4 minute read

2.2.3. Các nguyên tắc bồi dưỡng NLKH

32

2.2.3. Các nguyên tắc bồi dưỡng NLKH Cơ sở khoa học

Advertisement

Từ quan điểm GD học, NL và kĩ năng chỉ phát triển nếu nó gắn với HĐ và thông qua HĐ. Do đó, chỉ có thể đo được sự phát triển NL thông qua xác định mức độ thành thạo các thao tác, kĩ năng tiến hành những HĐ thành phần và kết quả của HĐ đó. Từ góc độ tâm lí, để NLKH được phát triển thuận, cần phải đảm bảo những điều kiện sau trong DH: HS có động cơ, thái độ học tập tốt; GV gây hứng thú và kích thích HS tích cực tham gia HĐ tìm tòi sáng tạo; HS được chuẩn bị tốt về KT, kĩ năng; GV tổ chức cho HS được tham gia nhiều vào HĐ TTKP nghiên cứu khoa học, giải quyết VĐ thực tiễn. Có nghĩa là GV cần xây dựng tình huống nhưng phải làm cho HS tiếp nhận tình huống, thúc đẩy động cơ, tình cảm trách nhiệm để HS tự nguyện tham gia hợp tác GQVĐ. Từ lí luận dạy học bộ môn vật lí: Cái cốt lõi của sự thành công trong việc phát triển NLKH là GV phải có dụng ý lựa chọn chủ đề học tập, rồi tổ chức tình huống đưa người học vào trải nghiệm TTKP hay nói cách khác, sử dụng DH TTKP để tạo cơ hội phát triển NL KH của HS. Từ những cơ sở đó, LA đề xuất các nguyên tắc bồi dưỡng NLKH như sau:

Thứ nhất: Bồi dưỡng NLKH dựa trên HĐTTKP của chính người học

Để bồi dưỡng NLKH cho người học, một nguyên tắc quan trọng trong dạy học là kiến thức phải do HS tự kiến tạo chứ không phải qua con đường chuyển giao, truyền đạt từ GV. Tổ chức các HĐTTKP là cơ hội để GV có thể bồi dưỡng NLKH cho HS.

Thứ hai: Học tích hợp

Thế giới hiện đại có đặc trưng là sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng trong tất cả các lĩnh vực khoa học và đời sống. Do vậy, mức độ năng lực cần thiết để thích ứng với thực tế đó cũng ngày càng tăng. Do vậy, việc dạy những kiến thức đơn giản đơn lẻ được truyền đạt từ giáo viên không còn phù hợp nữa. GV phải tổ chức cho HS học tích hợp, học cách kiến tạo kiến thức từ các hoạt động tìm tòi khám phá để

33

rèn khả năng kết hợp các nguồn kiến thức khác nhau, từ đó nhắm đến khả năng giải quyết các vấn đề phức tạp trong cuộc sống lao động sau này.

Thứ ba: Chỉ dạy học những vấn đề cốt lõi

Rèn năng lực đòi hỏi phải có đủ thời gian, học sinh phải kiến tạo những năng lực cho phép họ từ kiến tạo những kiến thức, kĩ năng mới để thích nghi với môi trường sống luôn thay đổi sau này. Đây chính là lý do để xác định là các năng lực xuyên suốt chương trình đào tạo với tư cách là công cụ để học tập suốt đời. NL cần được sử dụng nhiều lần, lặp đi lặp lại mới có thể tăng cường năng lực cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Nếu chương trình học tập trung rèn năng lực thì cũng có nghĩa chỉ nên tập trung vào số lượng NL chọn lọc và lượng kiến thức tương ứng để học sinh có đủ thời gian rèn luyện, kiến tạo và phát triển những năng lực đó, không dàn trải. Vì vậy, cần lựa chọn được những nội dung học cốt lõi giúp bồi dưỡng và phát triển NL cho người học.

Thứ tư: Mở cửa trường phổ thông ra thế giới thực - bên ngoài nhà trường

Nhà trường phổ thông không phải là đích đến, mà chỉ là nơi chuẩn bị cho học sinh sẵn sàng bước vào cuộc sống lao động hoặc học cao hơn. Mở cửa trường phổ thông cũng là cách tốt nhất để học sinh có cơ hội vận dụng kiến thức, kỹ năng học được trong nhà trường vào giải quyết các vấn đề khác nhau đang diễn ra trong xã hội. Đây cũng là phương thức đào tạo tốt nhất để học sinh sau khi tốt nghiệp tự tin, bắt tay ngay vào lao động hoặc học cao hơn. GV cần thiết kế được các bối cảnh KH phù hợp với đối tượng người học. Bởi theo góc độ tâm lý, để năng lực KH được phát triển thuận lợi dưới tác động của giáo dục, cần phải đảm bảo những điều kiện sau: - Bối cảnh khoa học đưa ra phải phù hợp với lứa tuổi, địa phương, vùng miền… - Các chủ đề phải tập trung tính ứng dụng ở các khía cạnh cuộc sống và sức khỏe, trái đất và môi trường, đời sống cá nhân, công việc và giải trí, cộng đồng và xã hội….. Ví dụ như việc lựa chọn dạy học chủ đề nước trong cuộc sống là có ý nghĩa.

This article is from: