Tầng 3, nhà A7, số 10 Nguyễn Công Hoan, Ba Đình, Hà Nội
Điện thoại: 0243.7713699
LIÊN HỆ QUẢNG CÁO
VIETNAMMEDIA Communication Co., Ltd. Điện thoại: (028) 62.777.616
DĐ: 0944.663.828
Email: nghia@thuysanvietnam.com.vn
ĐẶT MUA TẠP CHÍ
Điện thoại: (024) 3.771.1756
Email: vunathuysan@gmail.com
TÀI KHOẢN NGÂN HÀNG
Tên tài khoản: CÔNG TY TNHH TRUYỀN THÔNG
VIETNAMMEDIA Số 8614227979
Ngân hàng Đầu tư & Phát triển
Việt Nam (BIDV) - Chi nhánh Bà Chiểu
Giấy phép xuất bản
Số 70/GP-XBĐS ngày 11/06/2024
In tại Công ty TNHH MTV Lê Quang Lộc (TP Hồ Chí Minh)
Thưa Quý vị bạn đọc!
2025 sẽ tiếp tục là một năm đầy thách thức đối với ngành tôm. Tuy nhiên, theo nhận định của một số chuyên gia, nếu khắc phục được những khó khăn nội tại, cơ hội để ngành tôm tăng tốc và bứt phá là rất lớn. Tại Hội nghị “Phát triển ngành tôm nước lợ năm 2025” mới đây, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) Phùng Ðức Tiến cho rằng, để nâng cao hơn nữa giá trị từ con tôm và tạo được sự bứt phá, các địa phương, nhất là vùng ĐBSCL, cần chú ý xây dựng nguồn giống đạt chất lượng cao để chủ động trong sản xuất và giảm chi phí trong quá trình nuôi, giảm dịch bệnh. Cùng với đó, đầu tư hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng, phục vụ phát triển vùng nuôi, logistic; tổ chức lại khâu sản xuất, thu hoạch, sơ chế, chế biến, xúc tiến thương mại. Đặc biệt, ưu tiên nuôi theo mô hình tuần hoàn, chuyển đổi số và kinh tế xanh. Đây là hướng đi quan trọng của ngành tôm, nhất là trong bối cảnh tác động của biến đổi khí hậu ngày một sâu sắc và yêu cầu của thị trường thế giới ngày một khắt khe hơn.
Và “Xanh hóa vùng nuôi” cũng chính là chủ đề xuyên suốt của Hội chợ Triển lãm Quốc tế Công nghệ ngành tôm Việt Nam lần thứ 6 năm 2025 (VietShrimp 2025) sắp diễn ra tại TP Cần Thơ từ ngày 26 - 28/3.
Với sự tham dự và đồng hành của các cơ quan quản lý nhà nước, các chuyên gia, doanh nghiệp và bà con nuôi tôm trong nước cũng như quốc tế, VietShrimp 2025 hứa hẹn sẽ tiếp tục tìm được những giải pháp tối ưu để ngành tôm phát triển bền vững.
Đây là những nội dung chính của Đặc san Con Tôm phát hành tháng 3/2025. Ngoài ra, trong số này, Con Tôm tiếp tục có những bài viết chuyên sâu về kỹ thuật, giới thiệu mô hình sản xuất tôm tiên tiến, hiệu quả ở trong và ngoài nước. Mời các bạn đón đọc!
Trân trọng! BAN BIÊN TẬP
Tòa soạn luôn hoan nghênh sự đóng góp và các bài viết đặc sắc về ngành tôm từ các CTV, bạn đọc gần xa. Thư và bài vở xin gửi về: TạpchíThủysảnViệtNam - Lầu 2, Nhà B, 116 Nguyễn Đình Chiểu, P. Đa Kao, Q.1, TP Hồ Chí Minh
Điện thoại: 028.62777616
Email: toasoan.contom@gmail.com Hoặc liên hệ trực tiếp theo số điện thoại: 0374 099 498 (Ms. Kim Tiến) Website: www.thuysanvietnam.com.vn www.contom.vn
Theo dòng thời sự
T14-15: Giám sát chặt dịch bệnh
Vấn đề - Sự kiện
T16-17: Tăng tốc và bứt phá
Tòa soạn - Bạn đọc
T18-19: Trợ lực vốn cho ngành tôm
Thị trường xuất khẩu
T24-25: Xuất khẩu tôm khởi sắc
Nhìn ra thế giới
T30-31: Tương lai của di truyền TTCT
Thức ăn - Dinh dưỡng
T36-37: Nhuyễn thể krill: Chiến lược dinh dưỡng quản lý EHP
Khoa học - Kỹ thuật
T38: Phòng ngừa vi khuẩn gây bệnh phân trắng có yếu tố
vi bào tử trùng
T39: Giảm chi phí sản xuất con giống nhờ áp dụng di truyền học
Thông tin doanh nghiệp
T46: Gieo chất lượng - gặt thành công
T47: Nâng cao giá trị từ “xanh hóa”
T48: Nâng cao năng suất nuôi TTCT với công nghệ Nano Bubbles
T49: Chế phẩm sinh học Khoa Học Xanh: Niềm tin từ chất lượng
Mô hình điển hình
T50: Sản xuất theo ESG: Giải pháp giảm giá thành nuôi tôm
T51: Delta Marine: Hành trình trở thành trại nuôi tôm lớn nhất
Indonesia
Đồng hành cùng nhà nông
T52-53: Phương pháp quản lý độ mặn ao nuôi
NGHỆ AN Chuẩn bị tốt cho vụ mới
PHÚ YÊN
Phát triển ngành tôm ổn định
Năm 2025, đối tượng nuôi chủ lực của Nghệ An vẫn là TTCT, nuôi thâm canh. Để chuẩn bị cho vụ nuôi tôm năm 2025, Sở Nông nghiệp và Môi trường Nghệ An đã có thông báo khung lịch mùa vụ nuôi trồng thủy sản năm 2025. Theo đó, nuôi TTCT, thời gian thả giống bắt đầu từ ngày 1/4 đến 30/6. Ngành chức năng địa phương khuyến cáo người nuôi cần tuân thủ đúng lịch thời vụ thả nuôi. Áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật nuôi tiên tiến, tiếp tục khuyến khích người nuôi ứng dụng các tiến bộ khoa học, nuôi VietGAP, nuôi nhiều giai đoạn, Biofloc. Không sử dụng kháng sinh, hạn chế tối đa hóa chất ở tất cả các phương thức nuôi và các khâu trong chuỗi sản xuất, lưu thông sản phẩm tôm,... Đồng thời, người nuôi cũng cần thực hiện nghiêm túc các quy chuẩn, tiêu chuẩn để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm đảm bảo an toàn thực phẩm gắn với bảo vệ môi trường vùng nuôi. HUYỀN THƯƠNG
HÀ TĨNH
Kiểm soát chặt chất lượng con giống
Vụ tôm xuân - hè năm 2025, tỉnh Hà Tĩnh dự kiến sản xuất trên
2.000 ha TTCT với hơn 800 triệu con giống. Hiện nay, việc kiểm soát dịch bệnh và kiểm dịch tôm giống trên địa bàn tỉnh đang được đơn vị chuyên môn quan tâm. Theo đó, ngành chức năng đã kiểm soát, ngăn chặn, xử lý nghiêm các trường hợp vận chuyển, buôn bán bất hợp pháp con giống thủy sản trên địa bàn; đối với các nguồn tôm giống nhập về thuần dưỡng và thả nuôi trực tiếp trên địa bàn được kiểm tra, lấy mẫu tầm soát dịch bệnh nguy hiểm,… Đồng thời, khuyến cáo người nuôi tôm nên ký kết hợp đồng với các đơn vị cung cấp giống uy tín, có đầy đủ hồ sơ, chứng từ, giấy chứng nhận kiểm dịch, kiểm tra chặt chẽ chất lượng tôm giống trước khi xuất trại.
Trước khi bắt giống cần thông báo với cơ sở sản xuất các chỉ số môi
trường nước trong ao ương để cơ sở thuần hóa giống phù hợp với điều kiện môi trường nuôi.
LÊ LOAN
Năm 2024, nuôi tôm nước lợ trên địa bàn tỉnh Phú yên gặp nhiều khó khăn, giá bán tôm thương phẩm thấp hơn các năm trước nên hiệu quả không cao. Trước tình hình đó, Sở Nông nghiệp và Môi trường Phú Yên đang triển khai nhiều giải pháp, phối hợp với địa phương sắp xếp lại vùng nuôi, xây dựng những mô hình nuôi tiên tiến, tăng cường công tác quản lý nhằm phát triển nghề nuôi tôm nước lợ ổn định, bền vững. Bên cạnh đó, nghiên cứu, áp dụng các công nghệ nuôi mới, giảm ô nhiễm môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, đảm bảo tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả. Khuyến khích tổ chức lại sản xuất nuôi trồng thủy sản theo hướng thâm canh, áp dụng công nghệ cao đối với các dự án nuôi trồng thủy sản lớn. Đối với các hộ nuôi nhỏ lẻ tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm theo tiêu chuẩn VietGAP hoặc các tiêu chuẩn kỹ thuật theo đơn đặt hàng của nhà nhập khẩu.
KHÁNH HÒA
Khuyến cáo tuân thủ lịch
thời vụ
QUẢNG NAM
Đẩy mạnh giám sát dịch bệnh
Từ đầu năm đến nay, người dân Quảng Nam đã nuôi tôm với diện tích hơn 4.000 ha. Tuy nhiên, chủ yếu là nuôi tôm bằng ao đất, nước thẩm lậu với bên ngoài nên đã có nhiều diện tích tôm nuôi bị bệnh hoại tử gan tụy, đốm trắng, hồng thân khiến tôm chết. Trước thực trạng trên, ông Nguyễn Văn Tài, Phó Chủ tịch UBND xã Duy Vinh, huyện Duy Xuyên cho rằng, để phòng chống dịch bệnh trên tôm nuôi, ngành thủy sản cần đẩy mạnh giám sát dịch bệnh và có giải pháp xử lý triệt để. Công tác quan trắc, cảnh báo môi trường, lấy mẫu phân tích nguồn nước, dịch bệnh cần được chú trọng hơn, nhất là khuyến cáo người dân nuôi tôm an toàn dịch bệnh. Các cơ quan của tỉnh cần nghiên cứu hỗ trợ hộ nuôi tôm nhỏ lẻ liên kết lại với nhau trong tổ hợp tác, hợp tác xã để nâng cấp quy mô, quy trình nuôi tôm, đầu tư đồng bộ, kỳ vọng thu được sản lượng, năng suất, giá trị lớn cho con tôm.
TRẦN TIẾN
Dự báo tình hình nuôi tôm nước lợ năm 2025 sẽ có nhiều yếu tố bất lợi, do đó, để có những vụ nuôi đạt hiệu quả cao, Sở Nông nghiệp và Môi trường Khánh Hòa khuyến cáo các hộ nuôi tôm thương phẩm cần nuôi theo quy hoạch, kế hoạch và hướng dẫn sản xuất, nuôi trồng thủy sản của chính quyền địa phương; nghiêm túc thực hiện lịch thời vụ, thả tôm với mật độ phù hợp theo hình thức nuôi; ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật trong quá trình sản xuất. Sử dụng giống của các cơ sở sản xuất có uy tín để thả nuôi. Trong quá trình nuôi, cần thực hiện tốt khâu chuẩn bị, vệ sinh ao nuôi để loại bỏ mầm bệnh; thường xuyên quản lý các yếu tố môi trường ao nuôi và sức khỏe của tôm. Thông báo cho cơ quan quản lý khi tôm có dấu hiệu bất thường; tuyệt đối không được xả xác tôm chết, nước nuôi chưa qua xử lý ra môi trường,… NGUYỄN HẰNG
KIÊN GIANG
Chủ động ứng phó với hạn, mặn
Trước dự báo tình hình nắng nóng kéo dài và mặn xâm nhập diễn ra ở mức cao hơn trung bình nhiều năm của cơ quan chuyên môn, người dân nuôi tôm trên địa bàn tỉnh Kiên Giang đã chủ động thực hiện các giải pháp ứng phó nhằm giảm thiểu thiệt hại, ảnh hưởng do hạn, mặn gây ra. Theo đó, nông dân các huyện vùng U Minh Thượng chủ động cải tạo, sên vét bùn mương bao, đáy vuông kỹ trước khi bước vào vụ tôm chính trong năm, từ đó giúp hạn chế mùn bã hữu cơ làm phát sinh khí độc khi nắng nóng, nhiệt độ tăng cao. Tranh thủ lấy nước đầy vào ao khi độ mặn còn thấp. Trong quá trình nuôi, sử dụng Zeolite, các loại men vi sinh để quản lý chất lượng nước, làm sạch đáy ao nuôi. Đồng thời, giữ nước trên trảng ở mức từ 60 - 70 cm để hạn chế chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm có hại cho tôm nuôi, lựa con nước chất lượng tốt để bơm bổ sung.
NAM CƯỜNG
THANH HIẾU
TRÀ VINH
Phát triển bền vững ngành tôm nước lợ
Theo kế hoạch, năm 2025, toàn tỉnh Trà Vinh thả nuôi 24.000 ha tôm sú, sản lượng đạt khoảng 10.500 tấn; 8.000 ha TTCT, sản lượng gần 90.000 tấn. Để đạt mục tiêu đề ra và phát triển bền vững ngành tôm nước lợ, Trà Vinh đang thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.
Theo đó, địa phương ưu tiên đầu tư hạ tầng thủy lợi, điện, giao thông vùng nuôi tôm trọng điểm; tổ chức lại sản xuất theo hướng liên kết chuỗi giá trị ngành hàng. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào ngành tôm nước lợ tỉnh Trà Vinh; hình thành và phát triển các vùng nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao.
Đồng thời, đẩy mạnh chuyển giao, ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào nuôi tôm nước lợ; nhân rộng mô hình mới, giải pháp, công nghệ nuôi thích ứng với điều kiện biến đổi thời tiết.
Bên cạnh đó, tỉnh tích cực kêu gọi doanh nghiệp đầu tư xây dựng trại giống quy mô lớn đạt chuẩn. Tăng cường phối hợp các
BẾN TRE
Nhân rộng nuôi tôm công nghệ cao
Theo UBND tỉnh Bến Tre, đến nay, tỉnh có 3.633/4.000 ha nuôi ứng dụng công nghệ cao, đạt 90,82% so Kế hoạch giai đoạn 20212025. Năng suất bình quân 60 - 70 tấn/ha, sản lượng đạt 221.282 tấn. Lợi nhuận trung bình từ 700 - 800 triệu đồng/vụ nuôi, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân. Được biết, ưu điểm của mô hình nuôi tôm công nghệ cao là đầu tư kín, cách ly được môi trường dịch bệnh giai đoạn đầu, nuôi mật độ cao, quản lý tốt được thức ăn và môi trường, nâng cao tỷ lệ sống, nuôi tôm lên cỡ lớn, tạo điều kiện tăng năng suất sản lượng trên một đơn vị diện tích và đặc biệt là thuận lợi cho việc xử lý chất thải trong vụ nuôi. Để nhân rộng mô hình, thời gian tới, địa phương sẽ tiếp tục hỗ trợ người dân xây dựng các liên kết trong vùng thông qua việc hỗ trợ vận động thành lập tổ hợp tác, hợp tác xã nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao.
DUY AN
Năm 2025, Trà Vinh thả nuôi 8.000 ha TTCT Ảnh: Trung Hiếu/TTXVN
Viện, trung tâm nghiên cứu, trường đại học để đẩy mạnh công tác nghiên cứu, chọn tạo giống tôm tăng trưởng nhanh, sạch bệnh, chủ động cung cấp cho người nuôi.
DUY MẠNH
BẠC LIÊU
Sẵn sàng cho vụ nuôi mới Để chuẩn bị tốt nhất các điều kiện, sẵn sàng cho vụ nuôi mới, người nuôi tôm trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu đang tích cực cải tạo ao, đầm, sửa chữa đường dẫn nước, hệ thống xử lý nước, chất thải,… với hy vọng có một vụ nuôi thành công. Tại các địa phương, người dân đã chủ động thực hiện nghiêm quy trình nuôi, tập trung nhân lực, vật lực, nạo vét, tu sửa, cải tạo ao đầm, xử lý môi trường nước trước khi bước vào vụ mới. Đồng thời, mở rộng diện tích nuôi trồng thủy sản ứng dụng công nghệ cao, nuôi thâm canh, áp dụng quy trình VietGAP. Để vụ mới thành công, ngành chức năng cũng đã chủ động xuống cơ sở, hỗ trợ người dân công tác cải tạo ao, đầm. Đồng thời, khuyến cáo người dân tuân thủ nghiêm quy trình kỹ thuật trong quá trình nuôi. Đẩy mạnh áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, biện pháp nuôi thủy sản thâm canh, thâm canh công nghệ cao, hạn chế sử dụng các loại thuốc kháng sinh, hóa chất,…
DIỆU CHÂU
SÓC TRĂNG
Đồng hành cùng người nuôi
Những ngày qua, ngành chức năng tỉnh Sóc Trăng đang thực hiện rất tốt nhiệm vụ hỗ trợ người dân chuẩn bị bước vào vụ mới.
Theo đó, bên cạnh việc tăng cường khuyến cáo về lịch thời vụ, Chi cục Thủy sản Sóc Trăng thường xuyên thực hiện công tác quan trắc môi trường để kịp thời điều chỉnh lịch thả giống cho phù hợp với tình hình thực tế địa phương. Ông Đỗ Văn Thừa, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Sóc Trăng, cho biết: “Chi cục đang tích cực đồng hành cùng bà con nuôi tôm. Phối hợp với liên ngành tăng cường kiểm tra điều kiện các cơ sở sản xuất, kinh doanh giống vật tư thủy sản. Đồng thời, hướng dẫn hộ nuôi đăng ký kê khai ban đầu, giám sát vùng nuôi, xử lý đối với các trường hợp thả tôm không đúng lịch thời vụ, nhằm đảm bảo điều kiện để người nuôi tôm trên địa bàn tỉnh đạt được hiệu quả cao nhất”. THÁI THUẬN
CÀ MAU
Ngành tôm duy trì vị thế vững vàng
Trong bối cảnh khó khăn do tình hình kinh tế toàn cầu, đặc biệt là cuộc xung đột Nga - Ukraine làm giảm nhu cầu tiêu thụ tôm, Sở
Nông nghiệp và Môi trường Cà Mau đã đưa ra các giải pháp quản lý trọng tâm, như theo dõi nhu cầu thị trường, tăng cường giám sát dịch bệnh, phát triển nuôi tôm theo hướng công nghệ cao và bảo đảm chất lượng an toàn thực phẩm. Các chính sách khuyến khích đầu tư, liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, cùng sự hỗ trợ cơ giới hóa và bảo hiểm nông nghiệp, sẽ tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho ngành tôm phát triển bền vững. Sự đổi mới về công nghệ và áp dụng các quy trình nuôi tôm tiên tiến đã góp phần tạo ra nhiều mô hình nuôi tôm hiệu quả. Cùng với các giải pháp đồng bộ từ chính quyền, doanh nghiệp và người nuôi, ngành tôm Cà Mau hy vọng sẽ vượt qua các thách thức và duy trì vị thế vững vàng trên thị trường quốc tế trong thời gian tới. THẢO ANH
Triển vọng sáng cho giá tôm toàn cầu
Theo báo cáo mới nhất về ngành nuôi trồng
thủy sản của Rabobank, các nhà sản xuất tôm
có thể kỳ vọng giá sẽ được cải thiện đáng kể trong nửa đầu năm nay. Báo cáo đưa ra nhận
định: “Ngành công nghiệp tôm toàn cầu đang
trải qua giai đoạn tái cân bằng khi các nhà
sản xuất giảm tốc độ tăng trưởng sản lượng nhằm thu hẹp khoảng cách cung - cầu. Điều này sẽ dẫn đến sự phục hồi dần của giá cả. Sự chững lại trong tăng trưởng nguồn cung được kỳ vọng sẽ giúp giảm bớt tình trạng dư cung hiện nay”. Báo cáo dự đoán rằng sản lượng tôm châu Á cuối cùng cũng sẽ phục hồi, nhờ sự cải thiện dần về nhu cầu tại Mỹ và châu Âu. Tuy nhiên, báo cáo cũng đưa ra một lưu ý rằng nhu cầu yếu từ Trung Quốc, cùng với việc Ecuador đầu tư vào chế biến sản phẩm giá trị gia tăng - giúp quốc gia Nam Mỹ này đa dạng hóa sản phẩm theo nhu cầu của thị trường phương Tây có thể hạn chế đà tăng trưởng này.
CHÂU ÂU
Mở đăng ký tham gia Diễn đàn tôm toàn cầu
2025
Giá TTCT tại Indonesia bắt đầu tăng từ tháng 1/2025 với hầu hết các kích cỡ. Hiện, giá TTCT cổng trại loại 60 con/kg của Indonesia đang đứng vị trí thứ 5 trên thế giới, sau tôm Thái Lan (5,21 USD/kg); Trung Quốc (4,82 USD/kg), Việt Nam (4,60 USD/kg) và Ấn Độ (3,98 USD/kg).
Giá TTCT tại Thái Lan tăng mạnh trong tuần 8 (17 - 23/2) và đạt mốc cao nhất trong vòng hai năm qua, theo dữ liệu của Talay Thai. Giá TTCT cỡ 60 con/kg đã vọt lên 175 THB/kg (5,21 USD); trong khi TTCT cỡ 80 con/kg lập kỷ lục 152,5 THB/kg (4,54 USD).
Janet Mills, thống đốc bang Maine, Mỹ, cho biết, nhờ mức giá tôm hùm đạt 6,14 USD /pound, dù tổng sản lượng đánh bắt giảm hơn 10 triệu pound, ngư dân Maine vẫn thu về 528.421.645 USD. Mặt hàng có giá trị cao thứ hai là ngao vỏ mềm, đạt 15.461.017 USD.
Diễn đàn Tôm Toàn cầu 2025 (GFS), một trong những hội nghị thường niên được mong đợi nhất của ngành nuôi tôm quốc tế đã mở cổng đăng ký từ 1/3 - 2/9. Sự kiện năm nay sẽ quay lại Utrecht, Hà Lan, từ ngày 24/9/2025 với sự góp mặt của chuyên gia hàng đầu trong ngành, gồm Bastiaan van Tilburg, CEO Skretting, và Ivo Lansbergen, CEO DSMFirmenich Animal Nutrition and Health. Van Tilburg có bài phát biểu về tình hình ngành tôm tại châu Á và Mỹ Latinh; trong khi Lansbergen trình bày về tương lai của công thức thức ăn cho tôm. CFS 2025 sẽ có chương trình cập nhật, giúp tăng cường sự tương tác và khả năng tiếp cận cho người tham dự. Đáng chú ý, các sự kiện bên lề trong ngày đầu tiên đã được sắp xếp lại, cho phép người tham dự có cơ hội tham gia cả hai phiên thảo luận về tôm khai thác tự nhiên và chuỗi cung ứng toàn diện. Hai ngày tiếp sẽ theo thảo luận chuyên sâu về công thức thức ăn thủy sản, sử dụng kháng sinh và đầu tư.
ECUADOR
Trong một tuyên bố vào ngày 25/2, Ủy viên Sid Miller của Sở Nông nghiệp Texas ủng hộ đối với đề xuất mới của Dân biểu Texas A.J. Louderback về sự can thiệp của liên bang vào ngành tôm vùng Vịnh. Đề xuất HCR 76 được đệ trình vào ngày 13/2, kêu gọi chính phủ hạn chế nhập khẩu ồ ạt tôm nước ngoài.
Mùa đánh bắt tôm tại vùng biển Chubut, Argentina đang cho thấy một nghịch lý rõ rệt bởi sản lượng khai thác dồi dào, nhưng giá cả thị trường quốc tế đang sụt giảm nghiêm trọng. Từ ngày 2/11, tổng sản lượng cập cảng tại Rawson đã vượt 90.000 tấn, song ngư dân vẫn không thu được lợi nhuận.
Công ty Empacreci mở rộng thị trường tôm tươi sống sang Mỹ Nhà chế biến và xuất khẩu tôm Empacreci, tại Durán, Ecuador, đang cân nhắc xuất khẩu tôm sống nhằm thâm nhập sâu hơn vào thị trường Mỹ. Daniel Crespo, Giám đốc Empacreci cho biết: “Thị trường chính của chúng tôi là châu Âu, nhưng Mỹ cũng chiếm một phần đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu, khoảng 30%”. Trong những năm gần đây, Empacreci đã có nhiều bước đi nhằm nâng cao sức hút tại các thị trường như Mỹ, bao gồm việc đẩy mạnh các sản phẩm giá trị gia tăng. Empacreci sở hữu 200 ha trang trại nuôi tôm ở Ecuador, đồng thời cũng mua tôm từ các bên thứ ba để chế biến. Để đảm bảo nguồn cung ổn định và đáng tin cậy hơn, Empacreci đã thiết lập quan hệ đối tác với Brito Group, một đơn vị nuôi tôm khác, sở hữu 3.000 ha diện tích nuôi với sản lượng thu hoạch hằng năm lên tới 45 triệu pound tôm.
Lần đầu tiên, Ecuador có gian hàng riêng dành cho tôm tại Gulfood lần thứ 30 - một trong những hội chợ thực phẩm và đồ uống lớn nhất thế giới, diễn ra từ 17 - 21/2 tại Trung tâm Thương mại Thế giới Dubai, UAE. Các sản phẩm tôm đều được quảng bá dưới thương hiệu “First Class Shrimp”.
Labeyrie Fine Foods, nhà sản xuất thực phẩm cao cấp cho thị trường châu Âu, đã thông báo khai trương hai dây chuyền sản xuất mới dành cho tôm nấu chín tại chi nhánh Delpierre. Chi nhánh này được đầu tư 18 triệu EUR, giảm 20% lượng khí thải carbon và đạt công suất tối đa 18.000 tấn.
Ngành thủy sản kiến nghị miễn thuế 30% với tôm Mỹ
Các nhà xuất khẩu thủy sản Ấn Độ kêu gọi
chính phủ miễn thuế 30% đối với tôm nhập
khẩu từ Mỹ, do lo ngại về khả năng Mỹ sẽ áp
dụng thuế đối ứng đối với Ấn Độ. Yêu cầu
này đã được đệ trình trong một cuộc họp với
Bộ trưởng Thương mại Piyush Goyal khi ông
có mặt tại Kochi để tham dự Hội nghị Thượng
đỉnh Đầu tư Toàn cầu Kerala 2025. Mặc dù Mỹ
là thị trường xuất khẩu lớn nhất của tôm Ấn
Độ, chiếm 34% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy
sản, nhưng giá trị tôm nhập khẩu vào Ấn Độ không đáng kể. Do đó, dỡ bỏ mức thuế nhập khẩu hiện tại 30% đối với tôm từ Mỹ sẽ không ảnh hưởng đến ngành công nghiệp trong nước. Tuy nhiên, các chuyên gia bày tỏ lo ngại rằng nếu tiếp tục duy trì mức thuế này, Mỹ có thể trả đũa bằng cách áp thuế tương tự đối
với tôm xuất khẩu từ Ấn Độ, gây tổn thất nặng nề cho ngành.
NHẬT BẢN
Nhập khẩu tôm từ Ecuador và Argentina tăng mạnh
Tổng lượng tôm nhập khẩu của Nhật Bản
trong năm 2024, gồm tôm đông lạnh và tôm
chế biến, đạt 213.826 tấn, tăng 8% so năm
trước và vượt mức đáy từng ghi nhận vào năm
2012. Sự gia tăng này chủ yếu do lượng tôm
đông lạnh nhập khẩu từ Ecuador tăng gấp đôi.
Theo báo cáo của Minato Shimbun, giá trị nhập
khẩu tôm của Nhật Bản trong năm 2024 đạt 186,3 tỷ yên (tương đương 1,22 tỷ USD). Theo số liệu thống kê thương mại của Bộ Tài chính
Nhật Bản, lượng tôm đông lạnh nhập khẩu tăng 10%, đạt 152.451 tấn, với tổng giá trị 199,8 tỷ yên (1,32 tỷ USD). Ngoài ra, lượng tôm chế biến nhập khẩu tăng 2%, đạt 61.375 tấn, với tổng giá trị 387 triệu yên (2,55 triệu USD). Argentina, nước chiếm gần như toàn bộ lượng tôm đỏ Argentina nhập khẩu vào Nhật Bản, đã ghi nhận mức tăng đáng kể 40%, đạt 18.577 tấn với tổng giá trị 22.730 triệu yên (tương đương 150,1 triệu USD).
TRUNG QUỐC
Giá TTCT dự kiến chạm đáy vào tháng 3
Các hãng nhập khẩu tại Trung Quốc dự báo giá TTCT tiếp tục giảm sâu trong những tuần tới và có khả nặng chạm mức thấp nhất từ đầu năm đến nay vào tháng 3 do sức mua suy yếu sau Tết Nguyên đán. Giá nhập khẩu tôm từ Ecuador
cũng giảm đáng kể với các cỡ 30/40 IQF chỉ còn
4,65 - 4,75 USD/kg. Tại thị trường Trung Quốc, giá 1 hộp tôm 30/40 IQF trọng lượng 1,5 kg cũng giảm 10% so tháng trước, còn 370 CNY/kg (51,64 USD), trong khi trước Tết sản phẩm này
có giá 410 CNY/kg. Các nhà nhập khẩu cho biết, do không có kỳ nghỉ lễ nào cho đến Tết Thanh Minh từ ngày 4 - 6/4, nên trong thời gian tới sẽ có ít cơ hội để nhu cầu tiêu dùng tăng lên. Kỳ nghỉ lễ kéo dài ba ngày này được coi là cơ hội quan trọng tiếp theo để cải thiện nhu cầu.
TUẤN MINH (Tổng hợp )
Viện Nghiên cứu Biển Alfred Wegener (AWI) đang hợp tác cùng Oceanloop - công ty công nghệ nuôi trồng thủy sản RAS tại Munich và Kiel, Đức thực hiện dự án ShrimpWiz. Dự án này ứng dụng công nghệ thị giác máy để nâng cao phúc lợi động vật và tối ưu hóa hiệu suất trong mô hình nuôi tôm trong nhà.
Tổng thống Trump đơn phương áp thuế 25% lên toàn bộ hải sản Canada, ảnh hưởng đến gần như toàn bộ cua tuyết, 55% tôm hùm sống nội địa và khoảng 50% cá hồi Đại Tây Dương nuôi nguyên con tiêu thụ tại Mỹ. Sau đó, ông thông báo tạm thời dỡ bỏ thuế với các sản phẩm tuân thủ USMCA đến ngày 2/4. Nhiều chuyên gia nhận định, người thua cuộc lớn nhất trong các cuộc chiến thuế quan toàn cầu bùng nổ trong ngành hải sản sẽ là người tiêu dùng, nhà nhập khẩu, chế biến và phân phối Mỹ.
Sản lượng tôm đỏ Argentina từ 11/2024 đến ngày 18/2/1025 đạt 87.850 tấn, tăng 50% so cùng kỳ năm trước. Cùng đó, giá mặt hàng này cũng giảm khoảng 3 USD/kg, dao động 6 - 8 USD/ kg tùy kích cỡ. Nhiều ngư dân cho biết nguồn cung dồi dào nhưng lượng tiêu thụ tôm đỏ chững lại do nhu cầu suy yếu ở một số thị trường, đặc biệt là châu Á, do phải cạnh tranh gay gắt với TTCT nuôi có giá rẻ hơn.
Tôm hùm đá miền Nam Úc đã trở lại thực đơn tại Trung Quốc, với gần 400 tấn, trị giá 33,5 triệu USD, được xuất khẩu trong tháng 1/2025. Bộ trưởng Thương mại và Đầu tư, Joe Szakacs cho biết con số này tương đương 60% mức kỷ lục 70 triệu USD của năm 2019. Lệnh cấm thương mại đối với mặt hàng này được dỡ bỏ vào tháng 12/2024, kết thúc bốn năm hạn chế. Nam Úc đã xuất khẩu kỷ lục 886 tấn tôm hùm tươi sống qua sân bay Adelaide.
Nhập khẩu tôm của Mỹ đã khởi đầu năm mới đầy ấn tượng với 71.301 tấn (tương đương 157,026 triệu pound), trị giá 631,2 triệu USD trong tháng 1/2025, tăng 20% về khối lượng và 32% về giá trị so với 59.460 tấn (131,398 triệu pound) trị giá 476,5 triệu USD vào tháng 1/2024, theo UCN. Giá tôm nhập khẩu trung bình đạt 4,02 USD/pound, tăng 11% so mức 3,62 USD/pound ghi nhận vào cùng kỳ năm trước.
Giám sát chặt dịch bệnh
Ngay từ khi bước vào vụ tôm năm 2025, người nuôi đã phải đối mặt với khó khăn lớn đến từ dịch bệnh. Trước tình hình trên, ngành chức năng các địa phương đang triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm kiểm soát chặt chẽ và ứng phó hiệu quả.
Diễn biến phức tạp
Theo dự báo của các chuyên gia, 2025 tiếp tục là một năm thử thách với người nuôi tôm bởi điều kiện thời tiết cực đoan, tình hình dịch bệnh diễn biến khó lường, áp lực về chi phí thức ăn, chất lượng con giống, giá bán không ổn định. Ông Võ Văn Phục, Tổng Giám đốc Công ty CP Thủy sản sạch Việt Nam (VinaCleanfood), cho biết: “Tình hình nuôi tôm đầu năm nay rất khó khăn, thông tin tôm thiệt hại, tôm thu hoạch sớm do dịch bệnh xuất hiện liên tục. Nguyên nhân một phần do thời tiết rất thất thường, cùng đó, chất lượng con giống chưa đảm bảo nên việc nuôi không được như ý”. Giá tôm 70 con/kg tại Sóc Trăng hiện tại bằng loại 40 con năm trước, tức khoảng 130.000 đồng/kg, nếu tôm có chứng nhận giá trên 130.000 đồng/kg. Bởi vậy, theo người nuôi tôm, thời điểm này, ai có tôm bán sẽ thu được lợi nhuận cao. Tuy nhiên, ngay cả các farm nuôi lớn của các doanh nghiệp, như: Vinacleanfood hay Sao Ta cũng phải hạ mức kỳ vọng ở vụ nuôi đầu tiên này. “EHP và bệnh đốm trắng diễn biến ngày càng phức tạp. Chưa năm nào mà vụ nuôi này EHP lại
bùng phát mạnh như năm nay. Nếu tình hình không được cải thiện, ngành tôm sẽ vô cùng khốn đốn”, ông Phục lo lắng.
Không chỉ ở Sóc Trăng, theo ghi nhận của phóng viên Đặc san Con Tôm, tại hầu hết các vùng nuôi ở khu vực ĐBSCL, tôm đều nhiễm dịch bệnh, chủ yếu là EHP, đốm trắng và TPD (như ở Bến Tre chủ yếu đốm trắng, Bạc Liêu, Sóc Trăng bị TPD và EHP).
Theo thông tin từ Sở Nông nghiệp và Môi trường Kiên Giang, thời tiết diễn biến bất thường, mưa trái mùa đã ảnh hưởng đến nuôi tôm do thay đổi các yếu tố môi trường. Tình hình dịch bệnh cũng diễn biến phức tạp, khó lường với các bệnh thường gặp như đốm trắng, hoại tử gan tụy cấp và bệnh do yếu tố môi trường. Đặc biệt, gần đây xuất hiện thêm bệnh TPD trên ấu trùng tôm mới thả nuôi. Trong tháng 2/2025, tỉnh ghi nhận 4,6 ha tôm nuôi bị thiệt hại do bệnh đốm trắng tại huyện An Biên.
Chậm tiến độ thả nuôi
Báo cáo của ngành nông nghiệp và môi trường các tỉnh cho thấy, đến hết tuần đầu
tháng 3/2025, ngoại trừ diện tích nuôi tôm - lúa, quảng canh cải tiến hay quảng canh về cơ bản đã thả giống xong, còn lại các mô hình nuôi thâm canh, bán thâm canh, siêu thâm canh hiện mỗi tỉnh chỉ mới thả được vài nghìn ha.
Tại tỉnh Sóc Trăng, nơi có diện tích nuôi thâm canh và bán thâm canh lớn nhất cả nước, nhưng do phần lớn đều nằm sâu trong nội đồng nên độ mặn trễ hơn. Từ đầu năm đến nay, riêng tuyến sông thuộc khu vực huyện Mỹ Xuyên có độ mặn tương đối thấp (dưới 2‰) so với hàng năm. Vì vậy, đến hết tuần đầu tháng 3, toàn tỉnh mới thả nuôi được 2.544 ha. Tuy nhiên, kết quả quan trắc gần đây cho thấy, diễn biến độ mặn trong tuần đầu tháng 3 tại nhiều nơi đã phù hợp cho việc lấy nước chuẩn bị thả nên khả năng tiến độ thả nuôi sẽ tăng nhanh từ giữa tháng 3 trở đi. Còn tại Kiên Giang, năm 2025, địa phương này có kế hoạch thả nuôi 137.050 ha tôm nước lợ, với mục tiêu tổng sản lượng 155.000 tấn tôm. Đến đầu tháng 3, diện tích thả nuôi hơn 95.165 ha, đạt 69,4% kế hoạch, và sản lượng tôm thu
Ảnh: FAUZYCHANIAGO
hoạch hơn 9.900 tấn, bằng 6,4% kế hoạch. Do tiến độ thả nuôi chậm vì độ mặn thấp và lo ngại dịch bệnh, nên một số doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh con giống đã bắt đầu đẩy mạnh chính sách khuyến mãi, với mức tặng thêm từ 50 - 100% lượng con giống đặt mua. Tuy nhiên, theo các hộ nuôi tôm, giá tôm thương phẩm đang cao, nhưng chỉ khi nào các điều kiện nuôi thuận lợi thì họ mới thả giống.
Ứng phó hiệu quả
Giá tôm từ cuối năm 2024 đến nay vẫn giữ ở mức cao, cùng với đó là độ mặn đang lên nhanh tại hầu hết các vùng nuôi trong khu vực ĐBSCL là các yếu tố thuận lợi giúp đẩy nhanh tiến độ thả giống tại các vùng nuôi trong khu vực. Tuy nhiên, với diễn biến một số dịch bệnh nguy hiểm trên tôm, như: EHP, đốm trắng, gan tụy,… đã bắt đầu xuất hiện và gây thiệt hại một số nơi, người nuôi cần hết sức thận trọng ngay từ khâu cải tạo ao nuôi đến xử lý nước, chọn con giống chất lượng từ đơn vị có uy tín,…
để đảm bảo cho vụ nuôi được thắng lợi. Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Kiên Giang Lê Hữu Toàn cho biết, tỉnh tập trung triển khai, thực hiện kế hoạch phòng, chống dịch bệnh thủy sản năm 2025, tăng cường khuyến cáo, hướng dẫn người nuôi áp dụng các giải pháp kỹ thuật để giảm thiểu tác động bất lợi của biến đổi khí hậu đến hoạt động sản xuất thủy sản.
Cùng đó, ngành chức năng theo dõi, nắm chắc tình hình, diễn biến thời tiết, khí tượng, thủy văn trên địa bàn, tăng
cường công tác quan trắc, cảnh báo môi trường vùng nuôi trồng thủy sản, kịp thời
Năm 2024, diện tích tôm bị thiệt hại do dịch bệnh là 21.726 ha, giảm 5,7% so năm 2023. Các bệnh phổ biến như hoại tử gan tụy cấp tính, đốm trắng tiếp tục diễn ra nhưng đã được kiểm soát tốt hơn nhờ vào công tác giám sát dịch bệnh chặt chẽ.
thông báo cho các ngành, địa phương và người dân biết những diễn biến bất lợi của thời tiết, môi trường và nguy cơ dịch bệnh để chủ động ứng phó, bảo vệ an toàn cho sản xuất; đồng thời, khi phát hiện dịch bệnh trên địa bàn, tập trung các giải pháp dập tắt nhanh ổ dịch, không để lây lan. Theo đó, ngành thủy sản tỉnh phối hợp với các địa phương vùng sản xuất trọng điểm tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn người dân thả nuôi đúng mùa vụ để hạn chế dịch bệnh phát sinh gây hại, đảm bảo năng suất, chất lượng; nhắc nhở người nuôi theo dõi thường xuyên khuyến cáo của cơ quan quản lý nuôi trồng thủy sản, nhất là về diễn biến thời tiết, nguy cơ dịch bệnh, chọn mua con giống chất lượng ở những cơ sở uy tín, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng để thả nuôi,… nhằm sản xuất an toàn, đạt hiệu quả kinh tế.
Tăng cường công tác kiểm tra các cơ sở về điều kiện sản xuất, kinh doanh giống, thức ăn và sản phẩm cải tạo, xử lý môi trường trong nuôi trồng thủy sản, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.
Tại Sóc Trăng, chính quyền địa phương cũng đang thực hiện rất tốt nhiệm vụ hỗ trợ người dân. Bên cạnh việc tăng cường khuyến cáo về lịch thời vụ, Chi cục Thủy sản Sóc Trăng thường xuyên thực hiện công tác quan trắc môi trường để kịp thời điều chỉnh lịch thả giống cho phù hợp với tình hình thực tế địa phương.
Ông Đỗ Văn Thừa, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Sóc Trăng, cho biết: “Chi cục đang tích cực đồng hành cùng bà con nuôi tôm. Phối hợp với liên ngành tăng cường kiểm tra điều kiện các cơ sở sản xuất, kinh doanh giống vật tư thủy sản. Đồng thời, hướng dẫn hộ nuôi đăng ký kê khai ban đầu, giám sát vùng nuôi, xử lý đối với các trường hợp thả tôm không đúng lịch thời vụ, nhằm đảm bảo điều kiện để người nuôi tôm trên địa bàn tỉnh đạt được hiệu quả cao nhất”.
AN XUYÊN
nghìn
Là ước giá trị kim ngạch xuất khẩu tôm tháng 2/2025, tăng 33,9% so cùng kỳ năm trước.
Là sản lượng TTCT tháng 2/2025, tăng 7,7% so cùng kỳ năm trước.
Là số lượng tôm giống của tỉnh Trà Vinh sản xuất hàng năm, đáp ứng khoảng 20% nhu cầu của người dân.
Là diện tích thả nuôi tôm nước lợ của tỉnh Sóc Trăng trong năm 2025.
Là số hộ dân đầu tư nuôi TTCT siêu thâm canh 2 - 3 giai đoạn tại tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
Tăng tốc và bứt phá
Khó ngay từ đầu vào
Ngày 14/2, Bộ NN&PTNT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã phối hợp với UBND tỉnh Bạc Liêu tổ chức Hội nghị “Phát triển ngành tôm nước lợ năm 2025”. Tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến cho biết: “Ngành tôm những năm qua tuy có tăng trưởng nhưng nhìn chung còn chậm và thiếu ổn định. Nguyên nhân do vẫn còn một số khó khăn chưa được giải quyết dứt điểm, nhất là về con giống kém chất lượng, môi trường ngày càng ô nhiễm và dịch bệnh diễn biến phức tạp, một số dịch bệnh chưa có phác đồ điều trị cụ thể và hiệu quả.
Tất cả làm cho tôm chậm lớn, hệ số chuyển đổi thức ăn tăng cao, tỷ lệ thành công thấp dẫn
đến giá thành sản xuất tôm Việt
Nam cao hơn các nước, hiệu
quả ngành tôm chưa đạt như kỳ vọng, giảm tính cạnh tranh”.
Đơn cử như hàng năm nước
ta có đến 78,8% TTCT bố mẹ và 56,9% tôm sú bố mẹ được đưa
vào sản xuất đến từ nguồn
nhập khẩu và khai thác tự
nhiên. Việc chưa hoàn toàn
chủ động được tôm bố mẹ dẫn
đến nguồn cung không ổn định
và tiềm ẩn rủi ro về chất lượng.
Bên cạnh đó, theo Cục Thủy sản (nay là Cục Thủy sản và Kiểm ngư), cả nước còn khoảng
19,3% cơ sở chưa được kiểm tra
cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản theo quy định của Luật Thủy sản và một số cơ sở chưa đủ điều kiện sản xuất vẫn được cấp chứng nhận kiểm dịch. Đây là những cơ sở chưa đáp ứng điều kiện, nguy cơ gây bùng phát dịch bệnh. Bên cạnh đó, thực tế hiện nay cho thấy, ô nhiễm tại một số vùng nuôi đang ngày càng nghiêm trọng, khiến cho việc nuôi tôm khó khăn hơn, tôm thiệt hại do môi trường tăng cao. Trong báo cáo tình hình thiệt hại tôm nuôi năm 2024 của Cục Thủy sản cho thấy, con số tôm nuôi thiệt hại do môi trường chiếm hơn 70% tôm
nuôi bị thiệt hại. Bên cạnh ý thức bảo vệ môi trường của người nuôi còn hạn chế, do quá trình sản xuất và sinh hoạt, do thuốc bảo vệ thực vật từ sản xuất nông nghiệp,… thì tình trạng ô nhiễm môi trường vùng nuôi còn do phần lớn hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi tôm chủ yếu vẫn dùng chung với hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, việc cấp thoát nước riêng biệt không đảm bảo và không phù hợp với yêu cầu kỹ thuật nuôi tôm.
Cơ hội để tăng tốc Dù ngành tôm đang đối mặt nhiều khó khăn, thách thức
tích cực mang lại sự kỳ vọng cho doanh nghiệp và người nuôi. Sự gia tăng kim ngạch xuất khẩu tôm trong 2 tháng đầu năm là một minh chứng. Cùng đó là sự phục hồi của một số thị trường
chính (Mỹ, Nhật, EU) khi doanh số xuất khẩu tôm đều tăng; đặc biệt là những thay đổi chính sách thuế của Mỹ đối với một số nước có thể là cơ hội cho tôm
Việt Nam ở các thị trường lớn. Ông Lê Văn Quang, Tổng
Giám đốc Công ty CP Tập đoàn
Thủy sản Minh Phú thông tin thêm: “Hiện theo tôi được
biết, trong kho của hầu hết các
nhà phân phối lớn, các doanh
nghiệp chế biến, xuất khẩu gần
như không còn tôm kích cỡ này.
Do đó, đã có khách hàng đẩy giá
mua tôm cỡ 30 con/kg lên thêm
1 USD/kg nhưng doanh nghiệp
đành từ chối vì không có tôm để
chế biến. Khả năng thiếu tôm cỡ lớn trong thời gian tới sẽ còn rất lớn do tình hình nuôi không mấy thuận lợi, nên giá tôm tới
đây sẽ còn duy trì ở mức tốt, người nuôi vẫn có lợi nhuận cao nếu đạt năng suất và đặc biệt là nuôi được về cỡ lớn”.
Một cơ hội khác được Thứ trưởng Phùng Đức Tiến dẫn chứng là hiện nay, diện tích nuôi thâm canh, siêu thâm canh chỉ mới chiếm khoảng 19,2% nhưng đóng góp đến 78,5% sản lượng, nên chỉ cần chúng ta có giải pháp, chính sách khuyến khích phát triển các mô hình nuôi tôm hiệu quả theo hướng ứng dụng công nghệ cao, nuôi tôm tuần hoàn, giảm phát thải khí nhà kính,… thì sản lượng và giá trị của ngành tôm sẽ còn lớn hơn nữa. Vì vậy, cần có những tổng kết, đánh giá để chọn mô hình phù hợp với từng điều kiện sinh thái, từng quy mô để việc nhân rộng được dễ dàng và hiệu quả.
Thắt chặt đầu vào, quan tâm vùng nuôi
Liên quan đến con giống, thức ăn thủy sản, Cục Thủy sản và Kiểm ngư xem đây là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm để đảm bảo hoàn thành kế
hoạch vụ tôm năm 2025. Theo
đó, đơn vị tiếp tục tăng cường
quản lý và kiểm tra chất lượng
giống tôm; tổ chức đánh giá, kiểm tra, chứng nhận đủ điều
kiện cho cơ sở sản xuất, ương
dưỡng giống tôm, cơ sở sản xuất thức ăn, sản phẩm xử lý cải tạo
môi trường, xử lý nghiêm các
cơ sở không tuân thủ quy định.
Phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức đợt cao điểm kiểm tra, thanh tra tại các tỉnh trọng
điểm, các cơ sở sản xuất giống, thức ăn thủy sản, sản phẩm xử
lý môi trường nuôi thủy sản để
xử lý tận gốc các cơ sở vi phạm
chất lượng, điều kiện sản xuất.
Tiếp tục triển khai các quy
định về quản lý thức ăn thủy
sản, sản phẩm xử lý môi trường
nuôi thủy sản. Thực hiện kiểm
tra duy trì các cơ sở sản xuất
giống tôm bố mẹ; kiểm tra việc
thực hiện pháp luật về giống, thức ăn tại các địa phương trọng
điểm. Bám sát, triển khai quy
chế phối hợp giữa Cục Thủy sản và Kiểm ngư và Cục Chăn nuôi - Thú y liên quan đến công tác quản lý giống thủy sản, kiểm dịch động vật thủy sản, quản lý chất xử lý môi trường thủy sản, thức ăn, phòng và chống dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản.
Theo chỉ đạo của Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, giai đoạn nuôi là khâu quan trọng nhất, có tính quyết định, nhưng cũng đang là điểm yếu nhất trong chuỗi giá trị ngành tôm nên các giải pháp cần hướng về vùng nuôi, người nuôi nhiều hơn; trong đó, giải pháp về tổ chức lại sản xuất theo hướng hợp tác và liên kết chuỗi cần đặc biệt quan tâm.
Ngoài ra, cần phối hợp chặt chẽ giữa công tác quan trắc, cảnh báo môi trường và giám sát dịch bệnh để chủ động dự báo chính xác và có cảnh báo sớm đến người nuôi. Quản lý và kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng thuốc, hóa chất, kháng sinh đảm bảo an toàn thực phẩm theo chuỗi giá trị. Thực hiện truy xuất nguồn gốc, tăng nhanh tỷ lệ cơ sở nuôi đăng ký và
ÔNG
LÊ VĂN HẲN, CHỦ TỊCH UBND
TỈNH TRÀ VINH
Phát triển vùng sản xuất tập trung
Tỉnh đã ban hành phương án phát triển ngành tôm giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Trong đó, khoa học - công nghệ là nền tảng của quá trình phát triển và là khâu đột phá để nâng cao năng suất, sản lượng, giá trị ngành tôm. Theo phương án này, Trà Vinh sẽ hình thành và phát triển vùng sản xuất tôm tập trung, với loại hình và công nghệ phù hợp, gắn với việc tổ chức lại sản xuất và đầu tư phát triển hạ tầng đồng bộ; phù hợp định hướng tái cơ cấu ngành thủy sản, ngành tôm nước lợ cả nước và quy hoạch phát triển các ngành kinh tế của tỉnh.
ÔNG NGÔ VŨ THĂNG, PHÓ CHỦ TỊCH
UBND TỈNH BẠC LIÊU Sớm giải quyết được các
Bạc Liêu là tỉnh đứng đầu khu vực ĐBSCL và là một trong những tỉnh đứng đầu cả nước trong sản xuất tôm giống chất lượng cao (chiếm hơn 50% của vùng ĐBSCL và khoảng 22% cả nước). Thời gian tới, địa phương sẽ tiếp tục thực hiện tốt các giải pháp đưa ra để sớm giải quyết được các vấn đề tồn tại về môi trường, dịch bệnh, giúp Bạc Liêu xây dựng thành trung tâm ngành công nghiệp tôm cả nước.
được cấp mã số theo quy định, phát triển diện tích nuôi tôm
đạt chứng nhận quốc tế: ASC, BAP, hữu cơ,… Phát triển nuôi tôm và các khâu trong chuỗi sản xuất tôm theo hướng công nghệ cao; áp dụng kỹ thuật, khoa học công nghệ tiên tiến, phù hợp và hiệu quả với từng phương thức
Ảnh: Đăng Khoa
nuôi, ưu tiên công nghệ tuần hoàn nước/ít thay nước, thu gom và tái sử dụng chất thải trong nuôi tôm, đáp ứng yêu cầu thị trường về bảo vệ môi trường, bảo vệ động vật và có trách nhiệm xã hội.
XUÂN TRƯỜNG
Trợ lực vốn cho ngành tôm
Mặc dù đã có những giải pháp thiết thực trong sản xuất, tuy nhiên, người nuôi tôm vẫn không thoát được cảnh được mùa mất giá và được giá thì hết tôm, trong khi doanh nghiệp lại thiếu nguyên liệu cho chế biến. Nhằm tháo gỡ những bất cập này, đã có nhiều chính sách trợ lực cho ngành tôm, trong đó, nguồn vốn đang rất được quan tâm.
Tôm ít, giá tăng, nguyên liệu thiếu
Theo quan sát trên thị trường, từ giữa tháng 8/2024, giá tôm thương phẩm ở ĐBSCL tăng khá mạnh. Giá tôm nguyên liệu tăng đột biến trong tháng 10 và tiếp tục tăng cao trong tháng 11/2024. Nguyên nhân được cho là do nguồn cung giảm, trong vụ bà con nuôi ít và dịch bệnh trên tôm vẫn tiềm ẩn. Trong khi đó, sản xuất tôm nguyên liệu từ các nước sản xuất chính trên thế giới gặp nhiều vấn đề khiến sản lượng giảm.
Đặc biệt, nhu cầu đơn hàng lớn, nên để đáp ứng xuất khẩu, các nhà máy chế biến lớn
phải tăng giá mua. Giữa tháng 11/2024, loại 50 con/kg, tăng
lên 155.000 đồng/kg. Đây là
mức giá cao nhất của tôm loại
này kể từ cuối năm 2021. Tôm
cỡ 100 con/kg thu hoạch tại
tỉnh Đồng Tháp, có giá là 85.000 - 90.000 đồng/kg. Ngay từ thời
điểm đó, các chuyên gia đã dự
đoán nguồn cung sẽ còn thiếu
hụt đến hết quý I/2025.
Tuy nhiên, bước sang năm
2025, tình hình nuôi tôm cũng
chưa thực sự như mong muốn.
Theo nhận định của nhiều chuyên gia, đầu năm, hiện tượng El Nino đang gây ra tình trạng khô hạn tại nhiều khu vực nuôi trồng thủy sản, đặc biệt
chất lượng nước bị ảnh hưởng.
Điều này có thể dẫn đến năng
suất nuôi tôm bị giảm. Trong khi đó, chi phí sản xuất tôm lại gia tăng đáng kể do nhiều yếu
tố. Giá thức ăn ở mức cao, chi phí điện năng và lao động cũng
tăng. Tất cả những yếu tố này
đã và sẽ làm cho giá thành tôm
đầu ra cao hơn, gây ảnh hưởng trực tiếp đến người nuôi cũng như thị trường tiêu thụ. Do đó, để đảm bảo sản xuất tôm được ổn định, ngoài những giải pháp về kỹ thuật, người nuôi tôm cần thêm những trợ lực lớn, trong đó, nguồn vốn là rất cấp thiết.
Phát biểu tại một hội thảo chuyên ngành tôm mới đây,
nhiều ý kiến cho rằng, để tăng sức cạnh tranh và đạt mục tiêu tăng trưởng trong năm 2025, lĩnh vực nuôi tôm cần được tạo động lực như người nuôi có thể được thế chấp, vay vốn ngân hàng một cách bình thường, cấp giấy phép mặt nước cho người dân để người dân có thể vay vốn từ các quỹ hoặc ngân hàng.
Chính sách vốn cho con tôm
Tại nghị quyết phiên họp
Chính phủ thường kỳ tháng 2 vừa qua, Chính phủ chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần nâng quy mô chương trình tín dụng đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản lên khoảng trên 100.000 tỷ đồng và mở rộng phạm vi, đối tượng tham gia. Ngay sau đó, ngày 04/3/2025, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Văn bản số 1545/NHNN-TD về việc nâng quy mô Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản và mở rộng phạm vi thành Chương trình đối với lĩnh vực nông, lâm, thủy sản. Nội dung công văn nêu rõ, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị 05/CT-TTg ngày 01/03/2025 về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, đột phát thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, bảo đảm mục tiêu tăng trưởng cả nước năm 2025 đạt 8% trở lên, trong đó giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ đạo các tổ chức tín dụng nghiên cứu nâng quy mô Chương trình cho vay đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản lên khoảng 100.000 tỷ
Chương trình đối với lĩnh vực
nông, lâm, thủy sản. Để triển khai nhiệm vụ trên, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam có ý kiến như sau: 1. Các Ngân hàng: NN&PTNT, TMCP Đầu tư và Phát triển Việt
Nam, TMCP Công thương Việt Nam, TMCP Ngoại thương Việt
Nam, TMCP Lộc Phát, TMCP Sài
Gòn Thương Tín, TMCP Quân đội, TMCP Á Châu, TMCP Nam Á, TMCP
Phương Đông, TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam, TMCP Bản Việt, TMCP Sài Gòn - Hà Nội, TMCP
Việt Nam Thương tín, TMCP Phát triển Hồ Chí Minh tiếp tục nâng quy mô Chương trình cho vay đối với lĩnh vực lâm sản, thủy
sản theo hướng dẫn của NHNN
tại Văn bản 5631/NHNN-TD ngày 14/7/2023 và mở rộng đối
tượng, phạm vi tham gia thành
Chương trình tín dụng đối với
lĩnh vực nông, lâm, thủy sản
trên cơ sở đánh giá tình hình sản xuất, kinh doanh của khách hàng thuộc lĩnh vực nông, lâm, thủy sản và khả năng mở rộng tín dụng của Ngân hàng. Các Ngân hàng thương mại khác có nhu cầu tham gia Chương trình, có văn bản đăng ký gửi về NHNN (gồm các nội dung: số tiền đăng ký tham gia; lãi suất áp dụng).
Trước đó, gói tín dụng lâm, thủy sản được xây dựng với trị giá 15.000 tỷ đồng vào giữa tháng 7/2023. Sau đó, đến cuối năm 2023 nâng lên 30.000 tỷ đồng và sang năm 2024 nâng lên 60.000 tỷ đồng với lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất thương mại từ 1 - 1,5%/năm, nên tốc độ giải ngân rất nhanh chóng. Và với việc nâng mức lên 100.000 tỷ đồng, sẽ là cơ hội rất lớn để doanh nghiệp và người nuôi tiếp cận nhằm duy trì sản xuất.
Ông Nguyễn Đức Lệnh, Phó giám đốc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam chi nhánh Khu vực 2 cho biết, việc nâng quy mô của gói tín dụng cho vay lĩnh vực nông, lâm, thủy sản sẽ là điều kiện thuận lợi để thúc đẩy nhóm ngành này tiếp tục tăng trưởng và phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
BẢO HÂN
Ngày 23/01/2025, Phó
Thủ tướng Chính phủ Trần
Hồng Hà ký Quyết định số
222/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2035. Một trong các nhiệm vụ của Kế hoạch là: Hỗ trợ thúc đẩy áp dụng kinh tế tuần hoàn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, bao gồm: Hỗ trợ thực
hiện thiết kế sinh thái để đạt tiêu chí của kinh tế tuần hoàn; Hỗ trợ áp dụng, phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn trong sản xuất, kinh doanh; Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, áp dụng công nghệ số, công nghệ thân thiện với môi trường, kỹ thuật hiện có tốt nhất để thực hiện kinh tế tuần hoàn. Trong đó, nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản là một trong 10 lĩnh vực ưu tiên thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2030. Quyết định này có hiệu lực thi hành từ ngày ký ban hành.
Ngày 10/02/2025, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) đã gửi công văn số 11/CV-VASEP tới Bộ NN&PTNT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), đồng kính gửi
Cục Thủy sản (nay là Cục
Thủy sản và Kiểm ngư) về việc khơi thông thủ tục xuất
khẩu nguyên liệu ruốc vào
thị trường EU. Cụ thể, trong thời gian qua, theo phản ánh
của một số doanh nghiệp thủy sản, tất cả các lô hàng chế biến từ nguyên liệu ruốc đều
không thể xuất khẩu được sang EU do bất cập trong việc
cấp Giấy xác nhận nguyên liệu khai thác (S/C) và Giấy chứng nhận nguồn gốc thủy sản khai thác (C/C). Con ruốc (tên khoa học là Acetes japonicus, tên tiếng Anh là Akiami paste shrimp) là loài hải sản đặc thù được ngư dân khai thác gần bờ
VĂN BẢN MỚI
bằng các thuyền thúng nhỏ, không cần giấy phép khai thác và không phải lắp đặt thiết bị VMS (do là thuyền < 15 m), đa phần cập cảng vào bãi ngang, không phải cập nhật vào phần mềm eCDT. Do đó, các lô hàng chế biến từ nguyên liệu này đều không đủ điều kiện được cấp giấy S/C và giấy C/C để xuất khẩu sang châu Âu theo quy định hiện hành. Trong khi đó, sản lượng ruốc là khá lớn ở các tỉnh miền Trung và miền Nam, khách hàng châu Âu lại có nhu cầu lớn về mặt hàng này. Để gia tăng giá trị cho nghề khai thác ruốc truyền thống, duy trì sinh kế cho ngư dân, cũng như tạo điều kiện cho việc xuất khẩu sản phẩm ruốc sang EU không bị ách tắc, Hiệp hội trân trọng đề nghị xem xét ưu tiên đưa nội dung này vào kế hoạch trao đổi, làm việc với EC và có văn bản gửi EC đề nghị xem xét đưa con ruốc vào danh mục nêu tại Phụ lục I của Quy định (EC) 1005/2008 (Annex I, Council Regulation (EC) No 1005/2008) nhằm giúp các lô hàng chế biến từ nguyên liệu này được miễn trừ thực hiện các quy định về IUU của Quy định (EC) 1005/2008.
Ngày 18/02/2025, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) ký Quyết định số 708/QĐ-BNNKHCN ban hành Danh mục tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp. Trong đó, lĩnh vực tôm nuôi bao gồm các tiến bộ kỹ thuật sau: Quy trình sản xuất giống tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) toàn đực (Viện Nghiên cứu NTTS II); Quy trình nuôi tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) toàn đực bán thâm canh (Viện Nghiên cứu NTTS II); Giải pháp tối ưu hóa dinh dưỡng trong nuôi TTCT (Litopenaeus vanname) thâm
canh giảm giá thành sản xuất, bảo vệ môi trường theo quy trình Grofarm (Công ty TNHH Grobest Industrial Việt Nam). Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký ban hành.
Ngày 26/02/2025, Cục trưởng Cục Thủy sản Trần Đình Luân (nay là Cục Thủy sản và Kiểm ngư) ban hành Giấy chứng nhận số 323/ GCN-TS-KHCN&HTQT đăng ký hoạt động chứng nhận. Cụ thể, Cục Thủy sản chứng nhận Công ty TNHH GLOBAL CERT (GC-A) (Địa chỉ: quận Cái Răng, TP Cần Thơ) đã đăng hoạt động chứng nhận đối với ngành NN&PTNT trong lĩnh vực thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý cải tạo môi trường nuôi trồng thủy sản, bao gồm: Thức ăn hỗn hợp; Thức ăn bổ sung; Thức ăn tươi, sống; Nguyên liệu sản xuất thức ăn thủy sản; Sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản (hóa chất, chế phẩm sinh học); Sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản (hỗn hợp khoáng, hỗn hợp vitamin). Số đăng ký: CN 139 - 25 BNN. 3. Giấy chứng nhận này có hiệu lực 5 năm kể từ ngày ký.
Ngày 26/02/2025, Cục Thủy sản (nay là Cục Thủy sản và Kiểm ngư) ban hành Giấy Chứng nhận số 327/GCN-TS-KHCN&HTQT
đăng ký hoạt động chứng nhận sản phẩm phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam về nông nghiệp hữu cơ. Cụ thể, Cục Thủy sản chứng nhận: Công ty TNHH Dịch vụ và Chứng nhận ACERT (huyện Gia Lâm, TP Hà Nội) đã đăng ký hoạt động chứng nhận về nông nghiệp hữu cơ đối với 2 sản phẩm gồm: Tôm hữu cơ và rong biển hữu cơ. Mã số đăng ký: CN 104 - 25 BNN. Giấy chứng nhận này có hiệu lực 5 năm kể từ ngày ký.
Xuất khẩu tôm khởi sắc
Xuất khẩu tôm hai tháng đầu năm 2025 đạt 542,387 triệu USD, tăng 30,8% so cùng kỳ năm trước. Ngành tôm đang lấy lại đà tăng trưởng sau giai đoạn giá thấp kéo dài trong năm 2023 - 2024.
Tăng trưởng ấn tượng
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, xuất khẩu thủy sản trong tháng 2 và hai tháng đầu năm tăng trưởng vô cùng ấn tượng. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản tháng 2/2025 đạt 655,197 triệu USD, tăng 42,6% so cùng kỳ năm trước. Tính chung 2 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu thủy sản Việt Nam đạt tổng kim ngạch hơn 1,42 tỷ USD, tăng trưởng 18,2% so cùng kỳ năm trước.
Trong đó, tôm tiếp tục là điểm sáng lớn nhất, đóng góp 542,387 triệu USD trong 2 tháng đầu năm, tăng trưởng 30,8% so cùng kỳ năm trước. Riêng tháng 2/2025, kim ngạch xuất khẩu tôm đạt 231,406 triệu USD, tăng 33,9% so cùng kỳ. Sự phục hồi này cho thấy, ngành tôm đang lấy lại đà tăng trưởng sau giai đoạn giá thấp kéo dài trong năm 2023 - 2024.
Theo VASEP, dù nhập khẩu từ Trung
Quốc và Mỹ giảm trong năm 2024, các thị
trường khác như EU và một số khu vực mới nổi đã bù đắp khoảng trống, giúp sản xuất tôm toàn cầu duy trì ổn định trong khi giá cả cải thiện. Đây là dấu hiệu của sự cân bằng lành mạnh hơn giữa cung và cầu. EU hiện là thị trường đáng chú ý với lượng nhập khẩu TTCT tươi đông lạnh và chế biến giá trị gia tăng đạt 376.875 tấn trong năm 2024, tăng 4% so năm 2023. Xu hướng tăng trưởng dài hạn rõ ràng khi lượng nhập khẩu năm 2024 cao hơn 26% so năm 2019, chủ yếu nhờ sự đóng góp từ Ecuador (tăng 78%) và Ấn Độ (tăng 47%).
Việt Nam cũng ghi nhận sự phục hồi một phần trong nguồn cung sang EU, củng cố vị thế trong nhóm các nhà cung cấp hàng đầu. Tuy nhiên, cạnh tranh ngày càng gay gắt từ Ecuador và Ấn Độ đòi hỏi Việt Nam phải tập trung vào các sản phẩm giá trị gia tăng và đa dạng hóa thị trường để duy trì lợi thế.
“Triển vọng năm 2025 cho ngành tôm khá lạc quan, miễn là các yếu tố bất ổn như chiến tranh thương mại dưới thời chính quyền Tổng thống Trump không gây thêm gián đoạn. Giá nhập khẩu trung bình tăng từ tháng 10/2024 và dự kiến duy trì ở mức cao trong suốt năm 2025 nhờ tồn kho ổn định, mang lại niềm tin cho cả nhà xuất khẩu và nhập khẩu”, bà Lê Hằng, Giám đốc Truyền thông VASEP nhận định.
Mục tiêu 4,3 tỷ USD
Năm 2025, Cục Thủy sản và Kiểm ngư đề ra mục tiêu diện tích tôm nuôi đạt 750.000 ha, sản lượng tôm các loại từ 1,3 đến 1,4 triệu tấn (trong đó, TTCT trên 1 triệu tấn), kim ngạch xuất khẩu từ 4 đến 4,3 tỷ USD. Ông Trần Đình Luân, Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư khẳng định, năm 2025, ngành tôm có thể
Giá nhập khẩu
Huy Phan
do kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn so với dự báo do xung đột ở nhiều nơi trên thế giới; giá vật tư, xăng dầu tiếp tục tăng cao; sản lượng tôm toàn cầu tiếp tục tăng và đạt khoảng 6,1 triệu tấn (năm 2023 đạt 5,7 triệu tấn); cạnh tranh giữa các nước sản xuất tôm (Ecuador, Ấn Độ và Trung Quốc) vẫn gay gắt.
Bên cạnh những khó khăn, Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư nhận định, năm 2025 đã có những tín hiệu tích cực hơn như sự phục hồi của một số thị trường chính (Mỹ, Nhật Bản, EU) khi doanh số xuất khẩu tôm Việt Nam đều tăng; đặc biệt là những thay đổi về chính sách thuế của Mỹ đối với một số nước như Ecuador, Trung Quốc có thể là cơ hội xuất khẩu cho Việt Nam ở thị trường lớn nhất của tôm Việt Nam.
Dự báo nguồn cung tôm nước lợ toàn cầu
có thể giảm trong quý I/2025 nhưng tiếp tục tăng đạt 6,1 triệu tấn trong năm 2025, nhu cầu của tăng ở thị trường Mỹ (14%) và EU (11%) trong khi sản xuất tôm Trung Quốc
đang chững lại, Indonesia đang giảm trong năm 2023 - 2024 và có thể dần khôi phục trở lại là thách thức cũng là cơ hội cho ngành tôm Việt Nam trong năm 2025.
Để đạt mục tiêu trên, Cục Thủy sản và
Kiểm ngư đề nghị các địa phương bố trí đủ nguồn lực, tài chính, nhân lực; ưu tiên hạ tầng thủy lợi, điện, giao thông đầu mối cho vùng nuôi tôm trọng điểm, tạo điều kiện thuận lợi phát triển ngành tôm địa phương.
Thực hiện có hiệu quả công tác quan trắc, cảnh báo môi trường để kịp thời khuyến cáo, cảnh báo cho người nuôi; hướng dẫn các biện pháp phòng chống dịch bệnh, thực hiện tốt các giải pháp kỹ thuật để nuôi tôm hiệu quả, giảm thiểu tối đa thiệt hại cho người nuôi.
Các địa phương cần tổ chức tuyên truyền, phổ biến cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh giống thủy sản thực hiện đầy đủ các quy định của Luật Thủy sản và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này; theo dõi diễn biến của thời tiết, nhu cầu của thị trường kịp thời tham mưu chỉ đạo sản xuất nuôi trồng thủy sản để đạt các mục tiêu kế hoạch năm nay.
Cùng với đó, phát triển nuôi tôm và các khâu trong chuỗi sản xuất tôm theo hướng công nghệ cao; áp dụng kỹ thuật, khoa học công nghệ tiên tiến, phù hợp và hiệu quả với từng phương thức nuôi, ưu tiên công nghệ tuần hoàn nước, ít thay nước, thu gom và tái sử dụng chất thải trong nuôi tôm, đáp ứng yêu cầu của thị trường về bảo vệ môi trường, bảo vệ động vật và có trách nhiệm xã hội.
ĐÔNG PHONG
Cơ hội và thách thức từ thị
trường Anh
Xuất khẩu tôm sang Anh tiếp tục duy trì đà tăng trưởng tích cực. Hai hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với Anh là CPTPP và UKVFTA đã và đang mở ra nhiều cơ hội cũng như thách thức với
ngành tôm Việt Nam.
Trong tháng 1/2025, xuất khẩu tôm Việt
Nam sang thị trường Anh đạt hơn 16 triệu USD, tăng 8% so cùng kỳ năm trước. Anh hiện là thị trường đơn lẻ lớn thứ sáu nhập khẩu
tôm từ Việt Nam, chiếm 5,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam sang các thị trường quốc tế. Đặc biệt, tôm chiếm tỷ trọng cao nhất, lên tới 70%, trong tổng xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào quốc gia này.
Các sản phẩm tôm chủ lực được Việt Nam xuất khẩu sang Anh bao gồm: TTCT bóc vỏ, bỏ đuôi đông lạnh, TTCT PD đông lạnh, TTCT hấp, luộc đông lạnh, TTCT tươi, đông lạnh và TTCT tẩm bột xù.
Dù xuất khẩu tôm Việt Nam sang Anh trong những năm qua không ổn định, với sự tăng giảm thất thường, nhưng Anh vẫn được coi là thị trường quan trọng nhờ các ưu đãi trong quan hệ thương mại song phương giữa hai nước. Từ năm 2018 đến 2024, xuất khẩu tôm sang Anh đạt đỉnh vào năm 2020 với hơn 243 triệu USD, sau đó giảm dần và chạm đáy vào năm 2023. Năm 2024, xuất khẩu tôm có dấu hiệu phục hồi với hơn 212 triệu USD. Bước sang tháng đầu năm 2025, xuất khẩu tôm sang Anh tiếp tục duy trì đà tăng trưởng tích cực từ năm 2024. Hiện, Việt Nam đã tham gia hai hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với Vương quốc Anh là CPTPP và UKVFTA. Sự kết hợp giữa nội dung và cách tiếp cận của hai hiệp định này tạo cơ hội lớn cho doanh nghiệp hai nước trong việc thúc đẩy thương mại và đầu tư, đặc biệt là xuất khẩu tôm sang Anh.
Tôm chiếm khoảng 10% tổng lượng tiêu thụ thủy sản tại Anh. Trong lĩnh vực nhà hàng và dịch vụ ăn uống, tôm là nguyên liệu phổ biến, được sử dụng trong khoảng 61% các cơ sở kinh doanh tại quốc gia này. Đặc biệt, tôm cũng được ưa chuộng trong các nhà hàng Ấn Độ và Trung Quốc, qua các món ăn như cuốn, súp, há cảo, màn thầu,... Việt Nam hiện vẫn giữ vị thế là nhà cung cấp tôm lớn nhất tại Anh. Thế nhưng, cũng giống như nhiều thị trường trọng điểm khác, tôm Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt về giá với tôm từ Ấn Độ và Ecuador. Với lợi thế từ các hiệp định thương mại tự do, tôm Việt Nam có lợi thế cạnh tranh hơn so với các đối thủ như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines, Ấn Độ, Brazil,... Tuy nhiên, để được hưởng mức thuế ưu đãi, sản phẩm thủy sản Việt Nam phải đáp ứng các yêu cầu về nguồn gốc xuất xứ, tính bền vững và trách nhiệm xã hội.
Người tiêu dùng Anh luôn ưu tiên các sản phẩm đạt tiêu chuẩn cao về chất lượng, nguồn gốc rõ ràng, bền vững, thân thiện với môi trường và tiện dụng. Do đó, để mở rộng thị phần thủy sản, đặc biệt là tôm, tại thị trường này, doanh nghiệp Việt Nam cần đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng, mẫu mã, hình thức và khẩu vị. Đồng thời, cần đầu tư vào nâng cao năng lực sản xuất, quản lý chất lượng và nắm vững các quy định của thị trường. BĂNG SƯƠNG
Xuất khẩu tôm sang Mỹ giảm
Thông tin từ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản (VASEP), xuất khẩu tôm sang Mỹ trong tháng 1/2025 giảm 13% đạt 36 triệu USD. Xuất khẩu tôm sang thị trường này vẫn phải đối mặt với những rủi ro về các quyết định về thuế chống trợ cấp và thuế chống bán phá giá. Hơn nữa, Tổng thống Trump mới nhận chức, chưa thể đoán định được các chính sách thuế quan mới của ông đối với các nước. Trong thời gian chờ đợi này có thể các doanh nghiệp xuất khẩu và các nhà nhập khẩu Mỹ sẽ tranh thủ thúc đẩy mạnh giao thương. Thời gian tới, doanh nghiệp cần đẩy mạnh đa dạng hóa thị trường như mở rộng xuất khẩu sang EU, Nhật Bản, ASEAN,…; tập trung vào phân khúc tôm chế biến cao cấp để tạo giá trị gia tăng và luôn chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm.
Xuất khẩu tôm hùm sang Trung Quốc tăng mạnh
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản (VASEP), xuất khẩu tôm Việt Nam mở đầu năm 2025 tăng 28% đạt kim ngạch 311 triệu USD. Xuất khẩu tăng chủ yếu do nhu cầu tăng từ thị trường Trung
Quốc phục vụ cho Tết Nguyên đán. Trong đó những mặt hàng tươi sống như tôm hùm được các doanh nghiệp Trung Quốc quan tâm cho phân khúc tiêu thụ cao cấp. Riêng tôm hùm xuất khẩu sang Trung
Quốc đã đạt tới 70 triệu USD, chiếm gần một nửa tổng xuất khẩu thủy sản sang Trung Quốc và gấp 9 lần so cùng kỳ. Tuy vậy, xuất khẩu các mặt hàng thông dụng như TTCT, tôm sú sang Trung Quốc tháng tới có thể sẽ chững lại vì sẽ phải cạnh tranh với những sản phẩm thủy sản của thị trường nội địa khi thị phần tại Mỹ bị ảnh hưởng.
THANH HÓA
Ngư dân Hoằng Hóa được mùa
moi biển
Đầu tháng 3/2025, tại bờ biển các xã Hoằng Thanh, Hoằng Trường (huyện Hoằng Hóa), vào mỗi buổi sáng, có rất nhiều bè mảng cập bờ, chở đầy ắp moi biển (hay gọi là ruốc hoặc tép biển). Theo các ngư dân tại đây, moi biển thường theo luồng vào bờ nên chỉ cần đánh bắt ở khoảng cách từ 5 - 10 hải lý, sau vài tiếng có thể thu được hàng tạ moi. Anh Nguyễn Văn Long (xã Hoằng Trường) cho biết: “Bè mảng đánh bắt moi của tôi xuất phát từ 3h sáng, đến khoảng 8 - 9h cùng ngày sẽ trở về bờ với khoảng 2 tạ moi tươi. Với giá bán hiện nay vào khoảng 15.000 đồng/kg moi tươi, sau khi trừ hết chi phí, ước tính có lãi gần 2 triệu đồng”. Khi bè moi vừa cập bờ, các thương lái đã chờ sẵn để thu gom và mang tới các chợ truyền thống để bán. Ngoài bán ở chợ, thương lái còn bỏ mối cho các cơ sở chế biến, nhà hàng để làm ruốc khô, mắm tôm, mắm chua.
KHÁNH HÒA
Tôm hùm rớt giá, người nuôi thua lỗ
Từ sau Tết Nguyên đán đến nay, giá tôm xuống thấp khiến người nuôi tại Khánh Hòa thua lỗ nặng. Trước Tết Nguyên đán, giá tôm hùm xanh thương phẩm còn ở mức 800.000 đồng/kg, loại 3 - 4 con/ kg; hiện chỉ còn 680.000 đồng/kg. Trong khi giá con giống cao, giá thức ăn đắt đỏ, chi phí nhân công cũng tăng khiến người nuôi gặp khó khăn. Được biết, xuất khẩu tôm hùm thương phẩm sang thị trường này vẫn tương đối thuận lợi, sản lượng xuất khẩu vẫn tăng nhưng giá bán thấp do có sự cạnh tranh rất lớn với các nước khác. Ngoài ra, thị trường nhập khẩu này cũng có một số thay đổi, như: kiểm soát chất lượng, thị hiếu nhập tôm cỡ nhỏ hơn để phù hợp với giá tiền, do đó tôm cỡ lớn giảm giá mạnh.
BẾN TRE
Nông dân phấn khởi vì giá tôm tăng
Hiện nay, giá tôm nguyên liệu tại tỉnh Bến Tre tăng cao, khoảng 180.000 - 210.000 đồng/kg (loại 25 - 30 con/kg), tăng gần gấp đôi so cùng kỳ năm trước. Nông dân phấn khởi vì giá tôm tăng trở lại sau thời gian xuống giá. Theo ông Lê Văn Sấm, xã Thạnh Hải, huyện Thạnh Phú, từ cuối năm 2024 đến đầu năm 2025, với 20 ha diện tích ao nuôi, ông Sấm thu hoạch hơn 100 tấn tôm thương phẩm, giá bán dao động từ 180.000 - 200.000 đồng/kg, lợi nhuận thu về hơn 5 tỷ đồng. Giá tôm nguyên liệu tăng cao do “cầu vượt cung”, tỷ lệ tôm bị dịch bệnh hao hụt nhiều dẫn đến sản lượng tôm thương phẩm giảm; trong khi đó nhu cầu tiêu thụ tăng mạnh.
KIÊN GIANG
Nhu cầu tôm giống tăng mạnh
Từ đầu năm 2025 đến nay, thị trường tôm giống tại các vùng nuôi tôm trọng điểm của tỉnh Kiên Giang trở nên sôi động hơn, bởi đây là thời điểm đầu vụ, nhu cầu tôm giống tăng mạnh. Theo khảo sát tại một số huyện trên địa bàn, giá tôm gia hóa ở mức từ 159 - 168 đồng/post đối với tôm sú và 128 - 138 đồng/post đối với TTCT dòng siêu tăng trưởng, tương đương với mức giá cùng kỳ các năm 2023, 2024. Các doanh nghiệp cũng đưa ra nhiều ưu đãi nhằm khuyến khích người dân nuôi tôm chọn mua như mua 1, tặng 1 đối với TTCT, khuyến mãi 20% đối với tôm sú gia hóa. Bên cạnh tôm sú, sức mua giống tôm càng xanh toàn đực cũng tăng mạnh do đang trong cao điểm thả nuôi, giá dao động từ 130 - 140 đồng/con, tăng 20 - 40 đồng/con so tháng trước.
BẠC LIÊU
Giá tôm nguyên liệu dần phục hồi
Sau một thời gian dài rớt giá, hiện giá tôm nguyên liệu đã có dấu hiệu phục hồi trở lại, giúp người nuôi tôm phấn khởi và yên tâm khi bắt tay vào vụ nuôi mới. Cụ thể, giá tôm nguyên liệu (TTCT, tôm sú) tăng từ 5.000 - 10.000 đồng/kg. Tôm TTCT kiểm kháng sinh, ướp đá ao bạt loại 30 con được thương lái thu mua với mức giá từ 185.000188.000 đồng/kg; loại 40 con/kg có giá 145.000 đồng; loại 90 con/ kg có giá 98.000 đồng,… Với mức giá này, sau khi trừ các khoản chi phí người nuôi tôm vẫn có lãi khá. Dự báo của các chuyên gia, thị trường đang có dấu hiệu hồi phục khá tích cực. Để nắm bắt cơ hội này, bên cạnh việc thả giống, chăm sóc cũng cần chú ý đến quy trình sản xuất để đảm bảo tôm nguyên liệu an toàn, sạch bệnh, đáp ứng tốt các yêu cầu của thị trường.
CÀ
MAU
Nguồn cung nguyên liệu thiếu khiến giá tôm cao
Tại Cà Mau, trong những ngày giữa tháng 2/2025 giá nguyên liệu tôm sú cỡ 20 con/kg ổn định ở mức 285.000 đồng/kg, trong khi cỡ 30 con/kg tăng 5.000 đồng/kg so những ngày giữa tháng 01/2025. Giá nguyên liệu TTCT cỡ 20 con/kg đạt 265.000 đồng/kg, tăng 3.000 đồng/ kg so những ngày giữa tháng 1/2025. Theo thương lái thu mua tôm, hiện nay nhu cầu thị trường tiêu thụ trong nước tăng, bên cạnh đó các nhà máy tăng lượng thu mua tôm nguyên liệu đáp ứng xuất khẩu. Tuy nhiên đang vào thời điểm nghịch vụ nên sản lượng giảm, nguồn cung khan hiếm làm cho giá thu mua tôm tăng cao.
ANH VŨ (Tổng hợp)
Giá TTCT Ecuador giảm mạnh tại Trung Quốc
Giá tôm Ecuador tại Trung Quốc tiếp tục xu hướng giảm do nhu cầu chững lại sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán. Tại cảng Thiên Tân, tôm 30/40 Brine-IQF (đóng gói 1,5 kg) hiện được giao dịch ở mức 370 CNY (51,64 USD), giảm từ 385 CNY vào ngày 10/2 và 410 CNY vào ngày 23/1, tương đương mức giảm 10% trong một tháng. Giá CFR từ các nhà cung cấp Ecuador cũng giảm theo. Tôm Brine-IQF 30/40 có giá 4,75 USD/kg vào ngày 14/2, thấp hơn mức 4,85 USD/kg vào ngày 10/2. Một số nhà đóng gói vẫn giữ giá ổn định trong ngắn hạn nhưng đã giảm theo thời gian. Chẳng hạn, một lô tôm Brine-IQF 30/40 (đóng gói 1,65 kg) có giá 5,21 USD/kg vào ngày 17/2, không đổi so với ngày 5/2 nhưng thấp hơn mức 5,71 USD/kg vào ngày 8/1.
ẤN
Giá TTCT duy trì ổn định
Giá TTCT tại ao ở Ấn Độ gần như không thay đổi trong tuần 8 (17/2 - 23/2) do lượng cung ứng bổ sung vẫn chưa đáng kể. Tại bang Andhra Pradesh - vùng nuôi trọng điểm của Ấn Độ, dữ liệu từ
Aquaconnect cho thấy giá tôm đã nhích nhẹ trong tuần 9, với tôm cỡ 50 con/kg tăng từ 375 INR (4,30 USD/kg) lên 380 INR/kg, cỡ 60 con/kg lên 350 INR/kg, cỡ 70 con/kg lên 330 INR/kg, trong khi cỡ 40 con/kg giảm nhẹ từ 415 INR xuống 410 INR/kg. Dữ liệu lịch sử từ
Aquaconnect cho thấy giá tôm thường giảm mạnh vào tháng 3 khi vụ thu hoạch đầu tiên của năm bắt đầu, nhưng hiện tại giá vẫn cao hơn cùng kỳ 2023 và 2024, dù thấp hơn đỉnh điểm của năm 2022 khi các nhà chế biến Ấn Độ khan hiếm nguồn cung do ảnh hưởng của COVID-19.
TRUNG QUỐC
Thị trường tôm phục hồi trong tuần 9 (24/2 - 1/3)
Sau đợt giảm sút hậu Tết Nguyên đán, giá TTCT tại Trung Quốc đã bật tăng mạnh trong tuần 8 nhờ nguồn cung thắt chặt. Tại Phúc Kiến và Quảng Tây, giá tôm cỡ 60 con/kg phục hồi lên 40 CNY (5,52 USD/kg) trở lên. Giang Tô ghi nhận mức tăng mạnh hơn, với tôm cùng cỡ đạt 46 CNY/kg, cao nhất trong các tỉnh. Ngược lại, giá tại Quảng Đông gần như không thay đổi, vẫn thấp hơn đáng kể so với các khu vực khác. Mặc dù nhu cầu chưa quá sôi động, thị trường vẫn được hỗ trợ bởi nguồn cung tôm lớn khan hiếm do lượng thả giống đầu năm thấp hơn cùng kỳ. Dự báo, sản lượng thu hoạch từ các trại nuôi trong nhà kính tại Giang Tô đang giảm, trong khi khu vực Đại Thượng Hải có thể thiếu hụt nguồn cung trong hai tháng tới. Điều này có thể giúp giá tôm duy trì xu hướng tăng trong ngắn hạn.
Giảm nhập khẩu TTCT do nhu cầu suy yếu
Nhập khẩu tôm của Trung Quốc năm 2024 đạt 6,8 tỷ USD, giảm 10% so năm trước. Trong khi nhập khẩu từ Việt Nam tăng, Trung Quốc lại giảm mua từ các nguồn cung khác. Tôm hùm đá và các loại tôm biển khác trở thành nhóm nhập khẩu lớn thứ hai, tăng 39%, trong khi tôm nước ấm, gồm TTCT đông lạnh, lại giảm. Xuất khẩu tôm Ecuador sang Trung Quốc giảm 14%, còn 3 tỷ USD, trong khi TTCT Việt Nam sang Trung Quốc - Hồng Kông giảm 5%, xuống gần 305 triệu USD. Xu hướng này phản ánh sức mua giảm của tầng lớp trung lưu Trung Quốc. Doanh nghiệp xuất khẩu cần tận dụng lợi thế ở phân khúc cao cấp như tôm hùm, đồng thời đẩy mạnh quảng bá và kích cầu các sản phẩm truyền thống như TTCT, tôm sú.
THÁI LAN VÀ INDONESIA
Giá tôm lập đỉnh mới trong hai năm
Giá TTCT tại Thái Lan và Indonesia tiếp tục xu hướng tăng trong tuần 8 (17 - 23/2), với Thái Lan dẫn đầu thị trường về giá trị. Giá TTCT tại Thái Lan tăng lên 175 THB/kg đối với cỡ 60 con/kg và 152,50 THB/kg đối với cỡ 80 con/kg, trong khi cỡ 70 con/kg giữ nguyên ở 170 THB/kg. Đây là mức giá cao nhất theo tuần được ghi nhận trong hai năm qua. Tại Indonesia, thị trường tại đảo Java Timur - vùng nuôi chính - đang có xu hướng ổn định đến tăng nhẹ, theo xu hướng chung của Đông Nam Á. Dữ liệu từ nền tảng công nghệ nuôi tôm Jala cho thấy giá tôm tại ao ở khu vực này đã tăng lên 70.000 IDR/kg đối với cỡ 40 con/kg và 62.000 IDR/kg đối với cỡ 70 con/kg, trong khi các cỡ còn lại duy trì mức giá đã được thiết lập từ giữa tháng 1.
Giá TTCT nhích nhẹ trong tuần 8 (17 - 23/2)
Trong tuần 8 (17 - 23/2), giá TTCT tại Indonesia ghi nhận mức tăng nhẹ sau đợt giảm hai tuần trước đó, theo dữ liệu từ nền tảng công nghệ nuôi tôm Jala. Tại một số kích cỡ phổ biến, giá trung bình đạt 73.200 IDR/kg (30 con/kg); 68.300 IDR/kg (40 con/kg); 64.300 IDR/kg (50 con/kg) và 61.100 IDR/kg (60 con/kg). Các kích cỡ nhỏ hơn cũng tăng nhẹ, với 70 con/kg đạt 58.700 IDR/kg; 80 con/kg giá 55.400 IDR/kg; 90 con/kg là 53.500 IDR/kg và 100 con/kg là 52.200 IDR/kg. Về khu vực, giá tôm tại Đông Java giữ ổn định, trong khi Tây Java tăng ở tất cả các kích cỡ, với 30 con/kg đạt 74.250 IDR/kg; 40 con/kg là 72.000 IDR/kg; 60 con/kg giá 63.500 IDR/kg; 80 con/kg là 57.750 IDR/kg và 100 con/kg giá 54.000 IDR/kg.
CANADA
New Brunswick lo ngại tác động từ thuế 25% của Mỹ
Ngành tôm hùm New Brunswick, Canada đứng trước nguy cơ biến động mạnh nếu Mỹ áp thuế 25% vào tháng 3 này, sau thời gian hoãn 30 ngày. Hiện 75% tôm hùm đông lạnh của New Brunswick xuất khẩu sang Mỹ, chiếm 50% nguồn cung toàn cầu. Nếu thuế được áp dụng, các nhà nhập khẩu Mỹ có thể giảm thu mua, kéo giá xuống và gây bất ổn
thị trường. Ngành tôm hùm của Canada và Mỹ có chuỗi cung ứng gắn kết chặt chẽ. Tôm hùm từ Maine thường được vận chuyển sang Canada để chế biến, do đó thuế quan có thể ảnh hưởng tiêu cực đến cả hai bên. Dù Trung Quốc là thị trường lớn thứ hai, nhưng chủ yếu nhập tôm hùm sống, trong khi New Brunswick chuyên về sản phẩm đông lạnh.
MỸ
Nhập khẩu tôm năm 2024 giảm
Mỹ nhập khẩu 762.804 tấn tôm trị giá gần 6,1 tỷ USD trong năm 2024, giảm 3% về khối lượng và 6% về giá trị so năm 2023. Ấn Độ vẫn là nhà cung cấp lớn nhất, chiếm 39% thị phần, với 294.333 tấn trị giá 2,2 tỷ USD, giảm nhẹ so năm trước. Ecuador và Indonesia, lần lượt là nguồn cung lớn thứ hai và ba, cũng ghi nhận mức giảm từ 8 - 9% về khối lượng và giá trị. Ngược lại, Việt Nam xuất khẩu 69.295 tấn, trị giá 691,6 triệu USD, tăng 13% về khối lượng và 6% về giá trị. Giá nhập khẩu trung bình của Mỹ giảm mạnh từ mức cao nhất 4,73 USD/pound (tháng 4/2022) xuống 3,57 USD/pound (tháng 3/2024), nhưng đã phục hồi lên 4,01 USD/pound vào tháng 12. Giá tôm từ Việt Nam đạt 4,95 USD/pound, cao nhất trong nhóm nhà cung cấp chính. Sang tuần 6 (3 - 9/2), thị trường tôm Mỹ tương đối ổn định.
LAN KHUÊ
INDONESIA
Tương lai của di truyền TTCT
Những tiến bộ về di truyền đã trở thành yếu tố cốt lõi để ngành tôm giải quyết các vấn đề quan trọng như quản lý sức khỏe, nâng cao năng suất và đảm bảo tính bền vững của môi trường.
Dòng tôm cân bằng với tốc độ tăng trưởng cao và khả năng kháng bệnh mạnh mẽ Ảnh: Shrimpinsight
3 xu hướng di truyền
Di truyền tôm ở khu vực Mỹ Latinh và châu Á đã phát triển theo những hướng riêng, do khác biệt về hệ thống nuôi, áp lực dịch bệnh và điều kiện môi trường. Tại Mỹ Latinh và châu Á, nơi các mô hình thâm canh từng chiếm ưu thế, trọng tâm chủ yếu là lai tạo các dòng tôm có khả năng chống chịu dịch bệnh, đặc biệt là các dòng tôm kháng bệnh (SPR). Tuy nhiên, tôm SPR thường có tốc độ tăng trưởng chậm hơn so với các giống khác.
Ngược lại, châu Á chuộng mô hình nuôi thâm canh hơn do diện tích đất canh tác nhỏ và nhu cầu tối đa hóa sản lượng trên mỗi ha. Tôm bố mẹ sạch bệnh (SPF) trở thành nền tảng trong các chiến lược an toàn sinh học nhằm hạn chế sự xâm nhập của các dịch bệnh như virus đầu vàng và đốm trắng. Giống SPF ưu tiên tốc độ tăng trưởng nhanh, tôm đạt kích thước thu hoạch sớm hơn và rút ngắn thời gian tiếp xúc với mầm bệnh.
Tôm SPF thiếu khả năng chống chịu về
mặt di truyền để đối phó với các mầm bệnh mới, và thường phải hy sinh tốc độ tăng
trưởng để đảm bảo khả năng sống sót. Hơn nữa, nỗ lực đưa các dòng tôm châu Á tăng trưởng nhanh vào Mỹ Latinh hoặc các dòng tôm Mỹ Latinh có khả năng chống bệnh sang châu Á đã cho kết quả không đồng nhất, do các giống này chưa thích nghi với điều kiện của từng khu vực.
Để thu hẹp khoảng cách này, ngành công nghiệp đã chuyển hướng sang phát triển các dòng tôm cân bằng với tốc độ tăng trưởng tối ưu bằng cách lai chéo giữa các gia hệ có tốc độ tăng trưởng nhanh và khả năng kháng bệnh cao. Tuy nhiên, điều này thường dẫn đến sự biến động lớn và hiệu suất không ổn định. Các dòng cân bằng được tạo ra thông qua quy trình chọn lọc nghiêm ngặt qua nhiều thế hệ.
Dòng tôm cân bằng đã tạo đột phá trong di truyền TTCT. Chúng đáp ứng đồng thời hai yêu cầu quan trọng trong nuôi tôm gồm tăng trưởng và khả năng thích nghi, giúp người nuôi ở nhiều khu vực khác nhau đạt năng suất cao trong điều kiện nuôi đa dạng. Sự đổi mới này nhấn mạnh vai trò then chốt của các chương trình chọn giống dài hạn dựa trên khoa học, nhằm đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao và đảm bảo lợi nhuận bền vững cho ngành nuôi tôm.
Đổi mới hệ gen và kiểu hình
Những tiến bộ trong chọn lọc hệ gen đã cách mạng hóa các chương trình di truyền, thúc đẩy sự ra đời của các dòng cân bằng với tốc độ tăng trưởng cao và khả năng kháng bệnh mạnh mẽ. Bằng cách sử dụng hàng chục nghìn biến thể SNP kết hợp các đánh giá kiểu hình, các chương trình lai tạo ngày nay đạt được độ chính xác cao, giảm nguy cơ cận huyết, và đảm bảo kết quả ổn định qua nhiều thế hệ.
Các chương trình lai tạo tiên tiến tích hợp hài hòa giữa chọn lọc kiểu hình và chọn lọc bộ gen. Để lựa chọn di truyền hiệu quả, việc đo lường phản ứng kiểu hình phải chính xác, nhất quán và đáng tin cậy. Trong khi các công cụ di truyền giúp nâng cao độ chính xác của quá trình chọn lọc, thì việc đánh giá kiểu hình chặt chẽ đảm bảo các tính trạng mong muốn được biểu hiện trong điều kiện nuôi trồng thực tế. Hãng tôm giống SyAqua đang xây dựng cơ sở dữ liệu theo dõi hiệu suất tôm khắp
châu Á. Thông qua hợp tác với một mạng
lưới ngày càng mở rộng gồm các công ty công nghệ, nhà cung cấp con giống và người nuôi, cơ sở dữ liệu này sẽ không ngừng phát triển, cung cấp những thông tin quan trọng về cách các chiến lược di truyền được
chuyển hóa thành lợi nhuận thực tế cho các trang trại thương mại.
Chiến lược kép này giúp đẩy nhanh tiến bộ di truyền bằng cách nhắm mục tiêu chính xác vào các tính trạng tăng trưởng, kháng bệnh và khả năng thích nghi với môi trường thông qua “Chỉ số chọn lọc”. Chỉ số chọn lọc cho phép lựa chọn đồng thời nhiều tính trạng trong các dòng cân bằng, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Từ đó, phát triển một dòng giống vững chắc, có khả năng thích nghi với nhiều điều kiện nuôi khác nhau.
Cuộc cách mạng
di truyền học
Dòng cân bằng đã trở thành giải pháp
đột phá cho bài toán nan giải giữa tăng
trưởng và khả năng kháng bệnh. Thông qua hơn một thập kỷ chọn lọc bộ gen và kiểu
hình chuyên sâu, các dòng này đã được tối
ưu hóa để kết hợp tốc độ tăng trưởng vượt
trội với sự bền bỉ trong những môi trường
khắc nghiệt.
Cụ thể, giống tôm cân bằng đạt tốc độ tăng trưởng cải thiện 44% trong 5 năm; Khả năng kháng Vibrio parahaemolyticus
- tác nhân gây hội chứng chết sớm (EMS), tăng 22%; Tỷ lệ sống đạt tới 88% trong chu kỳ nuôi 100 ngày, ngay cả trong điều kiện bất lợi.
Ngành nuôi tôm không ngừng phát triển, đối mặt với những thách thức như quản lý dịch bệnh, hiệu quả thức ăn, khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu và tính bền vững môi trường. Để đáp ứng những yêu cầu này, các chiến lược di truyền đang tập trung vào tăng cường khả năng chống chịu dịch bệnh, cải thiện hiệu suất chuyển đổi thức ăn và phát triển các giống tôm có khả năng thích nghi tốt với điều kiện môi trường khắc nghiệt.
Các công nghệ tiên tiến, bao gồm trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (big data), đang mở ra những mô hình dự đoán giúp cải tiến các chương trình lai tạo, tạo ra các công cụ chính xác để hỗ trợ nông dân tối đa hóa lợi nhuận và giảm tác động môi trường. Sự kết hợp giữa nguồn gen ưu việt, công nghệ sản xuất tiên tiến và các phương pháp quản lý hiện đại sẽ mở ra một kỷ nguyên mới của ngành nuôi tôm chính xác và bền vững.
TUẤN MINH
CHÂU ÂU
Công
nghệ AI hỗ trợ nuôi tôm trên cạn
Nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành nuôi tôm trên cạn tại châu Âu, Viện Alfred Wegener phối hợp cùng Oceanloop đã khởi động một dự án tích hợp trí tuệ nhân tạo (AI) để nâng cao hiệu suất vận hành trang trại.
Trong quá trình nuôi tôm, nông dân thường xuyên phải vớt tôm ra khỏi nước để cân và kiểm tra tình trạng sức khỏe của chúng. Việc này gây căng thẳng cho tôm và ảnh hưởng đến phúc lợi động vật. Hơn nữa, do độ đục của nước, gần như không thể phát hiện sớm các dấu hiệu căng thẳng hay bệnh tật ở tôm nuôi.
Trước các thách thức nói trên, Viện Alfred Wegener (AWI) đã triển khai Dự án ShrimpWiz, hợp tác với Oceanloop - đơn vị tiên phong trong lĩnh vực nuôi tôm trong nhà tại châu Âu. Các chuyên gia của AWI và Oceanloop cùng phát triển hệ thống sử dụng phần mềm thị giác máy tính dựa trên trí tuệ nhân tạo (AI) để đếm số lượng tôm trong hình ảnh. Trong điều kiện nuôi thực tế và theo thời gian thực, hệ thống này còn có thể xác định chiều dài của tôm với độ chính xác lên đến 95%.
Nguyên mẫu đầu tiên đã được thử nghiệm tại trang trại nghiên cứu và phát triển của Oceanloop ở Kiel, Đức. Một chiếc điện thoại thông minh tiên tiến được lắp đặt trên mặt nước tự động chụp ảnh tôm mỗi phút một lần và truyền dữ liệu đến máy chủ.
Tại đây, các thuật toán thị giác máy tính
đếm số lượng tôm trong từng bức ảnh và đo chiều dài của chúng. Nhóm nghiên cứu thậm chí còn có thể phát hiện các dấu hiệu căng thẳng trực quan ở tôm thông qua hình ảnh chất lượng cao và các mô hình xử lý ảnh dựa trên AI thế hệ mới nhất. Không giống như mô hình nuôi ao truyền thống, hệ thống của Oceanloop sử dụng nước trong để nuôi tôm. Nhờ đó, các hệ thống này đặc biệt phù hợp với công nghệ thị giác máy tính, điều mà nhóm nghiên cứu đã chứng minh trong các nghiên cứu trước đây. Trong khi đó, do nước trong các hệ thống ao truyền thống có độ đục cao, việc theo dõi trực quan tình trạng sức khỏe
của động vật gần như không thể thực hiện được, dù bằng mắt thường hay bằng thị giác máy tính. Tiến sĩ Stephan Ende, điều phối viên của dự án tại AWI, tin rằng công nghệ nước trong chính là chìa khóa để đảm bảo phúc lợi động vật trong ngành nuôi trồng thủy sản thâm canh.
Theo dõi tôm bằng phần mềm thị giác máy tính giúp người nuôi có thể giám sát chính xác và không xâm lấn, đảm bảo phúc lợi động vật và năng suất suốt vụ nuôi. “Công nghệ nước trong kết hợp với phần mềm cảnh báo sớm các vấn đề liên quan đến phúc lợi có thể là bước khởi đầu cho việc ghi nhãn phúc lợi khách quan hơn trong ngành công nghiệp tôm của tương lai”, Ende cho biết trong một thông cáo báo chí.
Đại diện Oceanloop cho rằng, việc phát triển phần mềm dựa trên AI không chỉ là cơ hội nâng cao phúc lợi động vật mà còn giúp tăng hiệu quả nuôi tôm. Công nghệ này có thể thúc đẩy quá trình số hóa ngành công nghiệp nuôi tôm trong nhà, giúp duy trì giá bán lẻ ở mức ổn định như hiện nay.”Chứng minh tính khả thi kỹ thuật của các giải pháp AI là mắt xích quan trọng nhất để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng và các bên liên quan về một ngành nuôi tôm bền vững và tuân thủ các tiêu chuẩn phúc lợi động vật”, Ende kết luận.
VŨ ĐỨC (Theo Thefishsite)
NHUYỄN THỂ KRILL
Chiến lược dinh dưỡng quản lý
EHP
Các chiến lược dinh dưỡng thông qua tăng cường sức đề kháng bằng bột và dầu nhuyễn thể krill
sẽ góp phần giảm thiểu đáng kể tác động của dịch bệnh do vi bào tử trùng (EHP) trên tôm.
Tăng cường sức
đề kháng
Chiến lược dinh dưỡng là công cụ đắc lực giúp tăng cường sức đề kháng của tôm trước dịch bệnh EHP và ngăn ngừa tác động của bệnh ngay từ đầu. Bổ sung nhuyễn thể (krill) vào khẩu phần ăn là một phương pháp đầy hứa hẹn. Những bước tiến về công nghệ thu hoạch và chế biến krill hiện nay đã tạo ra các sản phẩm giá trị và phù hợp cho thức ăn tôm, bao gồm bột nhuyễn thể (KM) và dầu nhuyễn thể (KO). KM và KO giàu dinh dưỡng, chứa các chất dẫn dụ, giúp tăng cường sức khỏe và cải thiện lượng ăn của tôm. Không chỉ giàu protein chất lượng cao và các axit amin tự do thiết yếu, KM còn chứa hàm lượng cao phosphatidylcholine
(PC). Ngoài ra, các axit béo omega-3 trong KM, như EPA và DHA còn hỗ trợ chức năng tế bào, tăng cường khả năng chịu căng thẳng và nâng cao miễn dịch. Hơn nữa, astaxanthin có trong KM và KO còn đóng vai trò như một chất dẫn dụ, giúp cải thiện độ ngon miệng và lượng ăn.
Một nghiên cứu đã khám phá tác động của phụ gia KM và KO trong khẩu phần ăn đối với TTCT bị nhiễm EHP. Trong thử nghiệm kéo dài 10 tuần, tôm được cho ăn các chế độ dinh dưỡng khác nhau, bao
gồm chế độ ăn đối chứng dương (POS), 3% KM (KM3), 10% KM (KM10) và 2% KO (KO2) (Aker BioMarine). Sau giai đoạn nuôi ban đầu kéo dài 35 ngày, tôm được thử thách với EHP. Ngoài ra, một nhóm đối chứng âm
(được cho ăn chế độ đối chứng) không bị nhiễm EHP (NEG). Vào cuối nghiên cứu, tôm được cho ăn khẩu phần có bổ sung 10% KM và 2% KO cho thấy những cải thiện đáng kể. Tôm trong hai nhóm này có trọng lượng thân tăng lên so với nhóm bị nhiễm bệnh (POS), nhóm đối chứng không nhiễm bệnh (NEG) và nhóm được bổ sung 3% KM.
Tính toàn vẹn tế bào và duy trì năng lượng
Hoạt động của tế bào R trong tuyến gan tụy các nhóm tôm bổ sung krill được tăng cường, đây là một chỉ số định tính về khả năng hấp thụ, tiêu hóa và dự trữ chất dinh dưỡng. Ngược lại, nhóm đối chứng NEG được cho ăn chế độ tiêu chuẩn không bổ sung krill, lại biểu hiện tình
trạng giảm không bào hóa, cho thấy tác động tích cực của nhuyễn thể đối với chức năng của tuyến gan tụy. Các sản phẩm từ nhuyễn thể krill có tiềm năng giảm thiểu ảnh hưởng của EHP trên tôm. Giá trị dinh dưỡng cao, giàu axit béo omega-3 và chất chống ôxy hóa của nhuyễn thể đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường hệ miễn dịch, thúc đẩy sự phát triển cũng như cải thiện sức khỏe và chức năng tuyến gan tụy của tôm.
Mức KO tương đương trong khẩu phần ăn chứa 10% KM và 2% KO, cùng những tác động tích cực tương tự của chúng, cho thấy tầm quan trọng của axit béo omega-3 trong việc kiểm soát tình trạng nhiễm EHP ở tôm. Sự có mặt của PC trong KM và KO cũng góp phần bảo vệ tôm trước những tổn thương và tình trạng thiếu dinh dưỡng do EHP gây ra, nhờ khả năng hỗ trợ duy trì tính toàn vẹn của tế bào và dự trữ năng lượng. Điều này phù hợp với các nghiên cứu trước đây, trong đó khẳng định lợi ích của chế độ ăn chứa nhuyễn thể trong việc cải thiện chức năng của tuyến gan tụy. Các axit béo omega-3 trong dầu nhuyễn thể đã được chứng minh khả năng thay đổi hệ vi sinh đường ruột và củng cố hàng rào miễn dịch đường ruột, điều này đặc biệt quan trọng do tác động của EHP đến hệ vi khuẩn đường ruột. Ngoài ra, đặc tính kích thích miễn dịch của nhuyễn
Nguồn tài nguyên krill dồi dào và có xu
thể còn được thể hiện qua sự gia
tăng biểu hiện của các gen liên
quan đến miễn dịch.
Việc bổ sung nhuyễn thể vào khẩu phần ăn của tôm thúc đẩy đường ruột khỏe hơn, hỗ trợ hấp thụ dinh dưỡng tốt hơn và nâng
cao sức khỏe tổng thể của tôm.
Các sản phẩm bổ sung từ nhuyễn thể mang lại tiềm năng lớn như một giải pháp tự nhiên và hiệu quả trong việc quản lý EHP trong nuôi tôm.
Định hình ngành nuôi tôm bền vững hơn
Kết quả của nghiên cứu gần
đây đã nhấn mạnh tiềm năng
của nhuyễn thể trong chế độ ăn, giúp hỗ trợ dinh dưỡng cho tôm bị nhiễm EHP. Tác động tích cực
của các sản phẩm này cho thấy
cần xem xét lại các phương pháp
cho ăn truyền thống, vì nhuyễn thể góp phần nâng cao năng
suất và tính bền vững của mô hình nuôi tôm.
Nghiên cứu này đặt nền tảng cho việc khám phá sâu hơn cách giảm thiểu tác động của EHP
đối với tăng trưởng của tôm. Các nghiên cứu tiếp theo nên tập trung xác định tỷ lệ bổ sung tối ưu của các sản phẩm từ krill cho từng loài và giai đoạn phát triển của tôm, đặc biệt trong điều kiện nuôi trồng. Đồng thời, cần làm rõ cơ chế mà các sản phẩm từ nhuyễn thể cải thiện tốc độ tăng trưởng, nhấn mạnh vai trò của axit béo omega-3 và phosphatidylcholine (PC) trong việc bảo vệ sức khỏe tuyến gan tụy và ruột của tôm bị nhiễm EHP.
Ngành dinh dưỡng vẫn đang nỗ lực tìm kiếm các giải pháp bền vững và tự nhiên hơn để kiểm soát dịch bệnh. Những kết quả quan sát được khi bổ sung nhuyễn thể cho thấy một sự chuyển dịch sang các chiến lược toàn diện hơn, dựa trên dinh dưỡng trong nuôi trồng thủy sản, có thể thay đổi các phương pháp truyền thống và nâng cao tính bền vững của ngành nuôi tôm trên toàn cầu.
DŨNG NGUYÊN (Theo Aquafeed)
3 yếu tố lựa chọn thức ăn
chức năng giai đoạn ương
Độ tiêu hóa protein cao
Thức ăn dạng nhỏ được sản
xuất bằng công nghệ vi đùn lạnh
có mức độ tiêu hóa protein cao, trực tiếp hỗ trợ sự tăng trưởng
của tôm giống. Quá trình chế
biến thức ăn ở nhiệt độ thấp từ
70 - 80°C giúp giảm sự biến tính
của protein và hạn chế thất thoát vitamin trong thức ăn.
Một thử nghiệm in vitro do nhóm ADM thực hiện vào năm 2021 cho thấy, thức ăn sản xuất bằng công nghệ đùn lạnh đạt tỷ lệ tiêu hóa protein lên đến 92,5%, so với thức ăn đùn thông thường chỉ đạt 87,7 - 91%. Khi
được kết hợp với quá trình tạo hạt hình cầu, thức ăn đồng nhất về kích thước và hình dạng, khả năng tiếp nhận thức ăn của ấu trùng tôm được tối ưu hóa.
Độ ổn định cao trong nước
Một lợi ích khác của phương pháp ép đùn lạnh và tạo hình cầu là giúp duy trì độ ổn định trong nước, đồng thời giảm thiểu rò rỉ chất dinh dưỡng ra môi trường, góp phần cải thiện chất lượng nước trong trại giống và ao ương. Đặc biệt, trong giai đoạn đầu đời
của tôm, sự thay đổi thường xuyên về chất lượng nước và môi trường có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng và hiệu suất phát triển.
Hỗ trợ giảm căng thẳng và tăng miễn dịch
Pichia guilliermondii là một loại nấm men mới với hình thái, cấu trúc đặc biệt và các thành phần hoạt tính sinh học trong thành tế bào.
Trong thí nghiệm của một nghiên cứu do ADM thực hiện tại Thái Lan, TTCT sạch bệnh, trọng lượng ban đầu 6,5 g, được nuôi trong bể 2,5 m³ và cho ăn theo hai chế độ: khẩu phần đối chứng và khẩu phần bổ sung 0,18% P. guilliermondii theo cữ 5 lần/ ngày trong 28 ngày.
Vào cuối giai đoạn cho ăn, một mẫu gồm 15 con tôm từ các nhóm được gây nhiễm Vibrio harveyi, sau 3 giờ tiến hành đo nồng độ tổng số tế bào máu. Số lượng tế bào máu hạt trong huyết dịch của tôm được cho ăn P. guilliermondii tăng đáng kể (P< 0,05). Đồng thời, số lượng tế bào Vibrio harveyi còn lại trong huyết dịch sau ba giờ thách thức cũng giảm đáng kể so với tôm
được cho ăn khẩu phần đối chứng (P< 0,05).
Tỷ lệ tế bào máu dạng hạt ở tôm được cho ăn khẩu phần có bổ sung P. guilliermondii cao hơn đã chứng minh khả năng miễn dịch được kích hoạt sẵn và phản ứng hiệu quả hơn trước các thách thức mầm bệnh.
Do đó, men bất hoạt P. guilliermondii có tác động tích cực đến hệ miễn dịch bẩm sinh và đáp ứng của tôm, thông qua cơ chế thúc đẩy sự phát triển của lợi khuẩn trong đường ruột và đẩy nhanh cũng như tăng cường phản ứng viêm khi nhiễm bệnh.
Hiện trên thị trường đã có WeaN Prime, dòng thức ăn cho giai đoạn ương được ADM đặc chế với các phụ gia gồm P. guilliermondii, bột cá, bột nhuyễn thể, protein đậu Hà Lan, bột lúa mì, khô đậu nành, lecithin đậu nành và dầu cá. Công thức tiên tiến này đã được chứng minh giúp cải thiện tốc độ tăng trưởng và hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR), ngay cả trong điều kiện có mầm bệnh hoặc căng thẳng. VŨ ĐỨC (Theo Asia Pacific Aquaculrure)
Ảnh: Globalseafood
trùng
Dấu hiệu nhận biết bệnh do vi bào tử trùng - EHP
- Có nhiều đốm trắng đục trên cơ thể tôm.
- Tôm bị lỏng ruột, phân đứt khúc, đường ruột bị cong, xoắn lò xo.
- Tôm bị phân trắng, chết rải rác và có thể chết lên đến 10 kg/ngày sau 1 tuần nhiễm EHP.
Cách xử lý tôm bị phân trắng
có yếu tố vi bào tử trùng
Tình trạng ao tôm trước khi xử lý: Khách hàng dự định sẽ thu tôm vào ngày sau (đã thu ao trước đó), nhưng sau khi xem xét, đánh giá về sức khỏe tôm và môi trường nước, Công ty Thái Nam Việt đã đề nghị giữ lại để xử lý ngăn chặn bệnh EHP.
Ngày bắt đầu: 11/07/2022
Ao 6.000 m3, thả 500.000 post, lượng ăn ban đầu 50 kg/ngày (do đó lượng tôm hao hụt do bệnh nhiều).
Tôm 49 ngày tuổi, size 150 con/kg.
Tôm bị nhiễm EHP kéo theo phân trắng với các biểu hiện: đục cơ thân, ốp, ruột xoắn, kích cỡ không đồng đều.
Kết quả
- Sau 1 ngày: Tôm sáng bóng hơn, phần cơ bị đục chuyển sang màu sáng, ruột giảm cong xoắn, lên mồi nhẹ.
Các sản phẩm vi sinh - ch ế ph ẩ m sinh h ọ c dùng trong quy trình Thái Nam Việt
- Sau ngày 3: Đáy ao không còn đen, chuyển sang bùn xám, tôm khỏe hơn, hết xoắn ruột, lượng ăn tăng lên 54 kg/ngày.
- Sau ngày 7: Tôm khỏe, ruột gan đen và đầy, lượng ăn 75 kg/ngày, nước màu trà trong, đáy dẻ, bùn xám.
Sau đó dùng định kỳ
- Ngày 31/08/2022: Sau 51 ngày dùng vi sinh để ức chế ngăn chặn phân trắng, kết quả thu tôm:
Tôm 100 ngày, lượng ăn 100 kg/ngày.
Tôm sáng bóng, chắc khỏe, màu đẹp.
Thu hoạch được 4,1 tấn.
Tỷ lệ sống 89,65% (tính từ lúc bắt đầu dùng vi sinh của Thái Nam Việt).
Tôm không đồng đều do ảnh hưởng của EHP. Lợi nhuận hơn 200 triệu (có giảm do dùng kháng sinh nhiều trong 49 ngày đầu).
Kết luận
Vi bào tử trùng l à m suy gi ả m ch ứ c năng c á c cơ quan gan t ụ y, mô tôm,… v à l à cơ hội cho các bệnh khác tấn công, gây ra thiệt hại rất lớn cho người nuôi. Việc xử lý s ớ m kịp thời, chính xác và toàn diện sẽ giúp ngăn chặn được sự tiến triển mạnh mẽ của EHP cũng như các bệnh khác, giúp giảm thiểu thiệt hại cho tôm. Bằng kinh nghiệm thực tế cùng với các sản phẩm chất lượng cao, Công ty Thái Nam Việt tin rằng có thể hỗ trợ đưa người nuôi về đích, mang lại một vụ mùa thành công.
Thông tin liên hệ: Công ty TNHH Công nghệ - Kỹ thuậtSinh hóa Thái Nam Việt Địa chỉ: 126 Lã Xuân Oai, phường Tăng Nhơn Phú A, TP Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh
ĐT: 0888 59 63 66
Email: info@thainamviet.com
Website: thainamviet.com
Sau 3 ngày xử lý Xi phông bùn xám
Giảm chi phí sản xuất con giống nhờ áp dụng di truyền học
Các quốc gia châu Mỹ và châu Á đã tăng cường sản xuất tôm mà không có sự gia tăng tương ứng
về nhu cầu, dẫn đến giá cả giảm thấp trong nhiều thập kỷ. Việc đầu tư vào các chiến lược và công cụ liên quan đến cải tiến gen giúp nâng cao hiệu quả sản xuất tôm và duy trì tính cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt trong sản xuất con giống.
Tác động của chọn lọc di truyền
Cải thiện gen có thể tăng cường đáng kể hiệu quả sản xuất tôm bằng cách chọn lọc các cá thể có tốc độ tăng trưởng nhanh, khả năng kháng bệnh tốt và thích nghi với các điều kiện môi trường.
Cải tiến gen ở tôm không chỉ giới hạn
ở giai đoạn tăng trưởng và vỗ béo mà còn
có tác động đến các thông số sinh sản như số lần đẻ mỗi chu kỳ và số lượng trứng, ấu trùng. Điều này giúp nâng cao chất lượng nguồn tôm bố mẹ, giảm chi phí và tăng lợi nhuận về lâu dài.
Nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng, cải thiện tần suất sinh sản có thể được di truyền với tỷ lệ từ 15% - 37%; cải thiện số lượng trứng và ấu trùng tương ứng khoảng 17% - 26% và 18%.
Thông tin về hệ gen cũng giúp người nuôi hạn chế tình trạng giao phối cận huyết trong nguồn tôm bố mẹ, điều này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ lệ tăng trưởng và sống sót. Mặc dù tác động của cận huyết đối với các thông số sinh sản chưa được nghiên cứu rộng rãi, nhưng yếu tố này cũng gây ra những ảnh hưởng đáng kể. Sự gia tăng 10% trong cận huyết làm giảm tỷ lệ thụ tinh của trứng từ 3% - 26.0% và giảm số lượng ấu trùng từ 2.9% - 24.6%. Quản lý cận huyết thông qua giám sát di truyền và các phép lai chiến lược là rất cần thiết.
Các chương trình chọn lọc gen của CAT
Trung Tâm Công Nghệ Thủy sinh (CAT) chuyên thực hiện các chương trình cải tiến gen được thiết kế phù hợp với đặc điểm và nhu cầu của khách hàng và thị trường. Các chương trình này sử dụng chỉ thị di truyền và thông tin về hệ gen học để tạo dữ liệu cho các chương trình chọn lọc hàng loạt, phả hệ hoặc chọn lọc theo bộ gen, nhằm cải thiện đặc tính hình thái chính cho khách hàng. Các bước để thiết lập một chương trình cải thiện gen:
1. Xác định mục tiêu: Xác định các đặc tính cần cải thiện như tốc độ tăng trưởng, khả năng kháng bệnh, hiệu quả sinh sản.
2. Đánh giá cơ bản: Thực hiện đánh giá tổng quan về di truyền (GO) để xác định sự đa dạng di truyền hiện có, mức độ cận huyết và các mối quan hệ trong quần thể tôm.
3. Chọn các dấu hiệu di truyền: Lựa chọn các dấu hiệu di truyền phù hợp (các bảng SNP) để theo dõi các biến thể di truyền và hướng dẫn chọn lọc.
4. Thiết kế chương trình: Phát triển chiến lược nhân giống bao gồm chọn lọc đại trà, nhân giống theo gia đình hoặc chọn lọc bộ gen dựa trên mục tiêu và nguồn lực.
5. Triển khai: Bắt đầu chọn lọc và nhân giống dựa trên các dấu hiệu và đặc tính mong muốn.
6. Giám sát và điều chỉnh: Liên tục giám sát tiến độ và điều chỉnh chương trình nhân giống để đảm bảo cải thiện liên tục và bền vững.
Cải thiện gen giúp tăng cường hiệu quả sản xuất và duy trì tính cạnh tranh trong ngành công nghiệp tôm. Bằng cách tập trung vào việc sản xuất những con giống khỏe mạnh, kháng bệnh tốt với các thông số sinh sản tốt, ngành công nghiệp có thể giải quyết những thách thức hiện tại và đảm bảo một tương lai bền vững.
CAT có thể giúp thiết lập một phương
pháp cải thiện gen toàn diện, mang lại lợi ích cho các nhà sản xuất bằng cách giảm chi phí, tăng lợi nhuận và thúc đẩy sản xuất tôm bền vững.
CARLOS PULGARIN, MARCOS DE DONATO, ALEJANDRO GUTIERREZ
Các dự án nghiên cứu tại CAT tiếp tục đẩy mạnh giới hạn của di truyền tôm. Bao gồm việc chọn lọc gen và công nghệ chỉnh sửa hệ gen để nâng cao hiệu quả cho quá trình lai tạo. Bằng cách tập trung vào các đặc tính liên quan đến tỷ lệ tăng trưởng, kháng bệnh và hiệu quả sinh sản. Những nỗ lực này nhằm cải thiện chất lượng sản xuất tôm, cho phép thực hiện các sửa đổi DNA của tôm để tăng cường các đặc điểm mong muốn. Các phòng thí nghiệm nghiên cứu, như tại CAT ở San Diego, đang đi đầu trong việc phát triển các công nghệ này, với tiềm năng tạo ra một cuộc cách mạng hóa ngành nuôi tôm trong tương lai gần.
SEVEN HILLS
Gieo chất lượng - gặt thành công
Seven Hills là nhà phân phối độc quyền tại Việt Nam của Tập đoàn thuốc và thức ăn bổ sung thủy sản Lexington, có nhà máy tọa lạc ở Singapore và văn phòng đại diện tại TP Hồ Chí Minh. Các phân khúc sản phẩm tập trung bao gồm: 1) Quản lý môi trường nước ao nuôi; 2) An toàn sinh học; 3) Chống stress; 4) Tăng cường hệ miễn dịch; 5) Dinh dưỡng bổ sung tổng hợp, tăng cường hấp thu và thúc đẩy tăng trưởng trên tôm/cá.
Hiện tại Seven Hills đã và đang phân phối các dòng sản phẩm được phản hồi tích cực về hiệu quả trên ao nuôi thực tế, giúp gặt hái liên tiếp nhiều vụ nuôi thành công trong thời gian vừa qua cho bà con vùng nuôi. Tiêu biểu như là men vi sinh Prolot Aqua , mật độ cao trên 10^10 cfu, bao gồm 9 loài probiotics khác nhau giúp xử lý ao nuôi hiệu quả. Đưa ao nuôi có mức NO 2/NO 3 mức 5 về 0 chỉ trong 1 nhịp đánh sau 1 ngày nhờ bộ đôi vi sinh Nitrosomonas và Nitrobacter. Men vi sinh thể hệ mới Virban , giúp tiêu diệt > 95% vi khuẩn gây bệnh Vibrio trong ao tôm, giúp ao nuôi trở nên an toàn về mặt sinh học, tiếp cận an toàn để thay thế các chất sát khuẩn và kháng sinh, phòng và kiểm soát hiệu quả các bệnh như hội chứng chết sớm/hoại tử gan tụy cấp, phân trắng, phát sáng, TPD,... trên tôm gây ra bởi Vibriosis , giữ cho ao nuôi được sạch, hết nhớt, tôm khỏe mạnh. Cả hai loại men trên đều có khả năng hoạt động tốt trong điều kiện thời tiết lạnh (>15 0C), rộng độ mặn (345‰) và pH (5 - 9), được tuyển chọn và phân lập trực tiếp trong ao nuôi thủy sản, giúp chúng kích hoạt nhanh chóng khi tiếp xúc với nước ao nuôi. Dinh dưỡng bổ
sung tổng hợp Aqua GP giúp bù đắp các thông số dinh dưỡng thiếu hụt trong quá trình nuôi như khoáng đa lượng/vi lượng, vitamins, men vi sinh đường ruột và hai amino axit vô cùng quan trọng Methionin và Lysin giúp bảo vệ hệ gan và tăng hấp thu đạm từ thức ăn hiệu quả hơn, từ đó giúp tôm, cá tăng trưởng nhanh, đồng đều về kích cỡ, phòng tránh được các bệnh do thiếu hụt dinh dưỡng thiết yếu gây ra. Đặc biệt, Aqua GP giúp tôm lột xác mạnh, đồng đều về kích cỡ, hết cong thân – đục cơ –mềm vỏ. Khoáng tạt Aquimin Shrimp , hàm lượng khoáng cao, pha trộn tỷ lệ cân bằng, tôm dễ dàng hấp thụ qua vỏ để lột xác hiệu quả, ổn định độ kiềm trong ao.
Algacop giúp kiểm soát tảo độc gây hại trong ao nuôi, đồng thời tiêu diệt ngoại ký sinh trùng giúp tôm, cá khỏe mạnh. Ngoài ra, tập đoàn Lexington còn sản xuất thêm các sản phẩm thảo dược giúp bảo vệ gan như Optiliv , chống stress Lex Aqua C hay tăng cường hệ miễn dịch Immuno Force , khoáng hữu cơ Chelmin Aqua và men tiêu hóa Liquizym Aqua đang được triển khai tại thị trường Việt Nam nói riêng và các khu vực Đông Nam Á nói chung. Để tiếp đà mở rộng và phát triển trong năm 2025, Seven Hills đang tiến hành tuyển dụng nhân sự cùng đồng hành trong việc xây dựng thương hiệu trong nước với các vị trí từ tư vấn viên thị trường đến nhân sự cấp cao trong đội ngũ quản lý, chấp nhận những nhân tố trẻ, chưa kinh nghiệm sẽ được đào tạo bài bản theo quy trình. Mọi chi tiết về vị trí tuyển dụng, xin vui lòng liên hệ hotline 0906327096 hoặc gửi thông tin về email bdm@sevenhillstrading.net, sales@sevenhillstrading.net
Lời kết, Seven Hills xin gửi lời cảm ơn đến Quý khách hàng đã ủng hộ và tin dùng sản phẩm của công ty trong thời gian qua. Seven Hills cam kết luôn luôn giữ vững niềm tin: “chất lượng thay lời nói” tới tất cả khách hàng, cho vụ nuôi thành công và bền vững.
SEVEN HILLS
nghiệp hữu cơ, bền vững là chủ trương của Đảng, Chính phủ, ngành nông nghiệp cũng hướng đến nhằm giá tăng giá trị và bảo vệ môi trường. Trong lĩnh vực nuôi tôm, tại Việt Nam đã xuất hiện nhiều mô hình nuôi theo xu hướng này để tối ưu hóa đầu vào và đầu ra.
Định hướng tương lai
Nông nghiệp xanh được hiểu là một
hệ thống sản xuất nông nghiệp nhằm bảo vệ môi trường, sử dụng nguồn tài nguyên bền vững và bảo đảm an toàn thực phẩm. Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững. Nắm bắt chủ trương đó, Bộ NN&PTNT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã ban hành Kế hoạch hành động thực hiện chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 với mục tiêu phát triển nông nghiệp theo hướng sinh thái, hữu cơ, tuần hoàn, phát thải carbon thấp nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng, giá trị gia tăng, năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững; giảm thiểu ô nhiễm môi trường nông nghiệp, nông thôn, hướng đến nền kinh tế trung hòa carbon vào năm 2050.
Những chính sách phát triển nông nghiệp xanh, nông nghiệp bền vững của Đảng và Nhà nước đã tạo bước tiến quan trọng trong chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp, tập quán canh tác của nông dân và nhận thức về phát triển bền vững.
Trong đó, lĩnh vực trồng trọt áp dụng quy trình canh tác GAP và mô hình sử dụng
khí sinh học trong chăn nuôi. Nuôi trồng thủy sản đã áp dụng kiểm soát chất lượng từ ao nuôi đến bàn ăn. Nhờ triển khai nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp xanh, sạch nên sản phẩm nông nghiệp, thủy sản sạch, truy xuất được nguồn gốc đã chiếm tỷ trọng ngày càng lớn.
Xanh trong vuông tôm
Lĩnh vực nuôi tôm của nước ta có nhiều tiềm năng để phát triển “sản xuất xanh”. Và trên thực tế, nhiều mô hình nuôi tôm theo hướng “xanh” đang ngày càng được nhân rộng.
Tuy nhiên, theo ý kiến của nhiều chuyên gia, để chủ trương, chính sách này đi vào thực tế, cần sự hưởng ứng của các doanh nghiệp và người nuôi tôm, vì họ mới là chủ thể trong quá trình thực hiện. Chính vì thế, làm sao để kết nối được các mắt xích liên quan trong chuỗi sản xuất, cũng như có sự đồng hành của cơ quan quản lý nhà nước và sự chia sẻ kinh nghiệm từ quốc tế,… thực sự là yêu cầu cần thiết! Nắm bắt được nhu cầu khách quan, đồng thời hưởng ứng chủ trương của Đảng, Chính phủ và hành động của ngành thủy sản,
(VietShrimp 2025) đã lựa chọn chủ đề “Xanh hóa vùng nuôi”. Theo chia sẻ của Ban Tổ chức, Hội chợ VietShrimp lần này không chỉ tạo cầu nối để các doanh nghiệp và người nuôi tôm trực tiếp gặp gỡ, trao đổi, mà còn là diễn đàn lớn để các bên cùng tìm giải pháp đưa ngành tôm phát triển ngày càng bền vững hơn, hiệu quả hơn, đặc biệt là những mô hình nuôi tôm đang là thế mạnh của nước ta. Bởi đây được coi là điểm đột phá trong nuôi trồng và xuất khẩu tôm những năm tiếp theo. Vì thế, VietShrimp 2025 tiếp tục nhận được sự ủng hộ của nhiều doanh nghiệp thủy sản lớn trong nước và thế giới.
Cũng theo chia sẻ của đại diện Ban Tổ chức, các doanh nghiệp, đơn vị tham gia VietShrimp 2025 sẽ tập trung giới thiệu những mô hình, sản phẩm, giải pháp theo hướng phát triển bền vững, nhất là khi bối cảnh nuôi tôm đang chịu nhiều tác động của vấn đề môi trường và biến đổi khí hậu.
Với sự tham dự và đồng hành của các cơ quan quản lý nhà nước, các chuyên gia, doanh nghiệp và bà con nuôi tôm trong nước cũng như quốc tế, VietShrimp 2025 hứa hẹn sẽ tiếp tục tìm được những giải pháp tối ưu giúp ngành tôm phát triển bền vững. PHAN THẢO
VietShrimp 2025 hứa hẹn sẽ mang
Nâng cao năng suất nuôi TTCT với công nghệ
Nano Bubbles
Trước áp lực gia tăng nhu
cầu thực phẩm sạch và sự biến
đổi khí hậu ảnh hưởng đến chất
lượng nước, ngành nuôi TTCT
đang hướng tới các giải pháp công nghệ tiên tiến để đảm bảo năng suất và tính bền vững. Một trong những công nghệ
được xem là đột phá hiện nay chính là Nano Bubbles – giải pháp cung cấp ôxy hòa tan hiệu quả, góp phần cải thiện môi trường nước và nâng cao năng suất nuôi trồng.
Nano Bubbles là các bong bóng khí có kích thước siêu nhỏ (80 - 120 nm), có khả năng duy trì ôxy hòa tan trong nước trong thời gian dài nhờ áp suất nội tại cao hơn môi trường xung quanh. Công nghệ này mang lại nhiều lợi ích vượt trội so với các phương pháp cung cấp ôxy truyền thống cũ.
Trong các hệ thống nuôi TTCT
mật độ cao, việc cung cấp đủ
lượng ôxy hòa tan là yếu tố then chốt quyết định tỷ lệ sống và tốc
độ tăng trưởng. Ứng dụng công
nghệ Nano Bubbles đã chứng minh khả năng giảm tỷ lệ nhiễm bệnh nhờ môi trường nước sạch, giàu ôxy, đồng thời thúc đẩy sự phát triển nhanh và đồng đều của tôm. Đặc biệt, công nghệ này giúp giảm nguy cơ mắc bệnh
Vibriosis – một bệnh nhiễm
khuẩn do vi khuẩn Vibrio gây
ra, thường xuất hiện trong môi trường nước kém chất lượng và stress môi trường. Nano Bubbles giúp cải thiện chất lượng nước, cung cấp đủ ôxy, từ đó làm giảm hoạt động của vi khuẩn Vibrio và bảo vệ sức khỏe tôm.
Với khả năng duy trì ôxy hòa tan trong thời gian dài, hệ thống Nano Bubbles chỉ cần
hoạt động trong khoảng thời gian ngắn, giảm đáng kể tiêu thụ năng lượng. Điều này giúp giảm chi phí năng lượng, đồng thời duy trì môi trường nước giàu ôxy, tối ưu hóa điều kiện sống cho TTCT.
Công nghệ Nano Bubbles đã được nhiều trang trại nuôi TTCT
Thông tin liên hệ: CÔNG TY TNHH B.H.N Số điện thoại: 028.668.101.95
Website: bhnenc.com
Email: bhnenc@gmail.com
tại Việt Nam áp dụng, mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt. Với các hệ thống có công suất đa dạng từ 5 m³/giờ đến hơn 20.000 m³/giờ, Nano Bubbles đáp ứng linh hoạt các mô hình nuôi từ nhỏ lẻ đến quy mô công nghiệp.
Địa chỉ: Số DP-18 Dragon Parc2, KDC Phú Long, đường Nguyễn Hữu Thọ, xã Phước Kiển, huyện Nhà Bè, TP Hồ Chí Minh
Tạo môi trường giảm stress, ôxy hòa tan cao, giúp tôm phát triể n mạnh mẽ
Hình ảnh trang trại tôm áp dụng công nghệ Nano Bubbles B.H.N
BHN
CHẾ PHẨM SINH HỌC KHOA HỌC XANH
Niềm tin từ chất lượng
Công ty TNHH KTCN Khoa Học Xanh tự hào là đơn vị nhập khẩu và phân phối chế phẩm sinh học, yucca, dinh dưỡng, khoáng, phụ gia, hóa chất, hàng đầu Việt Nam.
Với sự phát triển của khoa học công nghệ, việc ứng dụng công nghệ vi sinh, chế phẩm sinh học vào trong nông nghiệp, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản đang trở thành xu thế tất yếu. Tuy nhiên, điều mà bà con nông dân, người chăn nuôi trăn trở là làm thế nào để có thể sử dụng những sản phẩm chất lượng, đảm bảo an toàn và mang lại hiệu quả cao. Thấu hiểu được tâm tư, nguyện vọng của những người làm nông nghiệp Việt Nam, Công ty TNHH KTCN Khoa Học Xanh ra đời với sứ mệnh mang đến những nguồn nguyên liệu chất lượng nhất cho ngành công – nông nghiệp nói chung và ngành thủy sản nói riêng.
Tuân theo sứ mệnh ấy, Khoa Học Xanh luôn tìm kiếm, sàng lọc kỹ lưỡng để chọn ra những sản phẩm tốt nhất từ các đối tác nhập khẩu uy tín đến từ Pháp, Mỹ, Italia, Ấn Độ, Mexico, Đức, Nhật, Hà Lan, Trung Quốc,...
Các mặt hàng nguyên liệu nhập khẩu của Khoa Học Xanh như vi sinh - chế phẩm sinh học, yucca, dinh dưỡng, khoáng, phụ gia, hóa chất,... được nghiên cứu kỹ lưỡng bởi đội ngũ chuyên gia vi sinh, công nghệ sinh học hàng đầu thế giới, đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn trong nước và quốc tế. Các sản phẩm trước khi đưa ra thị trường đều trải qua quy trình định nghiêm ngặt, đảm bảo an toàn, chất lượng và mang lại hiệu quả cao trong quá trình sử dụng. Công ty TNHH KTCN Khoa Học Xanh cam kết luôn mang đến cho bà con, nhà chăn nuôi, quý khách hàng những chế phẩm sinh học chất lượng, giá thành phải chăng, đội ngũ chuyên
gia, nhân viên tư vấn tận tình, chu đáo. Công ty tự hào là người bạn đồng hành của bà con trong suốt quá trình sản xuất, đưa ra phương án nuôi trồng hiệu quả, cho năng suất cao, hạn chế tối đa những rủi ro không mong muốn.
Nhờ sự tận tâm và cam kết mạnh, các chế phẩm sinh học do Khoa Học Xanh cung cấp luôn được quý khách hàng tin tưởng, sử dụng; giúp tăng năng suất, giảm chi phí giá thành, đem lại hiệu quả kinh tế vượt trội cho bà con nông dân và người chăn nuôi.
Bên cạnh đó, Khoa Học Xanh luôn nêu cao trách nhiệm của mình với môi trường và cộng đồng thông qua các giải pháp kinh doanh góp phần bảo vệ môi trường sống. Trong quá trình làm việc, công ty luôn chủ động tìm hiểu nhu cầu của bà con để phản hồi kịp thời, nhanh chóng, tạo sự an tâm tuyệt đối.
Hiện nay trên thị trường có rất nhiều đơn vị cung cấp chế phẩm sinh học, nhưng không phải đơn vị nào cũng uy tín và đáng tin cậy. Nếu bà con đang tìm kiếm các sản phẩm chế phẩm sinh học an toàn, hiệu quả cao trong quá trình sử dụng, hãy đến với Khoa Học Xanh. Các dòng sản phẩm tiêu biểu của công ty hiện nay đang phân phối gồm có:
- LY 234 – Nấm men đậm đặc, chất lượng cao
- OPTIPRO – Men vi sinh đường ruột đậm đặc
- YEAST CELL WALL – Betaglucan & Mos tăng cường miễn dịch
- TPD CONTROL – Giải pháp ngăn ngừa và kiểm soát bệnh TPD
- BACILLUS LICHENIFORMIS, BACILLUS SUBTILIS …– Vi sinh đơn dòng làm sạch nước, hỗ trợ tiêu hóa
- CYTO - EHP – Giảp pháp hoàn toàn tự nhiên ngăn ngừa EHP
- WIIKONC: Diệt khuẩn an toàn, phổ rộng
- LIVERGUARD PLUS – Giải pháp hỗ trợ cho các vấn đề về gan
- LY 234, ACTIVE FEED DRY YEAST - Nấm men đậm đặc, chất lượng cao
- MIAVITA GOLD – Vitamin tổng hợp, tăng sức đề kháng
Và nhiều mặt hàng khác...
Góp mặt tại
VIETSHRIMP 2025
Công ty TNHH KTCN Khoa Học Xanh vinh dự góp mặt tại sự
kiện VIETSHRIMP 2025 với chủ đề “Xanh hóa vùng nuôi”. Chủ đề Vietshrimp năm nay cũng là mục tiêu mà Khoa Học Xanh luôn theo đuổi ngay từ khi thành lập. Với vai trò là doanh nghiệp đồng hành, Khoa Học Xanh mang đến những sản phẩm công nghệ sinh học tiên tiến, được nhập khẩu trực tiếp từ các đối tác uy tín đến từ Pháp, Mỹ, Italia, Ấn Độ, Mexico, Đức, Nhật, Hà Lan, Trung Quốc,... Giúp bà con giải quyết hiệu quả các vấn đề về môi trường nước, dịch bệnh. Tại gian hàng A17+18+19+20, các sản phẩm nổi bật của công ty sẽ được trưng bày cùng rất nhiều tài liệu hữu ích cho người nuôi tôm. Hãy ghé thăm gian hàng của chúng tôi tại VIETSHRIMP 2025.
KHOA HỌC XANH
Thông tin liên hệ: Công ty TNHH KTCN Khoa Học Xanh Địa chỉ: Lô LF26, đường số 2, Khu công nghiệp Xuyên Á, xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức Hòa, tỉnh
Long An Điện thoại: 091616.8200
Email: info@khoahocxanh.com
SẢN XUẤT THEO ESG
Giải pháp giảm giá thành
nuôi tôm
Nắm bắt xu hướng chuyển đổi tất yếu của ngành nông nghiệp trên toàn cầu, một số doanh nghiệp nông nghiệp đầu ngành của Việt Nam đã đầu tư thực hành ESG. Với ngành hàng chủ lực của nền nông nghiệp, doanh nghiệp nuôi tôm cũng đã tiên phong ứng dụng để mang lại thành công.
Xu thế tất yếu
ESG là viết tắt của
Environmental (Môi trường), Social (Xã hội) và Governance (Quản trị doanh nghiệp). Đây là các bộ tiêu chuẩn đo lường các yếu tố liên quan đến phát triển bền vững cũng như tác động của doanh nghiệp đối với cộng đồng và môi trường.
Bà Nguyễn Thị Thương Linh, Phó Giám đốc VCCI chi nhánh Cần Thơ cho biết, ESG đang là xu thế tất yếu trên toàn thế giới và cũng là điều bắt buộc đối với doanh nghiệp tại khu vực ĐBSCL - điểm nóng về những tác động của biến đổi khí hậu. Như với lĩnh vực xuất khẩu thủy sản, phía EU đang áp dụng các quy định mới. Nhất là chứng nhận bền vững như
ASC (Aquaculture Stewardship Council) và MSC (Marine Stewardship Council) sẽ trở thành yêu cầu bắt buộc đối với các sản phẩm thủy sản xuất
khẩu vào EU. Để đáp ứng tiêu chuẩn bền vững, các doanh nghiệp sẽ phải đầu tư vào công nghệ xanh và cải thiện quy trình, điều này đòi hỏi một khoản chi phí đáng kể. Đứng ở góc độ của một doanh nghiệp hàng đầu về xuất khẩu tôm, ông Hồ Quốc Lực, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Thực phẩm Sao Ta nhấn mạnh, riêng trong khâu chế biến thì việc xanh hóa là mắt xích không thể thiếu và tầm quan trọng của nó thuộc hàng đầu. Bởi vì đây là điểm giao thoa giữa bên hoàn thiện sản phẩm và bên tiêu thụ
sản phẩm. Nếu mắt xích này không tốt thì người tiêu dùng khó cảm nhận được nỗ lực của bên tạo ra sản phẩm, việc tiêu thụ không đạt yêu cầu cao nhất.
Cho nên các doanh nghiệp chế biến không thể coi nhẹ chuyện này.
Ứng dụng ESG trong
ngành
tôm
Cách đây 2 năm, Công ty TNHH EcoSeafood Group đã xây dựng E.S.G Farm, quy mô 30 ha, với 40 ao nuôi, đồng bộ ao ương dưỡng, xử lý nước thải, hệ thống lấy nước dài hơn 2 km để xử lý mầm bệnh và dành 30% diện tích trồng rừng.
TS Trần Hữu Lộc - người sáng lập, điều hành Công ty TNHH EcoSeafood Group cho biết, để mô hình nuôi dễ thành công thì phải “kéo” cả chi phí sản xuất và khấu hao cùng xuống thấp. Theo đó, muốn chi phí sản xuất thấp phải nuôi quy mô lớn, vì đây là lợi thế để tiếp cận nguồn đầu vào trực tiếp từ nhà máy với giá thấp (như thức ăn cho tôm), thay vì phải qua trung gian như nông dân nuôi nhỏ lẻ. Thực tế cho thấy, nhập hàng từ nhà máy giá có thể chỉ còn
20.000 - 22.000 đồng/kg, thay vì
40.000 đồng/kg khi
mua trả chậm qua trung gian. Đây là cách làm giúp
giảm chi phí biến đổi trong sản xuất. Nhờ vậy, tôm loại 50 con/ kg (loại được nhà máy chế biến sử dụng nhiều nhất) ở E.S.G Farm chỉ có 50.000 đồng/ kg, thấp hơn 30.000 - 40.000 đồng/kg so với nông hộ nuôi nhỏ lẻ bên ngoài. Với chi phí cố định (đầu tư hạ tầng), nhờ kéo dài vòng đời dự án lên đến 10 năm nên khấu hao được kéo xuống thấp. Nhờ vậy, khối lượng tôm cần để hòa vốn cũng thấp. Vì vậy, E.S.G Farm không bị áp lực phải nuôi mật độ cao như những trang trại công nghệ cao khác. Chi phí biến đổi ở trang trại nêu trên là 50.000 đồng/kg, nếu giá tôm nguyên liệu bán ra 100.000 đồng/kg thì cứ mỗi kg tôm lãi 50.000 đồng.
Hiện TS Trần Hữu Lộc đang làm việc với chính quyền tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau, để nhanh chóng mở rộng mô hình. “Nông dân phải có suy nghĩ như chủ doanh nghiệp hoặc hợp tác theo hướng người có đất, người có tiền và người có kinh nghiệm quản lý”, ông Lộc chia sẻ và kỳ vọng, khi hàng trăm nghìn hộ nông dân nuôi tôm nhỏ lẻ hiện nay gom lại thì sẽ tạo nên vài nghìn nông trại có quy mô lớn, nuôi tôm với công nghệ cao, hiệu quả tốt để đem lại nguồn lợi không chỉ cho nông dân mà còn cho cả ngành tôm Việt Nam.
VÂN ANH
DELTA MARINE
Hành trình trở thành trại nuôi tôm lớn nhất Indonesia
Để dẫn đầu ngành nuôi tôm tại Indonesia, PT Delta Marine đã thay đổi chiến lược từ quy trình nuôi, thương mại đến chuyển giao thế hệ quản lý.
Sẵn sàng đổi mới
PT Delta Marine (DMI), do gia đình Darmawan dẫn dắt, được Soedarman và Anita thành lập vào năm 1986. Hiện Delta Marine đang được thế hệ thứ hai tiếp quản, Rizky phụ trách hoạt động nuôi trong khi
Cynthia điều hành thương mại.
Anita giữ vai trò Giám đốc Tài chính, còn Soedarman là Chủ tịch Hội đồng Quản trị. Trụ sở chính của tập đoàn đặt tại
Sidoarjo, Đông Java.
DMI khởi đầu với tôm sú vào đầu những năm 1980 và sản lượng tăng mạnh sau đó nhờ quá trình nuôi thâm canh. Tuy nhiên, khi dịch bệnh đốm trắng (WSSV) bùng phát, sản lượng bắt đầu suy giảm. Năm 2021, DMI chuyển sang TTCT và đạt sản lượng 300.000 tấn vào năm 2023. Quỹ đất của công ty rộng 400 ha, chủ yếu ở Sumbawa, Madura (Đông Jawa) và Belitung với 76 ao lót bạt hoặc bê tông. Ngoài ra, DMI còn có 18 ao tròn nhỏ và hệ thống dòng chảy rộng từ 314 m² đến 5.000 m² dùng để thử nghiệm. Soedarman chia sẻ, bất cứ phương pháp nào mang lại hiệu quả cao nhất về năng suất, DMI sẽ chấp nhận và thay đổi. Năm 2014, nghề nuôi tôm lãi khá nhờ giá bán cao với sản lượng khoảng 300 tấn/vụ. Sau đó, DMI thành lập Petambak
Muda Indonesia (PMI - Hội Những Người Nuôi Tôm Trẻ) với 4 thành viên, và tăng lên 20.
PMI là nơi chia sẻ kinh nghiệm nuôi tôm và hỗ trợ nhau giải
quyết vấn đề. Soedarman chia sẻ, trong vụ nuôi gần đây nhất, chúng tôi liên tục phá kỷ lục sản
lượng 560 tấn/vụ rồi tiếp tục tăng lên 730 tấn nhờ tự phát
triển mô hình nuôi mới của riêng mình.
Chiến lược tích hợp
DMI từng cân nhắc phát
triển trại tôm giống, nhưng cuối cùng quyết định chỉ góp vốn.
Rizky hiểu rằng khi vận
hành trại giống và sản xuất tốt
sẽ có thêm sản phẩm bán ra thị trường. Nhưng nếu thất bại và sản xuất tôm kém chất lượng, DMI có thể buộc phải sử dụng
chúng ngay tại trang trại để giảm thiểu tổn thất. Vì vậy, với
tư cách là cổ đông, DMI được hưởng ưu đãi đặc biệt, có quyền chọn tôm post chất lượng.
DMI hiện có một nhà máy chế biến tại Gresik với công suất
10 - 15 tấn tôm/ngày, nhưng đã cho thuê. Việc tích hợp chế biến đang được triển khai, tuy nhiên DMI chưa có chuyên môn kèm thách thức thiếu hụt lao động tay nghề cao.
Nỗ lực bền vững
DMI đặt tính bền vững về kinh tế lên hàng đầu, tiếp theo là bền vững về xã hội và sau cùng, bền vững về môi trường được xem như tầm nhìn dài hạn. Nhằm góp phần đáp ứng lộ trình phát triển bền vững thông qua chứng nhận, DMI đã thiết kế một trang trại mới
tại Sumbawa, sẵn sàng cho chứng nhận ASC. Điều cản trở DMI trong các cuộc kiểm toán của ASC là chi phí chứng nhận. Tuy nhiên, mọi thứ sẽ thay đổi khi DMI tích hợp nhà máy chế biến và tự thực hiện hoạt động tiếp thị.
Soedarman cho biết: “DMI sẽ tập trung đào tạo thế hệ kế cận
trong lĩnh vực nuôi tôm bằng cách tuyển dụng những nhân viên xuất sắc để quản lý các trang trại mới.
Hiện tại, DMI có hai trang trại đang hoạt động ở Sumbawa: Delta Marine tại Labuan Mapin và Arca Aquaculture tại Tambora. Trang trại liên doanh PT Mitradelta Bahari Pratama thuộc khu vực Sumbawa, phía đông Tambora, sẽ sớm đi vào hoạt động. DMI cũng có kế hoạch mở rộng sang Sulawesi và có thêm 50 ha ở Belitung”.
Tham vọng của DMI là đạt quy mô 600 - 700 ao nuôi trong 2 - 3 năm tới. Trước mắt, công ty tập trung vào các khu vực rộng lớn ở Sumbawa với 7 - 10 trang trại, kết hợp điều chỉnh từng trang trại để phù hợp với môi trường và cộng đồng địa phương. TUẤN MINH (Theo AsiaAquaculture)
Tham vọng của DMI là đạt quy mô 600 - 700 ao nuôi trong 2 - 3 n ăm tới Ảnh: DMI
Phương pháp quản lý độ mặn ao nuôi
Việc kiểm soát độ mặn ở ngưỡng an toàn là điều kiện cần thiết giúp tôm sinh trưởng tốt, mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho người nuôi.
Thường xuyên tiến hành
Vai trò
Độ mặn là nồng độ của các muối hòa tan trong nước. Độ mặn được đo bằng phần nghìn (‰). Đây là yếu tố đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại, phát triển và duy trì các chức năng sinh lý của tôm. Mỗi loại tôm sẽ sinh trưởng trong một môi trường có độ mặn thích hợp. TTCT: Có thể chịu được độ mặn từ 240‰, sinh trưởng tốt nhất ở 10 - 25‰. Nếu nước có độ mặn > 35‰ tôm sẽ có biểu hiện chán ăn, chậm lớn. Ngược lại, nếu các chỉ số này ở mức quá thấp người nuôi nên bổ sung các dưỡng chất có trong thức ăn để tăng sức đề kháng cho tôm, giúp tôm phát triển tốt.
Tôm sú: Có thể sống trong môi trường với độ mặn khoảng từ 3 - 45‰, phù hợp nhất từ 15 - 20‰.
Yếu tố ảnh hưởng đến độ mặn
Sự bốc hơi nước: Sự bốc hơi nước do thời tiết nóng là một trong những yếu tố có thể làm thay đổi độ mặn của ao nuôi. Mặc
dù sự bốc hơi làm giảm thể tích nước trong ao, nhưng nó không làm cho muối bốc hơi theo, do đó làm tăng độ mặn. Kích thước của diện tích ao cũng ảnh hưởng đến tốc độ bốc hơi. Ao càng lớn, sự bốc hơi có thể xảy ra càng nhanh.
Nước mưa: Mưa có thể làm giảm độ mặn của ao nuôi vì hàm lượng muối v à pH thấp. Nước mưa cũng có mật độ thấp hơn nước ao, khiến nước mưa đọng lại trên bề mặt ao.
Tăng độ mặn
Khi độ mặn trong môi trường nước thấp, < 10‰, gây nhiều khó khăn cho quá trình sinh trưởng, phát triển của TTCT. Độ mặn trong nước thấp, thường thiếu nhiều loại khoáng quan trọng như Mg2+, Ca2+, K+,… là những khoáng chất cần cho việc tạo vỏ của tôm. Hiện, người nuôi sử dụng chủ yếu hai cách để tăng độ mặn cho ao nuôi. Bổ sung nước biển hoặc nước mặn: Đây là cách phổ biến nhất để tăng độ mặn cho ao nuôi. Nước biển hoặc nước mặn có độ mặn cao hơn nước ao, do đó khi bổ
sung vào ao sẽ làm tăng độ mặn của ao. Tuy nhiên, khi bổ sung nước biển hoặc nước mặn vào ao, cần đảm bảo độ mặn của nước biển hoặc nước mặn phù hợp với độ mặn cần thiết của ao nuôi. Lượng nước bổ sung cần được tính toán kỹ lưỡng để tránh làm thay đổi đột ngột độ mặn của ao, gây sốc cho tôm. Nên bổ sung nước biển hoặc nước mặn vào ao vào buổi sáng hoặc chiều mát, tránh bổ sung vào buổi trưa nắng nóng.
Sử dụng muối: Ngoài nước biển hoặc nước mặn, có thể sử dụng muối để tăng độ mặn cho ao nuôi. Tuy nhiên, cách này ít phổ biến hơn do muối có thể làm tăng pH của ao, ảnh hưởng đến chất lượng nước ao. Khi sử dụng cách này, nên sử dụng muối biển, muối hạt hoặc muối ăn. Lượng muối sử dụng cần được tính toán kỹ lưỡng để tránh làm thay đổi đột ngột độ mặn của ao, gây sốc cho tôm. Thời điểm sử dụng vào buổi sáng hoặc chiều mát, tránh sử dụng vào buổi trưa nắng nóng. Sử dụng “vi sinh”: Một số loại vi sinh đã được nghiên cứu là có khả năng làm
tăng độ mặn cho ao nuôi tôm. Tuy nhiên
khi áp dụng phương pháp này, nên chú ý về liều lượng để tránh tình trạng làm tôm
bị ngộ độc.
Giảm độ mặn
Khi độ mặn quá cao, tôm lột xác rất khó khăn do vỏ dày, ảnh hưởng chu kỳ lột xác, chậm lột xác do lượng muối trong nước lớn, tôm lột xác lâu cứng vỏ, chết lai rai, chết rớt cục thịt. Một số virus, vi khuẩn gây bệnh như đốm trắng, đầu vàng, gan tụy, EHP,… phát triển mạnh ở môi trường có độ mặn cao. Để giảm độ mặn, người nuôi cần thực hiện các biện pháp sau:
- Định kỳ 3 lần/ngày thay nước ao. Lưu
ý chỉ thay 20 - 30% lượng nước trong ao.
- Chạy quạt nước hết công suất để đảm
bảo ôxy cho tôm phát triển mạnh.
- Xử lý, kiểm soát mật độ tảo trong ao.
- Sử dụng men vi sinh để duy trì môi
trường nước thích hợp, xử lý tảo và cân
bằng các chỉ số môi trường trong ao.
- Khi độ mặn và nhiệt độ đột ngột thay
đổi do thời tiết, tiến hành sục khí thường xuyên để tôm không bị stress.
Đối với tôm giống, không được giảm độ mặn của ao đột ngột, tôm sẽ bị sốc và chết. Cần cho tôm thích nghi bằng cách giảm độ
SÁCH KỸ THUẬT
Kỹ thuật nuôi tôm hùm
mặn xuống từ từ. Cụ thể, cần thực hiện theo các bước:
- Hạ 3 tiếng/lần, mỗi lần hạ không quá 2‰. Thực hiện cho đến khi độ mặn của ao nuôi và ao thích nghi bằng nhau.
- Trong tháng đầu tiên, duy trì độ mặn không thấp hơn 7 - 8‰ để tránh làm tôm
bị sốc.
- Ở tháng thứ 2, giảm độ mặn bằng cách bổ sung nước ngọt vào ao, cần bổ sung từ từ để kiểm soát độ mặn không xuống dưới 5‰ vì độ mặn quá thấp tôm sẽ bị mềm vỏ, còi cọc, dễ chết.
Người nuôi cần lưu ý, không lấy nước trực tiếp từ các hệ thống kênh mương đổ vào ao, cần thiết kế ao lắng với diện tích khoảng 15 - 20% so với diện tích ao nuôi, độ sâu ít nhất là 1,5 m để cung cấp đủ nước cho ao nuôi. Trước khi cấp nước vào ao nuôi, cần để lắng và xử lý tối thiểu 6 ngày.
Kiểm soát
Để kiểm soát độ mặn, một trong những bước quan trọng phải thường xuyên tiến hành đo độ mặn nước ao. Dưới đây là 3 thiết bị được sử dụng phổ biến để đo độ mặn: Tỷ trọng kế: Tỷ trọng kế độ mặn là dụng cụ kiểm tra hàm lượng muối trong nước được ứng dụng nhiều trong ngành
Kiểm tra, đánh giá độ mặn trong ao nuôi tôm giúp người nuôi chủ động trong việc nắm được tình trạng ao, và có thể ứng phó kịp thời với việc thay đổi bất ngờ của độ mặn, đảm bảo cho tôm sinh trưởng tốt nhất.
thủy sản, kiểm tra độ mặn ao nuôi tôm, cá,… đo độ mặn ao hồ, kênh rạch. Dụng cụ kiểm tra độ mặn trong nước được làm bằng thủy tinh, và có khả năng bù trừ nhiệt độ ở 250C.
Khúc xạ kế: Là một thiết bị đo dùng phương pháp đo khúc xạ ánh sáng trong môi trường dung dịch xác định, từ đó giúp người dùng nắm được nồng độ của chất xác định để có đánh giá, nhận định thích hợp. Máy đo độ mặn kỹ thuật số: Loại máy này sử dụng khá đơn giản lại nhỏ gọn, kết quả hiển thị trực tiếp lên màn hình, có thể tự động chuyển đổi, đo nhiều thông số nên được sử dụng khá phổ biến. Thường được sử dụng cho mô hình nuôi diện tích lớn, nhiều ao nuôi.
NGUYỄN HẰNG
Tép KingKong
Tôm hùm là một trong những loại thực phẩm cao cấp, được ưa chuộng trên nhiều thị trường, là đối tượng nuôi biển có giá trị kinh tế cao. Ở Việt Nam, tôm hùm được nuôi trải dài từ Quảng Bình tới Bình Thuận, trong đó, các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa là những vùng nuôi trọng điểm. Hiện tôm hùm bông (P.Ornatus) và tôm hùm xanh (P.Hormarus) đang là hai đối tượng nuôi chủ lực, chiếm tới trên 97% sản lượng tôm nuôi. Là nghề đem lại thu nhập cao, nuôi tôm hùm đã góp phần nâng cao đời sống người dân vùng biển. Cuốn sách “Kỹ thuật nuôi tôm hùm” của tác giả Nguyễn Thị Hồng giới thiệu cho người nuôi các kỹ thuật cơ bản trong nuôi tôm hùm lồng. Cuốn sách gồm các phần:
Chương 1: Giới thiệu chung.
Chương 2: Vài nét về tình hình nuôi và một số yếu tố môi trường vùng phân bố tôm hùm.
Chương 3: Biện pháp phòng bệnh tổng hợp ở tôm hùm nuôi lồng.
Chương 4: Một số bệnh thường gặp ở tôm hùm nuôi lồng và biện pháp phòng trị.
NAM CƯỜNG
Là 1 trong 4 dòng
cơ bản của dòng
Taiwanbee, được lai tạo từ dòng tép Ong cổ điển. Đây là một loại tép nước ngọt phổ biến trong cộng
đồng nuôi tép hồ. Tép KingKong có tên gọi xuất phát từ nhân vật nổi tiếng trong bộ phim KingKong, với vẻ ngoài mạnh mẽ và
đầy sức mạnh. Tép KingKong thường có màu đen chủ đạo trên toàn thân, kèm theo một hoặc hai đốm trắng tạo điểm nhấn. Tép King Kong với đặc trưng dễ nuôi dưỡng, đẹp mắt phù hợp với người chơi mới tiếp cận dòng tép taiwan bee. Ngoài ra, tép KingKong cũng được biết đến với khả năng sinh sản mạnh mẽ. Điều kiện sống lý tưởng cho tép KingKong bao gồm nhiệt độ nước ổn định khoảng 23 - 250C, chỉ số TDS (Total Dissolved Solids) từ 100 đến 110 và độ cứng nước GH (General Hardness) từ 3 đến 6. Việc duy trì các thông số nước trong khoảng lý tưởng sẽ giúp tép KingKong phát triển khỏe mạnh. THANH HIẾU
BÁCH KHOA THƯ
HỎI - ĐÁP
Hỏi: Tôm nuôi có dấu hiệu lờ đờ, giảm ăn, đỏ thân tập trung bơi gần bờ, vỏ tôm có các đốm trắng nhỏ li ti. Hỏi nguyên nhân và cách khắc phục?
(Nguyễn Văn Trung, xã Kỳ Ninh, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh)
Trả lời:
Theo mô tả, có thể tôm đã bị bệnh đốm trắng. Bệnh rất phổ biến vào mùa mưa, gây nhiều khó khăn cho người nuôi. Đây là bệnh do virus, không có thuốc đặc trị, biện pháp duy nhất để phòng bệnh là phải đảm bảo tốt kỹ thuật cải tạo, xử lý nước, tăng sức đề kháng cho tôm, một khi môi trường trong ao nuôi thuận lợi thì virus đốm trắng sẽ bùng phát. Nguyên nhân gây ra bệnh đốm trắng xuất phát từ quá trình cải tạo ao nuôi chưa tốt, mặt khác do các tác nhân tác động vào như chim, chuột, nguồn nước nhiễm mầm bệnh,… Khi phát hiện bệnh nếu tôm đạt kích cỡ thu hoạch thì cần tiến hành thu nhanh chóng trong 1 - 2 ngày. Sau khi thu tôm, khử trùng nước và dụng cụ nhiễm bệnh bằng Chlorine nồng độ 40 ppm. Giữ nước sau khi xử lý Chlorine ít nhất 7 ngày trước khi xả ra môi trường. Dụng cụ và quạt nước dùng trong ao phải được phun xịt bằng nước hòa Chlorine với nồng độ 1.600 ppm hoặc nếu có thể thì ngâm trong nước hòa tan 40 ppm Chlorine trong ít nhất 3 ngày.
Nếu tôm chưa đạt cỡ thu hoạch thì hủy tôm bằng Chlorine nồng độ 40 ppm. Trong trường hợp tôm chưa chết hết thì tái xử lý Chlorine nồng độ 100 ppm. Xác tôm chết phải lưu lại trong ao ít nhất 7 ngày cho phân hủy tự nhiên và tiêu diệt mầm bệnh (vì mầm bệnh có thể tồn tại trong nhân tế bào).
Sau khi tháo nước, loại bỏ lớp bùn đáy ao nuôi thật sạch, xử lý vôi 4.000 - 5.000 kg/ha khi đáy còn ẩm (có thể xử lý vôi theo pH phơi đất). Phơi khô đáy, đảm bảo không còn chỗ ẩm cho mầm bệnh ẩn nấp.
Ao tôm bị bệnh đốm trắng, người nuôi không nên vội vàng cải tạo để thả nuôi ngay, mà nên cho ao nghỉ 1,5 - 2 tháng để dứt nguồn bệnh và tái tạo lại môi trường nền đáy. Thời gian ao nghỉ nên thả cá rô phi để cá tiêu diệt hết những loài ký chủ trung gian mang mầm bệnh còn sót lại.
Hỏi: Tôm sú kém ăn, hoạt động yếu, tăng trưởng chậm, lớp vỏ có màu tối. Tỷ lệ phân đàn cao, đã chết rải rác một số con. Hỏi nguyên nhân và biện pháp khắc phục? (Nguyễn Văn Hoàng, xã Triệu Phước, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị)
Trả lời: Theo mô tả, có thể tôm sú đã bị bệnh còi. Tác nhân gây bệnh còi là virus MBV (Monodon Baculovirus). Khi tôm mới nhiễm bệnh thường không có dấu hiệu rõ ràng, khi bệnh nặng thường có các dấu hiệu như: tôm kém ăn, hoạt động yếu, tăng trưởng chậm, lớp
vỏ có màu tối hoặc xanh đậm. Tỷ lệ phân đàn rất cao, tôm chết rải rác nhưng khi dồn tích thì tỷ lệ chết có thể lên đến 70%. Vì bệnh do virus gây ra nên hiện nay vẫn chưa có biện pháp điều trị đặc hiệu. Do đó, thực hiện tốt các biện pháp phòng bệnh là cần thiết. Đường lây nhiễm bệnh chủ yếu là từ nguồn giống, chất lượng môi trường nước ao không đảm bảo. Vì vậy, cần lựa chọn con giống khỏe mạnh, không mang mầm bệnh MBV; Luôn vệ sinh ao đảm bảo chất lượng ao nuôi ổn định, đồng thời quản lý tốt sức khỏe tôm; Tẩy dọn ao, bể nuôi theo đúng quy trình của Bộ NN&PTNT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường); Nuôi tôm đúng mùa vụ, quản lý chăm sóc tốt, cung cấp đầy đủ thức ăn về chất và lượng. Trong quá trình nuôi, hạn chế không để tôm sốc; Kiểm dịch đàn tôm bố mẹ trước khi cho đẻ; Xử lý nước bằng tầng ôzôn và các chất khử trùng có gốc Clo (TCCA) trước khi ấp trứng thì mới có thể sản xuất được đàn tôm Postlarvae không nhiễm virus MBV.
Hỏi: Tôm nuôi được 40 ngày có dấu hiệu ăn ít, di chuyển chậm, bắt lên quan sát thấy một số con trên thân có tảo bám rất bẩn, tập trung ở phần đầu ngực, mang và các phụ bộ. Hỏi nguyên nhân và giải pháp khắc phục?
(Trần Xuân Cần, xã Mỹ An, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre)
Trả lời:
Theo mô tả, tôm có thể đã bị bệnh đóng rong. Nguyên nhân gây bệnh là do động vật nguyên sinh, vi khuẩn dạng sợi, tảo bám, vi nấm,... Trong mùa mưa, nếu quản lý không tốt có thể làm cho nước ao nuôi giảm xuống dưới 10‰ là điều kiện thuận lợi để tảo lục xuất hiện làm cho nước ao tôm có màu xanh như nước rau má. Khi đó, ao tôm có hiện tượng tảo tàn, pH dao động mạnh trong ngày, thiếu ôxy vào lúc sáng sớm làm cho bị tôm đóng rong. Ngoài ra, mùa mưa nhiệt độ thay đổi đột ngột ảnh hưởng đến khả
năng bắt mồi của tôm, nếu vẫn cho ăn bình thường sẽ khiến thức ăn dư thừa tích tụ trong ao. Tình trạng dư thức ăn cũng tạo điều kiện cho tảo lục phát triển mạnh, pH trong nước bị dao động, tôm bị đóng rong. Mặc dù không gây ra tình trạng tôm chết hàng loạt như đối với các bệnh do virus đốm trắng hay hoại tử gan tụy nhưng cũng gây ra thiệt hại không nhỏ cho người nuôi.
Để điều trị bệnh đóng rong trên tôm nuôi, có thể dùng
Formalin với liều lượng 25 - 30 ml/m3 nước ao nuôi do Formalin có tác dụng trực tiếp diệt sinh vật bám và kích thích sự lột xác
của tôm. Khi sử dụng hóa chất này nên dùng ban ngày và sục khí
liên tục trong quá trình xử lý.
Người nuôi cũng có thể dùng BKC 80 với liều 0,8 ml/m3. Đối với các loại BKC có hàm lượng hoạt chất thấp hơn thì sử dụng theo
chỉ dẫn nhà sản xuất. Sử dụng chế phẩm vi sinh để phân hủy các
chất hữu cơ để làm sạch đáy ao thường xuyên. Sử dụng một số
hóa chất diệt tảo, diệt nguyên sinh động vật nằm trong danh mục
được phép lưu hành do Bộ NN&PTNT (nay là bộ Nông nghiệp và Môi trường) ban hành khi chúng phát triển mạnh trong ao nuôi.
Hỏi: Xin tư vấn các biện pháp phòng bệnh tôm hùm mùa nóng?
(Phan Văn Trường, xã Vạn Lương, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa)
Trả lời: Người nuôi cần theo dõi chặt chẽ các yếu tố môi trường trong thời điểm thời tiết chuyển mùa, đặc biệt là ôxy để có biện pháp xử lý kịp thời. Đồng thời, che mát lồng nuôi bằng lưới lan khi thời tiết nắng nóng.
Cùng với đó, theo dõi chặt chẽ sức khỏe của đàn tôm nuôi, loại bỏ tôm chết, xác tôm lột, thức ăn thừa trong ngày ra khỏi lồng nuôi nhằm hạn chế tích lũy chất hữu cơ trong môi trường nước và chất hữu cơ lắng đáy.
Thức ăn là một trong những nguồn lây nhiễm bệnh cho tôm hùm nuôi do việc sử dụng thức ăn tươi sống là cá nhỏ, tôm, cua, ghẹ. Do đó, việc vệ sinh và sát trùng thức ăn rất quan trọng, cần
được thực hiện thường xuyên trong suốt quá trình nuôi. Thức ăn phải được bảo quản tốt, còn tươi và phải có nguồn gốc từ những vùng không có dịch bệnh. Thức ăn cho tôm hùm cần được rửa sạch, tùy vào giai đoạn tôm nuôi mà có thể để nguyên hoặc cắt nhỏ, sau đó để ráo nước rồi nhúng vào dung dịch thuốc tím (KMnO4) 3 - 5 ppm (3 - 5 mg/lít nước biển), trộn đều và ngâm khoảng 10 - 20 phút để sát trùng rồi cho tôm ăn.
Bổ sung vitamin và khoáng chất vào khẩu phần ăn để nâng cao sức đề kháng cho tôm hùm nuôi, giảm khẩu phần ăn theo biến động thời tiết cho phù hợp với sức khỏe của tôm nuôi, tránh dư thừa thức ăn gây lắng đọng chất thải và tạo điều kiện cho các vi sinh vật gây bệnh phát triển.
Ngoài ra, người nuôi cần san thưa mật độ nuôi 2 - 5 con/m2 lồng đối với tôm hùm kích cỡ từ 200 g/con trở lên, giãn cách lồng bè nuôi ở mật độ lồng nuôi từ 30 - 60 lồng/ha mặt nước (nếu được) nhằm tạo sự thông thoáng nước cho lồng bè nuôi theo quy định.
Không di chuyển lồng bè từ vùng nuôi có tôm bệnh sang vùng nuôi chưa xuất hiện bệnh nhằm hạn chế sự lây lan dịch bệnh.