CON TOM T5/2025

Page 1


Đặc

san CON TÔM

Hội Thủy sản Việt Nam

CHỦ NHIỆM TS Nguyễn Việt Thắng

PHỤ TRÁCH

PGS.TS. Nguyễn Chu Hồi

BAN BIÊN TẬP

Dương Xuân Hùng, Trưởng Ban Biên tập

Đỗ Huy Hoàn, Nhà báo

Phạm Thu Hồng, Nhà báo

Dương Nam Anh, Nhà báo

THƯ KÝ TÒA SOẠN Kim Tiến

CỘNG TÁC NỘI DUNG

Minh Thanh, Hải Đăng, Vũ Mưa, Lê Cung, Phạm Duy Tương, Phan Thanh Cường, Nguyễn Anh, Lê Hoàng Vũ, Mai Xuân Trường

KỸ THUẬT VI TÍNH

Phạm Dương

TÒA SOẠN

Lầu 2, Nhà B,

116 Nguyễn Đình Chiểu, P. Đa Kao, Q.1, TP Hồ Chí Minh

Điện thoại: 028.62777616

Email: toasoan.contom@gmail.com

Văn phòng tại Hà Nội:

Tầng 3, nhà A7, số 10 Nguyễn Công Hoan, Ba Đình, Hà Nội

Điện thoại: 0243.7713699

LIÊN HỆ QUẢNG CÁO

VIETNAMMEDIA Communication Co., Ltd. Điện thoại: (028) 62.777.616

DĐ: 0944.663.828

Email: nghia@thuysanvietnam.com.vn

ĐẶT MUA TẠP CHÍ

Điện thoại: (024) 3.771.1756

Email: vunathuysan@gmail.com

TÀI KHOẢN NGÂN HÀNG

Tên tài khoản: CÔNG TY TNHH TRUYỀN THÔNG

VIETNAMMEDIA Số 8614227979

Ngân hàng Đầu tư & Phát triển

Việt Nam (BIDV) - Chi nhánh Bà Chiểu

Giấy phép xuất bản

Số 70/GP-XBĐS ngày 11/06/2024

In tại Công ty TNHH MTV Lê Quang Lộc (TP Hồ Chí Minh)

Thưa Quý vị bạn đọc!

4 tháng đầu năm 2025, tôm tiếp tục khẳng định vị thế là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ngành thủy sản, đóng góp 1,27 tỷ USD, tăng 30% so cùng kỳ. Riêng tháng 4/2025, kim ngạch xuất khẩu tôm đạt 330,8 triệu USD, tăng 15%, nhờ nhu cầu tiêu thụ mạnh tại Trung Quốc, EU và Nhật Bản, cùng với sự hồi phục giá tôm do cung - cầu được tái cân bằng.

Sự khởi sắc của thị trường cũng kéo theo những bước đi lên đáng kể của sản xuất trong nước, giá tôm nguyên liệu đã tăng khá trở lại, người nuôi tôm bắt đầu có lãi nhiều hơn.

Xuất khẩu hanh thông, nhưng sản xuất trong nước còn nhiều nỗi lo, bởi hiện không khí mùa vụ vẫn khá trầm lắng trên khắp các vùng nuôi tôm ở ĐBSCL. Bên cạnh đó, tình hình thu hoạch tôm cũng không mấy khả quan, dẫn đến nguồn cung tôm nguyên liệu không đủ đáp ứng nhu cầu. Nguyên nhân chủ yếu là do tác động bất lợi từ thời tiết và dịch bệnh khiến tỷ lệ nuôi thành công không như mong đợi. Biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường đã khiến cho nghề nuôi tôm trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Trong bối cảnh đó, người nuôi tôm Việt Nam đang nỗ lực tìm kiếm phương pháp nuôi phù hợp để đối phó với những thách thức ngày một gia tăng. Trong đó, áp dụng công nghệ và ứng dụng chuyển đổi số là giải pháp cần thiết và phù hợp khi nghề nuôi tôm chịu nhiều áp lực như hiện nay.

Thực tế cho thấy, thời gian qua, việc ứng dụng công nghệ số trong quản lý ao nuôi đã được doanh nghiệp, chủ trang trại thực hiện nhằm tối ưu hóa một số khâu trong quy trình nuôi và tiêu thụ. Từ đó, giúp tiết kiệm thời gian, hạn chế rủi ro, tăng tỷ lệ thành công. Đây là những nội dung chính của Đặc san Con Tôm phát hành tháng 5/2025. Ngoài ra, trong số này vẫn là các chuyên trang, chuyên mục cập nhật về thị trường, khoa học kỹ thuật, mô hình, hoạt động doanh nghiệp,… Mời các bạn đón đọc và góp ý.

Trân trọng! BAN BIÊN TẬP

Tòa soạn luôn hoan nghênh sự đóng góp và các bài viết đặc sắc về ngành tôm từ các CTV, bạn đọc gần xa. Thư và bài vở xin gửi về: TạpchíThủysảnViệtNam - Lầu 2, Nhà B, 116 Nguyễn Đình Chiểu, P. Đa Kao, Q.1, TP Hồ Chí Minh

Điện thoại: 028.62777616

Email: toasoan.contom@gmail.com Hoặc liên hệ trực tiếp theo số điện thoại: 0374 099 498 (Ms. Kim Tiến) Website: www.thuysanvietnam.com.vn  www.contom.vn

Theo dòng thời sự

T14-15: Chủ động vượt khó, duy trì tăng trưởng

Vấn đề - Sự kiện

T16-17: Thúc đẩy số hóa ngành tôm

Tòa soạn - Bạn đọc

T18-19: Hạn chế tác động xấu khi Mỹ áp thuế đối ứng

Thị trường xuất khẩu

T24-25: Các kịch bản cho con tôm tại thị trường Mỹ

Nhìn ra thế giới

T30-31: Ngành tôm Thái Lan: Linh hoạt trước biến động thị trường

toàn cầu

Thức ăn - Dinh dưỡng

T36-37: Protein ngô lên men: Phụ phẩm mới, giá trị cao

Khoa học - Kỹ thuật

T38: Hạn chế ảnh hưởng khi sang tôm

T39: Kinh nghiệm nuôi tôm mùa nóng

Thông tin doanh nghiệp

T42-43: CP Solution Center: Trung tâm giải pháp kỹ thuật

T44-45: Phileo by Lesaffre: Vì mục tiêu không kháng sinh trong tương lai

T46: Giới thiệu về máy Nano Bubbles: Công nghệ tiên tiến cho tương lai bền vững

T47: Biện pháp xử lý bệnh đường ruột trên tôm

Mô hình điển hình

T50: Ưu thế nuôi tôm công nghệ RAS-IMTA

Đồng hành cùng nhà nông

T54-55: Nâng cao tỷ lệ sống cho tôm

HẢI

Tăng lợi nhuận nhờ nuôi tôm càng xanh

Phát huy tiềm năng, lợi thế, những năm qua, Trung tâm

Khuyến nông Hải Phòng triển khai nhiều mô hình nuôi tôm càng xanh toàn đực theo quy trình VietGAP và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Năm 2024, Trung tâm Khuyến nông Hải Phòng triển khai mô hình tại hộ ông Phạm Văn Nhiêu (xã Tiên Minh, huyện Tiên Lãng) với quy mô 0,7 ha. Kết quả, mô hình được các chuyên gia đánh giá đạt yêu cầu với tỷ lệ sống tăng 4 -10%, chi phí giảm và năng suất tăng 25 - 80% so với nuôi truyền thống; lợi nhuận cao hơn 3055%. Để đảm bảo đầu ra, Trung tâm Khuyến nông Hải Phòng đã hỗ trợ người dân liên kết với doanh nghiệp thu mua sản phẩm sau thu hoạch. Trong đó, người nuôi thực hiện đúng cam kết, đúng quy trình, còn doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi cho người nuôi.

Nghi Sơn quyết xóa bỏ nuôi tôm trái phép

Theo thống kê của Đội kiểm tra quy tắc xây dựng - UBND thị xã Nghi Sơn, trong 3 năm qua trên địa bàn thị xã có 119 hộ nuôi tôm tự phát trái phép trên đất nông nghiệp, đất dự án. Để khắc phục tình trạng này, Đội kiểm tra quy tắc xây dựng thị xã Nghi Sơn đã phối hợp với các phòng, đơn vị liên quan, UBND các xã phường triển khai tuyên truyền, vận động các trường hợp vi phạm tự tháo dỡ các công trình nuôi tôm trái phép. Đến nay, vẫn còn 62 trường hợp nuôi tôm trái phép chưa tháo dỡ. Nguyên nhân là do trong thời gian yêu cầu tháo dỡ thì tôm mới được thả vào bể nuôi, nguồn đầu tư lớn nên người dân xin các cấp chính quyền cam kết tháo dỡ sau khi thu hoạch xong vụ gần nhất. Trên tinh thần đó, Đội kiểm tra quy tắc xây dựng tiếp tục quán triệt các xã, phường làm đúng chỉ đạo của UBND thị xã để vận động người dân tháo dỡ bể nuôi tôm.

NINH BÌNH

Mở rộng diện tích nuôi thâm canh

Ở vùng nước mặn lợ tại Ninh

Bình, thời gian qua, diện tích nuôi TTCT thâm canh và siêu thâm canh tiếp tục được mở rộng với nhiều hình thức nuôi mới như: nuôi trong nhà bạt, nuôi trên ao nổi, nuôi nhiều giai đoạn sử dụng công nghệ vi sinh,... đã đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người nuôi. Đặc biệt, diện tích nuôi siêu thâm canh trong nhà bạt ước đạt khoảng 100 ha. Trước đây, nuôi tôm quảng canh chỉ thu được 2 tấn/ha nhưng khi ứng dụng công nghệ cao năng suất có thể đạt trung bình hơn 10 tấn/ ha và có thể nuôi 3 vụ/năm, chất lượng con tôm luôn được đảm bảo. 1 ha nuôi tôm trong nhà bạt, nông dân có thể thu về hàng tỷ đồng mỗi năm. Tại huyện Kim Sơn, mô hình nuôi tôm công nghệ cao này được triển khai từ năm 2016 với quy mô ban đầu chỉ 0,6 ha, đến nay, diện tích nuôi tôm công nghệ cao của huyện đã phát triển lên gần 75 ha.

NGUYỄN HẰNG

NGHỆ AN

Thận trọng thả giống vụ mới

Đầu tháng 4 là thời điểm bắt đầu vụ nuôi tôm chính ở Nghệ An.

Hiện, các địa phương như Quỳnh

Lưu, Diễn Châu và thị xã Hoàng

Mai đã sẵn sàng các điều kiện ao, đầm, nguồn nước để thả giống.

Tuy nhiên, thay vì ồ ạt thả giống

đồng loạt, nhiều hộ nuôi đã chọn phương án thả rải vụ, từng đợt, để thích ứng với điều kiện thời tiết và thị trường. Theo ông Lê Văn Hướng, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản và Kiểm ngư Nghệ An, do thời vụ kéo dài từ tháng 4 đến tháng 6, việc thả giống theo phương thức cuốn chiếu giúp quản lý dịch bệnh tốt hơn, đồng thời, tránh bị thương lái ép giá khi thu hoạch đồng loạt. Năm 2025, Nghệ An đặt mục tiêu diện tích nuôi tôm đạt 1.776 ha, sản lượng dự kiến đạt 10.500 tấn. Với sự chủ động trong phương pháp thả giống và ứng dụng khoa học, kỹ thuật, ngành tôm của tỉnh kỳ vọng sẽ đạt hiệu quả cao hơn so với các năm trước.

NGUYỄN AN

THÁI BÌNH

Thái Thụy thả 800 ha nuôi tôm vụ Xuân Hè

Theo thống kê, đến ngày 10/4, huyện Thái Thụy đã thả hơn 222 triệu con tôm giống trên diện tích 800 ha, gồm 122,5 triệu con tôm sú và 100 triệu con TTCT. Để giành thắng lợi trong vụ nuôi này, huyện Thái Thụy yêu cầu các địa phương sau khi hoàn thành xuống giống, cần tăng cường tuyên truyền, khuyến cáo người dân chú trọng quản lý môi trường ao nuôi và chế độ dinh dưỡng giai đoạn đầu nhằm giúp tôm phát triển tốt, giảm tỷ lệ hao hụt. Cùng với đó, thường xuyên kiểm tra các yếu tố môi trường như pH, độ kiềm,… để kịp thời điều chỉnh, xử lý phù hợp. Định kỳ sử dụng chế phẩm sinh học để phân hủy thức ăn dư thừa, hạn chế khí độc, ổn định môi trường ao, phòng ngừa dịch bệnh cho tôm. Đồng thời, cần lựa chọn thức ăn công nghiệp đảm bảo chất lượng, bổ sung thêm khoáng chất cần thiết giúp tôm sinh trưởng và phát triển tốt hơn. HUYỀN THƯƠNG

BÀ RỊA - VŨNG TÀU

Tăng cường giám sát môi trường ao nuôi

Nắng nóng gay gắt cùng với những cơn mưa trái mùa bất chợt khiến nhiều ao nuôi tôm tại Bà Rịa - Vũng Tàu bị thiệt hại. Trước tình hình thời tiết cực đoan, nhằm ngăn ngừa dịch bệnh trên tôm bùng phát, Sở Nông nghiệp và Môi trường Bà Rịa - Vũng Tàu đã triển khai nhiều biện pháp ứng phó, tăng cường công tác quan trắc, cảnh báo môi trường. Khuyến cáo người nuôi lựa chọn con giống có nguồn gốc rõ ràng, được kiểm dịch và có chất lượng tốt, thực hiện ương tôm giống trước khi thả nuôi, chỉ thả giống khi nhiệt độ nước dưới 300C và thả nuôi với mật độ hợp lý. Người nuôi nên thường xuyên kiểm tra bờ, cống ao để tránh hiện tượng rò rỉ nước. Duy trì mực nước trong ao trên 1,5 m, tích cực tạo ôxy cho ao nuôi bằng máy quạt nước, máy sục khí. Nếu có điều kiện, nên dùng lưới lan che phủ 2/3 diện tích mặt ao để hạn chế bức xạ của ánh sáng mặt trời,… LÊ LOAN

KHÁNH HÒA

Ngăn chặn nhập lậu tôm hùm giống

Trước tình trạng buôn lậu tôm hùm giống có xu hướng gia tăng, UBND tỉnh Khánh Hòa vừa có văn bản chỉ đạo các sở, ngành liên quan và UBND các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh tăng cường các biện pháp ngăn chặn nhập lậu, buôn bán, vận chuyển trái phép tôm hùm giống.

Theo đó, UBND tỉnh Khánh Hòa yêu cầu các cơ quan, đơn vị, địa phương tiếp tục thực hiện nghiêm chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, các chỉ thị từ UBND tỉnh về việc ngăn chặn tình trạng tôm hùm giống nhập lậu. Đồng thời, các địa phương phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền đến người dân, về nguy cơ dịch bệnh và thiệt hại do sử dụng tôm giống kém chất lượng từ nguồn nhập lậu.

Ngoài ra, UBND tỉnh Khánh Hòa chỉ đạo các đơn vị chức năng tăng cường kiểm tra, kiểm soát tại các cảng hàng không, đường biển, các cơ sở nuôi cách ly và cơ sở nuôi tôm. Lực lượng chức năng được yêu cầu phối hợp chặt chẽ trong

KIÊN GIANG

Hiệu quả từ nuôi tôm công nghệ cao

Đó là mô hình của ông Huỳnh Văn Hải, xã Phú Mỹ, huyện Giang

Thành. Ông Hải bắt đầu bén duyên với con tôm từ năm 2011. Từ chỗ

dùng máy nổ bơm nước, nay ông đã đầu tư hệ thống điện 3 pha để nuôi tôm công nghệ cao với chi phí gần 1,4 tỷ đồng, phục vụ 30 ao nuôi tôm, mỗi ao diện tích 1.200 m². Điểm đặc biệt trong mô hình

của ông Hải là ao nuôi được lót bạt đáy, ao lắng lọc chiếm 30% diện

tích - một cách làm để xử lý nước lấy trực tiếp từ kênh. Quy trình

nuôi tôm của ông Hải bài bản, khoa học, chuyên nghiệp. Tôm giống được chọn từ các thương hiệu uy tín. Trung bình mỗi năm ông Hải xuất bán khoảng 80 tấn tôm. Tôm cỡ 30 con/kg được thương lái Campuchia ưa chuộng, còn loại lớn hơn thì ông bán ra thị trường Hà Nội, vận chuyển bằng xe chuyên dụng có ôxy. Mỗi năm ông Hải thu lợi nhuận hơn 1 tỷ đồng.

DUY AN

Tôm hùm giống chủ yếu phụ thuộc vào nhập khẩu và khai thác tự n hiên Ảnh: ST

việc giám sát, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, đảm bảo

không để tôm hùm giống không rõ nguồn gốc xâm nhập và

phát tán trên địa bàn.

THẢO ANH

SÓC TRĂNG

Thu hoạch hơn 10.392 tấn tôm

Ông Đồ Văn Thừa, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Sóc Trăng cho biết, tính đến hết tháng 4/2025, diện tích thả nuôi tôm nước lợ của tỉnh ước hơn 12.255 ha (TTCT hơn 9.930 ha, tôm sú hơn 2.305 ha); diện tích tôm nuôi thiệt hại lũy kế đến nay là 144 ha, chiếm 1,2% diện tích thả nuôi. Diện tích tôm nuôi đã thu hoạch hơn 1.191 ha, sản lượng thu về hơn 10.392 tấn (TTCT 6.915 tấn, tôm sú 3.242 tấn). Để hỗ trợ người dân trong vụ nuôi này, ngành Nông nghiệp và Môi trường đã tổ chức quan trắc môi trường tại 28 điểm kênh đầu nguồn trên địa bàn toàn tỉnh lấy kết quả quan trắc nước đưa ra các khuyến cáo đến người nuôi tôm thông qua các phương tiện thông tin đại chúng; tổ chức tuyên truyền hộ nuôi tôm theo quy trình VietGAP,... Trong quý II/2025, địa phương đạt mục tiêu diện tích nuôi tôm nước lợ 30.000 ha; sản lượng tôm nước lợ đạt 52.200 tấn.

DUY MẠNH

TRÀ VINH

Tiến độ thả nuôi tôm còn chậm

Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường Trà Vinh, gần 4 tháng đầu năm 2025, tiến độ thả nuôi TTCT trên địa bàn còn chậm, nhất là nuôi thâm canh mật độ cao, thấp hơn cùng kỳ 285 ha, do thời tiết nắng nóng, môi trường ao nuôi chưa ổn định. Diện tích thả nuôi thủy sản trong tháng 4/2025 đạt 8.851 ha, lũy kế 4 tháng thả nuôi 33.057 ha chủ yếu nuôi mặn, lợ, trong đó, diện tích nuôi tôm sú 14.717 ha, cua 14.019 ha, TTCT 3.464 ha, đạt 54,62% kế hoạch. Dịch bệnh phát triển gây thiệt hại 38 triệu con tôm sú với diện tích 207 ha và 281 triệu con TTCT với diện tích 360 ha. Ông Trần Trường Giang, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Trà Vinh cho biết, theo dự báo, sắp tới giá thủy sản sẽ giảm, do cạnh tranh thị trường với các nước trong thời điểm thu hoạch tôm, thuế,... tuy nhiên, tỉnh sẽ tập trung nghiên cứu các giải pháp chế biến sâu, tạo liên kết để mở rộng, tìm kiếm thị trường. THÁI THUẬN

CÀ MAU

Nhân rộng nhiều mô hình bền vững

Nuôi tôm thâm canh cho năng suất, hiệu quả kinh tế cao, nhưng mô này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro do chi phí lớn, phụ thuộc nhiều vào thời tiết,... Ðể khắc phục tình trạng này, thời gian qua, nhiều mô hình ứng công nghệ mới theo hướng kinh tế tuần hoàn và thích ứng với biến đổi khí hậu đã ra đời và được áp dụng tại Cà Mau. Trong đó, mô hình nuôi TTCT siêu thâm canh 3 giai đoạn tuần hoàn ít thay nước, an toàn sinh học là điển hình. Sau một thời gian triển khai tại 5 hộ thuộc các huyện Cái Nước, Ðầm Dơi và TP Cà Mau, mô hình đã khẳng định được hiệu quả trong điều kiện biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan. Là một trong những hộ tham gia thực hiện mô hình, ông Huỳnh Thái Nguyên, xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước, cho biết, có những vụ nuôi chỉ sau 90 ngày thả giống, tôm đạt 34 - 35 con/kg, lợi nhuận có khi đạt trên 500 triệu đồng/ao (1.200 m2)/vụ. NAM CƯỜNG

ECUADOR

Cấm khai thác tôm vịnh để bảo vệ nguồn lợi

Ngày 21/4/2025, Bộ Sản xuất, thương mại, đầu tư và Thủy sản Ecuador đã công bố quyết định của Bộ trưởng số MPCEIP-SRP-20250037-A, chính thức áp dụng lệnh cấm khai thác theo mùa đối với loài tôm titi ( Protrachypene precipua ) từ ngày 22/4 đến 21/5/2025. Biện pháp này nhằm ngăn chặn đánh bắt, buôn bán và vận chuyển tôm titi trong thời gian quy định, nhằm bảo vệ các quần thể tôm non và đảm bảo tính bền vững của nguồn lợi thủy sản. Tuy nhiên, các lô tôm đã được đánh bắt trước thời điểm bắt đầu lệnh cấm vẫn có thể được lưu thông nếu tồn kho được kiểm tra và xác nhận bởi cơ quan có thẩm quyền. Mọi hành vi vi phạm sẽ bị xử lý theo Luật Thủy sản cùng các quy định đi kèm. Lệnh cấm này thể hiện cam kết lâu dài của Ecuador trong việc quản lý tài nguyên biển có trách nhiệm. Dù chỉ cấm theo mùa, đây là biện pháp điều tiết định kỳ nhằm bảo vệ sự phát triển bền vững

của các nghề cá quan trọng, bao gồm cả loài tôm titi tại vịnh Guayaquil.

ẤN ĐỘ Tìm cơ hội xuất khẩu thủy sản sang Nga trước áp

Ông Ajay Sahai, Tổng Giám đốc Liên đoàn

Tổ chức Xuất khẩu Ấn Độ (FIEO) cho biết, các doanh nghiệp thủy sản trong nước đang tích

cực tìm kiếm thị trường thay thế Mỹ, trong đó

Nga được xem là điểm đến tiềm năng. Ông Sahai

cũng xác nhận, các cuộc họp đã được tổ chức với Đại sứ quán Nga tại Ấn Độ nhằm mở rộng xuất khẩu thủy sản. Ông nhấn mạnh rằng Nga đang có xu hướng nhập khẩu nhiều hơn từ Ấn

Độ nhằm cân bằng cán cân thương mại giữa hai nước. Dù vậy, theo ông, hiện vẫn còn một số rào cản, chủ yếu liên quan đến tiêu chuẩn kiểm định nghiêm ngặt của Nga. Tuy nhiên, ông lạc quan: “Nếu thủy sản Ấn Độ đáp ứng được yêu cầu của Mỹ, thì cũng có thể đáp ứng được các tiêu chuẩn của Nga”. Mặt hàng tôm đông lạnh được kỳ vọng tăng trưởng 10 - 20% tại thị trường này. Trong năm tài chính 2024 - 2025, Ấn Độ xuất khẩu thủy sản đạt 7,4 tỷ USD, chủ yếu là tôm, nhưng Nga chỉ chiếm 1,8% trong tổng kim ngạch này.

MEXICO

Ngành tôm hồi phục nhờ thị trường quốc tế

 Các nhà xuất khẩu tôm của Ecuador đang sử dụng một cảng mới ở Peru được xây dựng bằng nguồn vốn của Trung Quốc để đưa sản phẩm của họ đến châu Á nhanh hơn. Cảng có tên gọi Chancay, do Trung Quốc đầu tư và COSCO Shipping sở hữu 60%, hiện đã hoàn thành 83%, giúp rút ngắn thời gian vận chuyển hàng hóa từ Nam Mỹ sang Trung Quốc xuống còn 23 ngày.  Trước áp lực thuế của Mỹ, Hiệp hội Nuôi tôm Ấn Độ đề nghị chính phủ bãi bỏ thuế nhập khẩu tôm bố mẹ và thức ăn giống. Hiện 100% tôm bố mẹ phục vụ sản xuất đều nhập khẩu từ Mỹ, cùng với lượng lớn thức ăn, premix và Artemia. Hiệp hội cũng kêu gọi đàm phán với Mỹ nhằm giảm thuế trừng phạt, tránh khủng hoảng cho ngành nuôi tôm.

 Ecuador ghi nhận kim ngạch xuất khẩu tôm đạt 1,23 tỷ USD trong tháng 2/2025, chiếm phần lớn trong tổng xuất khẩu sản phẩm phi dầu mỏ. Dù nhu cầu từ Trung Quốc giảm 20% do suy thoái kinh tế, xuất khẩu sang Mỹ tăng mạnh 39% và sang EU tăng 41%, giúp bù đắp sụt giảm. Tuy nhiên, ngành tôm đối mặt rủi ro khi Mỹ sẽ áp thuế 10% lên mặt hàng này từ tháng 4/2025. Fedexpor cảnh báo chính sách thương mại mới sau bầu cử có thể ảnh hưởng tăng trưởng ngành.

Ngành nuôi tôm tại bang Sinaloa thuộc Mexico đang dần phục hồi sau ba năm khó khăn, nhờ giá tôm quốc tế tăng và chính sách thuế mới từ Mỹ, theo ông Carlos Urías Espinoza, Chủ tịch Liên đoàn Nuôi trồng Thủy sản Sinaloa (Coades). Từ tháng 11/2024, giá tôm tăng mạnh tại các thị trường lớn như Ecuador, Ấn Độ và Indonesia, cùng với tỷ giá hối đoái thuận lợi, đã giúp các trại nuôi tôm ở Mexico bắt đầu có lợi nhuận trở lại, dù còn khiêm tốn. Bên cạnh đó, việc Mỹ tạm thời áp thuế cao với các quốc gia sản xuất tôm lớn gồm mức 40% với Ấn Độ, tăng thêm 10% với Ecuador và mức thuế mới cho Indonesia, Việt Nam, đã tạo lợi thế cạnh tranh đáng kể cho Mexico, hiện đứng thứ 7 thế giới về sản lượng tôm nuôi. Dù diện tích nuôi tại Sinaloa bị thu hẹp, ông Urías Espinoza cho biết các trại vẫn duy trì sản xuất từ tháng 3/2025 và lạc quan về khả năng sinh lời trong năm nay.

 Lực lượng bảo tồn động vật hoang dã bang New Hampshire đã truy tố một ngư dân từ Maine vì vi phạm quy định đánh bắt. Vào ngày 23/4, họ kiểm tra tàu của ngư dân này ngoài khơi Portsmouth và phát hiện ông đang sở hữu tôm hùm cái có dấu V (phải thả lại) và tôm hùm chưa đủ kích cỡ. Ngoài ra, tàu của ông cũng thiếu hệ thống theo dõi định vị theo quy định. Trước đó, giấy phép đánh bắt của ông đã bị đình chỉ vào năm 2023 do vi phạm tương tự.

 Theo Hiệp hội Ngư dân Canada, giá tôm hùm ở miền Bắc New Brunswick hiện nay dao động từ 6 - 6,5 USD/pound, nhưng không đủ bù đắp chi phí đang tăng cao như nhiên liệu, mồi câu và các chi phí khác. Liên đoàn yêu cầu mức giá hợp lý là 8 USD/pound, vì các chi phí đầu vào đã tăng từ 25 - 50% trong những năm qua. Họ kêu gọi các nhà mua tôm hùm điều chỉnh giá cho phù hợp.

ARGENTINA

Sản lượng tôm biển khó đạt kỷ lục

Theo báo cáo mới nhất từ Viện Nghiên cứu và Phát triển Thủy sản Quốc gia Argentina (INIDEP), dù tỉnh Chubut ghi nhận sản lượng

tôm biển cao kỷ lục nhờ đội tàu ven bờ hoạt động ổn định, tổng sản lượng tại vùng biển quốc gia năm 2025 khó đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Khảo sát gần đây cho thấy sinh khối tôm giảm 42% so cùng kỳ năm trước, còn 98.709 tấn; số lượng cá thể giảm 46%, còn khoảng 4,19

tỷ con. Nguyên nhân chủ yếu là do khai thác

mạnh từ đội tàu tại cảng Rawson (Chubut). Dù vậy, trữ lượng vẫn tương đương các năm 2021 - 2022, đủ duy trì sản lượng toàn quốc khoảng 220.000 tấn. Tính đến cuối tháng 2/2025, đội tàu Rawson đã khai thác 50.749 tấn. Phần còn lại dự kiến đạt 169.763 tấn từ tháng 3 đến tháng 12. INIDEP cảnh báo con số này có thể thay đổi do ảnh hưởng của thời tiết, khu vực cấm khai thác, và biến động môi trường. Điểm sáng là sự xuất hiện của nhóm tôm non (23 - 30 mm) và tỷ lệ 45% con cái đang sinh sản, hứa hẹn giữ vững sinh khối mùa vụ. Tuy nhiên, tỷ lệ tôm trưởng thành (31 - 39 mm) thấp hơn trung bình có thể ảnh hưởng kích cỡ tôm thương phẩm đầu vụ.

MỸ

Cáo buộc ngành tôm Ecuador vi phạm

Liên minh Tôm miền Nam Mỹ (SSA) vừa kêu gọi Bộ Thương mại Mỹ điều tra ngành công

nghiệp tôm Ecuador với cáo buộc vi phạm pháp

luật quốc tế. Ecuador hiện là nhà xuất khẩu tôm

lớn thứ hai vào Mỹ. SSA tố cáo ngành tôm nước

này hủy hoại 16,4% rừng ngập mặn ven biển từ

1985 - 2022 để phát triển nuôi trồng, sử dụng

lao động cưỡng bức và trẻ em trong chuỗi cung

luật quốc tế

ứng, đồng thời nhận hàng trăm triệu USD hỗ trợ từ Ngân hàng Thế giới, nhưng chính phủ không quản lý hiệu quả. SSA cho rằng các hành vi này cấu thành trợ cấp trái luật, gây cạnh tranh không công bằng. Ngoài ra, một số doanh nghiệp Ecuador đã yêu cầu được miễn áp thuế chống trợ cấp theo quy trình “xét duyệt nhanh” - vốn bị SSA coi là kẽ hở để né luật. Tuy nhiên, Bộ Thương mại Mỹ đang siết chặt quy trình, buộc doanh nghiệp cung cấp đầy đủ thông tin và đối mặt kiểm tra thực địa. SSA kỳ vọng Mỹ sẽ tận dụng cơ hội này để điều tra sâu hơn và đảm bảo sân chơi thương mại công bằng.

CHÂU ÂU

Nhập khẩu tôm hồi phục nhưng chưa lập kỷ lục mới

Trong năm 2024, châu Âu đã nhập khẩu 376.875 tấn tôm sú tươi đông lạnh và tôm chế biến từ các khu vực Mỹ Latinh, châu Á, châu Phi và Trung Đông. Con số này cao hơn 4% so năm 2023 và chỉ thấp hơn 1% so năm 2022. Mặc dù khối lượng nhập khẩu trong năm 2024 đã tăng so năm trước, nhưng chưa đạt mức kỷ lục của năm 2022. Cụ thể, các khu vực Nam Âu và Tây Bắc Âu ghi nhận mức tăng trưởng lần lượt là 24% so năm 2019, trong khi khu vực Đông Âu có mức tăng mạnh mẽ 146% so năm 2019. Về sản phẩm, nhập khẩu tôm tươi đông lạnh đạt 328.424 tấn, tăng 31% so năm 2019, trong khi tôm chế biến chỉ tăng 0%. Ecuador và Ấn Độ tiếp tục là hai nhà cung cấp chính, với tăng trưởng mạnh mẽ lần lượt là 78% và 47% so 2019. Tuy nhiên, nhập khẩu từ Venezuela giảm mạnh sau khi các cơ sở chế biến tại đây bị quốc hữu hóa. Mặc dù giá tôm trong năm 2024 giảm, nhưng từ tháng 10 trở đi, giá nhập khẩu đã tăng lên và dự báo sẽ duy trì mức giá cao trong suốt năm 2025.

TUẤN MINH

 Năm 2023, một con tôm hùm màu cam hiếm gặp (tỷ lệ 1/30 triệu) được bắt tại Maine và được đặt tên là Peaches. Giáo sư hải dương học Markus Frederich cùng sinh viên Đại học New England (UNE) đã lai tạo thành công 15 con tôm con từ Peaches để nghiên cứu di truyền nhằm tìm hiểu về màu sắc vỏ. Sau một năm, nhóm đã thả chúng trở lại tự nhiên. Dự án mang tính giáo dục, khơi dậy đam mê khám phá, không nhằm thay đổi ngành khai thác tôm hùm.

 Giá tôm hùm tại vùng Đại Tây Dương của Canada giảm mạnh, từ 15 USD xuống còn 6,5 - 8 USD mỗi pound, khiến ngư dân lo lắng. Nguyên nhân là do lo ngại về thuế quan và sản lượng vụ Xuân giảm vì nước biển lạnh. Thương mại hải sản giữa Canada và Trung Quốc gần như tê liệt sau loạt thuế mới, trong khi các nhà xuất khẩu Mỹ được hưởng lợi thế cạnh tranh 15%. Giới chuyên gia cho rằng bất ổn xuất phát từ yếu tố địa chính trị, không phải nguồn cung.

 Từ ngày 12/5/2025, Mỹ cho phép nhập khẩu tôm đánh bắt tự nhiên từ một số ngư trường thuộc Australia, Guiana thuộc Pháp, Italia, Nhật Bản, Hàn Quốc và Tây Ban Nha. Tôm nuôi từ các khu vực khác chỉ được nhập khẩu nếu có mẫu đơn DS-2031. Riêng Peru sẽ bị đình chỉ chứng nhận từ ngày 1/6/2025. Chỉ tôm từ nguồn đã được chứng nhận hoặc sử dụng thiết bị loại trừ rùa biển (TEDs) mới được phép nhập khẩu vào Mỹ.

 Canada ấn định hạn ngạch đánh bắt tôm nước lạnh 2025 - 2026 là 45.600 tấn. Xuất khẩu năm 2024 giảm xuống mức thấp nhất thập kỷ: 40.802 tấn, trị giá 209,1 triệu USD, chủ yếu sang Trung Quốc. Đan Mạch tiếp tục dẫn đầu xuất khẩu toàn cầu từ năm 2019.

 Thai Union Group, tập đoàn thủy sản hàng đầu thế giới, vừa nhận khoản vay xanh 150 triệu USD từ Ngân hàng

Phát triển châu Á (ADB) - khoản vay xanh đầu tiên trong ngành thủy sản

Thái Lan. Khoản vay này sẽ dùng để mở rộng mô hình nuôi tôm bền vững tại

Thái Lan, hỗ trợ mục tiêu phát thải ròng

bằng 0 vào năm 2050 theo chiến lược

SeaChange® 2030, đồng thời góp phần

bảo vệ đại dương và ứng phó biến đổi

khí hậu. 

4

Chủ động

vượt khó, duy trì

tăng trưởng

Trung tuần tháng 5, mặc dù giá tôm đang ở mức cao và độ mặn tại các vùng nuôi đều đã đạt ngưỡng cho phép, thế nhưng, trên khắp các vùng nuôi tôm ở ĐBSCL, không khí mùa vụ vẫn khá trầm lắng. Bên cạnh đó, tình hình thu hoạch tôm cũng không mấy khả quan, dẫn đến nguồn cung tôm nguyên liệu chưa đủ đáp ứng nhu cầu. Nguyên nhân chủ yếu là do tác động bất lợi từ thời tiết và dịch bệnh khiến tỷ lệ nuôi thành công không như mong đợi.

Bất lợi thời tiết và dịch bệnh

Thông thường, từ tháng 5 đến hết tháng 8 hàng năm là thời điểm nguồn cung tôm nguyên liệu khá dồi dào, giá tôm sẽ bớt căng thẳng so với những tháng đầu và cuối năm. Tuy nhiên, điều đó đã không lặp lại trong vụ tôm nước lợ năm 2025 này, khi hiện tại đã vào trung tuần tháng 5, nhưng nguồn cung tôm nguyên liệu vẫn còn thấp, giá tôm duy trì ở mức cao. Nguyên nhân chủ yếu là do tác động bất lợi từ thời tiết và dịch bệnh khiến tỷ lệ nuôi thành công không như mong đợi.

Theo ghi nhận tại Sóc Trăng, ở một số vùng nuôi, từ cuối năm 2024 đến tháng 2/2025, chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm cao gây bất lợi cho quá trình phát triển của tôm, tôm chậm lớn, dễ mắc bệnh EHP. Còn từ tháng 2 đến nay, tình trạng nắng nóng gay

gắt, xen kẽ là những trận mưa trái mùa khá lớn, làm môi trường biến động mạnh, tôm bị tress, nhiều dịch bệnh nguy hiểm như: EHP, phân trắng, đốm trắng, gan tụy cấp,… bùng phát gây thiệt hại cho tôm trong giai đoạn từ thả giống đến 45 ngày tuổi. Trước tình hình trên, một bộ phận người nuôi chưa dám thả giống vụ mới.

Thông tin từ Chi cục Chăn nuôi và Thú y Kiên Giang, nắng nóng kéo dài trong giai đoạn từ tháng 3 đến tháng 4 đã làm 152,45 ha tôm nước lợ trên địa bàn tỉnh bị thiệt hại; trong đó có 134,75 ha tôm nuôi bị nhiễm bệnh; 17,7 ha tôm thiệt hại do sốc môi trường. Bệnh đốm trắng gây chết tôm chiếm gần 94% diện tích tôm bị nhiễm bệnh. Ngoài ra, một số bệnh như hoại tử gan tụy cấp tính cũng xuất hiện trên tôm nuôi, giai đoạn 30 - 40 ngày, làm tôm bị

chết rải rác, hao hụt, giảm năng suất và sản lượng, người dân phải thu hoạch sớm, chỉ đủ bù đắp một phần chi phí mua con giống, cải tạo ao nuôi, hoặc mất trắng.

Còn tại tỉnh Trà Vinh, theo ông Trần Trường Giang, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường, toàn tỉnh cũng đã có 286 ha tôm sú và 499,1 ha TTCT thiệt hại do bệnh đốm trắng, hoại tử gan tụy cấp và phân trắng.

Theo báo cáo của Cục Thủy sản và Kiểm Ngư, sau 4 tháng đầu năm, cả nước thả nuôi ước đạt 612.019,5 ha tôm nước lợ; trong đó, diện tích thả nuôi tôm sú là 569.257,7 ha và TTCT là 42.761,8 ha. Sản lượng

175.500 tấn. Riêng khu vực nuôi tôm trọng điểm ĐBSCL, ngoại

Ảnh: PTC

trừ các tỉnh có diện tích nuôi tôm sú quảng canh, quảng canh cải tiến chiếm đa số có tiến độ thả nuôi đạt trên 90% kế hoạch, còn lại các tỉnh có diện tích nuôi TTCT lớn tiến độ thả nuôi nhìn chung vẫn diễn ra khá chậm.

Tỉnh Kiên Giang đã thả nuôi 127.726 ha tôm nước lợ, đạt 93,2% kế hoạch năm 2025; trong đó diện tích tôm nuôi công nghiệp đạt 1.560 ha, tôm - lúa 103.878 ha, tôm quảng canh cải tiến 22.288 ha. Đến nay, sản lượng thu hoạch ước đạt 15.232 tấn.

Tiến độ thả nuôi TTCT ở tỉnh Trà Vinh cũng còn chậm, nhất là nuôi thâm canh mật độ cao. Tính đến hết tháng 4/2025, diện tích thả nuôi tôm sú ước khoảng 17.744 ha, cao hơn cùng kỳ 4.012 ha, đạt 73,94% kế hoạch; diện tích thả nuôi TTCT 4.298 ha, trong đó có 930 ha nuôi thâm canh, thấp hơn cùng kỳ 380 ha, đạt 53,72% kế hoạch. Sản lượng tôm nước lợ ước gần 23.000 tấn.

Riêng Sóc Trăng, tỉnh có diện tích nuôi TTCT lớn nhất khu vực ĐBSCL, tính đến hết tháng 4/2025, diện tích thả nuôi tôm nước lợ mới đạt 12.255 ha; trong đó, TTCT đạt 9.930,9 ha và tôm sú 2.305,5 ha. Tuy nhiên, số diện tích này sẽ được tăng đáng kể trong quý II/2025 vì hiện tại các yếu tố về môi trường, thời tiết và nhất là giá tôm đều đang khá thuận lợi.

Khuyến cáo từ ngành

chức năng

Theo nhận định của Sở Nông nghiệp và Môi trường Kiên Giang, từ nay đến hết vụ tôm nước lợ năm 2025, tình hình thời tiết tiếp tục diễn biến bất lợi, khả năng diện tích tôm nuôi tiếp tục bị dịch bệnh trong thời gian tới là rất cao. Để hạn chế tôm nuôi bị thiệt hại, từ đầu

vụ ngành chuyên môn đã phối hợp với các địa phương truyên truyền người dân thực hiện các biện pháp phòng ngừa dịch bệnh. Khuyến cáo người dân vùng nuôi tôm - lúa hạn chế thả giống hoặc chia thành nhiều đợt thả nuôi khác nhau, không thả mật độ cao trong cao điểm nắng nóng. Người dân cần xử lý triệt để mầm bệnh trong ao trước khi thả nuôi đợt mới. Đối với ao nuôi tôm công nghiệp, các hộ nuôi tăng cường bố trí thêm dàn quạt nước, sục khí thường xuyên để cung cấp đủ ôxy cho tôm. Đồng thời kết hợp sử dụng thêm chế phẩm sinh học giúp ổn định môi trường ao, bổ sung vào thức ăn khoáng chất, vi sinh đường ruột, Vitamin C để tăng cường sức đề kháng cho tôm.

Bên cạnh các giải pháp kỹ thuật, Chi cục Chăn nuôi và Thú y tiếp tục hỗ trợ xét nghiệm miễn phí mẫu bệnh phẩm trên tôm và phát hóa chất Chlorine khi có dịch mới phát sinh; tăng cường kiểm tra các cơ sở kinh doanh giống tôm kém chất lượng; xử lý nghiêm trường hợp người dân có tôm nhiễm bệnh không khai báo, xả thải ra kênh, rạch làm lây lan dịch bệnh.

Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Sóc Trăng, bà Quách Thị Thanh Bình cho biết, thời điểm hiện nay, tôm rất dễ mắc các bệnh như: bệnh hoại tử gan tụy cấp, phân trắng, EHP,… nên người nuôi cần đặc biệt quan tâm đến các yếu tố môi trường ao nuôi. Riêng ngành chuyên môn sẽ tăng cường các cuộc hội nghị chuyên đề tại các vùng nuôi tôm trọng điểm, kịp thời thông tin về môi trường nước, thời tiết và dịch bệnh, nhằm đưa ra các giải pháp khuyến cáo kỹ thuật để đảm bảo diện tích nuôi phát triển tốt và hạn chế thiệt hại do dịch bệnh. Cùng với đó là triển khai áp dụng mô hình nuôi theo hướng VietGAP, tổ chức các cuộc hội thảo đầu bờ, tập huấn kỹ thuật; tăng cường xúc tiến thương mại sản phẩm ngành hàng tôm của tỉnh. AN XUYÊN

 Giá tôm sú hiện vẫn cao hơn 50.000 đồng/kg so cùng kỳ năm trước, TTCT tăng từ 2.000 - 8.000 đồng/kg tùy theo kích cỡ. Đây được xem là động lực để giúp người nuôi an tâm thả tôm theo lịch thời vụ đã được khuyến cáo, giúp đẩy nhanh tiến độ thả nuôi, đảm bảo nguồn cung tôm nguyên liệu cho doanh nghiệp chế biến vào cao điểm tới đây.

CON SỐ

Là ước giá trị kim ngạch xuất khẩu tôm trong 4 tháng

đầu năm 2025, tăng 30% so cùng kỳ năm trước.

Là ước sản lượng TTCT thu hoạch

được trong tháng 4/2025, tăng 7,2% so cùng kỳ năm trước.

Là diện tích đã thả nuôi tôm trong vụ chính năm 2025

của huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, đạt hơn 21% kế hoạch.

Là số lượng tôm giống của tỉnh Bình Thuận sản xuất được trong tháng 4/2025, tăng 5,23% so cùng kỳ năm trước.

Là ước sản lượng tôm nuôi đã thu hoạch

được tính đến ngày 13/5 của tỉnh Trà Vinh, đạt khoảng 23% kế hoạch năm.

Thúc đẩy số hóa ngành tôm

Việc ứng dụng công nghệ số trong quản lý ao nuôi đã được các doanh nghiệp, chủ trang trại thực hiện nhằm tối ưu hóa một số khâu trong quy trình nuôi và tiêu thụ. Từ đó, giúp tiết kiệm thời gian, hạn chế rủi ro, tăng tỷ lệ thành công. Tuy nhiên, đến nay tỷ lệ số hóa trong nuôi tôm ở nước ta vẫn thấp và chưa đồng bộ.

Ứng dụng công nghệ số giúp nghề nuôi tôm trở nên dễ dàng hơn Ảnh: Trúc Anh

Xu thế tất yếu

Ngành tôm từ lâu đã khẳng định vị thế là một trong những trụ cột quan trọng của nền kinh tế nông nghiệp và thủy sản Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình tăng trưởng, chuỗi ngành hàng tôm đang dần bộc lộ nhiều yếu tố còn hạn chế mang tính hệ thống, chuỗi liên kết lỏng lẻo, sản xuất manh mún nhỏ lẻ, việc ứng dụng công nghệ và đặc biệt là công nghệ số còn rất thiếu và yếu. Chuyển đổi số trong nông nghiệp nói chung và ngành tôm nói riêng hiện nay là định

hướng của Chính phủ và quyết

tâm của Bộ Nông nghiệp và Môi

trường. Đây cũng là nhu cầu cấp thiết và là xu thế phát triển tất yếu của các doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất tôm để sản phẩm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường quốc tế.

Chuyển đổi số trong nuôi tôm bao gồm việc sử dụng các công nghệ thông tin, cảm biến, trí tuệ nhân tạo (AI), học máy, Internet of Things (IoT),... Mục tiêu của chuyển đổi số trong nuôi tôm là nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh.

Chuyển đổi số được đánh giá là một trong những nền tảng để các địa phương phát triển thành công ngành tôm. Nhờ công nghệ số mà sự kết nối giữa các cấp chính quyền với doanh nghiệp, với vùng nuôi dễ dàng hơn; sự liên kết giữa các hợp tác xã với doanh nghiệp, sự kết nối giữa nuôi trồng chế biến, nắm bắt yêu cầu thị trường và kết nối quốc tế diễn ra nhanh chóng, thuận lợi,…

Từ trang trại thông minh…

Thời gian qua, việc ứng dụng công nghệ số vào nuôi

tôm đã được doanh nghiệp và người nuôi tôm quan tâm. Một trong những người tiên phong đưa công nghệ số vào nuôi tôm khá đồng bộ là TS Nguyễn Thanh Mỹ, người sáng lập Công ty Salicornia Ngón Biển ở huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Theo TS Mỹ, trong chuyển đổi số có 3 bước: số hóa dữ liệu, số hóa quy trình (tự động hóa quy trình) và chuyển đổi số. Mục đích để thu thập được dữ liệu lớn, thông minh giúp tạo giá trị mới. Tuy nhiên, để giúp người nuôi có thêm nhiều lựa chọn nhằm giảm chi phí, ông

đưa ra giải pháp gồm 3 cấp độ: thủ công, bán tự động và tự động. Ông minh họa: “Ví dụ như dùng điện thoại thông minh (có cài áp chuyên dụng - PV) chụp hình con tôm thì hệ thống sẽ cho ra các thông số về tốc độ tăng trọng, về dịch bệnh trên tôm,…”.

Hiện nay, ngoài địa bàn tỉnh Trà Vinh, mô hình của TS Mỹ còn được thực hiện ở Bến Tre, Sóc Trăng, Bạc Liêu. Với mô hình này, người nuôi chỉ cần cài đặt ứng dụng Rynan Mekong trong App Store trên điện thoại thông minh là có thể điều khiển từ xa, hay cập nhật tình hình con tôm, quan trắc nước qua màn hình điện thoại,... Đặc biệt, với máy cho tôm ăn thông minh (model AIF 100) có phần chế độ kết hợp thuật toán trí tuệ nhân tạo sẽ kết hợp với các trạm quan trắc, thiết bị đo chỉ tiêu môi trường, đo chỉ tiêu của tôm, để cho ra được lượng thức ăn trong ngày, giúp tiết kiệm thức ăn lên tới 20%. … đến những tiến bộ

công nghệ số

Một đơn vị tiên phong khác trong việc đưa số hóa vào nuôi tôm phải kể đến là Công ty CP Công nghệ Otanics (TOMOTA), một đơn vị gần như xuất hiện đều đặn tại các kỳ của Hội chợ Triển lãm Công nghệ quốc tế ngành tôm Việt Nam (VietShrimp), với mong muốn đưa công nghệ số đến tận tay người nuôi tôm. Một trong những sản phẩm ấn tượng là công nghệ TOMOTA S3. Chỉ trong 10 giây quay phim, TOMOTA S3 có thể đếm định cỡ, đo kích thước và trọng lượng tôm giống tối đa số lượng lên đến 4.000 con tôm giống với độ chính xác đến 95%. Việc này không chỉ tiết kiệm tối đa thời gian và công sức, mà người nuôi tôm còn có được trong tay thông tin đáng tin cậy và chính xác từ dữ liệu thu thập được để theo dõi mật độ thả nuôi một cách hiệu quả.

Ngoài việc đếm tôm giống và phân tích định cỡ tôm, TOMOTA cũng đã phát triển giải pháp

TOMOTA A3 để giải quyết vấn đề quản lý chất lượng môi trường nước - một trong những yếu tố quyết định thành công của nghề nuôi tôm. Thông qua công nghệ xử lý hình ảnh, TOMOTA A3 có thể phân tích và đánh giá 4 thông số quan trọng: pH, kiềm, TAN và nitrit. Dựa trên dữ liệu về

các thông số này, người nuôi tôm

có thể tối ưu hóa các biện pháp

quản lý chất lượng nước, ngăn chặn các tác động xấu đến sức

khỏe tôm và duy trì môi trường

nước lý tưởng cho tôm tăng

trưởng khỏe mạnh. Những tiến

bộ công nghệ số trên giúp thúc

đẩy hiệu suất, tăng năng suất

làm việc và tạo điều kiện phát

triển bền vững cho ngành tôm.

Nhiều hạn chế, bất cập

Tính hiệu quả của những

tiến bộ công nghệ số khi ứng

dụng vào nuôi tôm không có gì

để bàn cãi, thế nhưng để những

tiến bộ này được ứng dụng một

cách rộng rãi trong nghề nuôi

tôm là một vấn đề không hề đơn

giản. Bởi hiện ngành tôm vẫn

còn đó những hạn chế, bất cập,

từ quy mô diện tích nuôi nhỏ lẻ

chiếm tỷ lệ cao; là chi phí đầu tư

lớn, trong khi người nuôi tôm

đang thiếu vốn; là trình độ, khả năng ứng dụng công nghệ,…

Không nói đâu xa, ngay cả trại nuôi quy mô trên 500 ha của Công ty CP Thực phẩm Sao Ta, việc ứng dụng công nghệ số một cách đồng bộ vẫn chưa thể triển khai được do thiếu nền tảng dữ liệu và thông tin đầu vào. Ngoài ra, chi phí cho các thiết bị này còn rất cao, chưa kể đến độ bền kém do môi trường nước ao nuôi phức tạp. Vì vậy, việc theo dõi môi trường hàng ngày tại trại nuôi chỉ được thực hiện theo hình thức bán thủ công.

Trang trại lớn đã khó như thế, hộ nuôi tôm quy mô nhỏ và vừa lại càng khó khăn hơn, bởi thường đi kèm với quy mô trên là tình trạng khó khăn về nguồn vốn và khả năng sử dụng công nghệ một cách thành thạo. Đây

ÔNG TRẦN ĐÌNH LUÂN, CỤC TRƯỞNG

CỤC THỦY SẢN VÀ KIỂM NGƯ

Chuyển đổi số giúp công tác

chỉ đạo điều hành được

tốt hơn

Toàn ngành rất mong muốn được

chuyển đổi số càng sớm càng tốt bởi

thủy sản là một trong những ngành tham gia xuất khẩu sâu rộng. Các sản

phẩm phải chứng minh được nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Chỉ có chuyển đổi số mới giúp công tác chỉ đạo điều hành được tốt hơn. Thời gian tới, ngành sẽ đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT) nhằm tiết kiệm nước, thức ăn, giảm phát thải, bảo vệ môi trường và bảo đảm an toàn thực phẩm.

ÔNG TẠ QUANG SÁNG, GIÁM ĐỐC TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG NGHỆ AN Cần thay đổi phương pháp quản lý sản xuất

Áp dụng công nghệ và ứng dụng chuyển đổi số là giải pháp cần thiết và phù hợp trong nuôi trồng thủy sản, nhất là khi nghề nuôi tôm chịu nhiều áp lực về biến đổi khí hậu, môi trường, nguồn nước ô nhiễm,… như hiện nay. Để chuyển đổi số trong sản xuất nuôi tôm, bà con cần thay đổi ngay từ phương pháp quản lý sản xuất, thay thế việc theo dõi, quản lý ao nuôi từ truyền thống sang sử dụng những phần mềm quản lý sản xuất trên cơ sở số hóa. Từ đó người nuôi có thể dễ dàng quản lý thức ăn, hóa chất cũng như quá trình nuôi, tất cả được lưu trữ trên ứng dụng phần mềm thông qua máy tính, hoặc điện thoại.

cũng chính là rào cản lớn nhất trong việc đưa công nghệ số vào nuôi tôm và chỉ có con đường hợp tác sản xuất một cách thực chất mới có thể hóa giải được.

Vì vậy, việc ứng dụng công nghệ số vào nuôi tôm hiện tại mới chỉ dừng lại ở cấp độ phổ biến là bán

thủ công, kể cả những trang trại nuôi tôm quy mô lớn.

Theo ông Hồ Quốc Lực, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Thực phẩm

Sao Ta, từ hơn mười năm trước, khách hàng ở châu Âu đã yêu cầu gắn camera, các thiết bị cảm biến để theo dõi diễn biến trong ao nuôi. Những chỉ số cơ bản về chất lượng nước được hiển thị qua màn hình điện thoại thông minh. Thậm chí, camera có thể theo dõi để nhận biết tôm đang khỏe hay stress, ăn nhiều hay ít. Tuy nhiên, để đưa ra kết quả chính xác thì phải có đầy đủ dữ liệu và thông tin đầu vào. Mà hiện nay, nền tảng dữ liệu của ngành nuôi tôm vẫn chưa đủ. “Dù vậy, chúng tôi rất quan tâm vấn đề này và gần đây có hợp tác thử nghiệm với TS Mỹ ở Trà Vinh về các thiết bị đo môi trường, nhưng vẫn đang trong quá trình xem xét và chưa áp dụng được. Chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu và chắc chắn phải đi theo xu hướng này, tuy nhiên, sẽ phải mất nhiều thời gian để tìm giải pháp phù hợp với điều kiện thực tế”, ông Lực chia sẻ thêm.

AN XUYÊN

Hạn chế tác động xấu khi Mỹ áp thuế đối ứng

Theo Cục Thủy sản và Kiểm ngư, người dân, doanh nghiệp thủy sản Việt Nam cần tránh tâm lý lo sợ dẫn đến tình trạng thu hoạch ồ ạt thủy sản nuôi hoặc hạn chế sản xuất, xuống giống,…

Không hoảng hốt, hoang mang

Theo Văn bản số 188/TSKN-NTTS ngày 06/4/2025 về việc tăng cường chỉ đạo sản xuất nuôi trồng thủy sản trong bối cảnh Mỹ công bố sơ bộ mức thuế nhập khẩu đối ứng với Việt Nam, Cục Thủy sản và Kiểm ngư cho biết, năm 2024 thủy sản Việt Nam đã xuất khẩu đến hơn 170 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó Trung Quốc và Hồng Kông, Mỹ, Nhật Bản, EU, Hàn Quốc là các thị trường tiêu thụ hàng thủy sản lớn nhất của Việt Nam.

Quý I/2025, ngành thủy sản tiếp tục đạt

được kết quả tăng trưởng tốt, sản lượng ước

đạt trên 1,9 triệu tấn, tăng 2,8% so cùng kỳ năm 2024; giá trị xuất khẩu 2,29 tỷ USD, tăng 18,1% so cùng kỳ năm 2024.

Ngày 03/4/2025, Mỹ công bố sơ bộ mức

thuế nhập khẩu đối ứng với hơn 180 nền kinh tế, trong đó Việt Nam chịu mức thuế 46%. Mức thuế này dự báo sẽ ảnh hưởng lớn đến chuỗi sản xuất ngành hàng thủy sản Việt Nam. Ngày 04/4/2025, Tổng Bí thư

Tô Lâm có cuộc điện đàm với Tổng thống

Donald J. Trump thảo luận và khẳng định sẽ cùng trao đổi sớm để ký một thỏa thuận song phương giữa hai nước nhằm cụ thể hóa những cam kết về mức thuế nhập khẩu

0% đối với hàng hóa xuất nhập khẩu giữa hai quốc gia. Ngày 06/4/2025, Thủ tướng

Chính phủ Phạm Minh Chính đã nêu rõ tinh thần chung là các địa phương, doanh nghiệp không hoảng hốt, hoang mang, lo sợ mà giữ vững bản lĩnh, trí tuệ, bình tĩnh xử lý chủ động, sáng tạo, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả. Coi đây là cơ hội để phấn đấu, vươn mình, vượt lên, góp phần cơ cấu lại nền kinh tế, cơ cấu lại thị trường, sản xuất và xuất khẩu.

5 giải pháp thích ứng

Để chủ động cho kịch bản xấu nhất, chuẩn bị phương án chuyển hướng tích cực, Cục Thủy sản và Kiểm ngư đề nghị Sở Nông nghiệp và Môi trường các tỉnh, thành phố ven biển và các tỉnh, thành phố nội đồng vùng ĐBSCL chỉ đạo các đơn vị chức năng liên quan tại địa phương thực hiện 5 nhiệm vụ trọng tâm.

Thứ nhất, bám sát địa bàn sản xuất, tuyên truyền, hướng dẫn kỹ thuật quản lý tốt thủy sản hiện đang nuôi, thường xuyên cập nhật, nắm chắc tình hình, cung cấp thông tin thị trường đến người dân và doanh nghiệp yên tâm, ổn định sản xuất trong thời gian các Bộ, ban, ngành chức năng đàm phán với Chính phủ Mỹ. Thứ hai, hướng dẫn ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến nhằm tối ưu hóa chuỗi sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng, áp dụng triệt để các biện pháp giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản xuất, quan tâm xây dựng thương hiệu,

Trong thời gian Chính phủ hai nước đàm phán, Cục Thủy sản và Kiểm ngư yêu cầu người dân, doanh nghiệp thủy sản Việt Nam cần tránh tâm lý lo sợ dẫn đến tình trạng thu hoạch ồ ạt thủy sản nuôi hoặc hạn chế sản xuất, xuống giống,... làm ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất và mục tiêu tăng trưởng của ngành.

sàng cho kịch bản không thể đàm phán, nỗ lực chuyển hướng xuất khẩu sang các thị trường Trung Quốc và Hồng Kông, Hàn Quốc, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, đồng thời tìm kiếm thị trường mới. Thứ ba, tổ chức liên kết sản xuất để giảm khâu trung gian, phối hợp và hỗ trợ các doanh nghiệp chế biến tăng sản lượng thu mua và tạm trữ nguyên liệu trong thời gian thị trường xuất khẩu vào Mỹ chưa được đàm phán mức áp thuế phù hợp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đẩy nhanh giao hàng trong 1 đến 3 tháng tới.

Thứ tư, quan tâm phát triển các sản phẩm phù hợp, hỗ trợ, tổ chức cho các doanh nghiệp chế biến, người nuôi thủy sản liên kết với chuỗi các hệ thống siêu thị, các khách sạn, nhà hàng để tăng cường tiêu thụ nội địa.

Thứ năm, kịp thời thông tin về tình hình sản xuất, giải pháp hạn chế tác động xấu khi Mỹ áp thuế đối ứng đối với ngành hàng thủy sản nhập khẩu từ Việt Nam để kịp thời phối hợp với Cục tham mưu cho Bộ chỉ đạo sản xuất. BẢO HÂN

 Ngày 11/4/2024, Chính phủ ban hành Nghị định số 87/2025/NĐCP quy định việc giảm tiền thuê đất năm 2024. Quy định này áp dụng cho cả trường hợp người sử dụng đất không thuộc đối tượng được miễn, giảm tiền thuê đất hoặc hết thời hạn được miễn, giảm tiền thuê đất và trường hợp người sử dụng đất đang được giảm tiền thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật khác có liên quan. Cụ thể, giảm 30% tiền thuê đất phải nộp của năm 2024 đối với người sử dụng

đất quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị

định này; Mức giảm tiền thuê đất được tính trên số tiền thuê đất phải nộp của năm 2024 theo quy định của pháp luật. Không thực hiện giảm trên số tiền thuê đất còn nợ của các năm trước năm 2024 và tiền chậm nộp (nếu có). Trường hợp người sử dụng đất đang được giảm tiền thuê đất theo quy định hoặc/và khấu trừ tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng theo quy định của pháp luật về tiền thuê đất thì mức giảm tiền thuê đất được tính trên số tiền thuê đất phải nộp (nếu có) sau khi đã được giảm hoặc/và khấu trừ theo quy định của pháp luật. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành. Trong trường hợp các văn bản dẫn chiếu tại Nghị định này được sửa đổi, bổ sung, thay thế thì thực hiện theo quy định tương ứng tại văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế đó.

 Ngày 15/4/2025, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên ký Chỉ thị số 09/CT-BCT về tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động kiểm tra, giám sát xuất xứ hàng hóa trong tình hình mới. Cụ thể, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên yêu cầu Cục Xuất nhập khẩu chỉ đạo các cơ quan, tổ chức cấp C/O tăng cường cộng tác cấp và kiểm tra C/O, đặc biệt xác định tiêu chí xuất xứ theo quy tắc cụ thể mặt hàng từ nguồn nguyên liệu nhập khẩu đối với hàng hóa xuất khẩu; Vụ Phát triển thị trường nước ngoài chỉ đạo cơ quan Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài nghiên cứu, tìm hiểu về cơ chế và quy định về xuất xứ hàng hóa của các nước sở tại, cung cấp cho Cục Xuất nhập khẩu để hoàn thiện các quy định

VĂN BẢN MỚI

về quy tắc xuất xứ hàng hóa, cấp C/O, ngăn chặn gian lận xuất xứ hàng hóa; Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thị trường phát hiện và xử lý các hành vi kinh doanh hàng hóa, đặc biệt nguyên liệu nhập lậu, hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ để sản xuất hàng xuất khẩu, trong trường hợp cần thiết chuyển cơ quan chức năng xử lý đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật; Vụ Chính sách thương mại đa biên tích cực theo dõi, trao đổi với các đối tác FTA để xử lý các vướng mắc phát sinh liên quan đến xuất xứ hàng hóa trong quá trình thực thi các FTA; Các cơ quan, tổ chức cấp C/O đẩy mạnh công tác phòng chống gian lận xuất xứ thông qua việc tăng cường hiệu quả công tác cấp và kiểm tra C/O đặc biệt đối với các doanh nghiệp có lượng hồ sơ đề nghị cấp C/O tăng đột biến; Chủ động rà soát, theo dõi công tác thực hiện cấp C/O; kịp thời báo cáo và đề xuất biện pháp xử lý khi phát hiện các vấn đề vi phạm liên quan đến quy trình thực hiện cấp C/O và gian lận xuất xứ,… Chỉ thị này có hiệu lực từ ngày ký.

 Ngày 15/4/2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Công văn số 2756/NHNN-TD về việc triển khai Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực nông, lâm, thủy sản. Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đề nghị các ngân hàng thương mại mở rộng phạm vi, đối tượng của Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản theo Công văn số 5631/NHNN-TD ngày 14/7/2023 của Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam thành Chương trình tín dụng

đối với lĩnh vực nông, lâm, thủy sản. Theo đó, đối tượng vay vốn là khách hàng có dự án/phương án phục vụ hoạt

động sản xuất, kinh doanh lĩnh vực nông, lâm, thủy sản. Chương trình được triển khai đến khi doanh số cho vay đạt 100.000 tỷ đồng (theo mức đăng ký của các ngân hàng thương mại). Các Ngân hàng: NN&PTNT Việt Nam, TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam, TMCP Công thương Việt Nam, TMCP Ngoại thương

Việt Nam, TMCP Lộc Phát, TMCP Sài Gòn Thương tín, TMCP Quân đội, TMCP Á Châu, TMCP Nam Á, TMCP Phương Đông,

TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam, TMCP

Bản Việt, TMCP Sài Gòn - Hà Nội, TMCP Việt Nam Thương Tín, TMCP Phát triển

Hồ Chí Minh thực hiện theo dõi, thống kê kết quả triển khai Chương trình và tự chịu trách nhiệm về tính chính xác của số liệu báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cung cấp cho các cơ quan liên quan khác (nếu có),...

 Ngày 15/4/2025, Thứ trưởng Bộ

Nông nghiệp và Môi trường Phùng

Đức Tiến ký Quyết định số 839/QĐBNNMT về việc công bố chuẩn hóa thủ tục hành chính lĩnh vực thủy sản thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Cụ thể, công bố kèm theo Quyết định này 47 thủ tục hành chính chuẩn hóa lĩnh vực thủy sản thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Nông nghiệp và Môi trường (có Phụ lục kèm theo Quyết định này); Đồng thời thay thế các nội dung thủ tục hành chính về lĩnh vực thủy sản

đã công bố tại 5 Quyết định, bao gồm: Quyết định số 1213/QĐ-BNN-TS ngày 26/4/2024 về việc công bố thủ tục hành chính mới ban hành; được sửa đổi, bổ sung lĩnh vực thủy sản; Quyết định 1238/QĐ-BNN-TS ngày 8/5/2024 về việc công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung lĩnh vực thủy sản; Quyết định số 676/QĐ-BNN-TCTS ngày 18/02/2019 về việc công bố thủ tục hành chính sửa đổi, bổ sung lĩnh vực thủy sản; Quyết định số 1154/QĐBNN-TS ngày 05/4/2019 về việc công bố thủ tục hành chính mới ban hành, thay thế, bị bãi bỏ lĩnh vực thủy sản; Quyết định số 2466/QĐ-BNN-VP ngày 20/6/2023 về việc công bố thủ tục hành chính lĩnh vực khoa học, công nghệ và môi trường, lâm nghiệp, nông nghiệp, thủy lợi, thủy sản, quản lý đê điều và phòng, chống thiên tai, quản lý chất lượng nông, lâm sản và thủy sản; Quyết định số 4866/QĐ-BNNTCTS ngày 10/12/2018 về việc công bố thủ tục hành chính mới ban hành, thay thế, bị bãi bỏ lĩnh vực thủy sản. 5 Quyết định kể trên đều thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Quyết định này có hiệu lực từ ngày ký ban hành. 

Các kịch bản cho con tôm tại thị trường Mỹ

Sau khi chính quyền của Tổng thống Donald J. Trump công bố tạm hoãn áp dụng thuế đối ứng trong 90 ngày (hạn cuối ngày 9/7) cho 75 quốc gia, trong đó có Việt Nam, nhiều doanh nghiệp đang tăng tốc sản xuất để bàn giao đơn hàng cho đối tác Mỹ, đồng thời tích cực tìm cách ứng phó.

Giữ nhịp độ, tìm cách thích nghi

Nhìn nhận về vấn đề này, PGS. TS Nguyễn

Hồng Nga, Chuyên gia kinh tế cho rằng, ngành thủy sản ít có khả năng bị tác động nhiều vì sản phẩm của Việt Nam có tính cạnh tranh cao trên quốc tế. Dĩ nhiên, nếu Mỹ áp thuế đối ứng thì chúng ta phải chấp nhận và tìm cách thích nghi với điều đó.

“Thứ nhất, tìm thêm và gia tăng hiệu quả xúc tiến thương mại bởi thủy sản đang và sẽ làm món ăn tốt cho người dân trên thế giới.

Thứ hai, đây là cơ hội để ngành thủy sản tiếp tục giảm chi phí sản xuất với việc áp

dụng công nghệ trong việc đánh bắt thủy sản, nhất là chủ động nuôi trồng quy mô lớn

để tận dụng tính kinh tế theo quy mô. Nghị quyết 57 về khoa học công nghệ cần thực hiện triệt để trong ngành thủy hải sản.

Thứ ba, tập trung hơn vào thị trường nội địa để gia tăng xuất khẩu tại chỗ cho thị trường trong nước và khách quốc tế.

Thứ tư, trong nguy có cơ nên với việc bị đánh thuế đối ứng cao thì chuyển dịch cơ cấu sản xuất của ngành thủy sản một cách linh hoạt và hợp lý sẽ mở ra một “kỷ nguyên mới” cho ngành thủy sản trong tương lai”, ông Nga gợi mở.

Về phần mình, ông Hồ Quốc Lực, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Thực phẩm Sao Ta nhận định, Mỹ vẫn là một thị trường có quy mô tiêu thụ rất lớn. Chính vì dung lượng lớn, nên có độ dung sai giá cao - nghĩa là nếu sản phẩm của mình chất lượng hơn, có thể giá cao hơn 10% vẫn bán được. Bởi vậy, các doanh nghiệp vẫn luôn cố gắng duy trì, giữ vững thị trường này, nhằm ổn định sản xuất, giữ chân lao động, duy trì doanh thu, chủ động về dòng tiền cũng như giữ nhịp thị trường. Tại Đại hội cổ đông thường niên mới đây, khi trả lời câu hỏi của cổ đông về tình

huống buộc phải rời khỏi thị trường Mỹ, lãnh đạo Sao Ta cho biết, kịch bản không có thị trường Mỹ đã được chuẩn bị từ 5 năm trước, nên chắc chắn sẽ không bị động nhiều. Theo đó, nếu không thể tiếp tục xuất sang Mỹ, Sao Ta sẽ tăng cường thâm nhập

các thị trường khác, như: Canada, Australia, Hàn Quốc và đặc biệt là Nhật Bản, nơi mà họ đang có thế mạnh so với các đối thủ.

Sẵn sàng cho tình huống xấu nhất

Theo nhận định của doanh nghiệp, mức thuế 46% chỉ mang tính giả định nhiều hơn là thực tế, nên các dự báo đều nghiêng về khả năng mức thuế cuối cùng sẽ vào khoảng 23%. Với mức thuế này, cộng thêm điều kiện

các nước còn lại bị áp mức thuế 20%, thì con tôm Việt Nam vẫn còn cơ hội cạnh tranh tại thị trường này. Trong trường hợp mức thuế 46% được giữ nguyên đối với tôm Việt Nam, còn các nước khác xoay quanh mức 20% thì việc “tạm dừng cuộc chơi” tại thị trường Mỹ sẽ không còn là viễn cảnh.

Có thể thấy, vấn đề không hẳn nằm ở mức thuế cao hay thấp mà còn ở sự chênh lệch về thuế đối ứng giữa Việt Nam và đối thủ. Hay nói một cách khác, nếu Việt Nam bị áp thuế cao, nhưng đối thủ cũng bị cao tương tự, thì sự cạnh tranh không quá chênh lệch.

Trên thực tế, tôm của Ấn Độ hay Ecuador tuy giá rẻ nhưng họ chủ yếu xuất thô, vì thiếu lao động, thiếu công nghệ chế biến sâu. Trong khi đó, các doanh nghiệp tôm Việt Nam đều đầu tư mạnh vào chế biến sâu, đủ tiêu chuẩn xuất vào các hệ thống phân phối cao cấp tại Mỹ, giá trị cao. Dù tỷ suất lợi nhuận ở thị trường Mỹ là không cao, nhưng một khi mất thị trường này, chắc chắn doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp cũng như kim ngạch xuất khẩu toàn ngành sẽ giảm sút. Đây là điều mà doanh nghiệp không hề mong muốn, nhưng các kịch bản, phương án cho tình huống buộc phải rời bỏ thị trường Mỹ vẫn phải được chuẩn bị một cách chu đáo để không phải bị động. Kể từ khi con tôm Việt Nam vướng vào vụ kiện chống bán phá giá ở thị trường Mỹ và nhất là sau khó khăn về cước vận chuyển do tác động từ dịch COVID-19, xung đột quân sự,… hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu tôm đều xây dựng cho mình chiến lược cùng các kịch bản, phương án chuyển hướng thị trường, nên một khi buộc phải rút khỏi thị trường Mỹ, thì họ cũng không phải quá lo lắng.

Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng thừa nhận, việc điều chỉnh kế hoạch doanh số, lợi nhuận năm 2025 gần như là điều phải làm,

nhưng quan trọng hơn là việc tìm hướng đi mới, thị trường mới, tập trung khai thác tốt lợi thế từ những thị trường đã có FTA với Việt Nam.

Tái cơ cấu chuỗi giá trị ngành tôm Ở một góc nhìn khác, rõ ràng, chuỗi giá trị ngành tôm rất cần cuộc cách mạng trong tái cơ cấu mô hình tăng trưởng. Qua đó, góp phần giảm áp lực về thị trường tiêu thụ lớn khi bị biến động, tăng khả năng cạnh tranh đối với các nước cùng mặt hàng cũng như cơ cấu lại ngành hàng, tăng tỷ trọng của con tôm chế biến sâu, mang lại nhiều giá trị gia tăng.

Bên cạnh sự nỗ lực của người nông dân, doanh nghiệp trong việc giảm chi phí, tăng lợi nhuận, chủ động tạo ra năng lực cạnh tranh thì ngành thủy sản nói chung và con tôm nói riêng rất cần những chính sách quản lý vĩ mô, sự vào cuộc quyết liệt của Chính phủ cùng các bộ, ngành trung ương.

Phát huy và tận dụng các hiệp định thương mại, cam kết hợp tác, xúc tiến tiêu thụ hàng hóa sẽ là “cánh cửa” rộng mở hơn cho hàng hóa của Việt Nam trong điều kiện diễn biến bất lợi về thuế quan và các rào cản về kỹ thuật, chất lượng do các nước nhập khẩu đặt ra.

Bài học từ Ecuador

Giữa bối cảnh ngành tôm toàn cầu chao đảo vì thuế chống bán phá giá, trợ cấp và các rào cản thương mại gia tăng, Ecuador vẫn nổi bật với tốc độ tăng trưởng ngoạn mục trong quý I/2025. Không chỉ giữ vững vị trí xuất khẩu hàng đầu, quốc gia Nam Mỹ này còn khiến giới chuyên gia kinh ngạc khi khéo léo vượt qua làn sóng thuế đối ứng từ Mỹ và mở rộng thị phần tại châu Âu.

Thành công của Ecuador đến từ 3 yếu tố then chốt: Chiến lược thị trường linh hoạt, sản phẩm giá trị gia tăng và chính sách hỗ trợ tích cực từ chính phủ. Thay vì phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc như trước đây, các doanh nghiệp Ecuador đã nhanh chóng chuyển hướng chiến lược xuất khẩu. Đặc biệt, xuất khẩu sang châu Âu trong quý I/2025 đạt 155,3 triệu pound, tăng 37% so năm trước, khiến châu Âu vượt Mỹ trở thành thị trường lớn thứ hai của Ecuador, chỉ sau Trung Quốc.

Đồng thời, một số doanh nghiệp lớn như Diosmar đã cắt giảm tỷ trọng xuất khẩu sang Trung Quốc từ 70 - 80% xuống còn 20 - 30%, tăng mạnh xuất khẩu sang Mỹ và châu Âu. Ecuador chỉ chịu mức thuế 10% từ Mỹ, thấp hơn nhiều so với các nguồn cung cạnh tranh như Việt Nam, Ấn Độ và Indonesia (đều phải chịu mức thuế đối ứng cao hơn 10%).

Một điểm nổi bật trong chiến lược cạnh tranh của Ecuador là tập trung phát triển sản phẩm có giá trị gia tăng như tôm lột vỏ, tôm nấu chín, tôm bỏ chỉ đuôi, tôm PUD, HLSO, đóng gói cao cấp nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cao cấp từ thị trường Mỹ và châu Âu. Đối với sản phẩm tôm lột vỏ nhập khẩu vào Mỹ, Ecuador là quốc gia có mức tăng trưởng vượt bậc và chiếm 24% thị phần vào đầu năm 2025 (tăng từ mức 10% trước đó), trong khi thị phần của Ấn Độ giảm từ 64% xuống 55%.

Ngoài ra, Chính phủ nước này đang có chính sách hỗ trợ ngành tôm như miễn/ giảm thuế, đơn giản hóa thủ tục hải quan, đẩy mạnh các Hiệp định FTA với EU, Hiệp định giảm thuế với Trung Quốc; đàm phán mở rộng thị trường các nước ASEAN.

ĐÔNG PHONG

Cofidec

Giá tôm Việt Nam tại các thị trường

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong 4 tháng đầu năm 2025 ghi nhận sự phục hồi mạnh mẽ, đạt kim ngạch 3,3 tỷ USD, tăng 21% so cùng kỳ năm trước. Riêng tháng 4/2025, kim ngạch xuất khẩu đạt 850,5 triệu USD, tăng 10%. Tôm tiếp tục là mặt hàng chủ lực, đóng góp 1,27 tỷ USD trong 4 tháng đầu năm, tăng 30% so cùng kỳ năm trước. Tháng 4/2025, xuất khẩu tôm đạt 330,8 triệu USD, tăng 15% so cùng kỳ. Sự tăng trưởng này đến từ nhu cầu mạnh mẽ tại các thị trường lớn như Trung Quốc, EU và Nhật Bản, cùng với giá tôm dần phục hồi do tái cân bằng cung cầu toàn cầu. Giá tôm sú và TTCT tại các thị trường lớn như Trung Quốc (9,6 USD/kg và 6,6 USD/kg) và Mỹ (17,7 USD/kg và 10,9 USD/kg) cho thấy xu hướng ổn định, tạo động lực cho xuất khẩu.

mạnh xuất khẩu tôm sang Mỹ

Trong tháng 4/2025, xuất khẩu thủy sản sang Mỹ ghi nhận sự phục hồi sau quý I/2025 trầm lắng do ảnh hưởng chính sách thuế quan đối ứng 46%, với kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 153,6 triệu

USD, tăng 8% so cùng kỳ. Theo bà Lê Hằng, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), dự báo, trong hai tháng 5 và 6/2025, xuất khẩu thủy sản Việt Nam sẽ có sự chuyển dịch mạnh mẽ trước khi chính sách thuế quan đối ứng mới của Mỹ có hiệu lực từ ngày 9/7. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tập trung xuất khẩu sang Mỹ, đặc biệt với các sản phẩm chủ lực như tôm và cá tra, nhằm tận dụng tối đa thời gian trước khi có biến động thuế quan mới. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này có thể tăng 10 - 15% so tháng 4/2025. Bên cạnh đó doanh nghiệp cũng đang điều chỉnh chiến lược, tập trung vào sản phẩm giá trị gia tăng và đa dạng hóa thị trường để giảm phụ thuộc vào thị trường Mỹ.

Nhiều cơ hội cho tôm Việt Nam tại thị trường Trung Quốc

Theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), trong 4 tháng đầu năm 2025, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Trung

Quốc tiếp tục ghi nhận mức tăng trưởng tích cực với giá trị đạt 640,7 triệu USD, tăng 62,5% so cùng kỳ. Tỷ trọng của thị trường Trung

Quốc trong tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam cũng tăng từ 14,62% trong 4 tháng đầu năm 2024 lên 19,95% trong 4 tháng đầu năm 2025. Dự báo trong thời gian tới, nhập khẩu thủy sản của thị trường Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng. Trong đó, xu hướng tiêu dùng các sản phẩm thủy sản có mức giá trung bình như cá tra, tôm cỡ vừa và nhỏ sẽ tăng cao. Đây là cơ hội để thủy sản Việt Nam tiếp tục gia tăng thị phần tại thị trường quan trọng này.

QUẢNG BÌNH

Nhu cầu tiêu thụ các loại tôm tăng

Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường Quảng Bình, thời tiết tháng 4 thuận lợi cho việc nuôi trồng và đánh bắt thủy sản. Giá các mặt hàng thủy sản duy trì ổn định, nhu cầu tiêu dùng tăng. Công tác cải tạo ao hồ, kênh mương, vệ sinh môi trường vùng nuôi được các hộ nuôi tuân thủ theo yêu cầu kỹ thuật. Đầu tháng 5/2025 giá nguyên liệu tôm đất, tôm bộp, tôm sú, tôm hùm, TTCT ổn định so với những ngày đầu tháng 4/2025. Cụ thể: Tôm đất cỡ 40 - 50 con/ kg đạt 420.000 đồng/kg; tôm bộp cỡ 45 - 50 con/kg đạt 480.000 đồng/kg; tôm sú cỡ 20 - 30 con/kg đạt 480.000 đồng/kg; tôm hùm cỡ 3 - 5 con/kg đạt 1.250.000 đồng/kg, TTCT cỡ 30 - 40 con/kg đạt 300.000 đồng/kg.

LONG AN

“Cầu vượt cung”, giá tôm tăng cao

Theo một số thương lái thu mua tôm ở xã Nhựt Ninh, huyện Tân

Trụ, khoảng 1 tháng nay, giá thu mua tôm sú và TTCT các loại tăng 10.000 - 25.000 đồng/kg so cùng kỳ. TTCT cỡ 30 - 40 con/kg dao

động 190.000 - 200.000 đồng/kg; cỡ 60 - 80 con/kg giá từ 115.000 - 125.000 đồng/kg; cỡ 100 - 110 con/kg giá từ 95.000 - 105.000

đồng/kg. Tôm sú cỡ 30 - 40 con/kg giá từ 170.000 - 190.000 đồng/ kg; cỡ 50 con/kg trở lên giá từ 120.000 - 150.000 đồng/kg. Một số người nuôi tôm cho biết, nguyên nhân giá tôm tăng cao là thời điểm này, diện tích ao nuôi đến giai đoạn thu hoạch còn ít trong khi đó thị trường tiêu thụ mạnh dẫn đến “cầu vượt cung”.

Người nuôi phấn khởi khi giá tôm tiếp tục tăng

Giá tôm sú, TTCT thương phẩm tại Trà Vinh hơn tuần nay tiếp tục tăng thêm 3.000 - 5.000 đồng/kg khiến người nuôi khá phấn khởi. Cụ thể, TTCT loại 30 con/kg có giá 160.000, tăng 4.000 đồng/ kg; loại 40 con/kg 140.000/kg, tăng 3.000 đồng/kg; loại 50 con/ kg giá thu mua 130.000 đồng/kg, tăng 5.000 đồng/kg. Đối với tôm sú loại 20 con/kg, giá thu mua 210.000 đồng/kg, loại 30 con/kg giá thu mua 170.000 đồng/kg, loại 40 con/kg giá mua 160.000 đồng/kg, tăng bình quân 5.000 đồng/kg. Chị Phạm Thị Hiếu, chuyên nuôi thủy sản theo mô hình quảng canh ở xã Long Vĩnh, huyện Duyên Hải cho biết, hiện tại giá tôm sú nuôi sinh thái loại 13 - 15 con/kg được thương lái đặt hàng thu mua 350.000 - 380.000 đồng/kg; loại 20 con/kg giá thu mua 300.000 đồng/kg, nhưng vẫn có không đủ nguồn cung ứng.

BẠC LIÊU

Giá tôm đạt mức cao nhất từ đầu năm

Khoảng một tháng qua, giá tôm nguyên liệu liên tục điều chỉnh tăng. Ở thời điểm này, giá TTCT và tôm sú tại Bạc Liêu đang được thương lái thu mua với mức giá khá cao. Cụ thể, giá tôm kiểm kháng sinh dập đá ao bạt loại 20 con là 215.000 đồng/kg; loại 40 con có giá 138.000 đồng/kg; loại 50 con có giá 132.000 đồng/ kg; loại 100 con có giá 95.000 đồng/kg,… Theo nhiều người nuôi tôm, đây là mức giá tăng cao nhất từ đầu năm đến nay. Với mức giá này, sau khi trừ các khoản chi phí người nuôi sẽ có lãi khá cao.

CÀ MAU

Khuyến khích doanh nghiệp mở rộng thị trường

Sau khi Mỹ tạm hoãn áp thuế đối ứng, những ngày đầu tháng 5 giá tôm sú và TTCT nguyên liệu tại Cà Mau dần ổn định và tăng trở lại so với đầu tháng 4. Cụ thể, tôm sú cỡ 20 con/kg giá 290.000 đồng/ kg; tôm sú cỡ 30 con/kg giá 190.000 đồng/kg; TTCT cỡ 20 con/kg giá 270.000 đồng/kg. Với mức giá ổn định như hiện nay, sau khi trừ các khoản chi phí thì người nuôi có lãi nhiều so với trước đó. Theo ông Nguyễn Chí Thiện, Giám đốc Sở Công Thương Cà Mau, việc Mỹ tuyên bố áp mức thuế chung cho Việt Nam 46% đã gây một số biến động trong sản xuất, trong đó có hoạt động sản xuất tôm của Cà Mau. Hiện, Mỹ tạm hoãn áp thuế, song các doanh nghiệp vẫn cần tìm kiếm thị trường mới, hạ giá thành sản phẩm, đầu tư công nghệ,… để nâng cao giá trị con tôm. ANH VŨ

TRÀ VINH

Ngành tôm Andhra Pradesh lao đao vì tác động thuế quan từ Mỹ

Cuộc chiến thương mại do chính quyền Mỹ khởi xướng đang gây tổn thất nghiêm trọng cho ngành tôm tại bang Andhra Pradesh - khu vực sản xuất tôm trọng điểm của Ấn Độ. Ngay sau khi Washington áp thuế trả đũa vào ngày 2/4, giá tôm tại địa phương này đã giảm từ 10 - 15%, ngay cả với các lô hàng không xuất sang thị trường Mỹ. Ngành tôm Ấn Độ đang phải gánh mức thuế lên tới 33%, bao gồm thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng. Ước tính, tổng thiệt hại có thể lên đến 1 tỷ USD trong năm nay. Là khu vực đóng góp khoảng 30% kim ngạch xuất khẩu tôm của cả nước, Andhra Pradesh hiện đang chứng kiến hệ lụy lan rộng: đơn hàng sụt giảm, nhu cầu tôm giống thấp kỷ lục, và nhiều trại nuôi bị bỏ trống do người dân mất niềm tin vào thị trường.

TRUNG QUỐC

Giá TTCT đông lạnh tăng nhờ tồn kho thấp

Thị trường tôm Trung Quốc ghi nhận tín hiệu phục hồi rõ rệt từ giữa tháng 4/2025, chủ yếu nhờ lượng tồn kho giảm sau giai đoạn nhập khẩu chững lại từ Ecuador. Giá TTCT đông lạnh cỡ 30/40 đã tăng lên mức 39,5 - 40,8 nhân dân tệ/kg, tăng khoảng 0,5 - 1,5 nhân dân tệ/kg chỉ trong vòng hai tuần. Đặc biệt, các sản phẩm cao cấp như TTCT đông lạnh muối đóng gói 12 kg hiện được giao dịch quanh mức 475 - 500 nhân dân tệ/thùng, tương đương khoảng 41,7 nhân dân tệ/ kg - mức cao nhất trong nhiều tháng trở lại đây. Theo dự báo từ các chuyên gia tại Thượng Hải, xu hướng tăng giá có thể còn tiếp diễn khi nhu cầu tiêu dùng được kỳ vọng sẽ tăng mạnh trở lại.

MỸ

Giá tôm tăng do nhập khẩu dồn dập trước thời hạn miễn thuế

Sau tuyên bố ngày 9/4 của Tổng thống Donald J. Trump về việc tạm hoãn áp thuế trả đũa đối với hầu hết các quốc gia (ngoại trừ Trung Quốc) trong vòng 90 ngày, các nhà nhập khẩu tôm tại Mỹ đã nhanh chóng tăng tốc đặt hàng để tận dụng cơ hội miễn thuế trước hạn chót 9/7. Tác động tức thì được ghi nhận trong tuần 16, khi giá bán buôn tôm tại Mỹ tăng 2 - 5% so với tháng trước. Đáng chú ý, giá TTCT nhập khẩu từ Mỹ Latinh tăng mạnh hơn so với nguồn hàng từ châu Á. Tại Ecuador - nhà cung cấp tôm lớn nhất cho cả Mỹ và Trung

Quốc - các nhà xuất khẩu đã điều chỉnh giá theo đà thị trường. Tại Trung Quốc, giá CFR cho tôm đông lạnh loại 30/40 đạt 4,8 USD/kg; loại 20/30 tăng lên 5,7 USD/kg; loại 40/50 đạt 4,6 USD/kg.

PERU

Giá bột cá ổn định

Giá bột cá toàn cầu duy trì ổn định trong tháng 3/2025 sau khi tăng nhẹ vào đầu năm, theo dữ liệu từ Tổ chức Thành phần Biển (IFFO). Cụ thể, giá trung bình của bột cá siêu hảo hạng có nguồn gốc từ Peru và Chile tăng 1,3%, đạt 1.648 USD/tấn, nối dài chuỗi tăng 5 tháng liên tiếp. Tuy nhiên, mức giá này vẫn thấp hơn 19% so cùng kỳ năm trước. Ngược lại, giá dầu cá tiếp tục giảm, xuống 2.460 USD/tấn trong tháng 3, đánh dấu tháng giảm thứ ba liên tiếp. Tại Trung Quốc, bột cá siêu hảo hạng Peru đang được chào bán khoảng 1.700 USD/ tấn (CFR), trong khi giá chào tại Thượng Hải giữ ổn định ở mức 12.950 NDT/tấn (1.762 USD/tấn) trong tuần 15.

MEXICO

Sản lượng tôm giảm 24% trong 5 năm qua

Sản lượng tôm của Mexico đã giảm 24% trong 5 năm qua, tương đương 13.600 tấn thiệt hại, do các yếu tố như đánh bắt bất hợp pháp, chi phí nhiên liệu cao, và giảm giá trên thị trường quốc tế. Sự gia tăng của các tàu đánh bắt không có đăng ký và giấy phép hợp pháp đã làm tăng rủi ro gian lận trong ngành, ảnh hưởng đến chất lượng và nguồn gốc của sản phẩm. Trong mùa đánh bắt 2023 - 2024, tổng sản lượng tôm cả nước đạt 49.214 tấn, mang về giá trị 3.921 triệu peso (khoảng 200 triệu USD). Năm 2024, Mexico xuất khẩu 10.536 tấn tôm, đạt 112 triệu USD, trong đó 93% được xuất khẩu sang Mỹ. Các bang Sinaloa, Sonora, Tamaulipas và Nayarit là những khu vực sản xuất tôm chủ yếu. Tôm trắng và nâu là hai loài chính được đánh bắt và xuất khẩu. Sự suy giảm sản lượng tôm đang đặt ra thách thức lớn đối với ngành tôm của Mexico, đòi hỏi các biện pháp kiểm soát nghiêm ngặt hơn để bảo vệ nguồn lợi thủy sản quốc gia.

ECUADOR

Tận dụng tuyến vận chuyển mới Peru - Trung Quốc

mở rộng thị trường

Cảng nước sâu Chancay của Peru

- dự án trọng điểm do Trung Quốc

đầu tư trong khuôn khổ Sáng kiến

Vành đai và Con đường - dự kiến đi

vào hoạt động vào tháng 12/2024

và hiện đã hoàn thành 83%. Nằm

cách Lima 78 km về phía Bắc, cảng

có công suất 1 triệu TEU/năm và được trang bị công nghệ thông minh

để giảm chi phí hậu cần ít nhất 20%. Tuyến vận tải Chancay - Thượng Hải do COSCO Shipping vận hành giúp rút ngắn thời gian vận chuyển từ Peru sang Trung Quốc còn 23 ngày, nhanh hơn hai tuần so với trước đây. Điều này mở ra cơ hội lớn cho các nước Nam Mỹ như Ecuador, Peru, Chile, Brazil và Colombia tiếp cận thị trường châu Á nhanh hơn. Năm 2023, Ecuador xuất khẩu hơn 657.000 tấn tôm sang Trung Quốc, trong khi Peru đạt 15.000 tấn. Chính phủ Trung Quốc kỳ vọng cảng Chancay sẽ mang lại doanh thu hàng năm lên tới 4,5 tỷ USD cho Peru. Cảng hiện đang được sử dụng để vận chuyển nhiều mặt hàng như tôm, đậu nành, thịt đông lạnh, cà phê, chuối và ca cao từ Nam Mỹ sang Trung Quốc.

THÁI LAN

Giá tôm giảm mạnh giữa biến động thuế quan từ Mỹ

Trong tuần 14 (31/3 - 6/4), giá TTCT tại các trại nuôi ở Thái Lan đã giảm đáng kể khi thị trường phản ứng trước các mức thuế mới do Mỹ áp dụng với hàng nhập khẩu từ quốc gia này. Theo dữ liệu từ chợ đầu mối Talay Thai, giá tôm cỡ 60 con/kg đã giảm 5 THB xuống còn 155 THB/ kg (tương đương 4,52 USD) - mức thấp nhất kể từ đầu năm. Đồng BAHT suy yếu cũng góp phần kéo giá quy đổi sang USD giảm thêm khoảng 0,2 USD/kg. Mức giảm sâu hơn ghi nhận ở các cỡ nhỏ hơn: tôm loại 70 và 80 con/kg giảm lần lượt 10 THB, xuống còn 150 THB/kg và 142 THB/kg. Xu hướng giảm giá tại Thái Lan cũng tương đồng với Indonesia và Ấn

Độ, nơi giá tôm giảm từ 0,2 - 0,3 USD/kg trong cùng khoảng thời gian. Mặc dù vậy, với mức 4,52 USD/kg, tôm Thái Lan loại 60 con/kg vẫn cao hơn hầu hết các nguồn cung khác, ngoại trừ Trung Quốc - vốn thường có giá cao hơn nhưng ít xuất sang Mỹ hơn.

Linh hoạt trước biến động thị trường toàn cầu

Trước những thay đổi trong bối cảnh kinh tế thế giới, Thái Lan buộc phải đẩy mạnh tiêu thụ trong

nước nhằm duy trì ổn định cho ngành nuôi tôm.

Cục diện mới

Kể từ sau đại dịch COVID-19, ngành tôm

toàn cầu phải thích nghi với một mặt bằng giá mới - thấp và kéo dài - dẫn đến việc giảm sản lượng và mật độ thả nuôi. Thái Lan không nằm ngoài xu hướng này. Ngành tôm

nước này đang đối mặt với nhiều khó khăn, đáng kể là sản lượng và giá trị xuất khẩu sụt giảm, phần lớn do chi phí sản xuất cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh.

Ngành tôm Thái Lan đang bước vào giai đoạn chuyển mình quan trọng, đối mặt với thách thức lớn chưa từng có. Từng là cường quốc xuất khẩu tôm, Thái Lan hiện chứng kiến sự thay đổi sâu sắc về cơ cấu thị trường.

Từ năm 2010, Thái Lan dần đánh mất các thị trường xuất khẩu chủ lực như Mỹ, châu Âu, Trung Quốc và Nhật Bản. Tiêu thụ nội địa tăng mạnh 73%, từ 78.650 tấn năm 2016 lên khoảng 136.000 tấn vào năm 2024, trong khi xuất khẩu giảm gần 60%, từ 207.708 tấn xuống còn 83.101 tấn. Sự chuyển dịch này đòi hỏi phải tái cấu trúc toàn diện ngành nuôi tôm. Giá tôm tại trang trại ngày càng tách biệt khỏi giá xuất khẩu, với xu hướng cao hơn và tăng mạnh hơn. Nguyên nhân là do giá tôm

thế giới giảm liên tục trong thập kỷ qua vì nhu cầu giảm ở các thị trường lớn, trong khi nguồn cung toàn cầu lại tăng.

Tái cơ cấu

Ngành tôm Thái Lan đang tái cơ cấu để thích ứng với những thay đổi và thách thức từ thị trường trong nước và quốc tế. Nhu cầu tiêu thụ nội địa đang tăng mạnh nhờ thu nhập cao hơn, tầng lớp trung lưu mở rộng và thay đổi thói quen tiêu dùng đã mở ra nhiều cơ hội phát triển thị trường trong nước. Tuy nhiên, xuất khẩu tôm của Thái Lan đang gặp khó khăn do cạnh tranh gay gắt từ các nước có chi phí sản xuất thấp như Ecuador, Ấn Độ, Indonesia và Việt Nam. Thêm vào đó, chi phí logistics tăng do giá dầu cao và vận chuyển chậm trễ tiếp tục làm giảm sức cạnh tranh toàn cầu. Giá tôm trong nước tăng tuy có lợi cho người nuôi, nhưng lại gây sức ép lên các doanh nghiệp xuất khẩu.

Về lâu dài, ngành tôm Thái Lan hướng mục tiêu nâng cao hiệu quả sản xuất thông qua công nghệ và phương pháp nuôi bền vững, như hệ thống cho ăn tự động và kiểm soát dịch bệnh chính xác. Việc áp dụng công nghệ nông nghiệp thông minh có thể giúp giảm chi phí thức ăn bằng cách cải thiện hệ số FCR và nâng cao tỷ lệ sống.

Cục Thủy sản Thái Lan dự báo giá tôm tại các trang trại sẽ tiếp tục tăng trong năm 2025 do nhiều yếu tố, trong đó việc khuyến

khích tiêu thụ tôm trong nước đóng vai trò quan trọng, đặc biệt là nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của ngành du lịch. Thái Lan đã đón hơn 35 triệu du khách quốc tế trong năm 2024, góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng nhu cầu tiêu thụ tôm. Đồng thời, các cơ sở lưu trữ lạnh cũng đang chuyển hướng vào thị trường trong nước với tôm đông lạnh, tận dụng lợi nhuận hấp dẫn và chi phí vận chuyển thấp hơn so với xuất khẩu. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng trong nước, Thái Lan đang đối mặt với một thách thức lớn. Nếu mức tiêu thụ tôm của quốc gia này đạt mức tương đương Mỹ (2,2 kg/ người, theo Viện Ngư nghiệp Quốc gia NFI, 2022), nhu cầu tôm trong nước sẽ gấp đôi so với hiện tại. Điều này đặt ra nhiệm vụ cấp bách về tăng sản lượng, đồng thời phải điều chỉnh lượng xuất khẩu để ưu tiên thị trường nội địa. Thái Lan đặt mục tiêu sản lượng tôm 400.000 tấn trong những năm tới, đủ đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

Chiến lược nâng cao cạnh tranh

Ngành tôm Thái Lan đang thực hiện các điều chỉnh cơ cấu để nâng cao năng lực cạnh tranh trong nước và quốc tế. Trong nước, nghiên cứu hành vi người tiêu dùng, phát triển sản phẩm giá trị gia tăng và mở rộng

các kênh phân phối được xem là trọng tâm.

Về sản xuất, Thái Lan áp dụng công nghệ tiên tiến như hệ thống cho ăn tự động, giám sát

chất lượng nước theo thời gian thực và quản

lý dịch bệnh chính xác, nhằm giảm thiểu tổn thất và nâng cao năng suất. Ngoài ra, việc

tìm kiếm nguyên liệu thức ăn thay thế giúp giảm chi phí và tác động đến môi trường.

Nông dân Thái Lan đang đẩy mạnh mô hình hợp tác xã để tăng cường sức mạnh thương lượng và cải thiện hiệu quả sản xuất. Các chương trình đào tạo về phương pháp nông nghiệp bền vững và marketing hiện đại giúp nông dân thích ứng tốt hơn với nhu cầu thị trường thay đổi. Chính phủ cũng chú trọng xây dựng thương hiệu tôm

Thái Lan cao cấp, với điểm nhấn chất lượng, an toàn thực phẩm qua kiểm tra dư lượng thuốc và chất bảo quản, đồng thời áp dụng các thực hành thân thiện với môi trường.

Ngành tôm Thái Lan cũng chú trọng đa

dạng hóa thị trường xuất khẩu, đặc biệt

lưu ý các thị trường xuất khẩu ngách, nơi

ưu tiên chất lượng, chẳng hạn như tôm hữu

cơ, tôm nuôi có đạo đức, thân thiện với

môi trường và tôm ít carbon. Việc tận dụng

các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) và

cải thiện hiệu quả logistics sẽ hỗ trợ đáng

kể cho những nỗ lực này. Ngành tôm Thái

Lan cũng đẩy mạnh nghiên cứu và đổi mới sáng tạo thông qua hợp tác với các cơ sở học thuật và khu vực tư nhân, nhằm phát triển công nghệ nâng cao năng suất, giảm chi phí, bảo đảm chất lượng tôm và duy trì tính bền vững lâu dài.

Tương lai ngành tôm Thái Lan không chỉ dựa trên sản lượng mà còn vào chất lượng, sự đổi mới, khả năng truy xuất nguồn gốc và tính bền vững. So với các quốc gia sản xuất tôm lớn khác như Ấn Độ, Việt Nam, và Indonesia, hệ thống truy xuất nguồn gốc của Thái Lan được xem là một trong những hệ thống tiên tiến và đáng tin cậy nhất trong khu vực. Điều này giúp tôm Thái Lan đáp ứng yêu cầu khắt khe của các thị trường ngách, tạo dựng niềm tin và gia tăng lợi thế cạnh tranh.

TUẤN MINH

(Theo Aquaculture Asia Pacific)

 Trong 5 năm qua, sản lượng tôm

của Thái Lan vẫn duy trì dưới 300.000

tấn, đòi hỏi ngành tôm phải nỗ lực hơn

thông qua cải tiến công nghệ nuôi, đổi

mới phương pháp canh tác và quản lý

tài nguyên một cách hiệu quả nhằm

đảm bảo sự phát triển bền vững.

INDONESIA

Đưa ngành tôm tiến xa

Tại Hội nghị “Triển vọng tôm 2025”, Indonesia đặt nhiệm vụ hàng đầu của ngành tôm là phòng ngừa dịch bệnh và cải thiện truy xuất nguồn gốc để đạt mục tiêu phát triển bền vững trong 5 năm tới.

Quản lý và phòng ngừa dịch bệnh

Tại Hội nghị “Triển vọng tôm 2025”, bà Liris Maduningtyas, Tổng Giám đốc hãng công nghệ nuôi tôm JALA đã cảnh báo bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) là mối đe dọa lớn nhất, dù bệnh vi bào tử trùng (EHP) phổ biến hơn. Bà cho biết: “AHPND xuất hiện ngay từ đầu vụ nuôi, khiến tỷ lệ sống chỉ còn khoảng 45% và là nguyên nhân khiến nhiều trại ở phía Tây Indonesia phải di dời sang phía Đông”.

Nhóm chuyên gia CeKolam (thuộc Nusantics) do đã thu thập mẫu tôm giống, ấu trùng, nước và bùn tại nhiều trại ở Indonesia trong 2023 - 2024 để giám sát dịch bệnh qua kỹ thuật RT-PCR. CeKolam nhấn mạnh, người nuôi cần phối hợp, chia sẻ thông tin khi thay nước để tránh phát tán mầm bệnh, đồng thời thực hiện xét nghiệm định kỳ.

Giám đốc điều hành Genics Pty Ltd, TS Melony Sellars, khuyến nghị sử dụng phân tích mầm bệnh đa yếu tố để phát hiện sớm. Tại Ecuador và Australia, phương pháp này giúp tăng sản lượng tôm 10 - 15%, riêng sản lượng nauplius ở Ecuador tăng hơn 52%. Ngoài ra, cần kết hợp phân tích vi sinh 16S và lập kế hoạch an toàn sinh học để hạn chế rủi ro lây nhiễm.

Theo ông Txomin Azpeitia Badiola, Giám đốc Kỹ thuật của Tập đoàn Grobest, phòng bệnh thông qua dinh dưỡng và quản lý là giải pháp bền vững hơn so với xử lý khi dịch bùng phát. Ông cảnh báo nguy cơ tái phát cao của các bệnh như AHPND, WFS và EHP nếu không có chiến lược phòng ngừa triệt để. Ông đề xuất giải pháp kết hợp thức ăn chức năng với quản lý ao nuôi hợp lý, đồng thời điều chỉnh quy trình nuôi phù hợp với điều kiện từng trại.

Minh bạch nguồn gốc

Tiến sĩ George Chamberlain, Chủ tịch Trung tâm thủy sản có trách nhiệm (TCRS)

cho biết, các chương trình chứng nhận độc lập đã trở nên phổ biến nhưng các hộ nuôi nhỏ vẫn khó tiếp cận. Tại Ấn Độ, TCRS đã sử dụng công nghệ kỹ thuật số của Aqua Exchange để thu thập dữ liệu từ nông dân nhỏ lẻ, giúp đảm bảo truy xuất minh bạch. Ông nhấn mạnh truy xuất nguồn gốc là yếu tố then chốt và khuyến khích áp dụng các thực hành nuôi tốt nhất. Dù chứng nhận không giúp tăng giá bán, nhưng lại mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường. Tuy nhiên, chi phí chứng nhận khá cao, nên ông đề xuất các hộ nuôi nhỏ nên liên kết với nhà máy chế biến. Để nâng cao chất lượng tôm, Indonesia đang cải thiện khâu thu hoạch và xử lý sau thu hoạch để rút ngắn thời gian từ trang trại đến nhà máy chế biến không quá 6 tiếng. Theo Chamberlain, Indonesia có lợi thế tôm nguyên liệu và sản phẩm chế biến giá trị gia tăng, nhưng thách thức nằm ở việc đáp ứng đúng tiêu chuẩn mà người mua yêu cầu. Ông cũng đề xuất ngành tôm cần thống nhất tiêu chuẩn về bổ sung nước thông qua các kỹ thuật như ngâm hay mạ băng.

Ông Aryo Wiryawan, Chủ tịch kiêm Đồng sáng lập JALA, kỳ vọng trong 5 năm tới, ngành tôm Indonesia sẽ phát triển theo hướng ứng dụng công nghệ cao và bền vững. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của truy xuất nguồn gốc và nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm tăng sức cạnh tranh. Đồng thời, việc mở rộng thị trường nội địa sẽ giúp ngành đứng vững trước các biến động quốc tế. Đặc biệt, ngành cần chủ động ứng phó với rủi ro dịch bệnh, kiểm soát chi phí và thích nghi linh hoạt với thị trường qua các giải pháp đổi mới dựa trên công nghệ IoT, AI, thúc đẩy sự minh bạch, chất lượng và bền vững trong chuỗi cung ứng.

VŨ ĐỨC (Theo GlobalSeafood)

PROTEIN NGÔ LÊN MEN

Phụ phẩm mới, giá trị cao

Từ phụ phẩm sản xuất ethanol, ngành công nghiệp đã tạo ra protein ngô lên men giàu dinh dưỡng. Đây là nguồn nguyên liệu tiềm năng cho thức ăn thủy sản, đặc biệt trong nuôi tôm.

Trước đây, quá trình sản xuất ethanol từ

ngô chủ yếu tạo ra phụ phẩm thức ăn chăn nuôi như bã ngô (DDGS) và dầu ngô chưng cất. Tuy nhiên, hơn một thập kỷ qua, ngành công nghiệp ethanol tại Mỹ đã áp dụng công nghệ tách protein còn lại trong ngô để sản xuất nguyên liệu thức ăn chất lượng cao. Hiện, 17 nhà máy ở Bắc Mỹ đang sản xuất một loại nguyên liệu mới là protein ngô lên men.

Nhiều lợi ích

Protein ngô lên men (CFP) là phụ phẩm khô thu được từ quá trình chưng cất ngô, chứa trên 48% protein thô (tính theo vật liệu tươi). So với DDGS, CFP có hàm lượng nấm men bất hoạt cao hơn đáng kể, chiếm khoảng 20 - 24% khối lượng (so với 5 - 6% ở DDGS) nhờ quá trình cô đặc nấm men cùng protein khi tách chất xơ trong sản xuất.

Hàm lượng nấm men cao giúp cải thiện rõ rệt thành phần axit amin của CFP. So với gluten ngô (60% protein), CFP (50% protein) vẫn vượt trội với 80% lysine, 55% tryptophan và 30% arginine.

CFP cũng có nhiều ưu điểm so với khô dầu đậu nành (SBM). CFP không chứa các yếu tố

Ảnh: Aquafeed

kháng dinh dưỡng, có hàm lượng protein nhỉnh hơn (50% so với 44 - 48%) và giàu axit amin. Cụ thể, hàm lượng methionine của CFP cao hơn SBM khoảng 50%, và tổng lượng axit amin chứa lưu huỳnh cao hơn khoảng 35%.

Cuối cùng, CFP có lợi thế vượt trội về khả năng mở rộng sản xuất hơn so với nhiều loại protein mới như đơn bào hay côn trùng. Hiện đã có hơn một triệu tấn CFP được sản xuất hàng năm từ 17 nhà máy ethanol ở Bắc Mỹ.

Ứng dụng trong nuôi TTCT

Nhờ hàm lượng chất xơ thấp và tỷ lệ protein cao, protein ngô lên men được sử dụng rộng rãi trong khẩu phần ăn của nhiều loài thủy sản như cá hồi Đại Tây Dương, cá hồi vân, cá vược châu Âu, cá rô phi, cá da trơn và TTCT.

Nhiều nghiên cứu trên TTCT sử dụng

CFP hàm lượng protein 50% cho thấy kết quả tích cực, với tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống tương đương hoặc vượt trội so với các nguyên liệu đắt tiền hơn. Nghiên cứu đầu tiên do Qui và cộng sự (2017) thực hiện đã đánh giá CFP của hãng Flint Hills qua ba thí nghiệm, thay thế một phần khô đậu hoặc

kết hợp khô đậu với bột cá. Kết quả cho thấy CFP có thể chiếm đến 30% khẩu phần khi thay thế khô đậu, nhưng chỉ nên dùng tối đa 18% khi thay thế bột cá và khô đậu để không ảnh hưởng đến tăng trưởng.

Không chỉ thay thế bột cá

Nazeer và cộng sự (2022) đánh giá việc sử dụng 20% protein ngô lên men (ADVantage™ 50Y) thay thế protein ngô cô đặc trong thức ăn cho cá cảnh, và không ghi nhận sự khác biệt đáng kể về tăng trưởng, hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) hay tỷ lệ sống.

Một nghiên cứu của San Andres và cộng sự (2025) đã kiểm tra việc thay thế đồng thời khô đậu và gluten ngô trong hai hệ thống nuôi: Bể lớn có nước xanh và ao ngoài trời. Các khẩu phần ăn được thiết kế với 0%, 5%, 10% và 20% protein ngô lên men (CFP). Gluten ngô giảm từ 8% xuống còn 6%, 4% và 0%, còn khô đậu giảm từ 50% xuống còn 47%, 44% và 38% theo từng mức CFP. Các khẩu phần này đều không chứa bột cá và được sản xuất tại nhà máy thức ăn công nghiệp. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt về trọng lượng cuối, tốc độ tăng trưởng, hệ số chuyển hóa thức ăn hay tỷ lệ sống trong cả hai hệ thống. Tôm nuôi trong ao cũng không có sự khác biệt về năng suất tính theo ha. Tuy nhiên, chi phí thức ăn giảm khi bổ sung protein ngô lên men, đặc biệt là ở mức 20% CFP, làm giảm chi phí thức ăn trên mỗi kg tôm sản xuất.

Mặc dù là một “thành viên” mới trong thị trường nguyên liệu giàu protein, CFP đã chứng tỏ được khả năng thay thế hiệu quả các thành phần đắt đỏ trong khẩu phần thức cho ăn tôm và thủy sản. Với hàm lượng men bất hoạt cao và axit amin vượt trội, CFP đã chứng minh khả năng giảm chi phí thức ăn mà không ảnh hưởng đến hiệu suất tăng trưởng, thu hút sự quan tâm lớn từ các doanh nghiệp trong ngành dinh dưỡng chăn nuôi.

MI LAN (Theo Aquafeed)

THỨC ĂN THAY THẾ

Bền vững từ gốc, đột phá

từ công nghệ

Ngành thủy sản đang bước vào kỷ nguyên mới khi thức ăn thế hệ tiếp theo như protein côn trùng, dầu tảo và vi sinh vật dần thay thế bột cá, mở ra tương lai xanh cho chuỗi cung ứng thực phẩm toàn cầu.

5 rào cản

Tại Hội nghị Thượng đỉnh đổi mới thực phẩm xanh tại London diễn ra vào cuối tháng 4/2025, các doanh nghiệp hàng đầu trong ngành dinh dưỡng như Biomar, MiAlgae, Nuseed Nutritional, Calysta và Fluid Quip Technologies đã chia sẻ 5 thách thức lớn nhất trong việc thương mại hóa các nguyên liệu thay thế gồm: Xây dựng niềm tin; Thách thức công nghệ và sản xuất; Chi phí cao, hiệu quả kinh tế chưa rõ ràng; Bất định về khung pháp lý và Tâm lý thị trường.

Theo bà Benita Boettner, Tổng Giám đốc Nuseed Nutritional, xây dựng niềm tin với chuỗi giá trị là điều kiện tiên quyết nhưng cũng rào cản lớn nhất. Hiện nay, việc chứng minh tính an toàn và hiệu quả của các thành phần mới như omega-3 trong thức ăn cá hồi là yếu tố then chốt để thuyết phục nhà sản xuất và người tiêu dùng.

Cùng đó, công nghệ cũng là trở ngại lớn bởi các nguyên liệu mới đòi hỏi quy trình sản xuất hiện đại và kiểm soát chất lượng nghiêm ngặt. Bà Katherine Bryar, Giám

đốc Tiếp thị toàn cầu của Biomar, cho biết:

“Nguyên liệu mới không chỉ thay thế thành phần truyền thống mà còn phải chứng minh được giá trị gia tăng”.

Thực tế, đầu tư vào sản xuất protein đơn bào hay côn trùng cần vốn lớn, trong khi hiệu quả kinh tế chưa chắc chắn nếu không chứng minh được lợi ích cụ thể như cải thiện sức khỏe vật nuôi hay giảm tác động môi trường. Ngoài ra, khung pháp lý cho các nguyên liệu mới vẫn chưa rõ ràng và không đồng bộ. Dù một số sản phẩm đã được phê duyệt ở thị trường lớn, việc ứng dụng tại châu Âu vẫn gặp khó do tâm lý dè dặt với sản phẩm biến đổi gen. Tuy nhiên, xu hướng tiêu dùng của thế hệ trẻ đang cho thấy sự thay đổi tích cực. Không ngừng cải tiến

Các thành phần thức ăn mới, gồm protein côn trùng, dầu tảo biển và protein đơn bào không chỉ giúp giảm thiểu tác động môi trường mà còn có tiềm năng sản xuất tại địa phương, chuyển hóa chất thải thành nguồn dinh dưỡng giá trị. Hiện nay,

Ảnh: Shutterstock

hãng Calysta đang sử dụng phương pháp lên men khí tự nhiên để sản xuất protein đơn bào thay thế bột cá truyền thống. Đặc biệt, Trung Quốc đã phê duyệt sử dụng protein này trong thức ăn thủy sản, cho thấy sự chấp nhận từ các cơ quan quản lý quốc tế và tiềm năng của thị trường.

BioMar cũng đang tích cực nghiên cứu các công thức thức ăn thủy sản tối ưu, đặc biệt trong các hệ thống cung cấp thức ăn dưới nước cho cá hồi, như một phần trong chiến lược tổng thể để nâng cao hiệu quả thức ăn và tính bền vững trong sản xuất các loài có giá trị cao.

Mở rộng hợp tác

Việc triển khai thành công các giải pháp thức ăn mới yêu cầu sự hợp tác chặt chẽ giữa các bên trong chuỗi giá trị thức ăn thủy sản. Mối quan hệ giữa nhà sản xuất thức ăn, nhà cung cấp nguyên liệu và các cơ quan quản lý đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết thách thức và tận dụng cơ hội của quá trình chuyển đổi này.

Cam kết cung cấp lâu dài giữa các công ty thức ăn tạo ra lợi ích chung cho tất cả các bên. Đơn cử, Công ty Nuseed mở rộng quy mô đã giúp giảm thiểu biến động giá và nguồn cung dầu cải canola omega-3 chất lượng cao, từ đó Nuseed phát triển danh mục omega-3, hướng ngành nuôi trồng thủy sản và nông nghiệp đến tương lai bền vững hơn.

Các lãnh đạo ngành từ BioMar, MiAlgae, Calysta, Fluid Quip Technologies và Nuseed Nutritional đang chú trọng tới sự kết hợp giữa nguyên liệu thức ăn truyền thống và mới, cùng các chiến lược hợp tác nhằm thúc đẩy các giải pháp thức ăn thủy sản bền vững và hiệu quả chi phí trong bối cảnh các thách thức toàn cầu.

VŨ ĐỨC (Theo WorldFishing)

Hạn chế ảnh hưởng khi sang tôm

Sang, chuyển tôm đúng kỹ thuật sẽ hạn chế ảnh hưởng đến sức khỏe, quá trình phát triển, tỷ lệ sống của tôm ở môi trường mới.

Chuẩn bị

Trước khi sang cần lưu ý kiểm tra môi

trường cả hai ao (ao ương và ao sang) đảm bảo sự tương đồng các thông số: độ mặn, pH, độ kiềm, ôxy hòa tan,… nhằm hạn chế gây sốc cho tôm nuôi. Ao sang cần được diệt khuẩn, gây màu, đảm bảo màu nước, độ trong, các yếu tố môi trường nằm trong ngưỡng thích hợp cho tôm sinh trưởng và phát triển tốt.

Người nuôi nên tăng đề kháng của tôm trước khi sang ao bằng cách bổ sung các vitamin khoáng chất dinh dưỡng, các loại hỗ trợ đường ruột và gan tôm khỏe hơn để tăng khả năng chịu đựng khi qua môi trường mới.

Chuẩn bị đầy đủ dụng cụ sang, chuyển tôm, như lưới, lú, thau, xô, vợt lưới các loại, phương tiện vận chuyển,… Khuyến cáo nên

sử dụng thiết kế hệ thống cống sang chuyển tôm, bằng ống nhựa có đường kính ≥ 168 mm, nối từ ao ương sang ao nuôi.

Không cho ăn cữ sau cùng gần thời điểm sang, hoặc để tôm nhịn đói trước khi sang.

Thời điểm

Thời điểm chuyển tôm phù hợp là giai đoạn tôm khoảng 20 - 25 ngày, lúc tôm đạt trọng lượng 800 - 1.000 con/kg. Khi chuẩn bị sang, chuyển tôm, người nuôi cần lưu ý sức khỏe tôm và kiểm tra kỹ các yếu tố môi trường. Chọn thời điểm tôm khỏe, ăn mạnh, gan màu nâu hoặc nâu đen, ruột đen đậm, ruột to, chứa đầy thức ăn. Tôm khỏe, khi nhấc vó lấp xấp mặt nước, tôm búng nhảy mạnh.

Ngoài ra, cần chọn lúc thời tiết khô ráo, môi trường ao ương thuận lợi, hàm lượng khí độc như NO2, NH3, H2S ở mức thấp. Các thông số pH, nhiệt độ, hàm lượng ôxy trong phạm vi thích hợp. Chọn thời điểm tôm cứng vỏ, nên sang vào sáng sớm hoặc chiều mát.

Không sang, chuyển tôm khi tôm ăn yếu hơn so bình thường, thức ăn không đầy ruột, ruột đứt khúc hoặc trống, tôm bơi lờ đờ, vỏ thô, ráp, thân tôm chuyển đỏ, sậm màu hoặc chuyển sang trắng nhợt nhạt,…

Không sang, chuyển khi tôm lột xác vì kéo lưới, đặt lú trong quá trình sang sẽ gây ra các vết thương cơ học, ảnh hưởng đến sức

khỏe tôm.

Sang tôm vào thời điểm tôm khỏe, khi nhấc vó lấp xấp mặt nước, tôm búng nhảy

Thực hiện

Đối với các hệ thống nuôi mới, được thiết kế theo quy trình nuôi 2 giai đoạn, chỉ cần rút ống thoát đã được thiết kế từ trước, tôm từ ao ương sẽ theo đó mà sang ao nuôi giai đoạn 2.

Đối với các ao nuôi không thiết kế hệ thống ống ngầm, có thể sử dụng các dụng cụ để chuyển tôm như: lú, lưới kéo, thau, giỏ,…; sử dụng lưới có kích thước mắt lưới nhỏ để kéo tôm hoặc đặt lú, bát quái để chuyển tôm, trường hợp kéo lưới, cần kéo từng đoạn ngắn, sau đó chuyển tôm đi, tránh để tôm vào lưới nhiều, dễ bị ngộp. Trường hợp đặt lú, bát quái, không nên để thời gian quá lâu, tránh trường hợp tôm bị ngộp do vào quá nhiều.

Sau 3 - 5 đợt tôm thả sang ao mới nên bổ sung thêm khoáng, Vitamin C, Yucca, nhằm chống sốc cho tôm, ổn định các thông số môi trường, tăng cường sục khí trước, trong và sau quá trình chuyển tôm.

Chăm sóc

Theo dõi tôm giống trong những ngày đầu, bổ sung liên tục vào môi trường mới gồm khoáng, premix, Vitamin C, Beta-glucan, Yucca, chống sốc,… Tăng cường chạy quạt nước, chạy ôxy sủi, bổ sung vi sinh ổn định nước, môi trường ao nuôi.

Ngày đầu tiên, khi tôm mới qua môi trường mới cần hạn chế cho tôm ăn. Ngày thứ hai, có thể cho tôm ăn lượng 30 - 50% so ban đầu, sau đó, nếu tôm ổn định, điều chỉnh lượng ăn tăng từ từ.

Khi tôm đã thích nghi môi trường mới, hoạt động bình thường, lượng ăn hàng ngày điều chỉnh theo nhu cầu thực tế của tôm trong ao.

Thường xuyên bổ sung các enzyme hỗ trợ tiêu hóa, vi sinh đường ruột, premix, Beta-glucan, chất hỗ trợ gan, tăng cường đề kháng,…

THANH HIẾU

Kinh nghiệm nuôi tôm mùa nóng

chăm sóc tôm tốt và tạo môi

thuận lợi cho

trong

kiện nắng nóng, người nuôi cần nắm vững các giải pháp phòng chống thích hợp.

Quản lý ao nuôi

Sử dụng màn lưới đen, chống nắng

căng phía trên mặt ao để hạn chế bức xạ của ánh sáng mặt trời, giảm tăng nhiệt nước ao, tránh gây sốc cho tôm.

Thường xuyên kiểm tra mực nước trong ao nuôi và kịp thời bổ sung khi thấy mực nước trong ao không đảm bảo, lưu ý khi lấy nước v ào ao cần thông qua túi lọc bằng vải kate (đường kính 0,6 m, dài từ 10 - 15 m) để hạn chế mầm bệnh bên ngoài có thể xâm nhập v ào ao nuôi.

Theo dõi chất lượng nước ngoài kênh (mực nước, tình hình dịch bệnh xung quanh,…) trước khi cấp v ào ao nuôi. Cần bố trí ao lắng/ao chứa nước để chủ động trữ nước v à cấp v ào ao nuôi khi cần thiết.

Tăng cường theo dõi yếu tố môi trường, sức khỏe tôm nuôi (đặc biệt đối với tôm nuôi giai đoạn từ 1 - 2 tháng tuổi). Kiểm tra, duy trì các yếu tố môi trường trong khoảng thích hợp: Nhiệt độ từ 26 - 320C, pH từ 7,5 - 8,5 (chênh lệnh ngày và đêm không quá 0,5); độ mặn 8 - 20‰, hàm lượng ôxy hòa tan > 4 mg/L, độ kiềm 80 - 160 mg/L.

Thường xuyên kiểm tra chất lượng nước của ao nuôi thông qua màu nước. Nếu màu nước trong ao là xanh nõn chuối (tảo lục) v à màu v àng nâu (tảo khuê) là nước tốt, nếu nước không có 2 màu trên thì cần thay

nước v à bổ sung phân hữu cơ. Xác định mật độ tảo thông qua độ trong, nếu độ trong từ 0,3 - 0,4 m là tốt, nếu độ trong dưới 0,2 m thì cần thay nước, nếu độ trong trên 0,4 m thì cần bổ sung phân hữu cơ.

Tăng cường sục khí trong ao để hàm lượng ôxy được cung cấp đủ ở mọi tầng nước. Hạn chế dùng chài, vó đánh bắt kiểm tra tôm vào ngày nắng nóng để phòng hiện tượng đục cơ trên tôm. Định kỳ xi phông nền đáy ao nhằm giảm lượng mùn bã hữu cơ trong ao, hạn chế sự phát sinh các khí độc ảnh hưởng đến tôm.

Đ ị nh k ỳ 7 ng à y/l ầ n sử dụng chế phẩm sinh học đ ể l à m s ạ ch môi trư ờ ng, n ề n đ á y ao, duy tr ì m à u nư ớ c v à phân h ủ y m ù n b ã h ữ u cơ, t ạ o th ứ c ăn t ự nhiên v à ổ n đ ị nh môi trư ờ ng nư ớ c trong ao nuôi tôm.

Định kỳ lấy mẫu nước kiểm tra mật số vi khuẩn gây hại ( Vibrio ) trong ao tôm 2 lần/tuần, khống chế mật số Vibrio tổng ở mức thấp < 1.000 CFU/ml và sự hiện diện của Vibrio gây bệnh hoại tử gan tụy ( V. Parahaemolyticus ) và Vibrio gây bệnh phân trắng.

Chăm sóc tôm

Nên sử dụng các loại thức ăn đảm bảo chất lượng và phù hợp với từng giai đoạn nuôi; không nên sử dụng các loại thức

ăn đã ươn thối, ẩm mốc hoặc đã hết hạn sử dụng.

Vào thời điểm nắng nóng nhiệt độ nước trên 330C nên giảm số lần cho tôm ăn hoặc giảm 30 - 50% lượng thức ăn. Khi thời tiết, môi trường ao nuôi ổn định thì tăng từ từ lượng thức ăn trở lại

Cho ăn đúng liều lượng và đảm bảo đủ chất dinh dưỡng. Xác định chính xác khẩu phần thức ăn và cho ăn nhiều bữa trong ngày là biện pháp cần thiết để giảm chất thải hữu cơ trong ao nuôi thông qua giảm lượng thức ăn dư thừa và thức ăn bị phân giải ngoài môi trường nước ao.

Thường xuyên kiểm tra, vớt bỏ thức ăn thừa trong ao nuôi và khử trùng dụng cụ, địa điểm cho ăn.

Định kỳ 15 ngày/lần bổ sung Vitamin C, các khoáng vi lượng, men tiêu hóa trộn vào thức ăn cho tôm, thời gian mỗi đợt từ 5 - 7 ngày, để tăng sức đề kháng, giúp tôm lột xác đồng loạt và nhanh cứng vỏ.

 Người nuôi cần theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết và kết quả quan trắc môi trường khu vực nuôi. Theo dõi tình hình phát triển của tôm, xử lý tốt khi có dịch bệnh xảy ra.

Một số bệnh trên tôm và biện pháp phòng trị

Phần lớn các bệnh ở tôm thường có mức độ truyền nhiễm cao, có thể lây lan nhanh chóng trong ao nuôi và sang các ao lân cận. Vì vậy, cần có nhiều biện pháp phòng ngừa ngay từ đầu vụ để hạn

chế thiệt hại.

Bệnh hoại tử cơ quan tạo máu và cơ quan lập biểu mô (IHHNV)

Nguyênnhân: Do loại virus có tên gọi là

Infectious Hypodermal and hematopoietic Necrosis Virus (IHHNV) gây ra.

Triệu chứng: Tôm mắc bệnh sẽ bị giảm

tăng trưởng từ 10 - 30%. Một số bộ phận như

ngực bị biến dạng, râu tôm quăn, vỏ bị thô ráp, tôm còi cọc.

Phòng trị: Bệnh này vẫn chưa có thuốc đặc trị. Biện pháp tốt nhất mà người nuôi

cần làm là giảm tác hại bằng cách kiểm soát con giống, nâng cao dinh dưỡng cho tôm

nhằm tăng đề kháng và kiểm tra chặt chẽ môi trường nước trong ao.

Bệnh đốm trắng do virus (WSSV)

Nguyên nhân: Virus gây ra bệnh đốm trắng trên TTCT có tên là White spot Syndrome (WSSV), ký sinh trong thân tôm. Virus tấn công nhiều mô tế bào, xuất hiện nhiều nhất ở tế bào mô da. Một khi WSSV xâm nhập sẽ gây chết hàng loạt cá thể tôm, từ ấu trùng cho đến tôm giống rồi tôm trưởng thành.

Triệu chứng: Tôm bơi yếu, trôi dạt và kém ăn. Khi quan sát sẽ thấy những đốm

trắng tròn, xuất hiện ở dưới lớp vỏ kitin. Xuất hiện toàn thân hoặc ở giáp đầu ngực, thân tôm xuất hiện màu tím. Tôm có thể chết 100% chỉ từ 3 - 5 ngày sau khi có dấu hiệu bệnh.

Cách phòng trị: Hiện vẫn chưa có phương pháp điều trị cụ thể. Vì vậy, người nuôi phải nâng cao cảnh giác hơn trong việc phòng tránh bệnh. Khi phát hiện ao có tôm nhiễm bệnh, nên vớt hết tôm chết ra khỏi ao, đồng thời thu hoạch tôm ngay nhằm mục đích giảm thiệt hại xuống mức thấp nhất có thể. Sử dụng Chlorine với liều lượng 30 kg/1.000 m3 hoặc có thể sử dụng

Tép bạc

kiểm soát yếu tố con giống để loại bỏ yếu tố nguy cơ ban đầu. Tuân thủ lịch mùa vụ thả nuôi và chọn con giống đảm bảo chất lượng. Thực hiện quy trình cải tạo ao; quy trình nuôi (chỉ sử dụng chế phẩm sinh học và thức ăn thích hợp, đảm bảo chất lượng, không để dư thừa thức ăn) theo hướng dẫn của cơ quan quản lý thủy sản. Không sử dụng các chất diệt tạp, hóa chất cấm hoặc có nguồn gốc thuốc bảo vệ thực vật để xử lý môi trường ao nuôi. Tiến hành kiểm tra mật độ của vi khuẩn Vibrio trong môi trường nước ao nuôi để xác định và xử lý.

Bệnh đốm đen (NHPB)

Formaline 200 lít/1.000 m3 hòa với nước để

tạt đều quanh ao. Tiếp tục ngâm ao 7 ngày rồi mới xả ra môi trường.

Hội chứng Taura

Nguyên nhân: Bệnh do virus gây ra.

Ban đầu, virus này được phân loại thuộc họ Picornaviridae, nhưng đến năm 2005 đã

được tái phân loại và thuộc họ Dicistrovirdae

Triệuchứng: Bệnh xuất hiện khi tôm vào giai đoạn 2 tuần tuổi cho đến khi tôm trưởng thành. Ở giai đoạn cấp tính, chúng khiến tôm chậm lớn, vỏ mềm, hệ tiêu hóa của tôm bị phá hủy. Tốc độ lây lan khá nhanh. Một khi tôm mắc bệnh, phần đuôi tôm sẽ phồng lên và chuyển thành màu đỏ. Các vết đỏ sau đó chuyển thành các đốm đen trên biểu bì. Khi chuyển qua giai đoạn mãn tính, các đốm nhiễm Melanin sẽ xuất hiện nhiều thêm. Tôm ăn kém, bơi lờ đờ trên mặt nước, rúc vào ao hoặc đầm nuôi tôm. Con tôm sẽ chết lúc lột xác. Gan tụy xuất hiện màu vàng hơn bình thường, mang bị sưng. Bệnh này rất nguy hiểm đối với TTCT, thời gian ủ bệnh tương đối ngắn, tỷ lệ chết của tôm lên đến 95%.

Phòng trị bệnh: Người nuôi tôm cần áp dụng các biện pháp tổng hợp về quản lý và cách xử lý môi trường của nước trong ao nuôi. Phải đảm bảo được nguồn nước nuôi đã được xử lý, lắng lọc để không chứa mầm bệnh gây hại.

Hiện nay, chưa có bất kỳ một quy trình hay cách điều trị bệnh hiệu quả.

Bệnh sẽ xuất hiện trên tôm cho đến khi tôm chết. Khi phát hiện bệnh, người nuôi cần kiểm soát tốt dịch bệnh, hạn

chế tối đa thiệt hại nhất, không cho tôm lột xác trong quá trình bị bệnh.

Cùng với đó, giảm thức ăn, duy trì pH

trên 8, sục khí liên tục và đảm bảo môi

Bệnh đầu vàng (YHV)

Nguyên nhân: Do phức hợp virus gây bệnh đầu vàng gây ra. Hai loại virus có tên tiếng anh là Yellow Head Virus (YHV) và Virus gây ra các hội chứng liên quan (GillAssociated Virus - GAV). Hiện nay, theo ghi nhận, YHV tồn tại 6 kiểu gen khác nhau.

Triệu chứng: TTCT nhiễm bệnh sẽ có các biểu hiện như vàng hoặc nâu ở mang. Màu vàng xuất hiện nhiều nhất ở phần đầu ngực, toàn thân sẽ có màu nhợt nhạt. Do tuyến tiêu hóa bị sưng nên phần đầu sẽ bị vàng.

Phòng trị bệnh: Nên chọn lọc và kiểm tra giống trước khi thả nuôi. Bên cạnh đó, cần chú ý đến chất lượng nước và môi trường xung quanh.

Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (EMS/AHPND)

Nguyên nhân: Do vi khuẩn Vibrio Parahaemolyticus có độc lực cao gây ra.

Triệuchứng: Khi tôm mắc bệnh, gan tụy bị teo đi và có màu nhợt nhạt. Ruột tôm bị rỗng hoặc đứt đoạn. Thường xảy ra ở tháng thứ 2 của vụ nuôi.

Phòng trị: Bệnh chưa có biện pháp điều trị đặc hiệu. Để phòng bệnh, cần

Nguyên nhân: Do vi khuẩn NHPB (Necrotizing Hepatopancreatitis Bacterium). Bệnh còn có tên khác là bệnh hoại tử gan tụy do vi khuẩn gây ra. Tuy nhiên, vi khuẩn khác hoàn toàn với vi khuẩn gây bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND).

Triệu chứng: Tôm khi bị bệnh sẽ rất dễ phát hiện bởi các đốm đen nhỏ hoặc mảng lớn. Có màu tối hoặc đen, đuôi bị mỏng đi. Một số tổn thương phụ có thể xuất hiện như: Mòn đuôi, cụt râu, vảy râu.

Phòngtrị: Cũng thực hiện tương tự như các biện pháp phòng bệnh do vi khuẩn gây ra. Cần phải diệt khuẩn kỹ khi cải tạo ao, đánh giá mật độ vi khuẩn bằng biện pháp dùng đĩa thạch TCBS agar (MP - BIOTEST). Kiểm tra chất lượng giống tôm giống bằng kỹ thuật PCR.

Phòng bệnh tổng hợp

Xử lý nguồn nước cấp đảm bảo yêu cầu, tốt nhất nên có hệ thống xử lý nguồn nước cấp riêng biệt và có ao sẵn sàng để cấp nước cho ao nuôi.

Lựa chọn nguồn giống sạch, không bị nhiễm bệnh. Tuân thủ theo đúng quy trình, kỹ thuật nuôi tôm. Cần vệ sinh ao nuôi định kỳ, chủ động loại bỏ các loại tảo độc trong ao nuôi. Đảm bảo sức khỏe tốt nhất cho con tôm.

THL

trường nước ở mức tốt nhất có thể.

Qua từng giai đoạn nuôi, người nuôi nên cung cấp lượng thức ăn phù hợp. Đồng thời tăng cường đề kháng cho tôm bằng cách: Cung cấp các loại khoáng chất và vitamin, các loại men tiêu hóa cần thiết,... trộn vào thức ăn theo tỷ lệ nhất định.

Chủ động theo dõi tình hình biến đổi khí hậu, nguồn nước, kiểm tra pH phù hợp để có những biện pháp xử lý kịp thời.

TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUẢNG TRỊ Định

CP SOLUTION CENTER

Trung tâm giải pháp

kỹ thuật

Hiện nay, ngành tôm đang đối mặt với nhiều khó khăn, trong đó quản lý dịch bệnh được xem là vấn đề nhức nhối nhất. Nhằm tăng cường khả năng ứng phó với những thách thức, để kiến tạo nên những giá trị bền vững cho ngành tôm; đồng thời, giúp người nuôi chủ động quản lý ao tôm một cách hiệu quả, giảm thiểu rủi ro trong suốt quá trình sản xuất với chi phí hợp lý, Công ty CP Chăn nuôi C.P. Việt Nam đã cho ra đời trung tâm giải pháp CP Solution Center.

Giải pháp toàn diện

Với phương châm “tất cả vì sự thành công của bạn”, CP Solution Center đem đến giải pháp toàn diện giúp Quý khách hàng thành công trong mỗi vụ nuôi.

Bằng việc đầu tư các trang thiết bị chuyên dụng, công nghệ hiện đại hàng đầu trên thế giới như: máy ly tâm, đèn UV tự động 100%, máy tách chiết DNA/RNA, máy Realtime

PCR, cùng với đội ngũ kỹ

sư được đào tạo bài bản có

chuyên môn sâu. Do đó khi

đến với CP Solution Center, Quý khách hàng hoàn toàn yên

tâm với kết quả xét nghiệm với

độ chính xác tuyệt đối.

Công nghệ tiên phong - thành công bền vững

Mẫu sau khi được tiếp nhận

từ Quý khách hàng, sẽ được đội

ngũ kỹ sư tiến hành: Phân tích các

Tại CP Solution Center, sau khi có kết quả phân tích mẫu xét nghiệm, đội ngũ kỹ sư sẽ đồng hành, hỗ trợ theo dõi trực tiếp từ phòng xét nghiệm đến tại ao nuôi, đưa ra giải pháp khắc phục nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả, giúp Quý khách hàng yên tâm có những vụ mùa thành công thắng lợi cùng C.P. Việt Nam.

Trung tâm giải pháp kỹ thuật CP Solution Center là dịch vụ mới từ C.P. Việt Nam và đang được nhân rộng tại các

vùng nuôi tôm trọng điểm như

Bến Tre, Sóc Trăng, Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang,...

CP Solution Center - chính là trung tâm giải pháp, tất cả vì sự thành công của bạn!

biệt nhất là có

tra

hầu hết các loại bệnh trên tôm, được Tổ chức Thú y Thế giới (IOE) công bố như: EHP, WSSV, TPD,… bằng công nghệ Realtime PCR. Với độ nhạy lên đến 10 mũ 0, trả kết quả nhanh trong ngày, độ chính xác cao, Realtime PCR giúp biết được mức độ nặng nhẹ của bệnh tôm thông qua chỉ số CT. Công nghệ này được đánh giá là tốt nhất hiện nay.

C.P. VIỆT NAM Hình ảnh khai trương Trung

PHILEO BY LESAFFRE

Vì mục tiêu không kháng sinh trong tương lai

Đến với VietShrimp 2025, Phileo by Lesaffre mang tới những giải pháp dinh dưỡng mới, góp phần hiện thực hóa tầm nhìn về một ngành thủy sản phát triển xanh và bền vững.

Nhân dịp này, phóng viên Đặc san Con Tôm đã có cuộc trao đổi với bà Trần Thị Bích Phương, Giám đốc Thương mại Phileo by Lesaffre Việt Nam.

Phóng viên: Thưa bà, lần thứ ba tham gia VietShrimp, Phileo by Lesaffre Việt Nam mang tới những sản phẩm chiến lược nào?

Bà Trần Thị Bích Phương: Sự kiện VietShrimp là cơ hội tuyệt vời để chúng tôi gặp gỡ, kết nối với doanh nghiệp và khách hàng. Do vậy, trong dịp này chúng tôi mang tới những sản phẩm chiến lược do Tập đoàn Phileo by Lesaffre nghiên cứu và phát triển, trong đó nổi bật là Actisaf

và Safmannan. Đây đều là những sản phẩm đi theo xu hướng không kháng sinh trong tương lai.

Phóng viên: Các sản phẩm từ nấm men của Phileo by Lesaffre sẽ giúp bổ trợ cho người chăn nuôi ra sao, thưa bà?

Bà Trần Thị Bích Phương: Các sản phẩm probiotic và prebiotic do Phileo by Lesaffre nghiên cứu, sản xuất sẽ giúp người nuôi giảm phụ thuộc kháng sinh. Đây là những giải pháp sinh học tiên tiến để cải thiện sức khỏe đường ruột, tăng sức đề kháng cho vật nuôi, từ đó sẽ góp phần tăng phần lợi nhuận cho các trang trại.

Đó cũng là cách để chúng tôi tham gia vào mắt xích an toàn vệ sinh thực phẩm cũng như bảo vệ môi trường trong chuỗi nuôi trồng thủy sản, góp phần hòa cùng chiến lược xanh hóa vùng nuôi của ngành.

Phóng viên: Trong bối cảnh hiện nay, người nuôi trồng thủy sản cần vượt qua những khó khăn, thách thức gì và đâu là giải pháp mà Phileo by Lesaffre hướng tới?

Bà Trần Thị Bích Phương: Trong những năm gần đây, ngành nuôi trồng thủy sản toàn cầu đã vượt qua nhiều trở ngại, đặc biệt là những khó khăn liên quan đến dịch bệnh bùng phát, quy định về môi

Phileo by Lesaffre là đơn vị

đến từ Pháp với hơn 170 năm kinh nghiệm trong nghiên cứu và ứng dụng vi sinh vào nông nghiệp và thủy sản. Với nền tảng khoa học vững chắc, Phileo by Lesaffre cung cấp các giải pháp vi sinh tiên tiến, giúp cải thiện sức khỏe vật nuôi và tối ưu hóa hiệu suất chăn nuôi.

trường và biến động thị trường. Tuy nhiên, trong tương lai, dự kiến sẽ có nhiều áp lực và thách thức hơn do tình trạng khan hiếm nước, việc đánh bắt quá mức nguồn lợi tự nhiên, tình trạng kháng kháng sinh gia tăng và biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp.

Thực tế cho thấy, cuộc cách mạng xanh đang làm gia tăng nhu cầu về các giải pháp tiên tiến, đồng thời phải bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Điều này sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp, tập đoàn tìm đến các công nghệ bền vững hơn, chẳng hạn như hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn.

Tại Phileo by Lesaffre, chúng tôi cung cấp đầy đủ các giải pháp dựa trên nấm men và vi khuẩn probiotic, các thành phần men tinh khiết và các sản phẩm lên men chuyên dụng khác,… Các sản phẩm này được thành lập dựa trên quá trình nghiên cứu, phát triển sản phẩm khoa học chặt chẽ và thử nghiệm thực địa. Chúng tôi luôn nỗ lực tạo ra các giải pháp sáng tạo để nâng cao hiệu suất của vật nuôi và cải thiện sức khỏe của chúng thông qua dinh dưỡng.

Phóng viên: Bên cạnh việc tạo ra các sản phẩm chất lượng cao cho ngành thủy sản, Phileo by Lesaffre đã làm gì để hỗ trợ người nuôi, thưa bà?

Bà Trần Thị Bích Phương: Hiện Phileo by Lesaffre đã nghiên cứu ứng dụng của nấm men ở trang trại nhằm không phụ thuộc vào kháng sinh. Bên cạnh đó chúng tôi cũng kết hợp với những trung tâm nghiên cứu, các trường, viện để có những ứng dụng thực tiễn của sản phẩm, góp phần nhằm nâng cao hiệu quả cho người chăn nuôi.

Để hỗ trợ người nuôi sử dụng sản phẩm hiệu quả hơn, Phileo by Lesaffre sẽ đi theo hướng nghiên cứu ở các trại thực nghiệm trước, sau đó sẽ cho ứng dụng ở ngoài thực địa. Đặc biệt, chúng tôi cũng có đội ngũ kỹ thuật có chuyên môn cao ngay tại Việt Nam để trực tiếp hỗ trợ tư vấn cho người chăn nuôi với mục tiêu “Ngoài có sản phẩm tốt thì người nuôi cần biết sử dụng đúng cách để nâng cao hiệu quả”.

Không chỉ vậy, Phileo by Lesaffre còn kết hợp với các nhà phân phối như Trường Hải Tiến để cùng hỗ trợ kỹ thuật cho người nuôi một cách thuận lợi hơn.

Phóng viên: Bà nhận định như thế nào về tiềm năng của các sản phẩm này tại thị trường thế giới và Việt Nam? Phileo by Lesaffre Việt Nam có kế hoạch mở nhà máy sản xuất tại Việt Nam không?

Bà Trần Thị Bích Phương: Ngoài Việt Nam, Phileo by Lesaffre có 80 nhà máy trên toàn cầu, riêng những sản phẩm mà áp dụng cho ngành nông nghiệp thì công ty có trên 27 nhà máy phủ khắp các quốc gia lớn như nhà máy ở Mỹ, Tây Ban Nha, Nga, Trung Quốc,… Trong đó, các sản phẩm

Tại Phileo by Lesaffre, chúng tôi tin rằng nấm men và vi khuẩn với công nghệ lên men tiên tiến là tương lai của sức khỏe vật nuôi thông qua dinh dưỡng. Chúng là câu trả lời cho những thách thức về nhu cầu toàn cầu đối với đạm động vật có tính bền vững cao trong tương lai. Việc lưu trữ đa dạng và phong phú các chủng nấm men độc quyền cho phép chúng tôi tư vấn giải quyết các thách thức xảy ra trong thực tế. Với việc nghiên cứu chuyên sâu và tập trung sản xuất vào một nhóm ngành duy nhất hơn 170 năm, chúng tôi tạo ra lợi ích bằng cách ứng dụng các vi sinh vật có lợi để cải thiện việc chăm sóc vật nuôi. Chúng tôi cung cấp các giải pháp đem lại lợi ích cho ngành nông nghiệp như giải pháp thay thế kháng sinh, phòng bệnh, quản lý stress, kiểm soát độc tố nấm mốc và các nhóm dinh dưỡng chức năng.

phân phối tại Việt Nam được nhập khẩu trực tiếp từ Mỹ, Nga, Trung Quốc. Hiện tại, chúng tôi chưa có thông tin chính thức về việc mở rộng hoặc xây dựng nhà máy mới tại Việt Nam. Tuy nhiên, công ty luôn theo dõi và đánh giá thị trường để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng. Phileo by Lesaffre cam kết tiếp tục cung cấp các sản phẩm và giải pháp chất lượng cao, đồng thời hỗ trợ khách hàng trong việc phát triển và đổi mới.

Trân trọng cảm ơn bà!

THÙY KHÁNH (Thực hiện)

Ông Manuel Maire - Tổng Giám đốc Phileo by Lesaffre

GIỚI THIỆU VỀ MÁY NANO BUBBLES

Công nghệ tiên tiến cho tương lai

bền vững

Máy Nano Bubbles là thiết bị công nghệ hiện đại có khả năng tạo ra các bọt khí siêu nhỏ, với kích thước 80 - 120 mm, không thể nhìn thấy bằng mắt thường.

Các bọt khí này còn gọi là “Nano Bubbles” hay bọt khí “Nano”, sở hữu những đặc tính đặt biệt như khả năng hòa tan cao, ổn định lâu trong nước và dễ dàng xâm nhập vào các cấu trúc vi mô, loại bỏ màng sinh học –ngăn chặn tảo độc, loại bỏ chất ô nhiễm – bùn – dầu mỡ, giúp duy trì môi trường nước khỏe mạnh, tiêu thụ ít năng lượng – giảm chi phí vận hành...

Công dụng của công nghệ Nano trong trại nuôi tôm 1. Tăng cường miễn dịch và sức khỏe tôm - Tăng cường sức đề kháng: Nano giúp cải thiện hệ miễn dịch của tôm, tăng khả năng chống lại các loại virus và vi khuẩn, như bệnh đốm trắng, bệnh gan tụy cấp tính (EMS).

- Giảm căng thẳng cho tôm: Việc cải thiện chất lượng nước và dinh dưỡng giúp giảm stress cho tôm, từ đó giúp chúng phát triển mạnh mẽ và khỏe mạnh hơn.

- Hỗ trợ phục hồi nhanh chóng: Tôm bị bệnh hoặc tổn thương có thể hồi phục nhanh chóng nhờ nano giúp kích thích quá trình tái tạo tế bào.

2. Tăng trưởng nhanh và hiệu quả nuôi trồng

- Tăng trưởng nhanh hơn:

Các sản phẩm nano kích thích

tôm ăn khỏe và hấp thụ dinh dưỡng tốt hơn, giúp tôm tăng trưởng nhanh và đạt trọng lượng lý tưởng.

- Giảm thiểu hao hụt: Nano giúp giảm tỷ lệ chết trong ao nuôi, nâng cao tỷ lệ sống sót và đảm bảo năng suất thu hoạch cao.

- Cải thiện tỷ lệ chuyển hóa thức ăn: Giúp tôm tiêu hóa thức ăn hiệu quả hơn, giảm chi phí thức ăn và tăng hiệu quả sản xuất.

3. Xử lý nước trong trại nuôi tôm

- Diệt khuẩn và nấm mốc: Các sản phẩm nano giúp tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh trong môi trường nước như Vibrio, Salmonella, giúp giảm nguy cơ nhiễm trùng cho tôm.

- Điều chỉnh pH và chất

lượng nước: Công nghệ nano giúp cân bằng pH nước, giảm nồng độ amoniac, nitrat, và các

khí độc như hydrogen sulfide, cải thiện điều kiện sống cho tôm.

- Lọc và làm trong nước: Các hạt nano có khả năng kết tủa và

loại bỏ các tạp chất trong nước, giữ nước luôn sạch và trong, giảm thiểu rủi ro bệnh.

4. Hỗ trợ phòng ngừa và điều trị bệnh

- Tăng khả năng chống lại bệnh tôm: Nano có khả năng kích thích sản xuất enzyme trong tôm giúp chúng chống lại các bệnh như bệnh gan tụy, bệnh đốm trắng, và bệnh đỏ mang.

- Giảm kháng sinh: Việc sử dụng nano giúp giảm thiểu sự phụ thuộc vào thuốc kháng sinh, đồng thời duy trì sức khỏe tổng thể của tôm.

5. Cải thiện chất lượng sản phẩm và an toàn thực phẩm

- Sản phẩm sạch, đạt chuẩn xuất khẩu: Tôm nuôi trong môi trường với công nghệ nano sẽ có chất lượng vượt trội, sạch và an toàn, đáp ứng tiêu chuẩn nghiêm ngặt của các thị trường quốc tế.

- Giảm tồn dư thuốc kháng sinh: Việc sử dụng nano giảm sự cần thiết phải dùng kháng sinh

Thông tin liên hệ: CÔNG TY TNHH B.H.N

Số điện thoại: 028.668.101.95

Website: bhnenc.com

Email: bhnenc@gmail.com

trong trại nuôi tôm, giúp sản phẩm cuối cùng đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm.

6. Tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả kinh tế

- Giảm chi phí quản lý ao nuôi: Công nghệ nano giúp giảm chi phí điều trị bệnh và duy trì chất lượng nước, giúp nông dân tiết kiệm chi phí vận hành.

- Tăng năng suất và giảm thời gian nuôi: Tôm phát triển nhanh và ít bệnh, giúp rút ngắn thời gian nuôi và tăng vòng quay sản xuất.

Với ưu điểm vượt trội, máy Nano Bubbles không chỉ mang lại hiệu quả cao mà còn góp phần giảm thiểu tác động đến môi trường. Đây là một trong những giải pháp công nghệ xanh, mở ra hướng đi mới cho sự phát triển bền vững trong tương lai.

Địa chỉ: Số DP-18 Dragon Parc2, KDC Phú Long, đường Nguyễn

Hữu Thọ, xã Phước Kiển, huyện Nhà Bè, TP Hồ Chí Minh

B.H.N

Biện

pháp xử lý bệnh

đường ruột trên tôm

Bệnh đường ruột ở tôm khá phổ biến với các biểu hiện bệnh như phân trắng, đứt khúc, trống ruột, phân loãng,... kéo dài có thể dẫn đến hư gan tụy của tôm. Bệnh thường xảy ra ở tôm nuôi sau 1 tháng, nhiều nhất vào giai đoạn 60 - 90 ngày tuổi. Nếu không được điều trị kịp thời, bệnh làm giảm năng suất và chất lượng tôm nuôi.

AQ - 6S Vi sinh xử lý môi trường

Chế phẩm vi sinh chuyên xử lý tảo, chất hữu cơ dư thừa và bùn đáy ao nuôi, ức chế triệt để Vibrio spp., ...

Nguyên nhân

- Nhiễm vi khuẩn Vibrio

spp: Khi chất lượng nước kém, mật độ Vibrio tăng cao, xâm nhập vào cơ thể và gây bệnh cho tôm. Hầu hết các chủng Vibrio

đều có khả năng gây bệnh, khi vào đường ruột, vi khuẩn phá hủy thành ruột gây viêm, tôm không ăn được dẫn đến trống ruột, đứt khúc.

- Nhiễm ký sinh trùng Gregarine (trùng 2 tế bào): Khi tôm ăn phải ký chủ của loài Gregarine này như nhuyễn thể 2 mảnh vỏ, giun nhiều tơ, ốc,... sẽ bị ấu trùng xâm nhập vào ruột, phát triển thành dạng trưởng thành, sống ký sinh và bám vào thành ruột. Khi mật

độ Gregarine dày đặc sẽ làm tắc nghẽn ruột, hình thành những

tổn thương ở đường ruột tạo

điều kiện cho tác nhân cơ hội

tấn công gây bệnh cho tôm nuôi.

- Thức ăn: Tôm ăn thức ăn bị

ẩm mốc, nhiễm khuẩn gây ngộ

độc cho tôm; Tôm ăn phải tảo

độc trong ao như tảo lam, loài

AQUAFEED/AQUAMEDICA

Men đường ruột Ức chế phân trắng, phân loãng, trống ruột, đứt khúc sau 3 ngày

BATENDO

Chế phẩm vi sinh đặc hiệu chuyên ức chế ký sinh trùng

tảo độc này sẽ tiết độc tố làm tê liệt lớp biểu bì mô ruột, làm ruột không hấp thu được thức ăn, tôm yếu và bị bệnh.

- Môi trường: Thời tiết thất thường như mưa nắng kéo dài cũng làm cho tôm yếu, bỏ ăn làm cho ruột trống; Chất lượng nước kém: nước đục, nhiều bọt dơ, tảo tàn, tảo nở hoa, khí độc,... làm cho tôm stress, ăn kém hoặc bỏ ăn.

Tác hại

Bệnh không gây chết hàng loạt trong thời gian ngắn, nhưng sẽ làm tôm bị bệnh mãn tính, khó điều trị. Tôm bị bệnh, bỏ ăn, không bắt mồi, còi cọc, không lớn, hoạt động yếu gây ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng tôm nuôi.

Biện pháp phòng bệnh

- Kiểm soát tốt chất lượng

nước: Diệt khuẩn định kỳ, xử lý chất hữu cơ dư thừa, bùn đáy ao, tảo độc, thường xuyên kiểm tra hàm lượng ôxy hòa tan (> 4

ppm), tốt nhất là 5 ppm (kích thích tôm ăn khỏe, lớn nhanh, ít bị bệnh tấn công).

- Kiểmsoátchấtlượngthức ăn và lượng cho ăn: Đảm bảo thức ăn sạch, hạn chế lượng thức ăn dư thừa gây ô nhiễm hữu cơ.

- Tăng sức đề kháng và diệt mầm bệnh trong đường ruột tôm: Bằng cách sử dụng chế phẩm sinh học:  Chế phẩm vi sinh: Ổn

định hệ vi khuẩn đường ruột, tăng mật độ vi khuẩn có lợi trong đường ruột tôm; chủng vi sinh đặc hiệu chuyên ức chế ký sinh trùng; vi sinh xử lý nước và đáy ao nuôi để phân hủy chất hữu cơ, thức ăn dư thừa.

 Chế phẩm enzyme: Enzyme hỗ trợ tiêu hóa, enzyme

cắt tảo độc, xử lý nước ao ô nhiễm hữu cơ.

Đề xuất giải pháp từ

Công ty Thái Nam Việt

Mặc dù việc điều trị bệnh đường ruột có thể mang lại hiệu quả nhanh chóng nhưng sẽ gây ảnh hưởng đến sự phát triển sau đó của tôm nuôi, do đó bệnh này chủ yếu phòng là chính. Sử dụng chế phẩm sinh học sẽ giải quyết được vấn đề mục tiêu và đảm bảo cho sự tăng trưởng và sức khỏe tôm, hạn chế được thiệt hại và nâng cao năng suất.

THÁI NAM VIỆT

Thông tin liên hệ: Công ty TNHH Công nghệ - Kỹ thuật - Sinh hóa Thái Nam Việt

Địa chỉ: 126 Lã Xuân Oai, phường Tăng Nhơn Phú A, TP Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh

ĐT: 0888 59 63 66 - 0888 69 36 39 - 0916865938

Email: info@thainamviet.com - Website: Thainamviet.com

4 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu thủy sản đạt

3,3 tỷ USD

Theo số liệu của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản

Việt Nam (VASEP), xuất khẩu thủy sản 4 tháng đầu năm 2025 đạt kim ngạch 3,3 tỷ USD, tăng 21% so cùng kỳ. Riêng tháng 4/2025, kim ngạch đạt 894,2 triệu USD tăng 15%. Tuy nhiên, bức tranh xuất khẩu không đồng đều giữa các sản phẩm và thị trường, trong bối cảnh bất ổn về thuế quan đối ứng từ Mỹ đang tạo ra nhiều thách thức.

Tôm tiếp tục là mặt hàng chủ lực, đạt 1,27 tỷ USD trong 4 tháng, tăng 30% so với cùng kỳ; riêng tháng 4, xuất khẩu tôm đạt 330,8 triệu USD, tăng 25%.

Cá tra, với kim ngạch 632,7 triệu USD (tăng 9%), duy trì vị thế quan trọng nhưng tăng trưởng chậm lại, đặc biệt trong tháng 4 chỉ đạt 167,7 triệu USD, không tăng so cùng kỳ.

Cá ngừ ghi nhận sự sụt giảm trong tháng 4 (76,1 triệu USD, giảm 12%), dù lũy kế 4 tháng vẫn tăng nhẹ 1% (304,2 triệu USD).

Doanh nghiệp chuyển hướng thị trường

Áp lực từ chính sách thuế quan của Mỹ cùng sự cạnh tranh ngày càng gay gắt từ các nguồn cung khác đang đặt ra thách thức lớn cho ngành thủy sản Việt Nam. Để đối phó, nhiều doanh nghiệp đang tái cơ cấu chiến lược, chuyển hướng sang các thị trường ít rủi ro

như Brazil, Mexico, và Trung Đông, đồng thời phát triển sản phẩm chế biến sâu để tăng giá trị gia tăng. Trong đó, các sản phẩm tôm đông lạnh tiện lợi và cá tra fillet chế biến sẵn đang được ưu tiên, với giá trị xuất khẩu dự kiến tăng 20% trong quý III/2025. Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2025 có thể đạt 10,5 tỷ USD, nhưng điều này phụ thuộc vào khả năng thích ứng của doanh nghiệp trước chính sách Mỹ và sự linh hoạt trong đa dạng hóa thị trường. Việc tận dụng các hiệp định thương mại tự do và đầu tư vào sản phẩm giá trị gia tăng sẽ là chìa khóa để duy trì đà tăng trưởng.

NAM CƯỜNG

Tháng 4/2025, xuất khẩu tôm đạt 330,8 triệu USD Ảnh: Hồng Đạt

VASEP cũng đưa ra những dự báo trong tháng 5 và tháng 6/2025, xuất khẩu thủy sản Việt Nam được sẽ có sự chuyển dịch mạnh mẽ trước khi chính sách thuế quan đối ứng mới của Mỹ có hiệu lực từ ngày 9/7/2025.

NGUYỄN HẰNG

C.P. VIỆT NAM

Đồng hành cùng dự án “Nước sạch cho em”

Ngày 25/4/2025, Công ty CP Chăn nuôi C.P. Việt Nam phối hợp cùng các đơn vị khánh thành giếng nước và hệ thống lọc nước sạch tại Trường Tiểu học và Trung học cơ sở An Phú, huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước. Công trình mang nguồn nước sạch cho hơn 700 học sinh và cộng đồng địa phương, nằm trong dự án “Nước sạch cho em” do nguồn vốn tài trợ của Công ty CP Chăn nuôi C.P. Việt Nam thông qua sự phối hợp với Câu lạc bộ Công Tác xã hội thanh thiếu niên. Việc đồng hành cùng dự án “Nước sạch cho em” không chỉ mang nước sạch đến với người dân mà còn góp phần xây dựng nền tảng cho một tương lai bền vững - nơi trẻ em được tiếp cận điều kiện học tập và sinh hoạt tốt hơn. Công ty CP Chăn nuôi C.P. Việt Nam không ngừng nỗ lực xây dựng một hệ sinh thái kinh tế hài hòa cùng xã hội và môi trường, vì một Việt Nam xanh, thịnh vượng và phát triển bền vững.

DUY AN

MINH PHÚ

Kết quả kinh doanh tích cực

Theo báo cáo tài chính quý I/2025 vừa công bố, Công ty CP Tập đoàn Thủy sản Minh Phú ghi nhận kết quả kinh doanh khởi sắc trở lại sau 2 quý thua lỗ liên tiếp. Sau khi trừ các chi phí, lợi nhuận sau thuế của Minh Phú trong quý I/2025 đạt 17,7 tỷ đồng, tăng mạnh 143% so cùng kỳ năm trước. Dù biên lợi nhuận gộp có phần thu hẹp nhẹ từ 9% xuống còn 8,9%, nhưng kết quả lợi nhuận tích cực phản ánh sự cải thiện hiệu quả trong quản lý chi phí. Giải trình chênh lệch lợi nhuận, Minh Phú cho biết, nguyên nhân là do hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà máy sản xuất chế biến, công ty nuôi tôm thương phẩm và sản xuất tôm giống của công ty cải thiện. Năm 2025, công ty đặt mục tiêu sản lượng sản xuất 60.000 tấn, tăng 7,5% so năm trước. Doanh thu kỳ vọng 15.667 tỷ đồng, tăng 6,3%, và lãi sau thuế gần 1.000 tỷ đồng, cao kỷ lục dù những bất định về thuế đối ứng của Mỹ vẫn còn ở phía trước.

THANH HIẾU

SKRETTING VIETNAM

Nâng cao năng lực hợp tác xã nuôi tôm

Vừa qua, Skretting Vietnam đã chính thức hợp tác với Tổ chức Agriterra nhằm nâng cao năng lực và chuyên nghiệp hóa các hợp tác xã nuôi tôm tại ĐBSCL. Skretting Vietnam, với sứ mệnh “Nuôi dưỡng tương lai”, đã không ngừng cải tiến để cung cấp các giải pháp dinh dưỡng tối ưu cho thủy sản, hướng tới sản xuất hiệu quả và bền vững. Agriterra (Hà Lan), là tổ chức hàng đầu thế giới trong việc hỗ trợ phát triển hợp tác xã nông nghiệp, giúp nâng cao năng lực kinh doanh và củng cố vị thế của nông dân trong chuỗi giá trị toàn cầu. Sự hợp tác giữa hai tổ chức này tập trung vào việc triển khai các chương trình đào tạo tại vùng nuôi, xây dựng trang trại trình diễn để giới thiệu các mô hình hoạt động bền vững, cung cấp giải pháp quản lý dịch bệnh và chất lượng nước, cũng như hỗ trợ nâng cao năng lực cho các hợp tác xã. Mục tiêu là giúp các hợp tác xã nuôi tôm phát triển bền vững hơn. HUYỀN THƯƠNG

SAO TA

Thận trọng trong kế hoạch kinh doanh

NÔNG NGHIỆP

QUYẾT THẮNG

Chưa thả nuôi vụ mới vì thời tiết bất lợi

Theo Công ty CP Thực phẩm Sao Ta, thị trường toàn cầu năm 2025 tiếp tục có nhiều biến động, phức tạp, và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Do đó, Sao Ta đặt kế hoạch sản xuất kinh doanh khá thận trọng. Được biết, Sao Ta vẫn luôn tập trung vào các dòng sản phẩm chế biến sâu, giá trị cao. Ông Hồ Quốc Lực, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Thực phẩm Sao Ta cho biết, dù giá thành nuôi tôm của Việt Nam khá cao, nhưng sản phẩm chế biến vẫn có thị phần riêng. Nếu kịch bản xấu nhất xảy ra, Việt Nam bị Mỹ áp thuế 46% còn

các nước khác chỉ bị khoảng 20%, thì khả năng cao là Sao Ta phải rút khỏi thị trường Mỹ. Như vậy, Sao Ta đang tập trung chế biến giao

hàng cho các hợp đồng đã ký để tranh thủ đợt Mỹ hoãn thuế đối ứng

90 ngày; đồng thời mở rộng thị trường Canada, Australia và chờ điều kiện thuận lợi để thâm nhập thị trường Trung Quốc.

LÊ LOAN

Nắng nóng gay gắt cùng với những cơn mưa trái mùa bất chợt tại Bà Rịa - Vũng Tàu khiến môi trường nuôi bị ảnh hưởng, nhiều ao nuôi tôm bị thiệt hại. Ông Nguyễn Kim Chuyên, Giám đốc Hợp tác xã (HTX) Nông nghiệp Quyết Thắng (TP Bà Rịa) cho biết, HTX cũng đã treo ao gần 2 tháng nay, tranh thủ thời gian này, HTX sửa chữa, nâng cấp lại hệ thống ao, vệ sinh thật kỹ để diệt vi khuẩn, mầm mống gây bệnh các loại như bệnh về đường ruột, vi bào tử trùng EHP, hoại tử gan tụy cấp, đốm trắng,… Hiện, kết quả quan trắc, cảnh báo và giám sát môi trường tại các vùng nuôi trồng thủy sản cho thấy chất lượng môi trường có xu hướng suy giảm, một số thông số pH, độ kiềm, hàm lượng NH4-N, NO2-N, COD vượt giới hạn cho phép. Ông Chuyên dự tính qua tháng 6 khi thời tiết vào mùa mưa, nắng bớt gay gắt hơn mới thả nuôi lại.

NGUYỄN AN

THẦN VƯƠNG

Chia sẻ cập nhật mới về bệnh trên tôm

Vừa qua, Công ty TNHH Thần Vương đã phối hợp cùng Đại lý Điệp

Toan tổ chức thành công buổi hội thảo chuyên đề: “Giải pháp phòng ngừa EHP, TPD trên tôm”. Buổi hội thảo là dịp để Thần Vương và đại lý Điệp Toan chia sẻ những cập nhật mới nhất trong việc phòng và kiểm soát bệnh hậu ấu trùng thủy tinh (TPD) và bệnh do vi bào tử trùng (EHP) - hai trong số những thách thức nghiêm trọng nhất đối với ngành nuôi tôm hiện nay. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để công ty lắng nghe, trao đổi và đồng hành cùng người dân trên hành trình nuôi tôm hiệu quả, bền vững. Hội thảo đã thu hút sự tham dự đông đảo của Quý khách hàng nuôi tôm trong khu vực. Tại buổi Hội thảo, Quý khách hàng tham dự cũng đã có những câu hỏi về dấu hiệu nhận biết sớm bệnh, biện pháp phòng trị bệnh,… và được các chuyên gia của công ty giải đáp đầy đủ.

THẢO ANH

KHOA THỦY SẢN, HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Khuyến khích sinh viên nghiên cứu khoa học

HẠ VÀNG

Chú trọng chăm sóc tôm mùa nóng

Tại Hà Tĩnh, những ngày qua, thời tiết nắng nóng kéo dài chuyển sang mưa đã làm ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng của tôm. Vụ tôm Xuân Hè năm 2025, Hợp tác xã Nuôi trồng thủy sản Hạ Vàng (HTX Hạ Vàng), xã Thạch Hạ, TP Hà Tĩnh thả nuôi hơn 5 ha TTCT. Theo anh Nguyễn Văn Hòa, Giám đốc HTX Hạ Vàng, với tình hình thời tiết như hiện nay, tôm dễ bị sốc nhiệt, có nguy cơ phát sinh dịch bị bệnh. “Thời gian này, chúng tôi đã áp dụng nhiều giải pháp để như: cho tôm ăn với khẩu phần và chế độ ăn hợp lý theo kích cỡ, mật độ, giảm lượng thức ăn 15 - 30% những ngày nắng nóng và ngừng cho ăn khi trời có mưa; định kỳ 10 - 15 ngày/lần bổ sung Vitamin C, khoáng vi lượng; Sử dụng men tiêu hóa trộn vào thức ăn để tăng cường sức đề kháng; Định kỳ 10 - 15 ngày/lần sử dụng chế phẩm sinh học để xử lý nước và đáy ao nuôi,…”, anh Hòa cho biết thêm. DIỆU CHÂU

Sáng 14/5, Khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam tổ chức Hội nghị khoa học công nghệ của cán bộ, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên năm 2025. Năm học 2024 - 2025, khoa đã hoàn thành 8 đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên, tất cả đều đã được Hội đồng nghiệm thu. Bên cạnh đó, 27 nhóm sinh viên nghiên cứu khoa học của năm 2025 hiện đang trong quá trình phê duyệt. Về nghiên cứu khoa học của cán bộ, trong năm 2024, khoa đã nghiệm thu 2 đề tài cấp học viện và 1 đề tài trọng điểm cấp học viện. Năm 2025, khoa tiếp tục thực hiện 3 đề tài cấp học viện, 6 đề tài cấp học viện, 1 đề tài trọng điểm cấp học viện và 7 đề tài trọng điểm cấp học viện. Hội nghị nhằm mục đích tạo nguồn động lực, khuyến khích sinh viên, học viên tích cực tham gia và phát huy tiềm năng trong các hoạt động học tập và nghiên cứu.

TRƯỜNG THỦY SẢN, TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

THÁI THUẬN

Tiên phong nuôi thủy sản công nghệ cao và bền vững

Sáng ngày 26/4/2025, Trường Thủy sản, Trường Đại học Cần

Thơ tổ chức Hội thảo “Phát triển các hệ thống nuôi thủy sản công nghệ cao và bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu và xâm nhập

mặn ở ĐBSCL”. Chương trình nằm trong khuôn khổ dự án hỗ trợ kỹ thuật - pha 2 do Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) tài trợ. Tại Hội thảo, các đại biểu đã được nghe giới thiệu về các công nghệ mới, tiến bộ khoa học - kỹ thuật, cũng như kết quả triển khai mô hình nuôi trồng thủy sản tuần hoàn, thích ứng với biến đổi khí hậu. Trong khuôn khổ chương trình, đại biểu còn tham gia tham quan thực tế mô hình nuôi tôm trong hệ thống tuần hoàn kết hợp đa loài tại Trường Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ, qua đó trao đổi, thảo luận nhằm tìm kiếm các giải pháp nhân rộng mô hình hiệu quả trong thời gian tới.

DUY MẠNH

Ưu thế nuôi tôm công nghệ RAS-IMTA

Ðể hướng tới trung hòa carbon (Net Zero) vào năm 2050, trên địa bàn tỉnh Cà Mau đã xây dựng nhiều mô hình nuôi tôm thâm canh, siêu thâm canh mới theo hướng tuần hoàn, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; trong đó, tiêu biểu là mô hình nuôi theo công nghệ RAS-IMTA.

Nuôi trồng tuần hoàn

IMTA - Integrated Multi-Trophic Aquaculture - là một phương pháp tiếp cận khác về sản xuất thực phẩm thủy sản dựa trên khái niệm tái chế (recycling). Thay vì chỉ thực hiện nuôi đơn loài (monocultuređộc canh) và tập trung chủ yếu vào nhu cầu

dinh dưỡng cơ bản của loài đó, IMTA theo hướng tạo ra một môi trường nuôi (khu nuôi) tiếp cận tương tự nhất có thể một hệ sinh thái tự nhiên bằng cách kết hợp việc nuôi nhiều đối tượng loài bổ sung từ các cấp dinh dưỡng khác nhau của chuỗi thức ăn.

RAS (Recirculation aquaculture system) là một hệ thống tuần hoàn, trong đó nước được tái sử dụng trong quá trình nuôi trồng thủy sản. Đầu tiên, nước được lọc để loại bỏ các chất bẩn và vi khuẩn. Sau đó, nước được đưa vào hệ thống nuôi trồng thủy sản, nơi tôm, cá và các loại thủy sản khác được nuôi và phát triển. Khi nước chứa chất bẩn, chất độc hoặc chất dinh dưỡng quá nhiều, nó

được đưa vào một hệ thống xử lý nước thải

để loại bỏ các chất này. Cuối cùng, nước được đưa trở lại hệ thống nuôi trồng thủy sản.

Gia

tăng giá trị và sự bền vững

Mô hình RAS-IMTA được phát triển bởi sự phối hợp giữa Công ty TNHH Khoa học nuôi trồng thủy sản và Môi trường SAEN, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản 2, Sở Khoa học và Công nghệ Cà Mau và các hộ nuôi. Sau một thời gian thử nghiệm sản xuất, hiệu quả mô hình RAS-IMTA đã được chứng minh qua thông số hệ số thức ăn thấp, tốc độ tăng trưởng tôm cao, tôm ít bệnh, hạn chế thay nước; đạt các chỉ số bền vững và theo hướng kinh tế tuần hoàn, một xu hướng mới để hòa nhập vào thị trường thế giới năm 2050.

TS Nguyễn Nhứt, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản 2 cho biết, mô hình kết hợp này giúp ngành tôm thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm rủi ro trong nuôi trồng thủy

 RAS-IMTA là mô hình thích hợp cho bối cảnh mới với tỷ lệ thành công cao, giảm chi phí sản xuất từ đó tăng năng suất cạnh tranh. Song song đó, RAS-IMTA cũng đảm bảo được yếu tố môi trường, củng cố sự bền vững của ngành tôm Việt Nam. Hiện, đã có nhiều mô hình RAS-IMTA được ứng dụng thành công trên toàn quốc.

sản. Đồng thời, giảm chi phí sản xuất, từ đó mang lại lợi nhuận cao cho người nuôi. Không những vậy, đây là mô hình dễ ứng dụng, có thể đa dạng sản phẩm trong trang trại, không xả thải, ít gây ô nhiễm. Với những lợi ích mà nó mang lại, kết hợp với việc đáp ứng nuôi kinh tế tuần hoàn, giảm hiệu ứng nhà kính, đây được cho là mô hình tiềm năng trong nuôi trồng thủy sản ở bối cảnh hiện tại; nhất là đảm bảo các tiêu chí của tôm nuôi theo chứng chỉ ASC, BAP, VietGAP,… đáp ứng đa chứng nhận mở rộng xuất khẩu.

Theo TS Nhứt, RAS-IMTA nuôi tôm 3 giai đoạn là mô hình dễ ứng dụng, hạn chế nhiệt độ nước tăng cao nhờ rong nuôi kết hợp. Mô hình nuôi này không xả thải, giúp tiết kiệm nước và bền vững môi trường. Đặc biệt, mô hình tái tạo thành nhiều sản phẩm có giá trị như: cá, rong với quy mô hàng hóa.

Như với mô hình được triển khai tại tỉnh Cà Mau, tỷ lệ sống của tôm nuôi từ 80,3 - 84,6% và trung bình 81,7% ± 2. Tốc độ tăng trưởng tôm nuôi dao động 0,2 - 0,4 g/ngày. Năng suất tôm nuôi dao động từ 56,3 - 61,5 tấn/ha/vụ. Hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) đạt 1,1. Còn với mô hình nuôi tôm siêu thâm canh 2 giai đoạn RAS-IMTA, tôm nuôi đạt năng suất 60 tấn/ha/vụ, FCR đạt 1,1. Tôm nuôi về kích cỡ 30 con/kg, với chi phí sản xuất khoảng 80.000 đồng/kg. VÂN ANH

SINGAPORE

Công nghệ mới giúp tôm lớn nhanh, tiết kiệm thức ăn

Công nghệ hợp kim gốm của JAH Cultura đã được chứng minh khả năng thúc đẩy tăng trưởng của tôm, đồng thời kích thích sự phát triển của vi tảo, qua đó giảm nhu cầu về thức ăn.

hiện đang chuẩn bị mở rộng các thử nghiệm thực địa

Hợp kim gốm độc quyền của JAH

Cultura, mang tên Unitatem CULTURA, đã

được chứng minh có khả năng cải thiện chất lượng nước, đất và thúc đẩy sự phát triển của tế bào.

Công ty đã thực hiện một thí nghiệm tại Trung tâm Cải tiến Nuôi trồng Thủy sản Singapore (AIC) để nghiên cứu ứng dụng

Unitatem CULTURA trong việc thúc đẩy sự phát triển của TTCT trong hệ thống tuần hoàn (RAS) được kiểm soát chặt chẽ.

Các bể thí nghiệm được trang bị bánh răng trục quay Unitatem CULTURA nhằm xử lý nước. Tôm ở cả nhóm đối chứng và nhóm thử nghiệm đều được cho ăn khẩu phần thương mại, tương ứng 5% trọng lượng cơ thể, hai lần mỗi ngày trong suốt sáu tuần. Mức cho ăn này được tăng lên 6% vào tuần thứ bảy và thứ tám.

Tôm lớn nhanh, thu hoạch bội

Vào tuần thứ tám, trọng lượng cơ thể của nhóm tôm trong các bể thử nghiệm tăng 18,2%, trong khi chiều dài thân tăng 6% so nhóm đối chứng.

“Một trong những rủi ro lớn nhất đối với người nuôi tôm là thời gian nuôi càng dài, nguy cơ tôm chết do bệnh tật, thời tiết và các yếu tố khác càng cao. Thời gian nuôi

Ảnh: Feednavigator

kéo dài đồng nghĩa với rủi ro càng lớn. Giải pháp của chúng tôi giúp tôm đạt được kích thước và trọng lượng mong muốn sớm hơn, từ đó rút ngắn thời gian thu hoạch”, ông Tan Chong Hui, Giám đốc điều hành JAH Cultura, chia sẻ.

Một chu kỳ nuôi tôm thông thường kéo dài khoảng 12 tuần, với ba vụ thu hoạch mỗi năm. Nếu áp dụng công nghệ Unitatem CULTURA, ông Tan tin rằng người nuôi có thể bổ sung thêm một vụ nuôi mỗi năm. Theo chuyên trang công nghệ nông nghiệp AgTechNavigator, công nghệ này cũng giúp tăng năng suất thương mại của cây cải thìa khi hạt giống được xử lý bằng Unitatem CULTURA.

Tiết kiệm thức

ăn

Trong một nghiên cứu độc lập, JAH Cultura và AIC đã khảo sát tác động của nước xử lý đối với sự phát triển của vi tảo Nannochloropsis. Sau bảy ngày, mật độ tế bào vi tảo trong môi trường nuôi đã tăng khoảng 64,6% so với môi trường không xử lý. Tổng thể, mật độ tế bào đạt mức cao hơn gấp 2,8 lần so nhóm đối chứng. Kết quả này cho thấy sinh khối tảo tăng khoảng 49,3%, giúp người nuôi tôm giảm lượng thức ăn cần sử dụng.

Ông Tan chia sẻ: “Nông dân sẽ có thêm 49% vi tảo để nuôi tôm, từ đó có thể giảm chi phí thức ăn hoặc duy trì chi phí đó nhưng đạt sản lượng tôm cao hơn”.

Ông Tan cũng chia sẻ sự phấn khởi của công ty trước những phát hiện mới và tiềm năng ứng dụng Unitatem CULTURA trong ngành nuôi trồng thủy sản. JAH Cultura hiện đang chuẩn bị mở rộng các thử nghiệm nuôi tôm cùng một công ty Singapore, sở hữu một trang trại quy mô 800 ao tại Indonesia.

“Chúng tôi cần thu thập nhiều dữ liệu hơn từ các trung tâm như AIC và đồng hành cùng nông dân, bởi việc nuôi tôm trong môi trường thực địa khác hẳn so với phòng thí nghiệm. Chúng tôi mong muốn tổng hợp những bằng chứng thực tế và số liệu cụ thể để chứng minh tiềm năng của công nghệ, từ đó mang lại một phương pháp an toàn, bền vững, không sử dụng hormone, thành phần không an toàn hay thức ăn có hại trong quá trình sản xuất”, ông Tan cho biết.

Công ty đặt mục tiêu mở rộng thử nghiệm tại nhiều quốc gia bằng cách mời các nhà sản xuất tôm sử dụng công nghệ Unitatem CULTURA miễn phí trong ba tháng đầu. Ông Tan cho biết: “Chúng tôi sẽ cung cấp công nghệ miễn phí cho người nuôi tôm hoặc cá trong ba tháng đầu tiên. Nếu họ hài lòng với kết quả, họ có thể tiếp tục sử dụng theo hình thức đăng ký. Nếu không, chúng tôi sẽ thu hồi lại”.

Ông Tan cũng tiết lộ rằng công ty đang thực hiện vòng gọi vốn đầu tiên trong năm nay, sau khi thu thập thêm dữ liệu về nuôi tôm. Bên cạnh lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, công ty còn mở rộng ứng dụng công nghệ

Unitatem CULTURA vào trồng trọt, đặc biệt là một số cây giá trị cao như dâu tây, nghệ tây và vani.

VŨ ĐỨC (Theo Feednavigator)

JAH Cultura

Giải pháp dinh dưỡng kiểm soát bệnh phân trắng

Dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát bệnh phân trắng, giúp tăng cường sức đề kháng, cải thiện chức năng tiêu hóa và duy trì sức khỏe đường ruột cho tôm. axit formic, axit lactic, axit citric giúp duy trì pH ruột ở mức ổn định, giảm thiểu sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh. Muối hữu cơ như sodium butyrate cũng có tác dụng bảo vệ niêm mạc ruột và tăng cường tiêu hóa. Ngoài ra, prebiotic như mannanoligosaccharide (MOS) và β -glucan giúp kích thích vi khuẩn có lợi phát triển, hỗ trợ hệ miễn dịch đường ruột và cải thiện hấp thu dinh dưỡng.

Cải thiện nguồn protein

Protein là thành phần thiết yếu trong khẩu phần ăn của tôm, nhưng nếu hàm lượng quá cao hoặc chất lượng kém có thể gây áp lực lên hệ tiêu hóa, làm giảm sức đề kháng và tăng nguy cơ mắc bệnh phân trắng. Đặc biệt, bột cá kém chất lượng có thể chứa vi khuẩn Vibrio spp. và ký sinh trùng Gregarine, gây tổn thương ruột tôm. Một giải pháp hiệu quả là sử dụng nguồn protein dễ tiêu hóa, như bột đậu nành lên men, bột tảo Spirulina hoặc bột côn trùng. Ngoài ra, bổ sung peptide sinh học từ đậu nành hoặc cá thủy phân giúp cải thiện khả năng hấp thu dinh dưỡng mà không gây áp lực lên đường ruột. Giảm tỷ lệ bột cá kém chất lượng trong thức ăn cũng là cách hạn chế nguy cơ nhiễm mầm bệnh.

Tăng cường hệ vi sinh vật có lợi và enzyme tiêu hóa

Bổ sung vitamin, khoáng chất và chất chống ôxy hóa

Đường ruột tôm chứa nhiều vi khuẩn có lợi giúp tiêu hóa thức ăn và ngăn chặn sự

Ảnh: Entomo Farm

phát triển của vi khuẩn gây bệnh. Khi hệ vi sinh vật mất cân bằng, Vibrio spp. sẽ phát triển mạnh, tiết độc tố gây tổn thương ruột và làm giảm khả năng hấp thu dinh dưỡng. Việc bổ sung men vi sinh (probiotic) chuyên biệt giúp cân bằng hệ vi sinh vật đường ruột. Các chủng vi khuẩn có lợi như Bacillus subtilis , Bacillus licheniformis có khả năng cạnh tranh với Vibrio , trong khi Lactobacillus spp. hỗ trợ tiêu hóa protein và lipid. Ngoài ra, Saccharomyces cerevisiae có thể kích thích miễn dịch và giảm viêm ruột. Việc bổ sung enzyme tiêu hóa như protease, amylase và lipase cũng giúp giảm áp lực tiêu hóa, tăng khả năng hấp thu dinh dưỡng, từ đó hạn chế nguy cơ mắc bệnh phân trắng. Ổn định pH ruột bằng axit hữu cơ và prebiotic Môi trường ruột có pH ổn định là điều kiện quan trọng để duy trì sức khỏe đường ruột của tôm. Bổ sung axit hữu cơ như Bột côn trùng là nguồn protein dễ tiêu hóa có thể thay thế bột cá

Thiếu hụt vitamin và khoáng chất có thể làm suy yếu sức đề kháng của tôm, khiến chúng dễ bị stress và nhiễm bệnh. Khi tôm bị stress, các gốc tự do (Reactive Oxygen Species - ROS) gia tăng, gây tổn thương tế bào ruột và làm suy giảm chức năng tiêu hóa. Việc bổ sung các vitamin quan trọng như Vitamin C giúp giảm stress và tăng cường miễn dịch, Vitamin E có tác dụng chống ôxy hóa, bảo vệ niêm mạc ruột, trong khi Vitamin B-complex hỗ trợ trao đổi chất. Các khoáng chất như kẽm (Zn), selen (Se) và magie (Mg) giúp tăng cường chức năng tiêu hóa và chống viêm ruột. Ngoài ra, canxi (Ca) và phốt pho (P) góp phần duy trì cấu trúc tế bào ruột và tối ưu khả năng hấp thụ dinh dưỡng.

Sử dụng thức ăn chất lượng

Nguyên liệu thức ăn bị ô nhiễm bởi nấm mốc và độc tố vi khuẩn có thể gây tổn thương hệ tiêu hóa và làm suy giảm sức khỏe của tôm. Giải pháp quan trọng là sử dụng nguyên liệu thức ăn chất lượng cao, không chứa tạp chất và kiểm soát nghiêm ngặt nguồn cung cấp. Ngoài ra, việc bổ sung chất hấp thụ độc tố như bentonite hoặc zeolite có thể giúp giảm tác động tiêu cực của độc tố trong thức ăn và môi trường nước ao nuôi.

PHƯƠNG ĐÔNG

Xử lý ao nuôi nhiễm phèn

Phèn không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nước ao nuôi, gây cản trở sự phát triển của tôm mà còn tiềm ẩn nhiều vấn đề sức khỏe, làm giảm hiệu quả sản xuất và gia tăng chi phí điều trị bệnh.

Nguyên nhân

Một trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng nhiễm phèn trong ao nuôi tôm là do vùng đất xây ao chứa nhiều lưu huỳnh (Sulfur). Chất này phối hợp với sắt có trong phù sa và lớp trầm tích dưới đáy ao để tạo thành FeS2, còn được biết đến với tên gọi pyrite sắt hoặc phèn. Khi pyrite tiếp xúc với không khí trong đất ẩm, nó sẽ bị ôxy hóa tạo thành axit Sulfuric và ôxit sắt. Axit sulfuric này sẽ làm tan sắt và các kim loại nặng khác như nhôm, kẽm, đồng có trong đất, từ đó tạo thành các chất tạp gây ra hiện tượng phèn cho ao.

Ngoài ra, hiện tượng mưa lớn, lũ lụt cũng có thể góp phần làm cho đất bị xói mòn và rửa trôi phèn xuống ao, tăng thêm nguy cơ phát sinh hiện tượng nhiễm phèn trong ao nuôi.

Ảnh hưởng

Phèn ảnh hưởng đến quá trình hoạt hóa của enzyme trong cơ thể tôm và các cơ quan khác của chúng.

Phèn cũng bám vào mang tôm cản trở hô hấp làm cho tôm mất nhiều năng lượng, giảm tốc độ sinh trưởng, tôm chậm lớn.

Tôm bị vàng chân, vỏ tôm cứng hơn bình thường, mang tôm sẽ chuyển sang màu vàng và chai cứng lại.

Tôm giảm tỷ lệ sống, nếu ao bị phèn nặng tôm sẽ dạt bờ tấp mé và chết rải rác.

Phèn gây khó khăn trong việc tạo màu nước cho ao, điều này làm cho việc phát triển của các loại tảo có lợi bị chậm lại. Ao nuôi tôm nhiễm phèn thường có pH thấp, ngăn chặn sự khuếch tán ion Na+ và K+ từ môi trường ngoài vào, gây ảnh hưởng đến quá trình hình thành vỏ tôm.

Cách nhận biết

Dấu hiệu đầu tiên để nhận biết đó là nước ao có màu trà nhạt, trong suốt hơn và có lớp váng vàng xuất hiện trên mặt nước. Người nuôi có thể kiểm tra thấy pH trong ao giảm, tôm thường bỏ ăn sau khi trời mưa. Vùng đất chứa nhiều phèn sẽ có màu xám đen.

Xử lý

Hạ phèn bằng vôi: Có thể dùng vôi (liều lượng vừa phải) để khử phèn ao tôm và nâng pH, tạo hệ đệm cho ao nuôi. Rải vôi vào lúc chiều mát và cấp nước vào ngày hôm sau. Theo cách này, người nuôi không nên rải

Việc hiểu rõ về mức độ nhiễm phèn trong ao, cũng như phương pháp hạ phèn sẽ giúp tiết kiệm thời gian và chi phí.

vôi và phơi ao quá lâu. Lưu ý, không nên bổ sung quá nhiều vôi sẽ tạo ra thạch cao không tốt cho ao nuôi. Hạ phèn bằng vi sinh: Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến hiện nay bởi vi sinh có khả năng tồn tại trong môi trường nước phèn và giúp ôxy hóa cả phèn sắt và nhôm. Bằng cách sử dụng các loại vi khuẩn có khả năng phân hủy phèn rải đều vào ao nuôi, sau 3 - 5 ngày vi khuẩn sẽ phân hủy các chất gây phèn làm cho ao nuôi hết phèn. Ngoài ra, vi sinh cũng có tác dụng phân hủy các chất hữu cơ dư thừa như thức ăn, xác tảo, phân,... giúp giảm khí độc và mùi hôi trong ao nuôi. Ưu điểm của phương pháp này là tiết kiệm, thân thiện với môi trường và mang lại hiệu quả cao, đồng thời kéo dài được thời gian sử dụng.

Phòng tránh

Lựa chọn địa điểm nuôi tôm ở vùng đất ít bị nhiễm phèn, kiểm tra phèn thật kỹ ở vùng đất chuẩn bị thả nuôi.

Thường xuyên kiểm tra và điều chỉnh pH của nước trong ao. Độ pH lý tưởng cho ao nuôi tôm thường nằm trong khoảng từ 7,5 đến 8,5. Sử dụng vôi hoặc các chất điều chỉnh pH khi cần thiết để duy trì độ pH ổn định.

Sử dụng nguồn nước sạch và đã qua xử lý để nuôi tôm. Tránh sử dụng nước từ các nguồn ô nhiễm hoặc không rõ nguồn gốc.

Cập nhật thông tin về thời tiết để có biện pháp phòng ngừa kịp thời.

Định kỳ sử dụng các chế phẩm sinh học có lợi để cải thiện môi trường nước và ngăn ngừa nhiễm phèn. Các chế phẩm này có thể giúp phân hủy chất hữu cơ, cải thiện chất lượng nước và tăng cường sức đề kháng cho tôm.

NGUYỄN HẰNG

Nâng cao tỷ lệ sống cho tôm

Một trong những thách thức lớn nhất với nghề nuôi tôm là tỷ lệ sống thấp, thường bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như chất lượng con giống, môi trường ao nuôi, dinh dưỡng và dịch bệnh. Việc nâng cao tỷ lệ sống không chỉ giúp cải thiện năng suất mà còn giảm thiểu rủi ro kinh tế và tác động tiêu cực đến môi trường. Lựa chọn thời điểm thả giống hợp

Chọn và thả giống

Con giống là yếu tố quyết định trực tiếp đến tỷ lệ sống của tôm nuôi. Việc chọn giống tôm khỏe mạnh, có nguồn gốc rõ ràng giúp giảm thiểu nguy cơ nhiễm bệnh và tăng khả năng thích nghi với môi trường ao nuôi.

Tiêu chuẩn con giống: Chọn tôm giống có kích thước đồng đều, bơi lội nhanh, không bị dị hình và có hệ tiêu hóa phát triển tốt. Tôm giống cần có màu sắc trong suốt, không bị đục cơ hay lốm đốm bất thường. Tôm giống có kích cỡ đồng đều, số tôm chênh lệch không vượt quá 5%. Chiều dài thân tôm lớn hơn 12 mm (tôm sú), 10 mm (TTCT). Màu sắc tôm tươi sáng, vỏ mỏng, có màu tro đen đến đen, đầu thân cân đối, đuôi tôm xòe ra là con giống

tốt. Tôm giống tỏ ra linh hoạt, khỏe mạnh, phân bố đều trong bể nuôi, hình dáng thon dài, ruột đầy thức ăn (khả năng bắt mồi tốt).

Kiểm dịch trước khi thả nuôi: Kiểm tra dịch bệnh, đặc biệt là các bệnh nguy hiểm như đốm trắng, hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND). Người nuôi nên thực hiện xét nghiệm PCR để đảm bảo tôm giống sạch bệnh. Phương pháp này đánh giá được đàn tôm có nhiễm hay không nhiễm một số bệnh virus như đầu vàng (YHV), đốm trắng (WSSV), (MBV),… Phương pháp này được thực hiện bởi các phòng thí nghiệm bệnh thủy sản. Trước khi chọn mua con giống, người nuôi cần lấy mẫu gửi xét nghiệm.

Thuần hóa trước khi thả: Điều chỉnh dần độ mặn, pH để tránh sốc môi trường

cho tôm. Quy trình thuần hóa cần kéo dài từ 24 - 48 giờ, trong đó giảm độ mặn tối đa 5‰ mỗi ngày. Gây sốc Formaline: Lấy khoảng 10 lít nước trong bể ương tôm, pha dung dịch Formaline nồng độ 200 ppm (2 cc/10 lít nước), cho vào khoảng 100 tôm post. Sau 2 giờ, nếu tôm chết không quá 5% thì đàn tôm đạt yêu cầu.

Thời điểm thả giống: Ngoài việc chuẩn bị kỹ lưỡng cho một ao ương tôm thì lựa chọn đúng thời điểm để thả tôm giống cũng đóng vai trò quan trọng không kém. Việc thả tôm vào thời điểm nào là hợp lý và đúng đắn sẽ giúp chúng thích nghi nhanh chóng với môi trường nước và phát triển mạnh mẽ. Thời điểm tốt nhất và hợp lý nhất để thả giống tôm giống là vào ban đêm khi cả nhiệt độ môi trường và nhiệt độ nước

thường thấp hơn so với ban ngày, điều

này giúp tôm tránh được hiện tượng môi

trường khi thả vào ao. Sau vài giờ từ lúc

thả tôm, chúng thường bắt đầu quá trình

lột vỏ, đặc biệt vì tôm có tập tính lột vỏ vào ban đêm. Người nuôi không nên thả lúc

nắng gắt hoặc trời mưa, điều này dẫn đến việc tôm bị sốc khiến tỷ lệ sống không cao.

Cải thiện môi trường ao nuôi

Môi trường nước là yếu tố then chốt ảnh hưởng đến sức khỏe và tỷ lệ sống của tôm.

Chuẩn bị ao nuôi kỹ lưỡng:

Xử lý ao nuôi trước khi thả tôm bằng cách phơi đáy ao ít nhất 10 ngày để loại bỏ

mầm bệnh.

Sử dụng vôi Dolomite để cân bằng pH và khoáng chất cần thiết.

Lắp đặt hệ thống quạt nước hợp lý để tạo dòng chảy, giúp tôm vận động và hạn

chế khu vực nước tù đọng.

Chất lượng nước: Duy trì pH từ 7,58,5, độ mặn ổn định (5 - 25‰ tùy mô hình nuôi), hàm lượng ôxy hòa tan trên 5 mg/L. Lắp đặt máy đo thông số nước tự động giúp theo dõi liên tục.

Hệ thống lọc và tuần hoàn nước: Sử dụng ao lắng, ao xử lý nước để hạn chế mầm bệnh. Ao lắng cần có diện tích tối thiểu 10 - 15% tổng diện tích ao nuôi.

Kiểm soát khí độc: Định kỳ kiểm tra và xử lý NH 3, NO 2, H 2S trong ao bằng chế phẩm vi sinh hoặc than hoạt tính. Bổ

 SÁCH KỸ THUẬT

Kỹ thuật nuôi giáp xác

sung vi sinh Bacillus để giảm tích tụ chất hữu cơ.

Quản lý đáy ao: Hút bùn định kỳ 7 - 10 ngày/lần để hạn chế tích tụ chất thải hữu cơ gây ô nhiễm.

Dinh dưỡng và quản lý thức ăn

Dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao sức khỏe và đề kháng của tôm.

Chọn thức ăn chất lượng cao: Thức ăn phải có hàm lượng protein từ 35 - 40%, chứa đủ vitamin và khoáng chất như canxi, magie, kẽm.

Chế độ cho ăn hợp lý:

Giai đoạn tôm giống (< 30 ngày): Cho ăn 4 - 5 lần/ngày, kiểm soát lượng thức ăn không dư thừa.

Giai đoạn phát triển (30 - 60 ngày): Cho ăn 3 lần/ngày, kết hợp bổ sung enzyme tiêu hóa.

Giai đoạn trưởng thành (> 60 ngày): Cho ăn 2 - 3 lần/ngày, giảm lượng đạm và tăng cường khoáng chất.

Bổ sung men vi sinh và khoáng chất: Sử dụng probiotics để cải thiện hệ vi sinh đường ruột, giúp tôm hấp thụ tốt hơn.

Kiểm soát dịch

bệnh

Dịch bệnh là nguyên nhân hàng đầu gây giảm tỷ lệ sống của tôm nuôi.

Giám sát bệnh định kỳ: Xét nghiệm mẫu nước và tôm mỗi tuần để phát hiện sớm mầm bệnh.

Sử dụng chế phẩm sinh học: Bổ sung vi khuẩn có lợi như Lactobacillus , Bacillus để hạn chế vi khuẩn gây bệnh.

Cách ly tôm bị nhiễm bệnh: Khi phát hiện tôm có dấu hiệu bệnh, cần cách ly và xử lý ao nuôi kịp thời bằng cách nâng độ mặn hoặc thay nước có kiểm soát. Vệ sinh ao nuôi sau mỗi vụ: Sau khi thu hoạch, xử lý nước ao bằng Chlorine 30 ppm và để ao nghỉ ít nhất 1 tháng.

Áp dụng công nghệ

Ứng dụng khoa học kỹ thuật giúp tăng hiệu quả nuôi tôm và cải thiện tỷ lệ sống. Hệ thống giám sát nước tự động: Cảm biến đo pH, hàm lượng ôxy hòa tan, độ mặn giúp người nuôi điều chỉnh kịp thời.

Nuôi tôm trong hệ thống tuần hoàn (RAS): Giúp kiểm soát môi trường nước tốt hơn, hạn chế bệnh tật, tiết kiệm tài nguyên nước.

Sử dụng máy sục khí tiết kiệm năng lượng: Cung cấp ôxy ổn định, hỗ trợ tôm phát triển tốt. Máy sục khí Nano giúp tăng diện tích tiếp xúc ôxy và nước, cải thiện chất lượng nước ao.

Ứng dụng công nghệ AI trong quản lý ao nuôi: Hệ thống AI có thể phân tích dữ liệu môi trường nước theo thời gian thực, đưa ra cảnh báo khi có biến động bất thường.

Rimicaris hybisae

Mặc dù, không phong phú bằng cá nước ngọt hay cá nước lợ, tuy nhiên, nhóm giáp xác cũng có khá nhiều loài được nghiên cứu và phát triển đại trà trong sản xuất giống và trong nuôi thương phẩm. Tùy từng vùng địa lý khác nhau cũng như sự phân bố tự nhiên của chúng mà thành phần loài giáp xác được chọn cho nuôi ở từng vùng cũng khác nhau. Nhìn chung, thành phần loài giáp xác nuôi ở vùng nhiệt đới phong phú hơn vùng nhiệt đới và ôn đới; thành phần loài giáp xác nuôi ở vùng nước lợ phong phú hơn vùng nước ngọt. Cuốn sách “Kỹ thuật nuôi giáp xác” sẽ cung cấp cho bạn đọc những kỹ thuật cơ bản về nuôi các loài giác xác như tôm hùm, tôm sú,… Hy vọng đây là nguồn tài liệu hay, bổ ích cho bạn đọc. Sách do Nhà xuất bản Nông nghiệp phát hành!

LÊ LOAN

Là một loài tôm nhỏ với khả năng tồn tại cực kỳ đặc biệt, bởi chúng có thể sinh trưởng ở nơi có điều kiện vô cùng khắc nghiệt. Loài sinh vật này được các nhà khoa học của NASA phát hiện khi đang tiến hành các nghiên cứu về môi trường sống dưới đáy đại dương (2013). Chúng sống thành từng đàn lên đến 2.000 con/m2 xung quanh miệng núi lửa cao 6 m với vô số các lỗ thông hơi. Các lỗ thông hơi này thường phun các chất lỏng nóng, nhiều đồng vào trong lòng đại dương. Các nhà khoa học không đo được nhiệt độ chính xác ở các lỗ thông hơi, nhưng theo ước tính của họ, nhiệt độ nước ở đây có thể nóng hơn 4500C. Nhưng loài tôm Rimicaris hybisae lại ăn chính những thức ăn được “nấu chín” nhờ những rãnh nhiệt đó, chủ yếu là các loại vi khuẩn sinh sống ở bên trong các rãnh nhiệt. THANH HIẾU

 BÁCH KHOA THƯ
HOÀNG YẾN

HỎI - ĐÁP

 Hỏi: Trong ao nuôi tôm có xuất hiện sứa thì cần xử lý như thế nào?

(Trần Văn Bảo, xã Thạch Mỹ, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh)

Trả lời:

Ở môi trường ao nuôi tôm là điều kiện thuận lợi để sứa nước

phát triển. Sứa nước ngọt hay sứa nước lợ thường nhỏ. Nguyên nhân chủ yếu khiến sứa nước xuất hiện trong ao nuôi tôm là do nguồn nước cấp vào ao nuôi có chứa sứa nước hoặc trứng sứa. Mặc dù khi cấp nước vào ao, người nuôi đã sử dụng hệ thống lưới lọc để loại bỏ tạp chất có trong nước, tuy nhiên, vì kích thước của sứa nhỏ, đặc biệt là trứng sứa siêu nhỏ nên chúng vẫn có thể xâm nhập vào ao nuôi và sinh sống, phát triển.

Có nhiều cách để diệt sứa nước trong ao nuôi tôm. Người nuôi có thể tham khảo một trong những cách sau:

Sử dụng quạt nước và lưới chắn để diệt sứa: Với cách này, người nuôi cần lắp đặt lưới chắn trước quạt nước (lưới chắn thường có kích thước lỗ rất nhỏ, lưới sợi 3,6 ly, kích thước lỗ lưới 2,5 cm, chiều dài dưới tương đương với chiều dài của quạt nước). Khi quạt nước hoạt động sẽ tạo nên dòng chảy khiến sứa và trứng sứa bị cuốn theo dòng chảy đó và va đập vào lưới chắn đã được lắp đặt. Khi có sự va đập xảy ra, trứng sứa sẽ bị vỡ, hoặc nếu không bị vỡ thì sẽ dính vào lưới chắn. Cứ định kỳ sau 7 - 10 ngày, người nuôi vệ sinh dưới chắn một lần. Tuy hiệu quả không đạt 100% nhưng đây là phương pháp đơn giản, dễ thực hiện và không gây ảnh hưởng tiêu cực nào cho tôm và môi trường.

Sử dụng hóa chất: Ở liều lượng phù hợp, Chlorine được xem là hóa chất có khả năng diệt sứa và khử trùng ao nuôi tôm hiệu quả. Tuy nhiên, khi sử dụng Chlorine để diệt sứa nước, chúng chỉ có tác dụng tạm thời, nếu sử dụng nhiều và liên tục sẽ gây ảnh hưởng đến tôm và môi trường.

Thay nước và cấp lại nước mới không chứa sứa/trứng sứa cho ao nuôi tôm: Đây là một cách nhanh chóng để loại bỏ sứa trong ao nuôi tôm. Nhưng điều này cũng đưa ra không ít thách thức cho người nuôi vì hiện nay nguồn nước sạch để nuôi tôm đang ngày một khan hiếm dần, do đó trước khi thay nước, cần phải tốn thêm thời gian để chứa nước vào ao lắng và xử lý nước, đảm bảo khi cấp nước vào ao nuôi chất lượng nước sẽ đảm bảo và phù hợp cho tôm.

 Hỏi: Xin tư vấn cách sử dụng thuốc tím trong nuôi tôm?

(Phan Thành Nhã, xã Nhơn Hải, TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định)

Trả lời:

Thực tế, liều lượng thuốc tím trong nuôi tôm được sử dụng sẽ phụ thuộc vào lượng vật chất hữu cơ có trong nước. Do đó, để ước lượng đúng hàm lượng thuốc tím cần sử dụng, người nuôi có thể áp dụng 2 cách sau đây:

Cách 1: Bắt đầu sử dụng với một lượng thuốc tím là 2 mg/L và chờ đợi quá trình xử lý thuốc tím diễn ra trong khoảng 8 - 12 giờ.

Sau 12 giờ, nếu nước chuyển từ tím sang hồng thì lượng thuốc tím sử dụng đã đủ và không cần dùng thêm. Ngược lại, nếu nước chuyển sang màu nâu thì cần sử dụng thêm thuốc tím với liều lượng từ 1 - 2 mg/L và tiếp tục quan sát quá trình chuyển màu trong 8 - 12 tiếng tiếp theo.

Cách 2: Lấy một cốc nước cất và cho vào khoảng 1 g thuốc tím để tạo thành dung dịch chuẩn. Sau đó, dùng 5 cốc khác và lấy khoảng 1 L nước ao/cốc. Tiếp theo, cho vào 5 cốc nước ao lần lượt 2, 4, 6, 8, 10 mL dung dịch chuẩn và khuấy đều. Sau 15 phút, sẽ thấy nước ở 1 trong 5 cốc chuyển màu hồng, lấy số mL dung dịch chuẩn đã thêm vào cốc đó, nhân với 2 để được nồng độ (mg/L) thuốc tím cần dùng.

Mặc dù là chất cần thiết trong việc cải tạo chất lượng ao nuôi, nhưng nếu không sử dụng đúng cách thì rất có thể thuốc tím sẽ trở thành “con dao hai lưỡi” gây thiệt hại cho mùa vụ. Vì vậy, sử dụng thuốc tím cũng cần tuân thủ một số nguyên tắc để đảm bảo an toàn và hiệu quả. Chỉ sử dụng thuốc tím vào đầu và cuối mùa nuôi, để khử trùng nước và diệt virus. Trong quá trình nuôi, không nên sử dụng thuốc tím, vì nó có thể tạo ra MnO2, một chất độc hại cho tôm.

Liều lượng sử dụng phụ thuộc vào hàm lượng chất hữu cơ trong nước. Liều lượng khuyến nghị là 2 - 4 mg/L. Nếu cần diệt virus, có thể tăng lên 50 mg/L.

Hòa tan thuốc tím với nước sạch, sau đó tạt đều lên bề mặt ao hoặc phun vào dàn quạt nước, để thuốc tím được phân bố đồng đều trong ao.

Tăng cường sử dụng quạt nước khi sử dụng thuốc tím, để cung cấp hàm lượng ôxy cho tôm. Thuốc tím sẽ giết chết một số lượng lớn tảo, làm giảm lượng ôxy hòa tan trong nước.

Tránh sử dụng thuốc tím trong môi trường pH cao và nước cứng, vì độc tính của thuốc tím sẽ tăng lên trong những điều kiện này.

Khoảng cách giữa 2 lần xử lý ít nhất là 4 ngày.

Sau khi sát trùng nước, vi khuẩn có hại sẽ nhanh chóng bùng phát trở lại. Vì thế, cần phải cấy vi sinh ngay sau 48 giờ sát khuẩn để vi khuẩn có lợi Bacillus tạo quần thể ưu thế trước và khống chế vi khuẩn gây hại.

 Hỏi: Tôm sú có dấu hiệu giảm ăn và ngừng ăn, bơi lờ đờ, dạt vào bờ và chết. Tôm chết toàn thân nhợt nhạt, mang và phần đầu ngực xuất hiện màu vàng. Hỏi nguyên nhân và biện pháp khắc phục?

(Nguyễn Tuấn Hải, xã Mỹ Hưng, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre)

Trả lời: Theo mô tả, có thể tôm sú bị bệnh đầu vàng (YHV). Tuy nhiên, để biết chính xác, cần đưa mẫu tôm bệnh đến các phòng thí

nghiệm đủ năng lực để thực hiện các kỹ thuật phân tích. Nếu tôm

bị bệnh đầu vàng thì hiện chưa có biện pháp chữa trị hiệu quả bởi bệnh do virus gây ra. Do đó, nếu thấy xuất hiện dấu hiệu bệnh tốt

nhất là thu hoạch ngay, nếu thấy tôm còn quá nhỏ thì cần xử lý

nước ao nuôi tôm trước khi tháo bỏ. Đối với những con tôm bệnh được vớt khỏi ao, cách tốt nhất

là tiêu hủy bằng cách chôn hay đốt, nước từ ao tôm bệnh không được thải ra ngoài môi trường mà phải được xử lý bằng vôi nung

hoặc clorua vôi trước. Nên diệt các loài giáp xác mang mầm bệnh trong ao nuôi, nạo vét vùng đáy ao và bón vôi, sau đó phơi ao từ 5 - 7 ngày rồi cấp nước vào ao trước khi bắt đầu vụ nuôi mới. Nước cũng cần được xử lý để loại bỏ sự hiện diện tiềm ẩn của các sinh vật mang virus bằng cách thêm Chlorine với lượng 20 - 30 ppm.

Có thể bất hoạt virus trong nước hoặc dụng cụ bằng cách đun nóng ở 60°C trong 15 phút hoặc bằng cách xử lý Chlorine ở nồng độ 30 ppm.

 Hỏi: Biện pháp để phòng tránh hiện tượng nhiễm phèn của ao tôm?

(Nguyễn Trọng Hiến, xã Viên Bình, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng)

Trả lời:

Phèn là một trong những yếu tố ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất và chất lượng tôm nuôi.

Hạ phèn trong ao nuôi tôm trước khi vào vụ mới: Ở giai đoạn này, khuyến khích việc sử dụng vôi bột (CaO) để rắc xuống đáy ao và các bờ ao, với tác dụng khử trùng và hạ phèn trong ao. Đồng thời, quá trình phơi ao cũng cần tuân thủ đúng quy định,

tránh phơi ao quá lâu để không gây ra nhiều vết nứt. Những vết nứt này có thể tạo điều kiện cho ôxy hóa Pyrite (FeS2), khi cấp nước vào ao các chất này sẽ tạo thành phèn đỏ rất khó xử lý. Nếu có điều kiện về mặt tài chính, việc sử dụng bạt để lót đáy ao giúp ngăn chặn xì phèn và giảm công đoạn xử lý phèn trong quá trình nuôi tôm.

Hạ phèn khi cấp nước vào ao: Trước khi cấp nước vào ao, cần thực hiện kiểm tra kỹ lưỡng nguồn nước để tránh tình trạng nhiễm phèn nặng. Trước khi thả tôm, cần tiến hành diệt khuẩn và sát trùng ao, thường xuyên đo pH. Nếu nước cấp vào ao có chứa phèn, cần thực hiện rải vôi và phơi nước để xử lý phèn hoặc hạ phèn trong ao trước khi thả giống.

Hạ phèn trong quá trình nuôi: Trong quá trình nuôi tôm, không thể tránh khỏi những cơn mưa bất ngờ gây ô nhiễm nước bằng phèn. Tuy nhiên, người nuôi cũng không nên lạm dụng vôi để xử lý phèn, vì việc sử dụng quá nhiều vôi có thể tạo ra thạch cao, gây hại cho môi trường ao nuôi.

Hiện nay, một phương pháp phổ biến được nhiều hộ nuôi tôm áp dụng để xử lý phèn trong ao là sử dụng vi sinh. Vi sinh có khả năng tồn tại trong môi trường nước phèn và giúp ôxy hóa cả phèn sắt và nhôm. Chúng thúc đẩy quá trình chuyển hóa phèn thành các hợp chất tan trong nước một cách nhanh chóng. Ngoài ra, vi sinh cũng có tác dụng phân hủy các chất hữu cơ dư thừa như thức ăn, xác tảo, phân,... giúp giảm khí độc và mùi hôi trong ao nuôi. Ưu điểm của phương pháp này là tiết kiệm, thân thiện với môi trường và mang lại hiệu quả cao, đồng thời kéo dài được thời gian sử dụng.

Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.