Tạp chí TSVN tháng 2.2025

Page 1


Hội đồng Biên tập

Nguyễn Việt Thắng, Tiến sĩ

Dương Xuân Hùng, Trưởng Ban Biên tập

Đỗ Huy Hoàn, Nhà báo

Hoàng Hải Đăng, Thư ký Tòa soạn

Phạm Thu Hồng, Nhà báo

Dương Nam Anh, Nhà báo

Trần Anh Thư, Phóng viên

Trần Thị Kim Tiến, Phóng viên

Chủ nhiệm

Nguyễn Việt Thắng, Tiến sĩ

Phụ trách

Nguyễn Chu Hồi, Phó Giáo sư - Tiến sĩ

Chuyên gia

Phạm Anh Tuấn, Tiến sĩ

Trần Đình Luân, Tiến sĩ

Đào Trọng Hiếu, Tiến sĩ

Lê Văn Khoa, Tiến sĩ

Nguyễn Duy Hòa, Tiến sĩ

Nguyễn Khắc Bát, Tiến sĩ

Hồ Quốc Lực, Tiến sĩ

Lê Văn Quang, Chủ tịch Tập đoàn

Thủy sản Minh Phú

Mỹ thuật: Two Nguyễn

Trình bày: Phạm Dương

Kỹ thuật: Đăng Kiên

Hình ảnh: Dương Nghĩa

Đọc bản in: Thu Hương

Tòa soạn:

Điện thoại: 028.62777616

Email: toasoan@thuysanvietnam.com.vn

Lầu 2, Nhà B, 116 Nguyễn Đình Chiểu, P. Đa Kao, Q. 1, TP HCM

Văn phòng Hà Nội:

Điện thoại: 0243.7713699

Tầng 3, nhà A7, 10 Nguyễn Công Hoan, Ba Đình, Hà Nội

Phòng Quảng cáo:

Quảng cáo: 028.62777616

Email: nghia@thuysanvietnam.com.vn

Giấy phép xuất bản: 69/GP-BTTT

ISSN: 0866-8043

Nơi in: In tại Công ty TNHH MTV

Lê Quang Lộc (TP HCM)

Giá bán: 50.000đ - Giá PDF: 10.000đ

Thư tòa soạn

Thưa quý vị bạn đọc,

Việc đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia trên thế giới cũng như tham gia tích cực vào các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế của nước ta.

Để có thể tận dụng tốt lợi thế thuế quan mà các FTA mang lại, doanh nghiệp trong nước cần phải đáp ứng đầy đủ nhiều tiêu chuẩn khắt khe, trong đó có những tiêu chuẩn “xanh”.

Thủy sản là ngành hàng quan trọng của nông nghiệp nước ta. Tuy nhiên, đây cũng là ngành sản xuất gây phát thải khí nhà kính lớn. Vì vậy, chuyển đổi xanh, phát triển bền vững sẽ là xu hướng tất yếu của ngành thủy sản trong thời gian tới, nhất là trong bối cảnh tiêu chuẩn “xanh” ngày càng được quan tâm trong các FTA thế hệ mới.

“Đáp ứng tiêu chuẩn xanh” là chủ đề chính của Tạp chí Thủy sản Việt

Nam phát hành trong tháng 02, với những bài phân tích chuyên sâu về tiêu chuẩn “xanh”, thuận lợi và khó khăn trong việc đáp ứng tiêu chuẩn này.

Trên số báo này, Tạp chí Thủy sản Việt Nam sẽ thông tin tới quý bạn đọc cách để giảm phát thải trong nuôi trồng thủy sản; ưu thế của thủy sản “xanh” trong xuất khẩu; bảo vệ nguồn lợi thủy sản; ưu, nhược điểm của mô hình tôm - lúa...

Ngoài ra, Tạp chí Thuỷ sản Việt Nam số 02 còn cung cấp thông tin về tình hình sản xuất, thị trường thuỷ sản trong và ngoài nước; thức ăn dinh dưỡng; những mô hình nuôi trồng hiệu quả; cách phòng, chống dịch bệnh thủy sản; cùng các hoạt động của cộng đồng doanh nghiệp.

Trân trọng! Ban Biên tập

INTERVIEW

TS. Trần Hữu Lộc, Giảng viên trường Đại học Nông Lâm TP HCM

INTERVIEW

Ông Vũ Văn Vân, CEO Công ty CP Công nghệ Otanics

56

Bắc Mỹ: Nguy cơ xáo trộn

thức ăn

Sáu Nghệ

44 Mô hình nuôi tôm 3 TốtAo đất mật độ thấp: Đầu tư thấp nhưng lợi nhuận

Uni-President

46

Vi-CHLORiNE - Diệt tảo độc, tan nhanh, sạch nước: Sản phẩm Việt dành cho người Việt

VITRICHEM

65

Saccharomyces

Cerevisiae: Hướng đi bền vững cho nuôi trồng thủy sản

Trường Hải Tiến

66 Ưu thế thủy sản xanh trong xuất khẩu

Dũng Nguyên

xuất. Một số địa phương có mức tăng cao như Cần Thơ (+10,6%), Long An (+10,0%), Đồng Tháp (+9,0%) và An Giang (+6,9%). Sản lượng tôm nuôi cũng tăng để phục vụ thị trường

Tết và xuất khẩu, với tôm thẻ chân trắng đạt 26.500 tấn (+6,4%) và tôm sú đạt 15.300 tấn (+2,7%). Ở lĩnh vực khai thác, tổng sản lượng

sản địa phương, đảm bảo an toàn cho ngư dân và nâng cao hiệu quả khai thác.

Quảng Ngãi Tất bật chuẩn bị thả nuôi thủy sản đầu năm

Doanh nghiệp cần thường xuyên cập nhật các thay

trong chính sách nhập

khẩu của EU (Ảnh minh họa) Ảnh: ST

Thách thức xuất khẩu nông lâm thủy sản vào EU

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, xuất khẩu nông - lâm - thủy sản tháng 1/2024 đạt 5,08 tỷ USD, giảm 4,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu sang châu Âu đạt 577 triệu USD, giảm 16,2%. EU là thị trường lớn nhưng đặt ra các yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn thực phẩm. Năm 2024, Việt Nam nhận 114 cảnh báo từ EU, tăng gấp đôi so với năm 2023. Đặc biệt, EU siết chặt kiểm soát dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật và yêu cầu chứng nhận kiểm dịch thực vật đối với hầu hết nông sản tươi. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó khăn trong việc tuân thủ các quy định này. Theo bà Nguyễn Thị Hoàng

Thuý - Trưởng Cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Thụy Điển, doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản cần nâng cao kiểm soát chất lượng, đảm bảo truy xuất nguồn gốc và cập nhật thông tin thị trường để tránh rủi ro khi xuất khẩu vào EU. Ngoài ra, doanh nghiệp cần đăng ký đầy đủ các thành phần nguyên liệu, tuân thủ quy

định về phụ gia thực phẩm, kiểm dịch thú y đối với sản phẩm có nguồn gốc động vật và thường xuyên cập nhật các thay đổi trong chính sách nhập khẩu của EU để tránh vi phạm đáng tiếc.

Sản lượng nuôi trồng thủy sản tháng 1/2025 tăng hơn 5%

Theo Tổng cục Thống kê, sản lượng thủy

sản nuôi trồng tháng 1/2025 đạt 329.200 tấn, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, cá đạt 241.100 tấn (+5,5%), tôm

đạt 46.800 tấn (+4,9%). Đáng chú ý, cá tra

đạt 102.500 tấn (+6,0%) nhờ giá nguyên liệu tăng, khuyến khích người nuôi mở rộng sản

đạt 264.900 tấn, giảm 4,3% so với cùng kỳ năm trước do kỳ nghỉ Tết kéo dài và nhiều tàu thuyền bảo dưỡng, chuẩn bị kế hoạch khai thác năm mới. Riêng khai thác biển đạt 246.700 tấn (-4,4%), trong đó cá 189.400 tấn (-4,5%), tôm 8.100 tấn (-4,7%) và thủy sản khác 49.200 tấn (-5,9%).

Thừa Thiên Huế

Cảng cá Thuận An chính thức đi vào hoạt động

Sau thời gian chậm tiến độ, cảng cá Thuận

An (thành phố Huế) chính thức được công bố mở cảng cá loại II, tạo điều kiện thuận lợi

cho tàu thuyền cập bến, bốc dỡ hàng hóa và tránh trú bão an toàn. Dự án cảng cá Thuận

An có tổng mức đầu tư 220 tỷ đồng, kết hợp khu neo đậu tránh trú bão, được xây dựng từ năm 2019 và hoàn thành vào cuối năm 2023. Tuy nhiên, do vướng mắc thủ tục, cảng chưa thể đi vào vận hành ngay.

Mới đây, UBND thành phố Huế đã ban hành quyết định công bố mở cảng, chính thức đưa cảng cá vào hoạt động. Cảng cá Thuận An có năng lực tiếp nhận tối thiểu 20.000 tấn hàng thủy sản/năm, đáp ứng nhu cầu neo đậu và tránh trú bão cho 500 tàu thuyền từ 6 m trở lên. Hệ thống hạ tầng đảm bảo các tiêu chí kỹ thuật theo quy định của EU, bao gồm khu vực xử lý nước thải, cung cấp điện, nước và các dịch vụ hậu cần nghề cá như kho bảo quản, cung cấp xăng dầu, đá lạnh, ngư cụ. Việc cảng cá Thuận An đi vào hoạt động góp phần quan trọng vào phát triển ngành thủy

Sau Tết Nguyên Đán, nông dân Quảng Ngãi khẩn trương vệ sinh ao hồ, cải tạo môi trường nước để chuẩn bị cho vụ nuôi thủy sản nước lợ đầu tiên trong năm. Theo lịch thời vụ của Sở NN&PTNT, việc thả giống bắt đầu từ tháng 2, với các đối tượng nuôi chính là tôm thẻ chân trắng và ốc hương. Tại các vùng nuôi trọng điểm như thị xã Đức Phổ, huyện Mộ Đức, Bình Sơn, công tác xử lý ao nuôi đang được đẩy nhanh nhằm loại bỏ mầm bệnh, tạo điều kiện tốt nhất cho con giống phát triển. Ông Nguyễn Bảo, chủ một hộ nuôi tại xã Đức Phong (Mộ Đức), cho biết vệ sinh ao kỹ lưỡng giúp giảm rủi ro dịch bệnh, tăng tỷ lệ sống và năng suất của vụ nuôi. Ngành nông nghiệp Quảng Ngãi cũng khuyến cáo người dân tuân thủ lịch thời vụ, theo dõi sát diễn biến môi trường, sử dụng con giống chất lượng để đảm bảo hiệu quả nuôi trồng. Dự kiến, năm 2025, tỉnh sẽ thả nuôi gần 440 ha thủy sản nước lợ và trên biển, phấn đấu sản lượng hơn 9.500 tấn.

Bình Định Sản lượng cá ngừ tăng, giá thu mua khả quan

Nông lâm thủy sản đặt mục tiêu tăng trưởng 3,9%

năm 2025

Ngày 12/2, trong kỳ họp Quốc hội bất thường lần thứ 9, Quốc hội khóa XV đã đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 đạt 8% trở lên, thể hiện quyết tâm bứt phá mạnh mẽ của Chính phủ. Điều này mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra thách thức lớn đối với các

ngành kinh tế, trong đó có thủy sản. Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu thủy sản ước đạt 9,2 tỷ USD, trong đó cá tra đạt 1,8 tỷ USD, tôm chiếm 3,5 tỷ USD. Để đạt mục tiêu tăng trưởng 8%, ngành thủy sản cần nâng kim ngạch xuất khẩu lên mức 10 tỷ USD vào năm 2025. Đặc biệt, việc cải thiện thủ tục hành chính và chính sách thuế có thể tạo động lực lớn cho doanh nghiệp trong ngành. Hiện nay, các rào cản về chi phí và thủ tục, như mức ký quỹ cao trong một số hoạt động xuất nhập khẩu, đang ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Theo kịch bản tăng trưởng của Chính phủ, khu vực nông, lâm, thủy sản được đặt mục tiêu tăng trưởng 3,9% trở lên trong năm 2025, cao

Giá cá ngừ đại dương hiện tăng đáng kể, đạt

gần 100.000 đồng/kg, tạo động lực cho ngư

dân tiếp tục ra khơi. Tuy nhiên, một số tàu có sản lượng thấp hơn kỳ vọng do cá di chuyển

nhiều, ảnh hưởng đến hiệu quả khai thác. Ban Quản lý Cảng cá đã triển khai các biện pháp

hỗ trợ tàu cập bến, kiểm định nguồn gốc sản phẩm và giám sát việc tuân thủ quy định chống khai thác IUU. Với thời tiết thuận lợi và giá cả ổn định, nhiều tàu cá đang khẩn trương chuẩn bị cho chuyến biển tiếp theo.

Khánh Hòa

Chi 420 triệu đồng giám sát dịch bệnh thủy sản

Chi cục Chăn nuôi và Thú y Khánh Hòa vừa qua đã triển khai kế hoạch giám sát thủy sản giống và thương phẩm nhằm phòng, chống dịch bệnh nguy hiểm năm 2025, với tổng kinh phí hơn 420 triệu đồng. Công tác giám sát tập trung vào các cơ sở sản xuất giống tôm, cá, ốc hương, hàu, cua biển… và lưu dưỡng thủy sản nhập khẩu. Đồng thời, thủy sản thương phẩm tại các vùng nuôi trọng điểm như Vạn Ninh, Ninh Hòa, Nha Trang, Cam Lâm, Cam Ranh cũng được kiểm soát chặt chẽ. Nhiều đợt giám sát sẽ xét nghiệm, đánh giá nguy cơ dịch bệnh, cảnh báo sớm và hướng dẫn biện pháp phòng chống. Ngoài ra, Chi cục tổ chức tuyên truyền, tập huấn giúp người nuôi nâng cao kiến thức, sử dụng thuốc đúng quy định, đảm bảo an toàn thực phẩm.

Nông, lâm, thủy sản

được đặt mục tiêu tăng trưởng 3,9% trở lên trong năm 2025

Ảnh: ST

hơn khoảng 0,7 - 1,3% so với năm 2024. Điều này đòi hỏi ngành thủy sản không chỉ tăng sản lượng mà còn nâng cao chất lượng, mở rộng thị trường xuất khẩu và ứng dụng công nghệ mới để nâng cao giá trị gia tăng. Bên cạnh đó, ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ liên quan cũng cần tăng trưởng tương ứng để hỗ trợ ngành thủy sản phát triển bền vững. Việc thúc đẩy đầu tư vào công nghệ chế biến và phát triển chuỗi cung ứng bền vững sẽ giúp nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm thủy sản Việt Nam.

Long An Huyện Cần Giuộc

mục tiêu

5.000 tấn tôm trong năm 2025

Hiện nay, nông dân trong huyện Cần Giuộc đang tập trung cải tạo ao đầm, xử lý môi trường để chuẩn bị cho vụ nuôi kéo dài từ ngày 08/01 - 30/11. Ngành chức năng khuyến cáo người nuôi áp dụng quy trình nuôi nhiều giai đoạn, thả giống cỡ lớn để tăng năng suất và hiệu quả. Đồng thời, cần thực hiện tốt công tác vệ sinh ao đầm, kiểm soát chặt chẽ điều kiện môi trường và sức khỏe tôm trong suốt vụ nuôi. Ngoài ra, huyện khuyến khích mô hình liên kết sản xuất nhằm giảm chi phí con giống, thức ăn, vật tư đầu vào. Các cơ sở nuôi tôm công nghệ cao với hạ tầng đảm bảo có thể thả giống quanh năm để chủ động kiểm soát môi trường và phòng chống dịch bệnh.

Với sự chuẩn bị kỹ lưỡng và áp dụng các biện pháp khoa học, huyện Cần Giuộc kỳ vọng đạt sản lượng 5.000 tấn tôm trong năm 2025.

Bến Tre Diện tích nuôi tôm công nghệ cao tiến sát mục tiêu 4.000 ha

Bến Tre đang dẫn đầu trong phát triển nuôi tôm công nghệ cao, với diện tích đạt 3.633/4.000 ha, hoàn thành 90,82% kế hoạch giai đoạn 2021 - 2025, về đích sớm một năm so với dự kiến. Năng suất trung bình đạt 6070 tấn/ha, giúp sản lượng toàn tỉnh đạt hơn

221.000 tấn, mang lại lợi nhuận từ 700 - 800 triệu đồng/vụ cho người nuôi. Tỉnh đã đầu tư mạnh vào hạ tầng với hơn 2.000 tỷ đồng nâng cấp hệ thống điện 110kV, cùng các dự án thủy lợi, giao thông phục vụ vùng nuôi. Hiện nay, vùng nuôi tập trung hình thành tại Ba Tri (222 ha), Thạnh Phú (165 ha) và Bình Đại (150 ha). Ngoài ra, Bến Tre chú trọng nâng cao chất lượng giống với 79 cơ sở sản xuất, đồng thời hỗ trợ chứng nhận ASC, BAP cho vùng nuôi tôm quy mô lớn. Với đà phát triển này, tỉnh kỳ vọng hoàn thành và vượt mục tiêu 4.000 ha nuôi tôm công nghệ cao, góp phần đưa ngành thủy sản phát triển bền vững.

Thế giới

Sản xuất bột cá năm 2024 tăng 26%

Theo số liệu do các thành viên của Tổ chức bột cá và dầu cá thế giới (IFFO) so với năm 2023, sản xuất bột cá năm 2024 đã tăng 26%

và sản xuất dầu cá tăng 12%. Sự phục hồi sản lượng cá cơm ở Peru là lý do chính đằng sau

sự gia tăng đáng kể trong sản xuất bột cá. Điều này cũng ảnh hưởng đến sự gia tăng tổng sản lượng dầu cá, mặc dù trong trường hợp này, sự giảm sút ở các quốc gia sản xuất khác đã làm giảm kết quả cuối cùng. Bộ Sản xuất Peru (Produce) cho biết, vụ khai thác cá cơm thứ hai

ở khu vực Bắc Trung Peru đã kết thúc vào ngày 23/1 với sản lượng vượt 95% chỉ tiêu, đạt hơn 2,38 triệu tấn. Theo IFFO, sản lượng bột cá năm 2024 của châu Âu thấp nhất so với cùng kỳ năm trước, giảm hơn 100.000 tấn so với năm 2023.

Trung Quốc

Khiếu nại Mỹ lên WTO về thuế bổ sung 10%

Ngày 5/2/2025, Trung Quốc đã đệ đơn

khiếu nại lên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) về tranh chấp đối với các mức thuế bổ sung 10% của Mỹ đối với hàng hóa Trung Quốc và thu hồi miễn thuế đối với hàng nhập khẩu trị giá dưới 800 USD. Chính quyền Bắc

Kinh cho rằng, các mức thuế này được đưa ra dựa trên những cáo buộc vô căn cứ, đồng thời vượt quá mức thuế cam kết của Mỹ trong thỏa thuận thuế quan năm 1994. Ngày 4/2, Trung Quốc cho biết sẽ áp thuế trả đũa đối với một số hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ gồm 15% đối với than và khí tự nhiên hóa lỏng, và 10% đối với dầu thô và máy móc nông nghiệp.

Nga

Tiêu thụ cá minh thái phá kỷ lục

20 năm

Tiêu thụ cá minh thái tại Nga trong năm 2024 đã phá kỷ lục tồn tại suốt 20 năm qua nhờ sự gia tăng đáng kể nguồn cung cho thị

trường nội địa. Hiện tại, cá minh thái vẫn là

một trong những sản phẩm chính trong “giỏ tiêu dùng thủy sản” của người Nga. Theo Hiệp hội cá minh thái Nga (ADM), mức tiêu thụ cá minh thái giai đoạn 2014-2024 đã tăng từ 1,8 lên 4 kg mỗi người mỗi năm, chiếm 8-18% tổng mức tiêu thụ sản phẩm cá tại Nga. Dữ liệu từ Cơ quan Thống kê Nga Rosstat cho biết, trong

năm 2024, tổng mức tiêu thụ sản phẩm cá ở

Nga đạt 22,5 kg mỗi người mỗi năm. Kỷ lục tiêu thụ mới đã được thiết lập nhờ vào việc gia tăng nguồn cung cho thị trường nội địa do nhu cầu và sản lượng đánh bắt gia tăng.

Ấn Độ

Nông dân kêu cứu vì giá tôm giống

tăng vọt

Người nuôi tôm huyện Nellore thuộc Andhra Pradesh đang đối mặt với nhiều khó khăn do giá tôm thẻ giống tăng vọt, buộc họ phải kêu gọi sự can thiệp của chính phủ. Cụ thể, giá tôm giống

đã tăng từ 0,3 rupee (0,0036 USD) lên hơn 0,41 rupee (0,005 USD) mỗi con giống, và dự báo còn tăng nữa. Giá tôm giống gia tăng đã giáng một

đòn nặng lên ngành nuôi tôm địa phương. Trước đây, giống tôm có sẵn với giá cả phải chăng, nhưng nhu cầu lớn đối với giống chất lượng cao đã khiến giá tăng mạnh. Cách đây chỉ 20 ngày, việc thả nuôi tôm cho một mẫu ao (khoảng 0,4 ha) với 160.000 con giống có chi phí khoảng 48.000 supee (580 USD). Sau đợt tăng giá gần đây, cùng số lượng giống tôm đó giờ có giá 65.600 suppe (793 USD). Các chủ trại giống cho rằng giá cao hơn là do chi phí nhập khẩu tôm bố mẹ chất lượng cao, sạch bệnh từ Mỹ, Đài Loan, Indonesia và Nhật Bản đang leo cao.

Na Uy

Xuất khẩu tăng vọt trong tháng 1

Trong tháng đầu năm 2025, xuất khẩu thủy sản của Na Uy đạt trị giá 15,3 tỷ NOK, tăng 1,9 tỷ NOK, tăng 14% so với cùng kỳ năm ngoái,

CON SỐ & SỰ KIỆN

5,08 TỶ USD

Là giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản trong tháng 1/2025, giảm 4,9% so với cùng kỳ 2024. Trong đó, xuất khẩu thủy sản đạt 750 triệu USD, tăng 0,3%.

4 - 4,3 TỶ USD

Là mục tiêu xuất khẩu tôm của Việt Nam năm 2025. VASEP nhận định xuất khẩu tôm sẽ tăng trưởng nhờ vào sự điều chỉnh chiến lược sản xuất và mở rộng thị trường xuất khẩu tiềm năng.

theo Hội đồng thủy sản Na Uy cho biết. Mỹ là thị trường đơn lẻ lớn nhất đối với xuất khẩu thủy sản của Na Uy trong tháng 1, tính theo giá trị. Trị giá xuất khẩu cá và động vật có vỏ của Na Uy sang thị trường Mỹ đạt 1,5 tỷ NOK, chiếm 9,7% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản trong tháng qua. Mỹ cũng ghi nhận mức tăng trưởng giá trị lớn nhất trong tháng 1, với sự gia tăng 428 triệu NOK, tương đương 41% so với cùng kỳ năm ngoái. Các loài thủy sản lớn nhất của Na Uy xuất khẩu sang Mỹ trong tháng 1 theo giá trị gồm: Cá hồi (1,1 tỷ NOK; +39%); Cá hồi vân (110,6 triệu NOK; +55%); Cua huỳnh đế (105 triệu NOK; +81%); Cá thu mackerel (31,7 triệu NOK; +41%); Cá minh thái (23,2 triệu NOK; +7%).

Châu Âu Kêu gọi loại trừ cá ngừ khỏi thỏa thuận thương mại với Thái Lan

Các tổ chức ngư nghiệp của châu Âu đang kêu gọi Liên minh châu Âu loại cá ngừ khỏi Hiệp định thương mại tự do dự kiến với Thái Lan. Europêche, Liên minh Chủ tàu đánh cá Pháp và Orthongel đã gửi đơn yêu cầu Tổng cục Hàng hải, Nghề cá và Nuôi trồng Thủy sản, đề nghị cá ngừ Thái Lan được xếp vào nhóm “sản phẩm nhạy cảm. Các tổ chức này bày tỏ lo ngại về tính bền vững và an toàn sức khỏe trong sản xuất cá ngừ đóng hộp Thái Lan. Họ cũng nhấn mạnh việc Thái Lan “không phê chuẩn một số công ước quốc tế liên quan đến quyền con người và lao động”.

Tuấn Minh

1.800 TỶ ĐỒNG

Là kim ngạch xuất khẩu tôm hùm sang Trung Quốc trong tháng 1/2025, chiếm gần một nửa tổng giá trị xuất khẩu thủy sản sang thị trường này và tăng gấp 9 lần so với cùng kỳ năm ngoái.

594,1 NGHÌN TẤN

Là tổng sản lượng thủy sản của cả nước trong tháng 1/2025, tăng 0,7% so với cùng kỳ 2024. Trong đó, sản lượng nuôi trồng ước đạt 329,2 nghìn tấn, sản lượng khai thác ước đạt 264,9 nghìn tấn.

Ảnh: Oanh Thảo

Vì một ngành thủy sản

phát triển bền

vững

Ngày 25/1/2025, Văn phòng

Chính phủ ban hành Thông báo

số 30/TB-VPCP kết luận của

Phó Thủ tướng Chính phủ Trần

Hồng Hà tại Hội nghị lần thứ XII

Ban Chỉ đạo Quốc gia về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU).

Một trong những nội dung thu hút sự chú ý đó là, trong thời gian tới, Chính phủ có thể ra quy định mùa đánh bắt và kích thước đánh bắt đối với một số loại hải sản hiện nay.

Nhức nhối tàu cá “3 không”

Tình trạng tàu cá “3 không” và các hành vi khai thác hải sản bất hợp pháp đã và đang gây ra những khó khăn lớn cho ngành thủy sản Việt Nam.

Theo dữ liệu từ Thông báo số 30/TB-VPCP, hiện vẫn còn 888 tàu cá thuộc diện này. Việc gia hạn, cấp phép khai thác theo quy định còn chậm, trong khi kết quả xác minh và xử lý hành vi ngắt kết nối thiết bị giám sát hành trình tàu cá (VMS) hoặc hoạt động sai vùng chưa đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó, công tác kiểm soát chất lượng nhật ký khai thác tại một số địa phương vẫn chưa đảm bảo theo quy định, chủ yếu là hồi ký hoặc ghi nhận không chính xác trên hệ thống VMS.

Nguyên nhân của tình trạng này, theo Chính phủ, là xuất phát từ nhiều yếu tố, trong đó có việc hành lang pháp lý chưa theo kịp thực tiễn, quản lý còn cắt khúc theo lãnh thổ, thiếu cơ chế phối hợp liên địa phương dựa trên dữ liệu chung và chế tài xử lý vi phạm chưa đủ

mạnh để răn đe. Đồng thời, cơ chế khuyến khích phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững cũng chưa được triển khai hiệu quả, khiến

Việt Nam vẫn chưa được gỡ “thẻ vàng” IUU từ Ủy ban châu Âu (EC).

Cơ sở dữ liệu và hạ tầng phục vụ quản lý khai thác thủy sản chậm được triển khai, nhất là cơ sở dữ liệu, phần mềm quản lý nghề cá dùng chung kết nối dữ liệu dân cư, liên ngành, thống nhất từ trung ương đến địa phương và cập nhật dữ liệu theo thời gian thực, hệ thống kết nối định vị, khai báo lập nhật ký điện tử, quản lý theo chuỗi từ đánh bắt, nhập cảng đến thu mua, chế biến chậm được xây dựng. Công tác chỉ đạo triển khai thực hiện ở một số địa phương chưa nghiêm, nhất là các hành vi vi phạm ngắt kết nối VMS, tàu cá hoạt động sai vùng, tàu cá của địa phương khác vi phạm trên địa bàn địa phương mình quản lý... chưa phát huy được vai trò của lực lượng công an xã trong nắm bắt, kiểm soát tình hình ven biển, ngăn chặn, xử lý vi phạm.

Mặt khác, dù Việt Nam đã xây dựng được hành lang pháp lý khá toàn diện, như Luật Thuỷ sản 2017 và các nghị định liên quan (Nghị định số 37/2024/NĐ-CP, Nghị định 38/2024/NĐ-CP)…; nhưng các chế tài này phần nào vẫn chưa đủ mạnh để quản lý các

Ảnh: Hoài Luân

hoạt động khai thác, đánh bắt thủy sản một cách hiệu quả. Các quy định pháp luật hiện nay còn thiếu sự thống nhất và còn cắt khúc theo lãnh thổ, không đảm bảo tính liên thông giữa các địa phương. Một số quy định chưa điều chỉnh đầy đủ những yếu tố quan trọng như ngư trường, mùa sinh sản hay kích thước tối thiểu của thủy sản khai thác, dẫn đến việc khó kiểm soát và xử lý các hành vi vi phạm.

Đánh bắt theo mùa sinh sản

Để khắc phục những tồn tại nêu trên, Chính phủ đang tập trung rà soát và sửa đổi các quy định pháp luật về thủy sản, bao gồm Luật Thủy sản 2017, Nghị định số 37/2024/NĐ-CP và Nghị định số 38/2024/NĐ-CP.

Những thay đổi sắp tới sẽ hướng đến việc hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động khai thác, đánh bắt theo ngư trường, mùa sinh sản và kích thước khai thác, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của từng cơ quan quản lý. Chính phủ cũng sẽ bổ sung các chế tài xử lý vi phạm đối với chủ tàu, thuyền trưởng và tăng cường quản lý liên địa phương nhằm khắc phục tình

trạng giám sát cắt khúc theo địa bàn.

Một động thái quan trọng trong bối cảnh nguồn lợi thủy sản của Việt Nam đang đứng

trước nguy cơ cạn kiệt được Chính phủ đưa ra, đó là quy định về mùa vụ đánh bắt và kích thước tối thiểu đối với một số loài hải sản, nhằm bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thủy sản quốc gia.

Việc ra đời những quy định mới về mùa vụ và kích thước đánh bắt có thể sẽ giúp giảm thiểu tình trạng đánh bắt quá mức, đảm bảo các loài hải sản có thể sinh sản và tái tạo nguồn gen.

Tuy nhiên, đây cũng là một thách thức lớn đối với ngư dân, nhất là khi họ đã quen với việc đánh bắt quanh năm mà không có sự phân biệt mùa vụ. Hạn chế về thời gian và kích thước đánh bắt sẽ ảnh hưởng đến thu nhập của ngư dân, đặc biệt là trong những giai đoạn khó khăn.

Vì vậy, việc áp dụng các biện pháp này đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng và cần thiết phải có các chính sách hỗ trợ phù hợp, như đào tạo nghề cá bền vững, hỗ trợ tín dụng, và khuyến khích ngư dân chuyển đổi sang các phương thức đánh bắt thân thiện với môi trường.

VĂN BẢN MỚI

 Ngày 25/1/2025, Phó Thủ tướng Trần

Hồng Hà ký Quyết định số 236/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch thực hiện Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững

tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Mục đích của Kế hoạch nhằm triển khai hiệu quả Quyết

định số 1117/QĐ-TTg ngày 7/10/2024

của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 20212030, tầm nhìn đến năm 2050; xác định được lộ trình tổ chức thực hiện bảo đảm

đạt được các mục tiêu của Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ.

 Ngày 17/01/2025, Bộ NN&PTNT có Văn bản số 558/BNN-KN gửi UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc tăng cường thực hiện công tác bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản năm 2025. Theo đó, đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các Sở, ban ngành có liên quan trên địa bàn tỉnh tiếp tục thực hiện một số nội dung như: Tăng cường hoạt động tuần tra, kiểm tra, kiểm soát và kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ nguồn lợi thủy sản; ngăn chặn và chấm dứt tình trạng sử dụng ngư cụ cấm, nghề cấm, khai thác thủy sản tại khu vực cấm và khai thác trái phép các loài trong danh mục loài thủy sản nguy cấp, quý, hiếm, đặc biệt là tình trạng sử dụng chất nổ, xung điện, chất độc để khai thác thủy sản. Tổ chức hoạt động thả giống tái tạo nguồn lợi thủy sản một cách hiệu quả, đúng quy định. Triển khai kế hoạch “Năm tăng cường, thực hiện hiệu quả đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản” và báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2024 trên địa bàn tỉnh theo Kế hoạch ban hành kèm theo văn bản số 2770/BNN-KN ngày 16/4/2024 về Bộ (qua Cục Kiểm ngư) trước ngày 15/2/2025.

 Ngày 14/1/2025, Bộ NN&PTNT ban hành Quyết định số 272/QĐ-BNN-TS phê

duyệt Kế hoạch triển khai Chương trình quốc gia Phát triển khai thác thủy sản hiệu quả, bền vững giai đoạn 2022 - 2025, định hướng 2030. Kế hoạch đưa ra các dự án/ đề tài triển khai như: Dự án dự báo ngư trường phục vụ khai thác hải sản hiệu quả (Dự án tiếp tục thực hiện); Đề án khoa học công nghệ phục vụ chương trình Chương trình quốc gia Phát triển khai thác thủy sản hiệu quả, bền vững giai đoạn 2022 - 2025, định hướng 2030; Dự án xây dựng mô hình quản trị số hoạt động khai thác thủy sản ở Việt Nam; Đề án thí điểm phát triển cảng cá xanh đến năm 2030; Đề án đàm phán tham gia là thành viên các tổ chức quản lý nghề cá trong và ngoài khu vực; rà soát trình Thủ tướng Chính phủ xem xét sửa đổi, bổ sung Đề án phát triển nghề khai thác viễn dương và tổ chức đưa ngư dân đi khai thác hải sản ở vùng biển một số nước.

 Ngày 22/1/2025, UBND huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình ban hành Kế hoạch số 13/KH-UBND về nuôi trồng thủy sản năm 2025. Với mục tiêu, tổng diện tích nuôi thủy sản đạt từ 1.273 ha trở lên, trong đó diện tích nước ngọt là 1.183 ha, diện tích nước lợ là 90 ha. Tổng sản lượng ước đạt khoảng 6.660 tấn trở lên. Tổng giá trị nuôi trồng thủy sản ước đạt trên 490 tỷ đồng. Xây dựng mới từ 1 vùng nuôi trồng thủy sản liên kết tiêu thụ sản phẩm trở lên.  Ngày 23/1/2025, UBND tỉnh Bình Định ban hành văn bản số 614/UBND-TH về ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch UBND tỉnh về việc tăng cường các nhiệm vụ, giải pháp chống khai thác IUU, nhất là trong dịp cao điểm trong và sau Tết Nguyên đán. Trong đó, yêu cầu Sở NN&PTNT tiếp tục rà soát, lập danh sách các tàu cá có nguy cơ cao vi phạm vùng biển nước ngoài, đặc biệt là các tàu cá có chiều dài dưới 15 m thường xuyên di chuyển ngư trường tại các tỉnh phía Nam; phối hợp với Cục Thủy sản, các cơ quan liên quan của các tỉnh phía Nam tăng cường công tác tuyên truyền, vận động ngư dân không vi phạm vùng biển nước ngoài. 

Vân Anh

Tìm giải pháp đồng bộ để tăng tốc

Năm 2025, dự báo sẽ tiếp tục là một năm khó, nhưng theo Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức

Tiến, toàn ngành thủy sản vẫn đặt mục tiêu tăng tốc để làm tiền đề khi bước sang giai đoạn 2026-2030 chúng ta sẽ đạt mức tăng trưởng 2 con số, bởi “không có gì là không thể”.

Tăng trưởng nhưng chưa bứt phá mạnh

Theo Cục Thủy sản, năm 2024 sản xuất nuôi tôm nước lợ năm 2024 đạt vượt kế hoạch đề ra với diện tích nuôi đạt 749.800 ha, (tăng 1,7% so với cùng kỳ năm 2023); sản lượng nuôi tôm nước lợ năm 2024 đạt gần 1,3 triệu tấn (tăng 15,3 % so với cùng kỳ năm 2023); trong đó, sản lượng tôm sú đạt 338.800 tấn và tôm thẻ chân trắng đạt 951.700 tấn.

Đóng góp lớn cho thành tích sản lượng và kim ngạch xuất khẩu phải kể đến sự thành công của những mô hình nuôi tôm bán thâm canh, siêu thâm canh

ứng dụng công nghệ cao. Trong khi chỉ chiếm 19,2% về diện tích, nhưng các mô hình này đóng góp

đến 78,5% về sản lượng.

Đánh giá về vụ tôm năm 2024, theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, đây là năm rất khó khăn nhưng thủy sản nói chung và ngành tôm nói riêng vẫn có sự tăng trưởng ấn tượng cả về sản lượng lẫn giá trị kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, nếu đánh giá một cách toàn diện thì ngành tôm vẫn còn 1 số chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật chưa có sự bứt phá mạnh, nhất là tăng trưởng trong lĩnh vực sản xuất giống khiến tỷ lệ nuôi thành công thấp; dịch bệnh vẫn còn diễn biến phức tạp, môi trường ô nhiễm… làm cho tôm chậm lớn, hệ số thức ăn tăng cao… Tất cả làm cho giá thành sản xuất tôm Việt Nam cao hơn các nước đến sức cạnh tranh thấp, hiệu quả ngành tôm chưa đạt như kỳ vọng, đặc biệt là ở khâu nuôi.

Chưa hài lòng với kết quả hiện tại, ông Lê Văn Sử - Phó Chủ tịch

UBND tỉnh Cà Mau cho rằng, những năm gần đây, ngành tôm

Cà Mau nói riêng và các tỉnh ven biển nói chung đều có sự tăng

trưởng, nhưng nếu nhìn kỹ lại sẽ thấy gần như Việt Nam vẫn chỉ

loanh quanh ở con số kim ngạch

xuất khẩu 4 tỷ USD trở lại. Điều này

cho thấy, sự phát triển của ngành tôm thời gian qua còn rất chậm, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế mà nước ta đang có.

Riêng đối với Cà Mau, qua ghi

nhận có thể thấy, việc tăng năng

suất các mô hình nuôi còn khá

chậm, thậm chí một số mô hình

như: Quảng canh, quảng canh cải

tiến năng suất có phần đi lùi. Do đó, trong vụ tôm năm 2025, Cà Mau đặt mục tiêu phấn đấu nâng

năng suất mô hình quảng canh cải

tiến lên 450 - 650 kg/ha gắn với tổ

chức lại sản xuất theo hướng hợp

tác, liên kết chuỗi giá trị.

Năm 2025: Tiếp tục tăng tốc

Theo dự báo, năm 2025 tiếp

tục là một năm khó, nhưng cũng

là năm ngành tôm tập trung tăng

tốc để bước sang giai đoạn 2026

- 2030 sẽ đạt mức tăng trưởng 2 con số. Theo đó, trong vụ tôm

nước lợ năm 2025, Cục Thủy sản

đề ra các nhiệm vụ, giải pháp

chính, như: diện tích nuôi tôm là

750.000 ha (tôm sú 630.000 ha, TTCT 120.000 ha);  sản lượng

tôm các loại 1,3 - 1,4 triệu tấn; trong đó, tôm sú 350.000 tấn, tôm thẻ chân trắng hơn 1 triệu tấn; nhu cầu tôm giống khoảng 140 - 150 tỷ con.

Để đạt được mục tiêu trên, Cục Thủy sản đề ra các nhiệm vụ, giải pháp chính, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến việc phát triển ngành tôm theo hướng xanh, tuần hoàn ứng dụng công nghệ cao trong tất cả các khâu có liên

quan trong chuỗi giá trị; áp dụng

kỹ thuật, khoa học công nghệ tiên

tiến, phù hợp và hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của thị trường về bảo vệ môi trường, bảo vệ động vật và có trách nhiệm xã hội.

Làm rõ thêm cơ sở cho mục tiêu tăng tốc trong năm 2025, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến dẫn chứng

dư địa để gia tăng sản lượng tôm

nuôi: “Hiện nay, diện tích nuôi thâm canh, siêu thâm canh chỉ mới

chiếm khoảng 19,2% nhưng đóng góp đến 78,5% sản lượng, nên chỉ cần chúng ta có giải pháp, chính sách khuyến khích phát triển các mô hình nuôi tôm hiệu quả theo hướng ứng dụng công nghệ cao, nuôi tôm tuần hoàn, giảm phát thải khí nhà kính… thì sản lượng và giá trị của ngành tôm sẽ còn lớn hơn nữa. Vì vậy, cần có những tổng kết, đánh giá để chọn mô hình phù hợp với từng điều kiện sinh thái, từng quy mô để việc nhân rộng được dễ dàng và hiệu quả”.

Thế giới luôn thay đổi cả về

thương mại, nhu cầu lẫn xung

đột và cùng với đó là những vấn

đề nội tại, như: Môi trường, dịch

bệnh, hạ tầng, quy mô nuôi nhỏ

lẻ, hợp tác và liên kết… tất cả đều

là những thách thức không hề nhỏ

của ngành tôm. Do đó, Thứ trưởng

đề nghị toàn ngành và các địa

phương cần tập trung phân tích,

đánh giá và tìm ra giải pháp đồng

bộ để giải quyết những khó khăn

của ngành tôm, nhằm giúp ngành

tôm bứt phá trong năm 2025; trong đó, tập trung vào các điểm nhấn quan trọng là: Con giống, mô hình, tổ chức và liên kết sản xuất.

Thứ trưởng nhấn mạnh: “Tuy còn nhiều khó khăn nhưng không có gì chúng ta không thể làm được nếu tất cả cùng chung tay thực hiện trên cơ sở hài hòa lợi ích giữa các bên liên quan trong chuỗi giá trị. Trước mắt, cần tập trung quan

tâm nhiều hơn đến vùng nuôi để

làm sao có được tỷ lệ thành công cao, giá thành hợp lý, sản phẩm

đạt tiêu chuẩn quốc tế nhằm đảm

bảo hiệu quả kinh tế - xã hội - môi

trường cho người nuôi”.

Hợp tác, kiên kết chuỗi giá trị

Trong bối cảnh kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, phát thải thấp… đang là xu thế tất yếu chung của thế giới, ngành tôm không có con đường nào khác là phải thực hiện theo xu thế này thì mới có thể nâng cao được sức cạnh tranh

trong ngành. Vấn đề an toàn sinh học cũng rất quan trọng vì hầu hết các thị trường hiện đều yêu cầu vấn đề này rất gắt gao. Vì vậy, nếu nước ta không tổ chức lại sản xuất theo hướng hợp tác và liên kết trên cơ sở hài hòa lợi ích, chia sẻ rủi ro của các bên liên quan thì sẽ rất khó đáp ứng đầy đủ những yêu cầu này. Việc hợp tác, liên kết thời gian qua vẫn còn hết sức khó khăn mà nguyên nhân là các bên tham gia chưa thể tìm tiếng nói chung trong việc. “Để có thể hình thành nên những chuỗi liên kết hoàn chỉnh, thực chất và hiệu quả, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu từ thị trường cần có cơ chế đặc thù cho con tôm, về: Chính sách đất đai, con giống, thức ăn, khoa học công nghệ…”, Thứ trưởng lưu ý. Về phần mình, ông lê Văn Quang - Chủ tịch tập đoàn Tôm Minh Phú nhìn nhận, do tỷ lệ nuôi nhỏ lẻ nhiều nên nhiều vùng nuôi không có hệ thống cấp, thoát nước riêng biệt làm cho môi trường ô nhiễm, dịch bệnh phát sinh và dễ lây lan, dẫn đến tỷ lệ nuôi thành công thấp, giá thành cao, tính cạnh tranh của con tôm Việt Nam giảm sút, doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Muốn nuôi tôm được giá thành thấp nhưng vẫn có lời, các hộ nuôi trồng cần thay đổi cách tiếp cận theo hướng quản trị rủi ro, không phải quản lý rủi ro như trước đây. Và, chỉ có hợp tác, liên kết tốt thì mới giải được bài toán năng suất, giá thành và tiến tới phát triển xanh, bền vững.

“Doanh nghiệp lúc nào cũng luôn mong muốn người nuôi thành công để có đủ tôm chế biến với giá thành hợp lý, bởi nếu người nuôi thất bại nhiều, hoặc nuôi không có lời, buộc phải ngưng nuôi thì doanh nghiệp cũng khốn khó”, ông Quang phân tích.

Xuân Trường

Tiêu chuẩn “xanh”

Cơ hội và thách thức trong xuất khẩu

Trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã và đang tích cực tham gia vào nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA). Tuy nhiên, trong lộ trình

thực thi các Hiệp định này, nhất là các Hiệp định thế hệ mới, những lợi thế về

xuất khẩu của nước ta đã phần nào bị ảnh hưởng bởi việc đối tác áp dụng nhiều

hơn các tiêu chuẩn về môi trường. Đây là thách thức không nhỏ đối với các

doanh nghiệp xuất khẩu.

Đ

Để hiểu rõ hơn về tiêu chuẩn “xanh”, Tạp chí Thủy sản Việt Nam đã có cuộc trao đổi với

Luật sư Hà Huy Phong, Giám đốc điều hành Công ty luật Inteco, với mong muốn giúp các doanh nghiệp và độc giả có thêm góc nhìn rõ nét hơn về nội dung này.

Phóng viên: Thưa Luật sư Hà Huy Phong, trong những năm qua, Việt Nam đã tích cực tham gia vào các Hiệp định thương mại tự do. Mặc dù phải đáp ứng nhiều quy định khi gia nhập các “sân chơi” này, nhưng xuất khẩu của nước ta cũng nhờ đó tăng mạnh. Theo ông, điều gì đã tạo ra những bứt phá đó?

Luật sư Hà Huy Phong: Các Hiệp định tự do thương mại là một phần quan trọng của hệ thống thương mại toàn cầu, tạo lập cơ sở pháp lý để các quốc gia thành viên thực hiện các hoạt động hợp tác thương mại lẫn nhau. Đặc biệt, trong những năm gần đây, xuất hiện các Hiệp định tự do thương mại thế hệ mới, có tính chất cao hơn, toàn diện hơn và phản ánh đầy đủ hơn các yêu cầu và đòi hỏi của thời đại, như bảo vệ môi trường, giải quyết tranh chấp, mua sắm chính phủ. Là các văn kiện pháp lý quốc tế, các Hiệp định tự do thương mại thiết lập các tiêu chuẩn, các nghĩa vụ pháp lý cụ thể và chặt chẽ để đảm bảo tính tuân thủ của mỗi quốc gia thành viên. Mặc dù nhiều quy

định và điều khoản cụ thể, nhưng các Hiệp định FTA này lại có khả năng thúc đẩy các hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam, bởi một số lý do sau: Thứ nhất, các FTA thiết lập và tường minh hóa các quy định pháp luật quốc nội của các quốc gia thành viên. Điều này giúp cho

các nhà xuất khẩu có cái nhìn đầy đủ và rõ ràng hơn quy định pháp luật của nước nhập khẩu. Các hiệp định cũng tạo ra một khuôn khổ chung ở tất cả các quốc gia, tránh tình trạng “mỗi cây mỗi hoa” khiến nhà xuất khẩu khó nắm bắt hoặc đáp ứng quy định của riêng từng quốc gia. Trên cơ sở đó, nhà xuất khẩu mạnh dạn hơn và có cơ sở hơn trong việc hoạch định chiến lược, kế hoạch sản xuất, xuất khẩu, cũng như đầu tư tài chính lớn hơn vào các hoạt động sản xuất, xuất khẩu của mình.

Thứ hai, các FTA tạo ra nghĩa vụ bắt buộc của mỗi Quốc gia thành viên trong việc mở cửa thị trường, nên các nhà xuất khẩu của Việt Nam có quyền bán hàng vào thị trường các Quốc gia thành viên. Nếu không có hành lang pháp lý do FTA thiết lập, mỗi quốc gia sẽ có những cách hành xử riêng và có tính phân biệt đối xử với hàng hóa đến từ quốc gia khác một cách thiếu nhất quán; nhưng khi có FTA, cách hành xử như vậy sẽ bị coi là trái quy định. Có thể coi, FTA là lá chắn pháp lý để các nhà xuất khẩu Việt Nam có đầy đủ quyền năng và thế đứng trong việc xuất khẩu hàng hóa vào thị trường nhiều Quốc gia.

Thứ ba, các FTA cũng thiết lập các tiêu chuẩn cao, tạo nên những hàng rào kĩ thuật và pháp lý nhất định để ngăn chặn hàng hóa từ một số quốc gia, nhưng lại tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa của Việt Nam, đặc biệt là ở một số thị trường khó tính. Việt Nam có nhiều lợi thế về nguồn nguyên liệu, hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà nước, cũng như quyết tâm chính trị cao của các cấp chính quyền, nên các hoạt động xuất khẩu được khuyến khích, đẩy mạnh; các doanh nghiệp yên tâm trong việc đầu tư và tìm kiếm thị trường, chủ động thực hiện hoạt động xuất khẩu.

Phóng viên: Trong các Hiệp định thương mại tự do hiện nay, bên cạnh nhiều tiêu chuẩn bắt buộc đối với sản phẩm xuất khẩu, tiêu chuẩn “xanh” đang dần trở thành xu hướng chủ đạo mới, ông có thể phân tích cho độc giả Tạp chí Thủy sản Việt Nam hiểu rõ hơn về những điều này, thưa ông?

Luật sư Hà Huy Phong: Như tôi đã nói ở trên, các Hiệp định tự do thương mại, mà đặc biệt là Hiệp định tự do thương mại thế hệ mới (CPTPP và

Luật sư Hà Huy Phong, Giám đốc điều hành Công ty luật Inteco: “Các tiêu chuẩn xanh này vừa tạo ra nhiều cơ hội, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đối với tình hình xuất khẩu chung của nước ta. Tuy nhiên, cơ hội lớn là chúng ta có thể có những thị trường xuất khẩu ổn định, bền vững, giá trị hàng hóa cao”.

và môi trường; đẩy mạnh thực thi pháp luật về môi trường và các điều ước quốc tế đa phương về môi trường; bảo đảm sự tăng trưởng về thương mại và đầu tư không ảnh hưởng đến chi phí bảo vệ môi trường; nâng cao năng lực của các bên trong giải quyết các vấn đề môi trường liên quan đến thương mại. Tiêu chuẩn “xanh” ở đây, có thể được hiểu là quá trình nuôi trồng, đánh bắt, chế biến, xuất khẩu phải phù hợp với không chỉ quy định pháp luật Việt nam mà còn phù hợp với quy định của các quốc gia tiêu thụ về vấn đề bảo vệ môi trường, có báo cáo và có kiểm soát. Tôi có thể dẫn chứng một số yêu cầu như sau: Hàng hóa xuất khẩu vào thị trường Châu Âu phải đáp ứng quy định của Đạo luật chống phá rừng. Cụ thể, hàng hóa

Ảnh: Shutterstock

Sự tái cấu trúc lại thị trường theo hướng xanh hóa hàng hóa sẽ dẫn tới chỉ những hàng hóa đạt chất lượng, đáp ứng tiêu chuẩn cao mới được lưu thông trên thị trường, và thông thường, biên lợi nhuận, cũng như giá trị giá tăng của hoạt động xuất khẩu hàng hóa này sẽ cao và ổn định hơn so với các loại hàng hóa cấp thấp.

hóa carbon bằng không, nếu không đạt thì sẽ phải chịu đóng thuế carbon xuyên biên giới.

Thủy sản xuất khẩu vào Châu Âu phải không thuộc trường hợp vi phạm quy định về Các hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp, không có báo cáo và không được quản lý (IUU). Nếu vi phạm sẽ bị “đánh” thẻ vàng, thẻ đỏ và từ chối cho nhập khẩu, tiêu thụ.

Lưu ý rằng, không chỉ ở khâu chế biến mà ở khâu nuôi trồng, nguyên liệu cũng phải tuân thủ quy định về bảo vệ môi trường. Đây là quy định rất chặt chẽ và làm khó nhiều doanh nghiệp Việt Nam vì buộc các doanh nghiệp xuất khẩu phải chủ động ở cả các khâu nguyên liệu, chế biến và xuất khẩu.

Phóng viên: Vậy theo ông, những tiêu chuẩn “xanh” này có những thuận lợi và thách thức gì đối với tình hình xuất khẩu chung của nước ta, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp?

Luật sư Hà Huy Phong: Các tiêu chuẩn xanh này vừa tạo ra nhiều cơ hội, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đối với tình hình xuất khẩu chung của nước ta. Thị trường tiếp nhận

hàng hóa sẽ trở nên khó tính hơn, với nhiều rào cản về pháp lý và kĩ thuật, môi trường, buộc hàng hóa xuất khẩu phải tìm cách thích ứng. Các nhà sản xuất và xuất khẩu sẽ phải đầu tư nhiều nguồn lực hơn cho việc nghiên cứu và đáp ứng các quy định mới, và trong trước mắt, có thể chịu ảnh hưởng nhất định về biên lợi nhuận vì chi phí đầu tư cao, thời gian thu hồi vốn kéo dài.

Tuy nhiên, cơ hội lớn là chúng ta có thể có những thị trường xuất khẩu ổn định, bền vững, giá trị hàng hóa cao. Sự tái cấu trúc lại thị trường theo hướng xanh hóa hàng hóa sẽ dẫn tới chỉ những hàng hóa đạt chất lượng, đáp ứng tiêu chuẩn cao mới được lưu thông trên thị trường, và thông thường, biên lợi nhuận, cũng như giá trị giá tăng của hoạt động xuất khẩu hàng hóa này sẽ cao và

yếu cố hữu của thị trường Việt Nam khi hàng hóa xuất khẩu thường chịu sự cố mà nguyên nhân là do khâu nuôi trồng. Ví dụ điển hình là hoạt động đánh bắt cá của bà con ngư dân trên biển thường xuyên vi phạm quy định IUU do vấn đề nhận thức.

Phóng viên: Với riêng lĩnh vực thủy sản, tiêu chuẩn “xanh” trong các Hiệp định FTA đối với ngành hàng này gì, thưa ông? Luật sư Hà Huy Phong: Hiệp định FTA không thiết lập các quy định riêng đối với lĩnh vực thủy sản, mà đưa ra các quy định chung đối với tất cả các ngành hàng, mặt hàng. Thực tế, khái niệm “xanh” không được quy định rõ ràng trong các FTA, nên thuật ngữ này chỉ là cách diễn đạt của quy định về bảo vệ môi trường.

Trân trọng cảm ơn Luật sư! Thu Hồng (Thực hiện)

Áp lực từ tiêu chuẩn “xanh”

Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, việc đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia trên thế giới cũng như tham gia tích cực vào các FTA đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế của nước ta, thúc đẩy và mở rộng thị trường xuất khẩu, cũng như thu hút đầu tư nước ngoài. Đồng thời, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật theo hướng tiệm cận với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế.

Tuy nhiên, để có thể tận dụng tốt lợi thế thuế quan, doanh nghiệp trong nước cần phải đáp ứng đầy đủ nhiều tiêu chuẩn khắt khe, trong đó, có những tiêu chuẩn mới như “xanh hóa”.

Theo các chuyên gia, xu hướng xanh hóa trên thế giới đang đòi hỏi ngày càng khắt khe đối với doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp xuất khẩu. Điều này đã và đang gây ra nhiều lo ngại trong xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước. Trong đó, các Hiệp định CPTPP và EVFTA được đánh giá là khối thị trường có những tiêu chuẩn rất cao về sản xuất xanh. Nếu không thực hiện tốt tiêu chuẩn “xanh” thì doanh nghiệp sẽ khó có thể tạo lợi thế cạnh tranh, tuy nhiên, nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện đưa ra, doanh nghiệp sẽ phát sinh chi phí tương đối lớn. Cùng với đó, các tiêu chí về tăng trưởng xanh còn là áp lực làm thay đổi chuỗi cung ứng. Đây có thể là sức ép rất lớn nếu doanh nghiệp không muốn bị thu hẹp sản xuất.

Theo Cục trưởng Cục Thủy sản Trần Đình Luân, tới đây, thị trường nhập khẩu sẽ đánh nhãn xanh, nhãn vàng, nhãn đỏ

và thêm phúc lợi động vật thủy sản. Đây là những thách thức mà ngành thủy sản Việt Nam phải đối mặt.

Ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký VASEP chia sẻ: “Chuyển đổi xanh trong ngành thủy sản có 3 mục tiêu cốt lõi, bao gồm: mở rộng mô hình nuôi trồng thủy sản bền vững; quản lý hiệu quả tất cả nghề cá; nâng cấp các chuỗi giá trị trong hệ thống thức ăn thủy sản”.

Tuy nhiên, cũng theo ông Hòe, việc theo đuổi chiến lược xuất khẩu xanh không phải ngay lập tức giúp doanh nghiệp đạt được hiệu suất tài chính tốt mà cần thời gian để tạo dựng và phát triển được lợi thế cạnh tranh. Chính vì thế, doanh nghiệp cần thiết lập một bộ giá trị thích hợp nhằm tạo điều kiện nuôi dưỡng và phát triển tư duy xanh; đồng thời áp dụng các tiêu chuẩn liên quan đến sinh thái, môi trường cũng sẽ khuyến khích việc ứng dụng chiến lược xuất khẩu xanh trong doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng rất cần sự đồng hành của Nhà nước, đặc biệt trong việc cập nhật và phổ biến thông tin về các quy định, tiêu chuẩn, thực tiễn cạnh tranh gắn với yếu tố xanh, sinh thái trong xuất khẩu ở từng thị trường… Ngoài ra, cần rà soát và xây dựng lô trình, công bố công khai các cam kết về hàng rào kỹ thuật mới nhất để bảo vệ môi trường cho doanh nghiệp nắm bắt kịp thời… Đại diện một doanh nghiệp cho rằng, với các tiêu chuẩn “xanh” thì trước mắt sẽ là áp lực, nhưng về lâu dài nếu như đáp ứng được, doanh nghiệp

VietShrimp 2025

Hội thảo quốc tế “Xanh hóa vùng nuôi”

vì một ngành tôm bền vững

Hội thảo quốc tế “Xanh hóa vùng nuôi” nằm trong khuôn khổ

Hội chợ Triển lãm VietShrimp 2025, là diễn đàn khoa học uy tín, mang đến nhiều nội dung chuyên sâu và giải pháp bền vững giúp ngành tôm nói riêng và ngành thủy sản Việt Nam nói chung phát triển lâu dài.

Trước áp lực của biến đổi khí hậu và các tiêu chuẩn môi trường ngày càng khắt khe, ngành tôm Việt Nam buộc phải chuyển mình, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao và xanh hóa vùng nuôi. Đây không chỉ là xu thế tất yếu mà còn là chìa khóa giúp ngành tôm nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng yêu cầu thị trường và gia tăng sức cạnh tranh quốc tế.

Hội thảo VietShrimp 2025 sẽ tập trung vào các giải pháp bền vững, bao gồm những mô hình nuôi tôm thân thiện với môi trường, ứng dụng công nghệ sinh học và hệ thống nuôi tuần hoàn (RAS), nhằm giảm phát thải và tối ưu hóa sản xuất. Những nội dung này không chỉ mang đến góc nhìn mới mà còn định hình

chiến lược dài hạn, giúp ngành tôm thích ứng

tốt hơn trước những thách thức về môi trường.

Hội thảo gồm 4 phiên thảo luận chính:

Phiên 1: Phát triển xanh hóa ngành tôm

Việt Nam

Dưới sự chủ trì của Cục Thủy sản, phiên mở

đầu sẽ cung cấp bức tranh toàn cảnh ngành

tôm Việt Nam năm 2024, đồng thời đưa ra

định hướng phát triển cho năm 2025.

Phiên 2: Nuôi tôm giảm phát thải

Phiên này tập trung vào các mô hình, sáng kiến đổi mới giúp ngành tôm giảm khí thải và ô nhiễm môi trường, nâng cao hiệu quả sản xuất và cải thiện lợi nhuận bền vững cho người nuôi.

Phiên 3: Phát triển chuỗi cung ứng ngành tôm

Nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm và tối ưu hóa chi phí, phiên thảo luận sẽ xoay quanh các giải pháp liên quan tới toàn bộ các chuỗi mắt xích trong ngành tôm từ giống tôm, thức ăn, dinh dưỡng , thuốc tới logistics trong toàn bộ chuỗi cung ứng.

Phiên 4: Tăng công nghệ – Giảm chi phí trong nuôi tôm

Các giải pháp công nghệ số, tự động hóa và phân tích dữ liệu sẽ được giới thiệu, giúp người nuôi quản lý ao nuôi hiệu quả, tối ưu hóa năng suất và giảm phụ thuộc vào lao động thủ công.

truy xuất nguồn gốc và bảo vệ môi trường. Việc áp dụng các mô hình nuôi xanh không chỉ góp phần giảm phát thải mà còn nâng cao chất lượng sản phẩm, giúp tôm Việt dễ dàng thâm nhập vào các thị trường lớn như EU, Mỹ và Nhật Bản.

Sự kết hợp giữa chính sách hỗ trợ, xu thế thị trường và đầu tư công nghệ hiện đại sẽ là nền tảng vững chắc để xây dựng thương hiệu tôm xanh Việt Nam, khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế.

Hội thảo VietShrimp 2025 cam kết trở thành cầu nối cho những sáng kiến bền vững, là nơi trao đổi kinh nghiệm, kết nối các doanh nghiệp và thúc đẩy hợp tác trong chuỗi giá trị tôm.

Với sự góp mặt của hàng chục doanh nghiệp, chuyên gia hàng đầu Việt Nam, “Xanh hóa vùng nuôi ” hứa hẹn sẽ là chiến lược cốt lõi giúp ngành tôm Việt Nam cân bằng giữa tăng trưởng sản xuất và bảo vệ hệ sinh thái, đồng thời

ứng các

chuẩn quốc tế về

VietShrimp

TS. Trần Hữu Lộc, Giảng viên trường Đại học Nông Lâm TP HCM

“BÁC SĨ TÔM”

và hành trình

vì sự bền vững của ngành thủy sản

Được bà con nông dân yêu mến bởi sự chân chất, gần gũi đậm chất Nam Bộ, TS. Trần Hữu Lộc, Giảng

viên trường Đại học Nông Lâm TP HCM, cùng đội

ngũ ShrimpVet đã không ngừng nỗ lực nâng cao sức

cạnh tranh và hướng đến sự phát triển bền vững

cho ngành thủy sản. Hãy cùng Tạp chí Thủy sản Việt

Nam lắng nghe những chia sẻ từ ông.

Phóng viên: Người nuôi thủy

sản biết đến ông như một người

bạn gần gũi với vẻ giản dị, hào

sảng đậm chất Nam bộ hơn là

một vị Tiến sĩ. Thưa ông, điều gì

đã tạo nên sự khác biệt này?

TS. Trần Hữu Lộc: Có lẽ chính

cách sống và suy nghĩ của tôi

đã tạo nên sự khác biệt này. Tôi

luôn muốn giữ mọi thứ đơn giản, không bị ràng buộc bởi danh xưng hay hình ảnh trang trọng. Việc gán cho mình một danh hiệu chỉ khiến bản thân thêm áp lực và gò bó. Tôi muốn sống giản dị

như những người nông dân quanh

mình. Trong ngành thủy sản, mọi người dễ dàng kết nối với nhau nhờ chung niềm đam mê, vậy thì

tại sao tôi phải tạo khoảng cách chỉ vì một danh xưng?

Tôi học được rất nhiều từ bà con nông dân, đặc biệt là tinh

thần lạc quan và nguồn năng

lượng tích cực. Trong ngành này, ai cũng đối mặt với không ít khó

khăn, nhưng chính những thử

thách ấy lại trở thành động lực để

chúng ta không ngừng tìm cách vượt qua. Khi bạn có những “món

nợ” phải trả, bạn sẽ thấy mình tràn đầy năng lượng để giải quyết

chúng. Với tôi, mỗi ngày là một

bài toán cần lời giải và điều quan trọng nhất là luôn giữ sự lạc quan để tìm ra hướng đi đúng đắn. Ngành thủy sản có vô vàn điều

thú vị nhưng cũng đầy thách thức.

Tôi cảm nhận rõ điều đó qua từng

bước thăng trầm của ngành trong

mấy chục năm qua. Dẫu vậy, điều

khiến tôi luôn vững tin chính là tinh thần sáng tạo, bền bỉ của bà con nông dân – họ luôn tìm cách thích nghi và vượt qua khó khăn.

Chính tinh thần ấy đã truyền cho tôi niềm tin và động lực để tiếp tục hành trình của mình.

Phóng viên: Khi nhìn lại quá

trình hoạt động trong ngành thủy sản, có thành tựu nào đặc biệt khiến ông cảm thấy tự hào?

TS. Trần Hữu Lộc: Thật lòng

mà nói, tôi không nghĩ mình có

điều gì đáng tự hào về bản thân.

Nhưng điều khiến tôi tự hào nhất

chính là việc cùng những người

bạn đồng hành xây dựng nên một

đội ngũ tuyệt vời, biến ShrimpVet

thành một trung tâm nghiên cứu có sức ảnh hưởng quốc tế.

Hiện nay, phần lớn các nghiên cứu về đánh giá chất lượng sản phẩm, nguyên liệu, cũng như các liệu pháp và giải pháp ngăn ngừa bệnh trên thủy sản của nhiều công ty và tập đoàn lớn trên thế giới đều được thực hiện tại ShrimpVet. Trung tâm đã trở thành một nơi khởi nguồn cho sự đổi mới và sáng tạo trong ngành thủy sản toàn cầu. Điều tôi trân trọng nhất không phải là những thành tích cá nhân, mà là việc chúng tôi đã xây dựng được một đội ngũ hơn 100 thành viên đến từ nhiều quốc gia khác nhau. Các bạn ấy rất giỏi, chính họ đã góp phần làm nên những thành quả này. Đó mới thực sự là niềm tự hào lớn nhất của tôi.

Phóng viên: Ông đã chứng minh được nguyên nhân của dịch bệnh EMS trên tôm và đưa ra những phương pháp đối phó hiệu quả. Công trình này như một kỳ tích mới trong lĩnh vực thủy sản Việt Nam. Cảm xúc của ông khi đạt được thành tựu này và điều

TS. Trần Hữu Lộc: Căn bệnh này đã gây thiệt hại hàng tỷ đô la cho ngành thủy sản toàn cầu.

Thật lòng, tôi chưa bao giờ nghĩ mình là người tài giỏi. Tôi chỉ may mắn được học hỏi từ những giáo sư xuất sắc và làm việc với các

cộng sự tuyệt vời ở Việt Nam. Quan trọng hơn cả, tôi có cơ hội gắn bó trực tiếp với bà con nông dân. Chính từ những trải nghiệm đó, chúng tôi mới dần tìm ra nguyên nhân và giải pháp để phòng ngừa dịch bệnh.

Câu chuyện này bắt đầu hơn mười năm trước, khi tôi mất đến ba năm ròng rã chỉ để tìm ra một mầm bệnh. Ba năm là khoảng thời gian quá dài và cũng quá đắt đỏ. Nhưng chính trải nghiệm đầy thử thách đó đã thôi thúc tôi cùng các cộng sự xây dựng ShrimpVet – một trung tâm với đầy đủ nhân lực, trang thiết bị và nguồn lực tài

chính. Mục tiêu của chúng tôi là khi dịch bệnh bất thường xảy ra, có thể nhanh chóng tìm ra nguyên nhân và đưa ra giải pháp kịp thời, để bà con không còn phải chịu thiệt hại nặng nề như trước nữa. Chúng tôi luôn chủ động phối hợp với các cơ quan quản lý như Bộ NN&PTNT, Cục Thú y và Cục Thủy sản, kịp thời cung cấp thông tin và đưa ra những cảnh báo cần thiết. Điều này giúp các cơ quan đưa ra đánh giá chính xác và xây dựng chính sách phù hợp để hỗ trợ bà con. Chẳng hạn, năm vừa qua, chúng tôi đã nhanh chóng cảnh báo về bệnh TPD, giúp ngành chủ động ứng phó. Trước đó, vào năm 2015, ShrimpVet đã nghiên cứu và cung cấp thông tin quan trọng về bệnh EHP. Tất cả những nỗ lực này đều hướng đến mục tiêu giúp ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam giảm thiểu rủi ro, ứng phó hiệu quả với dịch bệnh và phát triển bền vững hơn.

Phóng viên: Theo ông, vấn đề lớn nhất mà ngành sản xuất tôm

Việt Nam đang gặp phải là gì?

Vấn đề này đã và đang ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển tổng thể của ngành thủy sản?

TS. Trần Hữu Lộc: Đây là một câu hỏi không dễ trả lời, bởi nếu liệt kê ra, ngành tôm của chúng ta có rất nhiều vấn đề. Nhưng theo tôi, thay vì liệt kê hết, chúng ta nên tập trung vào những vấn đề cốt lõi nhất để tìm cách giải quyết.

Vấn đề lớn nhất hiện nay chính là ngành tôm Việt Nam đang thiếu sức cạnh tranh. Trước đây, khi cung chưa vượt cầu, giá tôm rất tốt. Lúc đó, gần như người nuôi ở

bất kỳ quốc gia nào cũng có lợi

nhuận. Nhưng tình hình giờ đã

khác. Có hai nguyên nhân chính:

Thứ nhất, nhiều quốc gia đã

thành công trong việc nuôi tôm

với chi phí sản xuất thấp, tạo ra

áp lực cạnh tranh lớn.

Thứ hai, tăng trưởng kinh tế

toàn cầu chững lại trong những

năm gần đây do ảnh hưởng của

dịch bệnh COVID-19 và xung đột

địa chính trị, khiến sức mua giảm

mạnh. Biên lợi nhuận toàn ngành

vì thế cũng thu hẹp đáng kể.

Điều này tác động nặng nề đến

Việt Nam, bởi phần lớn ngành

tôm của chúng ta vẫn mang tính

nhỏ lẻ, manh mún, và rất dễ bị

tổn thương trước những biến

động thị trường. Theo tôi, điều

cốt lõi là chúng ta phải tìm ra

mô hình kinh doanh và cách vận

hành hiệu quả hơn, tập trung vào

giảm chi phí sản xuất và nâng

cao sức cạnh tranh. Đây mới

chính là giải pháp mấu chốt để

ngành tôm Việt Nam phát triển

bền vững.

Phóng viên: Trong nhiều năm qua, các sản phẩm thủy sản của Việt Nam, đặc biệt là con tôm đã nhiều lần bị cảnh

báo về dư lượng hóa chất và

kháng sinh, gây ra những hệ lụy nghiêm trọng. Ông đánh giá thế nào về vấn đề này?

TS. Trần Hữu Lộc: Thực ra, bất kỳ ngành sản xuất nông nghiệp nào, từ chăn nuôi heo, gà, bò đến cá, đều từng đối mặt với những vấn đề tương tự trong quá trình phát triển. Nếu nhìn vào lịch sử ngành chăn nuôi ở Hoa Kỳ, trước đây họ cũng nuôi heo và gà nhỏ lẻ, giống như Việt Nam. Nhưng rồi họ chuyển dần sang sản xuất quy mô lớn, hiện đại và chuyên nghiệp. Nhờ lợi thế kinh tế theo quy mô, giờ đây họ có thể nuôi gà, heo với chi phí rẻ hơn cả ở Việt Nam.

Ngành tôm Việt Nam cũng có một lịch sử phát triển tương tự. Từ những năm 1980 - 1990, chúng ta chủ yếu nuôi tôm quảng canh, tận dụng điều kiện tự nhiên. Khi đó, việc nuôi tôm nhỏ lẻ vẫn có lợi nhuận. Nhưng hiện nay, chúng ta phải cạnh tranh với các quốc gia như Ecuador, nơi các công ty sản xuất lên đến hàng chục nghìn, thậm chí cả trăm nghìn tấn tôm mỗi năm. Họ có lợi thế cạnh tranh vượt trội nhờ quy mô lớn.

Quay lại vấn đề dư lượng hóa chất và kháng sinh, thực tế không chỉ Việt Nam gặp phải. Các nước như Ấn Độ, Thái Lan, Trung Quốc hay Malaysia cũng có những thách thức tương tự. Thay vì chỉ tập trung vào phê phán, chúng ta cần nhìn nhận vấn đề và tìm giải pháp.

Nguyên nhân chính nằm ở

chỗ quy mô sản xuất của chúng ta còn nhỏ lẻ, chuỗi cung ứng nguyên liệu đầu vào phức tạp và thiếu sự minh bạch. Nhiều hộ nuôi không hiểu rõ các loại hóa

chất hoặc liều lượng sử dụng, dẫn đến rủi ro cao. Để khắc

phục, chúng ta cần chuyển đổi

sang mô hình sản xuất tập trung, quy mô vừa và lớn. Khi đó, việc kiểm soát đầu vào sẽ dễ dàng hơn, đảm bảo truy xuất nguồn gốc và giảm chi phí sản xuất.

Một điểm nữa tôi thấy rất đáng chú ý là cách tiếp cận thị trường của người nuôi tôm Việt Nam.

Hầu hết đều muốn nuôi tôm đến kích cỡ thật lớn vì cho rằng chỉ như vậy mới có lời. Song, nhu cầu thị trường lại không nằm ở những size tôm lớn. Thực tế, các size tôm nhỏ, phù hợp cho chế biến, mới có thời gian quay vòng vốn nhanh và tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Để thay đổi, chúng ta cần sự kết nối chặt chẽ giữa người nuôi và các nhà máy chế biến. Nếu có kế hoạch sản xuất rõ ràng, tuân theo tiêu chuẩn như ASC hay BAP, tôm Việt Nam sẽ có lợi thế lớn hơn khi xuất khẩu, nâng cao tính cạnh tranh và đạt giá trị cao hơn trên thị trường quốc tế.

Phóng viên: Sự phụ thuộc vào nguồn tôm bố mẹ nhập khẩu đang đặt ra thách thức lớn cho ngành tôm Việt Nam. Ông có nghĩ rằng đây là lúc để ngành tôm nước ta thực sự bứt phá, bằng cách tập trung hơn vào việc phát triển tôm bố mẹ gia hóa, từ đó đảm bảo sự tự chủ và bền vững? TS. Trần Hữu Lộc: Thật ra, tôi từng có cơ hội làm việc ở nhiều nước và tiếp xúc với các công ty sản xuất tôm bố mẹ hàng đầu thế giới. Điều đầu tiên cần khẳng định là việc nhập khẩu tôm bố mẹ đã giúp chúng ta đứng trên vai “những người khổng lồ”. Không thể phủ nhận rằng nguồn giống nhập khẩu đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển của ngành tôm Việt Nam. Khi dịch bệnh đốm trắng khiến tôm sú không còn mang lại sản lượng như trước, chính tôm thẻ chân trắng sạch bệnh từ nguồn nhập khẩu đã mở ra một bước đột phá. Tuy nhiên, đi cùng với đó cũng là nhiều thách thức, đặc biệt liên quan đến dịch bệnh và môi trường nuôi. Nghề nuôi tôm ngày càng đòi hỏi cao về năng lực kiểm soát dịch bệnh, vận hành mô hình an toàn sinh học và kiến thức chuyên môn. Thực tế, đã có sự

phân hóa rõ ràng giữa những người nuôi giỏi và những hộ nuôi gặp khó khăn.

Tại Việt Nam, sự phụ thuộc quá lớn vào nguồn tôm bố mẹ nhập khẩu là một vấn đề đáng suy ngẫm. Việc nhập khẩu không xấu, nhưng chúng ta chưa xây dựng được hành lang pháp lý rõ ràng để thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phát triển tôm bố mẹ gia hóa. Nhìn sang Ecuador, họ đã chọn lọc giống tôm kháng bệnh rất hiệu quả, cho phép nuôi quảng canh với mật độ thấp nhưng vẫn đạt năng suất cao.

Ở Việt Nam, chúng ta có khoảng 700.000 ha phù hợp với mô hình này. Nếu các trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp cùng phối hợp xây dựng chiến lược dài hạn về chọn lọc và gia hóa giống tôm, tôi tin rằng sẽ có nhiều doanh nghiệp tham gia và mang lại kết quả tích cực, dù phải mất thời gian.

Quan trọng nhất là chúng ta cần đa dạng hóa chiến lược phát triển, không chỉ tập trung vào nuôi công nghiệp mà còn khuyến khích các mô hình nuôi quảng canh. Việc chọn lọc và gia hóa giống tôm cần dựa trên những tiêu chuẩn rõ ràng, có kiểm định thú y minh bạch để đảm bảo chất lượng. Điều này sẽ giúp nông dân yên tâm sản xuất và tăng cường sức cạnh tranh cho ngành tôm Việt Nam.

Phóng viên: Theo ông, ứng dụng khoa học kỹ thuật có thực sự là “chìa khóa then chốt” để nâng cao năng suất và giảm giá thành sản phẩm trong ngành tôm không?

TS. Trần Hữu Lộc: Theo tôi, điều quan trọng nhất trong nuôi tôm là phải có nền tảng sản xuất vững chắc. Ví dụ, nếu ngay từ

đầu chúng ta phát triển mô hình nuôi nhỏ lẻ, manh mún với chi

Tôi luôn hy vọng người nuôi tôm sẽ dần thay đổi tư duy, xem mình như những chủ doanh nghiệp thực thụ – không chỉ giỏi kỹ thuật mà còn biết cách quản lý tài chính và vận hành mô hình kinh doanh hiệu quả. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể nâng cao sức cạnh tranh và phát triển bền vững trên thị trường quốc tế.

phí cao, thì dù có áp dụng công nghệ hiện đại đến đâu cũng khó

đạt hiệu quả.

Tôi luôn ví việc xây dựng một

trang trại nuôi tôm mới như thành

lập một công ty hay nhà máy sản xuất. Chúng ta cần tính toán kỹ

lưỡng về vốn đầu tư, cách vận

hành, chi phí cố định và biến đổi.

Chẳng hạn, chúng tôi vừa xây dựng một mô-đun nuôi tôm quy

mô 2.000 tấn, xem đây là mô hình

chuẩn để nhân rộng trong tương

lai. Mọi khâu đều được thiết kế bài

bản, từ quy mô sản xuất, mật độ

thả nuôi, sức tải của môi trường

đến hệ thống xử lý chất thải.

Khi đã xây dựng được nền tảng vững chắc, việc ứng dụng công

nghệ mới mới thực sự phát huy hết tiềm năng. Công nghệ ở đây

không chỉ là công nghệ thông

tin hay tự động hóa, mà còn là

công nghệ vi sinh, công nghệ môi trường. Ví dụ, chúng tôi đang

phát triển hệ thống dự báo thời

tiết theo thời gian thực cho các

vùng nuôi tôm, giúp đưa ra quyết định chính xác và kịp thời. Ngoài ra, các công nghệ cho ăn thông minh, quan trắc môi trường và quản lý dữ liệu đều giúp tối ưu hóa vận hành và giảm thiểu rủi ro.

Công nghệ giúp giảm nhân công, hạn chế sai sót từ các quyết định chủ quan, đồng thời tiết kiệm năng lượng, thức ăn và nguồn lực, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất. Một đồng đầu tư vào công nghệ có thể mang lại nhiều đồng lợi nhuận. Quan trọng nhất, nó giúp nông dân

ngày càng giàu lên nhờ sản xuất hiệu quả và bền vững hơn.

Phóng viên: Người trẻ muốn theo đuổi ngành nuôi trồng thủy sản cần chuẩn bị những gì để thành công và phát triển bền vững trong lĩnh vực này, thưa ông?

TS. Trần Hữu Lộc: Theo tôi, điều đầu tiên và quan trọng nhất là bạn phải thực sự yêu thích nghề này. Đây không phải là một

công việc dễ dàng mà đòi hỏi rất nhiều nỗ lực, sự kiên nhẫn và tâm huyết. Tiếp đó, cần hiểu rõ những yếu tố cốt lõi khi tham gia vào ngành. Khi giảng dạy, tôi thường hỏi sinh viên: “Nuôi trồng thủy sản là gì?” Nhiều bạn trả lời khá mơ hồ. Tôi luôn nhấn mạnh rằng đây là một ngành kinh tế. Nuôi trồng thủy sản không còn là hoạt động tự phát như ngày xưa, mà đã trở thành một lĩnh vực chuyên nghiệp, nơi sản phẩm phải đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng, truy xuất nguồn gốc và khả năng cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Vì vậy, ngoài kiến thức về kỹ thuật nuôi hay môi trường, bạn cần hiểu rõ về kinh tế và quản lý tài chính nếu muốn thực sự thành công. Nếu bạn hỏi nên học gì trước khi bắt đầu nuôi tôm, tôi sẽ khuyên: “Hãy học về tài chính trước khi học về bệnh tôm. Một trong những nguyên nhân khiến chi phí nuôi tôm ở Việt Nam cao là do quản lý tài chính chưa hiệu quả. Chẳng hạn, nếu người nuôi thiếu vốn, họ buộc phải mua nguyên liệu trả chậm hoặc vay nợ với lãi suất cao, khiến chi phí sản xuất đội lên đáng kể. Ngược lại, khi vận hành mô hình bài bản như một doanh nghiệp, với tài sản và chiến lược tài chính rõ ràng, người nuôi có thể dễ dàng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng với lãi suất thấp hơn”. Tôi luôn hy vọng người nuôi tôm sẽ dần thay đổi tư duy, xem mình như những chủ doanh nghiệp thực thụ – không chỉ giỏi kỹ thuật mà còn biết cách quản lý tài chính và vận hành mô hình kinh doanh hiệu quả. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể nâng cao sức cạnh tranh và phát triển bền vững trên thị trường quốc tế. Trân trọng cảm ơn ông!

Uyên Phương

Bảo vệ nguồn lợi thủy sản

NỀN TẢNG THỦY SẢN “XANH”

Nghị quyết 36-NQ/TW về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển

Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 là cơ sở quan trọng

trong việc thực hiện bảo tồn, bảo vệ, tái tạo phục hồi nguồn lợi thủy sản hướng đến ngành thủy sản xanh và bền vững.

Nguồn lợi thủy sản dồi dào nhưng không phải vô tận

Với bờ biển dài hơn 3.260 km, diện tích vùng biển rộng hơn 1 triệu km 2 , hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, Việt Nam

có nhiều tiềm năng, lợi thế từ biển. Nước ta nằm trong vùng có tính đa dạng sinh học cao, được xếp thứ 16 trong số các

quốc gia có đa dạng sinh học cao nhất trên thế giới, với khoảng hơn 11.000 loài sinh vật đã được phát hiện. Trong số đó, có khoảng 6.000

loài động vật đáy, 2.038 loài cá, 225 loài tôm biển, 15 loài rắn

biển, 12 loài thú biển, 5 loài rùa biển và 43 loài chim nước, 653 loài rong biển, 657 loài động vật

phù du; 94 loài thực vật ngập mặn, 14 loài cỏ biển, khoảng hơn 400 loài san hô… Các loài này cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình, có năng suất sinh học cao và quyết định toàn bộ năng suất sơ cấp của toàn vùng biển.

Các đặc trưng nêu trên tạo nên tính đa dạng về cảnh quan

tự nhiên, sinh thái và nguồn lợi hải sản, đóng vai trò quan trọng cho phát triển kinh tế biển như: cung cấp nguồn lợi thủy sản phục vụ khai thác thủy sản, tạo nguồn giống cho nuôi trồng thủy sản, làm thực phẩm chức năng, khoa học, giáo dục, bảo vệ đại dương, du lịch, phát triển kinh tế địa phương...

Kết quả điều tra giai đoạn 2010 - 2020 tại nước ta cho thấy, trữ lượng trung bình nguồn lợi hải sản ở vùng biển Việt Nam ước tính khoảng 3,95 triệu tấn, trong khi sản lượng khai thác khoảng 3,66 triệu tấn (năm 2022), vượt quá giới hạn cho phép khai thác. Nguồn lợi đã và đang suy giảm, đặc biệt là nhóm hải sản tầng đáy. Theo ông Lê Trần Nguyên Hùng, Phó Cục trưởng Cục Kiểm ngư, các hệ sinh thái biển đang đứng trước nhiều nguy cơ đe dọa và rủi ro ngày càng tăng từ các hoạt động phát triển kinh tế.

“Tình trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo tồn biển ngày càng tinh vi và chưa được giải quyết triệt để; tổ chức bộ máy quản lý khu bảo tồn biển chưa thống nhất giữa các địa phương. Nguồn nhân lực và kinh phí đầu tư cho các khu bảo tồn còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu thực tế. Điều này đã và đang làm suy giảm hệ sinh thái biển, nguồn lợi thủy sản và sinh kế của người dân trong và xung quanh các khu bảo tồn, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế của địa phương và phát triển bền vững kinh tế biển”, ông Lê Trần Nguyên Hùng chia sẻ. Trong khi đó, theo ông Vũ Duyên Hải, Phó Cục trưởng Cục Thủy sản, một trong những nguyên nhân của tình trạng suy giảm nguồn lợi thủy sản là do mất cân đối giữa khai thác và khả năng phục hồi của nguồn lợi. Tài nguyên hải sản xa bờ của Việt Nam rất phong phú, trong khi đội tàu nước ta năng lực yếu, chủ yếu khai thác ven bờ, vùng lộng, cường lực khai thác vượt ngưỡng cho phép.

Bảo tồn, bảo vệ, tái tạo nguồn lợi thủy sản

Một trong số những chủ trương lớn của Nghị quyết 36NQ/TW chính là nuôi trồng và khai thác hải sản, hay còn gọi

Ngày 19/12/2024, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà ký Quyết định số 1598/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch, chính sách và giải pháp thực hiện Quy hoạch bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Yêu cầu đặt ra là bảo đảm theo hướng tăng quy mô diện tích các khu bảo tồn biển, khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, khu cư trú nhân tạo cho

loài thủy sản biển; kết hợp việc điều chỉnh số lượng tàu khai thác phù hợp với nguồn lợi thủy sản; giảm cường lực khai thác; kết hợp chuyển đổi nghề, ngư cụ khai thác thuỷ sản ảnh

hưởng lớn đến môi trường, hệ sinh thái sang các nghề thân

thiện với môi trường và nguồn lợi thủy sản.

là nuôi biển. Theo đó, chuyển từ nuôi trồng, khai thác hải sản theo phương thức truyền thống sang công nghiệp, ứng dụng công

nghệ cao. Tổ chức lại hoạt động khai thác hải sản theo hướng giảm khai thác gần bờ, đẩy mạnh khai thác tại các vùng biển xa bờ

và viễn dương phù hợp với từng

vùng biển và khả năng phục hồi

của hệ sinh thái biển đi đôi với

thực hiện đồng bộ, có hiệu quả

công tác đào tạo, chuyển đổi

nghề cho ngư dân…

Để thực hiện các chủ trương và

mục tiêu Nghị quyết đã nêu, Bộ

NN&PTNT đã ban hành và triển

khai thực hiện Kế hoạch hành

động của Bộ; Tỉnh ủy, UBND các

tỉnh thành phố ven biển đã xây dựng chương trình, kế hoạch tổ

chức triển khai thực hiện nghị

quyết. Đồng thời, Bộ NN&PTNT

đã tham mưu trình Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt và ban

hành 4 nhiệm vụ quan trọng:

Quy hoạch bảo vệ và khai thác

nguồn lợi thủy sản thời kỳ 20212030, tầm nhìn đến năm 2050;

Chương trình điều tra, đánh giá

tổng thể nguồn lợi thủy sản và

môi trường sống của các loại thủy sản; Chương trình quốc gia

về bảo vệ và phát triển nguồn lợi

thủy sản đến năm 2030 và Đề án

mở rộng, thành lập mới các khu

bảo tồn biển, khu bảo vệ nguồn

lợi thủy sản, phục hồi các hệ sinh

thái biển đến năm 2030 để đảm

bảo diện tích các vùng biển, ven biển đạt 6% diện tích tự nhiên

vùng biển Việt Nam.

Thự c hiệ n mục tiêu phát triển

thủy sản bền vững, Thủ tướng

Chính phủ, các bộ, ban, ngành và các đ ịa phương đã ban hành

nhiều chính sách, đề án, chương trình xoay quanh 3 trụ cột: Giảm khai thác, tăng nuôi trồng và đẩy mạnh bảo tồn biển, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản.

Một trong những chính sách quan trọng là “Đề án chuyển đổi một số nghề khai thác hải sản ảnh hưởng đến nguồn lợi và môi trường sinh thái” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại

Quyết định số 208/QĐ-TTg, ngày 10/3/2023. Trong đó, ưu tiên chuyển đổi các nghề khai thác xâm hại, nghề khai thác ven bờ sang các sinh kế thay thế, đi cùng

với các hoạt động đào tạo, tập huấn cho ngư dân, đưa chủ tàu, ngư dân hoạt động riêng lẻ vào các HTX, chuỗi liên kết để tăng

hiệu quả nghề khai thác thủy sản. Báo cáo của Cục Thủy sản, sau hơn 3 năm thực hiện Chiến lược phát triển thủy sản và gần

2 năm triển khai thực hiện Đề án chuyển đổi nghề, một số mô hình đã phát huy hiệu quả tích cực, thu hút sự quan tâm của cộng đồng

ngư dân và các thành phần kinh tế, xã hội khác tại các địa phương như Quảng Ninh, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Bình Định,... Đối với việc chuyển đổi sinh kế cho cộng đồng ngư dân, các địa phương đều xác định nghề lưới kéo, lưới rê thu ngừ là những nghề xâm hại nguồn lợi và hệ sinh thái, đã xây dựng tiêu chí đặc thù nhằm hạn chế phát triển, đặc biệt là nghề lưới kéo. Do đó, các tỉnh, thành phố ven biển đã tổ chức triển khai thực hiện tốt việc cắt giảm những tàu cá làm nghề lưới kéo có chiều dài lớn nhất từ 15 m trở lên, tàu cá có tuổi thọ từ 15 năm trở lên... Ông Trần Đình Luân, Cục trưởng Cục Thủy sản cho rằng, nếu khai thác thủy sản ven bờ không được tổ chức hợp lý thì nguồn lợi thủy sản vẫn suy giảm. “Việc chuyển đổi nghề, tạo sinh kế bền vững cho ngư dân ven biển là chủ trương lớn. Để chuyển đổi nghề hiệu quả cần có sự tham gia, góp ý của người dân với mục tiêu tạo việc làm, có thu nhập bền vững. Hiện đã có một số mô hình hay, hiệu quả nhưng để nhân rộng, cần có sự chung tay của lãnh đạo địa phương cũng như cộng đồng để xây dựng nông thôn mới ven biển trở thành nơi đáng sống”, ông Luân nhấn mạnh.

Theo Quy hoạch bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, đến năm 2030, cả nước còn khoảng 83.600 tàu cá. Để đạt được mục tiêu này, lộ trình giảm số lượng tàu cá và chuyển đổi sinh kế cho cộng đồng ngư dân theo đề án chuyển đổi một số nghề khai thác hải sản ảnh hưởng đến nguồn lợi và môi trường sinh thái cần được bảo đảm.

CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA

Nuôi tôm giảm phát thải

trong

vấn đề sử dụng thức ăn

Nghiên cứu cho biết, trong nuôi tôm có đến 94% tác động môi trường

đến từ nguyên liệu thô chế biến thức ăn. Do đó, hệ thống nuôi tôm

bền vững hướng đến không phát thải ròng (Net Zero) đang tập trung

giải quyết vấn đề sử dụng thức ăn, thay đổi những thói quen theo kinh nghiệm và quan niệm không còn phù hợp.

Quan tâm toàn bộ vòng đời sản phẩm

Trong nuôi tôm, từ nguyên liệu sản xuất thức ăn, ao nuôi sử dụng điện và vật tư đến chất thải đều sinh ra khí H2 S, NO2, NO3, CO2, CH3…gây hại môi trường.

Nuôi tôm-rừng và tôm-lúa dù có tác dụng bảo vệ môi trường khá tốt nhưng vẫn có phát thải. Tập đoàn Minh Phú tổ chức nuôi tômrừng thành công với diện tích lớn nhưng Tiến sỹ Lê Quang Huy vẫn thẳng thắn chỉ ra: “Lượng hữu cơ phân hủy yếm khí sinh ra khí CH4 vẫn gây các tác động trực tiếp đến tôm và môi trường”. Nhiều nghiên cứu đã xác định, nuôi tôm hiện tại cứ mỗi ký là phát thải hơn 10 kg CO2 và trong đó, nguyên liệu thô sử dụng làm thức ăn là nguyên nhân chính gây ra khí thải, chiếm đến 94% tác động xấu cho môi trường. Hệ thống nuôi tôm bền vững có thể đạt được Net Zero khi quan tâm toàn bộ vòng đời (chuỗi giá trị) sản phẩm thức ăn. Cụ thể là, thay đổi thành phần chế biến thức ăn có hàm lượng carbon thấp hơn, giảm ảnh hưởng từ việc thay đổi mục đích sử dụng đất và nhà cung cấp thức ăn cam kết sản phẩm giảm phát thải.

Phía người nuôi tôm, để giảm tác động lên môi trường cần biết rõ: Nguyên liệu làm thức ăn được sản xuất/trồng trọt ở đâu, ảnh hưởng đến môi trường như thế nào? Các dữ liệu tác động đến môi trường được minh bạch trong toàn bộ vòng đời sản phẩm, cả cách thức đối phó với giá nguyên liệu thô khi biến động mạnh. Trong hành trình đến với cam kết Net Zero, hệ thống nuôi tôm của Việt Nam đã có một số doanh nghiệp nghiên cứu và hành động đạt được kết quả đáng khích lệ. Các doanh nghiệp chứng minh hiệu quả của việc quan tâm toàn bộ vòng đời sản phẩm, chứ không phải chỉ một

số giai đoạn. Vòng đời sản phẩm

thức ăn có 7 giai đoạn: 1/Sản xuất nguyên liệu; 2/Vận chuyển

nguyên liệu; 3/Sản xuất thức ăn; 4/Đóng gói; 5/Vận chuyển thức

ăn; 6/Sử dụng thức ăn và thời hạn sử dụng; 7/Vận chuyển tôm

đến khách hàng cuối cùng.

Tối ưu hóa chi phí thức ăn

Trong mục tiêu giảm phát thải đã đặt ra vấn đề giảm nguyên liệu từ biển, tăng nguyên liệu thực vật có chứng chỉ. Một câu hỏi đặt ra, vậy có đảm bảo hàm lượng đạm hay không và hàm lượng đạm trong thức ăn cho tôm bao nhiêu là

Lợi ích giảm phát thải trong ngành tôm không cần bàn cãi. Đó là, sản phẩm tôm nuôi đảm bảo đủ điều kiện để cạnh tranh quốc tế dựa vào tiêu chí nuôi tôm hạn chế phát thải. Việc làm thể hiện trách nhiệm với môi trường và với nguồn tài nguyên nước, để ngành nuôi tôm phát triển bền vững, giảm dịch bệnh. Đặc biệt, giảm giá thành sản xuất và nâng cao chất lượng tôm nguyên liệu.

Nghiên cứu cũng cho hay, khí

phát thải từ thực vật chiếm 62%

lượng CO2; từ biển chiếm 20%

lượng CO2; từ sản xuất chiếm 9%

lượng CO2; còn lại từ công thức

thức ăn, hoạt động kinh doanh.

Từ đó, để giảm khí phát thải

cần lựa chọn nhà cung cấp và

xuất xứ nguyên liệu, chỉ sử dụng

chẳng hạn đậu nành có chứng

nhận không phá rừng; giảm

nguyên liệu từ biển, và chỉ sử

dụng nguyên liệu của thành viên

chương trình cải thiện nghề cá.

Việc sản xuất, ưu tiên lựa chọn sản phẩm của năng lượng xanh, giảm nhựa, có chứng nhận ASC.

Xem xét công thức thức ăn để ưu

tiên sử dụng sản phẩm Optiline formulation, các nguyên liệu mới.

Còn từ hoạt động kinh doanh để

lựa chọn, trồng rừng ngập mặn và các mô hinh hình SUCCESS, Shrimp Tech Vietnam.

Tóm lại, quan tâm toàn bộ vòng đời sản phẩm là cần nhiều

hơn các dữ liệu sơ cấp; còn kinh nghiệm và quan niệm cũ không

còn phù hợp. Tư duy vòng đời

sản phẩm là phương pháp tiếp

cận đa tác động nhằm xây dựng

hệ thống nuôi tôm bền vững.

thích hợp? Một số nghiên cứu cho con tôm đã tập trung vào đánh giá mức độ tối đa của từng nguyên liệu khác nhau trong khẩu phần; xác

định khả năng tiêu hóa của từng loại nguyên liệu khác nhau; xác định mức dinh dưỡng tối ưu của các chất dinh dưỡng thiết yếu.

Những nghiên cứu thức ăn cho tôm từ 2016 đã bắt đầu giảm bột cá, điều chỉnh các chất dinh dưỡng thiết yếu; xem xét năng suất tương đương thức ăn tiêu chuẩn; thử nghiệm độ ngon miệng của nhiều nguyên liệu thay thế khác nhau; đảm bảo chất lượng thức ăn khi loại bỏ bột cá trong công thức.

Từ năm 2019, đã có nghiên cứu hành vi/đặc tính của tôm; năm 2020 sử dụng thức ăn không bột cá; năm 2021 sử dụng thức ăn không bột cá và không dầu cá, nguyên liệu đi kèm yêu cầu có giấy chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế. Những nghiên cứu trên diễn ra trong bối cảnh thiếu hụt nguyên

liệu biển, biến động giá nguyên liệu biển càng cho thấy tình hình cấp thiết của vấn đề. Các nghiên cứu đã chú trọng xem xét hàm lượng đạm trong

thức ăn tôm thẻ thương phẩm; các quốc gia trên thế giới thường đảm bảo hàm lượng đạm từ 3035%; còn ở Việt Nam cao nhất đến 38%. Vậy hàm lượng dinh dưỡng tối ưu là bao nhiêu? Bởi vì, hàm lượng dinh dưỡng tối ưu được cung cấp trong thức ăn, vật nuôi sẽ hoạt động hiệu quả hơn; đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng tối ưu thì hiệu quả dinh dưỡng cũng được tối đa hóa. Còn ngược lại, thiếu hay thừa đều không có lợi. Một số nghiên cứu cho biết, không có sự khác biệt nhiều về năng suất nuôi khi thức ăn có hàm lượng đạm trên 30%, nhưng lại có ảnh hưởng tới chất lượng nước. Thức ăn có độ đạm quá cao, có thể tạo ra những điều kiện khó khăn hơn trong ao nuôi tôm. Chẳng hạn, nghiên cứu của Skretting Vietnam qua thử nghiệm 4 hồ nuôi tôm thẻ chân trắng trong 8 tuần với con giống có trọng lượng 4 g. Từng hồ cho tôm ăn khẩu phần khác nhau: Thức ăn ở hồ đối chứng có hàm lượng đạm 38%, hồ thứ 2 bột cá thấp nhưng hàm lượng đạm vẫn 38%, hồ thứ 3 bột cá thấp với hàm lượng đạm 36%, hồ thứ 4 bột cá rất thấp với hàm lượng đạm 36%. Kết quả, tỷ lệ sống đều trên 80% cho mọi khẩu phần, không có sự khác biệt đáng kể về FCR và tốc độ tăng trưởng giữa các nghiệm thức ăn. Tuy nhiên, khi sử dụng thức ăn có tỷ lệ đạm thấp hơn thì chi phi thấp hơn, nhất là giảm bột cá rất thấp cũng giảm

MÔ HÌNH TÔM - LÚA

CÓ PHẢI LÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG?

mắt, trong điều kiện hệ thống thủy lợi chưa hoàn thiện, thì mô hình tôm/lúa là giải pháp tình thể có thế mang lại lợi ích cho người lao động.

Một số biện pháp canh tác nếu

được cải thiện như chọn giống thích hợp, tối ưu hóa việc điều tiết hệ thống nước và đào tạo kỹ thuật sẽ giúp mô hình này phát huy hiệu quả cao hơn. Tuy vậy, để phát triển bền vững cần quy hoạch, phát triển các vùng canh tác chuyên canh tôm và lúa.

Mô hình nuôi tôm - lúa là một phương thức canh tác kết hợp giữa nuôi tôm và trồng lúa trên cùng một diện tích đất trong năm. Mô hình này đang được áp dụng ở vùng ven biển (nơi chưa có hoặc có hệ thống thủy lợi nhưng chưa hoàn chỉnh), đặc biệt là ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Đây là mô hình nuôi tận dụng nước mặn trong mùa khô để nuôi tôm và nước ngọt trong mùa mưa để trồng lúa, hoặc tôm và lúa cùng một địa điểm và thời gian.

Mô hình tôm - lúa có hai loại hình canh tác

- Một vụ tôm/một vụ lúa (luân canh): Mùa khô khi bị xâm mặn thì nuôi tôm, mùa mưa nước nhạt (độ mặn thấp) thì trồng lúa. Lúa sẽ tận dụng bùn thải đáy ao nuôi tôm để phát triển, làm sạch nền đáy cho vụ tôm sau. Tuy vậy, do nền đáy là bùn nhão, mức nước nông nên cũng chỉ nuôi tôm theo hình thức quảng canh hoặc quảng canh cải tiến.

- Trồng lúa kết hợp nuôi tôm (xen canh): Ruộng lúa được cải tạo mương xung quanh hoặc xen vào ô trồng lúa để tăng độ sâu cho nuôi thả tôm. Phương thức nuôi này thực tế vẫn là tôm và lúa tách rời nhau (tôm sống ở mương còn lúa trên mặt ruộng). Tuy có tận dụng được khoảng không gian mặt nước trồng lúa lúc ban đầu, nhưng ít hiêu quả, vì khi lúa tốt thì che phủ và sinh vật đáy làm thức ăn cho tôm cũng hạn chế.   Lợi ích của mô hình tôm - lúa bao gồm: - Tăng thu nhập cho người dân nhờ việc luân canh, xen canh giữa tôm và lúa, thu hoạch được cả hai loại sản phẩm và tận dụng

được tiềm năng diện tích trong điều kiện thiếu đầu tư thủy lợi. Theo báo cáo thì năng suất tôm trong mô hình dao động từ khoảng 200 - 500 kg/ha/vụ và lúa thường đạt khoảng 3 - 6 tấn/ha/vụ.  - Việc luân canh giữa nuôi tôm và trồng lúa giúp cải thiện chất lượng đất, giảm hiện tượng ô nhiễm nền đáy (tận dụng chất thải từ ao nuôi tôm để trồng lúa) từ đó có thể giảm ô nhiễm môi trường nước, hạn chế dịch bệnh và

tận dụng chu kỳ có tính mùa vụ tự nhiên (mùa mưa và mùa khô) để canh tác.  Những bất cập:  - Về cơ sở khoa học: Con tôm và cây lúa có điều kiện sống khác nhau. Cây lúa sống trong nước ngọt, đáy bùn giàu chất hữu cơ, mức nước thấp; còn tôm cần nước mặn - lợ, đáy cứng, sạch, mức nước sâu và hàm lượng O 2 cao. Do vậy, nếu nuôi xen canh thì tôm và lúa đều sống trong điều kiện sinh thái bất bình thường.

- Mô hình nuôi luân canh phụ thuộc vào điều kiện mùa vụ tự nhiên giữa mùa nước mặn (mùa khô) và mùa nước ngọt (mùa mưa), nếu thời tiết biến đổi thất thường, mùa mưa kéo dài hoặc hạn hán, thì sự luân chuyển giữa tôm và lúa sẽ gặp khó khăn.

- Nếu không quản lý tốt môi trường có thể gây tích tụ mầm bệnh và vi sinh vật có hại ảnh hưởng đến cây lúa và tôm. Đặc biệt, tôm có thể dễ bị nhiễm bệnh khi hệ sinh thái nước thay đổi, không đảm bảo.

- Mô hình tôm - lúa đòi hỏi nông dân phải có kiến thức và kỹ thuật cao trong nông nghiệp và nuôi thủy sản trong việc quản lý chất lượng nước, cải tạo đất, khí tượng thủy văn và quản lý, chăm sóc. Nếu không có sự đào tạo cơ bản, người nông dân sẽ gặp khó khăn trong quá trình canh tác.

- Để có hệ thống canh tác tôm - lúa hiệu quả, nông dân cần đầu tư vào hệ thống ao, mương dẫn nước trong diện tích canh tác của mình, và thiết bị quản lý chất lượng nước sẽ gây áp lực về tài chính đối với những hộ có nguồn vốn hạn chế.

- Nếu sử dụng quá lượng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hoặc kháng sinh cho mô hình tôm - lúa, môi trường đất và nước có thể bị ô nhiễm, làm giảm chất lượng đất và nước trong dài hạn, ảnh hưởng đến vụ mùa sau.

Xuất xứ và thảo luận

- Theo nghị quyết Số: 09/2000/NQ-CP của

Chính Phủ về một số chủ trương và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp ngày 15 tháng 06 năm 2000, “Với các loại đất sản xuất lúa kém hiệu quả thì chuyển sang sản xuất các loại sản phẩm khác có hiệu quả cao hơn, như đất khô hạn chuyển sang trồng màu, đất trũng và đất ven biển chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản”, dẫn đến hàng loạt diện tích nông nghiệp, diêm nghiệp kém hiệu quả của các tỉnh ven

biển chuyển sang nuôi trồng thủy sản. Do công tác quy hoạch và thủy lợi chưa đáp ứng kịp nên người dân lấy nước mặn, lợ để nuôi thủy sản từ đó hình thành vùng “chồng lấn” và mô hình tôm - lúa phát triển. - Hiện nay, diện tích nuôi tôm/lúa tại vùng ĐBSCL đạt khoảng 200.000 ha, với sản lượng gần 120.000 tấn mỗi năm. Các tỉnh tập trung phát triển mạnh mô hình này gồm Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu và Sóc Trăng. Theo báo cáo, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ mở rộng diện tích tôm - lúa ĐBSCL lên 250.000 ha.  - Theo thống kê thì lợi nhuận thu được trong mô hình tôm/lúa cao hơn trồng chuyên canh lúa từ 5 - 8 lần. Tuy nhiên, nếu so sánh giữa mô hình chuyên lúa, tôm/lúa và chuyên tôm thì mô hình nuôi chuyên tôm sẽ có hiệu quả kinh tế cao hơn rất nhiều, tận dụng được tiềm năng diện tích và chủ động kiểm soát được môi trường sinh thái.  - Theo nghị quyết số 09/2000/NQ-CP của Chính phủ, chỉ có chủ trương chuyển các loại đất sản xuất lúa kém hiệu quả sang sản xuất các loại sản phẩm khác có hiệu quả cao hơn, như đất trũng và đất ven biển chuyển sang nuôi trồng thủy sản. Tuy vậy, nếu chuyển đất nông nghiệp đang canh tác hiệu quả sang nuôi thủy sản sẽ dẫn đến đất bị nhiễm mặn, khó cải tạo để tiếp tục sản xuất nông nghiệp từ đó sẽ ảnh hưởng đến an ninh lương thực.

Về tổng thể, mô hình tôm/lúa chỉ là giải pháp tình thế (trong lúc công tác thủy lợi chưa theo kịp) và chỉ nuôi tôm theo hình thức quảng canh hoặc quảng canh cải tiến. Để phát triển bền vững cần thiết phải đầu tư cải tạo, hoàn thiện hệ thống thủy lợi để tạo vùng chuyên nuôi tôm và vùng chuyên trồng lúa. Xét đến góc độ sinh học, sinh thái, kinh tế, môi trường và khả năng quản lý sản xuất thì phương thức canh tác chuyên canh tôm và chuyên canh lúa là giải pháp phát triển bền vững. Điều này không những tối ưu hóa về năng suất của từng đối tượng mà còn giảm thiểu những xung đột về sinh thái trong nội tại trong mô hình tôm/lúa/tôm.

Mô hình nuôi tôm 3 Tốt - Ao đất mật độ thấp

ĐẦU TƯ THẤP NHƯNG LỢI NHUẬN KHÔNG THẤP

Trong xu thế công nghệ hóa ngành nuôi tôm

hiện nay, đa số các cơ quan chuyên ngành,

các công ty hoạt động trong lĩnh vực thủy

sản và người nông dân đều chú trọng tập

trung khai phá và phát triển các diện tích nuôi

tôm ao bạt mật độ cao, nhưng lại bỏ quên

một phần chiếm tỷ lệ không hề nhỏ trong

tổng diện tích nuôi tôm ở Việt Nam, đó chính

là các diện tích ao đất mật độ thấp.

Theo thống kê sơ bộ, trên toàn quốc hiện nay diện tích ao đất mật độ

thấp chiếm trên 50% tổng diện

tích nuôi tôm cả nước. Bên cạnh

các hiệu quả mang lại của ao

bạt mật độ cao, thì ao đất mật

độ thấp vẫn có những ưu điểm

rất khó thay thế được như: chi phí đầu tư/kg tôm thấp, an toàn

hơn với môi trường, tốc độ lớn tôm nhanh hơn, phù hợp với cả những khu vực độ mặn thấp, áp dụng được cho những khu vực nguồn nước hạn chế… Tuy nhiên, hiện nay đa số bà con nông dân nuôi tôm ao đất theo lối canh tác tự phát không có

đầu tư quy trình kế hoạch rõ ràng, vì vậy, không thể mang lại hiệu quả như mong muốn. Nhìn nhận được khoảng trống quan trọng này, công ty UniPresident Việt Nam sau khi thành công với Mô hình 3 Tốt trên ao bạt, đã tiếp tục nghiên cứu và nhân rộng thành công Mô hình 3 Tốt - Ao đất mật độ thấp, mô hình với các ưu điểm lớn:

- Chi phí thấp - Dễ áp dụng - Lá chắn diệt khuẩn - Bảo vệ tối ưu

- Tăng trưởng nhanh - Tỷ lệ thành công cao

Trong quá trình nghiên cứu mô hình, chúng tôi luôn hướng đến

mục tiêu xây dựng nên một mô

hình đơn giản và dễ áp dụng, quy trình nuôi và sản phẩm phải đạt hiệu quả cao nhưng chi phí phải thấp, phù hợp với tình hình của các diện tích ao đất truyền thống hiện nay.

Với 216 ao thí điểm đã tiến hành

(đa số tiến hành ở khu vực miền Tây và miền Nam Việt Nam), trong

đó có 156 ao đã thu hoạch, tỷ lệ có lợi nhuận chiếm 126 ao, tương

đương với 81%.

Điểm thiết yếu tạo nên thành công của mô hình phải kể đến đó chính là hệ thống sản phẩm hỗ trợ nuôi trồng thủy sản do công ty nghiên cứu sản xuất và phân phối, đảm bảo cung cấp đến người nuôi tôm với mức giá hợp lý:

1. Unilight + BSL: Vi sinh xử lý nước

2. Vi sinh 3K : Loại bỏ Vibrio bên trong đường ruột

3. King Khoáng: Khoáng chất chất lượng cao, giá thành hợp lý

4. Gut Pro: Tạt sau thả tôm –nâng cao đề kháng

5. UP Gut – UP Hepatic: Tăng cường sức khỏe đường ruột gan tụy

Các kết quả thống kê dựa trên kết quả nuôi các ao thí điểm cho thấy, với kích cỡ tôm thu hoạch trung bình 50 con/kg thì chi phí nuôi tôm theo Mô hình 3 Tốt – Ao đất mật độ thấp như sau:

- Chi phí xử lý nước ban đầu:

4.800 đồng/kg tôm

- Chi phí vi sinh & sản phẩm

hỗ trợ nuôi trồng: 15.000 đồng/ kg tôm

- Tổng chi phí nuôi: 74.000

VND/kg tôm

Với chi phí này, trong những

thời điểm giá tôm thấp kỷ lục

ở khu vực Tây Nam Việt Nam, bà con nông dân vẫn có thể thu được lợi nhuận an toàn

cùng Mô hình 3 Tốt - Ao đất

mật độ thấp.

Một trong những điển hình thí

điểm thành công với Mô hình 3

Tốt là Khách hàng anh Trần Văn

Chiến tỉnh Bạc Liêu:

Trước khi biết đến và áp dụng

Mô hình nuôi tôm 3 Tốt, các vụ

nuôi trước của anh Chiến đều

không thuận lợi, gặp nhiều khó

khăn trong việc quản lý môi

trường ao nuôi, bùng phát dịch

bệnh dẫn đến thua lỗ. Vụ này áp dụng theo mô hình 3 Tốt dành

cho Ao đất mật độ thấp của Công ty Uni-President Việt Nam, anh đánh giá rất cao hiệu quả mà mô hình mang lại. Anh Chiến tâm

đắc nhất với sản phẩm vi sinh quang hợp Unilight và vi sinh xử lý nước BSL làm màu nước ổn định, giảm chất hữu cơ, khí độc, sản phẩm chất lượng tốt với mức giá thành thấp, phù hợp với các

khách hàng nuôi tôm ao đất. Sau 90 ngày nuôi, với 1 ao nuôi 4000m2, thả 20 vạn giống, anh đã thu về 5.7 tấn tôm size 29.5 con/kg, lợi nhuận đạt 798 triệu đồng. Anh đã tiếp tục chia sẻ lan tỏa Mô hình đến các khách hàng ao đất khác đang gặp khó khăn trong khu vực. Nuôi tôm an toàn bền vững đã trở thành bài toán chung của thế giới không chỉ riêng Việt Nam. Nghiên cứu mô hình nuôi chi phí thấp, đồng thời đảm bảo chất lượng tôm thành phẩm an toàn không kháng sinh, tạo thu nhập bền vững cho người nông dân, đó là kim chỉ nam phát triển của Uni-President Việt Nam. Đội ngũ nhân viên Uni-President luôn sẵn sàng phục vụ và hỗ trợ khách hàng, hãy liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại HotLine 02743.732.723 hoặc hệ thống đại lý, nhân viên trên toàn quốc để được tư vấn và hướng dẫn về Mô hình nuôi tôm 3 Tốt!

Uni-President

Vi-CHLORiNE - Diệt tảo độc, tan nhanh, sạch nước

SẢN PHẨM VIỆT DÀNH CHO NGƯỜI VIỆT

Nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và

nâng cao hiệu quả xử lý nước, Công ty Cổ phần

Hóa chất Việt Trì (VITRICHEM) đã cho ra mắt sản

phẩm Vi-CHLORiNE do người Việt Nam tự sản xuất

từ tháng 6/2024.

Ứng dụng của Vi-CHLORiNE –

Calcium Hypochlorite:

Calcium Hypochlorite có công thức hóa học là Ca(ClO)2 . Hóa chất thường được gọi với các tên gọi khác như: hóa chất Chlorine, chất khử trùng nguồn nước; thuốc diệt khuẩn ao nuôi Clorin; hóa chất xử lý nước Clorin… Hóa chất này có tính sát khuẩn và ôxy hóa mạnh nên thường được dùng để khử trùng, diệt khuẩn, tẩy trắng, diệt rong rêu, tảo… trong nhiều lĩnh vực:

- Xử lý nước trong nuôi trồng thủy sản

- Xử lý nước thải sản xuất, nước thải sinh hoạt

- Xử lý nước bể bơi

- Xử lý khử trùng nước sinh hoạt

- Xử lý khử trùng trang trại chăn

nuôi, dụng cụ nuôi trồng

- Vệ sinh, khử trùng nhà máy, thiết bị, dụng cụ chế biến thực phẩm

- Ứng dụng trong ngành công nghiệp giấy

Đặc điểm nổi bật của sản

phẩm Vi-CHLORiNE

- Hàm lượng Chlorine hoạt tính

≥ 70%, đáp ứng Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về sản phẩm xử lý

môi trường nuôi trồng thủy sản; có đầy đủ chứng nhận, giấy phép sử dụng trong lĩnh vực thủy sản

- Khả năng khử trùng, diệt khuẩn, diệt rong rêu, tảo độc

mạnh

- Tan nhanh, sạch nước, tiết kiệm sức lao động

- Hạt Vi-CHLORiNE không có bụi mịn, an toàn cho sức khỏe người dùng

- Sản xuất theo dây chuyền công nghệ hiện đại, hạn chế việc Clo bị phân hủy chậm trong không khí ẩm, từ đó làm giảm bớt mùi khó chịu đặc trưng của Clo

- Được sản xuất trong nước, nguồn cung ổn định

- Tiết kiệm chi phí hơn so với

các sản phẩm nhập khẩu có

cùng phân khúc

- Đội ngũ cán bộ kỹ thuật

chuyên môn luôn sẵn sàng tư

vấn, hỗ trợ kỹ thuật trong quá

trình sử dụng

Với các ưu thế trên, tuy mới

vào thị trường nhưng sản phẩm

Vi-CHLORiNE đang được sử

dụng rộng rãi tại các farm nuôi

tôm khu vực Đồng Bằng Sông

Cửu Long và nhận được sự tin

dùng từ bà con nông dân.

Về đơn vị sản xuất

Công ty Cổ phần Hóa chất Việt

Trì tiền thân là Nhà máy Hóa chất

Số 1 Việt Trì – Nhà máy Hóa chất cơ bản đầu tiên của Việt Nam và chính thức đi vào sản xuất từ năm 1961.

Với gần 65 năm xây dựng và và phát triển, VITRICHEM là một trong

những doanh nghiệp sản xuất hóa chất hàng đầu tại Việt Nam.

Ngoài sản phẩm Vi-CHLORiNE, Công ty Cổ phần Hóa chất Việt Trì

còn sản xuất có các sản phẩm khác cũng phù hợp sử dụng trong lĩnh vực xử lý nước, cụ thể:

- Xút lỏng (NaOH)

- Axit Clohydric (HCl)

- Javen (NaClO)

- PAC lỏng/bột

- Clo lỏng (Cl2 )

Cam kết của Công ty Cổ phần Hóa chất Việt Trì Với tầm nhìn hướng tới trở thành doanh nghiệp uy tín đầu ngành trong lĩnh vực sản xuất hóa chất với chất lượng tiên tiến và năng suất vượt trội, cùng sứ mệnh xuyên suốt: “Tăng trưởng sản xuất gắn liền với bảo vệ môi trường”, VITRICHEM không ngừng nghiên cứu phát triển sản phẩm, cam kết cung cấp các sản phẩm hóa chất chất lượng cao, đồng hành cùng sự phát triển bền vững của các ngành công nghiệp, nông nghiệp trong và ngoài nước, đem lại giá trị cho cộng đồng, xã hội và thúc đẩy kinh tế trong nước.

Công ty Cổ phần Hóa chất Việt Trì – sự lựa chọn đáng tin cậy trong ngành hóa chất, với sản phẩm ViCHLORiNE chất lượng, giúp khách hàng đạt được những mục tiêu sản xuất hiệu quả và bền vững.

VITRICHEMThay đổi từ cách nhìn

 Hotline Miền Bắc - Miền Trung: 0869 534 983 (Mr. Thắng)

 Hotline Miền Nam: 0869 534 987 (Mr. Toàn)

Email: info@vitrichem.vn

Website: vitrichem.vn

Ông Vũ Văn Vân CEO Công ty CP Công nghệ Otanics

Làm chủ công nghệ

VẬN HÀNH TƯƠNG LAI NGÀNH TÔM

CÙNG

OTANICS

Xuất phát từ niềm đam mê nghiên cứu sinh học, ông

Vũ Văn Vân – CEO Công ty CP Công nghệ Otanics

cùng cộng sự đã phát triển các giải pháp công nghệ nhằm tối ưu hóa quản lý ao nuôi.

VV ượt qua những thách thức ban đầu, Otanics

đã triển khai thành công hàng chục nghìn thiết bị, góp phần định hình tương lai bền vững cho ngành tôm Việt Nam. Tạp chí Thủy sản Việt Nam đã có buổi trao đổi cùng ông Vũ Văn Vân để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này.

Phóng viên: Khi bắt đầu xây dựng đội ngũ Otanics, ông đã gặp phải những thách thức lớn nào? Có câu chuyện nào đáng nhớ trong quá trình đó không?

Ông Vũ Văn Vân: Một trong những thách thức lớn nhất là xây dựng đội ngũ kỹ thuật phù hợp. Trong lĩnh vực công nghệ cho thủy sản, rất ít kỹ sư IT, chuyên gia xử lý hình ảnh hay tự động hóa quan tâm đến ngành này. Ngay cả đội ngũ marketing cũng thường hướng đến những lĩnh vực “hấp dẫn” hơn, khiến việc thu hút nhân sự trở nên khó khăn.

Ngay cả khi đã có đội ngũ, chúng tôi vẫn phải đối mặt với một thử thách khác: Hiểu rõ ngành nuôi trồng thủy sản. May mắn là Otanics có cơ hội làm việc với Minh Phú – một “người khổng lồ” trong ngành, giúp chúng tôi có cái nhìn thực tế hơn. Đội ngũ đã không ngại lăn xả, trực tiếp xuống miền Tây gặp gỡ hàng trăm hộ nuôi tôm để lắng nghe và học hỏi. Một thách thức khác đến từ chính người nuôi tôm. Thay đổi thói quen lâu năm của họ không phải điều dễ dàng, đặc biệt khi trước đó đã có nhiều công ty công nghệ giới thiệu sản phẩm không hiệu quả, khiến nhiều thiết bị chỉ nằm “xếp xó” trong góc nhà. Khi chúng tôi tiếp cận, nông dân tỏ ra dè dặt, thậm chí từ chối thử nghiệm bất kỳ giải pháp công nghệ nào nữa. Bước ngoặt lớn đến vào năm 2021, khi chúng tôi triển khai dự án cho Minh Phú giữa bối cảnh dịch Covid-19 bùng phát. Đội ngũ đã ở lại trong trang trại suốt vài tháng, làm việc sát cánh với hàng trăm nông nhân chăm sóc tôm. Trải nghiệm này giúp chúng tôi không chỉ tích lũy kiến thức thực tế mà còn thấu hiểu sâu sắc những khó khăn của người nuôi.

Chính tinh thần đồng hành bền bỉ này đã định hình cách tiếp cận của Otanics: Không

chỉ cung cấp sản phẩm mà còn hỗ trợ người nuôi trong suốt quá trình sử dụng. Điều khiến chúng tôi tự hào nhất là sự kiên trì, cam kết lâu dài và tinh thần đồng hành chân thành cùng ngành nuôi tôm.

Phóng viên: Giải pháp Tomota đang hướng tới những mục tiêu gì trong việc hỗ trợ người nuôi tôm, thưa ông?

Ông Vũ Văn Vân: Tomota đặt mục tiêu giúp người nuôi tôm ghi nhận dữ liệu một cách chính xác, đầy đủ và tiện lợi trong suốt quá trình nuôi. Nếu hệ thống không đủ tiện dụng, việc thuyết phục người dân sử dụng sẽ rất khó khăn. Vì vậy, Tomota tập trung vào việc ghi nhận tất cả các hoạt động hàng ngày trong một vụ nuôi tôm, giúp người nuôi xác định rõ những điểm họ đang làm tốt và những vấn đề cần cải thiện. Chẳng hạn, tại các trang trại của Minh Phú, Tomota đã hỗ trợ số hóa toàn bộ quy trình vận hành. Mỗi ao tôm có hàng chục công việc phải thực hiện mỗi ngày, từ cho ăn, kiểm tra môi trường nước đến ghi nhận chi phí phát sinh. Nhờ hệ thống này, các dữ liệu được ghi nhận đầy đủ và chính xác, thậm chí kế toán của trang trại cũng có thể sử dụng để báo cáo tài chính một cách trực tiếp. Tomota cũng mong muốn mang giải pháp này đến với các hộ nuôi tôm nhỏ lẻ. Tuy nhiên, thuyết phục họ thay đổi thói quen là một thách thức lớn. Thay vì áp dụng ngay các hệ thống phức tạp, Tomota tập trung vào những bước đơn giản và thiết thực nhất, như ghi nhận công thức cho ăn hàng ngày, loại chế phẩm sử dụng, liều lượng vi sinh, và các công việc quan trọng khác trong ao nuôi. Khi có vấn đề xảy ra, người nuôi có thể dễ dàng tra cứu để tìm ra nguyên nhân.

Hiện tại, nhiều hộ nuôi vẫn ghi nhật ký ao tôm trên giấy. Tuy nhiên, điều này thường thiếu chính xác. Ví dụ, khi được yêu cầu báo cáo, nhiều người chỉ điền pH = 8.0 cho cả mùa vụ, dù thực tế họ không đo hoặc không ghi lại đầy đủ. Điều này khiến họ không thể xác định nguyên nhân nếu tôm gặp vấn đề. Tomota hướng đến việc giúp người nuôi ghi nhận dữ liệu một cách chính xác mà không làm thay đổi quá nhiều thói quen của họ. Họ vốn đã thực hiện các công việc này hàng ngày, chỉ cần một công cụ giúp họ lưu trữ thông tin đầy đủ hơn. Đây không chỉ là cách tối ưu hóa quản lý ao nuôi mà còn góp phần nâng cao tính minh bạch, hỗ trợ quá trình chứng nhận và quản lý trang trại hiệu quả hơn.

Phóng viên: Theo đánh giá của ông, ngành tôm Việt Nam hiện đang đối mặt với những thách thức gì? Đâu là hướng đi bền vững cho ngành tôm trong thời gian tới?

Ông Vũ Văn Vân: Ngành tôm hiện nay đang gặp nhiều khó khăn, trong đó nổi bật là dịch bệnh, chi phí sản xuất cao và tâm lý chạy theo xu hướng mà thiếu dữ liệu thực tiễn. Thứ nhất, về dịch bệnh, hệ thống quản lý nước chưa đồng bộ, ao nuôi chưa được quy hoạch hợp lý dẫn đến tình trạng ô nhiễm chéo giữa các trại. Có những khu nuôi đã vận hành ổn định nhiều năm, nhưng rồi lại bị thay đổi quy hoạch đột ngột, khiến hàng trăm hộ dân rơi vào tình thế khó khăn. Bên cạnh đó, việc xử lý nước chưa hiệu quả cũng là nguyên nhân làm gia tăng dịch bệnh, ảnh hưởng đến năng suất nuôi. Thứ hai, chi phí sản xuất ngày càng tăng, từ thức ăn, xử lý nước đến nhân công và điện năng. Chẳng hạn, chi phí xử lý nước có thể lên tới 0,5 – 1 USD/kg tôm, nhưng nếu có dữ liệu cụ thể về chất lượng nước và các yếu tố môi trường, người nuôi có thể tối ưu chi phí này đáng kể. Cuối cùng là tâm lý người nuôi. Nhiều hộ nuôi tôm chạy theo mô hình “3 sạch” hay siêu thâm canh vì thấy hiệu quả ban đầu mà không đánh giá kỹ các rủi ro lâu dài. Khi thị trường biến động, họ khó xoay xở và dễ gặp thua lỗ. Quan trọng là cần có tư duy dài hạn và kiên trì với một quy trình đã được nghiên cứu bài bản, thay vì liên tục thay đổi theo trào lưu. Những vấn đề trên không chỉ ảnh hưởng đến từng hộ nuôi mà còn tác động đến sự phát triển chung của ngành. Khi chi phí sản xuất cao nhưng năng suất không ổn định, ngành tôm Việt Nam sẽ gặp bất lợi so với các nước như Ecuador hay Ấn Độ, nơi chi phí thấp hơn và mô hình nuôi đang được tối ưu. Bên cạnh đó, nếu không kiểm soát tốt dịch bệnh và chất lượng sản phẩm, uy tín của tôm Việt Nam trên thị trường quốc tế cũng sẽ bị ảnh hưởng. Để phát triển bền vững, tôi nghĩ có ba điều quan trọng.

Thứ nhất, cần quy hoạch lại hạ tầng nuôi một cách đồng bộ, đặc biệt là hệ thống cấp thoát nước, nhằm giảm nguy cơ lây lan dịch bệnh. Hiện nay, nhiều khu vực nuôi vẫn còn tình trạng xả thải tự do, ảnh hưởng đến môi trường chung.

Thứ hai, cần tận dụng công nghệ và dữ liệu để tối ưu sản xuất. Ngành nuôi tôm cần một hệ thống thu thập và phân tích dữ liệu chính xác hơn, giúp người nuôi có quyết định đúng

đắn thay vì chỉ dựa vào kinh nghiệm. Nếu có thể kiểm soát tốt các yếu tố môi trường và dịch bệnh, ngay cả những thay đổi nhỏ cũng có thể mang lại hiệu quả lớn.

Cuối cùng, chúng ta cần thay đổi tư duy phát triển. Không nên chỉ tập trung vào sản

lượng cao bằng mọi giá mà cần đảm bảo hiệu quả kinh tế và tính bền vững. Chẳng hạn, qua dữ liệu thực tế mà chúng tôi thu thập trong vài năm qua, mật độ nuôi dưới 110 con/m² sẽ giúp mô hình nuôi ổn định hơn. Việc giảm mật độ sẽ giúp tôm phát triển tốt hơn, giảm áp lực môi trường và hạn chế rủi ro dịch bệnh. Tôi tin rằng nếu có chiến lược phù hợp và sự phối hợp từ cả người nuôi, doanh nghiệp và cơ quan quản lý, ngành tôm Việt Nam sẽ có hướng đi vững chắc hơn trong tương lai.

Phóng viên: Ông nghĩ sao về hai xu hướng phát triển trong ngành nông nghiệp hiện nay: Nông nghiệp thuận thiên và nông nghiệp công nghệ cao? Theo ông, hướng phát triển nào sẽ thực sự mang lại giá trị bền vững lâu dài cho ngành nuôi trồng thủy sản?

Ông Vũ Văn Vân: Đây là một câu hỏi rất hay và tôi nghĩ sẽ khó có một câu trả lời tuyệt đối đúng. Từ góc nhìn của tôi, phát triển bền vững trong nuôi trồng thủy sản cần đảm bảo cả hai yếu tố: Sự ổn định trong sản xuất và kinh doanh, đồng thời không gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường. Nếu chỉ tập trung vào bảo vệ môi trường mà sản xuất không ổn định, người nuôi cũng khó có thể tiếp tục theo nghề. Ngược lại, nếu chỉ quan tâm đến sản xuất mà bỏ qua yếu tố môi trường, dịch

bệnh và các vấn đề khác sẽ quay ngược lại ảnh hưởng trực tiếp đến trại nuôi. Vì vậy, sự cân bằng giữa hai yếu tố này mới là hướng đi bền vững thực sự.

Về hai xu hướng nông nghiệp hiện nay –nông nghiệp thuận thiên và nông nghiệp công nghệ cao – tôi không nghĩ rằng cần phải chọn một trong hai, mà quan trọng là áp dụng phù hợp với điều kiện thực tế của từng khu vực.

Nông nghiệp thuận thiên: Tôi rất ủng hộ các mô hình nuôi tôm thân thiện với môi trường như nuôi tôm rừng, tôm – lúa. Đây là những mô hình đã chứng minh được hiệu quả và mang lại lợi ích lâu dài mà không cần mở rộng diện tích theo cách làm cũ.

Nông nghiệp công nghệ cao: Việt Nam có đặc thù khác so với Ecuador hay Ấn Độ, khi diện tích nuôi tôm không lớn và không tập trung. Vì vậy, nông dân đã đầu tư nhiều vào các mô hình nuôi công nghệ cao để tối ưu sản xuất. Điều quan trọng là cần tiếp tục cải tiến các mô hình này theo hướng bền vững hơn, giảm tác động môi trường thay vì mở rộng thêm bằng cách phá rừng hay tác động tiêu cực đến hệ sinh thái.

Tóm lại, tôi không chọn một trong hai hướng, mà tin rằng mỗi mô hình đều có giá trị riêng, tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng vùng. Vùng nào đã đầu tư hệ thống công nghệ thì nên tiếp tục tối ưu để đảm bảo bền vững. Vùng nào chưa chuyển đổi thì nên tận dụng lợi thế tự nhiên để phát triển mô hình nuôi phù hợp. Tôi cũng đã chứng kiến nhiều mô hình thành công theo cả hai hướng này và mỗi mô hình đều có

thể đóng góp vào sự phát triển chung của ngành nuôi trồng thủy sản.

Phóng viên: Trước sự phát triển nhanh chóng của các công nghệ nuôi trồng hiện đại, theo ông, hình thức nuôi tôm ao đất truyền thống sẽ còn được áp dụng trong bao lâu nữa? Liệu có lợi thế nào mà hình thức này có thể tận dụng để tồn tại và phát triển trong bối cảnh cạnh tranh hiện nay? Ông Vũ Văn Vân: Tôi nghĩ hình thức nuôi tôm ao đất vẫn sẽ có chỗ đứng trong tương lai, đặc biệt khi được áp dụng đúng cách và có sự cải tiến phù hợp với điều kiện thị trường. Trên thực tế, nhiều mô hình nuôi ao đất đã duy trì ổn định suốt nhiều năm, trong khi các hình thức nuôi công nghệ cao có thể mang lại năng suất lớn nhưng lại yêu cầu chi phí đầu tư và vận hành rất cao. Ví dụ, khoảng 7 – 8 năm trước, ngành tôm từng rất kỳ vọng vào mô hình “3 sạch” và siêu thâm canh, nhưng thực tế đã cho thấy mô hình này không phù hợp với tất cả nông dân, nhất là khi giá tôm giảm mạnh trong hai năm qua. Chi phí sản xuất cao khiến nhiều hộ nuôi gặp khó khăn. Vì vậy, nhiều người đang điều chỉnh chiến lược bằng cách giảm mật độ nuôi, giảm hóa chất để tiết kiệm chi phí, từ đó cải thiện lợi nhuận về lâu dài. Lợi thế nào giúp nuôi ao đất tiếp tục tồn tại và phát triển?

Sự ổn định: Nhiều trại nuôi ao đất đã chứng minh được khả năng duy trì qua nhiều mùa vụ mà không gặp quá nhiều rủi ro như các mô hình siêu thâm canh.

Chi phí hợp lý: Việc giảm mật độ nuôi, hạn chế hóa chất giúp tối ưu chi phí sản xuất, điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh giá tôm biến động.

Tiềm năng cải tiến: Một số công nghệ thân thiện môi trường đang được thử nghiệm để nâng cao hiệu quả nuôi, chẳng hạn như ứng dụng rong biển hoặc tảo trong hệ thống nuôi tôm rừng để cải thiện chất lượng nước và tăng sản lượng.

Tóm lại, nuôi tôm ao đất không hề “lạc hậu”, mà nếu có sự điều chỉnh và áp dụng công nghệ phù hợp, mô hình này vẫn có thể cạnh tranh và phát triển bền vững trong tương lai.

Trân trọng cảm ơn ông!

Mỹ

Chính sách thuế mới của Tổng thống Mỹ Donald Trump dấy lên lo ngại chi phí gia tăng với người tiêu

dùng Mỹ và khả năng bị áp thuế trả đũa. Một số mặt hàng nông sản chính, trong đó có thủy sản, sẽ chịu tác động nghiêm trọng.

Ngày 3/2, Tổng thống

Trump đã đồng ý tạm hoãn áp dụng thuế quan đối với hàng nhập khẩu từ

Canada và Mexico trong 30 ngày.

Tuy nhiên, sau thời gian tạm hoãn, Mexico có khả năng đối mặt mức thuế 25%, trong khi Canada sẽ bị

áp thuế 25% đối với hàng nhập

khẩu vào Mỹ và 10% đối với các

sản phẩm năng lượng. Trung

Quốc phải chịu thêm 10% thuế.

Chao đảo thị trường ngũ cốc

Thuế quan của ông Trump đã khiến thị trường hạt dầu và ngũ

ngô Mỹ mỗi năm. Theo Expana

nhận định:  “ Hiện tại, các quỹ đầu tư đang nắm giữ vị thế mua

dài hạn gần mức kỷ lục đối với

ngô. Nếu cả Canada và Mexico

áp thuế trả đũa đối với ngô nhập khẩu từ Mỹ, thì Mỹ có thể đối mặt với tổn thất đáng kể”.

Ngành thương mại dầu cải canola đã chịu ảnh hưởng về giá cả, với xuất khẩu của Canada sang Mỹ, một thị trường quan trọng, giảm xuống, theo Expana. Ngoài dầu cải canola, ngành công nghiệp diesel sinh học của Mỹ, vốn phụ thuộc nhiều vào dầu cải canola của Canada, có thể buộc phải chuyển sang nguyên liệu thô thay thế, làm tăng nhu cầu dầu đậu nành trong nước.

Heather McGuire Doyle, chuyên gia từ Expana đã cảnh báo các doanh nghiệp ngành thức ăn chăn nuôi về khả năng gián đoạn nguồn cung và biến động giá, khi Mỹ hoàn toàn phụ thuộc vào việc nhập khẩu vitamin và axit amin.

Chuỗi cung ứng dễ bị tổn thương vẫn là mối quan tâm lớn nhất đối với thị trường phụ gia thức ăn chăn nuôi khi Mỹ phụ thuộc vào nhập khẩu các nguyên liệu quan trọng. Mỹ nhập khẩu toàn bộ vitamin, trong khi Trung

Quốc chiếm ưu thế trong sản xuất toàn cầu. Thị trường axit amin cũng dễ bị tổn thương, đặc biệt là đối với tryptophan và valine, khi Mỹ là nước nhập khẩu ròng.

Đứt gãy nguồn cung thủy sản

Theo nhận định của Expana, sau khi các mức thuế quan được ông Trump công bố, ngành thủy sản sẽ gặp phải nhiều khó khăn, chủ yếu liên quan đến Canada. Tranh chấp thương mại giữa Mỹ và Canada sẽ tác động ngay lập tức đến giá cả và nguồn cung thủy sản tươi, vì các sản phẩm nhập khẩu từ Canada được coi là mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng của Mỹ.

Gần đây, ngành thủy sản

Canada đã cảnh báo về những tác động tiềm tàng mà các mức thuế này có thể gây ra. Tôm hùm

và cua tuyết là những loài có giá

trị cao nhất đối với quốc gia này, và việc tăng thêm 25% vào chi phí là mối quan ngại lớn xuyên suốt chuỗi cung ứng.

Theo John Sackton từ Seafoodnews, các mặt hàng

bị ảnh hưởng nặng nhất sẽ là tôm hùm sống, cá hồi Đại Tây

Dương và cá bơn halibut. Số liệu

nhập khẩu từ tháng 2 đến tháng

4/2024 cho thấy giá trị của các

loài nói trên đã vượt 300 triệu

USD. Điều này có nghĩa, các nhà nhập khẩu và người bán sẽ

phải đối mặt với hóa đơn thuế

lên tới 79 triệu USD để tiếp tục

kinh doanh các loài này trong

ba tháng tới. Dữ liệu của Expana cho thấy, các loài này nằm trong

top bốn loài tươi sống được nhập khẩu vào Mỹ trong năm 2023.

Mexico cũng đã lọt vào top 10 quốc gia nhập khẩu thủy sản lớn nhất về giá trị và khối lượng, trong

khi thuế quan đối với Trung Quốc

có thể ảnh hưởng đến ngành

chế biến thủy sản, vì nhiều công

ty Mỹ gửi nguyên liệu thô sang

Trung Quốc để chế biến trước

khi tái nhập khẩu. Tính đến thời

điểm này, thuế quan trả đũa của

Canada chủ yếu không ảnh hưởng

đến các mặt hàng thủy sản.

Bùng nổ căng thẳng

thương mại

Trước động thái áp thuế của

Mỹ đối với hàng hóa Canada, chính phủ Canada đã công bố các biện pháp trả đũa. Bắt đầu từ ngày 4/2/2025, Canada sẽ

áp thuế 25% đối với một số mặt hàng nhập khẩu từ Mỹ, bao gồm: Gia cầm, sữa, trứng; rau củ và trái cây; cà phê, trà, ca cao; gia vị và hạt giống.

Phản ứng trả đũa nhanh chóng

của Canada sẽ là một mối đe

dọa đối với một trong những thị

trường xuất khẩu chủ chốt của

Mỹ cho các sản phẩm nông sản

và các mặt hàng như nước cam, vốn đã có sự tăng trưởng khiêm

tốn ở nước ngoài gần đây. Hiện nay, những sản phẩm này phải

đối mặt với chi phí nhập khẩu

cao hơn tại Canada, thị trường lớn thứ hai của Mỹ.

Cùng với đó, Trung Quốc đã nhanh chóng trả đủa Mỹ bằng cách áp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ, tái khởi động cuộc chiến thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới, trong khi Tổng thống Donald Trump đã miễn thuế cho Mexico và Canada trong 30 ngày. Mức thuế bổ sung 10% đối với tất cả hàng hóa Trung Quốc nhập vào Mỹ đã có hiệu lực vào ngày 4/2. Nhiều chuyên gia trong ngành công nghiệp liên quan cho rằng,

những biện pháp thương mại đang leo thang này có thể gây ra những hậu quả sâu rộng đối với nông nghiệp Mỹ. Nguy cơ mất thị phần vào tay các đối thủ từ

Nam Mỹ và châu Âu đang trở nên rõ ràng, đặc biệt nếu các khách hàng toàn cầu tìm kiếm nguồn cung thay thế.

Tại Hội nghị thị trường thủy sản toàn cầu 2025 (GSMC), các chuyên gia nhận định việc áp dụng thuế quan lên các sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc có thể làm giảm khả năng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, Ấn Độ hay Ecuador.

Tương tự, việc áp thuế quan với Canada và Mexico làm tăng chi phí nhập khẩu nguyên liệu hoặc các sản phẩm trung gian phục vụ sản xuất thủy sản, từ đó ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm. Điều này có thể khiến giá thủy sản tăng, đặc biệt ở các thị trường bị tác động trực tiếp như Mỹ. Để đối phó với các biện pháp thuế quan này, các nước sản xuất thủy sản có thể tìm cách mở rộng thị trường sang các quốc gia khác như châu Âu, Nhật Bản, hoặc các thị trường đang phát triển.

Lào Cai Giá sản phẩm thủy sản duy trì ổn định

Theo Sở NN&PTNT tỉnh Lào Cai, trong dịp trước và trong Tết Nguyên Đán, giá các sản phẩm thủy sản trên địa bàn tỉnh không có biến động lớn, duy trì ở mức ổn định, giúp người dân an tâm tiêu thụ và sản xuất. Đây được xem là tín hiệu tích cực, góp phần ổn định thị trường và thúc đẩy hoạt động sản xuất thủy sản trong tỉnh. Cụ thể, giá cá rô phi thương phẩm từ 1,0 - 1,5 kg/con giá 36.000 – 38.000 đồng/kg, cá chép từ 1,5 - 2,0 kg/con giá 42.000 – 45.000 đồng/kg, cá trắm đen 100.000 – 120.000 đồng/kg, cá trắm cỏ 58.000 – 62.000 đồng/kg, giá cá hồi 155.000 – 160.000 đồng/kg, cá tầm 175.000 – 180.000 đồng/kg.

Nam Định Làng cá Mỹ Hà nhộn nhịp vào vụ Tết

Cuối năm, làng cá Mỹ Hà (Nam Định) tất bật thu hoạch cá trắm đen –đặc sản nổi tiếng nhờ thịt chắc, ngọt, giàu dinh dưỡng. Toàn xã có 87,9 ha nuôi thủy sản, sản lượng đạt hơn 2.200 tấn/năm, chủ yếu ở các thôn Nội An, Cửa Đông và Chợ Giữa. Ngoài cá trắm đen, nhiều hộ dân đã chuyển sang nuôi cá lóc bông - loại cá dễ nuôi, ít bệnh, thịt thơm ngon, được thị trường ưa chuộng. Nhờ liên kết trong Tổ hợp tác Tiền Phong, người nuôi cá ở Mỹ Hà không chỉ nâng cao năng suất mà còn ổn định đầu ra, góp phần phát triển kinh tế bền vững cho địa phương.

Thái Bình

Tôm vụ đông được giá

Cuối năm 2024, người nuôi tôm ở huyện Thái Thụy (Thái Bình) vui mừng khi TTCT vừa được mùa, vừa được giá. Anh Đào Văn Sinh (xã Thái Đô) thu hoạch 6 tấn tôm, bán với giá 320.000 đồng/kg (30 con/ kg), cao hơn 100.000 đồng/kg so với năm trước, thu lãi hơn 1 tỷ đồng. Tại xã Thái Thượng, anh Nguyễn Xuân Sứ cũng gặt hái thành công với mô hình nuôi tôm công nghệ cao. Vụ này, anh thu gần 3 tỷ đồng từ 10 tấn tôm cỡ 50 – 60 con/kg, với giá bán dao động từ 260.000 – 300.000 đồng/kg. Hiện giá TTCT tại Thái Thụy vẫn duy trì ở mức cao, loại 30 con/kg đạt 320.000 đồng/kg, loại 50 con/kg khoảng 260.000 đồng/ kg. Với 94 ha nuôi TTCT theo công nghệ cao, sản lượng tôm dịp Tết Nguyên Đán năm nay ước đạt hơn 100 tấn, chủ yếu tiêu thụ trong nước và cung ứng cho các cơ sở chế biến thủy sản.

Phú Yên

Ngư dân đón lộc biển đầu năm

Những ngày đầu năm Ất Tỵ 2025, nhiều tàu câu cá ngừ đại dương của ngư dân Phú Yên cập bến với sản lượng cao, mở đầu năm mới đầy thuận lợi. Theo Ban Quản lý cảng cá Phú Yên, từ ngày 28/1 đến 3/2 (29 tháng Chạp đến mùng 6 tháng Giêng), đã có 72 tàu cá cập cảng với tổng sản lượng gần 50 tấn hải sản. Tàu cá PY-90945 do ngư dân Võ Quốc Nguyện (phường Phú Đông, TP. Tuy Hòa) làm thuyền trưởng

đã khai thác được 80 con cá ngừ đại dương, mỗi con nặng từ 40 – 50 kg. Với giá cá tại bến 100.000 đồng/kg, chuyến biển này mang về hơn

300 triệu đồng, giúp cả chủ tàu và bạn tàu có thu nhập cao, khởi đầu năm mới đầy phấn khởi.

Khánh Hòa

Giá cá ngừ vây vàng tăng nhẹ đầu năm

Giá cá ngừ vây vàng mắt to tại Khánh Hòa ghi nhận xu hướng tăng nhẹ. Tại cảng Hòn Rớ (xã Phước Đồng, TP. Nha Trang), giá cá ngừ vây vàng đã tăng từ 105.000 đồng/kg lên 110.000 đồng/kg, mang lại niềm vui cho ngư dân sau chuyến biển xuyên Tết. Sản lượng khá và giá bán cao hơn kỳ vọng được xem là tín hiệu tích cực, tiếp thêm động lực cho ngư dân chuẩn bị cho các chuyến biển tiếp theo trong năm.

Ninh Thuận

Ngư dân vươn khơi đánh bắt đầu xuân

Những ngày đầu xuân, từ mùng 4 Tết đến nay, thời tiết thuận lợi đã tạo điều kiện cho ngư dân huyện Ninh Hải (Ninh Thuận) khởi động những chuyến biển đầu tiên trong năm mới, với hy vọng một mùa đánh bắt bội thu, mang lại nhiều may mắn. Ghi nhận tại cảng cá Mỹ Tân (xã Thanh Hải) vào sáng mùng 5 Tết, không khí nhộn nhịp khi các tàu thuyền tấp nập ra vào cảng để bán hải sản. Các loại hải sản đánh bắt chủ yếu bao gồm cá nhái, cá ngân, cá dò, cá hố, và mực ống. Hải sản tươi sống sau khi đưa lên bờ nhanh chóng được thương lái thu mua và vận chuyển đi tiêu thụ. Không khí hối hả, rộn ràng tại cảng cá Mỹ Tân những ngày đầu xuân báo hiệu một năm mới đầy hy vọng với ngư dân vùng biển Ninh Thuận.

Long An Giá tôm tăng cao, người nuôi lãi lớn

Người nuôi tôm tại Long An đang phấn khởi khi giá tôm tăng lên mức cao nhất trong nhiều năm qua, mang lại lợi nhuận đáng kể. Đây là tín hiệu tích cực cho ngành thủy sản địa phương, nhất là sau gần hai năm giá tôm liên tục ở mức thấp. Theo các thương lái thu mua tôm tại xã Nhựt Ninh, huyện Tân Trụ, khoảng một tháng trở lại đây, giá TTCT và tôm sú đã tăng 10.000 - 25.000 đồng/kg so với cùng kỳ năm trước. Mức giá cao đã giúp người nuôi tôm tại Long An thu về nguồn lợi lớn, tiếp thêm động lực để họ đầu tư, mở rộng sản xuất trong các vụ nuôi sắp tới.

ĐBSCL

Giá cá tra tại tăng cao do nguồn cung khan hiếm

Từ đầu năm 2025, giá cá tra tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) tăng mạnh, đặc biệt là cá có trọng lượng lớn trên 1,2 kg, với mức giá

đạt 32.440 đồng/kg – cao nhất kể từ năm 2022. Xu hướng tăng giá

đã bắt đầu từ tuần cuối cùng của năm 2024 và tiếp tục duy trì ở mức cao trong tuần đầu năm mới. Loại cá có trọng lượng lớn này được thị trường Trung Quốc ưa chuộng, trong khi cá kích cỡ nhỏ hơn thường

được chế biến phi lê để xuất khẩu sang EU và Mỹ. Nguyên nhân chính dẫn đến giá cá cỡ lớn tăng cao là do nguồn cung khan hiếm. Không chỉ giá cá thương phẩm tăng, giá cá tra giống cũng tăng mạnh, đạt 46.300 đồng/kg trong tuần đầu tiên của năm 2025 – mức cao nhất kể từ tháng 2/2023.

Ecuador, Thái Lan Giá cá ngừ vây vàng tăng ở Manta, ổn định tại Bangkok

Tại Manta, Ecuador, giá cá ngừ vây vàng bán tại tàu đang có xu hướng tăng khi sản lượng đánh bắt địa phương giảm, trong khi tại Bangkok, Thái Lan, giá vẫn duy trì ổn định. Cụ thể, giá cá ngừ vằn tại Manta, Ecuador, đã tăng lên từ cuối tháng 1/2025 do sản lượng đánh bắt của địa phương giảm. Hiện tại, giá giao dịch cá ngừ tại tàu dao động 1.600 - 1.650 USD/tấn. Nguyên nhân chính là sản lượng đánh bắt giảm sau một năm đạt mức kỷ lục. Mặc dù hoạt động đánh bắt đã được nối lại hoàn toàn từ nửa cuối tháng 1 sau đợt đóng cửa khai thác thứ hai ở khu vực Đông Thái Bình Dương, giá vẫn tăng do nguồn cung hạn chế. Ở Ecuador, giá cá ngừ vằn hiện đã tăng lên

1.650 USD/tấn từ mức 1.600 USD/tấn trước đó, mặc dù vẫn có một số giao dịch ở mức 1.600 USD/tấn. Trong khi đó, tại Bangkok, Thái Lan, giá cá ngừ vằn (CFR) trong tháng 1 và tháng 2 vẫn ổn định ở mức 1.540 – 1.560 USD/tấn.

Trung Quốc Giá bán buôn cá hồi nhập khẩu giảm mạnh

Giá bán buôn cá hồi nuôi nhập khẩu tại Trung Quốc giảm mạnh trở lại mức cuối năm 2024. Trong đó, giá cá hồi tươi đã giảm một phần ba khi nhu cầu cho các lễ kỷ niệm Tết Nguyên Đán đã hạ nhiệt. Sau khi nhu cầu tiêu thụ trong dịp Tết Nguyên Đán qua đi, trong tuần 6 (từ ngày 3/2/2025), giá cá hồi Na Uy loại 6 - 7 kg đã giảm 47 CNY/kg (4,11 USD) so với tuần trước. Cụ thể, vào ngày 4/2, tại chợ Huangsha, Quảng Châu, cá hồi Na Uy bỏ ruột (6 - 7 kg) được niêm yết ở mức 95 CNY/kg (13,21 USD), giảm mạnh 47 CNY/kg so với tuần trước. Tại Bắc Kinh và Thượng Hải, giá cá hồi Na Uy, Chile và Australia cũng hạ xuống mức 30 - 40 CNY/kg. “Mức tiêu thụ tốt chỉ kéo dài khoảng ba đến bốn ngày, bắt đầu từ 27/1 và kết thúc vào 30/1, đến ngày 31/1, giá đã giảm mạnh do nhu cầu tiêu dùng không còn đủ để duy trì mức giá đó”, một thương nhân tại Thượng Hải cho biết. Ông lo ngại thị trường cá hồi năm 2025 khó có khả năng quay trở lại trạng thái như trước đây.

Nhật Bản

Xuất khẩu sò điệp đông lạnh sang Mỹ cao kỷ lục

Xuất khẩu sò điệp đông lạnh của Nhật Bản sang Mỹ đã tăng vọt 62% lên mức kỷ lục 19 tỷ JPY (122 triệu USD) vào năm 2024, nhờ nhu cầu mạnh mẽ và giá cả tăng cao trong bối cảnh sản lượng thu hoạch nội địa của Mỹ giảm sút. Dữ liệu từ Bộ Thương mại Nhật Bản cho thấy, khối lượng sò điệp đông lạnh xuất khẩu sang Mỹ trong năm 2024 chạm mốc 5.389 tấn với giá bán trung bình 3.530 JPY (24 USD/kg), tăng 41% lượng và 14% giá trị so với cùng kỳ 2023. Chỉ tính riêng tháng 12/2024, Nhật Bản đã vận chuyển 673 tấn sò điệp sang Mỹ, tăng 6% so với cùng kỳ với giá xuất khẩu trung bình 4.903 JPY/kg (33 USD), tăng 84% so với cùng kỳ năm 2023 và tăng 19% so với giá của tháng trước đó. Như vậy, giá trị xuất khẩu sò điệp đông lạnh sang Mỹ trong tháng cuối cùng của năm 2024 đã tăng gần gấp đôi, đạt 3,3 tỷ JPY. Theo Undercurrentnews, giá xuất khẩu sò điệp tại Mỹ bắt đầu tăng mạnh từ giữa năm 2023 và tiếp tục nhảy vọt trong nửa cuối năm 2024.

Mỹ

Sản lượng sò nội địa thấp, cỡ nhỏ và giá cao

Thị trường sò điệp của Mỹ vẫn đang phải đối mặt với mức giá cao, đặc biệt là đối với các kích cỡ U10, khiến nhiều người tiêu dùng “lưỡng lự” trước quyết định mua hàng nội địa. Lượng sò điệp Atlantic do Mỹ khai thác đổ về chợ New Bedford, Massachusetts chỉ đạt mức 97.171 pound, tương đương trị giá 1,8 triệu USD do sản lượng khai thác trong tuần 5 (27/1 - 2/2) sụt giảm. Con số này thấp hơn 120.464 pound và 2,4 triệu USD so với tuần trước đó. Kích cỡ phổ biến nhất là 20 - 30, chiếm khối lượng 51.684 pound, tương đương 53% tổng sản lượng. Các kích cỡ được 10-20s chỉ chiếm tỷ lệ 33%, tương ứng 32.248 pound, trong khi cỡ lớn nhất U-10 và U-12 đạt 9.439 pound, chiếm 10% và cỡ nhỏ nhất 30 - 40 chiếm tỷ lệ 4%, tương ứng 3.800 pound. Do cung thấp, giá sò điệp Mỹ tăng cao hơn năm ngoái. Cụ thể, cỡ 20 - 30 có giá 13,73 USD/pound; cỡ 10-20s giá 20,79 USD/pound; cỡ U-10s giá 42,14 USD/ pound; U-12 giá 40,17 USD/pound; và cỡ 30 - 40 giá 12,99 USD/pound.

Anh

Giá cá tuyết tại Peterhead và Shetland tiếp tục tăng

Giá cá tuyết tiếp tục duy trì đà đi lên trong tuần thứ năm, với các phiên đấu giá tại Peterhead và Shetland đều cho thấy xu hướng tăng ở hầu hết các kích cỡ. Giá cá cod Scotland hầu hết các kích cỡ tiếp tục duy trì đà tăng tích cực trong tuần thứ năm (27/1 - 2/2) tại tất cả các phiên đấu giá ở Peterhead và Setland. Cụ thể, tại chợ Peterhead, gia trung bình cá tuyết cod tươi bỏ ruột A1 (loại trên 7 kg) tăng 7% so tuần trước và tăng 26% so cùng kỳ năm ngoái, đạt 5,81 bảng Anh/kg (7,25 USD). Giá cá tuyết cod A2 cũng tăng 5% so tuần trước, đạt mức 5,74 bảng Anh/kg, cao hơn mức giá năm ngoái tới 28%. Giá các loại cá tuyết cod nhỏ hơn gồm A3 (2 - 4 kg); A5 (300 g - 1 kg) cũng lần lượt tăng 1% và 20% so với tuần trước, đạt 5,18 bảng Anh/kg; 4,30 bảng Anh/kg; đồng thời cao hơn giá năm ngoái 17% và 21%.

Ấn Độ

Giá TTCT tăng

nhẹ

Tại Nellore, Andhra Pradesh, giá tôm đã tăng nhẹ ở tất cả các loại kích cỡ, theo dữ liệu từ AquaExchange. Giá tôm loại 40 con tăng lên 413 INR/kg từ mức 411 INR/kg của tuần trước. Các loại tôm khác cũng có sự tăng trưởng nhẹ tương tự, với tôm loại 50 con đạt 373 INR/kg, loại 60 con đạt 343 INR/kg và loại 70 con đạt 323 INR/kg. Nguồn cung tôm thẻ của Ấn Độ dịp đầu năm tương đối thấp và dự kiến khôi phục dần sau vụ thu hoạch đầu tiên vào cuối tháng 3 hoặc đầu tháng 4. “Hoạt động thả nuôi chủ yếu sẽ hoàn thành vào tháng 2 và kết thúc trong tháng 3, muộn nhất là giữa tháng 4,” một nhà sản xuất từ Andhra Pradesh cho biết. Dự kiến, vụ thu hoạch tôm thẻ sẽ bắt đầu vào tháng 4 và tôm sú vào tháng 5. Ngoài tôm thẻ, một số địa phương tại Ấn Độ đang mở rộng sản xuất tôm sú. Riêng bang Andhra Pradesh dự kiến sản xuất 35.800 tấn tôm sú trong năm 2025.

SACCHAROMYCES CEREVISIAE

Saccharomyces cerevisiae là một trong những loài vi sinh vật được sử

dụng khá phổ biến trong lĩnh vực thủy sản với nhiều vai trò quan trọng.

Ứng dụng Saccharomyces cerevisiae cho phép người nuôi cải thiện

năng suất và tăng chất lượng mà không tốn kém quá nhiều chi phí.

Saccharomyces cerevisiae còn

được gọi với cái tên quen thuộc hơn là men bánh mì hoặc men bia.

Saccharomyces cerevisiae là một vi sinh vật

đơn bào thuộc loài nấm, có ít nhất 80 loài cùng chi, 600 loài cùng họ và hơn 10.000 chủng khác nhau.

Sử dụng Saccharomyces cerevisiae trong nuôi trồng thủy sản có nhiều lợi ích như:

- Giúp tăng sản lượng, cải thiện tốc độ tăng trưởng và sức khỏe tổng thể của vật nuôi.

- Tăng sức đề kháng cho thủy sản, ngăn ngừa các bệnh do một số vi khuẩn trong môi trường nước gây ra.

- Giúp tăng cường chức năng tiêu hóa cho thủy sản, nâng cao khả năng hấp thu chất dinh dưỡng từ thức ăn.

- Bảo vệ niêm mạc đường ruột cho vật nuôi, phòng ngừa nhiều bệnh lý liên quan đến đường ruột và hệ tiêu hóa.

Trên thị trường hiện nay, có rất nhiều sản phẩm với thành phần nấm men Saccharomyces cerevisiae. Các sản phẩm có giá thành khác nhau, tùy thuộc vào nguồn gốc xuất xứ, độ tinh khiết, hàm lượng cũng như số lượng, cách thức đóng gói…

Vì vậy, người nuôi nên lựa chọn sản phẩm

của những đơn vị, công ty cung cấp uy tín, có thương hiệu trên thị trường như Công ty TNHH KTCN Khoa Học Xanh. Khoa Học Xanh hiện đang là nhà phân phối lớn nhất và độc quyền nấm men

của các nhà sản xuất nấm men hàng đầu trên thế giới như Angel Yeast, Phileo by Lesaffre. Lựa chọn những sản phẩm men

vi sinh của chúng tôi, bạn sẽ hoàn toàn yên tâm về xuất xứ, chất lượng cũng như hiệu quả mang lại luôn đạt tiêu chuẩn cao. Sản phẩm SACCHAROMYCES CEREVISIAE của Khoa Học Xanh là chủng Saccharomyces cerevisiae chuyên dùng làm thức ăn chăn nuôi với các ưu điểm vượt trội như: Khả năng sống sót trong môi trường khắc nghiệt của dạ dày; có khả năng sống và phát triển tốt trong môi trường muối mật; chịu được kháng sinh cũng như khả năng sống trong đường ruột tôm, cá.

Thành phần: Saccharomyces cerevisiae 1 x 10 10 CFU/g.

Công dụng:

- Nấm men chuyên dùng để đối kháng (phá hủy) nấm đồng tiền, nấm chân chó.

- Cải thiện môi trường nước ao nuôi: Làm sạch nước, giảm độ nhờn, bọt nước, giảm nhớt bạt ao nuôi.

- Bổ sung nấm men sống kích thích sự phát triển của các sinh vật có lợi, giúp chống lại các vi khuẩn gây bệnh.

- Kích thích tiêu hóa, giảm tiêu tốn thức ăn, phục hồi hệ vi sinh đường ruột sau khi sử dụng kháng sinh.

- Cải thiện hệ vi sinh đường ruột, giảm hệ số FCR, tăng năng suất và lợi nhuận thu hoạch.

- Tăng sức đề kháng, tăng tỷ lệ sống cho tôm, cá.

Nấm men Nguồn: Internet

Cách sử dụng: Dùng 500g Saccharomyces cerevisiae với 4 - 5 kg đường cát vàng hoặc mật rỉ đường đã tiệt trùng cùng 40 - 50 lít nước sạch nên ủ trong phuy hoặc thùng 100 lít thời gian 4 - 6 giờ là có thể sử dụng được, thời gian ủ tối đa 24 h. + Tạt hết hỗn hợp vừa ủ cho 2.000 m³ đối với

đối với ao nuôi công nghiệp. - Cho ăn: Dùng 5 - 10 ml/kg thức ăn. Trường Hải

Thông tin chi tiết xin vui lòng liên hệ: Nhà phân phối : Công ty TNHH KTCN

Khoa Học Xanh

Đơn vị sản xuất : Công ty TNHH Trường Hải Tiến

Hotline: 091616.8200

Website: Khoahocxanh.com

Địa chỉ: 5/2/1 Phan Huy Ích, phường 14, quận Gò Vấp, TP Hồ Chí Minh

Ưu thế thủy sản xanh trong xuất khẩu

“Sản phẩm thủy sản có chứng chỉ xanh sẽ dễ

dàng xâm nhập sâu vào những thị trường lớn với

giá bán cao hơn, ưu đãi thuế lớn hơn. Sản phẩm

thủy sản xanh cũng giúp cho việc xây dựng hình

ảnh, thương hiệu, nâng cao vị thế và tính cạnh

tranh của doanh nghiệp được nhanh chóng và dễ

dàng hơn”. Đó là khẳng định của ông Hồ Quốc

Lực - Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Thực phẩm

Sao Ta khi nói về ưu thế xuất khẩu thủy sản khi

đạt chứng chỉ xanh.

Ưu thế từ xu thế

Tiêu chí xanh gồm các sản

phẩm xanh, sản phẩm không

làm suy thoái, mất rừng, không phát thải khí nhà kính, bảo vệ rừng, bảo vệ sinh kế người dân, trong quá trình sản xuất mới

đủ điều kiện để xuất khẩu vào

các thị trường lớn trên thế giới.

Sản xuất xanh giúp các doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu của

khách hàng thông qua việc cung

cấp các sản phẩm và dịch vụ có tác động ít đến môi trường.

Khách hàng thường ưu tiên lựa

chọn các doanh nghiệp có cam

kết với môi trường và sẵn lòng trả

giá cao hơn cho các sản phẩm

và dịch vụ có nguồn gốc xanh.

Đánh giá cao ưu thế của chứng

chỉ xanh cũng như các chứng

nhận quốc tế khác, ông Ông Võ

Thành Hiệp – Tổng giám đốc

Công ty Cổ phần Hưng Trường

Phát (Bến Tre), chia sẻ: “Cái lợi của chứng nhận MSC (một trong những chứng nhận thủy sản bền vững thuộc hàng cao cấp hiện tại) là việc tiêu thụ rất dễ dàng do có rất nhiều khách hàng thường chỉ tìm mua nghêu đạt chứng nhận MSC. Cho nên, có chứng nhận MSC cũng đồng nghĩa với cơ hội bán hàng của doanh nghiệp sẽ tăng lên, sản lượng tiêu thụ sẽ tốt hơn”. Sản xuất xanh đang trở thành một xu hướng quan trọng trong doanh nghiệp hiện nay, bởi khách hàng ngày càng quan tâm đến môi trường và sự bền vững, nên họ sẵn sàng chọn lựa sản

phẩm và dịch vụ có nguồn gốc xanh từ các doanh nghiệp có chứng nhận với mức giá cao hơn so với các sản phẩm khác. Không những tiêu thụ được dễ dàng và với giá bán cao, thủy sản đạt tiêu chí xanh còn giúp xây dựng hình ảnh và danh tiếng tích cực cho doanh nghiệp; được công nhận là những doanh nghiệp có trách nhiệm xã hội và được khách hàng và cộng đồng tôn trọng. Điều này có thể tạo điểm cộng trong việc thu hút khách hàng và đối tác kinh doanh. Ông Lực chia sẻ: “Con tôm Ecuador ngày càng có lợi thế cạnh tranh hơn tôm Việt Nam và một số nước khác không chỉ ở giá rẻ mà do họ có đến 25% diện tích nuôi tôm đạt chứng nhận ASC. Điều này một lần nữa chứng minh cho thấy ưu thế của sản xuất bền vững nói riêng và sản xuất xanh nói chung”.

Tham gia sản xuất xanh giúp các doanh nghiệp tuân thủ quy định pháp luật về môi trường và giảm nguy cơ mất phí phạt hoặc hậu quả pháp lý khác. Đồng thời, việc tuân thủ quy định pháp luật môi trường cũng tạo ra môi trường kinh doanh công bằng và lành mạnh cho tất cả các doanh nghiệp. Do đó, dù muốn hay không, các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu cần phải nhanh chóng thích ứng, chuyển đổi và khắc phục các các điểm khó để chuyển đổi xanh và phù hợp với luật pháp, qui định của các thị trường như Mỹ, EU, Hàn Quốc, Nhật Bản, vì đây là những thị trường sẽ dần có các hành động kiểm soát, đánh giá hàm lượng carbon trong các sản phẩm nhập khẩu.

Chuyển đổi để tạo ưu thế Sản xuất xanh, tiêu dùng xanh, sống xanh… được nhìn nhận là xu thế tất yếu trong thời gian tới, nên thủy sản cũng không là ngoại lệ. Do đó, nếu muốn

sản phẩm thủy sản thâm nhập

sâu hơn vào các thị trường xuất khẩu khó tính, như: Mỹ, châu Âu,

Nhật Bản… có giá bán cao và

thuế suất ưu đãi thì con đường

ngắn nhất, hiệu quả nhất là chủ

động thay đổi chiến lược sản

xuất kinh doanh theo các tiêu

chí phát triển bền vững, phát triển xanh. Việc áp dụng chiến lược sản xuất kinh doanh theo tiêu chí xanh còn tạo thuận lợi

cho việc mở rộng thị phần thủy

sản tại các thị trường xuất khẩu

và tham gia vào chuỗi giá trị của

các doanh nghiệp, tập đoàn

quốc tế, bởi sản xuất bền vững

là một trong những tiêu chí quan trọng để họ lựa chọn đối tác.

Theo ông Nguyễn Bá Thông –

Quản lý Chương trình IDH Thủy

sản Việt Nam, sản phẩm thủy

sản nói chung và tôm, cá tra của

Việt Nam nói riêng hiện chỉ mới

đạt chút ưu thế về chỉ số giá trị

cơ bản, còn các chỉ số về sức

khỏe, giá trị bền vững thì vẫn

chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu từ

thị trường. Do đó, chỉ để khắc

phục những điểm yếu này, cũng

như phát huy thế mạnh, tăng

tính cạnh tranh, nâng cao vị thế

trên thị trường xuất khẩu không

có con đường nào khác là thúc

đẩy kinh tế tuần hoàn và phát

triển xanh. Đồng quan điểm, ông Lê Đình Huynh – Tổng Thư ký VSSA, chia sẻ: “Thách thức dài hạn của ngành tôm chính là những yêu cầu mới từ thị trường, trong đó nổi bật là tiêu chí thủy sản xanh. Vì vậy, trong quá trình khai thác, nuôi trồng, chế biến xuất khẩu tới đây cần có sự chuyển đổi mạnh mẽ hơn theo hướng giảm phát thải, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn và phát triển xanh”. Ông Châu Công Bằng –Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh

Cà Mau, cho rằng, chất lượng tôm chúng ta ngon, nhưng đạt chứng nhận chưa nhiều, cộng thêm giá thành cao nên sức cạnh tranh ngày càng giảm.

Cần đồng bộ cả chuỗi Tại thị trường châu Âu, theo các doanh nghiệp, họ đã được phía đối tác đưa ra nhiều nội dung phải quan tâm, lưu ý và thực thi xoay quanh vấn đề kiểm soát, giảm thiểu phát thải; giải pháp trung hòa carbon… đặc biệt là các nhãn hàng lớn và chuỗi kinh doanh quốc tế, khi họ đang tái cấu trúc lại chuỗi cung ứng toàn cầu để bảo đảm các mục tiêu bền vững nghiêm ngặt. Tuy nhiên, nếu chỉ một mình doanh nghiệp chế biến,

xuất khẩu đeo đuổi phát triển xanh thôi là chưa đủ, mà cần cả chuỗi giá trị xanh đồng bộ, bởi các mắt xích trong chuỗi giá trị có liên quan mật thiết nhau và ảnh hưởng nhau không nhỏ. Theo đó, từ các doanh nghiệp cung ứng con giống, thức ăn, chế phẩm nuôi, các cơ sở nuôi phải đều có tiêu chí cụ thể để thực hiện và thống nhất trong cả chuỗi. Sản xuất xanh đang là xu thế tất yếu mang tính toàn cầu và là một mắt xích quan trọng trong chiến lược tăng trưởng xanh của mỗi quốc gia. Trong xu thế chung ấy, ngành thủy sản chẳng những không là ngoại lệ mà sản xuất xanh còn là lựa chọn tốt nhất trong thời gian tới nếu muốn giữ vững vị thế và nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường. Bởi theo quan niệm của người tiêu dùng, tiêu chí xanh là tiêu biểu, là hiện thân cho sự bền vững, trường tồn, nên chỉ có thủy sản xanh mới được quan tâm hơn và thưởng thức nhiều hơn. Chia sẻ thêm về thủy sản xanh, theo ông Lực, với xu thế, sự đòi hỏi của các hệ thống tiêu thụ lớn trên thế giới, mà đi đầu là khu vực EU thì ngành thủy sản ta phải có giải pháp kiểm soát, hạn chế, trung hòa khí thải trong quá trình khai thác, nuôi, chế biến và tiêu thụ. Trong các mắt xích chuỗi giá trị, khâu nuôi chiếm vị trí hết sức quan trọng. Quan trọng trong việc hình thành giá trị chung và quan trọng trong việc tạo ra rác thải, khí thải. Do vậy, xanh hóa vùng nuôi không phải là thách thức, áp lực mà chúng ta phải xác định là để nâng cao giá trị, hình ảnh sản phẩm thủy sản xanh sạch của ta; là để nâng cao vị thế, sức cạnh tranh để vươn tầm.

Xuân

Hoạt chất thực vật

Rào chắn dịch bệnh EHP

Techna, một hãng dinh

dưỡng tại Pháp đã tạo

ra phục gia gốc thực

vật có khả năng phòng

ngừa EHP trong nuôi

tôm ngay từ sự nảy

mầm của bào tử – giai

đoạn then chốt để hạn

chế dịch bệnh này.

Hiểm họa ký sinh trùng

Trong số các loài ký sinh trùng, vi bào tử trùng  Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) là mối đe

dọa nghiêm trọng đối với ngành

nuôi tôm, đặc biệt khu vực châu Á. Nhiễm EHP không gây ra các

dấu hiệu lâm sàng đặc trưng, nhưng tôm bị nhiễm thường còi

cọc, chậm lớn, tỷ lệ biến đổi thức

ăn (FCR) tăng cao và tỷ lệ chết

cao hơn. Tất cả những yếu tố này

trực tiếp làm suy giảm năng suất và lợi nhuận của trại nuôi tôm.

EHP chủ yếu tấn công tuyến

gan tụy, một cơ quan chịu trách

nhiệm tiêu hóa và trao đổi chất

ở tôm. Vòng đời của EHP, điển hình của vi bào tử trùng, bao

gồm giai đoạn bào tử có khả năng đề kháng cao, giúp chúng tồn tại lâu trong môi trường và dễ dàng lây truyền.

Bào tử EHP được thải ra môi

trường ao nuôi thông qua phân của tôm nhiễm bệnh, tạo điều kiện cho sự lây lan qua nước. Ngoài ra, EHP còn có thể lây qua con đường ăn thịt đồng loại hoặc ô nhiễm từ các nguồn bên ngoài. Khi tôm ăn phải bào tử EHP, chúng sẽ nảy mầm trong đường tiêu hóa và thâm nhập vào tế bào biểu mô của tuyến gan tụy. Trong các tế bào này, ký sinh trùng sinh sôi, tạo ra các bào tử mới, sau đó được giải phóng trở lại đường ruột và môi

trường, tiếp tục chu kỳ lây nhiễm (Chaijarasphong et al., 2021). Sự bùng phát của EHP thường liên quan đến các yếu tố môi trường và quản lý trong nuôi tôm. Chất lượng nước kém, mật độ cao và các hàng rào an toàn sinh học lỏng lẻo tạo điều kiện lý tưởng cho ký sinh trùng lây lan. Ngoài ra, EHP thường xuất hiện cùng với các mầm bệnh cơ hội như vi khuẩn Vibrio, làm trầm trọng thêm mức độ nghiêm trọng của bệnh và gây khó khăn cho việc điều trị.

Tôm không có triệu chứng cũng có thể trở thành vật chứa mầm bệnh, âm thầm lây lan ký sinh trùng sang các đàn tôm

khỏe mạnh. Hơn nữa, bào tử EHP có khả năng chống chịu cao trước các tác động môi trường, cho phép chúng tồn tại trong bùn đáy ao suốt thời gian dài, ngay cả sau khi đã thực hiện các biện pháp khử trùng hoặc phơi khô.

Chính đặc tính bền bỉ này khiến việc loại trừ hoàn toàn trở nên vô cùng khó khăn (Chaijarasphong et al., 2021).

Giải pháp từ thực vật

Sự tồn tại dai dẳng của EHP đang đặt ra thách thức lớn đối với người nuôi tôm trên toàn cầu.

Giải quyết vấn đề này và phát triển các giải pháp đổi mới, thiết thực để bảo vệ sức khỏe tôm cũng như đảm bảo tính bền vững kinh tế của ngành nuôi trồng thủy sản vẫn là ưu tiên hàng đầu của ngành.

Mới đây, TECHNA, một hãng dinh dưỡng tại Pháp đã sử dụng hoạt chất và phân tử, đặc biệt là hợp chất gốc từ thực vật để tạo ra hợp chất chống ký sinh trùng. Mono-glyceride của axit béo, bao gồm các biến thể chuỗi ngắn và trung bình như axit capric và axit caprylic, đã cho thấy tác dụng chống ký sinh trùng bằng cách phá vỡ màng lipid của ký sinh trùng và can thiệp vào quá trình trao đổi chất của chúng.

Ngoài ra, tinh dầu cũng được biết đến với đặc tính xua đuổi, tác động đến hệ thần kinh và nội tiết của ký sinh trùng nhằm giảm các hoạt động quan trọng như ăn uống và sinh sản. Các phân tử có nguồn gốc thực vật khác, bao gồm hợp chất phenolic và terpene, có khả năng ức chế các quá trình enzym thiết yếu đối với sự sống của ký sinh trùng. Các thử nghiệm in vitro được thực hiện tại phòng thí nghiệm

ShrimpVet đã xếp hạng ba thành phần gốc thực vật dựa trên hiệu quả ức chế sự nảy mầm của bào tử EHP.

Bào tử EHP được tách từ tuyến gan tụy của tôm nhiễm bệnh và nuôi cấy trong dung dịch muối

cân bằng Hank. Trong điều kiện

này, ở nhiệt độ phòng (25-28°C), bào tử bắt đầu nảy mầm. Việc quan sát trực quan dưới kính

hiển vi (x1000) xác định sự nảy

mầm bằng cách theo dõi sự

phát triển của lông roi. Tỷ lệ bào

tử EHP có lông roi so với bào tử

không có lông roi được tính toán

để xác định tỷ lệ nảy mầm.

Thí nghiệm bao gồm một nhóm

đối chứng (chỉ sử dụng dung dịch

Hank) và ba nhóm thử nghiệm, trong đó mỗi nhóm được bổ sung

một sản phẩm khác nhau ở nồng

độ 0,0625% trong dung dịch

Hank + bào tử EHP.

Kết quả cho thấy các hợp chất

phenolic đạt hiệu quả nhất trong

việc kiểm soát sự nảy mầm của

bào tử EHP, tiếp theo là hỗn hợp

tinh dầu thực vật 2, trong khi hỗn

hợp tinh dầu thực vật 1 có tác

động tối thiểu đến tỷ lệ nảy mầm

(Hình 1).

Thử nghiệm in vivo với EHP

Techna đã kết hợp những

thành phần gốc thực vật tốt

nhất để tạo ra sản phẩm thương

mại EHPROTECT nhằm giảm

thiểu các đợt bùng phát EHP và hạn chế ảnh hưởng của chúng.

EHPROTECT đã trải qua các thử

nghiệm để chứng minh hiệu quả.

Một thử nghiệm in vivo được

thực hiện tại ShrimpVet đã

chứng minh tác dụng tích cực

của EHPROTECT (2 - 4 kg/MT)

đối với tôm nhiễm EHP. Những

con tôm có trọng lượng ban đầu

1,6 g được nuôi trong các bể 250

L trong 50 ngày, trong đó có thử

thách EHP từ ngày 16 đến ngày

23, tiếp theo là giai đoạn quan sát. Mỗi phương pháp điều trị

được lặp lại trên sáu bể, mỗi bể

chứa 50 con tôm. EHPROTECT

đã được bổ sung vào khẩu phần

ăn trước khi sản xuất.

1

2

3

Tôm bị nhiễm EHP (đối chứng dương) cho thấy tốc độ tăng trưởng giảm, tỷ lệ chết tăng và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) cao hơn so với tôm không bị thử nghiệm (đối chứng âm). Việc bổ sung

EHPROTECT với liều lượng 2 kg/ MT và 4 kg/MT đã cải thiện đáng kể các chỉ số này. Tỷ lệ chết giảm

lần lượt 27,1% và 52,9%, FCR cải

thiện lần lượt 41,8% và 56,0%, và trọng lượng cuối cùng cao hơn lần

lượt 16,1% và 45,7% đối với tôm

được điều trị với EHPROTECT ở liều

2 kg/MT và 4 kg/MT (Hình 2, 3). EHP vẫn là một mối đe dọa

lớn đối với người nuôi tôm, đặc

biệt là ở khu vực châu Á. Tuy nhiên, các phụ gia thức ăn, như EHPROTECT, có thể giúp giảm tác động của EHP thông qua nhiều cơ chế khác nhau. Các kết quả trên cho thấy EHPROTECT có thể hỗ trợ trong việc hạn chế các đợt bùng phát EHP và ngăn ngừa dịch bệnh này. Các biện pháp an toàn sinh học và phòng ngừa mạnh mẽ là những yếu tố quan trọng khác để giảm thiểu tác động của EHP.

Tuấn Minh Theo Aquafeed

Cám gạo lên men

THÀNH PHẦN THỨC ĂN GIÀU PROTEIN CHO TÔM SÚ

Quá trình lên men làm tăng hàm lượng protein, giảm hàm

lượng xơ, cải thiện chất lượng axit amin và nâng cao hệ số

tiêu hóa của cám gạo.

Kỹ thuật lên men thể rắn

Nhiều quốc gia châu Á vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu thành phần thức ăn cho tôm sú, trong đó, khô đậu (SBM) là nguồn protein quan trọng nhất. Tuy nhiên, ngành nuôi trồng thủy sản đang cạnh tranh nguồn cung khô đậu với ngành chăn nuôi. Do đó, nguyên liệu thức ăn nội địa như cám gạo thu hút sự chú ý bởi giá rẻ và nguồn cung dồi dào.

Các sản phẩm từ gạo thường không được sử dụng trong thức ăn cho tôm vì chúng có giá tương đương sản phẩm từ lúa mì nhưng không có đặc tính kết dính thức ăn.

Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện nhằm cải thiện chất lượng cám gạo để tăng khả năng sử dụng như thành phần thức ăn chăn nuôi. Biến đổi sinh khối thông qua quá trình lên men thể rắn (SSF) là một trong những kỹ thuật như vậy. Quá trình này giúp tăng khả năng cung cấp dinh dưỡng qua những thay đổi do hoạt động trao đổi chất của vi sinh vật, làm tăng protein và đường hòa tan, đồng thời giảm các carbohydrate phức tạp. Đến nay, chưa có báo cáo nào công bố về việc sử dụng cám gạo lên men (FRB) trong thức ăn cho tôm. Mới đây, trại giống của Viện Nuôi trồng Thủy sản, Khoa Thủy sản và Khoa học Đại dương, Đại học Philippines Visayas ở Miagao, Philippines đã thực hiện thử nghiệm với cám gạo lên men trên ấu trùng tôm sú (PL15) chất lượng tốt và sạch bệnh. Ấu trùng tôm được thích nghi và nuôi trong ao bạt trong 30 ngày. Cuối giai đoạn ươm, tôm được chuyển sang hệ thống thí nghiệm. Con tôm giống được phân bố ngẫu nhiên vào 20 ị bể nhựa 60 lít có hệ thống nước biển tuần hoàn, mật độ 15 con tôm/bể và được thích nghi trong 7 ngày.

Thử nghiệm sử dụng cám gạo lên men (FRB) như một nguồn protein thay thế khô đậu (SBM) trong khẩu phần ăn cơ bản của tôm sú. Cụ thể, FRB thay thế SBM

theo tỷ lệ 0% (T0), 12,5% (T12.5), 25% (T25), 37,5% (T37.5) và 50% (T50). Năm nghiệm thức đều có thành phần protein thô 44%, mỗi nghiệm thức được thực hiện lặp lại 4 lần và kéo dài 50 ngày.

Cải thiện giá trị dinh dưỡng

cám gạo

Kết quả của nghiên cứu cho thấy quá trình lên men đã giảm

khoảng bảy lần hàm lượng chất

xơ trong cám gạo so với cám gạo

chưa qua lên men. Hàm lượng

chất xơ tổng (TDF) trong cám

gạo dao động 20-30%, và gần

90% trong số đó là chất xơ không

hòa tan (IDF). Hàm lượng cao xơ không hòa tan là nguyên nhân

khiến giá trị dinh dưỡng của cám

gạo thấp và việc sử dụng cám

gạo trong thức ăn còn hạn chế.

Kỹ thuật lên men thể rắn đã

làm tăng hàm lượng protein trong cám gạo lên khoảng ba lần so với nguyên liệu ban đầu. Số

lượng axit amin trong FRB cũng

tăng lên so với cám gạo chưa lên men, cho thấy sự cải thiện về chất lượng protein. Các nghiên

cứu khác cũng ghi nhận sự cải thiện tương tự về hàm lượng protein và chất lượng axit amin.

Sự cải thiện protein liên quan đến vi sinh vật, là tinh chất protein tự nhiên, vì nó chứa các protein dễ tiêu hóa với đầy đủ các axit amin thiết yếu.

Chỉ số axit amin thiết yếu của FRB đạt 84%, được đánh giá là một nguồn protein chất lượng tốt và tương đương khô đậu. Chỉ số

điểm hóa học của FRB cho thấy tryptophan là axit amin hạn chế.

Axit amin của cám gạo lên men phụ thuộc vào loài vi sinh vật và nguyên liệu được sử dụng trong quá trình lên men.

Thay thế khô đậu

Kết quả của nghiên cứu này xác nhận tính khả thi của FRB về thay thế khô đậu trong khẩu phần cho ấu trùng tôm sú. Việc thay thế 25% khô đậu bằng FRB đã mang lại sự cải thiện rõ rệt về tăng trọng, tốc độ tăng trưởng đặc hiệu, tỷ lệ chuyển hóa thức ăn và tỷ lệ hiệu quả protein. Thế nhưng, không có sự tác động đáng kể đến hiệu suất tăng trưởng khi thay thế khô đậu

ở mức độ cao hơn. Điều này cho thấy quá trình lên men có thể cải thiện giá trị dinh dưỡng của cám gạo và có thể sử dụng để thay

thế một phần khô đậu trong khẩu phần của tôm sú.

Trong nghiên cứu trên cá tra trước đây, FRB thay thế 20%

SBM. Các nghiên cứu khác cũng báo cáo những tác động tích cực tới tăng trưởng của tôm khi thay thế SBM bằng chất thải nông nghiệp. Ví dụ, tôm thẻ được cải thiện tăng trưởng khi ăn bột khoai lang lên men.

FRB không ảnh hưởng tiêu cực

tới thành phần dinh dưỡng của

tôm sú. Hơn nữa, khả năng giữ protein ở tôm được cải thiện khi

thay thế SBM lên đến 25%. Tuy nhiên, khi thay thế SBM ở mức

cao hơn, mức độ giữ protein tương

tự như nhóm đối chứng do sự gia

tăng axit amin thiết yếu trong các

khẩu phần có chứa FRB, dẫn đến

khả năng giữ protein hiệu quả

hơn. Kết quả này trái ngược với

các nghiên cứu khác, trong đó việc thay thế một phần SBM bằng

các chất thải nông nghiệp lên men không có tác động đáng kể đến khả năng giữ protein của tôm. Phân tích axit amin của tôm sú sau thử nghiệm cho ăn cho thấy mức lysine trong tôm được cho ăn 50% FRB thay thế khô đậu cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng. Lysine, cùng với nhiều axit amin khác, đóng vai trò quan trọng trong hương vị của tôm. Hơn nữa, axit glutamic – một chất quyết định vị ngon, tăng cao hơn ở nhóm tôm sú ăn 50% FRB. Những kết quả này cho thấy FRB có thể cải thiện các đặc tính cảm quan của tôm sú. Nghiên cứu hiện tại chỉ ra rằng quá trình lên men thể rắn có thể cải thiện giá trị dinh dưỡng của cám gạo thành nguyên liệu thức ăn giàu protein cho tôm sú bằng cách làm tăng hàm lượng protein, giảm hàm lượng xơ, cải thiện axit amin và nâng cao hệ số tiêu hóa của nguyên liệu. Kết quả cho thấy FRB có thể thay thế một phần SBM trong khẩu phần ăn mà không ảnh hưởng đến hiệu suất tăng trưởng và giá trị dinh dưỡng của tôm. Việc thay thế 25% SBM bằng FRB giúp tăng trưởng tôm, và thay thế 50% FRB có thể thay thế hoàn toàn SBM mà không làm ảnh hưởng đến sự phát triển của tôm. Do đó, cần nghiên cứu thêm để đánh giá việc thay thế hoàn toàn SBM bằng FRB.

Dũng Nguyên

Shutterstock

Bắc Kạn

Nuôi cá điêu hồng VietGAP, hướng phát triển thủy sản bền vững

Nuôi cá điêu hồng theo tiêu chuẩn VietGAP

còn khá mới với người nuôi cá tại tỉnh Bắc

Kạn. Năm 2024, Trung tâm Khuyến nông tỉnh

Bắc Kạn đã phối hợp với Viện nghiên cứu Nuôi

trồng thủy sản I triển khai thành công mô hình

tại hồ chứa thôn Phiêng Bang, xã Văn Lang,

huyện Na Rì.

Mô hình nằm trong dự

án “Xây dựng mô

hình nuôi cá diêu

hồng trên sông/hồ đạt chứng

nhận VietGAP” giai đoạn 2022 - 2024 với nguồn kinh phí hỗ

trợ của Trung tâm Khuyến nông

Quốc gia quy mô 225 m3 lồng, thí

điểm tại 02 hộ nuôi.

Sở dĩ, các chuyên gia lựa chọn

cá diêu hồng (hay còn gọi là cá

rô phi đỏ) nuôi tại Bắc Kạn là bởi, so với các loài khác, giống cá này có nhiều ưu điểm vượt trội như ít

bị nhiễm các loại bệnh thường

gặp, có thể nuôi thâm canh với

mật độ cao 100 con/m3 lồng bè.

Trong mô hình này, nhà nước sẽ hỗ trợ 55% kinh phí giống, 50% thức ăn công nghiệp, vôi, chế phẩm sinh học, men vi sinh...; 55% thuê đơn vị kiểm tra, đánh giá và chứng nhận VietGAP theo quy trình kỹ thuật và toàn bộ kinh phí tập huấn kỹ thuật, tổ chức hội thảo tổng kết mô hình có sự tham gia của người dân. Nông dân đóng góp công lao động và đối ứng phần còn lại. Theo thống kê của Trung tâm Khuyến nông tỉnh Bắc Kạn, với 22.500 con cá giống ban đầu được thả, sau 6 tháng nuôi, tỷ lệ sống đạt trên 80%, cá lớn nhanh,

Ảnh:

đạt trọng lượng bình quân từ 0,6 -0,72 kg/con, sản lượng gần 11,7 tấn. Sau khi tr ừ các chi phí như con giống, thức ăn, thuốc phòng trị b ệnh, công chăm sóc bảo vệ,… người nuôi thu lãi khoảng 100 triệu đồng/225 m3, nghĩa là trung bình mỗi mét khối nuôi thu sẽ được khoảng 450.000 đồng.

Ông Lương Văn Hiến, thôn Phiêng Bang, xã Văn Lang, huyện Na Rì là hộ được lựa chọn để thực hiện mô hình. Thông qua các lớp tập huấn trước khi thả giống đã giúp ông nắm rõ hơn kỹ thuật chọn, thả giống, chăm sóc quản lý, phòng bệnh, sử dụng vitamin C, các loại men trong thời gian nuôi và ghi chép sổ sách nhật ký.

“Qua thời gian nuôi, tôi nhận thấy cá diêu hồng lớn nhanh, phù hợp với điều kiện của địa phương và đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, hiện nay, việc tiêu thụ cá

diêu hồng cần có sự liên kết giữa

các hộ dân quanh vùng nuôi cá lồng”, ông Hiến chia sẻ.

Theo ông Triệu Đức Thông, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh Bắc Kạn, nuôi cá diêu hồng trong lồng trên sông/hồ

chứa đã được người dân trong tỉnh thực hiện có hiệu quả điển

hình như tại Sông Năng, xã Thượng Giáo, huyện Ba Bể và một số hồ chứa tại huyện Na Rì.

Trong đó, việc thực hiện mô

hình nuôi cá diêu hồng trên sông/ hồ đạt chứng nhận VietGAP từ

nguồn kinh phí Trung tâm Khuyến

nông Quốc gia hỗ trợ đã góp phần

nâng cao nhận thức cho người dân về việc hình thành nghề nuôi cá lồng, qua đó giúp mở ra hướng

làm ăn mới, tạo thu nhập ổn định cho người dân.

“Với mô hình này, người nuôi ít gặp rủi ro, hạn chế phát sinh dịch

bệnh. Thời gian tới, Trung tâm

sẽ tuyên truyền tới các hộ nuôi cá lồng tiếp tục duy trì và nhân

rộng mô hình để nâng cao giá

trị sản phẩm gắn với phát triển

thủy sản bền vững, nâng cao thu nhập. Qua đó, sự liên kết gắn với

liên kết tiêu thụ sản phẩm cũng

sẽ được thuận lợi hơn”, Phó Giám

đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh

Bắc Kạn cho biết.

Được biết, tỉnh Bắc Kạn có diện tích hồ chứa thủy lợi, thủy

điện khoảng 382 ha (gồm 39 hồ

chứa thủy lợi, thủy điện, trong đó có 12 hồ chứa lớn vừa có tiềm

năng phát triển nuôi cá lồng, 27 hồ chứa nhỏ phát triển nuôi theo hình thức thả trực tiếp vào lòng hồ). Phát huy lợi thế của địa phương, Trung tâm Khuyến nông tỉnh Bắc Kạn đã phối hợp với một số huyện triển khai thành công các mô hình, dự án nuôi cá trong

lồng bè. Bằng các giải pháp ứng dụng khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất, nhiều mô hình bước đầu mang lại những kết quả rõ rệt. Thực tế, mô hình nuôi cá diêu hồng trên sông/hồ đạt chứng nhận VietGAP đã và đang cho thấy hiệu quả có giá trị kinh tế cao cần được nhân rộng sản xuất trong thời gian tới. Việc áp dụng quy trình nuôi theo hướng VietGAP trong nuôi thủy sản sẽ góp phần thay đổi nhận thức của người nuôi về cách đầu tư, chăm sóc, quản lý môi trường ao nuôi, phòng bệnh cho cá, nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo thuận lợi về đầu ra. Đây cũng là giải pháp để phát triển bền vững thủy sản tại tỉnh Bắc Kạn.

Bình Minh

CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA

Khuyến nông 2025

Hành động vì một nông nghiệp bền vững, một cộng đồng gắn kết

Đây là thông điệp của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT

Lê Minh Hoan gửi Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, hệ thống khuyến nông và khuyến nông cộng

đồng cả nước nhân dịp xuân mới 2025.

Đóng góp quan trọng trong nền nông nghiệp

Năm 2024, mặc dù đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, tuy nhiên ngành NN&PTNT tiếp

tục vượt khó vươn lên, đạt nhiều thành tựu đáng tự hào. Trong đó, khuyến nông Việt Nam tiếp tục khẳng định sự đổi mới toàn diện với tinh thần xuyên suốt:

“Ở đâu có nông dân, ở đó có khuyến nông”.

PGS.TS Lê Quốc Thanh, Giám

đốc Trung tâm Khuyến nông

Quốc gia cho biết, không chỉ riêng năm 2024 mà nhiều năm trở lại đây, thay đổi lớn nhất của

hệ thống khuyến nông là tư duy

đổi mới và nhận thức đúng về vai trò của khuyến nông trong

sự nghiệp xây dựng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh.

Trước đây, nói đến vai trò của khuyến nông, chủ yếu chỉ một

chiều, nghĩa là tiếp thu giải pháp khoa học kỹ thuật, công nghệ, chuyển giao mô hình…Tuy nhiên, những năm gần đây, hệ thống khuyến nông đã thay đổi mạnh mẽ để phát huy vai trò kết nối, tương tác và đa chiều, từ đó mở rộng không gian khuyến nông, khẳng định vai trò trung tâm của hệ thống khuyến nông. Trong lĩnh vực thủy sản, khuyến nông để lại dấu ấn thông qua việc triển khai các mô hình nuôi cá biển, tôm sú, tôm thẻ chân trắng tập trung công nghiệp, ứng dụng công nghệ hiện đại xây dựng vùng nguyên liệu phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Cùng với đó là các mô hình chuỗi liên kết tổ hợp tác/HTX, liên kết tiêu thụ sản phẩm theo hướng thân thiện với môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; mô hình khai thác hải sản xa bờ,

triển khai thác thủy sản Việt Nam theo Quyết định số 339/QĐ-TTg

của Thủ tướng Chính phủ và công tác chống khai thác IUU.

Đặc biệt, năm 2024, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã tổ chức 276 lớp tập huấn cho trên 1.000 học viên là các cán bộ khuyến nông, cộng tác viên khuyến nông và nông dân trên cả nước, nội dung tập huấn bám sát vào chủ trương, định hướng của Bộ NN&PTNT. Chương trình đã góp phần nâng cao nhận thức, kỹ năng cho cán bộ khuyến nông, nông dân về sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ và phát triển bền vững ngành nông nghiệp.

Chuyển mình cùng kỷ nguyên mới của đất nước

Năm 2025, đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên dân tộc vươn mình, hướng đến mục tiêu giàu có và thịnh vượng. Hệ thống khuyến nông cũng có sự thay đổi để tiếp tục đóng góp nhiều hơn vào sự nghiệp xây dựng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh.

Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia Lê Quốc Thanh nhấn mạnh, việc chuyển giao những tiến bộ kỹ thuật mới, công nghệ cao ngày càng trở nên cấp thiết với nông dân Việt Nam. Chiến lược phát triển Khuyến nông Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2050 sẽ là chính sách quan trọng để đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong kỷ nguyên mới. Tư duy xuyên suốt là tiếp tục đổi mới

Thông điệp mới của Khuyến nông Việt Nam trong thời gian tới sẽ là: “Khuyến nông Việt Nam đồng hành cùng nông dân xây dựng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh”.

mạnh mẽ hình thức tổ chức và hoạt động, khuyến nông không chỉ chuyển giao khoa học kỹ thuật mà còn tiếp cận nhiều nhiệm vụ khác.

“Chúng tôi đặt mục tiêu trở thành hệ sinh thái khuyến nông thị trường. Từng bước chuyển

đổi tư duy hoạt động khuyến

nông theo hướng phát triển

khuyến nông dịch vụ, khuyến nông thị trường, khuyến nông theo nhu cầu, khuyến nông có sự tham gia, khuyến nông đa giá trị, khuyến nông chuỗi ngành hàng

và chuyển đổi số…Năm 2025 và những năm tiếp theo, hệ thống

khuyến nông chắc chắn sẽ tiếp tục khẳng định vị trí quan trọng

của mình trong việc xây dựng nền sản xuất nông nghiệp có trách nhiệm, xứng tầm với vị thế quốc gia”, ông Thanh chia sẻ.

Kế hoạch, mục tiêu và giải pháp thực hiện nhiệm vụ khuyến nông năm 2025 là đạt hiệu quả, tiết kiệm, chống lãng phí; tiếp tục thực hiện Đề án Tổ Khuyến nông cộng đồng, trong đó xây dựng, củng cố cơ chế vận hành, mô hình hoạt động nhằm phát triển lực lượng khuyến

nông, tăng thu nhập cho cán bộ khuyến nông; tập trung xây dựng vùng nguyên liệu có hiệu quả, có địa chỉ rõ ràng. Bên cạnh đó, tập trung xây dựng, triển khai các dự án hiệu quả, sản xuất theo hướng liên kết tiêu thụ sản phẩm, sản xuất theo hướng hữu cơ, tuần hoàn, đa giá trị…Tập trung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ khuyến nông về

chuyên môn, kỹ năng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác khuyến nông trong thời kỳ mới; đổi mới phương pháp đào tạo tại hiện trường để tăng tính hấp dẫn và hiệu quả.

Đồng thời, khuyến nông cũng sẽ tiếp tục tăng cường hợp tác

công - tư, phối hợp với các tổ chức, doanh nghiệp. Đổi mới mạnh mẽ hình thức tổ chức và

hoạt động khuyến nông, đảm

bảo tinh gọn, hiệu quả, phù hợp với từng loại hình sản xuất và

địa phương. Tăng cường phối hợp khuyến nông nhà nước với

khuyến nông doanh nghiệp để chuyển giao, nhân rộng, thương

mại hóa kết quả nghiên cứu. Phát triển các tổ chức trung gian kết nối công nghệ, cung cấp dịch vụ

thông tin, tư vấn, môi giới công nghệ cho doanh nghiệp khởi nghiệp, trang trại, hợp tác xã. Hướng đến kỷ nguyên mới, khuyến nông sẽ tiếp tục đổi mới để xây dựng hệ thống ngày càng chuyên nghiệp, hiện đại, xây dựng hình ảnh người cán bộ khuyến nông thời kỳ mới có đầy đủ kỹ năng, trí tuệ, khoa học, có thể đáp ứng mọi yêu cầu của công tác khuyến nông.

Trong thư của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan gửi Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, hệ thống khuyến nông và khuyến nông cộng đồng mới đây, ông viết:

“Mỗi anh chị trong hệ thống khuyến nông đều là những “người gieo hạt”. Không chỉ gieo hạt giống tri thức mà còn gieo những hạt mầm hi vọng vào lòng người. Mỗi lần chúng ta lắng nghe một nông dân, hỗ trợ một hợp tác xã là mỗi lần chúng ta khơi lên ánh sáng trong những đôi mắt đã từng lấm lem âu lo. Chúng ta không chỉ nói về năng suất, sản lượng, mà còn cùng bà con tìm ra ý nghĩa của từng mảnh đất, từng giọt mồ hôi trên đồng ruộng.

Hãy bước vào năm 2025 với niềm tin rằng, từng giọt mồ hôi trên cánh đồng, từng câu chuyện chúng ta kể với nông dân, từng bước đi của hệ thống khuyến nông đều sẽ góp phần làm nên một nền nông nghiệp bền vững, một đất nước trù phú và một cộng đồng hạnh phúc”.

Dấu hiệu nhận biết bệnh do vi bào tử trùngEHP

Hiện nay, hầu hết tất cả các vùng miền ở Viêt Nam đều có tỷ lệ nhiễm EHP rất cao trong các ao nuôi, đa phần người nuôi chọn cách thu tôm và nuôi lại vụ mới.

Dấu hiệu nhận biết:

+ Có nhiều đốm trắng đục trên cơ thể tôm.

+ Tôm bị lỏng ruột, phân đứt khúc, đường ruột bị cong, xoắn lò xo.

+ Tôm bị phân trắng, chết rải rác và có thể chết lên đến 100kg/ngày sau 1 tuần nhiễm EHP.

Cách xử lý tôm bị phân trắng có yếu tố vi bào tử trùng

Tình trạng ao tôm trước khi xử lý

Khách hàng dự định sẽ thu tôm vào ngày sau (đã thu ao trước đó), nhưng sau khi xem xét, đánh giá về sức khỏe tôm và môi trường nước, Công ty Thái Nam Việt đã đề nghị giữ lại để xử lý ngăn chặn bệnh EHP.

Ngày bắt đầu: 11/07/2022

- Ao 6.000 m3, thả 500.000 post, lượng ăn ban đầu 50 kg/ngày (do đó lượng tôm hao hụt do bệnh nhiều)

- Tôm 49 ngày tuổi, size 150 con/kg

- Tôm bị nhiễm EHP kéo theo phân trắng với các biểu hiện: đục cơ thân, ốp, ruột xoắn, kích

cỡ không đồng đều.

Các sản phẩm vi sinh - chế phẩm sinh

học dùng trong quy trình Thái Nam Việt

Kết quả

Sau 1 ngày: tôm sáng bóng hơn, phần cơ

bị đục chuyển sang màu sáng, ruột giảm cong

xoắn, lên mồi nhẹ.

tử trùng

Sau ngày 3: đáy ao không còn đen, chuyển sang bùn xám, tôm khỏe hơn, hết xoắn ruột, lượng ăn tăng lên 54 kg/ngày.

Sau ngày 7: tôm khỏe, ruột gan đen và đầy, lượng ăn 75 kg/ngày, nước màu trà trong, đáy dẻ, bùn xám.

Sau đó dùng định kỳ

Ngày 31/08/2022: sau 51 ngày dùng vi sinh để ức chế ngăn chặn phân trắng, kết quả thu tôm:

- Tôm 100 ngày, lượng ăn 100k g/ngày.

- Tôm sáng bóng, chắc khỏe, màu đẹp.

- Thu hoạch được 4,1 tấn.

- Tỷ lệ sống 89,65% (tính từ lúc bắt đầu dùng vi sinh Thái Nam Việt).

- Tôm không đồng đều do ảnh hưởng của EHP.

- Lợi nhuận hơn 200 triệu (có giảm do dùng kháng sinh nhiều trong 49 ngày đầu!).

Kết luận

Vi bào tử trùng làm suy giảm chức năng các cơ quan gan tụy, mô tôm… và là cơ hội cho

các bệnh khác tấn công, gây ra thiệt hại rất lớn cho người nuôi. Việc xử lý sớm kịp thời, chính xác và toàn diện sẽ giúp ngăn chặn được sự tiến triễn mạnh mẽ của EHP cũng như các bệnh khác, giúp giảm thiểu thiệt hại cho tôm. Bằng kinh nghiệm thực tế cùng với các sản phẩm chất lượng cao, Công ty Thái Nam Việt tin rằng có thể hỗ trợ đưa người nuôi về đích, mang lại một vụ mùa thành công.

59 63 66

info@thainamviet.com

thainamviet.com

Tôm xoắn ruột Tôm ốp thân Tôm đục cơ

Quy trình kiểm soát bệnh do vi bào tử trùng EHP bằng sản phẩm BIO

Tổng quan

Vi bào tử trùng là bệnh ở tôm do ký sinh trùng Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) gây ra. Ký sinh trùng này là 1 loại vi bào tử trùng ký sinh gây nhiễm trên tuyến gan tụy của tôm thẻ chân trắng và tôm sú. Nó sẽ khiến cho tôm chậm hấp thu, tôm chậm lớn hoặc gây nhiễm trùng mãn tính, nghiêm trọng hơn, tôm không lớn, ngừng phát triển,… gây thiệt hại cho người nuôi tôm.

Kiểm soát EHP

Cải tạo ao nuôi sau khi nhiễm

EHP:

Đối với ao lót bạt: Xả bỏ hết nước ao nuôi, sau đó dùng Chlorine tẩy rửa vệ sinh bạt, nhằm tiêu diệt mầm bệnh vi khuẩn, virus,… rồi phơi ao 7 - 10 ngày. Dùng NaOH pha loãng để ngâm vệ sinh dụng cụ, hố ga,… tiêu diệt mầm bệnh EHP.

Đối với ao đất: Rất khó xử lý do vi bào tử trùng EHP có thể bám lẫn trong bùn đất. Vì vậy ngoài việc vệ sinh sạch bùn đáy ao, cần rải vôi nung CaO quanh ao liều 500 - 600 kg/1.000 m2

để đưa pH = 12 và phơi trong 5 - 7 ngày để diệt hiệu quả mầm bệnh EHP. Tiếp theo, cấp nước vào, tiến hành diệt khuẩn bằng

Chlorine liều 30 ppm và ngâm tiếp 10 ngày.

Sau đó tạt vi sinh BIO BACTER hoặc BIO SUPER BAC và khoáng

chất vào nước ao chuẩn bị nuôi tôm để giúp phục hồi chất lượng

nước ao tôm.

Trước khi thả tôm giống 3 ngày: Diệt khuẩn bằng Iodine hoặc BIO PARACIDE for Aqua liều

1 lít/1.000 m3 nước và tiến hành

đo các thông số môi trường đạt

chuẩn về pH, độ mặn, độ kiềm, hàm lượng ôxy hòa tan,… thì mới tiến hành thả tôm.

Chọn giống và thả giống tôm:

Chọn tôm giống khỏe mạnh, tôm được cho sản xuất từ các cơ sở uy tín chất lượng.

Xét nghiệm tôm giống bằng

PCR để xác định tôm giống sạch

bệnh, không nhiễm các bệnh nguy hiểm như vi khuẩn gây

bệnh hoại tử gan tụy, vi bào tử

trùng EHP,…

Trước khi thả giống: Tạt BIO ANTISHOCK hoặc BIO

ANTISTRESS liều 1 kg/1.000 m3

nước để hạn chế tôm bị sốc.

Chăm sóc tôm giai đoạn tháng đầu tiên (giai đoạn 1):

Ngoài việc chọn thức ăn tốt, đạt

chuẩn cho tôm ăn thì cần bổ sung trong mỗi cữ ăn thêm các chất tăng cường sức đề kháng, tăng

cường miễn dịch như Vitamin C, Beta Glucan có trong sản phẩm

BIO ACTIVIT for shrimp.

Thường xuyên đo các thông số môi trường (sáng và chiều) để kịp thời điều chỉnh phù hợp bằng cách xi phông, thay nước, dùng vi sinh xử lý chất hữu cơ, chất bài thải,… duy trì môi trường nuôi tôm luôn tốt.

Thường xuyên theo dõi, quan sát tôm để phát hiện những bất thường như tôm mềm vỏ, cong thân, mòn đuôi,… có phương án xử lý kịp thời.

Chăm sóc tôm giai đoạn từ tháng thứ 2 đến thu hoạch (giai đoạn 2):

Ngoài các bước chăm sóc tôm như giai đoạn 1. Người nuôi cần lưu ý bảo vệ đường ruột

tôm bằng cách bổ sung thường xuyên các dòng enzyme và men tiêu hóa như BIOZYME hoặc BIO POLYZYME for Aqua.

Định kỳ 10 ngày một đợt sử dụng sản phẩm axit hữu cơ BIO LACTAZYME for Aqua New liều 5 ml/kg thức ăn, dùng liên tục trong 7 - 10 ngày để ức chế vi khuẩn có hại phát sinh trong đường tiêu hóa của tôm và hạn chế sự phát triển của vi bào tử trùng EHP.

Định kỳ thay nước, xi phông chất bài thải và xử lý vi sinh để duy trì môi trường nuôi tôm luôn tốt, thích hợp cho tôm tăng trưởng, khỏe mạnh, không dịch bệnh, cho kết quả nuôi đạt năng suất cao.

Hồng

Cố vấn kỹ thuật Công ty liên doanh Bio-Pharmachemie

Thủy Sản Hiệu Quả

Cùng

Nano Bubbles

Xu hướng tất yếu của

năm 2025

Ngành nuôi trồng thủy sản đang bước vào giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ khi nhu cầu về thực phẩm sạch ngày càng gia tăng, trong khi thách thức về môi trường và chi phí sản xuất ngày càng lớn. Để tối ưu hóa năng suất và giảm thiểu rủi ro, các trang trại nuôi tôm, cá đang tìm kiếm những giải pháp công nghệ tiên tiến, trong đó Nano Bubbles nổi lên như một lựa chọn mang tính đột phá, tối ưu hóa chi phí vận hành, trở thành xu hướng tất yếu trong ngành thủy sản năm 2025.

Nano Bubbles là những bong bóng khí siêu nhỏ, chỉ từ 80-120 nanomet, có thể duy trì oxy hòa tan lâu hơn trong nước so với các phương pháp sục khí truyền thống. Nhờ đó, môi trường ao nuôi luôn được đảm bảo ở mức oxy lý tưởng, giúp giảm stress

cho vật nuôi, hạn chế tình trạng

chết non và tăng tỷ lệ sống.

Ngoài việc tăng cường oxy, Nano Bubbles còn có khả năng

oxy hóa mạnh, giúp phân hủy

chất hữu cơ, giảm thiểu các khí

độc, từ đó hạn chế sự phát triển

của vi khuẩn có hại, giảm nguy cơ bùng phát dịch bệnh và giúp

nước trong ao duy trì trạng thái

sạch, ổn định trong thời gian dài.

Công nghệ Nano Bubbles của Công Ty TNHH B.H.N được

thiết kế với các mức công suất

vô cùng đa dạng, từ 100m³/giờ, 300m³/giờ, 500m³/giờ đến trên

1.000m³/giờ, thậm chí có thể

đáp ứng quy mô lớn hơn như

10.000m³/giờ hay 20.000m³/ giờ, phù hợp với mọi nhu cầu trong xử lý nước. Các hệ thống này không chỉ đáp ứng các ao nuôi nhỏ lẻ mà còn phục vụ hiệu

quả cho các trang trại thủy sản quy mô lớn.

Việc ứng dụng Nano Bubbles

không chỉ giúp cải thiện hiệu suất

nuôi trồng mà còn giảm đáng

kể chi phí vận hành do tiết kiệm

điện năng, hạn chế nhu cầu sử dụng hóa chất xử lý nước. Trong

bối cảnh ngành thủy sản đang

hướng đến mô hình phát triển

xanh và bền vững, Nano Bubbles là công nghệ tiên tiến giúp đảm bảo sản xuất hiệu quả, ổn định và thân thiện với môi trường. B.H.N

áp dụng di truyền học

Các quốc gia châu Mỹ và châu Á đã tăng cường sản

xuất tôm mà không có sự gia tăng tương ứng về nhu

cầu, dẫn đến giá cả giảm thấp trong nhiều thập kỷ.

Việc đầu tư vào các chiến lược và công cụ liên quan

đến cải tiến gen giúp nâng cao hiệu quả sản xuất tôm

và duy trì tính cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt trong

sản xuất con giống.

Tác động của chọn lọc di truyền

Cải thiện gen có thể tăng cường đáng kể

hiệu quả sản xuất tôm bằng cách chọn lọc các cá thể có tốc độ tăng trưởng nhanh, khả năng kháng bệnh tốt và thích nghi với các điều kiện môi trường.

Cải tiến gen ở tôm không chỉ giới hạn ở giai đoạn tăng trưởng và vỗ béo mà còn có tác

động đến các thông số sinh sản như số lần đẻ mỗi chu kỳ và số lượng trứng, ấu trùng. Điều này giúp nâng cao chất lượng nguồn tôm bố mẹ, giảm chi phí và tăng lợi nhuận về lâu dài.

Nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng, cải thiện tần suất sinh sản có thể được di truyền với tỷ lệ từ 15% - 37%; cải thiện số lượng trứng và ấu trùng tương ứng khoảng 17% - 26% và 18%.

Thông tin về hệ gen cũng giúp người nuôi hạn chế tình trạng giao phối cận huyết trong nguồn tôm bố mẹ, điều này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ lệ tăng trưởng và sống sót. Mặc dù tác động của cận huyết đối với các thông số sinh sản chưa được nghiên cứu rộng rãi, nhưng yếu tố này cũng gây ra những ảnh hưởng đáng kể. Sự gia tăng 10% trong cận huyết làm giảm tỷ lệ thụ tinh của trứng từ 3% - 26.0% và giảm số lượng ấu trùng từ 2.9% - 24.6%. Quản lý cận huyết thông qua giám sát di truyền và các phép lai chiến lược là rất cần thiết.

Các chương trình chọn lọc gen của CAT

Trung Tâm Công Nghệ Thủy sinh (CAT) chuyên thực hiện các chương trình cải tiến gen được

giống

nhu cầu của khách hàng và thị trường. Các chương trình này sử dụng chỉ thị di truyền và thông tin về hệ gen học để tạo dữ liệu cho các chương trình chọn lọc hàng loạt, phả hệ hoặc chọn lọc theo bộ gen, nhằm cải thiện đặc tính hình thái chính cho khách hàng.

Các bước để thiết lập một chương trình cải thiện gen:

1. Xác định mục tiêu: Xác định các đặc tính cần cải thiện như tốc độ tăng trưởng, khả năng kháng bệnh, hiệu quả sinh sản.

2. Đánh giá cơ bản: Thực hiện đánh giá tổng quan về di truyền (GO) để xác định sự đa dạng di truyền hiện có, mức độ cận huyết và các mối quan hệ trong quần thể tôm.

3. Chọn các dấu hiệu di truyền: Lựa chọn các dấu hiệu di truyền phù hợp (các bảng SNP) để theo dõi các biến thể di truyền và hướng dẫn chọn lọc.

4. Thiết kế chương trình: Phát triển chiến lược nhân giống bao gồm chọn lọc đại trà, nhân giống theo gia đình hoặc chọn lọc bộ gen dựa trên mục tiêu và nguồn lực.

5. Triển khai: Bắt đầu chọn lọc và nhân giống dựa trên các dấu hiệu và đặc tính mong muốn.

6. Giám sát và điều chỉnh: Liên tục giám sát tiến độ và điều chỉnh chương trình nhân giống để đảm bảo cải thiện liên tục và bền vững. Các dự án nghiên cứu tại CAT tiếp tục đẩy mạnh giới hạn của di truyền tôm. Bao gồm việc chọn lọc gen và công nghệ chỉnh sửa hệ gen để nâng cao hiệu quả cho quá trình lai tạo. Bằng cách tập trung vào các đặc tính liên quan

đến tỷ lệ tăng trưởng, kháng bệnh và hiệu quả sinh sản. Những nỗ lực này nhằm cải thiện chất lượng sản xuất tôm, cho phép thực hiện các sửa đổi DNA của tôm để tăng cường các đặc điểm mong muốn. Các phòng thí nghiệm nghiên cứu, như tại CAT ở San Diego, đang đi đầu trong việc phát triển các công nghệ này, với tiềm năng tạo ra một cuộc cách mạng hóa ngành nuôi tôm trong tương lai gần. Cải thiện gen giúp tăng cường hiệu quả sản xuất và duy trì tính cạnh tranh trong ngành công nghiệp tôm. Bằng cách tập trung vào việc sản xuất những con giống khỏe mạnh, kháng bệnh tốt với các thông số sinh sản tốt, ngành công nghiệp có thể giải quyết những thách thức hiện tại và đảm bảo một tương lai bền vững. CAT có thể giúp thiết lập một phương pháp cải thiện gen toàn diện, mang lại lợi ích cho các nhà sản xuất bằng cách giảm chi phí, tăng lợi nhuận và thúc đẩy sản xuất tôm bền vững.

Carlos Pulgarin, Marcos De Donato, Alejandro Gutierrez

Nam Định

CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA

Trở thành nông dân

sản xuất giỏi nhờ nuôi cá

Đó là mô hình của anh Đặng Văn Ba, hội viên Chi hội

nông dân thôn 2, xã Mỹ Hưng, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam

Định. Nhờ nuôi cá theo hướng an toàn với thị trường

tiêu thụ ổn định nên trung bình mỗi năm trang trại của

anh cung cấp ra thị trường khoảng 30 - 35 tấn cá; trừ

chi phí, thu lãi 500 - 600 triệu đồng/năm. Để đảm bảo chủ

Ảnh: Lam Hồng

Nuôi kết hợp

Năm 1992, anh Ba bắt đầu khởi nghiệp làm kinh tế trang trại với số vốn ít ỏi 7 triệu đồng. Lúc mới làm trang trại, anh triển khai mô hình lúa - cá, vừa trồng lúa, vừa thả cá trôi, chép, trắm cỏ. Đến năm 2005, anh chuyển sang nuôi cá trắm đen giống, cá trê giống, cá chim thương phẩm, cá rồng, cá koi cảnh, kết hợp thêm chăn nuôi lợn để tăng thêm thu nhập.

Sau hơn 30 năm gắn bó với nghề nuôi trồng thủy sản, hiện anh Đặng Văn Ba đang sở hữu trang trại nuôi trồng thủy sản rộng đến 4 ha, gồm 13 ao. Con nuôi chủ lực là cá trắm đen, nuôi xen với cá Koi và cá chép Nhật.

Theo anh Ba, cá trắm đen có sức đề kháng cao, ít bệnh tật, rất dễ nuôi; chịu được nhiệt độ thấp. Nhờ đó, cá phát triển và lớn nhanh. Hơn nữa, so với các giống cá truyền thống khác như trắm cỏ, chép, trôi… thì nuôi cá trắm đen cho hiệu quả kinh tế cao hơn, gấp 2 - 3 lần. Mỗi lứa nuôi kéo dài từ 10 - 12 tháng, có

thể cho thu hoạch. Lúc đó, cá trắm đen xuất bán ra thị trường có trọng lượng trung bình 8 kg/ con; có con lên tới 10 kg.

“Hàng năm, sản lượng cá trắm đen đạt 20 tấn, cá Koi 10 tấn, chép Nhật 5 tấn. Nhờ chăn nuôi cá theo hướng an toàn, thị trường tiêu thụ ổn định nên trung bình mỗi năm trang trại cung cấp ra thị trường khoảng 30 - 35 tấn cá; trừ chi phí, thu lãi 500 - 600 triệu đồng/năm”, anh Ba chia sẻ.

Đầu tư công nghệ

Theo anh Ba, bí quyết thành công ở mỗi vụ nuôi là cần lựa con giống khỏe mạnh, bơi lội linh hoạt, không dị tật, không mang mầm bệnh. Trong quá trình nuôi, cần cho ăn đúng giờ, đúng định lượng thức ăn, không để dư thừa gây ô nhiễm môi trường nước. Định kỳ hàng tháng, lấy mẫu nước ao đưa đi phân tích, để có biện pháp điều chỉnh xử lý cho phù hợp. Đồng thời, cần sử dụng các chế phẩm vi sinh để xử lý môi trường nuôi, làm sạch nguồn nước và chuyển hóa

các chất thải, thức ăn thừa thành sinh vật phù du có lợi cho cá. Bên cạnh đó, anh thường xuyên bổ sung các loại vitamin vào thức ăn để tăng sức đề kháng cho cá.

Việc cho ăn đầy đủ, môi trường nước đảm bảo và sử dụng hệ thống tạo ôxy giúp cá trong ao khỏe mạnh, tốc độ lớn nhanh, ít bệnh hơn. Tuy nhiên, cá nuôi rất nhạy cảm với sự thay đổi thời tiết ở miền Bắc, vì vậy, người nuôi cần quan sát kỹ hoạt động của cá. Nếu thấy cá có dấu hiệu bơi lờ đờ, hay nổi trên mặt nước, màu ước thay đổi, vẫn đục bất thường thì cần có biện pháp xử

lý kịp thời.

Bên cạnh việc chú trọng khâu chăm sóc, anh Ba đã mạnh dạn đầu tư thêm các máy móc, phương tiện phục vụ chăn nuôi tại trang trại như: Máy trộn thức ăn, máy bơm, ôtô, camera an ninh, hệ thống giám sát, điều chỉnh tự động kết nối với điện thoại… Việc kết hợp kỹ thuật nuôi truyền thống với hiện đại, ứng dụng công nghệ, tuân thủ nghiêm ngặt

trong quá trình nuôi, anh Ba tích cực học hỏi kinh nghiệm, dày công nghiên cứu, tìm hiểu kiến thức để tự chủ được công nghệ nhân giống cá trắm đen, cá Koi. Nhờ đó, hạn chế được tỷ lệ hao hụt trong vận chuyển, tiết kiệm được chi phí sản xuất.

quy trình khoa học đã góp phần nâng cao giá trị nông sản, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Mô hình nuôi thủy sản của nông dân Đặng Văn Ba trở thành điểm sáng trong phong trào “Nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững”, đồng thời là mô hình điển hình thi đua “Dân vận khéo” ở địa phương. Mô hình có sức lan tỏa sâu rộng, thu hút sự quan tâm, học hỏi từ nhiều hội viên trong vùng và trên địa bàn huyện, được các cấp, các ngành biểu dương, khen thưởng, khích lệ. Thanh Hiếu

Cải tiến mô hình trồng rong biển

nuôi tôm tại Việt Nam

Ông CK, người sáng lập Rongbient, muốn cải thiện

hai “nút thắt” của ngành tôm Việt Nam gồm lợi nhuận thấp và suy thoái môi trường bằng một mô hình mới. Trong đó, rong biển được sử dụng như máy lọc sinh học, thành phần thức ăn và nguồn thu

nhập bổ sung cho các hộ nuôi tôm quy mô nhỏ.

Trồng rong biển kiểu mới

Theo CK, ngành nuôi tôm ở Việt Nam đang chật vật kiểm soát tác động tiêu cực đến môi trường khi mỗi tấn tôm từ các trang trại thâm canh thải ra tới 14 tấn khí carbon, trong khi thức ăn chủ yếu phải nhập khẩu và lượng sử dụng kháng sinh vẫn ở mức cao. Mặt khác, mô hình nuôi tôm quảng canh của các hộ nông dân nhỏ lẻ không có hệ thống xử lý nước hiệu quả nên tỷ lệ sống của tôm thấp, ao nuôi suy thoái. Lúc này, rong biển, đặc biệt là rong câu chỉ (Gracilaria), chính là giải pháp nâng cao năng suất và tăng thu nhập cho nông dân, đồng thời giảm chi phí và tác động môi trường.

cải thiện. Rongbient áp dụng mô hình cho thuê để khuyến khích nông dân sử dụng.

“Chúng tôi không yêu cầu nông dân phải thay đổi canh tác, chỉ cần đặt hệ thống trồng rong biển lên mặt ao và để nó phát triển và chúng tôi tới thu hoạch hai tháng một lần. Nông dân chỉ cần trả phí thuê khi đến kỳ thu hoạch.

Chúng tôi hiện có một vài hecta trồng rong thí điểm, giúp nông dân tăng gấp đôi thu nhập nhờ bán rong biển cũng như cải thiện tỷ lệ sống của tôm, từ 33% lên 42%”, ông CK nói.

Tái sử dụng thức ăn Sau thu hoạch, Rongbient chế biến rong biển thành phụ gia thức ăn cho các trang trại nuôi tôm thâm canh. Các chất phụ gia từ rong biển đang dần

được ưa chuộng tại châu Á nhờ

hiệu quả tốt trong việc giảm tỷ lệ mắc các bệnh như EHP, WFS và EMS, đồng thời cải thiện hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR), thậm chí chống lại vi khuẩn Vibrio.

Tại Việt Nam, Rongbient đã ghi nhận những kết quả tích

cực tương tự trong giai đoạn thử nghiệm. Người sáng lập

Rongbient cho biết: “Tỷ lệ sống đã cải thiện, sản lượng cũng tăng 5- 8%. Mặc dù FCR giảm, nhưng trọng tâm chính của chúng tôi là các chất phụ gia thức ăn gồm kháng sinh, probiotic... Đến nay, chúng tôi đã giảm được 20% lượng sử dụng. Công ty sẽ hợp tác với một trong những nhà xuất khẩu tôm lớn nhất để cải thiện những con số trên với mục tiêu cắt giảm 50% lượng phụ gia.

Thức ăn chiếm 50-70% tổng

chi phí nuôi tôm ở Việt Nam, Indonesia

trong đó các chất phụ gia chiếm 20-30%. Nếu có thể cắt giảm 50% phụ gia này có thể giảm 1015% tổng chi phí. Nếu chúng ta cũng có thể cải thiện tỷ lệ sống, thì lợi nhuận của nông dân có thể tăng gấp đôi. Đó là giá trị mà chúng tôi mang lại”.

Mở rộng quy mô

Các đối tác của Rongbient rất quan tâm đến hệ thống nuôi tôm và trồng rong biển, đồng thời mong muốn áp dụng hệ thống này cho cộng đồng nếu công ty có thể mở rộng 20.000-30.000 ha. Các trang trại nuôi tôm ở Cà Mau hiện chiếm diện tích lên đến 280.000 ha nên tiềm năng rất lớn. Mặc dù kết quả ban đầu cho đến nay rất tích cực, nhưng việc tìm kiếm nguồn vốn để mở rộng giải pháp này đang gặp nhiều khó khăn.

Tuy nhiên, Rongbient sử dụng lưới phủ trên mặt ao nuôi tôm

để tận dụng ánh sáng mặt trời trực tiếp và thúc đẩy tốc độ tăng trưởng. Lưới cần có mắt khá nhỏ vì rong Gracilaria dễ gãy. Nhờ nuôi kết hợp với tôm, công ty không cần bổ sung thêm dưỡng chất.

Trong lần thử nghiệm đầu tiên, rong biển đạt tốc độ sinh trưởng 2,5%/ngày; sau đó tăng lên 3,2%/ngày, và còn tiếp tục

“Chúng tôi đang cố gắng huy động 500.000 USD để mở rộng cung ứng và cải thiện quy trình, nhưng Việt Nam một thị trường rủi ro hoặc quá nhỏ đối với các nhà đầu tư quốc tế, trong khi các nhà đầu tư địa phương thường thích những ý tưởng đã được chứng minh thành công ở nước ngoài và có thể được điều chỉnh để phù hợp với bối cảnh địa phương. Tuy nhiên, tôi vẫn nỗ lực tìm kiếm nguồn vốn bởi mô hình nuôi tôm của Rongbient là một giải pháp thực tế và hiệu quả”, ông CK cho biết thêm. Dũng Nguyên

Bài viết chia sẻ kết quả nghiên cứu “Xác định khả năng gây bệnh

mờ đục (TPD) ở hậu ấu trùng tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) của chủng vi khuẩn Vibrio paraheamolyticus Vp4-24’’

nhằm cung cấp thông tin làm cơ sở khoa học cho các biện pháp

Từ năm 2020, tại các trại giống ở Trung

Quốc xuất hiện bệnh mới với tên gọi

bệnh mờ đục (TPD) hay còn gọi với tên khác là bệnh thủy tinh (GPD) trên hậu ấu

trùng TTCT, gây thiệt hại lớn về sản lượng tôm giống (Zou et al., 2020). TPD xuất hiện ở giai

kiểm soát bệnh trong nuôi tôm nước lợ. (A và B) Khuẩn lạc vi khuẩn trên môi trường TCBS; (C và D) Khuẩn lạc vi khuẩn trên môi trường ChromagarTM Vibrio và vi khuẩn nhuộm màu gram âm, hình que ngắn (100X).

đoạn từ PL4 - 7 và độc lực cao hơn nhiều so với

bệnh hoại tử gan tụy cấp tính với tỷ lệ chết trên

90% trong 3 ngày cảm nhiễm (Zou et al., 2020).

Hiện nay TPD được nghi ngờ đã xuất hiện ở

các trại tôm giống và trại nuôi thương phẩm (giai đoạn đầu sau thả giống) gây thiệt hại đáng kể cho người nuôi tôm trong nước.

Tóm tắt nghiên cứu

Thí nghiệm cảm nhiễm được thực hiện tại

phòng cảm nhiễm tôm tại Trường Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ sử dụng bể thủy tinh (thể tích 30 L). Nước dùng cho thí nghiệm có độ mặn 15 ppt được khử trùng bằng Chlorine với nồng độ (30 ppm), sục khí liên tục để loại Chlorine. Tôm sử dụng cho thí nghiệm cảm nhiễm là TTCT (Litopenaeus vannamei) giai đoạn PL12 - 15, khỏe mạnh được sản xuất tại Trường Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ. Tôm

được bố trí 150 con/nghiệm thức (chia thành

3 bể/nghiệm thức, 50 con tôm/bể (chứa 10

L nước có độ mặn 15 ppt). Thí nghiệm cảm nhiễm được bố trí gồm 4 nghiệm thức: (1) Đối chứng, không cảm nhiễm với vi khuẩn; (2) cảm nhiễm với chủng V. parahaemolyticus Vp36 gây bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (EMS/ AHPND) (Oanh et al., 2023); (3) cảm nhiễm với chủng V. parahaemolyticus Vp4-24 (mật độ 5 x 102 CFU/ml); (4) cảm nhiễm với chủng V. parahaemolyticus Vp4-24 (mật độ 103 CFU/ ml). Tôm được gây cảm nhiễm bằng cách cho

dung dịch vi khuẩn vào bể thí nghiệm. Trong quá trình thí nghiệm cho tôm ăn bằng thức ăn viên theo nhu cầu. Các chỉ tiêu môi trường được đo gồm pH, NH3 /NH4 +, hàm lượng ôxy hòa tan (DO) và nhiệt độ. Biểu hiện bệnh lý của tôm và số tôm chết được ghi nhận hàng ngày. Chọn tôm còn sống, có biểu hiện lờ đờ, khi quan sát bên ngoài thấy gan tụy teo, nhợt nhạt, ruột giữa và dạ dày trống để phân tích mô bệnh học nhằm quan sát sự biến đổi cấu trúc mô gan tụy ở mức độ tế bào. Mẫu tôm bệnh được ngâm trực tiếp vào dung dịch cố định Davidson’s (AFA) với tỷ lệ 1:10 từ 24 - 48 giờ sau đó chuyển sang cồn 70° để bảo quản. Tiêu bản mô bệnh học được thực hiện theo phương pháp của Lightner (1996) và đọc kết quả theo Lightner et al. (2012), quan sát dưới kính hiển vi ở các vật kính khác nhau. Chụp hình các tiêu bản đặc trưng.

Kết quả

Vi khuẩn phân lập được là vi khuẩn Gram âm, hình que ngắn, di động, dương tính với các chỉ tiêu oxidase và catalase, lên men đường trong điều kiện hiếu khí và kỵ khí, có khả năng phát triển trên môi trường thiosulfate citrate bile salt với khuẩn lạc màu xanh, tròn, lồi và đường kính 2 - 3 mm.

Dựa vào các đặc điểm hình thái, sinh lý, sinh hóa và kết quả của kít API 20E, các chủng vi

khuẩn được định danh là V. parahaemolyticus Kết quả này tương tự như ghi nhận của Oanh et al. (2018) về các chủng vi khuẩn V. parahaemolyticus phân lập từ TTCT.

Kết quả PCR ghi nhận chủng vi khuẩn dương tính với gen tlh của V. parahaemolyticus (Oanh et al., 2018). Đồng thời cũng phát hiện gen vhvp 1 (351 bp) và vhvp 2 (303 bp và 362 bp). Chủng V. parahaemolyticus phân lập được từ nghiên cứu này có mang gen độc lực cao vhvp 1 và vhvp 2 tương tự chủng V. parahaemolyticus gây TPD do Liu et al. (2023) công bố. Vi khuẩn có khả năng gây bệnh ở hậu ấu trùng TTCT khi cảm nhiễm ngâm với mật độ 103 CFU/ml với dấu hiệu bệnh lý và mô bệnh học giống như tôm bệnh thu từ trại giống. Đặng Thị Hoàng Oanh Trường Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ

Biện pháp chống rét cho thủy sản

Vào mùa Đông, thời tiết rét đậm, rét hại có thể gây

bất lợi cho sinh trưởng và phát triển của thủy sản

nuôi. Do đó, người dân cần theo dõi chặt chẽ diễn

biến thời tiết, thực hiện tốt biện pháp chăm sóc thủy

sản để hạn chế thiệt hại.

Chuẩn bị ao Ao nuôi cá: Cần lựa chọn ao có diện tích vừa phải thường là từ 500 - 1.000 m2, chiều dài của ao tránh hướng Đông Bắc. Cần có nguồn nước sạch để cấp cho ao nuôi, đảm bảo hệ thống cấp thoát nước đầy đủ. Bờ ao vững chắc và duy trì độ sâu mực nước từ 1,5 - 2 m, có, có đăng chắn, ao dễ gây màu nước có độ dày bùn đáy từ 15 - 20 cm. Các yếu tố thủy lý, thủy hóa phù hợp pH > 7, hàm lượng ôxy hòa tan > 5 mg/lít.

Nuôi trong bể: Đối với những cơ sở có hệ thống bể trong nhà thì nên nuôi thủy sản qua đông trong hệ thống bể. Bể nuôi đảm bảo có nguồn nước tốt, có sục khí, có hệ thống nâng nhiệt, đảm bảo nhiệt độ nước trong bể > 20 0 C. Đối với ương giống qua đông, nên nuôi trên bể để hạn chế thiệt hại. Ao nuôi tôm: Ao có diện tích từ 1.0003.000 m2, thiết kế hình vuông, được lót bạt hoặc bê tông hóa, có lắp đặt hệ thống xi phông đáy. Người nuôi nên đầu tư làm nhà bạt để ổn định nhiệt độ. Mái ao lợp kín bằng lớp plastic đảm bảo che mưa và giữ nhiệt, phía trên có lớp màn che nắng cơ động để điều chỉnh ánh sáng; xung quanh là cửa sổ thông gió và hệ thống điều chỉnh nhiệt độ. Mái trong nhà có hệ thống đèn chiếu sáng vào những ngày tối trời để tảo trong nhà nuôi phát triển.

Quản lý môi trường

Luôn đảm bảo nhiệt độ nước ao > 20 0 C. Vì thế, đối với ao nuôi ngoài thời, cần làm khung và che phủ bề mặt ao nuôi bằng nilon sáng màu (nếu có đủ điều kiện). Hoặc có thể thả bèo tây trên mặt ao từ ½ - 2/3 diện tích mặt ao nuôi về phía Bắc để chắn gió, cách nhiệt không khí, tăng khả năng giữ nhiệt cho nước

ao nuôi và khi có ánh nắng sẽ tăng khả năng hấp thụ năng lượng mặt trời bổ sung nhiệt cho ao nuôi.

Dùng sọt rơm,… làm nơi trú ẩn. Tạo một góc ao sâu về phía Bắc, dùng các sọt đan bằng tre lấy rơm rạ dùng nước vôi phun vào sát trùng, phơi thật khô ấn đầy vào sọt, cắm cọc đơm sọt xuống đáy ao. Lúc trời rét cá, lươn,… chui vào sọt tránh rét. Có thể đào hầm cạnh ao làm nơi trú ẩn cho cá. Đối với nuôi ếch, hang trú ẩn cho ếch được làm bằng đất hoặc bằng các ống nhựa, ống tre, có một đầu rỗng, các ống này dài 0,5 - 0,6 m, đường kính 0,15 - 0,16 m, bó thành từng bó 5 - 6 cái cho ếch chui vào trú, ống đặt ở góc hoặc thành bờ ao, trên ống dùng rơm rạ phủ để chắn gió cho ếch. Nếu nuôi trong bể xi măng dùng bạt hoặc túi nilon phủ kín mặt bể tránh rét cho ếch.

Định kỳ dùng vôi bột hay một số thuốc sát trùng như đồng sulfat, thuốc tím, muối, BKC… theo hướng dẫn của nhà sản xuất để ngăn chặn sự xâm nhập của các mầm bệnh. Đặc biệt, khi nhiệt độ thay đổi, thủy sản sẽ di chuyển xuống

đáy ao. Vì vậy, cần đặc biệt chú ý môi trường đáy ao, bởi đây là nơi tích tụ các mùn bã hữu cơ, khí độc, nấm và vi khuẩn có hại. Tăng cường

sục khí để cung cấp đủ hàm lượng ôxy cho các

tầng nước, hạn chế tình trạng stress. Theo dõi chặt chẽ các yếu tố môi trường và tình trạng sức khỏe của thủy sản để có những điều chỉnh phù hợp.

Chăm sóc sức khỏe Đối với các trại sản xuất giống cần có biện pháp chủ động đưa đàn tôm, cá lên hệ thống bể để có

với các đối tượng thủy sản nuôi đạt kích cỡ thương phẩm đến kỳ

là các đối tượng chịu rét kém như cá rô phi, cá chim trắng, cá chuối, ba ba, cá vược, cá chim vây vàng,... cần tổ chức thu hoạch, không để xảy ra hiện tượng thủy sản chết do rét. Trư ớc các đợt rét đậm, rét hại, c ần tăng cư ờng b ổ sung dinh dư ỡng cho cá để cá khỏe, có sứ c đề kháng với b ệnh t ật và tăng khả năng chống chịu với thời tiế t lạnh kéo dài bằng cách cho cá ăn đầy đủ thứ c ăn, đảm bảo về số lư ợng và chất lư ợng. Cho thủy sản nuôi ăn đầy đủ, sử dụng các loại thức ăn có chất lượng cao, khẩu phần ăn phù hợp. Đồng thời bổ sung Vitamin, BComplex để tăng sức đề kháng cho tôm, cá. Khi nhiệ t độ nư ớc xuống dư ới 18 0 C, nên giảm 1/2 lư ợng thứ c ăn cho cá ăn. Khi nhiệt độ nước xuống thấp dưới 15 0 C cần ngừng cho cá ăn vì ở ngưỡng nhiệt độ đó động vật thủy sản gần như ngừng bắt mồi, nếu đưa thức ăn xuống sẽ gây ô nhiễm môi trường ao nuôi. Khi nhiệt độ từ 150 C trở lên, tranh thủ cho cá ăn vào thời điểm nhiệt độ cao nhất trong ngày. Trong suốt thời gian rét đậm, rét hại, tuyệt đối không được dùng lưới, các loại phương tiện thu tỉa để đánh bắt cá, tránh cá bị xây xát dẫn đến nhiễm bệnh. Đối với nuôi cá lồng, cần di chuyển lồng, cá vào khu vực kín gió, che chắn bề mặt lồng nuôi bằng bạt để giữ ấm cho cá và hạn chế sương muối. Cùng đó, cần thả sâu lồng nuôi từ 1,8 - 2 m để giữ ấm cho cá; thường xuyên vệ sinh để nước không bị ô nhiễm, hạn chế gây bệnh cho cá.

 Mô tả công việc

Tư vấn, giới thiệu sản phẩm, công nghệ, dịch vụ trực tiếp tới khách hàng

Tìm kiếm khách hàng mới, chăm sóc khách hàng cũ và khách hàng tiềm năng

Cập nhật thông tin sản phẩm mới, giá cả, tính năng để tư vấn cho khách

Bán hàng, chăm sóc hệ thống đại lý cũ, mở đại lý mới

Phát triển và mở rộng thị trường, quảng bá hình ảnh và thương hiệu của công ty

 Yêu cầu chung

Chủ động trong công việc

2. GIÁM ĐỐC KINH DOANH VÙNG

Số lượng: 5 người

CÔNG TY CỔ PHẦN BQ&Q

Địa chỉ: H75, Khu nhà ở Thới An, Phường Thới An, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại: 1900 9030

Webside: bqq.com.vn

Email: bqqcorp@gmail.com

Làm việc tại: Bến Tre, Bạc Liêu, Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang

Kinh nghiệm 3 - 5 năm

Mô tả công việc:

Quản lý hoạt động kinh doanh, bán hàng khu vự quản lý

Xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch, phương án kinh doanh các sản phẩm Phối hợp với các bộ phận xây dựng kế hoạch tiếp thị, phát triển khách hàng và thị trường

Quyền lợi: - Lương cơ bản + Doanh số… - Làm việc được nghỉ theo quy định nhà nước, thưởng

Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.