




Quý độc giả thân mến,
“Capacity” hay năng lực chủ thể là một yếu tố quan trọng trong việc ký kết hợp đồng. Yếu tố này giúp xác định khả năng của người ký để thực hiện các điều khoản trong hợp đồng. Mặc dù tùy thuộc vào loại hợp đồng mà điều kiện về chủ thể tham gia giao kết hợp đồng sẽ khác nhau nhưng đều phải đáp ứng những điều kiện cơ bản nhất định.
Với sự phát triển của xã hội nói chung và nền kinh tế toàn cầu nói riêng, cơ hội phát triển mở ra cho tất cả các thành viên/cộng đồng trong mọi lĩnh vực. Nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức khi sự hợp tác giữa các bên khi thế giới đối mặt với những sự biến đổi khí hậu không ngừng và các nguy cơ đại dịch khác.
Sự hợp tác vượt khoảng cách về địa lý và điều kiện môi trường, xã hội đặt ra nhiều bài toán cần giải đáp. Khi đó, các điều kiện hình thành hay điều khoản trong hợp đồng đóng vai trò tiên quyết. Như trên đã đề cập, năng lực chủ thể cũng là yếu tố không thể thiếu khi ký kết hợp đồng và từ đó có thể dựa vào để các bên bảo vệ cho quyền và nghĩavụcủamìnhtrongkhithựchiệnhợp đồng.
Trong số thứ 11 của Tạp chí Pháp luật này, với mong muốn giúp hiểu rõ hơn thế nào là chủ thể và năng lực của chủ thể, chúng tôi xin giới thiệu tới Quý độc giả những thông tin liên quan khi giao kết hợp đồng cũng như khi tham gia tố tụng.
Đội ngũ biên tập mong rằng sẽ nhận được các ý kiến đóng góp của Quý độc giả.
1. Khái niệm năng lực chủ thể khi tham gia quan hệ hợp đồng
2. Đặc điểm của năng lực chủ thể
3. Các chủ thể và năng lực chủ thể của mình khi giao kết hợp đồng và khi tham gia tố tụng
3.1. Tập đoàn
3.2. Người không kiểm soát được suy nghĩ và hành vi của mình
3.3. Trẻ vị thành niên
3.3.1. Hợp đồng mua bán các nhu yếu phẩm
cơ bản
3.3.2. Hợp đồng dịch vụ có lợi
3.3.3. Hợp đồng có tính chất liên tục
Giao dịch dân sự là một trong những giao dịch thường thấy trong cuộc sống, mang tới rất nhiều ảnh hưởng tích cực như ngăn chặn lạm phát, bảo về quyền con người hay tạo ra môi trường cộng đồng an toàn, bền vững. Tuy nhiên, không phải cá nhân nào cũng có quyền tham gia vào loại giao dịch này. Nhằm đảm bảo sự ổn định trật tự trong quá trình thiết lập và thực hiện các giao dịch dân sự, hướng tới việc thực hiện lợi ích cho các chủ thể tham gia cũng như lợi ích chung của toàn xã hội, pháp luật dân sự nước ta quy định rằng chỉ những cá nhân có năng lực chủ thể mới có quyền tham gia giao dịch.
Năng lực chủ thể được tạo thành
bởi năng lực pháp luật dân sự và
năng lực hành vi dân sự. Trong
khi năng lực pháp luật của cá nhân có
từ khi sinh ra và ai cũng có năng lực
pháp luật dân sự như nhau thì năng lực
hành vi dân sự của các cá nhân được
hình thành khi có những điều kiện nhất
định và tuỳ vào khả năng nhận thức
cũng như điều khiển hành vi của mỗi
cá nhân mà có mức độ năng lực hành
vi dân sự khác nhau.
Năng lực pháp luật là khả năng có quyền, nghĩa vụ pháp lí do nhà nước quy định cho các cá nhân, tổ chức nhất định, được thể hiện ở quy
định về những điều kiện khác nhau đối với từng quan
hệ pháp luật. Năng lực pháp luật có thể coi là phần tối thiểu trong năng lực chủ thể và thể hiện ở quy
định về các điều kiện khác nhau đối với từng quan hệ pháp luật. Với năng lực pháp luật, các chủ thể chỉ tham gia thụ động vào các quan hệ pháp luật . Không thể tự tạo ra cũng như không thể tự thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lí. Chẳng hạn, khi một đứa trẻ chưa đủ 18 tuổi nhận được quyền thừa kế tài sản sau khi cha mẹ đều không may qua đời, xét trong mối quan hệ thừa kế này, đứa trẻ chỉ có năng lực pháp luật và không thể tự mình thực hiện được các hành vi nhất định. Do vậy, các quyền, lợi ích hợp pháp của đứa trẻ được thực hiên thông qua người đại diện hợp pháp.
Năng lực pháp luật là thuộc tính
không thể tách rời của chủ thể
vì khi nói tới chủ thể của quan hệ
pháp luật thì trước tiên phải nói tới năng
lực pháp luật. Tuy nhiên, đây không phải
tính tự nhiên mà do nhà nước quy định
cho chủ thể. Trên thực tế, các nhà nước
khác nhau có thể có quy định khác nhau
về năng lực pháp luật của chủ thể quan
hệ pháp luật.
1/
Trong năng lực hành vi dân sự của chủ thể bao gồm:
Khả năng tự chịu trách nhiệm bằng tài sản về hành vi của mình, bao gồm cả hành vi hợp pháp và hành vi bất hợp pháp.
Khả năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền dân sự và thực hiện nghĩa vụ dân sự cụ thể;
Năng lực pháp luật dân sự của mỗi cá nhân là như nhau nhưng năng lực hành vi dân sự của từng cá nhân lại khác nhau. Tuỳ thuộc vào môi trường nuôi dưỡng, điều kiện học tập, sinh hoạt mà mỗi cá nhân sẽ có những nhân thức không giống nhau về khả năng nhận thức và khả năng làm chủ hành vi. Căn cứ vào khả năng của cá nhân về nhân thức, điều khiển hành vi và hậu quả của hành vi, pháp luật phân biệt mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Tuy nhiên, khó có tiêu chí để xác định khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của cá nhân, do đó, độ tuổi của cá nhân được xem là tiêu chí chung để phân biệt mức độ năng lực hành vi dân dự của cá nhân.
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân phụ thuộc vào lứa tuổi, vào khả năng nhận thức và điều khiển
Hành Vi của cá nhân đó. Căn
cứ vào khả năng này pháp
luật dân sự phân biệt: người
có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ (người thành niên, trừ người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác
mà không làm chủ nhận
thức, làm chủ được hành vi của mình); người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có năng lực hành vì dân sự một phần; người do bị bệnh mà không
thế nhận thức, làm chủ được hành vì của mình là người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người chưa đủ 06 tuổi không có năng lực hành vi dân sự. Những người có năng
lực hành vi dân sự một phần, người mất hoặc bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự; người không có năng lực hành vi dân sự, muốn tham gia giao
dịch dân sự phải thông qua người giám hộ hoặc được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật.
Điều 19 BLDS năm 2015 của
Việt Nam quy định: “Năng lực
hành vi dân sự của cá nhân là
khả năng của cá nhân bằng
hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Do đó, căn cứ vào độ trưởng
thành về thể chất và nhận
thức mà mỗi cá nhân có năng
lực hành vi dân sự khác nhau.
Tuỳ vào độ tuổi, nhận thức cá
nhân sẽ được thừa nhận là có
năng lực hành vi tương ứng.
Theo quy định của BLDS năm
2015 thì NLHVDS của cá nhân
có những đặc điểm và những
mức độ sau:
Thứ nhất, năng lực hành vi dân sự đầy đủ: Người
thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên) có khả năng nhận thức và làm chủ
được hành vi của mình có quyền tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự một cách độc lập và tự chịu trách nhiệm về những hành vi do họ thực hiện.
Thứ hai, năng lực hành vi dân sự một phần:
Cá nhân dưới 18 tuổi là
những người có năng lực hành vi dân sự một phần
và chỉ có thể xác lập, thực hiện quyền, nghĩa
vụ và trách nhiệm của
mình trong một giới hạn
nhất định do pháp luật
dân sự quy định. Trong
đó, người từ đủ 6 tuổi
đến chưa đủ 15 tuổi khi
tham gia các giao dịch
dân sự phải có sự đồng ý
của người đại diện theo
pháp luật, trừ các giao
dịch dân sự phục vụ nhu
cầu sinh hoạt phù hợp
với lứa tuổi; người từ đủ
15 tuổi đến chưa đủ 18
tuổi được tự mình tham
gia các giao dịch dân
sự không cần sự đồng ý
của người đại diện theo
pháp luật, trừ các giao
dịch liên quan đến bất
động sản, động sản phải
đăng ký và các giao
dịch khác pháp luật yêu
cầu phải có sự đồng ý
của người đại diện theo
pháp luật.
Thứ ba, mất năng lực hành vi dân sự: Một người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình khi theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, hữu quan và dựa trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định pháp y tâm thần, Toà án sẽ ra quyết định tuyên bố người này bị mất năng lực hành vi dân sự. Trong trường hợp này, mọi giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự đều do người đại diện theo pháp luật của họ xác lập và thực hiện.
Thứ tư, hạn chế năng lực hành vi dân sự: Những người nghiện ma tuý hoặc nghiện các chất kích thích khác dẫn đến việc phá tán tài sản gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích có liên quan hoặc theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức hữu quan, Toà án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Thứ năm, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi: Người thành niên nhưng do tình trạng thể chất (như do sự khuyết thiếu về
cơ thể như cá nhân bị mù, điếc hoặc do bị tai
nạn liệt người,…) hoặc do các yếu tố tinh thần
(như bị các cú sốc tâm
lý,…) mà không đủ khả
năng nhận thức, làm
chủ hành vi nhưng chưa
đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này
hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan và có giám định pháp y tâm thần thì Toà án ra quyết
định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ
định giám hộ, xác định quyền và nghĩa vụ của người giám hộ.
Một yêu cầu nữa để
hợp đồng có hiệu lực
là tư cách của những
người hoặc các bên trong
hợp đồng. Thỏa thuận có thể
tồn tại giữa bất kỳ ai, nhưng
để có thể khởi kiện trước
pháp luật, các bên tham gia
thỏa thuận phải có đầy đủ
năng lực.
Nói chung, luật giả định rằng hầu hết những người trưởng
thành đều có năng lực giao kết hợp đồng, và do đó có thẩm quyền hoặc có khả năng ký kết hợp đồng, nhưng không phải tất các các chủ thể đều có năng lực khởi kiện. Những chủ thể không có năng lực khởi kiện cụ thể bao gồm:
1. Tập đoàn (tổ chức kinh doanh đã đăng ký)
2. Người kiểm soát được suy nghĩ và hành vi của mình
3. Trẻ vị thành niên.
Ngoài ra, các quốc vương và nhà ngoại giao có quyền miễn trừ ngoại giao chung và không thể bị kiện ra tòa án Anh trừ khi họ tự nguyện đồng ý với điều này.
Bản thân các tập đoàn được bảo vệ bởi thủ tục thành lập trong Luật doanh nghiệp, quy định này cho phép họ chịu trách nhiệm hữu hạn đối với những người khác. Tuy nhiên, cần phải bảo vệ các cổ đông và nhà đầu tư khỏi việc sử dụng tiền của họ không đúng mục đích và các bên thứ ba khi tham gia giao dịch với các tập đoàn. Năng lực của một công ty bị giới hạn bởi điều lệ, tương tự, với một công ty theo luật định, giới hạn sẽ được tìm thấy trong quy chế đã đăng ký (mặc dù tác động của điều này đã được giảm bớt bởi Companies Act 1989, khi một người ký hợp đồng trên tinh thần thiện chí với một Giám đốc công ty).
Pháp luật cũng bảo vệ những người không kiểm soát được suy nghĩ và hành vi của mình khi giao kết hợp đồng. Theo Luật mua bán hàng hóa (Sale of Goods Act), một người say rượu hoặc một người có đầu óc không minh mẫn sẽ phải chịu trách nhiệm về chi phí hợp lý của những thứ cần thiết, và cũng sẽ chịu trách nhiệm nếu hợp đồng được phê chuẩn. Nói chung, nếu một người đang bị hạn chế, mất năng lực hành vi dân sự hoặc say rượu vào thời điểm giao kết hợp đồng, hợp
đồng sẽ vô hiệu nếu anh ta có thể chứng minh rằng:
Thứ nhất, anh ta không hiểu bản chất của giao dịch
Thứ hai, bên còn lại đã biết về điều này.
Có thể lập luận rằng trong trường hợp say, điều kiện thứ hai hầu
như luôn được thỏa mãn nếu điều kiện thứ nhất đã được thiết
lập, bởi vì nếu một người say đến mức không biết mình đang
làm gì thì bên còn lại đã biết rõ ràng về điều này.
được suy nghĩ và hành vi của mình
Liên quan đến điều kiện thứ hai, Cơ mật viện Vương quốc
Liên hiệp Anh (Privy Council) cho biết trong Án Lệ Hart v O'Connor (1985) nếu một bên không biết về tình trạng
của bên kia và tình trạng của bên bị ảnh hưởng không rõ
ràng, thì hợp đồng sẽ bị hủy bỏ. Đặc biệt trong các trường
hợp liên quan đến giao dịch mua bán bất động sản, việc
bán bị ràng buộc vì người mua không nhận ra rằng người
bán bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi.
Là một vụ án quan trọng ở New Zealand, cũng liên quan đến Luật hợp đồng của Anh, và năng lực chủ thể để ký kết hợp đồng.
Jack O’Connor là người được ủy thác của một quỹ tín thác sở hữu trang trại của gia đình ở Waimate kể từ khi cha họ qua đời vào năm 1911. Jack và hai anh trai - Dennis cùng Joseph đều làm việc và sinh sống tại trang trại do quỹ tín thác sở hữu. Vào giữa những năm 1970, hai anh em đã ở độ tuổi 70 và 80, và do tuổi cao, luật sư của họ khuyến nghị nên làm gì đó về quyền sở hữu trang trại. Về cơ bản, Jack có ba lựa chọn:
1. Cho thuê trang trại, nhưng điều đó đã bị loại trừ;
2. Bán trang trại cho hai người cháu trai của mình, điều mà ông ta loại trừ, vì ông ta không nghĩ rằng các cháu trai của mình có thể thành công từ trang trại;
3. Và tùy chọn cuối cùng, bán cho bên thứ ba.
Người hàng xóm, ông Hart quan tâm
đến việc mua bất động sản này và
sau khi thương lượng với Jack cùng
luật sư của anh ta, họ đã sắp xếp để ông Hart thuê trang trại với điều khoản về quyền mua. Trong vòng một tháng sau đó, ông Hart vì không hài lòng với việc cho thuê trang trại nên đã liên hệ với luật sư của người bán để được bán hoàn toàn trang trại.
Họ đồng ý bán với một mức giá do người định giá xác định nhưng ông Hart hay thậm chí cả luật sư riêng của Jack vào thời điểm đó đều không biết rằng Jack đang mắc chứng mất trí nhớ do tuổi già. Và sau đó người ta cũng phát hiện ra rằng các điều kiện bán được cho là không công bằng vì tài sản sau đó được bán với giá 180.000 đô la (làm tròn từ mức định giá 179.780 đô la), trong khi định giá sau đó là 197.000 đô la và người mua chỉ phải trả tiền cho trang trại trong hai năm sau khi anh ta chiếm hữu, mang lại cho ông Hart lợi ích của bất kỳ sự gia tăng giá nông sản nào trong hai năm đó.
Sau khi Jack qua đời, Dennis cùng Joseph O’Connor thuê một luật sư mới và khởi kiện
để hủy bỏ vụ mua bán. Mặc dù không thành công tại Tòa án tối cao nhưng sau đó họ đã thành công tại Tòa phúc thẩm New Zealand, nơi đã hủy bỏ vụ mua bán.
Ông Hart sau đó đã kháng cáo lên Hội đồng Cơ mật và Hội đồng Cơ mật cho rằng hành vi của
ông Hart là “không thể chê trách
được”, nhấn mạnh rằng hầu hết các điều khoản và điều kiện mua bán đều do luật sư riêng của quỹ tín thác đề xuất và ông Hart chỉ chấp nhận. Theo đó, Tòa án đã hủy phán quyết của Tòa phúc thẩm hủy hợp đồng mua bán trang trại.
Loại cuối cùng của những người được
pháp luật về năng lực hợp đồng bảo vệ là trẻ vị thành niên.
Trẻ vị thành niên là người dưới 18 tuổi, mặc
dù vào năm 1969, trước khi Luật gia đình
cải cách (Family Law Reform Act) được
thông qua, người dưới 21 tuổi được gọi là
‘trẻ sơ sinh’. Đạo luật trên đã hạ tuổi thành
niên xuống 18 và đưa ra thuật ngữ trẻ vị thành niên.
Một cách tiếp cận hơi hẹp được áp dụng trong luật hợp đồng, bằng cách hạn chế khả năng ký kết hợp đồng của trẻ vị thành niên. Ủy ban Pháp luật đã đề xuất vào năm 1982 rằng trẻ vị thành niên nên bị ràng buộc từ 16 tuổi thay vì 18 tuổi, đây là một lập luận hợp lý cho rằng thanh niên 16 tuổi có thể kết hôn, sinh con và đi làm hợp pháp. Trẻ vị thành niên có thể thực thi hợp đồng với bên kia, với điều kiện đó là người lớn, nhưng có một giả định chung rằng hợp đồng với trẻ vị thành niên là không thể thực thi. Tuy nhiên, một số hợp đồng với trẻ vị thành niên là hợp lệ và do đó có thể thi hành được.
Trẻ vị thành niên sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với hợp đồng mua bán nhu yếu phẩm. Nếu tất
cả các hợp đồng với trẻ vị
thành niên đều không thể thi hành, các nhà bán lẻ sẽ miễn cưỡng bán chịu cho họ trong bất kỳ trường hợp nào.
Vì vậy, để giúp trẻ vị thành niên có được những nhu yếu phẩm cơ bản cho cuộc sống bình thường, luật coi trẻ
vị thành niên bị ràng buộc theo hợp đồng mua bán
những thứ cần thiết được bán và giao cho họ. Thuật ngữ ‘những nhu yếu phẩm’ không chỉ bao hàm những vật dụng cần thiết để duy trì
sự sống, chẳng hạn như
thức ăn và quần áo, mà còn bao gồm những thứ thiết yếu và phù hợp với
vị trí của trẻ vị thành niên trong cuộc sống. Vì vậy, trẻ vị thành niên có địa
vị xã hội tương đối cao
sẽ phải chịu trách nhiệm
thanh toán nhiều hơn trẻ
vị thành niên ở địa vị thấp
hơn về mặt tài chính. Luật
mua bán hàng hóa năm
1979 định nghĩa nhu yếu phẩm là ‘hàng hóa phù
hợp với điều kiện cuộc sống của trẻ vị thành niên
và các yêu cầu thực tế
của trẻ tại thời điểm bán và giao hàng’.
Nash v Inman là một vụ án năm 1908 được xét xử tại King’s Bench, liên quan đến khả năng ký kết hợp đồng của trẻ vị thành niên theo luật của Anh.
Nash là một thợ may làm việc ở Saville Row. Inman là một trẻ vị thành niên đang theo học tại Đại học Cambridge. Nash đã bán một số vải dưới dạng tín dụng cho Inman với số tiền khoảng 145 bảng Anh. Nash đã kiện để đòi lại số tiền và Inman đã nhận tội. Sau khi nghe bằng chứng, thẩm phán xét xử cho rằng Inman thực sự là trẻ vị thành niên và anh ta đã có đủ quần áo vào thời điểm bán. Vì lý do này, thẩm phán xét xử nhận thấy rằng không có bằng chứng nào cho thấy bộ quần áo đó có thể được coi là thuộc loại nhu yếu phẩm và chỉ đạo bồi thẩm đoàn đưa ra phán quyết có lợi cho Inman. Nash đã kháng cáo, cho rằng thẩm phán đã quyết định các vấn đề thực tế, thay vì để bồi thẩm đoàn quyết định.
Vụ việc này nảy sinh vào
thời điểm mà những
chiếc áo ghi lê như vậy
là trang phục bình thường
của học sinh tại Cambridge, và điều này, cùng với địa vị
của khách hàng, đã thuyết
phục tòa án rằng những món
đồ đó có thể là vật dụng
cần thiết. Tuy nhiên, người ta thấy rằng cha của học sinh
đã cung cấp cho anh ta rất
áo ghi lê, và do đó chúng không thực sự cần thiết. Luật pháp thời đó bảo vệ học sinh rất tốt, nhưng khá khắc nghiệt với người thợ may, người không nhận được đồng nào cả. Sau này chúng ta sẽ thấy rằng vị trí có thể khác nếu một tình huống tương tự phát sinh vào thời điểm hiện tại.
Bất chấp những đề xuất của Ủy ban
Pháp luật rằng định nghĩa về những
thứ cần thiết phải được làm rõ ràng và thu hẹp hơn, vẫn chưa có hành động nào được thực hiện và các nguyên tắc được sử dụng trong vụ Nash v Inman vẫn là điểm khởi đầu để quyết định chính xác điều gì là cần thiết. Vì vậy, để thực thi hợp đồng đối với trẻ vị thành niên, cần phải chỉ ra rằng hàng hóa được đề cập là cần thiết, thực sự cần thiết vào thời điểm đó và có liên quan đến tình huống cá nhân.
Một sinh viên đại học, lần này đến từ Oxford, có cha là Thống đốc và quen biết với những người có địa vị và tài sản khác đã nhận được đồ dùng cho các bữa tiệc tối. Người ta cho rằng trái cây, nước đá và bánh kẹo không thể coi là nhu yếu phẩm nếu không có lý do chính
đáng. Vì vậy, việc áp dụng những thứ cần thiết cho địa vị xã hội của một người sẽ là một vấn đề thực tế trong mỗi dịp. Nguyên đơn yêu cầu thanh toán các loại trái cây, bánh kẹo và các loại thực phẩm khác đã
bán cho bị đơn, người hiện đang nhận tội và rằng những thứ này không cần thiết phù
hợp với trình độ, tài sản, hoàn cảnh và tình
trạng của bị đơn khi đó. Thẩm phán nói với bồi thẩm đoàn rằng họ nên xem xét liệu hàng hóa có cần thiết hay không nên phù
hợp với tình trạng cuộc sống của anh ta.
Nhu yếu phẩm có thể ở dạng dịch vụ, mặc dù những dịch vụ này chưa được định nghĩa theo luật giống như hàng hóa. Thuật ngữ này bao gồm các hợp đồng về giáo dục, đào tạo, việc làm, chi phí pháp lý và y tế, đồng thời cũng áp dụng cho vợ/chồng và con của trẻ vị thành niên.
Vì vậy, chúng ta có thể thấy rằng vị trí sau xuất hiện liên quan đến nhu yếu phẩm:
Thứ nhất, các yêu cầu cơ bản để tồn tại, chẳng hạn như chỗ ở cơ bản, thức ăn và quần áo, thông thường sẽ là những thứ cần thiết và trẻ vị thành niên sẽ phải trả một mức giá hợp lý cho chúng
Thứ hai, các mặt hàng xa xỉ hơn có giá trị sử dụng có thể được coi là nhu yếu phẩm, chẳng
hạn như ô tô được sử dụng để đến nơi làm việc hoặc khóa học đại học, và một lần nữa, trẻ vị thành niên sẽ phải trả tiền
Thứ ba, các mặt hàng chỉ đơn thuần là xa xỉ, chẳng hạn như đồ trang sức, thường sẽ không được coi là nhu yếu phẩm và hợp đồng sẽ không thể thi hành đối với trẻ vị thành niên , các nguyên tắc tương tự áp dụng cho các dịch vụ, với điều kiện thỏa thuận không quá khó đối với trẻ vị thành niên.
Loại hợp đồng thứ hai có thể có giá trị đối với trẻ vị thành niên, đó là hợp đồng
lao động có lợi, thực sự là một phần mở rộng của tuyên bố
Nam tước (Trong án lệ Alderson Chapple kiện Cooper). Thông thường, Hợp đồng này có hình thức là hợp đồng lao động, giáo dục hoặc đào tạo cho trẻ vị thành niên.
Nó thực sự là một phần mở rộng của ý tưởng về nhu yếu phẩm, vì việc
trẻ vị thành niên học một kỹ
năng hoặc nghề buôn bán
để tự nuôi sống bản thân
được coi là điều cần thiết.
Rõ ràng là mối quan tâm lớn
về mặt kinh tế là trẻ vị thành
niên phát triển các kỹ năng
và trong một môi trường cho
phép chúng học nghề hoặc
nghề nghiệp, và rằng chúng
có thể ký kết các hợp đồng
lao động thỏa đáng. Với
những hợp đồng này, các tòa án cho rằng
một hợp đồng áp bức là
không thể thực thi đối với
trẻ vị thành niên, nhưng
nếu một hợp đồng xét
về tổng thể có lợi cho trẻ
vị thành niên thì nó sẽ có
giá trị ràng buộc, mặc
dù một điều khoản riêng
lẻ có thể không phù hợp
với trẻ vị thành niên. lợi
thế.
Một cô gái 14 tuổi
đã ký một thỏa
thuận 7 năm để
đào tạo thành một vũ
công sân khấu. Người
ta nói rằng cô ấy phải
hoàn toàn nghe theo
ý của ông chủ sân
khấu của mình vì mặc
dù ông ta không đảm
bảo cô sẽ có việc làm
nhưng cô cũng không
thể nhận công việc
khác mà không có
sự đồng ý, không thể
kết hôn hoặc đi du lịch nước ngoài trong
khoảng thời gian thỏa
thuận diễn ra. Hợp
đồng về tổng thể được
coi là áp bức, thay vì
có lợi và do đó không
thể thi hành được.
Một người khuân vác trẻ tham gia chương trình bảo hiểm tư nhân, đổi lại, anh ta đã từ bỏ một số quyền theo luật định với tư cách là một nhân viên. Tòa án cho rằng mặc dù lợi ích đã bị từ bỏ theo hợp đồng nhưng anh ta đã nhận được lợi ích lớn hơn từ người sử dụng lao động, vì vậy điều đó xét về tổng thể là có lợi cho anh ta và do đó có thể được thi hành.
Hợp đồng thuê mua
của một trẻ vị thành niên điều hành
công việc kinh doanh
vận tải của chính mình
đã không thể thi hành
được. Mặc dù đây là một
biện pháp để bảo vệ trẻ
vị thành niên, nhưng nó có thể được coi là đặt
một thanh niên muốn
điều hành công việc kinh
doanh của riêng mình
vào thế bất lợi, ví dụ như
với tư cách là người buôn
bán ở chợ hoặc nhà bán
lẻ khác, so với một trẻ vị
thành niên tương tự đang
đi làm. Đó là một ví dụ về
việc tòa án quan tâm đến
lợi ích của trẻ vị thành niên,
bằng cách ngăn cản trẻ
vị thành niên chấp nhận
rủi ro tài chính mà không
có kinh nghiệm cần thiết.
Trong trường hợp của Edwards v Carter (1893), dàn
xếp hôn nhân đã được thực hiện với một người đàn ông trẻ tuổi, người đã thỏa thuận thêm để đầu tư bất kỳ khoản tiền nào mà sau này anh ta có được. Nhưng khi anh ta đến tuổi trưởng thành và nhận được khoản tiền từ cha mình thì lại thấy hối hận
vì đã cam kết đầu tư vào nó
nên quyết định từ chối thỏa thuận. Người ta cho rằng
việc từ chối đã quá muộn và thỏa thuận đã có giá trị ràng buộc. Lord Watson
đã giải thích như sau: Nếu
họ (trẻ vị thành niên) chọn không làm việc, họ sẽ mất
đi cơ hội; nếu họ chọn làm
việc, luật sẽ hỗ trợ họ. Ng-
hĩa là trẻ vị thành niên có
cơ hội miễn trừ khỏi hợp
đồng nhưng nếu từ chối thì
hợp đồng sẽ trở thành ràng
buộc của chính họ.
Loại hợp đồng thứ ba có thể ràng buộc trẻ vị thành niên là khi tham gia vào một thỏa thuận về nghĩa vụ hay hợp đồng có tính
chất liên tục, chẳng hạn như hợp
đồng thuê chỗ ở. Trong trường hợp này, hợp đồng sẽ được coi là hợp
lệ, trừ khi trẻ vị thành niên từ chối
hợp đồng trước khi đủ 18 tuổi hoặc
trong một thời gian hợp lý sau đó.