9 minute read

1.3.2. Đánh giá kết quả điều tra

thức của GV, HS về vai trò của việc phát triển năng lực giải quyết vấn đề ở trường THPT Việt Bắc tỉnh Lạng Sơn . 1.3.1.2. Đối tượng điều tra

- 34 GV (7 GV Vật lí, 4 GV Sinh học, 5 GV Hóa học, 12 GV Toán, 4 GV Tin, 2 GV Công nghệ ). - 160 HS lớp 12 của trường THPT Việt Bắc . - Số phiếu thu được: 34 phiếu của GV và 160 phiếu của HS.

Advertisement

1.3.2. Đánh giá kết quả điều tra

1.3.2.1. Điều tra đối với giáo viên Chúng tôi đã thực hiện phương pháp điều tra, tham khảo ý kiến của 34 GV dạy trường THPT Việt Bắc. Kết quả như sau: * Phiếu hỏi GV về thực trạng dạy học theo định hướng STEM Câu 1: Hiểu khái niệm dạy học theo định hướng STEM Hầu hết các Thầy Cô đều đã tiếp xúc với dạy học theo định hướng STEM nhưng hiểu biết chưa sâu.

Câu 2: Mục tiêu dạy học theo định hướng STEM Chỉ có 6 GV trả lời được tổng thể các lợi ích của dạy học theo định hướng STEM, còn lại chỉ nhận ra một số lợi ích và mục tiêu của dạy học theo định hướng STEM. Câu 3,4: Kinh nghiệm dạy học theo định hướng STEM Chỉ có 6 GV từng vẫn dụng dạy học theo định hướng STEM tất cả các GV còn lại chưa từng dạy học theo định hướng STEM . Câu 5, 6: Phương pháp dạy học áp dụng với dạy học theo định hướng STEM 6 GV đã tiến hành dạy học theo định hướng STEM nhưng nhiều GV không phân biệt được DHTH và dạy học theo định hướng STEM . Câu 7: Kiểm tra đánh giá trong dạy học theo định hướng STEM Số GV sử dụng hình thức tự đánh giá và đánh giá theo quá trình còn rất ít. Câu 8: Khó khăn trong dạy học theo định hướng STEM Khó khăn lớn nhất của GV là ngại thay đổi, chưa hiểu biết rõ về dạy học theo định hướng STEM nên không mạnh dạn áp dụng.

Câu 9: Hiệu quả của dạy học theo định hướng STEM 6/34 GV trường THPT Việt Bắc được hỏi nhận thấy khi tiến hành dạy học theo định hướng STEM, HS hứng thú sáng tạo hơn trong học tập. Đây là động lực cho tất cả các GV tiếp tục tiến hành dạy học theo định hướng STEM. Câu 10: Dự kiến dạy học theo định hướng STEM sắp tới 30/34 GV tại THPT Việt Bắc đều có dự định tiếp tục áp dụng dạy học theo định hướng STEM vì đều nhận thức được dạy học theo định hướng STEM rất quan trọng. Các GV đều có mong muốn được giúp đỡ để áp dụng dạy học theo định hướng STEM trong năm học tới. Dựa vào kết quả điều tra trên, chúng tôi nhận thấy: - Với phần lớn GV cấp THPT thì dạy học theo định hướng STEM vẫn vô cùng mới mẻ và khó khăn. Hầu hết các GV đều có mong muốn được tiếp cận với dạy học theo định hướng STEM nhưng sự tiếp cận chưa hiệu quả. Họ mong muốn được tập huấn và có cơ hội tiếp cận nhiều hơn với dạy học theo định hướng STEM. - Đa số các GV đều có sử dụng PPDH tích cực trong dạy học nhưng chưa thường xuyên, còn rất nhiều GV không sử dụng. - Việc phát triển năng lực giải quyết vấn đề chủ yếu ở mức độ tái hiện kiến thức và vận dụng kiến thức để giải thích được các sự kiện, hiện tượng của câu hỏi lí thuyết (mức độ vận dụng thấp). Còn ở mức độ vận dụng cao hơn thì ít sử dụng. - Các thầy cô giáo có đưa ra những lí do vì sao ít hoặc không sử dụng các PPDH tích cực để phát triển năng lực giải quyết vấn đề trong dạy học. Đó là: + Không có nhiều tài liệu: 10/34 chiếm 29,41% + Mất nhiều thời gian tìm kiếm tài liệu, soạn giáo án: 20/34 chiếm 58,82% + Trong các kì kiểm tra, kì thi không yêu cầu có nhiều câu hỏi có nội dung gắn với thực tiễn: 26/34 chiếm 76,47% Lí do khác: + Thời lượng tiết học ngắn, không cho phép đưa nhiều kiến thức bên ngoài vào bài dạy. + Các đề thi tuyển sinh có hỏi về vấn đề này nhưng quá ít, chương trình quá nặng nề, dạy không kịp chương trình.

+ Chỉ sử dụng khi nội dung bài học có liên quan. + Mất nhiều thời gian, nếu HS chỉ làm dạng bài tập này thì không còn nhiều thời gian cho các dạng khác. Nhận xét chung: - GV ít liên hệ kiến thức vật lí với thực tế vì trong các kì kiểm tra, kì thi không yêu cầu có nhiều câu hỏi có nội dung gắn với thực tiễn. - Thời gian dành cho tiết học không nhiều do đó giáo viên không có cơ hội đưa những kiến thức thực tế vào bài học. - Việc vận dụng kiến thức vật lí để giải thích những tình huống xảy ra trong thực tế của HS còn hạn chế. - Vốn hiểu biết thực tế của HS về các hiện tượng có liên quan đến Vật lí trong đời sống hàng ngày còn ít. 1.3.2.2. Đối với học sinh Để đánh giá kết quả của việc phát triển năng lực giải quyết vấn đề trong môn vật lí ở trường THPT Việt Bắc tôi đã lấy ý kiến của 160 học sinh đang học ở khối lớp 12 và. Kết quả như sau: Câu hỏi 1: Thầy cô có thường đặt các câu hỏi liên hệ thực tiễn trong qua trình giảng bài mới không? A. Thường xuyên: 15% B. Thỉnh thoảng: 80% C. Không bao giờ: 5% Câu hỏi 2: Thầy cô có thường đưa ra các bài tập sản xuất, các tình huống có vấn đề liên quan đến thực tiễn trong các giờ dạy trên lớp không? A. Thường xuyên: 10% B. Thỉnh thoảng: 60% C. Không bao giờ: 30% Câu hỏi 3: Thầy cô có thường giao nhiệm vụ cho học sinh về nhà tìm mối liên hệ giữa kiến thức của bài mới và các vấn đề xảy ra trong cuộc sống hàng ngày của các em không? A. Thường xuyên: 6% B. Thỉnh thoảng: 60% C. Không bao giờ: 34% Câu hỏi 4: Khi lên lớp thầy/cô có thường dành thời gian cho các em đặt ra các vấn đề, các câu hỏi khúc mắc về những gì các em quan sát được trong đời sống không? A. Thường xuyên: 5% B. Thỉnh thoảng: 20% C. Không bao giờ: 75%

Câu hỏi 5: Thầy/cô có dành thời gian để giải đáp những thắc mắc của các em không? A. Thường xuyên: 5% B. Thỉnh thoảng: 25% C. Không bao giờ: 70% Câu hỏi 6: Các em thường có thói quen liên hệ giữa kiến thức đã lĩnh hội được vào trong đời sống hàng ngày của các em không? A. Thường xuyên: 5% B. Thỉnh thoảng: 31% C. Không bao giờ: 64% Câu hỏi 7: Các em có thường tìm ra được những mâu thuẫn giữa những kiến thức lí thuyết học được với những hiện tượng xảy ra trong thực tế không? A. Thường xuyên: 3% B. Thỉnh thoảng: 37% C. Không bao giờ: 60% Câu hỏi 8: Trong các giờ luyện tập, ôn tập, thầy/cô có thường đưa cho các em các bài tập hoặc các câu hỏi liên hệ với thực tiễn để củng cố kiến thức không ? A. Thường xuyên: 10% B. Thỉnh thoảng: 40% C. Không bao giờ:50% Câu hỏi 9: Trong giờ thực hành các em có thường chú ý quan sát thí nghiệm và tìm ra được sự mâu thuẫn với các kiến thức lý thuyết đã học được không? A. Thường xuyên:15% B. Thỉnh thoảng:55% C. Không bao giờ:30% Câu hỏi 10: Trong các bài kiểm tra,thầy/cô có thường đưa ra các câu hỏi /bài tập/tình huống có liên quan đến thực tiễn không? A. Thường xuyên:1% B. Thỉnh thoảng:25% C. Không bao giờ:74% Câu hỏi 11: Các em có thích thầy/cô giao nhiệm vụ tìm hiểu các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học không: A. Thích:5% B. Bình thường:33% C. Không thích:62% Câu hỏi 12: Các em có thích vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn không? A. Thích:80% B. Bình thường:20% C. Không thích:0% Câu hỏi 13: Các em có thích tự mình tìm hiểu các ứng dụng của hóa học vào cuộc sống không? A. Thích:15% B. Bình thường:55% C. Không thích:30% Qua kết quả điều tra trên cho thấy trong quá trình hình thành kiến thức mới, thầy/cô chưa thường xuyên đưa ra các câu hỏi, các tình huống có vấn đề gắn liền với thực tiễn để học sinh liên tưởng và áp dụng (10%). Để chuẩn bị cho bài mới, thầy/cô chỉ yêu cầu học sinh về nhà làm các bài tập trong sách giáo khoa và sách bài tập mà chưa chú ý vào việc giao nhiệm vụ cho các em về nhà tìm hiểu cuộc sống, môi trường

xung quanh về các vấn đề có liên quan đến kiến thức trong bài giảng kế tiếp(6%) để học sinh có tâm thế vào bài mới một cách hứng thú hơn. Và cũng theo đó các thầy/cô chưa chú ý dành thời gian để cho các em đưa ra những khúc mắc để giải đáp cho các em về những hiện tượng các em quan sát được trong đời sống (5%). Trong các giờ học nói chung việc liên hệ giữa lí luận và thực tiễn còn hạn chế(5%) nên học sinh dù rất thích vận dụng kiến thức vật lí vào thực tiễn(80%) nhưng vẫn chưa hình thành được thói quen liên hệ giữa những kiến thức lý thuyết học được với thực tế xung quanh các em(5%). Từ kết quả khảo sát ở trên đặt ra một vấn đề đó là làm thế nào để dạy học phát triển giải quyết vấn đề thực tiễn. Đó là vấn đề đặt ra mà đội ngũ giáo viên dạy bộ môn vật lí cần phải trăn trở để có những phương pháp dạy học phù hợp. Với kết quả điều tra thực trạng ở trên, chúng tôi nhận thấy hướng nghiên cứu đề tài này là rất cần thiết.

This article is from: