện. Việc cải tiến các phương pháp thử nghiệm in vivo, tích hợp tốt hơn giữa tốc độ tiêu hóa năng lượng và protein, cùng với hiểu biết sâu sắc hơn về sự biến thiên giữa các nguồn protein và vai trò của các loại đường tiêu hóa nhanh sẽ đóng vai trò then chốt để khai thác tối đa tiềm năng của động học protein. VŨ ĐỨC

(Theo Allaboutfeed)

Vitamin C - Giải

pháp dinh dưỡng

duy trì năng suất gà đẻ

Bổ sung Vitamin C không chỉ giúp cải thiện tỷ lệ đẻ trứng mà còn tăng cường sức chống ôxy hóa

ở gia cầm trong giai đoạn cuối chu kỳ sản xuất.

Hiệu quả trong giai đoạn cuối chu kỳ đẻ

Hiện nay, nhiều giống gà đẻ thương phẩm

vẫn được duy trì sản xuất qua tuổi 80 tuần, tuy nhiên năng suất trứng thường giảm sút nhanh chóng vào cuối chu kỳ. Đây là giai

đoạn cơ thể gà sản sinh nhiều gốc tự do hơn, làm tăng tốc độ ôxy hóa và ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả sản xuất. Giải pháp dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng nhằm giảm thiểu các tác động này, trong đó Vitamin C đang được chú ý.

Vitamin C (L-ascorbic acid) có khả năng dọn dẹp các phân tử ôxy hóa và tham gia nhiều quá trình sinh lý trong cơ thể gia cầm.

Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu trước đây mới chỉ tập trung vào vai trò của Vitamin C trong giai đoạn đầu hoặc đỉnh chu kỳ đẻ, hoặc trong điều kiện stress nhiệt, mà ít chú trọng đến hiệu quả trong giai đoạn cuối.

Một nghiên cứu mới đây đã được tiến hành nhằm đánh giá ảnh hưởng của Vitamin C đến năng suất đẻ và khả năng chống ôxy hóa của gà trong giai đoạn cuối chu kỳ, đồng thời so sánh giữa hai dạng Vitamin C phosphate ester và Vitamin C bọc.

Cải thiện hiệu suất và chống ôxy hóa

Điều này cho thấy, mặc dù không tạo ra sự bứt phá rõ rệt, việc bổ sung Vitamin C vẫn có thể hỗ trợ duy trì hiệu suất ở gà trong giai đoạn cuối chu kỳ đẻ. Ngoài ra, Vitamin C còn chống ôxy hóa mạnh, giúp cơ thể chống lại tác động của các gốc tự do và duy trì cân bằng ôxy hóa khử.

Các chỉ số sinh hóa cho thấy, khi tăng mức bổ sung Vitamin C từ 0 lên 100 mg/ kg, nồng độ chất đánh dấu stress ôxy hóa malondialdehyde (MDA) trong huyết thanh gà giảm đáng kể (P<0,05). Đồng thời, hoạt tính của enzyme phân hủy gốc ôxy enzyme catalase (CAT) cũng tăng tương ứng. Tuy nhiên, hoạt tính superoxide dismutase (SOD) và tổng năng lực chống ôxy hóa (AOC) không thay đổi đáng kể.

Tương tự như hiệu quả sản xuất, hai dạng Vitamin C thử nghiệm gồm phosphate và dạng bọc đều cho kết quả tương đương về khả năng chống ôxy hóa ở cùng mức bổ sung.

Khuyến nghị sử dụng

So với khẩu phần cơ bản, việc bổ sung

Vitamin C mang lại những cải thiện rõ rệt cho gà đẻ vào cuối chu kỳ, cả về năng suất trứng lẫn khả năng chống ôxy hóa. Ở liều trên 100 mg/kg, Vitamin C giúp giảm đáng kể tình trạng stress ôxy hóa - một yếu tố then

chốt ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và hiệu quả sản xuất của giai đoạn muộn. Xét về hiệu quả sinh học tương đương nhưng khác biệt về chi phí, Vitamin C dạng bọc (giá thị trường khoảng 22 - 23 nhân dân tệ/kg, hàm lượng hoạt chất 98%) cho thấy ưu thế rõ rệt so với dạng phosphate (giá 14 - 15 nhân dân tệ/kg, hàm lượng hoạt chất 35%), đặc biệt khi ứng dụng trong thức ăn hỗn hợp dạng bột.

DŨNG NGUYÊN (Theo Feed&Grain)

Nghiên cứu được thực hiện trên 480 con gà mái Hy-line Brown, 58 tuần tuổi, chia ngẫu nhiên thành 5 nhóm ăn, mỗi nhóm có 12 ô chuồng lặp, mỗi ô 8 con. Trong đó, nhóm đối chứng được cho ăn khẩu phần cơ bản từ bắp và đậu nành, còn các nhóm thí nghiệm được bổ sung Vitamin C phosphate hoặc dạng bọc với hàm lượng từ 25 - 100 mg/kg thức ăn. Sau 2 tuần thích nghi, giai đoạn theo dõi kéo dài 6 tuần. Kết quả cho thấy việc bổ sung Vitamin C không tạo ra khác biệt có ý nghĩa thống kê (P>0,05) về tỷ lệ đẻ, lượng thức ăn tiêu thụ, trọng lượng trứng trung bình và hệ số chuyển đổi thức ăn. Tuy vậy, xu hướng tích cực vẫn được ghi nhận: tỷ lệ đẻ tăng tối thiểu 1,58% và hệ số chuyển đổi giảm từ 2,683,57% khi bổ sung Vitamin C ở mức 25 - 100 mg/kg. Cả hai dạng Vitamin C đều cho kết quả tương đương.

CHĂN NUÔI SỐ 106 - 8/2025

Chàng kỹ sư hái “quả ngọt” từ mô hình nuôi dúi

Từng là kỹ sư cơ khí, anh Huỳnh Văn Hiếu (SN 1994, ấp Thạnh Thới, xã An Thạnh Thủy, tỉnh Đồng Tháp) quyết định về quê, đối mặt với thất

bại để rồi gặt hái thành công, thu về hàng tỷ đồng từ mô hình nuôi dúi sinh sản. Câu chuyện của anh không chỉ làm giàu cho bản thân mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ đến nhiều bạn trẻ.

Bỏ phố về quê - Khởi đầu đầy thử thách

Từng có nhiều năm làm kỹ sư cơ khí ở

TP Hồ Chí Minh, năm 2022, nhận thấy tiềm

năng phát triển của quê nhà và mong muốn

làm giàu trên chính mảnh đất của mình, anh

Huỳnh Văn Hiếu quyết định từ bỏ công việc

ổn định để trở về quê hương khởi nghiệp.

Sau khi tìm hiểu, anh Hiếu nhận thấy mô

hình nuôi dúi có triển vọng lớn, bởi đây là

loài vật dễ nuôi, ít bệnh và có giá trị kinh tế cao. Anh mạnh dạn đầu tư xây dựng chuồng

trại và mua 20 con dúi bố mẹ. Thế nhưng, do thiếu kinh nghiệm, đàn dúi đầu tiên đã chết hết. Thất bại này không làm anh nản lòng.

“Thất bại là mẹ thành công”, anh Hiếu chia sẻ. Với ý chí quyết tâm, anh tiếp tục học hỏi kinh nghiệm, kỹ thuật từ những người đi trước, tham khảo sách báo và mua thêm 50 con giống về nuôi lại từ đầu. Sự kiên trì và nỗ lực đã được đền đáp. Đàn dúi của anh phát triển đều đặn, số lượng không ngừng tăng lên.

Mô hình nuôi dúi mốc sinh sản - Hướng

đi mới đầy triển vọng

Hiện tại, anh Hiếu là chủ của hai trại nuôi dúi với tổng đàn lên đến 300 con. Anh chủ yếu nuôi giống dúi mốc, một loại dúi có trọng lượng tối đa từ 2 - 3 kg/con. Sau khoảng 8 tháng nuôi, dúi sẽ bắt đầu sinh sản, mỗi năm đẻ từ 3 - 4 lứa, mỗi lứa từ 1 - 4 con.

Anh Hiếu cho biết, dúi mốc là loài rất dễ nuôi, chi phí đầu tư thấp. Thức ăn chủ yếu là các loại cây có sẵn ở nông thôn như tre, mía, bắp... Chuồng trại không tốn nhiều diện tích và chỉ cần đảm bảo kín gió. Dúi cũng rất ít mắc bệnh, chỉ cần chú ý phòng ngừa hai loại bệnh về đường tiêu hóa và hô hấp.

Đặc biệt, đầu ra cho dúi rất ổn định và giá

cả luôn ở mức cao. Dúi thịt được bán với giá

750.000 đồng/kg. Dúi giống cũng được người

dân săn lùng ráo riết. Hiện tại, anh Hiếu bán dúi con (0,5 - 0,8 kg) với giá 1,8 triệu đồng/ cặp và dúi hậu bị (1,2 - 1,5 kg) với giá 2,8 triệu

đồng/cặp. Nguồn cung dúi giống từ hai trại

của anh không đủ để đáp ứng nhu cầu của người dân trong và ngoài tỉnh.

Đa dạng hóa sản phẩm - Nâng cao giá trị

Không chỉ dừng lại ở mô hình nuôi dúi, anh Huỳnh Văn Hiếu còn đa dạng hóa sản phẩm bằng cách nuôi thêm khoảng 300 con gà đen H’Mông. Giống gà này có giá trị kinh tế cao, với giá bán từ 150.000 - 180.000 đồng/ kg, gà con có giá từ 30.000 - 50.000 đồng/con.

Với hai mô hình chăn nuôi này, mỗi năm anh

Hiếu có thu nhập lên đến nửa tỷ đồng.

Từ sự thành công ban đầu, anh Hiếu đã phát triển lên thành Công ty TNHH Nam

Hiếu Việt. Đây là một trong 20 doanh nghiệp

được UBND tỉnh Tiền Giang (nay là tỉnh Đồng Tháp) chọn làm thí điểm đề án truy xuất nguồn gốc sản phẩm, đảm bảo chất lượng và uy tín cho người tiêu dùng. Anh cũng liên kết với hơn 20 hộ dân khác để bao tiêu sản phẩm, giúp bà con nông dân yên tâm sản xuất.

MINH KHUÊ Anh Huỳnh Văn Hiếu giới thiệu mô hình nuôi dúi thương phẩm

Ngoài công việc sản xuất kinh doanh, anh Hiếu còn là một thanh niên tích cực trong các hoạt động tình nguyện vì cộng đồng. Anh đã 32 lần hiến máu tình nguyện, vận động xây dựng 8 căn nhà nhân ái và nhận được nhiều bằng khen, giấy khen. Năm 2025, anh vinh dự được Trung ương Đoàn tặng danh hiệu “Thanh niên tiên tiến làm theo lời Bác cấp toàn quốc”.

Với ngọn lửa đam mê lao động sản xuất và hoạt động xã hội cháy bỏng, anh Hiếu cho biết sẽ tiếp tục mở rộng quy mô, liên kết sản xuất và bao tiêu sản phẩm cho nhiều nông dân hơn nữa. Anh mong muốn mô hình của mình sẽ được nhân rộng, đặc biệt là trong giới đoàn viên, thanh niên.

Chia sẻ về bí quyết thành công, anh Hiếu nhấn mạnh việc tận dụng lợi thế sẵn có của địa phương: “Ở quê mình có rất nhiều nguồn thức ăn, vườn tược sẵn có. Mình tận dụng các điều kiện này để phát triển mô hình, rất phù hợp với quê nhà. Những con vật này cũng khá lạ ở địa phương nên mình phải trau dồi kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm từ những người đi trước để áp dụng vào mô hình của mình”.

Gel - Bước tiến vaccine đại trà cho heo con

Công nghệ vaccine gel uống mới đang mở ra hướng đi đầy triển vọng, giúp tiêm phòng đại trà cho heo con trước cai sữa mà không cần bắt giữ từng cá thể.

Vì sao chọn gel?

Trước tình trạng thiếu hụt lao động và chi phí nhân công ngày càng tăng, nhiều trang trại nuôi heo đang phải thay đổi quy trình sản xuất. Nhận thức rõ thách thức này, Boehringer Ingelheim cùng với các khách hàng đã nghiên cứu và phát triển phương pháp chủng ngừa bằng gel uống cho vaccine phòng bệnh Lawsonia và Salmonella. Phương pháp này cho phép tiêm chủng sớm ngay trước khi cai sữa, đồng thời giảm thiểu đáng kể khối lượng công việc. Về mặt kỹ thuật, việc sử dụng gel uống tương đối đơn giản: sau khi pha trộn vaccine với gel theo hướng dẫn, hỗn hợp được phun trực tiếp lên tấm lót sàn của ô chuồng nái

sinh. Để tối ưu hóa tốc độ tiêm chủng, nên sử dụng bình phun đeo lưng chuyên dụng. Với

bản năng tò mò và thói quen đánh hơi, heo con sẽ tiếp cận và ăn gel một cách tự nhiên.

Một nghiên cứu hành vi đã chứng minh rằng, heo con có thể tiêu thụ toàn bộ liều gel chứa vaccine trong vòng chỉ 30 phút.

Các vaccine đường uống như Enterisol Ileitis và Enterisol Salmonella T/C đã được chứng minh an toàn và hiệu quả. Đặc biệt, Enterisol Ileitis đã được tin dùng trong suốt 20 năm nhờ khả năng bảo vệ tiện lợi và đáng tin cậy. Các phương pháp tiêm vaccine đường uống hiện nay chủ yếu thông qua bơm miệng hoặc pha trong nước uống. Việc bổ sung

phương pháp gel giúp các trang trại chăn nuôi tối ưu nhân lực và linh hoạt hơn trong việc tích hợp vaccine vào phác đồ phòng bệnh.

Trong một thử nghiệm thực tế, khi sử dụng bình phun đeo lưng thương mại, phương pháp gel cho phép tiêm chủng 48 lứa heo, tương đương khoảng 578 con heo con, chỉ trong 3 phút. Trong khi đó, phương pháp bơm miệng cần hơn một giờ để xử lý cùng số lượng.

Giảm căng thẳng, tăng hiệu quả

Tiêm chủng bằng gel không cần bắt giữ từng con, từ đó giúp giảm stress cho vật nuôi - một yếu tố then chốt ảnh hưởng đến phúc lợi động vật và hiệu suất tăng trưởng. Heo con chỉ cần ăn gel là đã được tiêm chủng. Phương pháp này không chỉ nhanh chóng, đơn giản và ít gây căng thẳng, mà còn là một lựa chọn lý tưởng để tiêm chủng cho heo con trước cai sữa.

Các nghiên cứu tại phòng thí nghiệm cũng xác nhận vi khuẩn sống trong các vaccine sống giảm độc lực (Attenuated Live Culture) vẫn ổn định trong vòng 4 giờ sau khi trộn với gel. Cả hai phương pháp gel và nước đều cho thấy hiệu quả vượt trội so với nhóm không được tiêm chủng.

Một thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát được tiến hành với bốn nhóm điều trị:

1. Không tiêm vaccine, bị gây nhiễm

Lawsonia

2. Tiêm vaccine bằng gel, gây nhiễm Lawsonia

3. Tiêm vaccine qua nước uống, gây nhiễm Lawsonia

4. Tiêm vaccine bằng gel cả Lawsonia và Salmonella, gây nhiễm Lawsonia

Mỗi nhóm gồm 45 lứa với tổng cộng 540 heo con. Nhóm 1 (không tiêm chủng) ghi nhận tình trạng tăng trọng trung bình hàng ngày (ADG) thấp nhất, chỉ 826 gram, trong khi các nhóm được tiêm chủng có ADG lần lượt là 930, 916 và 921 gram, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).

Kết quả cho thấy, vaccine phòng Lawsonia qua gel đạt hiệu quả tương đương phương pháp pha nước uống truyền thống. Không có sự khác biệt đáng kể nào giữa các nhóm tiêm chủng về ADG, tỷ lệ loại thải hay tỷ lệ chết - điều này khẳng định hiệu quả của phương pháp gel.

Vaccine Enterisol Ileitis và Enterisol Salmonella T/C dùng trong phương pháp gel chính là những sản phẩm đã được các nhà chăn nuôi tin tưởng từ nhiều năm nay. Nghiên cứu cho thấy phương pháp tiêm chủng mới này đem lại mức độ bảo vệ tương đương với phương pháp truyền thống qua nước uống.

DŨNG NGUYÊN (Theo Pigprogress)

Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.