
thánhca.nguyễntônnhanthánhca.nguyễntônnhanthánhca.nguyễntônnhan
thánhca.nguyễntônnhanthánhca.nguyễntônnhanthánhca.nguyễntônnhan
© Thư Hương 2014
Thánh Ca, bản đầu tiên, Bộ Lạc Mới xuất bản, tháng 4 năm 1967.
Thánh Ca, bản thứ hai, Thư Hương liên kết xuất bản, in lần 1, tháng 12 năm 2014.
ISBN 978 604 58 1658 5
…
Năm 1967, nhờ cơ duyên hiếm có, tôi được in miễn phí tập thơ Thánh Ca ở một nhà in nhỏ (chỉ có 2 máy pedal) nằm trong con hẻm Trần Kế Xương, Phú Nhuận. Lúc đó còn đi học và ăn bám cha mẹ, không một xu dính túi. Tập thơ in đúng 100 bản. Hăm hở ôm chồng sách lên xe buýt đến nhà sách Khai Trí ký gửi, nhưng chỉ được nhận dùm cho 20 cuốn, còn lại đem về quăng lăn lóc nên mối mọt (chắc cũng yêu thơ?!) ăn hết, đến sau 1975 coi nhưchẳng còn cuốn nào.
Mới đây, nhà thơ Nguyễn Đăng Thường đã đưa trọn vẹn Thánh Ca lên trang Tiền Vệ (tienve.org). Tôi hết sức bất ngờ và bàng hoàng cảm động. Rất cảm ơn nhà thơ còn lưu giữ chút cuồng điên tuổi trẻ của tôi. Có thể nói thời tuổi trẻ của tôi, và của cả nền thi ca miền Nam trước 1975, sao mà bát ngát cuồng si thơ mộng tự do phóng đãng tràn đầysángtạođến vậy!
Trích tùy bút “Nguyễn Tôn Nhan Đất Lạ Trời Quen với Bạn Hiền ” của thi sĩ Nguyễn Lương Vỵ đăng tải trên trang Da Màu (damau.org) tháng 4 năm 2008.
…
Tôi viết những bài này vào thủa mới làm thơ, lòng điên cuồng u minh còn nhiều lắm. Ngày ấy nhàbốmẹ tôi ởgần nhàthờThánh Mẫu,GiaĐịnh. Chiều chiều nằm trên căn gác gỗ tôi nghe tiếng chuông nhà thờ vang vọng. Chuông nhà thờ không âm trầm như tiếng chuông chùa, thanh âm cao vút của nó như muốn kéo người ta lên cái nước thiên đàng nào đó. Lúc trẻ dại ấy tôi đã có ác cảm với tiếng chuông nọ, rồi làm một loạt thơ (theo tôi là dữ dội) để tỏ ý “phản cảm” và đặt (bừa) là Thánh Ca. Đến tuổi này, tôi không còn “ác cảm” với bất cứ tôn giáo nào nữa, hay nói thực tình, tôi yêu thích mọi tôn giáo trên đời, kể cả ông đạo Dừa ở miền Nam mà có lần vào năm 1972 tôi còn định “quyy”theoôngta ...
Trích bài phỏng vấn “Nguyễn Tôn Nhan Chính Vì Mê Thi Ca, Tôi Học Chữ Hán ” do nhà văn Đặng Phú Phong thực hiện, đã đăng tải trên trang Da Màu (damau.org) tháng 7 năm 2008.
Phần giới thiệu sau đây là của nhà thơ Nguyễn Đăng Thường đã đăng tải trên trang Tiền Vệ (tienve.org) khi ông “công bố lại” Thánh Ca một thi tập mà ngay chính tác giả cũng chẳng còn chút ký ức nào vì thời cuộc thăng trầm đã xóa nhòa dấu tích. Thư Hương xin mạn phép mượn lại để làm lời dẫn nhập coi như là nguồn cơn trùng trùng mà thi sĩ Nguyễn Tôn Nhan đã thốt lời cảm tạrằng. Tập thơ này sau nhiều biến cố, tôi đã làm mất sạch. Năm vừa qua, rất may được nhà thơ Nguyễn Đăng Thường lưu giữ và đưa lên trang mạng văn học nước ngoài; chính anh là người đã đánh động về một thời gian tuyệt mù thơ mộng của hàng loạt cựa quậy văn chương tự do như thế! Thành tâm ghi nhận công lớn của anh Nguyễn Đăng Thường với riêng tôi. tháng 1 năm 2009
Một chiều năm xưa bát phố Sài Gòn tôi ghé vào nhà sách Khai Trí trước khi tiệm đóng cửa và ngạc nhiên phát hiện một cuốn thơ mỏng với nhan đề Thánh Ca, thi tập đầu tay của Nguyễn Tôn Nhan. Đọc thử vài câu tôi thấy chúng khá táo bạo, thậm chí có tí hương vị Rimbaud, một Rimbaud không vô thần, nên tôi vội vã mua ngay. Đây là một trong hai thi tập mỏng dính tôi đã mang theo mình khi… bước chân ra đi. Tập kia là Ngày Sanh củaRắn củaPhạm CôngThiện. Cáingạcnhiên thích thúlúc ấytất nhiên đến từ ngôn ngữ, vần điệu, hình ảnh, vừa giản dị, tươi mát, hồn nhiên như thể tác giả đã ứng khẩu thành thi vừa tân kỳ, siêu thực. Nhiều câu thơ đượclặp đi lặp lại nhưng không gâynhàm chán. * Tựa do Thư Hương đặt.
Thiên nhiên vẫn được nhân cách hóa nhưng không để phụ họa cho tình cảm con người, mà gần như ngược lại. Trời, sao, mây, nắng, mưa, chim, … đều có cá tính và hầu như chống chọi thi nhân: “trời ngập đầu trong nước xanh” “sao đi lang thang” “mây cắn nát cả hồn ” “ nắng nằm trên nóc nhà ga” “mưa dửng dung” “chim có kinh” , ... Thi nhân chỉ nhận định tình thế,không than van kể lể về số phận hay tình yêu, chàng (thi nhân) và nàng nhưnhững kẻ hoàn toàn xalạnhau.
Xin kể thử thí dụ về cách gieo vần cuối câu tôi cholà“khá xinh”:
Tôi về nghĩa địa một mình
Tôi rớt mất tim rồi tôi lặng thinh...
•
Nhổ lông ra xỉa răng Vũ trụ không hình thù Nọc ai phun chiều thu... •
Chiều hôm nay mưa đầu đông
Tôi khóc bên ngoài tôi khóc bên trong Chẳng còn ai ngồi ở công viên Chỉ còn tôi ngủ dưới cỏ biền ...
Nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan đã có thêm những đóng góp giá trị về Triết và Hán Học. Ông cũng là người đã sáng chế thể “lục bát ba câu” , một loại hài cú Việt, phong phú hóa thơ ta. Mong độc giả sẽ có những ngạc nhiên thích thú khi đọc Thánh Ca nhưtôingàynào. NguyễnĐăngThường 2008
Nguyễn Tôn Nhan. Thơ. Thánh Ca Một. Mười Lăm Bài. Tác Giả Vẽ Bìa Và Trình Bày. Bộ Lạc Mới Xuất Bản. Tháng Tư Một Chín Sáu Bảy. Bản Quyền Của Tác Giả.
Cấm Phiên Dịch Và Trích Đăng. Giá Từ Một Đến Một Triệu Đồng Việt Nam.
HưVô 19
MưaDửngDưng 20
MườiBa 22
ĐàLạt 24 Chiều Chiều 25
Nhánh Độc 26 MộtChùmBông 28
TặngNữTu Sĩ 31 NămMặtTrăng I 32 II 33 III 34 IV 35 V 36
ThăngHoa 37
Thủ Tiêu Người Tình 38
Tôicótrái timkhô Treongoài vườn đẫmnước mưa Chiều hômnay mưa đầu đông
Tôikhóc bên ngoài tôi khócbên trong Chẳngcòn aingồi ở côngviên Chỉ còntôi ngủ dưới cỏbiền Tôimất máu emnhư nhựa cây Tôiăn mặt trănguống mặt trời Chẳngcòn ai Để bốthí choemmột chiếc gậyănmày
Tôixuốngtôi lên Máu độc người da đen Dưới đườngxe điện ngầm Tôikhạc ra biển nhữngđờmxanh.
Mưa mưa mưa
Mâybơ phờ tôi bơ thờ
Thở ra máu
Trời ngập đầu trongnướcxanh
Daogămcủa tôi haytôi của daogăm
Hãyhát đi trong mộphần
Bôngtrắngdửngdưng
Thở ra máu
Tôiđau gan
Chiều đấmvỡ mặt trăng
Saođi langthang
Vỡ mặt trời vỡ mặt trăng
Mưa mưa dửngdưng
Tôivề nghĩa địa một mình
Tôirớt mất timrồi tôi lặngthinh Mẹ tôi đi chợ với chiếc giỏxanh Mua chotôi nhữngcon búp bêkimkhí Nhữngcon búp bê hiếp dâmnhau Ngaytrongchiếc giỏxanh Ngaytrongchiếc giỏxanh mưa dửngdưng.
Nhét nỗi buồn vàomồmnhai
Khôngnuốt xuốngkhông nhả ra
Nhét vàonhainhai vàomồm
Tôioẹ ra chiến tranh
Bôngtuyết khôsángchiều mưa tối nhà mồ
Tôioẹ ra hòa bình
Bã mật xanh
Người độngkinh trên nóc nhà thờ
Tôitrở thành Đức Chúa Trời hátnghêu ngao một bản
Suốt buổi chiều ngang
Suốt buổi chiều dọc
Tôikhôngsaokhông khóc
Hu hu
Nhét vàonhainhai vàomồm Emkhônglànữ tu Cóvú bó Emkhônglàđàn bà Chết trongnhà bảosanh Nhà bảosanhnhà thươngnhà thờ nhà mồ Nhà thơ Hu hu Tôimọc trên núi cao Trổtrái buồn bốn mùa Mâyrơi xuốngvực sâu Lệ đỏ Nhân loại mù Hu hu.
Nhét mặt trời vàonồi
Sángmai đem raluộc Râu xanh
Tôivừa trở về nơi tôi chết
Thángbảytrời mưa trên nhữngđồi thôngvàng
Người đàn ông mangthai
Chotôi một đồng mua thuốc hút
Mưa trên nhữngđồi thôngvàng
Người đàn ông mangthai
Tôithổi sáo
Mưa thều thàotrongtim.
Sánghôm nay mặt trời xanh Nàng giữ trên môi bông tuyết nhỏ
Lá trongvườn từnglưỡi daogăm Nàng giữ trên taybôngtuyết đỏ Chimkhôngbayđến mái hồn tôi Nơi côđơn rêu ngàn nămđã phủ Nơi vinh diệu của nhữngkẻ u buồn Nơi sánghômnaycủa tôi của nàng Của hai kẻ đemphơi hồn ủ rũ Chiều tôi trở về trên đồi cây Dưới cành khôcóbóngnàngtreocổ.
----------------
* Có đăng trên tuần báo Khởi Hành số 25, Sài Gòn, tháng 10 năm 1969
Ở nócmộkia người rađời
Tôimặc quần jean xanh
Đi giàybố
Mâycắn nátcả hồn Buổi chiều chưa kịp vỡ
Trên nhữngnhánh câyđiên
Tôithắt cổ Thắt cổ
Hạnh Mai vừa chàođời ởnócmộkia
Rên như con chónhỏ
Mỗi ngày tôi đến ngủ ở ngã tư
Tôimơ thấyĐỗ Hạnh Mai đẻ ra tôi Rên rất nhỏ
Tôikhóc suốt buổi chiều Hạnh Mai chotôi bú Hạnh Mai phơi tãxanh
Tóc tơi tả
Mưa chập chờn ướt sũngcơn điên Tôisuốt đời vẫn quấn tãxanh Của Hạnh Mai Của buổi chiều chưa kịp vỡ Ở nócmộcâykhô
Tôithắt cổ Thắt cổ Códángairất nhỏ Dưới chân tôi nhưHạnh Mai.
Nắngnằmtrên nóc nhà ga
Chimcó kinh rơi giọt máu nhỏ
Bayvề đâu bay về đâu tôichiều nay Chimcó kinh suốt mùa thu ngủ
Tôinằmtrên nóc nhà ga
Tôichụp bôngnắngkhôvỡ
Con chuồn chuồn
Tôingạt thở
Tôinằmthu hiện nóc nhà ga
Chimbơi trongchùmbôngnắngkhô
Chiều đè tôi ngạt thở.
Nguyễn Tôn Nhan vẽ năm 1965
Đừngngười đừngkhóctiếngchim Sớmthu hồngtạt cửa Thiền bụi nâu Chimkêu nhí nhách tronglầu Thích Ca tượngnọrụngđầu Giê Su.
ITôihuýtsáomột mình
Rắn hổmangrắn hổ mang
Chiều đeogôngtử hình
Đồi thôngtrời rụngrất nhiều bông
Rất nhiềubôngquá nhiềubông
Tôihuýtsáoliên miên Chiều mưa rángbóngcầu vồng
Tôiquỳngó mãi nước trongtim Nước trongtimnước đọngtrongtim
Tôihuýtsáomột mình
Rắn hổmangrắn hổ mang
Tôileolên đỉnh rángcầu vồng Tôiđái chovũ trụ mù sương.
Nhả nọc người Tôibay lên rừngsươngthu Dơi về cánh rất mỏng Biển chìmtôi ngã đè Tôiphán hãycónhữngmặt trời Tôinhận chìmthượngđế Động máu tươi Độngchút máu tươi tôi về Biển chìmtôi lượn mãi trongkhuya.
Mưa thều thàosắp chết Mái nhàtrắngxóa sọngười Tôichạmvàotôi giàn hoa giấy Cỏchạm vàotôi mâychạmtôi.
Đi giữa phốmột mình Giàyda đen đau tim Tôihình như rất xám Trời thả đầyvật buồn Nhổlôngra xỉa răng
Tôihình như rất đỏ Tôihình như rất vàng
Cuộc đời làhình vuông Dĩ nhiên vui dĩ nhiên Cókhi hình như tròn Nhổlôngra xỉa răng Vũ trụ khônghình thù Nọc ai phun chiều thu.
Chimđừngkêu chimđừngkêu
Trời đừngchiều trời đừngchiều
Khôngtôi khôngbiết chết
Chưa tôi chưa rađời Một lần thôi cũngnhiều.
*Có đăng trên tuần báo Khởi Hành số 25, với tựa đề “Quá Nhiều ” , Sài Gòn, tháng 10 năm 1969.
Nửa đêmxanh trăngnằm cuộn ngọc Thi sĩ đọc thánh ca Máu trườn trongóc người vônghĩa
Tôikhạc hồn tôi rahư vô Đâmchết loài người tôi mất ngủ
Tôingậmđầu tôi tronghồn tôi Đêmvỡ nanh daoác quỷ
Tôikhạc hồn tôi rahư vô Khôngailà thisĩ Khôngailà thisĩ Đêmvỡ trăngnằmxác tôi ngậmngọc Nhân loại đeotangđen.
Nàngđóngđinh tôi trên thập tự
Chiều quỳdưới đất khócvôtư
Tôixuốngrút xương mình đẽosáo
Tôilại leolên
Thập tự nhỏ
Nàngđến quăngchotôi vật đen Nàngrất gầytôi thổi sáo Mưa xiên thủnghồn nàng Xác người điên xác ngườiđiên Khócnức nở Cười tức thở Tôivẫn treochân trên thập tự Tôinhìn mâytrắngngủ langthang Khôngcòn gì nói nữa.
(trích thư)
London 17.04.2013
Hôm nay tôi ra bưu điện gởi cuốn thơ về cho anh. Tập thơ vẫn còn nguyên vẹn như lúc tôi mua ở Nhà sách Khai Trí trên đường Lê Lợi bốn mươi năm trước lúc anh chưa chào đời. Món quà tuy mọn nhưng hy vọng sẽ mang đến anh một niềm vui không nhỏ… Nguyễn Đăng Thường
Gia đình cố thi sĩ Nguyễn Tôn Nhan chân thành cảm tạ nhà thơ Nguyễn Đăng Thường đã giữgìnvà gửi tặng chút di vật quý giá của người thân chúng tôi.
Sinh 1/2/1948 tại BắcViệt Nam.
Trưởngthành tại Nam Việt Nam.
Trước 1975, sángtác thơ văn.
Sau 1975, nghiên cứu văn học cổ điển Trung Quốc.
VềcõiTịnh Độ 31/1/2011.
Trước Tác Chủ Yếu
• KinhLễ (dịch chú 1999)
• LiệtTử XungHưChânKinh (dịch chú 1999)
• TrangTử NamHoaKinh(dịch chú 1999)
• TừĐiểnThànhNgữĐiểnTíchTrungQuốc (biên soạn 1999)
• TừĐiểnVănHọcCổĐiểnTrungQuốc(biên soạn 1999)
• TừĐiểnHánViệt VănNgôn DẫnChứng (biên soạn 2002)
• BáchKhoaThưVănHóaCổ ĐiểnTrungQuốc(biên soạn 2002)
• Nho GiáoTrungQuốc(biên soạn 2005)
• HoàiNamTử CuộcĐời,TưTưởngvàToànVăn
HoàiNamHồngLiệt(biên soạn dịch chú 2008)
• Lục bát ba câu (thơ 2012)
• ThánhCa (thơ 1967, 2014)
NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN 65 Nguyễn Du, Hà Nội
Tel & Fax: (04) 38222135
Chi Nhánh Miền Nam 371/16 Hai Bà Trưng, Q. 3, Tp. Hồ Chí Minh Tel & Fax: (08) 38297915
Chịu trách nhiệm xuất bản: Trung Trung Đỉnh Biên tập: Trung Dân Trình bày: Gia đình Tác giả In lần thứ nhất, số lượng 500 cuốn, khổ 12x20cm, tại Công ty In Liên Tường. Số đăng ký KHXB: 348 2014/CXB/28 09/HNV. Quyết định xuất bản số: 147/ QĐ NXB HNV ngày 31/8/2014. In xong và nộp lưu chiểu năm 2014.