
5 minute read
3.3.6. Kết quả quá trình thực nghiệm
from SỬ DỤNG CÔNG CỤ ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1975
+ Bài kiểm tra của lớp đối chứng: Là lớp vẫn áp dụng phương pháp dạy và đánh giá DẠY KÈM QUY NHƠN OFFICIAL kiểu truyền thống nên hệ thống câu hỏi gồm 04 câu hỏi trắc nghiệm, 02 câu tự luận. Các câu hỏi mang tính ghi nhớ. Nhìn chung, qua quá trình thiết kế hệ thống câu hỏi trong hai bài kiểm tra cho lớp thực nghiệm và lớp đối chứng, có thể nhận ra rằng, bài kiểm tra ở lớp thực nghiệm mang tính bao quát, toàn diện hơn, đảm bảo việc học sinh có thể áp dung hầu hết các kiến thức đã được truyền đạt bởi giáo viên trực tiếp giảng dạy, qua đó có thể đánh giá được mức độ hiểu biết, ghi nhớ, hồi tưởng, tái hiện và vận dụng kiến thức của học sinh. Trước khi tiến hành thực nghiệm, nội dung đề kiểm tra đảm bảo thảo luận với giáo viên, người trực tiếp giảng dạy hai lớp để đảm bảo các kiến thức trong bài kiểm tra đều đã được truyền đạt trước đó. 3.3.6. Kết quả quá trình thực nghiệm Tỷ lệ học sinh tham gia thực hiện bài kiểm tra của hai lớp thực nghiệm và đối chứng là 100%. Sau quá trình chấm bài, sắp xếp và phân loại, kết quả thực nghiệm được trình bày theo bảng dưới đây: (xem phụ lục 7) Thông qua kết quả, dữ liệu liên quan đến kết quả bài kiểm tra 45 phút của hai lớp thực nghiệm và đối chứng được trình bày trong bảng trên, chúng ta có thể nhận ra rằng, tỷ lệ học sinh đạt loại giỏi, khá của lớp thực nghiệm đạt mức cao hơn hẳn so với tỷ lệ học sinh lớp đối chứng. Tỷ lệ học sinh đạt điểm trung bình và yếu của lớp thực nghiệm nhìn chung cũng thấp hơn đáng kể. Điều đó phần nào đã chứng mih rằng việc áp dụng công cụ đánh giá mới này đang dần mang lại kết quả tiến bộ rõ rệt. Bên cạnh việc sử dụng kết quả thực nghiệm, trong quá trình so sánh, đánh giá để đưa ra kết luận khách quan và chính xác, tác giả cũng tiến hành so sánh kết quả bài kiểm tra 45 phút trước của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng khi đều áp dụng phương pháp đánh giá truyền thống, bài kiểm tra với hệ thống câu hỏi gồm 3 câu tự luận. Kết quả bài kiểm tra được trình bày trong bảng dưới đây: (xem phụ lục 7). Từ số liệu thu thập được, chúng ta có thể thấy, khi áp dụng phương pháp đánh giá truyền thông, dường như kết quả học tập của hai lớp ở mức độ tương đương nhau,
và không có học sinh nào đạt mức điểm giỏi. Nhưng nhìn chung, kết quả lớp thực DẠY KÈM QUY NHƠN OFFICIAL nghiệm có phần tốt hơn kết quả học tập của các lớp đối chứng trong môn Lịch sử. Qua việc so sánh số liệu tại phụ lục 7, có vài điểm nổi bật rõ ràng mà chúng ta dễ dàng có thể nhận ra: - Khi xét kết quả bài kiểm tra truyền thống của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng với nội dung và khối lượng kiến thức học như nhau, thì kết quả giữa hai lớp không có sự khác biệt rõ rêt. Tuy nhiên, khi áp dụng phương pháp đánh giá thử nghiệm với hệ thống câu hỏi thay đổi, theo nội dung chương trình chuẩn, chúng ta có thể nhận thấy sự thay đổi rõ rệt về việc tăng tỷ lệ học sinh đạt loại giỏi, khá và giảm đáng kể tỷ lệ học sinh đạt điểm trung bình, yếu. hay nói cách khác, kết quả bài kiểm tra thực nghiệm cao hơn hẳn so với kết quả của bài kiểm tra truyền thống. Điều đó cho ta thấy rằng, bài kiểm tra thử nghiệm hay chính là công cụ đánh giá mới đã phần nào góp phần vào việc đánh giá đúng trình độ cũng như năng lực thực tế của học sinh về lích sử Việt Nam 1954 -1975 sau khi hoàn thiện chương trình học. Bên cạnh đó, công cụ đánh giá mới này đã hướng đến nội dung toàn diện, bao quát hơn nhằm phát huy tính tích cực học tập và kích thích sự ghi nhớ của học sinh nên đã phân loại học sinh một cách rõ ràng và đạt được kết quả nổi bật. - Đối với lớp Lớp đối chứng, sau khi xem xét kết quả của hai đợt kiểm tra đều áp dụng phương pháp truyền thống thì kết quả không có gì thay đổi đáng kể, do vậy giáo viên cũng khó có thể đánh giá sự tiến bộ của học sinh trong quá trình học tập. Hơn nữa, bài kiểm tra theo phương pháp truyền thống không kích thích sự hứng thú tham gia của học sinh bởi hệ thống 4 câu hỏi trắc nghiệm, 02 câu hỏi tự luận đã quá nhàm chán, chỉ yêu cầu học sinh ở mức độ ghi nhớ các sự kiện, nhân vật, hoạt động chính mà không cần phải suy nghĩ thêm bất cứ điều gì. Do vậy, khi kiểm tra xong, những kiến thức đã học thuộc sẽ trôi mất, và học sinh không thể nhớ hay áp dụng trong các bài kiểm tra tiếp theo. Nói tóm lại, nhờ vào quá trình thực nghiệm sư phạm môn Lịch sử tại các lớp thực nghiệm) và lớp đối chứng tại Trường THPT Nguyễn Thượng Hiền và Nguyễn Trãi sau khi học sinh kết thúc chương “Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954-1975” đã phần nào đánh giá đúng năng lực, trình độ thực tế của học sinh. Do vậy, công cụ đánh giá năng lực học sinh này mang tính toàn diện, khách quan và tính chân thật.
Advertisement