Tạp chí pháp luật IIRR | IIRR Legal Review | No.12 – Hiệu lực pháp lý các điều khoản trong hợp đồng

Page 1

MỤC

1. Khái niệm điều khoản trong hợp đồng

2. Đặc điểm của điều khoản trong Hợp đồng

3. Điều khoản và sự thương thảo được thực hiện trong quá trình đàm phán Hợp đồng

3.1. Người đại diện có kiến thức chuyên môn

3.2. Vấn đề được đặc biệt coi trọng bởi người được đại diện

3.3. Khoảng cách giữa thời điểm xác định các thoả thuận và hợp đồng

3.4. Đưa các điều khoản vào hợp đồng được giao kết bằng lời nói

3.5. Mức độ thông báo

3.6. Giao dịch diễn ra trước thời điểm giao kết hợp đồng Thời điểm đưa ra thông báo về thời hạn

4. Hợp đồng được xác lập bằng văn bản

4.1. Quy tắc bằng chứng tạm thời

4.2. Điều khoản hàm ý

4.3. Phong tục

4.4. Quy chế

4.5. Các điều khoản được đưa ra bởi các Tòa án

4.6. Hiệu quả kinh doanh và ý định của các bên

5. Hợp đồng thế chấp

LỤC

Hợp đồng cung cấp những điều khoản, điều kiện khác nhau để bảo vệ quyền lợi, trách nhiệm và quyền hạn của các bên trong một quan hệ giao dịch, bảo đảm rằng mọi thỏa thuận được thực hiện theo cách đúng đắn và trung thực .

“ LEGAL REVIEW 06

Những điều khoản trong hợp đồng là đơn vị cơ bản trong văn bản pháp luật, một bộ quy tắc, điều kiện, hoặc yêu cầu để thực hiện của hợp đồng đảm bảo mọi thỏa thuận được thực hiện với sự đồng thuận của hai hay nhiều bên tham gia giao dịch.

Điều khoản trong hợp đồng có thể bao gồm các thỏa thuận liên quan đến thời gian thanh toán, bảo hành hoặc bảo lãnh cũng như các quyền và trách nhiệm của các bên trong hợp đồng. Điều khoản trong hợp đồng cũng định rõ những điều kiện pháp lý để bảo vệ các bên trong trường hợp có bất kỳ sự bất đồng hoặc vi phạm nào.

LEGAL REVIEW 07

Bên cạnh đó, cách thức thể hiện thỏa thuận của các bên hay hình thức của hợp đồng cũng rất đa dạng, hợp đồng có thể được lập thành văn bản, bằng miệng hoặc kết hợp cả hai. Nếu có vấn đề phát sinh, chúng ta cần phải biết chính xác các điều khoản của hợp đồng là gì. Điều này rất dễ dàng trong trường hợp hợp đồng được xác lập bằng văn bản nhưng trên thực tế có nhiều tình huống khác sẽ có thể phát sinh, chẳng hạn, một điều khoản quan trọng bị quên đưa vào, hoặc một số điều khoản quan trọng hơn những điều khoản khác có thể được thực hiện một phần bằng lời nói và một phần bằng văn bản.

LEGAL REVIEW 08

Ví dụ điển hình nhất chúng ta có thể thấy thường xuyên diễn ra trong cuộc sống hàng ngày: Khi mua vé tàu hỏa hoặc xe buýt, phần lớn quá trình đàm phán được các bên trao đổi trực tiếp bằng miệng, nhưng vé phải tuân theo một tập hợp các điều khoản tiêu chuẩn bằng văn bản. Trong các lĩnh vực của luật hợp đồng, Tòa án cố gắng xem xét thông qua góc nhìn của các chuyên gia pháp luật để thực hiện ý định của các bên.

LEGAL REVIEW 09

Khái niệm ĐIỀU KHOẢN trong hợp đồng

01 LEGAL REVIEW 10

Chúng ta cần biết liệu lời nói trong quá trình đàm phán là điều khoản của hợp đồng hay chỉ đại diện cho một tuyên bố. Điều quan trọng nằm tại các biện pháp khắc phục sẵn có đối với việc vi phạm một điều khoản của hợp đồng khác với các biện pháp khắc phục sai lệch. Các hướng dẫn khác nhau đã được các Tòa án phát triển để giúp quyết định xem một tuyên bố có thực sự là một điều khoản của hợp đồng hay một đại diện hay không.

Điều khoản là đơn vị cơ bản trong văn bản pháp luật, hợp đồng, điều lệ... trong các văn bản pháp luật thường được sử dụng để chỉ một bộ phận chính cơ bản cấu thành của văn bản pháp luật. Điều khoản trong hợp đồng là một quy định cụ thể trong hợp đồng mà các bên thoả thuận, ví dụ: điều khoản về thời hạn giao nhận hàng hoá trong hợp đồng mua bán. Điều khoản trên thực tế thường được dùng trong văn bản (hoặc trong hợp đồng)

cụ thể với thuật ngữ ngắn gọn hơn là “Điều”.

LEGAL REVIEW 11
01 02 03 LEGAL REVIEW 12

Trong Hợp đồng, các điều khoản được phân thành 3 loại:

Điều khoản cơ bản

Là những điều khoản không thể thiếu được đối với từng loại hợp đồng. Nếu không thoả thuận được những điều khoản đó thì hợp đồng không thể giao kết được. Ví dụ: Điều khoản về đối tượng hợp đồng mua bán là gì, số lượng, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời gian, địa điểm,…. Nội dung của điều khoản cơ bản chính

là cốt lõi các nội dung hai bên đã thỏa thuận và thống

nhất. Nếu không có điều khoản cơ bản hợp đồng không

đầy đủ nội dung sẽ dẫn đến vô hiệu.

Điều khoản thông thường

Là những điều khoản được pháp luật quy định trước. Nếu khi giao kết hợp đồng, các bên không thoả thuận những điều khoản này thì vẫn coi như hai bên đã mặc nhiên thoả thuận và được thực hiện như pháp luật đã quy định. Ví dụ: Điều khoản về bồi thường thiệt hại, điều khoản bất khả kháng (có thể chuyển thành điều khoản tùy nghi), điều khoản về thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Điều khoản tùy nghi

Khi giao kết hợp đồng các bên còn có thể thoả thuận

để xác định thêm một số điều khoản khác nhằm làm cho

nội dung của hợp đồng được cụ thể hoặc tạo điều kiện

thuận lợi cho các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng.

Các điều khoản này được gọi là điều khoản tùy nghi. Ví

dụ: Điều khoản về phạt hợp đồng, điều khoản về bất khả

kháng, điều khoản về giải quyết tranh chấp bằng trọng

tài và các thỏa thuận khác giữa hai bên,….

LEGAL REVIEW 13

Đặc điểm của ĐIỀU KHOẢN trong Hợp đồng

02 LEGAL REVIEW 14

Tính thỏa thuận: Hợp đồng trước hết phải là một thỏa thuận có nghĩa, phải chứa đựng yếu tố tự nguyện khi giao kết nó phải có sự trùng hợp ý chí của các bên. Việc giao kết hợp đồng dân sự phải tuân theo các nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng, tự do giao kết hợp đồng, nhưng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội. Yếu tố thỏa thuận đã bao hàm trong đó yếu tố tự nguyện, tự định đoạt và sự thống nhất về mặt ý chí. Đây là yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự đặc trưng của hợp đồng so với các giao dịch dân sự khác, đây cũng là yếu tố làm nên bản chất của Luật dân sự so với các ngành luật khác.

Về chủ thể tham gia hợp đồng dân sự:

Chủ thể giao kết, thực hiện hợp đồng phải có ít nhất từ hai bên trở lên, vì hợp đồng dân sự là một giao dịch pháp lý song phương hay đã phương. Các chủ thể khi giao kết, thực hiện hợp đồng đều phải có tư cách chủ thể, tức là phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật đối với một chủ thể của quan hệ dân sự.

LEGAL REVIEW 15

Mục đích:

Hướng tới của các bên khi tham gia hợp đồng là để xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Quyền và nghĩa vụ dân sự trong hợp đồng có phạm vi rất rộng, trước đây trong Pháp lệnh hợp đồng dân sự ngày 29-4-1991 (Điều 1) quy định hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận của các bên về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên trong mua bán, thuê, vay, mượn, tặng, cho tài sản, làm một hoặc không làm công việc, dịch vụ hoặc các thỏa thuận khác mà trong đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng.

LEGAL REVIEW 16
LEGAL REVIEW 17

thực hiện trong quá trình

ĐÀM PHÁN HỢP ĐỒNG

Chúng ta cần biết liệu một tuyên bố được

đưa vào hợp đồng như một điều khoản chính thức hay chỉ là sự thương thảo được thực hiện trong quá trình đàm phán. Vấn đề này rất quan trọng khi có bất kỳ hành vi vi phạm hợp đồng nào xảy ra. Các biện pháp khắc phục sẵn có đối với việc vi phạm một điều khoản của hợp

đồng khác với các biện pháp khắc phục sai lệch trong quá trình đàm phán. Các hướng dẫn khác nhau đã được các Tòa án phát triển để

giúp quyết định xem một tuyên bố có thực sự là một điều khoản của hợp đồng hay chỉ đơn

giản là sự thương thảo trong quá trình đàm phán hợp đồng hay không.

LEGAL REVIEW 18 03
Điều khoản & sự thương thảo
được
LEGAL REVIEW 19

3.1. Người đại diện có kiến thức chuyên môn

Những ý kiến trình bày của một người có kiến thức chuyên môn về một chủ đề được đưa ra quan trọng hơn nhiều so với những phát biểu tương tự của một người không có hoặc thiếu kiến thức chuyên môn. Hai trường hợp sẽ sau minh họa rõ điều này: Trong trường hợp đầu tiên, bị đơn là một cá nhân bán xe của mình cho một đại lý. Trong trường hợp thứ hai, bị cáo là một đại lý.

LEGAL REVIEW 20
LEGAL REVIEW 21

Án lệ Oscar Chess v Williams (1957)

Tình huống: Các bị cáo đã bán một chiếc ô tô Morris cho những

người yêu cầu bồi thường, những người buôn bán mô tô, với giá

290 Bảng Anh. Các bị cáo đã cung cấp một bản sao đăng ký

lần đầu của chiếc xe và cho biết chiếc xe được đăng ký lần

đầu vào năm 1948. Khoảng 8 tháng sau, những người yêu cầu

bồi thường biết rằng chiếc xe thực sự đã được đăng ký vào năm

1939 và do đó chỉ có trị giá 175 Bảng Anh. Bị cáo thành thật tin

rằng chiếc xe là một mô hình năm 1948. Các nguyên đơn yêu

cầu bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.

LEGAL REVIEW 22

Vấn đề trong bối cảnh này là liệu những lời khai của các bị cáo có cấu thành sự bảo hành cho chiếc xe hay không?

“ LEGAL REVIEW 23

Tòa án cấp phúc thẩm thấy rằng ý kiến của các bị cáo không cấu thành sự bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng. Quan trọng hơn, Tòa án đã đưa ra một số cân nhắc cần được thực hiện khi đánh giá liệu một tuyên bố có phải là một bảo đảm hay không.

LEGAL REVIEW 24

(1) Trong trường hợp một giả định mang tính chất cơ bản, thiết yếu của hợp đồng không có nghĩa nó là một điều khoản của hợp đồng.

(2) Thuật ngữ bảo hành nghĩa là một lời hứa ràng buộc cũng như một điều khoản phụ, không cần thiết của hợp đồng.

(3) Bảo hành phải được phân biệt với những lời nói đưa ra không có căn cứ xác lập.

(4) Việc bảo hành có được dự định hay không cần phải được đánh giá một cách khách quan, dựa trên lời nói và hành vi của các bên.

(5) Trong trường hợp một bên đưa ra tuyên bố, điều mà anh ta nên biết, nhưng không phải là hiểu biết của bên kia, thì rất dễ suy ra một sự bảo đảm. Nếu bên đó tuyên bố rằng đó không phải là kiến thức của anh ta và thông tin được chuyển từ người khác, thì bảo đảm sẽ khó suy ra hơn.

(6) Một tuyên bố bằng miệng lặp đi lặp lại bằng văn bản gợi ý một sự bảo đảm, nhưng đó không phải là kết luận cuối cùng. Trên thực tế điều này không được nêu bằng văn bản và không có bất kỳ xác nhận nào giữa các bên.

LEGAL REVIEW 25

Án lệ Dick Bentley Productions Ltd v Harold Smith (Motors) Ltd (1965)

Tình huống: Nguyên đơn, Dick Bentley, biết bị cáo Harold Smith, một chuyên gia về ô tô danh giá nổi tiếng và yêu cầu bị cáo để mắt đến một chiếc ô tô Bentley đã được kiểm tra cũng như bảo quản cẩn thận, vì anh ta muốn mua một chiếc. Khi bị đơn có được chiếc xe Bentley, anh ta đã thông báo cho nguyên đơn và giới thiệu nó cho anh ta, nói rằng chiếc xe này trước đây thuộc sở hữu của một người đàn ông Đức, người này đã thay thế một số bộ phận nguyên bản của chiếc xe và mới chỉ lái xe được khoảng 20.000 dặm kể từ khi thay thế, nghĩa là chiếc xe đang trong tình trạng tốt.

Nguyên đơn sau đó đã mua chiếc xe, tuy nhiên vấn đề đã sớm phát sinh. Theo chế độ bảo hành, bị đơn đã thực hiện một số sửa chữa, tuy nhiên với sự phát sinh của nhiều lỗi hơn, rõ ràng chiếc xe trên thực tế đã đi được nhiều dặm hơn so với suy nghĩ ban đầu kể từ khi thay thế các bộ phận. Do đó, nguyên đơn đã khởi kiện bị đơn về hành vi vi phạm hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Đáp lại, bị cáo khẳng

định mình đã trình bày sai một cách vô tội.

LEGAL REVIEW 26

Liệu tuyên bố của bị cáo về chất lượng của chiếc xe có thể được coi là một điều khoản của hợp đồng dựa trên chuyên môn của anh ta với tư cách là một đại lý xe hơi uy tín hay không?

“ LEGAL REVIEW 27
LEGAL REVIEW 28

Tòa án đã quyết định xem tuyên bố như một điều khoản hợp đồng. Họ xác định rằng vì bị cáo có chuyên môn cao hơn, với tư cách là một đại lý ô tô, nguyên đơn có quyền đưa ra sự lựa chọn dựa vào trình bày của họ về chuyên môn.

Qua hai tình huống trên có thể lý giải tại sao các Tòa án buộc một đại lý ô tô phải chịu trách nhiệm nhiều hơn một cá nhân đối với những tuyên bố về một chiếc ô tô.

LEGAL REVIEW 29

Người được đại diện có thể đưa ra yêu cầu đặc biệt về một khía cạnh của cuộc đàm phán, hoặc làm rõ rằng một sự việc quan trọng cụ thể. Cuộc điều tra cũng có thể ảnh hưởng đến việc liệu vấn đề đó có được coi là một điều khoản của hợp đồng hay không.

LEGAL REVIEW 30
3.2. Vấn đề được đặc biệt coi trọng bởi người được đại diện
LEGAL REVIEW 31

Nguyên đơn, Bannerman, đã lập một hợp đồng với bị đơn, White, về việc mua hoa bia, và dự định sử dụng chúng để sản xuất bia. Người yêu cầu bồi thường đã hỏi cụ thể liệu hoa bia có được xử lý bằng lưu huỳnh hay không vì chỉ có thể tạo ra bia khi sử dụng nguyên liệu từ hoa bia chưa qua xử lý. Hơn nữa, nguyên đơn tuyên bố rõ ràng rằng anh ta sẽ không mua hoa bia nếu chúng đã được xử lý. Bị đơn đảm bảo với nguyên đơn rằng hoa bia chưa xử lý, tuy nhiên trên thực tế, hoa bia đã qua xử lý bằng lưu huỳnh; do đó, Bannerman đã khởi kiện White để đòi bồi thường thiệt hại, cho rằng tuyên bố liên quan đến hành xử nên được coi như một điều khoản hợp đồng mà White đã vi phạm.

LEGAL REVIEW 32
Án lệ Bannerman v White (1861)

Tòa án cho nguyên đơn thấy rằng vấn đề liệu hoa bia có được xử lý bằng lưu huỳnh hay không thực sự là một điều khoản hợp đồng chứ không phải là một thoả thuận đơn thuần không có giá trị pháp lý. Tòa án đặc biệt nhấn mạnh vào thực tế là nguyên đơn đã truyền đạt tầm quan trọng và hậu quả của hành động với bị đơn, nghĩa là họ nhận thức được một cách hợp lý về tầm quan trọng của nó và nguyên đơn chỉ ký hợp đồng trên những cơ sở này. Bởi vì người mua đặc biệt hỏi liệu một số hoa bia có được xử lý bằng lưu huỳnh hay không, điều này được coi là một điều khoản của hợp đồng mua bán. Khi hoa bia sau đó được phát hiện đã qua xử lý bằng lưu huỳnh, người mua có quyền từ chối hợp đồng.

Liệu sự đảm bảo của bị đơn về việc liệu hoa bia có

được xử lý bằng lưu huỳnh hay không có cấu thành một tuyên bố hay một điều khoản có hiệu lực thi hành theo hợp đồng hay không?

“ LEGAL REVIEW 33

3.3. Khoảng cách giữa thời điểm xác định các thoả thuận & hợp đồng

LEGAL REVIEW 34
LEGAL REVIEW 35

Án lệ Routledge v McKay (1954)

Tình huống: Nguyên đơn đã mua một

bộ mô tô thùng (sidecar) Douglas năm

1936 trong thỏa thuận trao đổi, yêu

cầu anh ta phải trả số tiền còn lại là

30 Bảng Anh. Các tài liệu đăng ký đã

ghi sai mẫu xe thành năm 1942, vì chủ

sở hữu trước đó đã cải tạo chiếc xe và

đăng ký nhầm thành năm 1942. Người

bán hiện tại, trong quá trình đàm phán,

đã đề cập đến ngày tháng năm 1942,

nhưng giao dịch thực tế chỉ diễn ra vài ngày sau đó.

Mặc dù nhật ký ghi rõ năm sản xuất của chiếc xe mô tô là năm 1942, nhưng tuyên bố đó chỉ là sự thể hiện chứ không phải một điều khoản hợp đồng; cũng như không có bất kỳ sự lừa dối nào trong giao dịch này. Hơn nữa, cả chủ sở hữu đã đăng ký sai cũng như bất kỳ chủ sở hữu can thiệp nào đều không phải chịu trách nhiệm pháp lý trước chủ sở hữu hiện tại. Sự chậm trễ giữa các cuộc đàm phán và hợp đồng là

một yếu tố góp phần vào quyết định.

LEGAL REVIEW 36

Như vậy, điều khoản là phần không thể thiếu của một thỏa thuận, trong khi đại diện là một tuyên bố trước hợp đồng, không phải một phần của hợp đồng trừ khi hay cho đến khi nó được thông qua như một điều khoản. Trong quá trình đàm phán, đề nghị và chấp nhận, đại diện có thể ở dạng:

I. Lời mời

II. Yêu cầu cung cấp thông tin

III. Tuyên bố ý định;

Nhưng một khi hợp đồng hợp lệ được hình thành, những sự phân biệt này không còn phục vụ mục đích nào nữa.

LEGAL REVIEW 37
LEGAL REVIEW 38

3.4. Đưa các điều khoản vào

Rõ ràng sẽ không công bằng nếu một bên trong hợp đồng được phép tuyên bố rằng họ đã ký hợp đồng theo một số điều khoản mà bên kia không biết trong khi bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận. Do đó, các điều khoản của hợp đồng miệng phải rõ ràng

đối với cả hai bên trước khi bất kỳ hợp đồng nào được thực hiện.

Một điều khoản thường sẽ được đưa vào hợp đồng nếu:

● Bên bị ảnh hưởng biết về điều khoản, hoặc

● Các bước cần thiết và hợp lý đã được thực hiện để thông báo cho anh ấy về thuật ngữ này.

Khi quyết định liệu một bên đã có thông báo hợp lý về thời hạn hay

chưa, Tòa án sẽ xem xét phạm vi hoặc mức độ của thông báo và

thời điểm đưa ra thông báo.

LEGAL REVIEW 39
hợp đồng được giao kết bằng lời nói

3.5. Mức độ thông báo

Tòa án xem xét liệu các bên có rõ ràng rằng một

điều khoản được dự định trở thành một phần của hợp đồng hay không. Nếu một tài liệu giống tài liệu hợp đồng thì có thể giả định rằng các bên hiểu nó

sẽ được đưa vào và có sự ràng buộc pháp lý ngay

cả khi trên thực tế những điều khoản chưa được đọc. Mặt khác, không thể đặt ra giả định nếu tuyên bố không phải một phần rõ ràng của hợp đồng.

LEGAL REVIEW 40

Một số ví dụ về văn bản hoặc các loại vé phát sinh trên thực tế có phải loại tài liệu mà chúng ta thường giữ và cần đọc trước khi lập hợp đồng hay không? Điều này phát sinh trong trường hợp sau đây liên quan đến một số loại vé trên thực tế trong cuộc sống hàng ngày.

LEGAL REVIEW 41
LEGAL REVIEW 42

Án lệ Chapelton v Barry UDC (1940)

Tình huống: Chapelton muốn thuê một chiếc ghế xếp và sử dụng ghế thuộc sở hữu của Hội đồng quận đô thị Barry (BUDC). Một thông báo bên cạnh những chiếc ghế nêu chi tiết chi phí thuê và khuyên khách hàng lấy vé và giữ lại để kiểm tra. Chapelton mua vé và bỏ vào túi. Một mặt của tấm vé, hội đồng có ý định loại trừ trách nhiệm pháp lý đối với bất kỳ tai nạn nào do việc thuê ghế gây ra. Chapelton ngồi xuống và bị ngã do ghế gãy. Anh ta đã yêu cầu BUDC bồi thường thiệt hại và người ta cho rằng Hội đồng đã loại trừ thành công trách nhiệm pháp lý trước đó. Chapelton sau đó kháng cáo.

Chapelton lập luận rằng bản thân không được thông báo đầy đủ về các điều khoản in trên vé và do đó, anh ta không nên bị ràng buộc bởi chúng. Không có gì trên thông báo cạnh ghế, hoặc trên mặt vé để cảnh báo khách hàng chú ý đến các điều khoản ở mặt sau. Vé được coi là biên nhận được cung cấp sau khi hình thành hợp đồng. BUDC cho rằng Chapelton đã có thông báo về các điều khoản vì điều khoản loại trừ được in rõ ràng trên vé và thông báo bên cạnh những chiếc ghế ngoài trời chỉ đơn thuần là một lời mời. Tấm vé không chỉ đơn thuần là biên nhận mà nó còn là một hợp đồng bằng văn bản nêu chi tiết các điều khoản mà các bên đã đồng ý ràng buộc.

LEGAL REVIEW 43
LEGAL REVIEW 44

Kháng cáo của Chapelton đã thành công. Vé được coi là biên lai, còn các điều kiện BUDC đặt ra để cho thuê ghế tương đương với những điều ghi trong thông báo mà vốn không có bất kỳ điều khoản loại trừ nào. Do đó, BUDC không thể dựa vào những điều khoản mà Chapelton không chú ý đến.

Đây thực sự là những quyết định dựa trên hiệu lực hợp đồng của vé, thường là đối với phương tiện giao thông công cộng, nhưng chúng giúp hình thành một bức tranh tổng thể về những gì cần thiết cho một điều khoản được giao kết. Tòa án cấp phúc thẩm đã đặt ra hai câu hỏi cần được xem xét khi kiểm tra trách nhiệm pháp lý:

● Nguyên đơn có đọc hoặc biết về thuật ngữ này không?

● Nếu không, bị đơn đã làm những gì đủ hợp lý để thông báo cho nguyên đơn về thời hạn?

LEGAL REVIEW 45

Giao dịch diễn ra trước thời điểm

GIAO KẾT HỢP ĐỒNG

Qua các trường hợp trên có thể thấy rằng

các Tòa án đã thực sự cố gắng đưa ra quan điểm hợp lý và làm hết sức mình để

bảo vệ người tiêu dùng. Tuy nhiên, điều này

không có nghĩa là họ sẽ không có lập trường

khách quan và có thể coi rằng đã có đầy

đủ thông báo nếu có thể chứng minh rằng

đã có ‘quá trình giải quyết’ giữa các bên.

3.6.
LEGAL REVIEW 46
LEGAL REVIEW 47

Án lệ Hollier v Rambler Motors (AMC) Ltd (1972)

Tình huống: Hollier đã nhờ gara bị cáo sửa chữa ô tô của mình ba hoặc bốn lần trong khoảng thời gian 5 năm. Ít nhất hai lần trong số những trường hợp này, anh ta đã ký vào một mẫu đơn tuyên bố rằng nhà để xe được miễn trách nhiệm đối với những thiệt hại do hỏa hoạn gây ra tại cơ sở của họ. Hollier đã không đọc mẫu đơn. Vào dịp này, đã có một thỏa thuận miệng về việc tiến hành sửa chữa và Hollier đã không ký vào một biểu mẫu. Xe của anh ta bị hư hại do hỏa hoạn và Hollier đã tuyên bố do sơ suất.

LEGAL REVIEW 48

Hollier cho rằng gara đã cẩu thả và vi phạm điều khoản ngụ ý rằng họ sẽ chăm sóc chiếc xe của anh ấy một cách hợp lý. Ông cũng cho rằng gara không thể dựa vào điều khoản loại trừ vì không thể nhập điều khoản này từ các hợp đồng bằng văn bản trước đó vào hợp đồng miệng giữa ông và gara. Nhà để xe tìm cách dựa vào điều khoản miễn trừ trên cơ sở rằng điều khoản này đã được đưa vào hợp đồng miệng nhờ quá trình giao dịch trước đó của các bên. Họ lập luận rằng ba hoặc bốn lần trong vòng năm năm là đủ để dẫn đến một quá trình giao dịch sao cho các điều khoản của hợp đồng trước đó sẽ được đưa vào hợp đồng miệng, và do đó họ được miễn trừ trách nhiệm pháp lý.

Hollier đã thành công trong yêu sách của mình. Ba hoặc bốn lần trong 5 năm không đủ để coi là một quá trình giao dịch và do đó, điều khoản loại trừ đã không được đưa vào hợp đồng miệng. Ngay cả khi điều khoản đã được nhập khẩu như vậy, ngôn ngữ được sử dụng không đơn giản đến mức loại trừ rõ ràng nhà để xe khỏi trách nhiệm pháp lý đối với sự cẩu thả của chính họ.

Tuy nhiên, nếu một điều khoản được đưa vào hợp đồng thông qua quá trình giao dịch, thì phải có một mô hình hành vi nhất quán, như trường hợp sau đây cho thấy.

LEGAL REVIEW 49

Án lệ McCutcheon v David MacBrayne Ltd (1964)

Tình huống: McCutheon đã giao chiếc xe của mình cho công ty vận chuyển bị đơn để vận chuyển từ Hebrides đến đất liền. Chiếc xe đã bị phá hủy khi con tàu bị chìm do sơ suất của công ty. Thông lệ thông thường của công ty là phát hành một lưu ý rủi ro cho khách hàng miễn trừ trách nhiệm pháp lý đối với những tổn thất do sơ suất của họ. McCutheon đã ký những ghi chú như vậy vào những dịp trước nhưng chưa bao giờ đọc các điều khoản. Trong dịp này, không có ghi chú rủi ro nào như vậy được cung cấp và McCutheon đã tìm cách lấy lại giá trị chiếc xe của mình.

LEGAL REVIEW 50

Công ty duy trì điều khoản

loại trừ được đề cập trong

lưu ý rủi ro đã được đưa vào

hợp đồng miệng do quá trình

giao dịch trước đó của các

bên. Họ lập luận rằng các

điều kiện vận chuyển đã

được hiển thị nổi bật trên các

thông báo tại văn phòng của

họ và vì McCutheon đã ký

vào các ghi chú rủi ro như

vậy trước đó nên anh ta nên

được coi là biết về chúng. McCutheon cho rằng anh ta chưa bao giờ đọc các điều

khoản trong những lần trước

đây anh ta giao dịch với các

bị cáo. Ông cho rằng không

thể dựa vào điều khoản này

vì nó đã không được nhập

thành công vào hợp đồng miệng ngay lập tức.

LEGAL REVIEW 51

McCutheon đã thành công trong yêu sách của mình. Điều

khoản đã không được đưa vào hợp đồng. McCutheon không

thể bị ràng buộc bởi một điều khoản trên cơ sở quá trình giao

dịch trước đó khi ông không biết về thuật ngữ cụ thể. Các giao

dịch trước đây chỉ có khả năng nhập một điều khoản vào hợp

đồng sau này khi kiến thức thực tế hoặc mang tính xây dựng về

các điều khoản được thiết lập và các bên đồng ý với chúng.

Thời điểm đưa ra thông báo về thời hạn

Rõ ràng là một tuyên bố chỉ có thể trở

thành một điều khoản của hợp đồng nếu

nó được đưa ra vào thời điểm xác lập hợp

đồng hoặc trước khi hợp đồng được xác

lập. Sau đó thì đã quá muộn vì sẽ là không

công bằng nếu áp đặt các điều khoản mà

không có bất kỳ sự thương lượng nào đối

với một người đã lập hợp đồng.

LEGAL REVIEW 52
LEGAL REVIEW 53

Án lệ Tòa án Olley kiện Marlborough (1949)

Tình huống: Olley là khách trong khách sạn bị cáo. Khi đến nơi, Olley trả trước tiền ăn một tuần rồi lên phòng. Trong phòng, một thông báo được hiển thị nói rằng chủ sở hữu sẽ không chịu trách nhiệm cho bất kỳ đồ vật nào bị mất hoặc bị đánh cắp, trừ khi được giao cho họ để giữ an toàn. Olley rời phòng và gửi chìa khóa của cô ấy lên bảng cho lễ tân trước khi rời khách sạn. Chìa khóa đã bị lấy và một số đồ đạc đã bị đánh cắp khỏi phòng của cô ấy. Olley yêu cầu bồi thường thiệt hại do sơ suất.

LEGAL REVIEW 54

Olley cho rằng khách sạn đã sơ suất trong việc không bảo vệ đúng cách chìa khóa phòng của khách. Cô ấy còn tuyên bố rằng có một điều khoản ngụ ý trong hợp đồng giữa cô ấy và khách sạn rằng họ sẽ chăm sóc hợp lý tài sản trong phòng ngủ của cô ấy. Olley khẳng định việc không giám sát các khóa dẫn đến việc vi phạm hợp đồng đó. Khách sạn lập luận rằng khách bị ràng buộc bởi các điều khoản hiển thị trên thông báo trong phòng ngủ, và do đó, khách sạn đã loại trừ trách nhiệm pháp lý một cách hiệu quả ngay cả khi họ đã sơ suất. Thông báo được hiển thị rõ ràng trong các phòng ngủ và điều khoản loại trừ rõ ràng miễn trừ cho khách sạn mọi trách nhiệm pháp lý đối với những món đồ bị đánh cắp. Khách sạn cũng lập luận rằng Olley đã sơ suất khi để chìa khóa của cô ấy lên bảng ở lễ tân.

LEGAL REVIEW 55

Olley đã thành công trong yêu cầu của mình và thu hồi toàn bộ giá trị của những món đồ bị đánh cắp. Điều khoản loại trừ đã không được kết hợp thành công vào hợp đồng vì hợp đồng được ký kết tại quầy lễ tân và thông báo loại trừ trách nhiệm pháp lý không được hiển thị cho đến sau khi hợp đồng được hình thành, khi khách bước vào phòng ngủ.

Trong O’Brien v Mirror Group (2001), người yêu cầu tin rằng anh ta đã giành được giải thưởng cao nhất trong một cuộc xổ số, nhưng do in sai nên có một số lượng lớn bất thường những người trúng giải khác. Các quy tắc quy định về việc chia giải thưởng được tổ chức đã được các thí sinh chú ý một cách chính xác bằng cách đăng báo ngày hôm trước.

LEGAL REVIEW 56
LEGAL REVIEW 57

HỢP ĐỒNG

được xác lập bằng văn bản

Nguyên tắc chung là nếu hai bên gặp khó khăn trong việc

đưa hợp đồng của họ vào văn bản, họ dự định rằng văn

bản đó sẽ ràng buộc và tạo thành toàn bộ thỏa thuận

của họ, mà không cần bổ sung hoặc sửa đổi bằng miệng.

Hai ‘quy tắc’ đã được hình thành về vấn đề này, mặc dù có thể thấy rằng có những ngoại lệ đối với cả hai.

04 LEGAL REVIEW 58

Quy tắc trong L’Estrange v Graucob

Quy tắc này được đặt tên theo trường hợp bắt nguồn từ đó và quy định rằng nếu một người ký vào một tài liệu hình thành hợp đồng thì anh ta bị ràng buộc bởi hợp đồng đó, mặc dù anh ta có thể chưa đọc các điều khoản. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc đọc kỹ tài liệu trước khi ký.

LEGAL REVIEW 59

4.1. Quy tắc bằng chứng tạm thời

Trong án lệ Goss v Lord Nugent (1833), Lord Denman đã nêu quy tắc rằng

bằng chứng nói chung hoặc bằng chứng khác sẽ không được thừa nhận

để mâu thuẫn hoặc sửa đổi hợp đồng bằng văn bản. Tuy nhiên, quy tắc

bằng chứng tạm thời sau đó phải tuân theo các ngoại lệ khác nhau. Nếu

hợp đồng được lập một phần bằng văn bản và một phần bằng miệng, thì

bằng chứng về phần còn lại của thỏa thuận sẽ được cho phép. Một ví dụ khác là nơi tồn tại hợp đồng thế chấp.

LEGAL REVIEW 60

4.2. Điều khoản hàm ý

Có thể một điều khoản đã bị bỏ qua do nhầm lẫn, khi cả hai bên đều có ý định áp dụng rõ ràng điều khoản đó, hoặc quy chế hoặc tập quán đó tuyên bố rằng một điều khoản phải được đưa vào. Trong những trường hợp như vậy, Tòa án có thể đưa một điều khoản vào hợp đồng. Những trường hợp này sẽ được xem xét lần lượt.

LEGAL REVIEW 61

4.3. Phong tục

Thông luật được phát triển phần lớn theo tập quán và trong quá khứ, điều này đóng một vai trò quan trọng trong luật hợp đồng. Bây giờ nó ít quan trọng hơn vì luật và án lệ đã xác định ranh giới của luật rõ ràng hơn. Tuy nhiên, tập quán vẫn phát sinh trong các hợp đồng thương mại và chúng ta đã thấy cách thức một ‘quy trình giao dịch’ có thể dẫn đến một điều khoản được đưa vào một hợp đồng miệng. Theo cách tương tự, cách sử dụng thông thường trong giao dịch có thể dẫn đến một điều khoản được ngụ ý trong một hợp đồng bằng văn bản. Ở đây không cần thiết phải hiển thị các giao dịch trước đó giữa các bên.

LEGAL REVIEW 62

4.4. Quy chế

Khi một đạo luật tuyên bố rằng một điều khoản sẽ được bao gồm trong một loại hợp đồng cụ thể, thì nó sẽ được ngụ ý cho dù các bên có ý định đó hay không. Các ví dụ được tìm thấy trong các đạo luật như Đạo luật Bán hàng năm 1979 (đã được sửa đổi), Đạo luật về các Điều khoản Hợp đồng không công bằng năm 1977, v.v. mẫu, điều này phải tương ứng với phần lớn hàng hóa.

LEGAL REVIEW 63
LEGAL REVIEW 64

4.5. Các điều khoản được đưa ra bởi các Tòa án

Các Tòa án cũng can thiệp để quyết định khi nào nên áp dụng các điều khoản theo luật định trong những trường hợp không chắc chắn và bản thân các Tòa án sẽ áp dụng các điều khoản nếu cần thiết. Ví dụ, hãy xem trường hợp dưới đây liên quan đến hàm ý chung rằng hàng hóa phù hợp với mục đích mà chúng được cung cấp.

LEGAL REVIEW 65

Án lệ Samuels v Davis (1943)

Một bộ răng giả không vừa vặn và không thể sử dụng được. Người ta cho rằng chúng không phù hợp với mục đích mà chúng được bán theo Đạo luật Bán hàng năm 1979, nhưng người ta đưa ra lời biện hộ rằng chúng không phải là ‘hàng hóa’ để bán, vì việc lắp răng là một dịch vụ. Người ta cho rằng các quyền được thiết lập theo Đạo luật Bán hàng năm 1979 nên được áp dụng cho việc mua bán này theo cách tương tự. Răng không hoàn toàn là hàng hóa, nhưng có một món đồ để bàn giao khi kết thúc giao dịch và khách hàng có quyền kỳ vọng rằng nó sẽ phù hợp để sử dụng.

LEGAL REVIEW 66

Điều khoản sẽ được ngụ ý trong các

trường hợp khác nhau. Một ví dụ phổ

biến là trong hợp đồng thuê một ngôi

nhà được trang bị nội thất, người ta hiểu rằng chỗ ở sẽ phù hợp để ở vào

đầu thời gian thuê. Nguyên tắc tương

tự có thể áp dụng cho việc thuê một

chiếc thuyền được khách hàng tuyên

bố là sẵn sàng sử dụng nhưng không

có bình chữa cháy; hoặc một chiếc ô tô được thuê đã sẵn sàng để sử dụng nhưng không có bánh dự phòng. Sự sẵn sàng để ngụ ý các điều khoản đã

được tinh chỉnh phần nào thông qua các trường hợp, và dường như có một cách tiếp cận khắc nghiệt hơn nhiều, thể hiện rõ trong vụ Hội đồng thành phố Liverpool kiện Irwin.

LEGAL REVIEW 67

Hiệu quả kinh doanh & ý định của các bên

Cần nhớ rằng nguyên tắc chung là các bên được cho là đã thể hiện đầy đủ ý định của mình trong một hợp đồng bằng văn bản. Tuy nhiên, có thể các bên đã lập hợp đồng bằng văn bản đã quên đưa vào điều khoản hoặc không tính đến tình huống phát sinh sau này. Nói chung, Tòa án sẽ chỉ can thiệp vào các hợp đồng khi thực sự cần thiết, theo nguyên tắc tự do ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, mục đích của các Tòa án nói chung là hỗ trợ các hợp đồng hoặc thỏa thuận, nếu có thể, thay vì phá hủy chúng về mặt kỹ thuật, chẳng hạn như khi rõ ràng là thiếu một điều khoản, vì vậy các nguyên tắc sau đây đã được thiết lập.

Page No - 14 4.6.
LEGAL REVIEW 68

Các Tòa án sẽ đưa ra một điều khoản trong hợp đồng:

● Để tạo hiệu lực cho ý định rõ ràng và hiển nhiên của các bên, hoặc

● Mang lại hiệu quả kinh doanh.

LEGAL REVIEW 69

HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP 05

Chúng ta đã xem xét các hợp đồng thế chấp, nhưng ở đây có thể thấy rằng chúng có thể được sử dụng để viện dẫn một đại diện có thể nằm ngoài phạm vi của hợp đồng chính. Trong một số trường hợp, việc sử dụng hợp đồng thế chấp có thể được coi là một thỏa thuận để thực hiện hợp đồng.

LEGAL REVIEW 70
LEGAL REVIEW 71

Án lệ

City

and Westminster Properties Ltd v Mudd (1959)

Bị đơn thuê cửa hàng của nguyên đơn và được nguyên đơn biết là có thói quen qua đêm trong một phòng của cơ sở. Khi hợp đồng thuê đến hạn gia hạn, một dự thảo được đưa ra chỉ cho phép sử dụng cơ sở cho mục đích kinh doanh. Bị đơn tuyên bố rằng anh ta sẽ ký hợp đồng thuê nếu các nguyên đơn đồng ý rằng anh ta có thể tiếp tục ngủ trong khuôn viên. Họ đã làm như vậy, nhưng sau đó đã kiện bị đơn vì vi phạm. Anh ấy đã thành công dựa vào hợp đồng tài sản thế chấp mà các nguyên đơn đã đồng ý trước khi anh ấy ký hợp đồng thuê chính.

LEGAL REVIEW 72

Cũng có liên quan là trường hợp của Esso Petroleum Co Ltd v Commissioners of Customs and Excise (1976) đã được xem xét trước đây, trong đó một hợp đồng thế chấp cho việc cung cấp một đồng xu ‘miễn phí’ sẽ có hiệu lực với điều kiện là khách hàng đã mua một lượng nhiên liệu nhất định. Cách tiếp cận này rõ ràng làm giảm bớt sự khắc nghiệt rõ ràng của quy tắc bằng chứng tạm thời và giải quyết một số vấn đề về việc liệu một tuyên bố là một thuật ngữ hay chỉ là một đại diện.

LEGAL REVIEW 73

TỔNG KẾT

Hợp đồng có thể được xác lập bằng văn bản, lời nói hoặc cả hai. Chúng cũng có thể thể hiện (được các bên thể hiện rõ ràng) hoặc ngụ ý (được kết hợp theo một số cách khác, ví dụ như theo quy định).

Phân biệt giữa các điều khoản

và đại diện

● Kiến thức chuyên môn của người đại diện - Dick Bentley Productions Ltd v Harold Smith (Motors) Ltd, Oscar Chess v Williams.

● Tầm quan trọng của một vấn đề cụ thể - Bannerman v White.

● Khoảng cách về thời gian giữa tuyên bố và hợp đồng - Routledge v McKay.

Tầm quan trọng nằm ở các biện pháp khắc phục khác nhau, tức là bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng là biện pháp khắc phục thông thường đối với một điều khoản không đúng sự thật hoặc không

được thực hiện, trong khi biện pháp khắc phục thông thường đối với

việc trình bày sai sự thật là hủy bỏ hoặc bồi thường thiệt hại do trình bày sai.

Đưa các điều khoản vào hợp đồng được xác lập bằng lời nói

● Mức độ thông báo - Chapelton v Barry UDC, Parker v South Eastern Railway, Sugar v LMS Railway.

● Quá trình giao dịch - Hollier v Rambler Motors (AMC) Ltd, McCutcheon v David MacBrayne Ltd, British Crane Hire Corporation Ltd v Ipswich Plant Hire Ltd.

● Thời điểm đưa ra thông báo - Olley v Marlborough Court Ltd.

LEGAL REVIEW 74

Hợp đồng được xác lập bằng văn bản

Những gì được thỏa thuận trên giấy thường tạo thành cơ sở của

hợp đồng:

● Quy tắc trong L’Estrange v Graucob,

● Quy tắc bằng chứng tạm tha - Goss v Lord Nugent.

Điều khoản hàm ý

Được ngụ ý bởi tập quán, đặc biệt là trong một giao dịch, như trong một ‘quá trình giao dịch’, hoặc trong một khu vực địa lý.

● Ngụ ý bởi quy chế, đặc biệt là trong hợp đồng tiêu dùng, e.g. Đạo luật Mua bán Hàng hóa 1979 (đã sửa đổi) từ mục 12 đến 15.

● Ngụ ý của Tòa án: trên thực tế - Samuels kiện Davis; hoặc thông qua bài kiểm tra chính thức của người ngoài cuộc - Shirlaw v Southern Foundries, Spring v National Amalgamated Stevedores and Dockers Society, Trollope and Colls Ltd v North West Regional Hospital Board; hoặc để mang lại hiệu quả kinh doanh cho một thỏa thuận - The Moorcock, Hội đồng thành phố Liverpool v Irwin.

Hợp đồng thế chấp

Trongmộtsốtrườnghợp,việcđạidiệncóthểtạothànhmộtphầncủa

hợp đồng thế chấp, trong đó nó sẽ không được đưa vào thỏa thuận

chính - City and Westminster Properties Ltd v Mudd.

LEGAL REVIEW 75
LEGAL REVIEW LEGAL REVIEW www.iirr.vn

Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.
Tạp chí pháp luật IIRR | IIRR Legal Review | No.12 – Hiệu lực pháp lý các điều khoản trong hợp đồng by PMC WEB - Issuu