V&D 2017

Page 1

Viết&Đọc

Đặc San 2017

Viết&Đọc Đặc San 2017 1


Viết & Đọc Đặc San 2017

mục lục

Năm thứ 18 Thực hiện Đinh Ngọc Cần Dương Kim Nguyễn Văn Thực Thanh Hiệp Đặng Bản Góp bài

Hoài Mỹ, Tâm Thanh, Khánh Hà, Cổ Ngư, Mạch Nha Cung Vĩnh Viễn, Dương Kim, Đoàn Mai Tâm, Dương Kiền, Phạm Tín An Ninh, Phụng Long, Vũ Thanh Thủy, Nguyệt Minh, Thi Hạnh, Nguyễn Văn Thực, Thanh Trà, Minh Hồng, Nguyễn Tiến Thành, Thằng cù, Trần Như Xuyên, Hoàng Quân

Bìa

Họa Sĩ Đặng Văn Tỷ

Liên lạc

vietdoc.nauy@gmail.com hoặc Đinh Ngọc Cần Ulsholtvn 46E 1053 Oslo, Norway Đặc San Viết & Đọc không phải là tiếng nói của đoàn thể hay bất kỳ tổ chức nào. Mọi chi phí ấn loát do sự đóng góp của quý thân hữu và bạn đọc. Ủng hộ chi phí ấn loát xin gửi vào trương mục của Ban Dang 0540 62 44336, hoặc vào số di động 952 02 208 (vipps) với ghi chú ”VD17”.

2 Viết&Đọc Đặc San 2017

Ngỏ Ban Thực Hiện 3 Năm ĐINH DẬU ”Con gà cục tác lá chanh” Hoài Mỹ 4 Thơ: Gọi Xuân Cổ Ngư 14 Thơ: Lời nguyện đêm xuân, Khi em ngủ Phụng Long 15 Crete Tâm Thanh 16 Thơ: mê lộ Phụng Long 21 Thơ: xếp lại vần thơ cũ Thi Hạnh 21 Nơi chôn giấu Đoàn Mai Tâm 22 Thơ: Thành cổ, chim cu và biển, Vẫn còn đây, Hoa forsythia ngậm ngùi Khánh Hà 24 Chương Trình Trẻ Em Dành Cho Người Lớn Dương Kim dịch 26 Người Cha Phóng Khoáng Thanh Trà 28 Truyện thật ngắn Nguyễn Tiến Thành 31 MƠ Nguyệt Minh 33 Truyện thật ngắn Minh Hồng 34 Thơ: Cung Vĩnh Viễn Cung Vĩnh Viễn 36 Người đàn bà trên cầu Nitelva Phạm Tín An Ninh 38 Thơ: Già, Bảy mươi Dương Kiền 43 Tục lệ thi chim đầu xuân Hoài Mỹ 44 Ông nói: GÀ! Bà nói: VỊT! Cổ Ngư 47 Viên Đá Kỳ Lạ Mạch Nha 52 Ký Ức Của Mẹ Thằng cù 55 Mưa Đời Rải Xuống Trần Như Xuyên 55 Món quà tĩnh mịch đêm giao thừa Vũ Thanh Thủy 56 Cái bóng của vị thầy tu Phạm Tín An Ninh 58 Thơ: Dấu lặng Nguyệt Minh 63 Đồng nghiệp dị chủng Hoàng Quân 64 Nhân nhận sách “Khi Đồng Minh Nhảy Vào” Nguyễn Văn Thực 68 Cốc rượu luân hồi Phụng Long 68 Lời Chúc Mừng Năm Mới Dương Kim dịch 69 Nhà vua Harald - Na Uy Cuối Đường Chưa Đến Dương Kiền 72 Xin hãy là xuân Thơ: Nhược Thu Nhạc: Trần Thụy Minh 78


Ngỏ Bạn thân mến! Xuân lại đến, gà lại gáy vang. Hoài Mỹ với Năm ĐINH DẬU ”Con gà cục tác lá chanh...” vẫn là những kiến thức uyên bác lẫn giọng văn hài hước, ông cho ta một bức tranh gà hoàn mỹ và không quên kèm theo một lời nhắn nhủ rất... Gà và vô cùng ý nghĩa với cộng đổng: “Khôn ngoan đá đáp người ngoài; gà cùng một mẹ, chớ hoài đá nhau!”... Crete: một du ký Tâm Thanh để lại cho chúng ta. Không phải chỉ viết về là những địa danh mà còn về tình người giữa một thế giới mất dần nhân tính. Giọng văn hóm hỉnh mang triết lý ngọt ngào. Bức tranh Crete càng thêm êm đềm qua những rung cảm của Khánh Hà: Nắng trải mật ong vườn cam ngọt/Hoa trắng thơm lừng trên lối đi/Những cội ô-liu già trăm tuổi/Lá còn xanh mãi thuở xuân thì. Dương Kim với truyện dịch “Chương Trình Trẻ Em Dành Cho Người Lớn” của Anne-Cath Vestby: dạy về ”sự ra đời của em bé”. Có những chuyện đơn giản mà người thế cứ làm cho rắc rối vì người lớn bị xã hội của chính những người lớn điều kiện hóa. Xin để ý nét kỳ tài của tác giả qua cách diễn tả tâm lý bằng hành động, cũng được Dương Kim khéo léo chuyển qua tiếng Việt. Những bài thơ mượt mà, nặng tình của Phụng Long, Nguyệt Minh, Thi Hạnh... chấm lặng những điều cần chấm lặng. Những bài thơ trầm trầm màu thời gian sắp tắt, trời quê hương sắp lụn của Cung Vĩnh Viễn. Những truyện thật ngắn của Minh Hồng, Nguyễn Tiến Thành với những suy tư nhẹ nhàng về những cảnh đời nho nhỏ. Hai truyện ngắn của Phạm Tín An Ninh “Người đàn bà trên cầu Nitelva” và “Cái bóng của vị thầy tu” về hai cuộc đời trong một cuộc chiến không bao giờ phai mờ trong tâm trí tác giả và chúng ta. Ngoài ra, trong số này còn có truyện ngắn, tùy bút của Mạch Nha, Vũ Thanh Thủy, Đoàn Mai Tâm, Hoàng Quân, Cổ Ngư...Và đặc biệt Lời Chúc Mừng Năm Mới của Đức vua Harald - Na Uy được Dương Kim nhanh chóng chuyển sang Việt ngữ. Họa sĩ Đặng Văn Tỷ tặng chúng ta bức tranh hoa quả tương lai, tượng trưng bằng ba em bé, hướng dâng về một không gian, thời gian bao la. Bản nhạc Xin Hãy Là Xuân của Trần Thụy Minh vui tươi, rộn ràng vì tình yêu, mùa xuân của bao nhiêu người. Như những mâm cơm Tết, những đĩa hoa quả, những nén hương gởi người muôn năm cũ, tặng những người xa quê khi Xuân về. Đúng như Phụng Long đã viết: Anh vội gom, chút tinh hoa cõi thế. Kết thành thơ, khi tết đến xuân về Với tình thương trong đêm khuya lặng lẽ Nguyện một lời cho nhân thế bình yên.

Ban Thực Hiện Viết&Đọc Đặc San 2017 3


Năm ĐINH DẬU “Con gà cục tác lá chanh”...

Trong 12 con giáp, gà đứng thứ 10 (sau chuột/tý, trâu/sửu, cọp/dần, mèo/mão, rồng/thìn, rắn/tỵ, ngựa/ngọ, dê/mùi, khỉ/thân - nhưng trước chó/tuất và lợn/hợi) tuy nhiên có thế nói, trong thế giới loài người gà “nổi tiếng” hơn cả. “Nổi tiếng” ở đây có nghĩa là được biết đến, là gần gũi nhất với con người, nếu so sánh với các con-giápgia-súc khác như mèo, ngựa, trâu, dê, chó và lợn (heo) thì gà nếu không hơn thì cũng ngang hàng chứ không thua kém. Cứ tạm so sánh, ắt biết. Già trẻ lớn bé, trai gái hay bán nam, bán nữ, kể cả đổi giống... thảy đều đã tối thiểu một lần trong đời ôm gà, còn thì ăn gà thì vô số kể, trong khi người ta có thể vẫn ăn lợn, dê nhưng không ai ôm ấp cũng như, cách riêng ở Tây Phương, người ta vẫn ôm ấp chó, mèo nhưng chẳng ma nào nỡ ăn thịt... Sau cùng, chỉ cần nghe thành ngữ “mang thân trâu, ngựa” cũng đủ nhận thức hai con giáp này thua thiệt về cả hai lãnh vực “được”: Ôm ấp và ăn thịt! Vậy, gà là loài gì thế? Là người Việt dù ở thôn quê hay thành thị, dù là con nhà “chân lấm tay bùn” hoặc thuộc giới “nhà cao cửa rộng”... ai cũng biết gà, nếu chưa được rờ mó gà thì cũng đã hơn một lần ăn thịt gà trong đời; vậy thì việc giải thích “con gà” e bằng thừa. Thế nhưng, nếu không nói rõ ra lại bị chê là thiếu sót, vô ý vô tứ, nhất là thất lễ đối với một con giáp đến phiên cai quản trần gian. Vậy cứ theo sự chỉ dạy khôn ngoan của tiền nhân “thừa còn hơn thiếu”, xin mạn phép định nghĩa như sau: Gà là súc vật thuộc loại cầm (loài chim) nuôi trong nhà để lấy trứng và ăn thịt, bay kém, có mỏ cứng và nhọn, con trống có cựa. Gà là một trong những gia súc mà người ta thường liệt kê thành 6 loại 4 Viết&Đọc Đặc San 2017

Hoài Mỹ

hay “lục súc” (chó, dê, gà, lợn, ngựa, trâu). Tuy nhiên tiếng Việt phong phú lắm; nhiều từ đồng âm nhưng khác nghĩa, do đó trong năm mới này, cần để ý kẻo “bé cái lầm”, chữ “gà” vốn không chỉ có nghĩa như trên vừa trình bày nhưng trong một số trường hợp, lại chỉ ý khác, chẳng hạn “gà đồng” là “con ếch” đấy (tục ngữ: “Mướp non nấu với gà đồng”), “gà mờ” ý nói người kém thông minh hoặc mắt nhìn không rõ), “gà tồ” chỉ người to xác mà khờ khạo, “gà nhà”, người cùng phe với mình, “gà nòi” tức vận động viên có tài, v.v... hoặc chỉ có chữ “gà” đơn thuần: “Gà” là mách nước như “gà một nước cờ”, làm hộ bài như “gà cho bài luận văn”. “Gà” còn là số tiền đánh cuộc riêng - ngoài số tiền góp chính - trong một ván bài tổ tôm, tài bàn... Gà là danh từ Nôm đồng nghĩa với từ Hán Việt “kê”. Sách “Thuyết Văn Giải Tự” giải thích “kê” là loài “tri thức súc dã” tức loài gia súc có khả năng biết giờ giấc và biết báo sáng. Chẳng thế mà ngày xưa, cách riêng ở nhà quê, người ta nuôi gà để báo thức mà dậy sớm đi làm hay ra đồng. Gà trống gọi là “công kê”; gà mái là “mẫu kê”, tuy nhiên “kê cân” lại là gân gà và “kê lặc” là xương gà... Trong tiếng Hán, gà trống còn được gọi là “đại kê” gần âm với chữ “đại cát” (sự lành, tốt lớn lao). Thế nhưng từ kép “cập kê” hoàn toàn chẳng ăn nhập gì đến gà nhưng “kê” ở đây có nghĩa là đến tuổi cài trâm, sắp sửa lấy chồng. Theo tục cổ bên Tàu, con gái 15 tuổi thì bắt đầu được cài trâm trên đầu. “Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” (Kiều). Cũng vậy, “kê gian” là con trai hành dâm với con trai; ngày nay ta gọi là “đồng tính luyến ái” hay “bê đê”... Một điều sai lầm khi có người khoe “tôi


tuổi dậu” rồi hí hửng giải thích “dậu” là “gà” trong khi chỉ có nghĩa là năm sinh của người này thuộc năm con gà. “Dậu” thật ra theo phép giả tá (phương cách viết chữ Nho) biểu thị của chi thứ 10 trong 12 địa chi: Tý, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, Dậu, tuất, hợi. Về sự liên hệ giữa “giáp” với “chi”, chẳng hạn tại sao “tý” lại là “chuột”, “thìn” lại đi với “rồng” hay ngược lại “gà” sao lại là “dậu”... thì dường như chưa có lối giải thích nào mang tính thuyết phục ngon lành, ngay cả các học giả Trung Hoa cũng chỉ diễn giải “lơ tơ mơ” thôi, sau đó quay qua... bút chiến hoặc đấu khẩu. Còn bởi đâu người Việt mình gọi “con vật” ấy là “gà” nhỉ? Trường hợp “gà” kể ra cũng bất khả trả lời cho trôi chảy không như với bò hay mèo, chó... nhờ vào tiếng kêu của các loài này mà đoán ra nguồn gốc “tên cúng cơm” của chúng. Thôi đành... hẹn lại kiếp sau!

Nguồn gốc “gà”?

Nói về “nguồn gốc” của gà, người viết không có ý tham dự vào cuộc tranh cãi trường kỳ không lối thoát: Con gà có trước hay quả trứng có trước? - Người thì quả quyết “quả trứng có trước”; kẻ lại gân cổ nhất định rằng “con gà có trước”. Ở đây, nhân năm Dậu, người viết chỉ muốn lược thuật “dòng thác thời gian” nào đã đưa gà vào... nhà của con người? Xin thưa, gà cũng giống như bao gia súc khác, “thuở ban đầu lưu luyến ấy” thảy đều thuộc loài hoang dã trên rừng núi. Dần dần theo đà tiến hóa đồng thời với luật thiên nhiên đào thải “mạnh được yếu thua”, các giống mãnh thú trở thành những “chúa sơn lâm”, chiếm đoạt địa phương đã đành mà còn ăn thịt luôn các đồng loại nhỏ và yếu hơn... khiến các con vật này vì lý do sinh tồn nên phải di chuyển ra ngoài bìa rừng và kiếm ăn ở các vùng bình nguyên. Nơi đây đã có con người sinh sống thành tập thể. Thế là đương nhiên diễn ra chiến tranh mà nguyên nhân cũng vì động lực sinh tồn. Một số dã thú bị người săn bắt, phần làm thực phẩm, phần làm “tù binh” để rồi theo thời gian thuần hóa luôn mà giữ luôn trong nhà... Bởi thế mới có từ gia súc. Cũng do vậy mà đa số nhà sinh vật học đã cho rằng gà có thủy tổ từ một loài chim hoang dã ở Ấn Độ và loài gà rừng lông đỏ tên là Red Jungle Fowl (tên khoa học gọi Gallus gallus) ở vùng Đông Nam Á... đã được con người thuần hóa cách nay hàng vạn năm. Tự điển Encyclopedia Britannica (2007) viết: “Con người lần đầu tiên thuần hóa gà tại tiểu lục địa Ấn Độ với mục đích để làm gà chọi

ở Á, Phi và Âu châu, chứ chưa chú ý chính thức nuôi lấy trứng hay ăn thịt”. Lại có giả thuyết, kết quả điều nghiên năm 1988 cho biết gà được thuần hóa ở vùng Hoa Nam vào năm 6000 trước Tây Lịch... Vẫn dựa trên giả định, do từ ngữ “manuk” chỉ gà nhà mà các nghiên cứu gia kết luận rằng gà đã sớm được thuần hóa ở Đông Nam Á. Gà, chó, lợn là những gia súc trong nền văn hóa Lapit, tức nền văn hóa thời đồ đá đầu tiên của châu Đại Dương. Tranh vẽ sơ khởi về gà ở châu Âu đã được tìm thấy trên món đồ gốm Korinthos niên đại thế kỷ 7 trước Công Nguyên... Theo một số các nhà khảo cứu về cổ khí hậu học, việc nuôi gà phát triển dưới thời đế quốc La Mã nhưng suy giảm trong thời Trung Cổ. Người La Mã cổ đại dùng gà trong thuật bói toán. (Người Việt cũng có tục dùng chân gà để đoán quá khứ và tương lai. Từ thời nào, không ai rõ nhưng tới nay ở nhiều nơi vẫn có kiểu “bói ra ma quét nhà ra rác” bằng chân gà khô). Năm 162 trước Tây Lịch, nhằm bảo đảm lượng ngũ cốc tích trữ, chính quyền La Mã đã ban hành luật Lex Faunia nghiêm cấm vỗ béo gà mái. Dân chúng La Mã bèn nghiêng sang việc thiến gà trống. Kết quả, kích thước gà trống tăng gấp đôi (béo) và số món ăn từ gà cũng leo thang, trong đó phần nhiều là món gà luộc ăn với nước “sốt”... Sách Apicius trong mục về ẩm thực của người La Mã, đã kể 17 món ăn từ gà. Ngoài ra người ta cũng tìm thấy dấu tích của gà ở Trung Đông có từ hơn 2000 năm trước Tây Lịch ở Syria... Trong thế giới loài chim, gà chiếm hàng đầu về “dân số”. Tuy thống kê không thể nêu rõ đích xác số lượng gà đang sống, nhưng ngành nông nghiệp gia cầm toàn cầu cho biết hiện mức tiêu thụ khoảng 50 tỷ con gà hàng năm trong việc chế biến thực phẩm. Đó là chưa kể tới số lượng tiêu thụ trứng. Mạn phép để... dành, nói sau.

Biểu tượng... Gà!

Nói tổng quát, biểu tượng là một thực thể vật chất được dùng để đại diện cho một ý tưởng hay nhằm truyền đạt một thông điệp. Bởi thế không lạ khi con giáp nào cũng được nhân loại tuyển chọn làm biểu tượng, chẳng hạn cọp mang ý nghĩa về sức mạnh, rồng về quyền uy, rắn chỉ sự khôn ngoan, dê nặng về... tình dục. Gà cũng không tránh khỏi trọng trách tinh thần vừa trình bày trong nhiều lãnh vực như tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật... ở nhiều dân tộc trên thế giới. Điển hình ở Tây Phương, như: Viết&Đọc Đặc San 2017 5


Pháp: “Gà Gô-loa” (Le Cop Gaulois) là biểu tượng của nền Cộng Hòa Pháp. Chẳng những thế, thời trung cổ, người Pháp đã sử dụng “Le Cop Gaulois” như một biểu tượng tôn giáo về đức tin và niềm hy vọng. Thời Phục Hưng, hình ảnh gà trống gắn liền với sự hình thành của nước Pháp. Qua các triều đại, chính quyền Pháp vẫn chính thức công nhận gà trống thể hiện bản sắc quốc gia. Nguyên nhân: Trước hết, gà trống với ngoại hình oai vệ được cổ nhân Pháp “chấm điểm” là loài vật đúng giờ, dũng cảm và luôn cảnh giác... giống đặc tính của dân tộc này. Sau nữa, bởi sự chơi chữ: Tổ tiên người Pháp là Gaulois nhưng trong tiếng Latin viết là “Gallus”; từ “gallus” này có nghĩa là “gà trống”. Ngày nay “Gà Trống Gô-loa” không còn là biểu tượng của Cộng Hòa Pháp nữa, nhưng vẫn biểu hiện một khía cạnh nào đó của đất nước này. Chẳng thế mà đội tuyển túc cầu Pháp vẫn được giới hâm mộ gọi là “nhưng chú gà trống Gô-loa”. La Mã: Người La Mã cho rằng gà trống gần gũi mật thiết với thần Mercury, vị thần ngoài trách nhiệm chính là đưa linh hồn người chết về bên kia thế giới, còn giữ việc truyền tin cho các thần khác. Hy Lạp: Thời cổ đại, người Hy Lạp đã quan niệm gà trống vốn sở hữu tính dũng cảm nên được cho là biểu tượng của các thần Ares, Athena và Heracles. Theo niềm tin của dân tộc này, sư tử cũng sợ gà trống. Tới thời kỳ tiếp xúc với văn hóa Ba Tư, người Hy Lạp đã gọi gà trống là “chim Ba Tư” bởi vai trò và chức năng quan trọng của gà trống trong tôn giáo và xã hội Ba Tư. Do Thái: Về phương diện xã hội, sách Talmud (Eubin 100b) dậy việc học hỏi từ gà trống “tính lịch thiệp đối với bạn đời”: Khi gà trống tìm được mồi ăn, nó liền gọi các gà mái đến ăn trước. Về tín ngưỡng, người Do Thái thường dùng gà hoặc cá làm lễ vật trong ngày Yom Kippur (ngày xám hối) vì cho rằng các động vật này sẽ mang đi mọi tội lỗi của họ... Và ở Á Châu, như: Việt Nam: Truyền thuyết kể vua An Dương Vương Thục Phán khi dựng thành, cố công xây đến đâu thì đất lở tới đấy. Rùa thần hiện ra báo cho vua biết ở núi Thất Diệu có một con gà trắng đã sống cả nghìn năm rồi hóa thành yêu tinh ẩn trong núi, nếu diệt được nó thì việc xây thành mới xong. An Dương Vương nhờ mưu mô giết được con gà trắng nên đã thành công trong việc xây dựng thành. 6 Viết&Đọc Đặc San 2017

Gà còn là dấu tích của nền văn minh và văn hóa nông nghiệp Việt Nam. Trên trống đồng Đông Sơn có hình ảnh gà và chim (cùng loại). Truyện cổ tích Sơn Tinh - Thủy Tinh cũng nhắc đến gà trong lễ vật thách cưới: “Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao”. Thời Tây Sơn, trong võ thuật có môn “Hùng Kê quyền” (quyền là gà chọi), bài quyền mô phỏng các kỹ thuật của gà chọi. Trong nghệ thuật, tranh Làng Hồ thường có hình ảnh con lợn ủn ỉn, “con gà cục tác lá chanh” biểu hiện nét chấm phá về đời sống thôn quê yên bình. Trong văn hóa dân gian, trong tục thờ Mẫu, Thánh, Ngũ Phù Công Đồng... gà cũng chiếm vị trí quan trọng qua hình ảnh trước điện thờ tiên thánh... Trung Quốc: Theo tôn giáo dân gian, gà là món dành riêng kính dâng lên tổ tiên và thờ cúng thành hoàng. Trong đám cưới theo Khổng giáo, gà được dùng làm vật tế thân cho người bị bệnh hay vắng mặt không dự được hôn lễ. Ngoài ra, tín ngưỡng bình dân còn kể rắn thần xuất xứ từ trứng gà trống nên cũng sẽ chết khi nghe tiếng kêu của gà trống... Nhật Bản: Gà cũng được xem là vật linh thiêng. Trong thần thoại về Nữ Thần Mặt Trời Amaterasu; theo đó vì giận em trai là Thần Bão Tố Susano mà nữ thần giam mình trong hang động khiến dân gian bị chìm triền miên trong bóng tăm tối. Trước tình cảnh ấy, các vị thần khác đã dùng những con gà trống có giọng thật tốt thi nhau gáy để kêu xin Nữ Thần Mặt Trời tái xuất hiện. Nam Dương (Indonesia): Trong nghi thức hỏa táng của đạo Hindu, gà vẫn mang ý nghĩa rất quan trọng. Trong buổi lễ, gà bị trói chân lại để bảo đảm rằng các linh hồn xấu xa nếu xuất hiện trong buổi lễ sẽ nhập vào và thay vì vào những người trong tang quyến có mặt tại đó. Sau lễ, người ta lại thả gà ra để tiếp tục sống bình thường. Ngoài ra, người Nam Dương còn giết gà Ayam Cemani để cúng tổ tiên, thành thánh trong lúc phụ nữ lâm bồn vì họ tin rằng sự may mắn sẽ đến. Tiếng gáy của gà Ayam Cemani còn mang lại sự thịnh vượng. Gà đứng trên gác chuông nhà thờ: Trong Kinh Thánh của Thiên Chúa Giáo, phần Tân Ước, Chúa Giêsu đã tiên đoán về sự phản bội của thánh Phêrô: “Thầy bảo thật, trong đêm nay, trước lúc gà gáy lần thứ nhất, con đã chối Thầy ba lần” (Lc 22:23). Phêrô lập tức trả lời: “Không bao giờ! Ai phản bội Thầy thì con không biết; riêng con, con sẽ chẳng bao giờ chối Thầy!”. Quả thật, trong đêm đó mọi sự đã xẩy ra đúng như lời Chúa


Giêsu đã cảnh báo. Đến thế kỷ 6, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô I đã công nhận gà trống như một thứ biểu tượng cho sự cảnh giác trước mọi hành động phản bội Thiên Chúa. Vào thế kỷ 9, Đức Giáo Hoàng Nicôla Đệ Nhất đã đề nghị đặt hình tượng gà trống trên gác chuông nhà thờ như một sự kêu gọi tỉnh thức, cảnh giác và trung tín... Ngoài ra cũng trong phần Tân Ước, Chúa Giêsu cũng dùng hình ảnh gà mẹ ấp ủ và che chở gà con để biểu lộ tình thương của Ngài đối với thành Jerusalem (dân tộc Do Thái): “Hỡi Jerusalem, Jerusalem! Các người đã giết các đấng tiên tri và ném đá những kẻ được sai đến cùng các người. Bao lần Ta cũng đã muốn qui tụ các người lại như gà mẹ che chở gà con dưới đôi cánh mà các người không chịu...” (Mt 23:37; Lc 13:34).

Một số loại gà

Người ta ước đoán hiện có khoảng hơn 150 loại gà. Bởi thế tên gọi loài này cũng nhiều vô số kể, nhưng phổ thông hơn cả, xin tạm liệt kê: -Gà trống: Gà đực, dễ nhận ra trong một đàn nhờ thân hình cao, mào đỏ, bộ lông dài, óng ả. Gà trống thường gáy to vào buổi sáng; thỉnh thoảng tiếng gáy to của nó còn là tín hiệu cho các gà trống khác về quyền “bất khả xâm phạm” lãnh thổ. Khi tìm ra mồi, gà trống sẽ cục tác gọi các gà mái, gà con đến ăn. Sự hiện diện của gà trống trong đàn gà như để bảo đảm cho một thứ gọi là “tôn ti xã hội”. Song song đó, gà trống còn có bổn phận truyền giống mà ngôn ngữ thông thường gọi là “đạp mái”. Khả năng này bị “tước đoạt” một khi gà trống bị cắt đi bộ phận sinh dục để rồi được gọi là “gà trống thiến” hay chỉ đơn giản là “gà thiến”. -Gà mái: Gà đẻ trứng. Nó thường cục tác ầm ĩ sau khi đẻ trứng và khi gọi đàn con. Theo “luật tự nhiên”, đa số gà mái chỉ đẻ đầy một ổ trứng (khoảng 12 quả) rồi bắt đầu ấp. Trong thời gian này gà mái ít ra khỏi ổ và sẽ mổ dữ dội nếu bị đẩy ra khỏi ổ hoặc bị làm phiền. Thời gian ấp khoảng 21 ngày. Gà con mới nở được gà mẹ ra sức bảo vệ và được ấp ủ giữ ấm. Gà mẹ dẫn các con đi tìm thức ăn, nước uống cho đến khi chúng được vài tuần tuổi... Ngày nay ở gần như khắp nơi, người ta đã dùng hệ thống lồng, sưởi ấm bằng hơi điện và các loại thực phẩm nhân tạo... để nuôi gà, kích thích đẻ trứng và chăm nuôi gà con. -Gà ri: Gà có thân hình nhỏ bé, chân thấp với màu lông đa dạng, chẳng hạn gà mái thì có màu vàng rơm, vàng đất hoặc nâu nhạt, có đốm

đen ở cổ, đuôi và đầu cánh; gà trống có màu lông đỏ thẫm, đầu lông cánh và lông đuôi có lông đen ánh xanh. Mào gà trống màu đỏ, có răng cưa. Gà mái bắt đầu đẻ trứng khi được 4 - 5 tháng tuổi và đẻ theo từng đợt 15 - 20 trứng, nghỉ đẻ và đòi ấp. Gà trống ba tháng đã biết gáy, nặng 1,5 - 2 kg khi được một năm tuổi. Thịt gà ri thơm, ngon, có màu trắng, sợi cơ nhỏ, mịn. -Gà đá hay Gà chọi: Xem phần “Trò chơi gà” ở gần cuối bài. Ngoài ra, gà còn được gọi tên tùy theo địa phương, như gà Đông Cảo, gà Tam Hoàng, gà Cao Lãnh... hoặc theo xuất xứ, như gà Hàn Quốc, gà Tàu Vàng, gà Ai Cập, gà Nam Mỹ.. hoặc theo đặc tính, như gà Nòi, gà Chín Cựa, gà Ác (gà đen), gà kiến (thứ gà nhỏ, lông đỏ như màu cánh kiến), gà nòi (gà chọi, giống tốt), gà lôi (thứ gà to, đuôi xòe như đuôi công), gà mái ghẹ (gà mái non, sắp đẻ), gà mái mơ (gà mái lông có những chấm trắng), gà pha (thứ gà chọi pha giống), gà sao (thứ gà to, lông xám), gà tây (thứ gà cao, lớn; lông màu đen hoặc lốm đốm; con đực có bìu đỏ ở cổ và có thể xòe đuôi rộng ra), gà xiêm (thứ gà đầu nhỏ, lông màu xám lốm đốm)...

Gà trong Văn Học Dân Gian

Văn Học Dân Gian còn được gọi là Văn Chương Bình Dân hay Văn Chương Truyền Khẩu, nghĩa là, nói chung, nền văn học chỉ được truyền miệng trong giới “chân lấm tay bùn”, “buôn thúng bán mẹt”... chứ không/chưa được ghi chép trong sách vở và không theo các qui luật như thứ văn chương bác học. Và bởi thế, người ta không biết đích danh ai là tảc giả, chỉ nói chung chung là của “dân gian” mà thôi. Văn Học Dân Gian thường bao gồm những câu ca dao, tục ngữ... dân ca và truyện cổ tích. Tuy vậy nền văn học này phản ảnh mọi khía cạnh đời sống tinh thần, vật chất...của giới bình dân tức những người không có học vấn hoặc ít học. Cũng như các con giáp khác, gà cũng “hiện diện” trong nền văn học này mà trong một bài báo, người viết không thể liệt kê ra hết được, chỉ mạn phép nêu ra đây một số thí dụ cụ thể: -Gà trong tục ngữ, thành ngữ: Thí dụ: Cơm gà, cá gỏi: Khen ngợi những món ăn ngon và sang trọng; tương tự “Đầu gà, má lợn”: Miếng ăn ngon. Cũng vậy: “Chó già, gà non”: Chó già, thịt không tanh; ngược lại, gà non, thịt mềm, ăn mới ngon... giống trường hợp: “Vịt Viết&Đọc Đặc San 2017 7


già, gà to”: Vịt già còn ăn được, chứ thịt gà già vừa dở vừa dai... -“Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa” có ý nói về thời tiết, giống như kinh nghiệm dân gian nhìn màu mây mà đoán ra mưa, gió: “Mỡ gà thì gió, mỡ chó thì mưa” (mỡ gà vàng, mỡ chó trắng) hoặc “Ráng mỡ gà, có nhà thì chống”: Hiện tượng sắp có bão; cần đề phòng. -“Cơm chín tới, cải ngồng non, gái một con, gà mái ghẹ”: Những thứ người ta ưa chuộng vì vừa ngon lẫn đẹp. -Dùng gà để chê bai, chẳng hạn: “Gà mái gáy gở” (không biết gáy): Chê phụ nữ can thiệp vào việc đàn ông - “Gà nhà lại bới bếp nhà”: Chê kẻ cùng phe cánh lại phá hoại lẫn nhau - “Gà què ăn quẩn cối xay”: Chê những kẻ không có ý chí “Học như gà đá vách”: Chê những người học kém - “Lép bép như gà mổ tép”: Chê những người ưa ngồi lê mách lẻo - “Lúng túng như gà mắc tóc”: Chê những người thiếu bình bĩnh, bối rối - “Nhìn gà hóa quốc”: Chê những người không nhìn rõ sự thật, lẫn lộn phải trái - “Tiếc con gà quạ tha”: Chê những kẻ tiếc cái không đáng tiếc - “Trói gà không chặt”: Chê kẻ hèn yếu, không làm được việc gì nên thân - “Lờ đờ như gà ban hôm” (quáng gà): Chê người chậm chạp, không hoạt bát. - “Mèo mả, gà đồng”: Chỉ những kẻ vô lại, sống lang thang, làm bậy. - “Quạ theo gà con”: Chê kẻ xấu rình cơ hội để hại người... -Dùng gà để gián tiếp khuyên bảo hoặc khích lệ: “Đầu gà còn hơn đuôi phượng”: Đứng đầu một nơi dù nhỏ còn hơn làm tôi tớ kẻ khác. “Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”: Cậy thế bắt nạt người khác. - “Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”: Cần đoàn kết, gắn bó với nhau. - “Khách đến nhà không gà thì vịt”: Thể hiện sự hiếu khách của chủ nhà. - “Một tiền gà, ba tiền thóc”: Phải biết tính toán kẻo món lợi thu về không bằng công sức bỏ ra. - “Thóc đâu mà đãi gà rừng”: Cẩn thận kẻo lãng phí một cách vô ích. - “Hóc xương gà, sa cành khế”: Cần tránh nhưng điều nguy hiểm - “Tiền trao ra, gà bắt lấy”: Sòng phẳng như kiều “tiền giao, cháo múc” vậy... - Khuyên biết chắt chiu hà tiện: “Đãi cứt sáo lấy hạt đa, đãi cứt gà mót hạt tấm” - Khuyên về sự chừng mực có mức độ: “Cơm đâu no chó, thóc đâu no gà... -Dùng gà để mô tả những cảnh ngang trái hay oan khiên của cuộc đời: “Vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm”: Lợi dụng khi không có người chỉ huy để làm xằng bậy. - “Gà tức nhau tiếng gáy”: Tính ưa ganh ghét nhau, không chịu thua kém người khác. - “Con gà tốt mã vì lông”: Người đời dễ bị vẻ 8 Viết&Đọc Đặc San 2017

hào nhoáng bên ngoài thu hút. - “Mẹ gà, con vịt”: Cảnh trẻ mồ côi mẹ phải sống với dì ghẻ. - “Nháo nhác như gà lạc mẹ”: Tả vẻ xao xác, tìm kiếm một cách lo lắng. - “Ngủ gà, ngủ vịt”: Cảnh sống vất vả, ngủ không thành giấc. - “Ngun ngủn như gà cụt đuôi”: Ý nói một vật gì đó ngắn ngủi đến khó coi. - “Trấu trong nhà để gà ai bới”: Việc trong nhà mình lại lừa cho người khác làm. - “Vạ vịt chưa qua, vạ gà đã đến”: Hoàn cảnh chưa hết tai họa này đã gặp hoạn nạn khác. - “Gà trống nuôi con”: Hoàn cảnh người đàn ông góa vợ nuôi đàn con nhỏ dại. - Và “Hạc lạc kê quần”: Ý chỉ người tài giỏi phải ở chung với những kẻ kém cỏi... -Gà trong ca dao: Thí dụ: - “Gà nào bằng gà Cao Lãnh Gái nào bảnh bằng gái Tân Châu. Anh thương em chẳng ngại sang giàu Mứt hồng một lạng, trà tàu một cân”. -“Em về thưa với mẹ cha, Bắt lợn đi cưới, bắt gà đi cheo”... -“Con gà rừng tốt mã khoe lông Chẳng cho đi chọi, nhốt lồng làm chi”. -“Khôn ngoan đá đáp người ngoài Gà cùng một mẹ, chớ hoài đá nhau”. -“Gà tơ xào với mướp già, Vợ hai mươi mốt, chồng đà sáu mươi”. -“Gà già khéo ướp thì tơ Nạ dòng trang điểm, gái tơ mất chồng”. “Con gà tốt mã về lông, Răng đen về thuốc, rượu nồng về men”. -“Mẹ gà con vịt chắt chiu Mấy đời dì ghẻ nâng niu con chồng”. -“Thịt gà, cá chép, ba ba, Trong bấy nhiêu thứ, liệu mà phải kiêng”. -“Làm thơ, nuôi chó, chọi gà, Ba trò chơi ấy làm ta bơ phờ”. -“Con gà cục tác lá chanh Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi Con chó khóc đứng khóc ngồi Bà ơi đi chợ mua tôi đồng riềng”... -Gà trong câu đố: Thí dụ: -“Con gì không vú, nuôi chín mười con?” (Gà mái) -“Có chân mà chẳng có tay Có hai con mắt ăn mày trần gian?” (Gà mái) -“Đầu rồng đuôi phượng cánh tiên Ngày năm bảy vợ, tối ngủ riêng một mình?” (Gà trống) -“Mình vàng mặc áo cánh tiên Nửa đêm thức dậy hô liên vang trời?” (Gà trống) -“Con chi mào đỏ, lông mượt như tơ Sáng sớm tinh mơ gọi người ta dậy?” (Gà trống)


-“Chân đạp miền thanh địa Đầu đội mũ bình thiên Mình thì bận áo mã tiên Ban ngày đôi ba vợ, tối nằm riêng kêu trời?” (Gà trống) -“Trên đầu đội sắc vua ban Dưới thời yếm thắm, dây vàng xum xuê Thần linh đã gọi thì về Ngồi trên mâm ngọc, gươm kề sau lưng?” (Gà trống) “Xưa con đông liễu, tây đào Nay mừng tiên đã tìm vào bồng lai?” (Gà trống thiến) -“Yểu điệu thục nữ Quân tử hảo cầu Lấy nhau được ba bốn ngày Đến khi vợ đẻ lên ngay giường mùng Vợ đẻ cho vợ cấm cung Trông xa ngoài ngõ kêu liền nàng ca Ra ngoài bỡn vợ người ta Vợ nhà nghe thấy chạy ra kêu trời?” (Gà mái và gà trống) -“Mẹ đi trước đánh cồng đánh bạt Con đi sau, vừa hát vừa reo?” (Gà mẹ và đàn gà con) -Gà trong truyện cổ tích. Thí dụ: CÚNG GÀ ĐÊM GIAO THỪA Theo phong tục cổ truyền của người Việt Nam, mâm cỗ cúng Giao Thừa bao giờ cũng có một con gà trống luộc mà mỏ ngậm bông hồng với ý nghĩa tinh khiết, khỏe mạnh - và một đĩa xôi gấc với ý nghĩa được “số đỏ” may mắn cả năm. Sở dĩ gà được tuyển chọn vào dịp đặc biệt này là bởi, theo thần thoại của dân tộc Việt, khi mới sáng tạo địa cầu, Ngọc Hoàng thấy lạnh lẽo và ẩm thấp quá, bèn sai mười mặt trời suốt ngày đêm chiếu sáng để sấy khô mặt đất. Thế nhưng, khi mặt đất đã khô cứng, nứt nẻ rồi mà Ngọc Hoàng lại quên không ra lệnh cho các mặt trời ngưng “công vụ” khiến con người và cây cỏ khốn đốn vì nắng hạn. Thấy vậy, một dũng sĩ xuất hiện, giương cung tên bắn các mặt trời. Liên tiếp 9 mặt trời rơi rụng còn mặt trời cuối cùng sợ hãi quá, đã vội bay tít lên cao và trốn biệt tăm tích. Mặt đất lại rơi vào tình cảnh tối tăm, lạnh lẽo và ẩm ướt. Con người và loài vật bèn rủ nhau đi tìm gọi mặt trời. Không ai và con vật nào thành công. Sau hết, con gà trống cất tiếng gáy vang lừng khiến mặt trời vì tò mò ngó xuống xem cho biết sự tình nhưng cũng nhờ vậy mà quên sợ hãi, hạ thấp dần dần với ánh sáng bừng lên... Đêm Giao Thừa còn gọi là đêm Trừ Tịch,

trời đất tối tăm hơn cả. Dân gian bảo rằng lúc đó mặt trời ẩn mình sâu nhất. Thế là nhà nhà, người người lại cúng gà trống với niềm hy vọng gà sẽ đánh thức mặt trời chiếu sáng ánh nắng cả năm. Hơn nữa, niềm tin còn dậy là gà trống hoa linh hơn bởi khỏe mạnh và tinh khiết. Đó cũng chính là niềm cầu mong “mưa thuận gió hòa” của nông dân vậy. TẠI SAO GÀ MÁI KHÔNG GÁY? Lâu lắm rồi, không rõ từ khi nào, chỉ biết nói là ngày xửa ngày xưa, Thiên Hoàng giao cho loài gà nói chung trách nhiệm canh giữ giờ giấc cho trần gian. Theo đó gà phải đúng giờ mà cất tiếng gáy vang hầu không để mặt trời ngủ say mà quên tỏa ánh sáng xuống cho loài người và muôn vật khác. Thuở bấy giờ, Thiên Hoàng không hề phân biệt giống đực, cái, bởi thế cả gà mái lẫn gà trống đều gáy như nhau. Thế nhưng lần nọ - giữa lúc nửa đêm chẳng hiểu vì nguyên nhân nào mà con gà mái bỗng cất tiếng gáy thốc luôn ba hồi liên tiếp. Lúc đó Thiên Lôi, vị thần có trách nhiệm về trật tự trong vũ trụ, đang say giấc nồng, giật mình ngồi bật dậy. Vốn bản tính nóng nảy, Thiên Lôi giận lắm vì biết gà mái đã gáy xằng bậy. Thiên Lôi liền cho gọi gà mái đến. Vừa thấy gà mái, vị thần này lập tức cầm cây gậy gõ mạnh vào đầu gà. Thành thử từ bấy giờ, phần thanh quản của gà mái bị teo nhỏ lại, phần vì sợ hãi mà gà mái không còn dám gáy nữa. Thế là cũng từ đó, gà trống giữ “độc quyền” tiếng gáy và uy lực của nó. CON GÀ, CON LỢN và CON CHÓ Ngày xưa có một ông phú hộ nọ rất giầu có về vàng bạc đã đành mà gia súc cũng vô số. Một hôm, gần hai chục con vừa trâu, vừa bò sổng chuồng đi mất. Tuy nhiên nhờ gia đình ông phú hộ biết đạo nghĩa, ăn ở công bình mà dân làng thương mến; bà con láng diềng bèn ngưng công việc để đi tìm các con trâu, con bò lạc này về đầy đủ. Cảm kích công ơn lớn lao này, tối hôm đó vợ chồng phú hộ nói chuyện với nhau: “Của cải mất đi, lại tìm thấy là nhờ lòng tử tế của bà con lối xóm. Vậy ta phải báo đền ơn nghĩa. Bữa mai, ta phải thịt một con gà, một con lợn và một con chó rồi mời tất cả những ai đã giúp ta đến cơm rượu cho thật no say”. Bàn bạc xong, vợ chồng lên giường ngủ. Lạ lùng, cả hai người đều nằm mơ giống nhau. Ông Tổ hiện ra bảo rằng: “Ta đã nghe các ngươi dự định ngày mai sẽ giết hại những ba con vật để Viết&Đọc Đặc San 2017 9


đãi khách. Ta e rằng sát sinh như vậy là thất đức. Vậy khi giết chúng nó, các ngươi phải biết hóa kiếp cho chúng nó đi đầu thai thì trong nhà mới yên lành được”. Vợ chồng vội tâu với ông Tổ: “Chúng con vốn người trần mắt thịt, ngu si chẳng biết phải làm gì để hóa kiếp cho ba con vậy ấy. Xin ngài dạy bảo”. Ông Tổ đáp: “Khi làm thịt gà thì phải hái lá chanh, thịt lợn phải thái củ hành, thịt chó thì phải giã củ riềng thêm vào. Có như vậy, hồn các con vật ấy mới siêu thoát. Hiểu chưa?” Hai vợ chồng đều vâng vâng, dạ dạ và cúi rạp mình lậy tạ. Nào ngờ câu chuyện trao đổi giữa ông Tổ và vợ chồng nhà phú hộ, ba con vật gà, lợn, chó đều nghe rõ hết, nhưng cũng đành vậy vì biết mình không sao tránh khỏi chết. Tuy nhiên điều chúng lo sợ hơn cả là chủ nhà có thể quên lời ông Tổ dặn khiến chúng không sớm được đầu thai kiếp khác. Thế là khi mặt trời vừa ló dạng, cả ba con đều đua nhau kêu ầm lên: Gà thì: “Cục tác... lá chanh!” - Lợn thì ủn ỉn: “Mua hành cho tôi!” - Trong khi đó, chó khóc đứng, khóc ngồi: “Bà ơi, đi chợ, mua tôi đồng riềng!” Vì truyện này mà từ đó dân chúng khi ăn thịt gà thì phải có lá chanh, thịt lợn phải có hành và chó phải có riềng thêm vào thì ăn mới ngon... CÔNG VÀ GÀ Xưa, một nhà giầu có nọ mua về được một con công, lấy làm hãnh diện và đắc ý lắm. Ngày nào nhà này cũng bỏ ra nhiều tiền mua ngô, gạo cho công ăn. Ngược lại, đàn gà thì bị bỏ bê, không còn được chăm nuôi như trước kia, tự kiếm được con sâu, con bọ thì ăn, bằng không thì tối đến lên chuồng với bụng lép... Công ăn no, ăn ngon nên mau béo tốt; bộ lông sặc sỡ mướt dài. Hơn nữa, công được tự do đi lại trong vườn, nhởn nhơ đây đó. Công tỏ ra kiêu hãnh, khinh bỉ lũ gà vịt và thường xa lánh các gia súc khác. Rồi bỗng một hôm, công vỗ cánh, bay một mạch thẳng vào rừng... Chủ nhà đau xót vô cùng nhưng chẳng biết phải làm gì, đành chỉ biết âm thầm than tiếc. Mất công, sau cùng chủ nhà phải quay lại săn sóc đàn gà vậy. Bởi thế có câu ca chế giễu rằng: “Công ăn, công múa. Kiếm đường, công đi - Gà ăn, gà ở, cần gì hôm mai!” Và sau lại có tục ngữ: “Gà ăn hơn công ăn”. GÀ MƯỢN MÀO VỊT 10 Viết&Đọc Đặc San 2017

Ngày xưa, Gà trống không có bộ dáng oai phong và đẹp đẽ như ta thấy hiện nay. Trái lại, thuở trước, chính Vịt đực mới có bộ cánh biếc xanh và chiếc mào đỏ rực. Gà trống thì không có mào; bộ cánh lại chỉ “thường thường bậc trung” mà thôi. Một lần, mùa xuân về, muôn hoa đua nở. Bản làng mở hội vui ôi là vui. Loài người “gần xa nô nức yến oanh”. Ngay cả muông thú cũng hát ca, nhẩy múa. Người, vật thảy đều hân hoan quần lá áo lượt đi chơi hội. Trong lúc đó, Gà ủ rũ trong chuồng, chẳng dám thò đầu ra. Mãi sau, Gà sực nhớ đến bác Vịt đực hàng xóm. Suy tính xong, Gà sang nhà Vịt, mở đầu bằng những câu nịnh nọt rồi than thở: “Anh Vịt ơi, số anh đúng là đẻ bọc điều, anh đã có áo lại có mào; thứ nào cũng đẹp, cũng sang trọng, còn tôi chẳng có gì. Nay hội xuân lại tới rồi. Tôi nhớ năm nào anh cũng diện bộ cánh bảnh bao đi chơi hội xuân. Anh nào có hay, trong lúc đó tôi nằm nhà tủi thân mà khóc... Năm nay, tôi đành đánh bạo sang năn nỉ anh, xin anh làm ơn làm phúc cho tôi mượn tạm cái mũ thôi để tôi cũng được chút vui xuân cùng thiên hạ trước ngày... nhắm mắt vĩnh biệt cõi trần”. Nói xong, Gà nấc lên nghẹn ngào. Vịt xúc động. Sau một lúc suy nghĩ, Vịt xiêu lòng cho Gà mượn cái mũ mào đỏ của mình và bảo Gà nhớ trả lại ngay sau khi trẩy hội về. Bằng một giọng quả quyết, Gà thề hứa sẽ y lời. Được mũ đỏ, Gà tung tăng khắp nơi gần xa. Thế nhưng thấm thoát đã hết mùa xuân, sắp sửa bước sang hạ. Và dĩ nhiên hội hè cũng chẳng còn nữa. Vậy mà Gà vẫn chưa trả mào cho Vịt mặc dù Vịt đã nhiều lần bắn tiếng. Một hôm Vịt đích thân sang đòi mũ. Gà đội mãi rồi nên đã quen, hơn nữa lại thấy đẹp nên không muốn trả. Thế là lời qua tiếng lại rồi cuối cùng hai bên xông vào xô xát nhau. Gà vốn có thân hình cao lớn lại nhanh nhẹn, nhẩy tung lên đá Vịt lăn quay ra đất. Chưa hết, Gà còn dẫm chân vào đầu, đè vào cổ Vịt, không chút xót thương. Vốn nặng nề, chậm chạp nên Vịt không thể chống cự nổi. Nằm dưới sức nặng của Gà trống, Vịt đau lắm, không kêu được tiếng nào. Cuối cùng Vịt đành ra dấu chịu thua và sau đó chịu mất mào vĩnh viễn. Và cũng từ thời điểm ấy, mỏ Vịt bị dẫm bẹp và cổ Vịt không ngừng đau nhức khiến tiếng kêu của nó trở nên khàn khàn. Loài người ít người biết rõ chuyện, chỉ nghe tiếng kêu của Vịt mà bảo “khàn khàn như tiếng Vịt đực” đồng thời lại khen


Gà trống có chiếc mào đỏ rực... TẠI SAO GÀ MÁI KHÔNG CÓ MÀO? Vào cái “thuở ban đầu lưu luyến ấy”, không chỉ gà trống mà cả gà mái cũng đều có mào đỏ rực trên đầu và bộ lông dài óng mượt. Tuy nhiên cũng vì bản tính đa cảm mà ngoại hình gà mái đã thay đổi vĩnh viễn. Số là vào một ngày đầu năm, cây đâm chồi, hoa nẩy lộc, vạn vật đổi mới. Gà mái cũng “diện bộ” du xuân. Khi đi ngang một bụi hoa, gà mái bỗng nhận ra có tiếng thút thít lắng sâu trong những tiếng cười đùa vui vẻ của các loại hoa. Ngạc nhiên, gà mái lách vào trong bụi, chợt thấy một cây thấp lè tè so với những cây khác, đang cúi đầu khóc. Gà mái hỏi nguyên do thì cây này nức nở kể: “Đấy chị coi, trong khi các anh chị cây khác thảy đều có hoa sặc sỡ nhờ thế mà có tên gọi, này chị Hồng, kia chị Huệ, nọ chị Lan... còn em quá xấu xí, cả bốn mùa chỉ đeo mấy chiếc lá héo úa, lại chẳng có một chiếc nụ nào thì lấy đâu nở hoa... Cũng vì không có hoa mà em không có tên gọi”. Kể xong, cây lại òa khóc lớn tiếng. Gà mái vốn giàu tình cảm, không tránh khỏi động lòng nhưng lại không biết phải làm gì. Gà mái còn đang suy nghĩ thì cây đã lên tiếng khen gà có một dáng vẻ xinh đẹp. “Được lời như mở cõi lòng”, gà mái liền tháo chiếc mào đỏ rực của mình đeo lên đầu cây rồi cởi cả bộ lông óng mượt phủ lên toàn thân cây. Tức thì cả một vùng chỗ đó sáng rực lên vì sự đổi mới tuyệt vời của cây khiến các cây khác phải giật mình. Để tỏ lòng biết ơn ân nhân, từ đó cây tự xưng tên là Hoa Mồng Gà. Ngược lại, lòng tốt của gà mái đã thấu tới trời. Ngọc Hoàng bèn thưởng gà mái bằng việc hủy bỏ cho gà mái phận sự gáy sáng để gà được đêm đêm ngủ ngon giấc đồng thời ngài còn cho gà mái đẻ trứng mỗi ngày thay vì chỉ đẻ theo mùa như trước kia. Cũng vì vậy gà mái luôn được loài người thương và trứng của gà cũng được trân quí...

Trò chơi Gà

Trò chơi Gà tức là trò chọi gà hay đá gà. Không ai có thể xác quyết trò chơi này phát xuất từ đâu đầu tiên, chỉ biết đại khái thời cổ đại ở Hy Lạp, dân chúng cũng đã có trò đá gà lấy tiền. Ở Việt Nam, trò chơi này đã xuất hiện từ thời nhà Lý (1010 - 1225) do quân sĩ của tướng Lý Thường Kiệt đã đem về nước sau những cuộc chinh phạt Chiêm Thành. Mặc dù là một trò chơi dân gian phổ biến trên khắp thế giới, tuy nhiên hầu hết các quốc gia

Tây Phương đã nghiêm cấm, chẳng hạn vương quốc Anh từ năm 1835, Ba tây từ 1934... Riêng tại Việt Nam, dường như mỗi địa phương đều có giống gà đá nổi tiếng, như miền Bắc có gà Hải Phòng, Nghĩa Đô, Vân Hồ, Hà Nội...; miền Nam có gà Chợ Lách, Cao Lãnh, An Giang, Bà Điểm, Hố Nai...; miền Trung có gà Phan Rang, Phú Yên, Gò Dúi, Quảng Ngãi, Bình Định, Tây Sơn... Trong trò chọi gà, quan trọng nhất là nghệ thuật chọn gà; theo đó trước tiên là xem hình dáng, tướng mạo, xét kỹ 5 bộ phận trên mình gà gọi là “ngũ thường” - gà phải có mắt long cung và tiếng gáy phải là “gáy khét”. Đồng thời phải xem từng chi tiết: Mỏ to thẳng, miệng rộng, đầu mồng dâu, mắt chữ điền - Cổ to, dài, thẳng - Lưng rộng, cánh dài - Đùi to, phần đùi dài hơn phần cánh Chân thanh, ngón thắt, vẩy mỏng, khô. Nguyên tắc là vậy, nhưng theo cổ nhân, “dị kỳ tướng tất hữu kỳ tài”, thành thử trường hợp gà có “dị tật” lại càng được quí. Chẳng thế mà màu lông của gà cũng là yếu tố ưu tiên, như “Nhất điều ô, nhì xám khô, ba ô ướt”. Chẳng thế mà “Gà ô chân trắng, mẹ mắng cũng mua; Gà trắng chân chì, mua chi giống ấy”. Nếu chọn được tía ngũ sắc (5 màu lông), còn hơn “trúng số độc đắc” cá cặp vì khó có gà nào địch nổi, trừ Thần Kê: “Gà ô chân trắng mỏ ngà - đá đâu thắng đấy, gọi là Thần Kê”. Ngoài ra, gà nào mỗi lần gáy, đều gáy 7 tiếng trở lên mà phải gáy giật từng tiếng, đó cũng là Thần Kê. Thêm nữa, chọn gà chọi cũng phải chọn con gà có vảy ở chân nhưng tiêu biểu là các loại vẩy: Gạc thập, xuyên đao, xuyên tạc, huyền trâm, hàm long, địa giáp... vì có thể giết địch nhanh chóng. Ngoài ra, không phải cứ thấy gà chọi là mua mà người sành điệu còn phải theo dõi cách gà chậy: Phải là chậy nước kiệu - và cách gà ngủ: Ngủ trên cây thì thòng đầu xuống đất kiểu “ngủ đầu xà”; ngủ dưới đất thì trải dài cổ, xoãi cánh kiểu “tử mỵ”... Việc chăm sóc gà chọi quả tình “trần ai khoai củ”, đòi hỏi sự siêng năng, tỉ mỉ, chẳng hạn cần đãi sạch lúa, đôi khi cho ăn thêm thịt bò, tép, lươn hoặc thêm giá hay cà để gà mát đá đòn mạnh. Khi cho gà ăn, cần treo thức ăn lên cao để gà có thể nhón chân nhờ thế gà sẽ khỏe chân và đá sẽ hay hơn... Kể thì kể sơ lược vậy thôi, bởi vì mỗi nơi, mỗi người lại có phương pháp khác nhau, nhiều Viết&Đọc Đặc San 2017 11


“chiêu” dị biệt. Quả đúng “nghề chơi cũng lắm công phu”! Thịt gà - Trứng gà Thịt gà đã từ lâu trở thành loại thực phẩm được ưa chuộng vào bậc nhất trên khắp thé giới. Ở Việt Nam, trước kia phổ biến hơn cả là món gà luộc rắc thêm những lắt lá chanh thái thật nhỏ. Gà thả vườn thịt chắc và thơm hơn loại gà nhốt chuồng, kể cả loại mà ngày nay người ta thường gọi “gà đi bộ” hay “gà thương nghiệp”... Thịt gà theo thời gian đã được chế biến thành nhiều món khác nhau như gà quay, chiên, nướng, hấp, xé phay... cơm gà, canh gà, phở gà... Nếu so sánh với thịt bò, thịt heo thì thịt gà có lượng đạm cao hơn nhiều lần nhưng lại thấp hơn lượng mỡ. Phần trứng gà, theo một thống kê năm 2009, người ta ước lượng khoảng hơn 62,1 triệu tấn trứng được sản xuất trên toàn cầu với tổng số gà đẻ gần 6,4 tỉ con. Trứng gà vẫn được chế biến thành rất nhiều món ăn, trong đó có nhiều loại bánh, kể cả làm mỹ phẩm. Tròng đỏ, tròng trắng làm thực phẩm đã đành mà vỏ trứng cũng được dùng làm phụ gia thực phẩm để bổ sung chất “canxi” (calcium). Theo kinh nghiệm của cổ nhân, khi mua gà là phải biết chọn để được thịt ngon lại trứng lớn: “Nhất to là giống gà nâu; lông dày, thịt béo về sau đẻ nhiều” - hay: “Gà nâu chân thấp, mình to đẻ nhiều trứng lớn, con vừa khéo nuôi” - và nhớ: “Chả nên mua giống pha mùi; đẻ không được mấy, con nuôi vụng về”... Thiết tưởng ở đây cũng cần “bật mí” thêm điều này để “ghi công vĩ đại” của gà, tuy nhiên không dành cho “toàn dân thiên hạ”, nhưng chỉ ưu ái cho giới... “chị em ta” mà thôi. Đó là thuật chiêu “nước vỏ lựu, máu mào gà”. Theo sách Bắc Chí Lý, gái thanh lâu sau khi tiếp khách, giã vỏ trái lựu lấy nước rồi pha với máu mào gà để rửa thì “hiện trường” xem như vẫn... y chang như thiếu nữ con nhà lành. Trong truyện Kiều của Nguyễn Du có câu: “Nước vỏ lựu, máu mào gà - Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên”...

Tuổi Dậu

Theo luật tự nhiên, người cầm tinh con giáp nào ắt chịu ảnh hưởng của con giáp đó, nhiều ít còn tùy ngày, giờ sinh. Thế nhưng khách quan mà nói, những người tuổi Dậu thường biểu lộ bản tính... gà rõ rệt hơn cả so với những người thuộc tuổi các con giáp khác, điển hình: 12 Viết&Đọc Đặc San 2017

-Ngoại hình hấp dẫn và thích phô trương: Người tuổi Dậu thường có dáng vẻ bề ngoài đẹp đẽ, thu hút; phần do “trời cho”, phần do bản tính họ không bao giờ để luộm thuộm hay cẩu thả. Nếu chú gà trống thích khoe bộ lông tuyệt đẹp thế nào thì cả nam lẫn nữ giới cũng đều rất quan tâm đến hình thức: Nữ có thể ngồi trước gương cả tiếng đồng hồ để chăm sóc nhan sắc, đắn đo hàng giờ để chọn y phục. Nam cũng không kém, luôn luôn “mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”. Tuy đôi khi họ ăn mặc hơi diêm dúa, nhưng họ vẫn hãnh diện về bản thân đồng thời thích được chú ý, khen ngợi về ngoại hình. -Có tinh thần kỷ luật, ngăn nắp và độc đoán: Sự quan tâm đến bên ngoài thường đi song song với tinh thần trật tự, ngăn nắp và kỷ luật. Người tuổi Dậu thích giữ mọi thứ gọn gàng đến độ nhiều khi độc đoán trong quyết định, bảo thủ. Cũng vì quá “nặng phần trình diễn” mà họ không có nhiều chiều sâu nội tâm, tuy nhiên họ thẳng thắn, thành thật và cởi mở. Nói như vậy không có nghĩa là dễ bắt nạt là lừa phỉnh được người tuổi Dậu; bản tính họ thận trọng đồng thời cũng đa nghi cộng với sự nhậy bén khiến họ khá tỉnh táo. Tương đối khó để kết bạn với người tuổi Dậu, bởi họ nặng tinh thần độc đoán. Thế nhưng họ lại ưa tranh luận mà mục đích là muốn biểu lộ mình thông minh, nhiều kiến thức. Do nhược điểm này họ dễ bị “qua mặt” hoặc bị lợi dụng nếu gặp người biết cho họ “đi tầu bay giấy” hay đưa họ lên tận mây xanh bằng những lời khen ngợi và tâng bốc... -Công việc và sự nghiệp: Tổng quát thì người tuổi Dậu làm việc chăm chỉ và luôn có ý lực hoàn tất tốt đẹp các công việc được giao phó. Đối với họ, sự nghiệp luôn luôn là điều quan trọng nhất trong cuộc đời. Những lãnh vực thích hợp với con giáp này: Âm nhạc, trình diễn, kiến trúc, thiết kế, làm vận động viên, quảng cáo (PR), giỏi ngoại giao và ưa chuộng sinh hoạt cộng đồng, biết chia sẻ và cảm thông với tha nhân... Ngoài nghệ thuật, người tuổi Dậu cũng dễ thành công trong ngành thương mại và khoa học. Nói tóm lại, một khi được cơ hội làm những công việc yêu thích, họ sẽ dốc toàn tâm, toàn lực và khả năng để hoàn thành nhanh chóng. Nhờ vậy, họ cũng dễ đạt tới thượng đỉnh sáng chói của sự nghiệp. Vì mang tuổi Dậu, cả nam lẫn nữ đều giống những con gà cần mẫn, miệt mài tìm bới hạt ngô, hạt thóc hay những con giun, con bọ. Đúng vậy, nhờ siêng năng làm việc không ngừng


nghỉ, bao giờ họ cũng tìm kiếm ra được tiền của dù lâm cảnh khó khó khăn. Tuy có thể họ không giầu sụ nhưng tài chính gia đình không thiếu hụt. Cuộc sống người tuổi Dậu tuy có nhiều thăng trầm nhưng khi đứng tuổi, họ rất hạnh phúc và an cư lạc nghiệp. -Tình ái: Đề cập đến việc yêu đương của người tuổi Dậu, nhiều người hay lôi “luật” tam hợp, tứ hành xung ra để giải thích; theo đó Dậu - Sửu (trâu) Tỵ (rắn) hớp với nhau; nhưng Dậu khắc với Tí (chuột) - Mão (mèo) - Ngọ (ngựa). Nói “qua loa rờ măng” như thế, e thiếu sót, bởi giữa người và người, ngoài các chi tiết tàng ẩn còn phụ thuộc vào ngoại cảnh và nhiều thứ khác nữa. Tuy nhiên, tổng quát thì trong lãnh vực tình cảm, người tuổi Dậu cả nam lẫn nữ đều có sức quyến rũ các “con mồi”, thế nhưng họ thường rõ ràng trong cảm xúc. Một điều mâu thuẫn nơi người tuổi Dậu: Họ “nặng phần trình diễn” ngoại hình của bản thân đồng thời cũng chú trọng đến “bộ vó” của đối phương nhưng họ lại thẳng thắn, ghét tính không thành thật hoặc sự nhạo báng dù dưới bất cứ hình thức nào. Họ hết sức kín đáo về tình cảm; họ không đem những rung động của con tim đi khoe khoang... Nam tuổi Dậu thích được gần các mỹ nhân cốt để “tỏa sáng” bản thân và những ưu điểm của mình. Tuy nhiên trong tình yêu, họ thường chấp nhận nhiều sự thiệt thòi miễn sao người yêu được hạnh phúc. Thế nhưng cũng vì bản tính quá chú trọng đến dáng vẻ bên ngoài và nhiều khi lại ưa mơ mộng thái quá mà người nam tuổi Dậu cũng có thể khiến tình nhân hay người bạn đời thất vọng. Nếu không kịp thức tỉnh để sửa sai, họ có thể bị “đánh giá” là thiếu tế nhị khiến tình yêu/ hôn nhân đổ vỡ... Nữ tuổi Dậu lại ưa gần gũi với bạn bè cùng phái hơn là khác giới. Họ là những người thận trọng, ý thức trách nhiệm cao. Trong lãnh vực tình cảm, người nữ tuổi Dậu cũng kiểu cách từ trong máu, thu hút nam giới nhưng tuyệt nhiên không có dáng vẻ lẳng lơ, yểu điệu quá mức nhưng thường có cái nhìn nghiêm túc và thực tiễn về cuộc sống. Nói tóm lại, một khi đã yêu, họ trung thực, chủ trương ổn định và cương quyết xây dựng “tổ ấm” đúng nghĩa. Dù thế nào, người tuổi Dậu cả nam lẫn nữ đều trọng nghĩa tình. Khi đã làm cha mẹ, người tuổi Dậu liền trở thành những cha-mẹ-gà biết quan tâm chăm sóc và quyết liệt “che chở” con cái. Họ là những phụ huynh nghiêm khắc, đòi hỏi con cái cũng

phải chu toàn bổn phận hàng ngày; họ chú ý cả đến cách ứng xử của con cái ở bất cứ môi trường và hoàn cảnh nào... thậm chí đôi khi xẩy ra những sự “va chạm” giữa cha mẹ và con cái. Tuy nhiên đàn “gà con” cũng thường là những đứa trẻ thông minh, hiếu học, chịu khó và sốt sắng đáp lại những sự mong đợi của cha mẹ và thầy cô... Tuổi Dậu trong năm Đinh Dậu 2017 Theo phép thần thông bói toán, nếu trong khoảng 3 - 5 tháng đầu của năm mới này mà người tuổi Dậu biết nắm bắt cơ hội ắt cuộc đời sẽ phất lên như “diều gặp gió”; tuy nhiên chớ bốc đồng và hấp tấp, nhưng trước mỗi trường hợp, cần phải tận dụng bản năng trời cho tuổi Dậu là trọng kỷ luật và ưa tuân thủ trật tự. Có thể gặp được những thuận lợi về mục đích mà thay đổi công ăn việc làm. Nhớ, đừng bảo thủ và độc đoán quá đồng thời cũng không nên đa nghi khi gặp quí nhân giúp đỡ hoặc những người bạn mới chân tình. Trong lịch sử nhiều bậc thiên tài tuổi Dậu đã để lại biết bao công trình giúp đời cho hậu thế: Chiến lược gia Khổng Minh Gia Cát Lượng, Triết gia Mạnh Tử, doanh nhân người Mỹ J.G. Wilson... Tương tự vậy, người tuổi Dậu năm nay, đặc biệt từ giữa năm cho tới tháng 11, nếu biết nâng cao kiến thức và phát triển khả năng chuyên môn của mình, cũng sẽ được trọng dụng và đạt danh vọng. Về tài chánh, người tuổi Dậu trong năm Đinh Dậu này “túi rủng rỉnh” đấy nhưng vẫn cần lên kế hoạch chi tiêu, nên giảm bớt mua sắm. Mặt khác cũng cần “mở hầu bao” trợ giúp những kẻ sa cơ lỡ vận, những người nghèo khổ vì sẽ được “trời trả công bội hậu”. Về sức khỏe, tuy dồi dào, dường như không mấy khi bị bệnh lặt vặt nhưng nên coi chừng vào những tháng 9, 10 và 11, những người tuổi Dậu lao động triền miên hoặc miệt mài làm việc, vẫn có thể bị suy yếu nghiêm trọng. Nên nghỉ ngơi và đi chơi xa vào dịp nghỉ cuối năm. Về tình cảm, những người tuổi Dậu độc thân sẽ gặp “ý trung nhân” đấy, đặc biệt vào khoảng gần cuối năm. Cần cởi mở với mối quan hệ nhưng cũng không nên vội vàng. Hôn nhân được tiến hành trong khoảng thời gian tháng 8 đến tháng 11 thì đẹp nhất. Trong gia đạo, người chồng hoặc người vợ tuổi Dậu hãy dùng sự thông minh của mình để đối xử, thông cảm và nhất là hiểu rõ hơn nội tâm của người phối ngẫu. Tuy cũng có đôi lần căng thẳng đấy, nhưng nên biết khôn ngoan thay vì tự ái quyết “ăn thua đủ” mà áp dụng chiến thuật... Viết&Đọc Đặc San 2017 13


“một sự nhịn là chín sự lành”. Cần đề phòng, khi có thể xuất hiện một vận đen tuy nhỏ nhưng nếu không tránh vẫn “bé xé ra to” bởi ngộ nhận vốn xuất xứ từ bản tính cố hữu “quá chăm sóc ngoại hình” phía chồng hay vợ tuổi Dậu. Tóm lại, so với những năm trước, Đinh Dậu là năm tốt đẹp hơn về gia đạo của người tuổi Dậu. Lời cầu chúc đầu năm Năm cũ đã qua, năm mới lại về, người viết xin mượn “gà” để cầu chúc bạn đọc suốt năm Đinh Dậu này tránh được mọi tai họa kiểu “mắc xương gà, sa cành khế”, luôn luôn sáng suốt hầu không vấp phải cảnh “trông gà hóa quốc”; trí tuệ minh mẫn để không bị “lờ đờ như gà ban hôm”; khôn lanh để không “ngây ngô như gà mờ, lờ đờ như đom đóm đực”. Hơn nữa, không bao giờ gặp “vạ vịt chưa qua, vạ gà đã đến”; sức khỏe dồi dào như thể “con gà tốt mã khoe lông”. Nam độc giả nào còn độc thân, năm mới này, cầu chúc gặp được “cơ hội ngàn năm một thuở mà thúc đẩy “em về thưa với mẹ cha; bắt lợn đi cưới, bắt gà đi cheo”. Nữ độc giả còn lẻ bóng cũng may mắn tránh được những tên “trói gà không chặt” hoặc “gà què ăn quẩn cối xay”, tối ngày chỉ biết “ngủ gà, ngủ vịt”, trái lại sẽ được sánh đôi với “gà rừng tốt mã khoe lông”. Trong gia đạo, vợ chồng êm ấm, sung túc với “cơm gà, cá gỏi”, với “đầu gà, má lợn”, hòa thuận chứ không lâm cảnh “gà mái gáy gở”, “lép bép như gà mổ tép”. Con cái ngoan ngoãn chứ không học đòi thói hư tật xấu như “vắng chủ nhà, gà vọc niêu tôm” hoặc chỉ biết “chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”... Đối với cộng đồng, người viết nguyện cầu duy nhất một điều trong tân niên Đinh Dậu: “Khôn ngoan đá đáp người ngoài; gà cùng một mẹ, chớ hoài đá nhau!”...

Hoài Mỹ

Gọi Xuân Ngày Mùng Một Sáng nắng Chiều mưa Trưa thúc gió Em nhỏ nhẹ Gọi mùa Xuân Về Trong tiếng reo điện thoại Đường viễn liên Dằng dặc dấu quê hương Ở đầu dây bên kia Xôn xao chào hỏi Ở đầu dây bên kia Hoan hỉ nói cười Ở đầu dây bên kia Hương xuân tràn Thơm ngập không gian Ở đầu dây bên này Em ngồi nhìn làn khói mảnh Mùi trầm an nhiên quyện nhánh cúc vàng Mâm ngũ quả đơn sơ mơ ước “Cầu-xin-vừa-đủ-xài” Và một năm mới bình yên Trẻ con đi học Người lớn đi làm Tiếng chim vắng Ngõ lạnh, trơn Mùa Xuân còn mải cười bên kia đường dây điện thoại Đủng đỉnh Chưa vội về Cùng tiếng gọi của em

Cổ Ngư 14 Viết&Đọc Đặc San 2017


Lời nguyện đêm xuân Anh và em, đi tìm miền đất hứa Đã bao lần, mòn mỏi nhớ quê hương Kỷ niệm xưa, xuân về không còn nữa Chỉ còn lại nỗi nhớ cảnh tha phương Anh dìu em, trên con đường cô lữ Tìm tự do ở tận góc trời xanh Bốn mươi năm, sầu thương đời viễn xứ Lê kiếp người, trong thân phận mong manh Nói gì đây! Khi rời xa năm cũ Nhắc chuyện xưa, cây cỏ cũng im lìm Nói lời thường, sợ phàm phu tục tử Mượn dòng thơ, lời nói tự con tim Anh vội gom, chút tinh hoa cõi thế Kết thành thơ, khi tết đến xuân về Với tình thương trong đêm khuya lặng lẽ Nguyện một lời cho nhân thế bình yên Phụng Long

Khi em ngủ Khi em ngủ, chính anh là hơi thở Mang máu về tim, rộn rã trong em Mỗi giọt máu, là nỗi niềm trăn trở Nghe ran lên niềm hạnh phúc êm đềm Khi em ngủ, chính anh là chiếc gối Đỡ đần em cho giấc ngủ mặn nồng Đưa em vào chốn thiên thai muôn lối Để đời em luôn tươi thắm màu hồng Khi em ngủ, chính anh là chiếc đệm Đem hương nồng vào giấc mơ tình ái Như trăng rằm tỏa sáng ở trong đêm Hạnh phúc tràn trong tình em mãi mãi Em ơi, tình không cân đo đong đếm Anh trải lòng một đời để vì yêu Giá trị nào bằng tấm lòng thương mến Ngàn muôn năm trăng vàng chẳng cô liêu Phụng Long

Viết&Đọc Đặc San 2017 15


CRETE Tâm Thanh

Crete nơi thần Zeus sanh ra. Chúng tôi đi Crete, hải đảo Hy Lạp ở Địa Trung Hải, hoàn toàn do ngẫu hứng và may mắn. Sáng thứ sáu, tôi đọc quảng cáo của hãng du lịch Apollo đi Crete giá 980 kroner (tiền Na Uy, tương đương 155 Mỹ kim) bao luôn máy bay đi về và một tuần khách sạn, điều kiện là ở bất cứ khách sạn nào trống. Hôm nay lại đúng là ngày làm việc cuối cùng của vợ tôi, trước khi về hưu non. Tôi muốn đánh dấu đầu đời về hưu sau 25 năm lao động vinh quang của vợ bằng một chuyến đi xa. Tôi điện thoại cho Apollo eo sèo thêm: ”Đồng ý là khách sạn bất định, nhưng có cầu tiêu nhà tắm riêng thì tôi mới đi?” Cô bắt điện thoại tên Monica cười: ”Cái đó là tối thiểu, bảo đảm.” Giá vé như thế thật là vừa bán vừa cho, tôi đặt ngay. Nhưng thời gian sau này các công ty hàng không làm ăn lỗ lã nên hành khách phải trả tiền ăn trên máy bay, ví dụ chuyến này chúng tôi phải trả thêm khoảng 15 MK một người cho cả hai lượt đi về. Nhưng tôi thấy rất đáng tiền, bởi vì ngồi bốn tiếng đồng hồ trên báy bay, nghe bên đông nhóp nhép thịt gà, bên tây khề khà rượu nho, mà vợ chồng già cứ chuyền nhau tu chai nước lã thì cũng tủi thân lắm. Máy bay đáp xuống Chania, một trong ba phi trường dân sự của Crete, đã quá nửa đêm, đèn đóm lù mù, chúng tôi hơi nản. Vào thành phố Chania thì đèn sáng hơn 16 Viết&Đọc Đặc San 2017

một tí, nhưng qua khỏi thành phố thì trở lại tối thui, chắc cũng như khi Tả quân Lê Văn Duyệt mới bình định Hóc Bà Tó, tôi càng nản hơn, nhưng an ủi vợ: ”Cái cô ở hãng du lịch nói bảo đảm có cầu tiêu nhà tắm riêng, anh sẽ mua một cây đèn cầy thắp trong nhà tắm cho em tắm. Như thế chẳng rồ-măng-tích hơn tắm dưới ánh đèn néon lộ liễu hay sao!”“Thôi anh ạ, tiền nào của đó,” vợ an ủi lại. “Tiền mình trả không đủ tiền người ta đổ xăng máy bay nữa, chớ đừng nói.” Bỗng xe buýt trờ tới một khách sạn đèn điện chiếu sáng rực như ngày hội. Tôi kéo va-li vào phòng tiếp tân, vặn đồng hồ tiến tới một tiếng cho hợp với giờ địa phương – hai giờ đêm, rồi nhìn cô tiếp viên có cái mũi dài và khuôn mặt đẹp như Sophia Loren, bụng bảo dạ “Cô con gái thần Zeus kia, nếu còn chút lòng nhân đạo và biết thế nào là nhân quyền, thế nào cũng sẽ xếp mình vào một căn phòng có cái giường không có rệp và một cái cầu tiêu với lại một ngọn đèn tối thiểu 25 oắt.” Không biết có phải thần Zeus nghe lời tôi không, hay hương hồn cô đào Sophia Loren tận bên Ý cảm động trước lòng ngưỡng một của tôi, mà cô gái dẫn chúng tôi tới một cái suite trên lầu hai, với một phòng khách rộng dư chỗ cho hai ba cặp múa đôi, kê hai cái sofa trước một cái bàn và một cái TV. Vợ cười tủm khi thấy cái bếp có đủ nồi niêu


xoong chảo, chén đĩa, tủ lạnh. Cô gái mở cái cửa màu xanh Hy Lạp, chỉ cho chúng tôi cái cầu tiêu nhà tắm và một sợi dây, nói: ”Đây là sợi dây báo động, kín đáo, ông bà đừng tưởng sợi dây giật nước”. Cô lại mở cánh cửa màu xanh Hy Lạp khác, chỉ phòng ngủ –tôi thấy cái giường đôi quá rộng đối với chúng tôi, bàn phấn, tủ quần áo, két an toàn. Trước khi chia tay cô gái tự giới thiệu: ”Tôi tên Sophia, có việc gì xin ông bà cứ kêu tôi.” Tôi ngẩn ngơ – tại sao mình chỉ thầm nghĩ cô ta giống Sophia mà cô lại tên Sophia thật? Sáng hôm sau thức dậy, tôi đẩy cửa ra ban-công – đồi ô-liu xanh thẫm trước mặt, sơn ca hát véo von và chim cu gáy vang một góc trời; hướng đông, biển xanh thắm dưới ánh mặt trời. Thần thoại Hy Lạp kể rằng Zeus, vị thần mặt trời, cha và chúa tể của tất cả các vị thần khác, sanh ra tại hòn đảo tôi đang đứng đây! Tôi cũng nghe người Hy Lạp, đa số theo Kitô Giáo Chính Thống, nhưng vẫn hãnh diện về thần Zeus của họ, vì ông tượng trưng cho tự do và công lý. Crete cũng được mệnh danh là cái nôi của văn minh Tây phương. Nhớ đến điều này, tôi tự cảm thấy mình vừa nhỏ bé vừa thô lậu, chỉ nhờ là hưu trí viên rảnh rỗi và hãng du lịch quảng cáo lầm người mà tôi được đứng trong... cái nôi. Trung tuần tháng tư, Địa Trung Hải không có nơi nào đủ ấm áp để tắm biển một cách thỏa thích, nhưng là thời gian lý tưởng để đi ngoạn cảnh. “Nếu bạn không có thì giờ đi hết các nơi trên một hòn đảo đầy dẫy di tích lịch sử và phong cảnh thiên nhiên này, và chỉ có thể thăm một nơi thì hãy thăm cổ thành Knossos,” một khách đồng hành người Na Uy đã khuyên tôi như thế trên máy bay. Ông khách này, trông chừng trên dưới 40 tuổi, khoe đây là lần thứ hai mươi mốt đi Crete. Tôi nghe lời ông, ghi tên đi Knossos ngay. Chania, tỉnh chúng tôi ở, nằm ở mé tây bắc. Xe buýt chở chừng 40 du khách đi về hướng đông để tới Knossnos, nằm trong tỉnh Iraklio. Tới Knossos, chúng tôi được chào đón bằng một tràng tiếng kêu vang dội mà lúc đầu tôi tưởng là tiếng vượn hú, sau mới biết là tiếng ngỗng (không biết ngỗng hoang hay ngỗng nuôi, đi đủng đỉnh trong con suối cạn quanh cổ thành) và tiếng chim cu, sơn ca muôn thuở của Crete. Đi đâu cũng nghe chim cu và sơn ca, tôi bỗng nhớ quê hương thuở thanh bình và câu thơ ‘tiếng cu kêu đầm ấm, nắng lụa vàng trời xanh’ của... vợ. So với Cấm Thành Bắc Kinh của Trung Quốc thì Knossnos kém xa về qui mô và kiến trúc, nhưng so về thời gian thì Knossos vượt xa Cấm Thành. Knossnos cũng khác (hơn?) Bắc Kinh và Cairo của Ai-cập ở điểm là du khách

không bị người bán hàng chèo kéo làm phiền. Trước Cổ Thành Knossos, nếu ta đi qua hàng quán bán đồ kỷ niệm, người bán hàng chỉ mời một tiếng, ta mỉm cười chào lại rồi mỉm cười bước đi, họ không níu kéo thêm, không nói cạnh nói khóe. Tâm hồn ta thư thả bước vào Quá Khứ, gặp gỡ tổ tiên họ với niềm cung kính hơn. Knossnos cổ đại được xây dựng từ năm 1900 trước TL, dưới triều vua Minos (một thời đại do hậu thế đặt tên, kiểu Hồng Bàng của ta), khi Crete còn là một vương quốc độc lập. Thành bị chôn vùi bởi một trận động đất lớn. Di tích còn lại là những bình gốm rất lớn và quan tài bằng gốm, những bộ hài cốt người chết trong lúc lánh thiên tai (những di tích này đã được di chuyển vào viện bảo tàng). Hai thế kỷ sau, vào năm 1700 trước TL, một vị vua Minos khác xây lại Knossnos như ta thấy một phần ngày nay. Một nhà khảo cổ đã tìm ra tung tích thành này năm 1887 nhưng chưa kịp làm gì. Phải đợi đến năm 1900 mới được khai quật. Tượng bán thân ở cổng thành là để ghi công nhà khảo cổ người Anh Arthur Evans, có công bỏ tiền ra mua thửa đất của một tư nhân và khai quật. Thành Kossnos giống như một mê hồn trận (người ta đồn danh từ labyrinth xuất phát từ đây). Trung tâm điểm là Ngự Phòng gồm một ngai ‘vàng’ bằng gỗ, hai bên tả hữu có hai hàng ghế chầu. Kích thước Ngự Phòng (không lớn hơn chính điện một ngôi đình làng của ta) và số chỗ ngồi trong triều (chừng 20 chỗ) chứng tỏ triều đình thời đó không lớn lao lắm. Nhưng rất nghi vệ – các hình vẽ chim trĩ bằng gạch son cực kỳ tinh xảo, gần 4000 năm nay mà mầu sắc tươi nhuận y như một bức tranh sơn dầu thời Phục Hưng. Cung vua và cung hoàng hậu chật hẹp, nếu hãng du lịch Apollo xếp cho tôi ngủ trong đó, chắc tôi chết. Phòng hoàng hậu ở không gọi là ‘loan phòng’ mà ‘Phòng Cá Heo’ (tên hậu thế đặt, căn cứ vào hình vẽ hai con cá heo cực linh động). Nơi đây, tôi rất ngưỡng mộ cái... cầu tiêu của hoàng hậu. Nếu ai đã đi thăm Điện Versailles của Pháp thì càng phải khâm phục vua Minos của Crete. Bởi vì vào thế kỷ 18 sau TL mà các bà hoàng mỹ miều Tây còn đi cầu vào bô, khiến cho Versailles rất tốn tiền nước hoa, thế mà 4000 năm trước, bà hoàng Crete đã đi cầu vào một cái hố, rồi một người mở cái nút cho nước từ trên cái hồ con tống xuống, ‘ngự phẩn’ được đẩy vào một cái hố bí mật, vì không ai được chiêm ngưỡng phân của hoàng hậu (tôi không dám đề cập tới khứu giác). Đã tới Iraklio và xem cổ thành, thì chỉ mấy phút chạy xe là tới Viện Bảo Tàng Iraklio. Trong Viết&Đọc Đặc San 2017 17


số muôn ngàn cổ vật, không hiểu sao tôi chú ý nhất tới một cái bình gốm. Cái bình cao chừng một mét hơn, bụng chừng hai người ôm, vẽ hình thông thường của Hy Lạp là thần linh và tế lễ. Ngoài ra là biểu tượng của ước vọng bất tử. Người Hy Lạp quan niệm bất tử trong luân hồi, qua biểu tượng hai con cá heo xoay ngược chiều và hình xoáy ốc. Tôi nghĩ chỉ có đạo Phật mới dùng chữ Vạn làm biểu tượng cho luân hồi; không ngờ tôi thấy một chữ Vạn, mỗi bề khoảng 5 cm rất rõ ràng trên cái bình gốm kia. Có phải là những đầu óc vĩ đại gặp nhau không? Tôi đứng ngẩn ngơ nhìn chữ Vạn đó cho tới khi quay lại không thấy đoàn du lịch Apollo đâu nữa. Bên cạnh điều ngạc nhiên thích thú về chữ Vạn trên cái bình cổ 4000 năm của Hy Lạp, tôi còn một niềm vui khác khi thăm viện bảo tàng Iraklio là không thấy vũ khí giết người. Trong thần thoại Hy Lạp, ta thấy các thần linh đánh nhau như điên và xúi dại dân chúng đánh giết nhau, thù ghét nhau. Nhưng trong viện bảo tàng, tôi chỉ thấy đồ dùng, ma thuật, y thuật, trang trí, kinh tế (những đồng tiền sắt to bằng cái thớt vuông) và trang sức... Vũ khí chỉ để săn bắn. Tôi hỏi người hướng dẫn địa phương (chúng tôi có một cậu guide chính người Thụy-điển và một cô guide phụ người Hy Lạp): ”Có phải quí vị giấu vũ khí giết người đi phải không?”“Tôi không hiểu ông nói gì,” cô Maria trả lời. Người Hy Lạp theo Kitô Chính Thống giáo, và rất sùng kính Đức Maria, nên cái tên cô hướng dẫn viên không phải là một tên lạ.“Tôi nói chơi,” tôi giải thích. “Tôi thấy đa số các viện bảo tàng trên thế giới đều để lại nhiều dấu vết chiến tranh như vũ khí, quân cụ, dụng cụ tra tấn... Còn ở đây thì tôi không thấy.” “Crete là một vương quốc không bao giờ có chiến tranh,” cô Maria cười hãnh diện. “Mãi về sau này mới có người Thổnhĩ-kỳ, và gần đây người Đức tới chiếm. Thưa ông, văn minh Crete gắn liền với xây dựng trong hòa bình.” Cái tinh thần đó, tôi nghĩ rằng con cháu vua Minos còn giữ được phần nào cho tới tận ngày hôm nay. Buổi chiều sau khi đi thăm hai nơi xa trở về khách sạn, vợ tôi mệt quá, thấy cái bếp với đầy đủ nồi niêu xoong chảo, rất ngứa tay mà đành bảo tôi đưa đi ăn tiệm. Chúng tôi có chủ trương về chuyện ăn nhà hàng khi đi du lịch là phải tìm nhà hàng nào có đông dân địa phương ăn. Chúng tôi vào một cái tavern (quán ăn Hy Lạp) ở gần khách sạn, sát bờ biển. Bàn ngoài gió và lạnh, chúng tôi vào trong. Chừng mười bàn bên trong đã đầy người địa phương, chỉ còn một bàn dài ghế băng, kê mấp mí nửa trong nửa ngoài 18 Viết&Đọc Đặc San 2017

là còn một băng trống. Chúng tôi ngồi vào đó. Băng đối diện là ba đứa trẻ hai trai một gái, ngồi quay lưng lại. Mọi người trong nhà hàng đang coi đá banh trên truyền hình. Tôi chú ý tới bàn láng giềng bên trái, vì đông người, đếm được mười hai người, vừa đàn ông vừa đàn bà. Giữa bàn là một tô đựng món gì đó, trông như thịt nướng và xúc xích. Quanh bàn lủ khủ bia, rượu, nước ngọt, tăm. Hình như họ đặt thức ăn để làm vì, hoặc giả đó là cách ‘mua vé’ vào cửa, nên ít ai đụng tới, họ coi TV, vỗ tay, ồ ề, đến phút nghỉ thì đàn ông kêu thêm rượu, đàn bà nhón một miếng thịt đưa cho con cháu ngồi ngoài, có đứa cầm ăn, có đứa cắn một miếng rồi trả lại cho người đàn bà bỏ lại vào tô chung... Đặc biệt suốt trận đấu, ở những lúc hào hứng nhất, không thấy họ la hét hay cãi cọ nhau. Người họ to cao, nhưng nói nhỏ. Trái ngược với người Việt Nam ta... Một bà quay sang cười với vợ tôi, rồi tiếp tục nhìn lên TV. Trông ba bốn chục cái mũi cùng một kiểu chĩa vào cái TV con trên cao, tôi mỉm cười, nghĩ tới bốn chục con két... Một ông ngồi bàn giữa tình cờ quay lại bắt được cái cười của tôi, ông mỉm cười lại, và gật gật cái đầu (ông ấy mà biết trong đầu tôi ví cái mũi của người Hy Lạp với mỏ két, chắc không có cười như thế). Được giới thiệu trước rằng cá mực Crete ngon nhất thế giới, chúng tôi ghi sẵn trong mảnh giấy ba cái tên Hy Lạp: Kalamare là bạch tuộc mười chân chiên bột từng khoanh, Ocktapodi là bạch tuộc tám chân nướng hoặc nhúng giấm, Kalamarakia là mực con làm nhiều kiểu. Chúng tôi kêu món mực nướng, và nói mấy chân cũng mặc kệ. May quá, chừng nửa giờ sau họ mang ra một đĩa mực nướng than. Tôi cắt ra, miếng mực dầy chừng hai đốt ngón tay, trắng phau, vắt chanh vào, bỏ vào mồm, nó mềm, giòn, thơm, ngọt ngào hơn bào ngư rất nhiều. Tôi có bệnh phải cữ rượu, nhưng thấy cuộc đời ngưng ở lưng chừng đồi thế này thì uổng phí quá, bèn kêu bia (nếu gan hơn, phải kêu vang trắng mới đúng điệu). Tôi hớp một ngụm bia, ăn thêm miếng mực trắng ngần, và nói với vợ: ”Nếu phải trả 980 kroner chỉ để ăn miếng mực này, anh cũng sẵn sàng trả.” Mùi vị lại ngon gấp bội vào lúc này vì chúng tôi định cư ở một xứ mà người dân địa phương thấy con cá mực trên TV đã rùng mình nổi gai ốc rồi. Tôi kể vào đây hai thổ sản ngon khác là cà chua và bánh donut. Cà chua Crete trái to, thịt dầy và chắc, rất ít hột, ngọt ngào. Sở dĩ tôi phải kể về trái cà chua, ngoài mùi vị đặc biệt của nó đối với tôi, mà còn vì nó liên quan tới ý thức quốc gia. Trái cà chua Na Uy đúng là cà... chua, vì rất chua, mỏng vỏ, nhão cơm,


nhiều hột, mỏng manh (đến nỗi ở quầy cà chua, có tiệm đề ‘Xin đừng sờ nắn em trước khi em thuộc về ngài’); vậy mà mấy bà Na Uy ra ngoại quốc thường vào siêu thị dành cho du khách Bắc Âu hỏi “Có cà chua Na Uy không?” Trái lại, hồi còn đi làm, có lần tôi nói chuyện với một cô đồng nghiệp gốc Chí-lợi về chuyện nhớ nhung quê cũ. Tôi hỏi cô ấy nhớ cái gì nhất ở Chí-lợi. “Trái cà chua,” cô ấy trả lời. Chán cái gì nhất ở Na Uy? – Cà chua! Sang bánh donut thì lại kẹt với độc giả Việt Nam tại Mỹ. Nhưng xin quí vị làm trọng tài giùm. Donut Na Uy được gọi là smultring, bột bở, rất ít dùng đường và nồng nặc mùi mỡ trừu. Người Việt ở Na Uy từng nếm donut Mỹ và donut Sài Gòn đều rất nhớ ‘donut thiệt’, không thích ăn smultring, sang Crete gặp donut thì như mèo thấy mỡ. Nó to gần bằng cái rế, bột dẻo giai, mùi thơm, muốn áo đường có đường, muốn trét sôcôla, có sôcôla. Trong mấy ngày ở Crete, trong xắc tay vợ tôi lúc nào cũng có một chai nước và một cái donut, thỉnh thoảng bẻo một miếng. Đi du lịch tôi thích thuê xe đi chơi tự ý, nhất là khi đi tới một hòn đảo dài 260 km, rộng 50 km, không sợ lạc. Một chút khó khăn là chữ Hy Lạp, nhưng nếu ai ngày xưa không trốn học giờ toán thì cũng biết gần hết mẫu tự Hy Lạp, từ alfa tới omega, và có thể đánh vần được địa danh. Nhưng những địa danh quan trọng thì được kèm theo mẫu tự Latinh, việc coi bản đồ và dấu hiệu đi đường tương đối dễ dàng. Chúng tôi thuê cái Fiat Punto có máy lạnh một ngày (24 tiếng) với ‘bảo hành toàn vẹn’ và không giới hạn cây số, chỉ có 35 euros. ‘Nhân giả lạc sơn, trí giả lạc thủy’ – tôi thuộc loại ương ương, nói thành thật là nhân chưa cận, trí chưa đạt, nên thích cả hai, nhất biển nhì núi. Chúng tôi lên núi trước. Từ nơi khởi hành, chúng tôi đã có thể nhìn thấy dưới chân một thảm hoa mười giờ đỏ tươi, mũi ngửi mùi hoa cam ngào ngạt và xa xa ngọn núi Levka Ori (Bạch Sơn) tuyết phủ trắng xóa. Bốn mùa gom vào một khoảnh khắc, cảm giác thật là muôn đời. Nhưng chúng tôi không ‘thèm’ đi Bạch Sơn, vì cái gì chứ núi tuyết thì Na Uy chúng tôi có dư thừa. Chúng tôi chấm bản đồ và đi tu viện Preveli nằm ở phía nam của đảo. Trên đường đi, chúng tôi thấy rất nhiều miễu bên đường. Cứ cách vài trăm mét, hoặc xa hơn, một cây số, là có một cái miễu, đôi khi có cắm hoa, thắp nến, khác miễu thường của mình bên Việt Nam là có hình thánh giá. Tôi dừng xe xuống quan sát ba cái miễu thì thấy bên trong miễu có hình tượng thánh, hình Đức Maria, thánh Nicolas, thánh Christopher, hình Chúa trên thập

tự giá. Tôi nghĩ có lẽ đây là những nơi đã xẩy ra tai nạn có người chết, mà rùng mình. Tôi biết vợ tôi cũng nghĩ như thế mà không dám nói ra.Ngoài kỹ nghệ du lịch, Crete sống nhờ nông nghiệp với ba sản phẩm chính: ô-liu, cam và nho. Tôi miễn nói tới nho vì nho Crete không phải là hạng nhất thế giới. Nhưng ô-liu là một cây, hễ ngắm nó, tôi mong ước vợ tôi và tất cả các bà khác cũng như vậy. “Tại sao anh nói vậy?” vợ tôi hỏi khi tôi nói ra cái ý lẩm cẩm của mình. “Bởi vì cây ô-liu càng già càng đẹp,” tôi đáp. “Còn nhỏ nó khẳng khiu, lá nhỏ li ti. Dậy thì nó căng nhựa, người ta trải thảm dưới gốc nó mà chào đón trái mọng của nó. Nhưng về già thân nó sần sùi, cành nó phong sương, mà nhựa càng sung mãn, lá nó xum xuê, trái nó càng sai và nhiều dầu hơn... Không thảo mộc nào đẹp bằng một cây ô-liu trăm tuổi.” Mỗi cây ô-liu già là một cây bonsai tuyệt đẹp. Và mỗi sườn đồi là một rừng ô-liu xanh ngát. Cam thì mọc dưới thung lũng và đất thấp. Nhà ở thường cũng trồng cam trong vườn trước vườn sau. Tôi viết về cam mà lỡ có độc giả ở Quận Cam bên Mỹ đọc thì sẽ chê cười tôi quê mùa. Nhưng tôi phải viết vì tôi thích nó quá. Vì hai điểm. Thứ nhất, trên cùng một cây, hoa trắng nở xông hương thơm ngào ngạt, đồng thời trái chín nặng chĩu, xen với lá xanh biếc. Đấy, lại là bốn mùa giao hòa trong một khoảnh khắc! Và cam Crete trông bề ngoài xấu xí, vỏ sần sùi, mầu vàng bạc bẽo, nhưng ăn vào nó ngọt đậm đà như... trái cam Cái Bè vừa hái trên cây xuống còn hâm hấp nắng hạ (chắc lại có ý thức quốc gia trong này). Thứ hai, người trồng cam của Crete cũng nồng nàn như trái cam của họ. Qua một vườn cam thấy chủ vườn đang cân tạ cho lái cam, tôi ngừng xe và xúi vợ vào mua lẻ. Vợ tính hay ngại nói: ”Người ta bán xỉ, mình vô mua lẻ, làm phiền người ta.” “Nhưng anh muốn ăn trái cam mới hái, em cứ thử hỏi họ coi. Từ lúc mình tới đây, chưa gặp người nào khó thương, nếu gặp người cằn nhằn một chút thì mình mới biết dân tộc nào cũng có người nọ người kia, đỡ lạc quan tếu.” Nghe tôi triết lý vặt (trên xứ sở của Socrates), vợ tôi cầm 2 euros, mạnh dạn tiến gần vựa cam. Hai phút sau vợ đi ra, tay ôm một mớ cam như bồng một ổ vịt con.“Bà ấy không lấy tiền,” vợ hí hửng nói.“Tự em ra vẻ thiểu não như ăn xin, phải không?” tôi vui vẻ nói. “Đâu đến nỗi làm mất thể diện dân tộc như thế, em hỏi mua đàng hoàng, còn giơ tiền ra, phòng trường hợp bất đồng ngôn ngữ...” Vợ đang biện bạch thì bà chủ vựa đi ra – một bà, lại giống Sophia Loren ở tuổi tứ tuần tức là lúc trái cam Viết&Đọc Đặc San 2017 19


chín trong nắng hạ. Bà ôm ba trái cam ra xe, chào tôi, nói: ”Quí vị lấy thêm mấy trái này, vì có thể trong mớ cam kia có trái không ngon.” Chiếc Fiat chạy bon bon, bỏ những đồn điền cam, qua những con đèo quanh co lên núi cao, đất của ô-liu và dê. Những con dê buồn cười lắm, thấy xe tới, có đàn chạy ùa ra như dọa chơi, có đàn đứng nhìn, đa số phớt lờ rất kinh người. Mặc dù có bản đồ, và còn nhớ đủ các mẫu tự beta, gama, epsilon, lamda... chúng tôi phải hỏi đường hai lần. Lần thứ hai, tôi hỏi nhằm một người không biết tiếng Anh, ở cây xăng, ông ta chỉ vào một người thanh niên cỡi cái môtô to như con nghé. Thấy anh ta mặc áo da đầy những đinh cùng gù, tóc bím, ria tướng cướp, tôi thất kinh, định lên xe đi hỏi chỗ khác, nhưng có vẻ như anh tướng cướp đã nhìn thấy cử chỉ ‘giới thiệu’ của người đàn ông kia, và chờ nghinh đón tôi, tôi lại nghĩ tới thể diện dân tộc anh hùng, thà chết không hèn, bèn tiến lại anh ta. Đằng sau anh, có cô bồ đang ngồi vắt chân chữ ngũ, trông cũng giống... Sophia Loren, lúc còn xuân xanh. May quá, cả hai người thi nhau chỉ đường cho tôi. Thấy họ nói tiếng Anh bậc thầy tôi, tôi hỏi thêm: ”Các bạn, tôi xin hỏi thêm: dọc đường tôi thấy nhiều cái nhà thở nhỏ xíu bên vệ đường. Đó là cái chi vậy?” “Đó là những trạm cầu nguyện bình an cho người đi đường.” “Có phải là nơi có tai nạn chết người không?” “Không nhất thiết, nhưng cũng có nơi đã xảy ra tai nạn.” Từ đó, lái xe tôi cảm thấy an tâm hơn trước, mặc dù xe leo lên một đường đèo quanh co như đèo Hải Vân, có lúc lại chui vào một hẻm đá giữa hàng canyons cao hun hút. Tu viện Preveli, so với các cổ thành khác của Crete, chỉ là em bé mới sanh (xây khoảng năm 1800, già hơn Hoàng Cung Huế của ta vài tuổi), nhưng nổi tiếng nhờ là bản doanh kháng chiến chống Đức quốc xã, với sự hỗ trợ đắc lực của quân Đồng Minh Úc, Anh. Ngày nay chỉ còn vài chục thầy giòng tu ở đây. Chúng tôi không được thấy hết các thầy, nhưng thấy ba ông ngồi trong nhà nguyện vừa lần tràng hạt vừa coi chừng du khách, ba cái bụng như ba cái thùng phuy. Nói về ‘lạc sơn’ thì lẽ ra tôi phải đi thăm Samaria Gorge (Ải Samaria), được mệnh danh là ải đẹp nhất Âu Châu. Nhưng muốn thưởng thức hết vẻ đẹp hùng vĩ của Samaria, phải đi bộ 4-5 tiếng đồng hồ, mà chúng tôi thì không có cặp giò tốt.Vì thế chúng tôi trở về biển. Bãi biển duy nhất có nước ấm có thể tắm được vào đầu tháng tư có lẽ là bãi Elafonisi, được đánh dấu bằng ba cái chấm nhỏ xíu trên bản đồ, về phía tây nam. Ít người để ý chỗ này, nhưng 20 Viết&Đọc Đặc San 2017

chúng tôi biết được là nhờ một bà Na Uy đi cùng chuyến. Có lẽ bà là người thuộc giáo phái Chứng Nhân Giêhôva, cứ lẽo đẽo theo chúng tôi để giảng đạo. Còn chúng tôi chỉ thích trao đổi kinh nghiệm du lịch. Bà giới thiệu Elafonisi. Đường đi tới đây cũng núi non trùng điệp như đi tu viện Preveli, có phần căng thẳng, kích thích hơn. Nhưng khi tới nơi, chúng tôi thấy không khí khác hẳn – nhẹ, thanh, ấm. Ba cái chấm trên bản đồ là ba hòn đảo cát mịn có thể đi bộ sang nhau. Nước trong mầu lam ngọc và ấm như trong hồ bơi.Trên đường về, tôi dừng xe trước một tiệm bánh để vợ vào mua donut và cà-phê. Năm phút sau vợ ra, hai tay cầm hai cái bánh con.“Tiệm hết donut rồi,” vợ nói. “Bà chủ ‘đền’ cho cái bánh ngọt không lấy tiền. Khi bà ấy nhìn thấy anh ngồi ngoài xe, lại cho thêm cái bánh khác, nói để cho chồng mày.” Một trong hai cái bánh là một cái ‘chou-crème’. Tôi cắn vào, thấy không giống như chou-crème Givral Sài Gòn năm xưa – vỏ nó hơi cứng, lại có lớp đường thắng dính răng và kem bên trong quá ngọt. Nhưng đúng lúc này tôi cảm thấy nó ngon y như cái bánh mà có lúc tôi tưởng suốt đời không bao giờ tìm lại được. Về Oslo rồi, tôi cứ bâng khuâng mơ nghe ‘tiếng cu đầm ấm’, tiếng sơn ca thanh thót, không rõ mình mới đi Crete về hay đi ViệtNam. Chắc là Crete, vì trong đầu tôi còn in đậm những khuôn mặt có cái mũi két và tâm hồn bồ câu.

Tâm Thanh


xếp lại vần thơ cũ

mê lộ

em về xếp lại vần thơ cũ (xếp cả tình riêng buổi hẹn hò) nước mình đang chìm trong cơn lũ hỏi lòng: ai lại chẳng âu lo?... quê ta ôi rừng vàng biển bạc (ngàn năm văn hiến đã không còn) cháu con ta rồi đây lầm lạc trường đời thôi dạy nghĩa sắc son?...

Sóng vẫn vỗ, giữa biển đời ngạo nghễ Khiến cho người, vàng úa cả trời thu Bao ngàn năm, bụi trần gian vẫn thế Mãi cứ dồn, thành sa mạc hoang vu

nước cạn ruộng khô và biển chết cá tôm cùng vẫy giữa hoang tàn núi rừng sông lạch nay đã hết chữ nào đủ nghĩa vẽ nát tan?..

Mắt em buồn, giữa muôn vàn dang dở Nét sầu đông, khép lại những niềm riêng Bao đêm về, nghe tiếng lòng đổ vỡ Còn lại chăng, xót xa đẫm ưu phiền

ừ thôi em xếp tình thơ cũ nợ riêng em hứa trả sau này khi nào đất nước mình dân chủ thơ tình nguyện dâng đủ hai tay...

Đêm vô tình, cứ chôn sâu nỗi nhớ Chỉ mình em rơi, rơi giữa muôn trùng Khiến tim em, ngắt nhịp từng hơi thở Hồn vẩn vơ, như lạc chốn nguyệt cùng

Thi Hạnh

Ta giúp em, chôn buồn sâu huyệt mộ Những nỗi niềm, mà em nghĩ là thơ Em, cuộc đời chứa muôn ngàn mê lộ Đâu là thơ, nơi chốn để em mơ

Phụng Long

Viết&Đọc Đặc San 2017 21


Nơi chôn giấu

Đoàn Mai Tâm Mỗi lần về quê hương thăm gia đình, đi ngang qua Ngã Ba Dầu Giây, tôi lại nhớ đến hai chuyến xe. Chuyến xe đầu gom tôi từ nhà đi ngang qua đó, rẽ trái vào thị xã Xuân Lộc, dù tôi chẳng muốn. Chuyến xe sau, tôi rất muốn được đi mà chẳng có tiền, bác tài ‘thương người lỡ độ đường’ cho tôi ngồi xe đến đó, gởi tôi theo bạn đồng nghiệp của bác đang trên đường lái xe đi ngang qua khu nhà tôi. Khoảng thời gian giữa hai chuyến xe ấy, tôi sống với Xuân Lộc. Thời gian sống chung ngày đó tưởng đã lùi xa vào quá khứ, không ngờ, về quê ngang qua đó lần này, nó đã lôi kéo tôi rẽ vào, dạo quanh khắp thị xã. Thị xã đã thay đổi quá nhiều, tôi không còn nhận ra, ngay cả cái cổng vĩ đại vòng ngang qua quốc lộ 1 với hàng chữ ”Chủ Nghĩa Mac Lê nin Bách Chiến Bách Thắng Muôn Năm” ngày trước, khi đoàn người thua trận chúng tôi bị lùa vào các tại tập trung cải tạo ở đấy sau ”ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng” nữa. Nhưng tôi lại nhớ cái quán nhỏ trong khu chợ nhìn ra bến xe Lam, mà bốn mươi năm trước hai bố con tôi ngồi ở đó suốt cả một ngày chỉ để tìm gặp một bác tài xế xe Lam, trong những bác tài xế lái xe cập vào bến. Ngày ấy tôi là một trong cả ngàn người khác bị gom vào các khu tập trung gần thị xã, nhưng 22 Viết&Đọc Đặc San 2017

không rõ địa chỉ. Quá thời hạn một tháng theo như thông báo cho chúng tôi trước khi có lệnh tập trung, không ai trong chúng tôi đựơc thả về. Mà trái lại, hàng rào xung quanh trại chúng tôi bị cưỡng bức làm cho cao hơn. Kỷ luật trong trại chúng tôi phải tuân giữ khắt khe hơn và chúng tôi bị canh phòng cẩn mật hơn. Đang trong tình trạng hoang mang căng thẳng như thế, bỗng một hôm loa phóng thanh kêu tên tôi lên gặp ban chỉ huy trại. Tôi bước đi trên con đường mòn ngoằn ngoèo với hai ba lớp hàng rào dây thép gai hai bên dẫn vào ban chỉ huy mà trong lòng hồi hộp: niềm vui hay nỗi buồn, vận may hay rủi ro đây! Vì đây là lần đầu tiên tôi gặp trực tiếp “người anh em phương bắc”, kể từ khi vào trại. Tới nơi, tôi đứng cách xa chỗ làm việc của họ khoảng 6 mét theo đúng nội qui trại, chờ cho đến khi tên bảo vệ cho vào. Tôi được gọi đến trước mặt một tên khác có lẽ là thủ trưởng. Hắn hỏi: Bố mày tên gì? Bố tôi tên là... Bao nhiêu tuổi? Bố tôi 64 tuổi. Mày đã lén lút liên lạc với gia đình? Không, tôi không hề có liên lạc. Tại sao bố mày biết mày ở đây?


Tôi không biết. Hết hỏi, hắn mở tung ra trước mặt tôi một cái gói, trong đó có quần áo, thuốc trị bệnh và một lon Ghi-gô(1) thịt chà bông, mà hắn gọi là ruốc thịt lợn. Hắn bóc các vỉ thuốc ra, giơ lên săm soi. Hắn dùng đũa chọc xuyên qua các lớp thịt chà bông trong lon Ghi-gô nhiều lần. Xong, hắn đưa các thứ ấy cho tôi với nét mặt hằm hằm. Tôi gói các thứ ấy lại mang ra khỏi chỗ làm việc của hắn, và đi ngược con đường mòn cũ giữa những rào kẽm gai chằng chịt về trại, mang theo trong đầu nhiều dấu hỏi: làm sao bố biết tôi ở đây? Và có lẽ tôi là người duy nhất trong trại nhận được đồ tiếp tế từ gia đình trong thời gian đó. Khoảng chừng một năm sau, khi trại cho thân nhân đến thăm nuôi, bố đến thăm tôi. Ngay khi vừa gặp mặt, bố nhìn tôi từ đầu cho đến chân, không chợp mắt. Bố luôn miệng nói: ” Bố chẳng mang được chút đồ ăn gì cho con”. Và khi bố nhìn những người đến thăm nuôi xung quanh, người nào cũng lềnh kềnh hai ba giỏ đầy, bố lại rơm rớm nước mắt: ” Bố chẳng mang được chút đồ ăn gì cho con”. Tôi nắm đôi bàn tay bố an ủi: ”Được gặp bố như vầy con mừng lắm rồi bố”. Bố con tôi cứ cầm tay nhau, nói qua nói lại có bấy nhiêu thôi. Bao nhiêu điều muốn nói với bố lúc ấy tôi quên hết ráo trọi. Đến lúc tên bảo vệ nhắc hết giờ thăm nuôi, tôi chợt nhớ điều muốn hỏi bố, nhưng hắn lại ngồi ngay xuống cạnh hai bố con - để theo dõi những điều chúng tôi nói với nhau - như một cái dấu chấm hết buổi thăm nuôi. Hơn 5 năm sau, tôi được thả. Lệnh thả đã có từ lúc 10 giờ sáng, nhưng chờ nhân viên trại cấp tiền về xe mãi cho đến chiều vẫn chưa xong. Cuối cùng tôi đành ký tên vào dưới hàng chữ ”đã nhận tiền đủ” theo yêu cầu của họ để đựơc ra về. Vì trễ hơn nữa, sẽ không còn xe về nhà. Thoát ra khỏi bức tường đá và hàng rào thép gai, tôi cắm đầu chạy dọc theo quốc lộ 1 hướng về Sài Gòn. Chạy một hồi đuối sức, tôi lại đi. Đi mỏi chân, tôi mong có xe chạy qua, nhưng lâu lâu mới có một chuyến, rồi nó lại vụt qua trong tuyệt vọng. Tôi sinh ra hoang mang, không biết đi như vầy bao nhiêu lâu mới về tới nhà. Đi xuyên qua đêm sẽ ra sao! Đang lúc bước đi trong hoang mang, một chiếc xe Lam (2) chạy từ phía sau hướng tới. Tôi quay lại nhìn chiếc xe từ đàng xa với dáng vẻ cùng ánh mắt cầu cứu; chiếc xe giảm

tốc độ, dừng lại cho tôi leo lên phía sau. Trong lúc xe chạy tiếp, tôi thú thật với bác tài về hoàn cảnh của tôi lúc đó, và tôi không có tiền trả cho bác. Tới thị xã Xuân Lộc, xe ngừng lại đón thêm khách, bác tài đồng ý cho tôi ngồi tới trạm chót: Ngã Ba Dầu Giây. Khi tới đó, trời đã nhá nhem tối, xe khách về nhà không còn. Bác tài tìm cách gởi tôi theo chiếc xe tải, người bạn đồng nghiệp của bác đang lái trên đường lên Đà Lạt chở rau, sẽ chạy ngang qua làng tôi. Về tới đầu xóm, tôi thấy một bóng người đang lững thững đi trong trời tối. Tới gần, nhận ra bà hàng xóm, tôi gọi: ”Bà Từa!..bà Từa!”. Bà la lên: ” Cậu..., cậu...con cụ trùm...về rồi! ”. Những người hàng xóm khác đang ngồi trước hiên nhà, trước sân chạy ra theo, tất cả kéo vào nhà tôi. Quá xúc động, tôi đứng trơ ra cười mà như mếu, để cho người thì ôm vai, người thì cầm tay... Thật không ngờ, họ xem mình như người chết trở về. Khuya hôm ấy, khi các người hàng xóm đã ra về cả rồi, hai bố con tôi còn rì rầm nói chuyện với nhau mãi trong đêm. Bố kể: “ Quá thời hạn ấn định đã lâu mà không thấy mày về, mà cũng chẳng biết mày ở đâu. Tao tìm đến các trại cải tạo, nay trại này, mai trại khác. Buổi sáng, tao đứng xa xa, nhìn đoàn tù từ trong trại ra ngoài lao động. Buổi chiều, tao lại đứng xa xa nhìn đoàn tù đi lao động vào trại. Một hôm, tao đã nhìn thấy mày trong đoàn tù vào một trong các trại đó, trại K4. Tao mang đồ đến đó gởi vào trại cho mày, họ không nhận, họ bảo, sao ông biết nó ở đây mà gởi. Hôm khác tao lại mang đồ đến, họ cũng nói như thế, tao năn nỉ, xin các ông nhận dùm, nếu không có người nhận thì các ông cứ vứt đi. Tao để túi đồ lại đó, tao về”. Thời gian sau khi tôi được thả về, một hôm, bố gợi ý đi tìm gặp bác tài xế xe Lam. Bấy giờ, tôi ngớ người ra, tự trách mình, sao lúc ấy mình lại không hỏi tên và địa chỉ nhà của bác tài. Thấy tôi có vẻ không mấy hy vọng tìm ra bác tài, bố bảo: “Cả ngàn người tù, tao còn tìm ra mày, bây giờ có vài chục cái xe Lam ở bến mà không tìm ra bác tài sao!” Nghe bố nói, tôi thấy cũng có lý. Tôi rà soát lại trí nhớ, vẽ lên hình hài bác tài với cả cử chỉ và giọng nói cùng chiếc xe Lam của bác trong đầu. Tôi suy tính hết cách tìm kiếm này, đến cách tìm kiếm khác. Xong, tôi rủ bố: “ Đi bố! Mình đi tìm bác tài bố!” Viết&Đọc Đặc San 2017 23


Tới thị xã Xuân Lộc, sau một hồi rảo quanh, hai bố con tôi chọn một bàn trong quán bên chợ nhìn ra bến xe Lam – nơi vào một buổi chiều trước đây, bác tài chở tôi ghé vào đó đón thêm khách - ngồi uống nước. Cứ mỗi lần có chiếc xe Lam ghé bến, tôi chạy ra xem, và hỏi thăm bác tài để so đọ với bác tài trong trí nhớ của mình. Gần suốt cả một ngày, tôi đã hỏi bao nhiêu bác tài ghé vào bến, nhưng không gặp bác tài trong trí nhớ của tôi. Trở lại quán, hai bố con gọi cơm ăn. Trong lúc đang ăn, bỗng bố nhìn xuống gầm bàn, giật nảy người ”ớ...” lên một tiếng dài, như người la hoảng trong giấc mơ. Tôi vội choàng tay ôm vai bố, hỏi: ” Thầy bị làm sao vậy? ”. Bố bảo: ” Lần đầu tiên đi thăm nuôi con, bố cũng ngồi ở đây chờ đến giờ trại cho vào thăm nuôi. Ngồi chờ lâu quá bố quên các đồ mang đi thăm nuôi để dưới chân. Khi bố sực nhớ, nhìn xuống gầm bàn thì các đồ đã bị lấy cắp hết cả rồi. Giờ thăm nuôi tới, bố chẳng còn kịp mua gì cho con được nữa”. Sự việc này làm tôi sực nhớ lại hình ảnh bố rưng rưng ” bố chẳng mang được chút đồ ăn gì cho con” trong lần đầu tiên bố vào trại thăm nuôi tôi. Dạo quanh khắp thị xã, và bây giờ tôi cũng đang ngồi ở một cái bàn cùng vị thế trong một cái quán quanh chợ nhìn ra bến xe Lam như bốn mươi năm trước ngồi chung với bố. Bố đã bỏ cuộc rong chơi với tôi trong cuộc đời này đã gần hai mươi năm. Cái bàn ngày ấy đã thay đổi biết bao nhiêu cái bàn. Cái quán đã thay hình đổi dạng qua bao đời chủ. Bến xe Lam ngày xưa nay đã di dời đi nơi khác, và loại xe Lam ba bánh nay chẳng còn được sử dụng. Nhưng hình ảnh của bố và bác tài xế xe Lam đã được vẽ lên trong trí nhớ của tôi tại chốn này vẫn còn nguyên vẹn. Hình ảnh những người tôi gặp trong cuộc rong chơi qua mặt địa cầu này vẫn còn đang được lưu giữ lại ở nơi đây.

Đoàn Mai Tâm (1) Xe lam: Xe Lambretta do Ý sản xuất, một phương tiện chuyên chở công cộng thông dụng trước năm 1975, có sức chở khoảng 8 hành khách. (2) Lon Ghi- gô: Lon sữa bột guigoz Hòa Lan, cái lon nhôm tròn dài có nắp đậy thật kín, khi xài hết sữa bột, người ta dùng nó để đựng đồ ăn mang theo trong lúc di chuyển. 24 Viết&Đọc Đặc San 2017

Thành cổ, chim cu và biển

Cu kêu rộn rã bên thành cổ Cung điện dãi dầu bao nắng mưa Một cơn địa chấn đành chôn lấp Văn minh thái cổ một thời xưa Cu kêu giục giã trên rừng vắng Gọi bạn tình chung, gọi thiết tha Đồi cao lũng thấp ngàn hoa nở Mau về chấp cánh giữa bao la Biển xa thăm thẳm một màu xanh Rào rạt khôn nguôi sóng vỗ gành Bãi cát duỗi mình nghe nắng ấm Đất trời ngan ngát vị mùa xuân Nắng trải mật ong vườn cam ngọt Hoa trắng thơm lừng trên lối đi Những cội ô-liu già trăm tuổi Lá còn xanh mãi thuở xuân thì Ta đi tìm lại dấu ngàn năm Ngọc, đá còn đây bóng cổ nhân Dấu chân ta gởi trên bờ cát Sóng biển xin đừng xóa mất tăm (Crete, cổ thành Krossnos Mùa Xuân )

Khánh Hà


Thơ Khánh Hà

Vẫn còn đây Ngoài kia khung cửa một vầng trăng Lẳng lặng nhìn thôi, không nói năng Trăng vẫn ngàn năm luôn đúng hẹn Nguời hẹn trăm năm, đã bặt tăm Đừng tuởng thời gian làm lãng quên Hình như men nhớ chỉ nồng thêm Như mặt hồ đôi khi gợn sóng Đôi khi lặng gió, mặt hồ êm Hoa đào đang nở như năm trước Khi tháng năm về xuân long lanh Nắng trải lụa vàng trên thảm cỏ Hoa nở một mình, vườn vắng tanh Nhớ lắm đuờng hoa Kyoto Đào nguyên năm đó như giấc mơ Tìm đâu cửa động thiên thai nữa Chân bước bơ vơ những bước hờ Con đường Thiền dọc theo bờ suối Cành đào nghiêng bóng hoa lắt lay Cổ nhân khuất bóng trăm năm truớc Người mới hôm nào, nay cố nhân Tượng đá góc vườn buồn lặng im Ai bảo quên đi? Thôi hãy quên Nhớ làm chi nữa cơn đại mộng Tỉnh ra chưa tắt nắng bên thềm

Hoa forsythia ngậm ngùi Một mùa hoa nữa lại về đây Màu nắng năm xưa vẫn nắng này Forsythia nghiêng bóng bên thềm vắng Tưởng nhánh mai vàng gió lắt lay Mảnh vườn này xưa kia của ai Từng loại hoa, dấu tích tháng ngày Nguời từng nhìn ngắm, từng chăm sóc Người có đau lòng khi chia tay? Tôi từ lưu lạc về nương náu Thẩn thơ tìm hình bóng của ai Trăm năm cũ đã từng lưu dấu Còn lại gì hay đã tàn phai Cây lá im lìm không nói năng Từng mùa hoa nở, rất nhiều năm Người đã đi rồi, không trở lại Còn một mình hoa nở âm thầm Nhiều năm sau mảnh vườn còn đó Hay khuất chìm trong cuộc bể dâu Forsythia ngậm ngùi còn ai nhớ Những người năm cũ đã về đâu? Viết&Đọc Đặc San 2017 25


Barnetime For De Voksne Chương Trình Trẻ Em Dành Cho Người Lớn Nguyên tác: Anne-Cath Vestly Bản Việt ngữ: Dương Kim Nữ văn sĩ Anne-Cath Vestly sanh ngày 15-2-1929 ở Rena, Na Uy. Mất ngày 15-12-2008. Thân phụ bà tên là Mentz Schulerud, thân mẫu bà là Aagot. Năm bà lên bốn tuổi, gia đình chuyển tới Rudshøgda ở Hedemarken, được ba năm, dọn đi Jessheim. Mấy năm sau, lại dọn tới Lillehammar, nơi đây ở lâu nhất từ trước tới giờ. Rời nhà tới Lillehammar được một năm thì thân phụ bà mất. Khi học xong tú tài, bà về ở hẳn Oslo. Vì thời thơ ấu dọn nhà nhiều lần, bà trở nên một cô bé rụt rè, nhút nhát. Lúc chín tuổi, lần đầu tiên bà được lên sân khấu đóng kịch, từ đó sự rụt rè, nhút nhát đều tan biến. Lớn lên, bà thường chơi dương cầm. Thân mẫu bà cũng mong con gái mình trở nên một tay dương cầm. Nhưng bà lại muốn trở thành một kịch sĩ. Bà không nói cho ai biết điều này vì mắc cỡ. Thay vào đó, bà bắt đầu viết những mẩu truyện nhỏ, sau trở thành những màn kịch hay, dưới thời chiến. Từ đấy bà viết truyện nhi đồng cho đài phát thanh. Ngày nay, bà là một trong những nhà văn được ưa chuộng nhất về loại sách nhi đồng. Cuốn «Ole Aleksander Filibom-bom-bom» là cuốn sách đầu tay của bà xuất bản năm 1953, nội dung cho thấy bà rất thấu hiểu về tâm tính trẻ em.

Lời mở đầu: Năm 1953, trong một chương trình phát thanh cho trẻ em, tôi kể câu chuyện về thằng cu Ole Aleksander, sẽ có em gái. Tôi thật vô ý, chỉ nói những gì mình đã nghĩ, rằng mẹ của Ole Aleksander sắp có em bé. Sau khi chương trình được phát đi, tôi mới hiểu mình đã sai lầm đến cỡ nào. Tất cả điều tôi nói đều trật hết, vì tôi đã kể chuyện xấu. Người ta gọi điện tới mắng rằng lần sau, tới giờ phát thanh dành cho trẻ em của tôi, họ sẽ bảo làng xóm tắt ra-dô hết. Tôi thấy, chẳng có trẻ em nào nổi giận về câu chuyện tôi đã kể, ngược lại tôi còn được chúng viết thư an ủi. Một trong những bức thư các em viết: «Cô Anne-Cath Vestly à, cô đừng chán nản nhé». Còn phía người lớn thì khác, nhưng tôi rất vui mừng vì chẳng bao lâu tôi đã có dịp sửa lại được lỗi sai. Tôi phụ trách chương trình trẻ em (dành cho người lớn), với đề tài tốt: Cho nhiều người hiểu biết khá hơn, và may sao chương trình ấy được phát đi vào giờ ban đêm theo màn Alf-Prøysen từ phòng ghi âm Store. Từ hồi đầu chương trình trẻ em về cu Ole Aleksander và đứa em gái, đã in thành sách. Tôi nghĩ có lẽ cũng hợp tình hợp lý sẽ ra cuốn sách ấy loại dành cho người lớn nữa. Và các bạn đã ngồi thoải mái trong ghế rồi, thì xin bắt đầu đọc. 26 Viết&Đọc Đặc San 2017

Ngày xửa ngày xưa ở một thành phố nhỏ, có một thằng cu tên Anton. Nó ở trong một căn nhà nhỏ cùng với bố mẹ nó. Một hôm, trước giờ cơm chiều, mẹ cu Anton ngồi đan một cái quần yếm. Chắc các bạn cũng biết là thứ gì rồi nhỉ! Anton ngồi nhìn đồ đan, nhìn lâu lắm, rồi nó hỏi: «Mẹ làm cái này cho con nhỏ quá, mẹ.» Nét mặt người mẹ có vẻ tinh nhanh: «Con nghĩ mẹ đang đan cho con à.» Anton hỏi: «Ủa, không phải sao, mẹ?» - Không, cái này là đan cho em bé. Con mong bố mẹ sẽ có em bé không, Anton? Anton hỏi: «Dạ có, mình có em bé đi mẹ. Nhưng mẹ à, làm sao mình có được em bé?» Người mẹ ngồi im một lát, rồi lại tiếp tục đan, nhưng đan nhanh lắm: «Muốn có em bé, người ta xuống dưới làng mua.» - Ở dưới làng người ta có nhiều chuyện lạ quá mẹ hả. Ước gì mình ở dưới đó để hàng ngày được nhìn thấy em bé. Mẹ mỉm cười: «Ờ» - À mẹ à, hồi mùa hè mình ở dưới làng, mẹ có nhớ cái bà ở căn nhà màu đỏ không? Bả đi lên phố, lúc trở về bả có một em bé. - Ồ, những người ở làng thì lên phố mua em bé! Anton hỏi: «Ủa, có phải mẹ mua con ở làng


không, mẹ?» Mẹ trả lời: «Ờ!» - Con có mắc không mẹ??? - Ồ, chẳng có chi đáng kể. Anton hỏi: «Chừng nào mình đi mua em bé vậy mẹ?». Anton có vẻ nóng lòng. - Cũng không lâu đâu, nhưng con không được đi theo, hiểu không. - Tại sao vậy? Con sẽ chọn một em bé đẹp nhất cho mẹ. - Thôi, bây giờ con đừng hỏi nhiều nữa. Hồi con còn nhỏ, con dễ thương lắm. Lúc đó con đâu có hỏi gì nhiều! - Hồi đó con biết nói chưa? Đúng lúc ấy họ nghe tiếng người bố về, người mẹ hối hả ra chỗ máng áo, nói nhỏ với chồng: «Em đã nói cho thằng cu biết về chuyện em bé rồi đó!» Người bố đáp và đi vào: «Được, tốt lắm.» Bố bảo: «Thằng cu của bố. Sao, con có hồi hộp đợi con cò sẽ đem tới cho mình em bé trai hay gái không.» Anton thắc mắc: «Con cò?» - Ờ, con không biết là cò sẽ đem em bé tới cho chúng mình à. Cò bay từ bờ Nilen tới, mỏ nó cặp em bé, bay qua nhiều mái nhà, rồi thả em bé xuống cho mình. Người mẹ nói: «Ừm ừm, em mới kể cho Anton biết mình sẽ mua em bé ở dưới làng.» Người bố nói: «Ừ, đúng rồi, được rồi. Nhưng ngày xưa bố được cò đem tới, bố còn nhớ rõ mà.» Mẹ kêu: «Đi ăn thôi!» Sau bữa ăn, bố mẹ muốn nghỉ ngơi một chút, người bố bảo: - Anton, con ra phòng khách chơi và trông nhà đi. Anton đáp: «Dạ!» Một lát sau có tiếng gõ cửa. Anton ra mở. Bà cô Agnete tới chơi. Bà hỏi: «Mẹ cháu có nhà không?» - Dạ có, mẹ đang ở nhà, nhưng mẹ mệt lắm, mẹ đi nghỉ rồi. Bà cô Agnete nói: «Ủa vậy sao, tội nghiệp», bà lẩm bẩm, «Ờ, chắc cũng không lâu nữa đâu.» Ở trên bàn còn để bộ đồ đan. Anton nhìn bộ đồ đan, rồi nhìn bà cô Agnete, cu nói: «Cô Agnete à, có chuyện này lạ lắm, bố mẹ sẽ mua em bé.» Bà cô Agnete hỏi: «Trời ơi, con cũng biết nữa sao?». Bà thoáng vẻ khác thường, húng hắng ho, sửa lại giọng cho bình tĩnh: «Không phải là mua, cháu tôi ơi, cháu không biết là em bé nằm trong vũng nước ở trên mây cao sao. Chúng bơi trên đó cho tới khi chúng muốn xuống trái đất, rồi một đêm yên tĩnh, chúng từ từ đáp xuống nằm thoải mái dưới chăn mền, sáng hôm sau khi thức dậy,

bỗng nhiên cháu sẽ thấy có em bé nằm ở đấy.» Anton hỏi: «Cô được sanh ra như vậy hả?» Bà cô Agnete đáp: - «Ờ» Anton hỏi: «Cô có biết bơi không?» - Không, cô không biết bơi. Bà thấy lạ khi thấy Anton không thích thú về những đứa trẻ mà bà vừa kể, nhưng bà đã đoán sai. Anton hỏi: «Cô quên rồi sao? Lúc còn bò lê ở trong vũng nước cô biết bơi mà.» - Ôi thôi, coi cháu nói chuyện kìa, bò lê. Anton nói: «Chắc cô chỉ biết bơi ếch bình thường thôi.» - Cháu lém lỉnh ghê, thôi, cháu ra ngoài chơi một chút đi, để cô trông nhà cho. Anton đi ra, dáng dấp dễ thương. Ra ngoài, nó gặp ông Martin, ông thường quét đường ở thành phố bé nhỏ này. Anton hỏi: «Chào ông Martin. Ông được sanh ra cách nào vậy?» Martin mỉm cười hiền lành: «Ơ... ta được sanh ra trên miếng ván trượt tuyết ở đồi Grefsenåsen.» Đêm hôm đó, trước khi ngủ, Anton nằm suy nghĩ lâu lắm. Sáng hôm sau thức dậy, Anton thấy mẹ đã đi rồi. Nó ra ngoài chơi với thằng bé Lars. Anton hãnh diện nói: «Mẹ tao xuống làng mua em bé rồi.» Lars nói: «Không phải vậy đâu. Mày không biết em bé nằm ở trong bụng mẹ sao? Khi nó ra, thì đã có đủ sẵn mắt, mũi tùm lum rồi. Hay không?» Anton đáp: «Ờ, vậy thì hay quá», cu thở dài, «Cớ sao lại không dễ dàng như vậy nhỉ?»

Dương Kim

Viết&Đọc Đặc San 2017 27


Người Cha Phóng Khoáng Thanh Trà điểm sách

Hồi Ký của Dương Phục và Vũ Thanh Thuỷ: Phóng Viên Chiến Trường: Tình Yêu, Ngục Tù, Vượt Biển là một tác phẩm rất dày, dày 696 trang mà vẫn gọn gàng, rõ ràng, lôi cuốn. Tôi không có khả năng bàn hết dù tác phẩm chứa đựng nhiều chuyện, nhiều biến cố đáng bàn: chuyện cải tạo: tự nguyện trình diện, hóa ra là ở tù, chuyện vượt ngục; những khốn khó sau ngày CS chiếm được Miền Nam; và vượt biên: tấn bi kịch hải tặc hành hạ, hiếp dâm, hành xác thuyền nhân, cho ăn, rồi lại hành, trên đảo Kra – như chuyện thường ngày của loài thú. Tuy nhiên, những chuyện này các tác giả khác cũng đã đề cập đến rồi, mặc dù ở những mức độ khác nhau. Tôi chỉ bàn về quá trình đào tạo một mẫu người cha Việt Nam dưới thời Chiến tranh Việt Nam và sự hành xử của người cha đó qua hồi ký của cô con gái Vũ Thanh Thuỷ (VTT). Cha của VTT, Vũ Ngọc Ban (1921 – 1993), học trường trung học (Lyceé) Albert Sarraut; trường thu nhận học sinh người Pháp và cả học sinh là con em các quan chức cao cấp người Việt Nam, người Miên, người Lào. (Khác với trường Bưởi = Chu Văn An dành cho học sinh Việt.) Chắc chắn ông chịu ảnh hưởng nhiều tư tưởng nhân đạo: Tự 28 Viết&Đọc Đặc San 2017

do, Bình đẳng, Tình huynh đệ (Bác Ái), lòng dũng cảm, lòng chính trực… thông qua văn chương và triết học trong chương trình giáo dục Pháp. Khi tốt nghiệp xong chương trình tú tài Pháp, học sinh tương đối có đủ vốn liếng làm người trí thức, hoặc làm dân thường một cách trí thức. Nhiều trí thức Việt Nam đã học trường này. Và ông cụ là người Công giáo. Công giáo đã khuôn đúc văn minh Âu Châu, ví dụ về lý tưởng Tự do, Bình đẳng (mọi người, mọi giới tính đều bình đẳng trước mặt Chúa), Tình huynh đệ (Bác Ái), và ngược lại khi Âu Châu đã trưởng thành, Âu Châu lại quay lại đẽo gọt, bồi cố cho đạo Công giáo thêm tính người thế hơn, tuy đôi khi, nơi một vài nhà tư tưởng, quá gay gắt như dưới Thế kỷ Ánh sáng, thế kỷ XVIII (1715-1789). Và cuối cùng những đẽo gọt, bồi cố bao đời ấy (không chỉ Thế kỷ Ánh Sáng) đã góp nhiều hoa trái tốt đẹp cho tư tưởng của Giáo Hội, được diễn tả trong các văn kiện của Công Đồng Vatican II. Dạy thương người Những tư tưởng làm người được giáo dục qua các bài giảng các lời giáo huấn trong các thánh lễ bởi những linh mục được đào tạo có bài bản, trường lớp, lâu dài (ít nhất 13 năm). Có thể nói phần lớn


các bài giảng phần lớn chú trọng đến lòng bác ái, thương người, (ngay Chúa Giêsu xuống thế làm người và chịu khổ nạn thì cũng vì thương con người.) Và qua các kinh sáng tối, hằng ngày. Tính tốt (Nhân đức) là gì? Thưa, đó là sự lặp đi lặp lại một việc tốt./ Tính xấu là gì? Thưa, đó là sự lặp đi lặp lại việc xấu. Đọc kinh hằng ngày sớm tối là một hình thức lặp lại, nhờ đó in sâu vào tâm trí (từ đó phát sinh ra hành động) những tư tưởng mà các đấng phẩm trật trong Giáo hội Công giáo muốn con chiên mình có được. Những tư tưởng đó là gì? Thưa, như nói trên, đa phần là những tư tưởng nhân đạo. Về Thiên Chúa, dĩ nhiên là có, là một Thiên Chúa Cao Vời Khôn Ví, Ngài còn là một Thiên Chúa đã xuống thế để cứu con người và đã từng nói: Ai yêu thương các anh em hèn mọn này, là yêu thương chính Ta. Các câu dạy có nội dung như thế có nhiều trong Phúc Âm. Đọc kinh tại gia cũng như tại nhà thờ là một hình thức cầu nguyện chung, và cũng là một hình thức giáo dục nhân cách con người, lặp đi lặp lại qua câu kinh như kinh mười điều răn, kinh sáu điều răn hội thánh, và kinh mười bốn mối là kinh đặc biệt giáo dục lòng thương người như trong: Kinh Thương người có mười bốn mối Thương người có mười bốn mối Thương xác bảy mối: Thứ nhất: Cho kẻ đói ăn Thứ hai: Cho kẻ khát uống Thứ ba: Cho kẻ rách rưới ăn mặc Thứ bốn: Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc Thứ năm: Cho khách đỗ nhà Thứ sáu: Chuộc kẻ làm tôi Thứ bảy: Chôn xác kẻ chết Thương linh hồn bảy mối: Thứ nhất: Lấy lời lành mà khuyên người Thứ hai: Mở dậy kẻ mê muội Thứ ba: Yên ủi kẻ âu lo Thứ bốn: Răn bảo kẻ có tội Thứ năm: Tha kẻ dể ta Thứ sáu: Nhịn kẻ mất lòng ta Thứ bảy: Cầu cho kẻ sống và kẻ chết Và sau này Kinh Hoà Bình, lời của thánh Phanxicô thành Assisi (1181-1228), được Giám mục Philípphê Nguyễn Kim Điền dịch nghĩa và được linh mục nhạc sĩ Phêrô Kim Long thêu những giòng nhạc đầy linh hứng, tuyệt vời vào bài kinh, cách đây 56 năm: Lạy Chúa từ nhân, Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong

mọi người. Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa Ðể con đem yêu thương vào nơi oán thù, Ðem thứ tha vào nơi lăng nhục Ðem an hoà vào nơi tranh chấp, Ðem chân lý vào chốn lỗi lầm. Ðể con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng, Ðể con rọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu. Lạy Chúa xin hãy dạy con: Tìm an ủi người hơn được người ủi an, Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con, Xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí ơn an bình. Cho nên: ”Mỗi buổi sáng, anh chị em chúng tôi, từ 10 tuổi trở lên đều phải dậy từ 6 giờ sáng để cùng cha mẹ đi lễ tại nhà nguyện Mai Khôi số 42 đường Tú Xương của các cha Đa Minh. Và mỗi 9 giờ tối, dù bận bài vở tới đâu, chúng tôi cũng phải thu xếp làm cho xong để đọc kinh cùng gia đình, khi đó đang sống chung cùng cả ông bà nội lẫn bà ngoại. Tôi nhớ anh Báu, khi bị cha đánh thức dạy mỗi sáng, hay trốn ngồi lì trong nhà vệ sinh để... ngủ, nhưng luôn bị cha gõ cửa buộc anh phải ra. Và tôi vẫn nhớ những buổi tối, tôi ngủ gật trong lúc đọc kinh thường được cha ẵm trên tay đưa lên gác cùng các anh chị. “ Bài Cộng Sản Và nơi đạo Công giáo, có chủ trương bào CS triệt để: Cộng sản vô thần. Cộng sản tam vô: Vô tôn giáo, vô gia đình, vô tổ quốc. Và: Bọn CS là bọn quỷ đỏ. Những ý niệm này được các vị linh mục giảng nhiều lần trong nhà thờ. Các quỷ trong các tranh, tượng Công giáo có hình người, trần truồng đen, có đuôi, có sừng và hàm răng nanh. Khi các linh mục nói CS là bọn quỷ đỏ, các giáo dân hiểu ngay con quỷ đó gớm ghiếc như thế nào. Không cần phải Edward Landsdale tuyên truyền “Chúa, Đức Mẹ Maria đã chạy vào Nam rồi.”, các giáo dân mới lũ lượt vào Nam. (Chính Edward Landsdale phủ nhận chuyện tuyên truyền này.) Viết&Đọc Đặc San 2017 29


Kinh Lạy Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi, đúng ra là mộc bản nhạc bình ca, soạn theo thể điệu dân ca, dài tới 731, nhịp điệu dồn dập, hứng khởi, hay từ đầu cho tới cuối, được biết là do giám mục Hồ Ngọc Cẩn (1876 – 1948), Giám mục người Việt tiên khởi của giáo phận Bùi Chu, sáng tác: ”Lạy Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi là Đấng phù hộ kẻ có đạo, bầu chữa loài người ta, cùng thắng dẹp mọi kẻ thù nghịch cùng Đức Chúa Trời. Nay chúng con sấp mình xuống kêu van nài xin trước toà Đức Mẹ, tin chắc sẽ được Đức Mẹ động tình thương cứu giúp trong buổi khốn khó này....” ”Mọi kẻ thù nghịch cùng Đức Chúa Trời” chẳng ai khác hơn là CS và ”buổi khốn khó này” là thời chiến tranh chống Pháp do Việt Minh (CS) lãnh đạo. Phải công nhận rằng các phẩm trật của Giáo hội Công giáo VN (GHCGVN) có nhiều thông tin, kiến thức về xã hội Tây Phương, trong đó có CS, hơn các tôn giáo khác ở Việt Nam thời đó, nên biết rõ CS là ai. Cách mạng Nga năm 1917 và Stalin làm đổ máu Nước Nga và phá hủy triệt Giáo Hội Chính Thống từ năm 1927 - 1939. Lúc đó CSVN còn vuốt ve các tôn giáo, nhưng GHCG đã biết rõ họ là ai. Cho nên một trong những lý do ông Vũ Ngọc Ban sau đó ra vùng tự trị Bùi Chu-Phát Diệm dạy học tại Bùi Chu, nơi không chịu ảnh huởng Pháp lẫn Việt Minh, tại trường trung học Hồ Ngọc Cẩn, nơi “vừa dạy chữ vừa truyền bá tư tưởng về nhân quyền, công bằng, xã hội”, mà không theo Việt Minh như những trí thức khác là chuyện dễ hiểu; và cuối cùng đưa cả gia đình di cư vào Nam; và sau 1975 lại chạy khỏi sự thống trị CS, và dù tàu ông và gia đình đang vào tình thế tuyệt vọng, ông vẫn không quay đầu về, (và đến được Hoa Kỳ) khác với con rể Dương Phục, kẻ muốn quay lại để, như một phóng viên, chứng kiến hoàn cảnh lịch sử và vì chiến tranh kết thúc rồi, và vì CS họ cũng là người Việt cả. (Đây là lối suy nghĩ của đa số những người văn minh, trí thức đứng trên quan điểm văn minh, tri thức của chính mình để đánh giá về bọn man rợ và vô học. Bọn này không nghĩ như vậy, bởi bọn này đã bị điều kiện hóa man rợ, vô học mất rồi. (Xin xem lý lịch và những câu tuyên bố sau đó của các lãnh tụ CS lúc đó và sau này.) Và dĩ nhiên ông cũng thụ hưởng đạo đức truyền thống Việt Nam: Nho giáo + văn hóa Việt Nam. (Ông bác của ông là tổng đốc Vũ Ngọc Oánh). Và đường lối dạy con 30 Viết&Đọc Đặc San 2017

“… Cha tôi không muốn các con ông trở nên những người rập khuôn như người khác, hay đè nén ý riêng của mình vì sợ bị chỉ trích chê bai. Cách nhìn cuộc sống như một thách-đố-luônluôn- biến-đổi-đem-lại-phần-thưởng-cũng-nhưhình-phạt này của cha tôi đã trau dồi nền tảng cho sự phát triển cá tính và triết lý sống của tôi. Khi mọi chuyện êm xuôi tốt đẹp, tôi luôn chuẩn bị tinh thần đối phó với một nghịch cảnh nào đó đang chờ tôi ở ngã rẽ cuộc đời trước mặt. Cũng thế, trong những thời điểm đen tối nhất, tôi tập được tính không tuyệt vọng, vì luôn vững lòng tin rằng rồi mọi chuyện sẽ phải trở nên tốt đẹp hơn. Điều này trở thành một định luật vững chắc của cuộc sống đối với tôi. Sau này, khi tôi bị cuộc đời thử thách tơi bời, tôi vẫn giữ được sức mạnh của niềm tin này mà cha tôi đã trau dồi cho tôi qua những bài học lạ lùng từ khi còn nhỏ. Ngoài việc “nhồi” cho chúng tôi một niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, cha tôi còn tập cho chúng tôi cái bản năng bất biến là luôn tin ở chính mình. Nhưng cha tôi cũng nhồi thêm vào đầu óc chúng tôi rằng sống không chỉ là để sinh tồn và bổn phận làm người không chỉ là lo cho riêng bản thân mình. Ông cho chúng tôi tham gia vào các sinh hoạt giới trẻ để biết hòa đồng, và để tập tinh thần biết chấp nhận sự khác biệt của người khác như một nét đẹp đa dạng của cuộc sống. Ông muốn chúng tôi không chỉ làm những điều mà mọi người cho là đúng phải làm, mà còn phải biết tự mình tìm ra điều gì là đúng cho riêng mình. Cha hay kể cho tôi nghe những cuốn sách ông đọc và những lý thuyết ông học được đây đó, rồi dùng đó bàn luận với tôi. Cha tôi có thói quen nói thẳng vào vấn đề, và luôn hỏi xem tôi nghĩ gì. Ông không chấp nhận cho tôi nói theo hay trả lời cách lười biếng và nửa vời. Ông bắt tôi phải suy nghĩ, và ông hay vặn vẹo các câu trả lời của tôi để buộc tôi phải suy nghĩ đến nơi đến chốn.” Biết bao đức tính tốt đẹp: Không rập khuôn theo người khác; không tuyệt vọng; biết lo cho người khác; biết chấp nhận sự người ta khác mình vv. Những đức tính này chồng chéo, xô đẩy nhau trong các quyết định quan trọng của đời VTT, ví dụ, không muốn qua thuyền đánh cá để quay về VN mà vẫn…, ví dụ chuyện chồng Dương Phục tình nguyện ra trình diện “cải tạo”, dù cô không muốn chồng đi, nhưng vẫn… Những đức tính này sẽ theo VTT trong cuộc đời của cô sau này, xuyên suốt tác phẩm Hồi Ký viết chung với chồng mình, Dương Phục.


Truyện thật ngắn

Nguyễn Tiến Thành

ÔNG LÃO Căn nhà nhỏ nằm khuất sau rặng cây, cạnh bìa rừng. Màu thời gian làm nó hòa lẫn với thiên nhiên. Mái ngói chỗ xám, chỗ xanh, những bụi cỏ thưa thớt mọc cả trong những khe ngói hở. Những cửa sổ mốc meo, xiêu vẹo, cửa ra vào xệ xuống và không đóng kín hết được. Khép hờ. Con đường vào nhà cỏ mọc hai bên rậm rạp, đã lâu lắm không có người thu dọn. Những bụi cúc chết từ lâu, những cánh hoa một thời vàng rực rỡ, nay nắng xém khô, xám xịt. Gió đưa lay lắt. Đồ dùng trong nhà không nhiều, một cái bàn ăn bốn chỗ, trên bàn, lỉnh kỉnh những vật nhỏ. Một cái đèn hết dầu, bóng đèn bụi mờ. Cây đèn cầy cháy đã hết, những sáp đèn dày cộm quanh chân đèn, chảy loang cả xuống bàn, mấy tờ báo cũ, mấy cuốn sách sờn bìa... Góc nhà kê bộ salong, vải bọc ghế sờn hết màu quanh chỗ ngồi. Giữa nhà, chùm đèn điện ba bóng, treo lủng lẳng, nếu không để ý, đi có thể bị đụng đầu. Trong bếp, có mấy cái tủ đựng chén dĩa, một vài ngăn để dao, kéo... tường, vách toát lên vẻ cũ kỹ, lỗi thời, căn nhà như thiếu bàn tay chăm sóc của người đàn bà đảm đang, tất cả vật dụng chỉ vừa đủ cho cuộc sống hằng ngày. Ông lão sống lẻ loi một mình. Những khổ đau làm lưng lão còng xuống. Đôi mắt mờ, những lúc lão đăm chiêu, sâu thẳm trong ánh mắt phảng phất một vùng trời đất, những oanh liệt và cả những khắc khoải đợi mong.

Sáng nào lão cũng thức dậy thật sớm, đấy chỉ là một thói quen hơn là sự cần thiết. Lão đặt ấm nước lên bếp, tìm trên tủ tách pha cà phê. Khi chờ nước sôi, lão tìm thức ăn điểm tâm. Cánh tay run run, những di chuyển chậm chạp, nặng nhọc. Hôm nay trời lạnh, gió thổi từng cơn, đám cỏ vật vờ theo gió. Lá vàng rơi lác đác, lâu lâu gió giật mạnh, những chiếc lá theo gió bay vào kiếng cửa sổ. Xào xạc. - Giờ là tháng mấy rồi mà trời đã trở lạnh? - lão lẩm bẩm. Rồi như không cần câu trả lời, lão loay hoay đi tìm cái áo ấm. Gió giật cánh cửa mở tung, hơi lạnh lùa hết vào căn nhà, gió làm mấy tờ báo cũ trên bàn bay lả tả. Ấm nước sôi, lão vội vàng đi vào bếp. Vô ý, vấp chân vào mấy tờ báo dưới nền nhà làm lão té lăn quay, đầu đập xuống nền nhà. Lão ngất đi. Ngoài trời đã tối, ánh trăng hắt qua cửa sổ mập mờ. Lão giật mình khi gió giật cửa sập trở lại. Lão đã bất tỉnh từ sáng sớm. Đầu vẫn đau ê ẩm, cảm giác choáng váng. Khi lão định gượng đứng dậy, lão mới thấy toàn thân lạnh cóng. Hơi lạnh đã làm nhiệt độ trong người lão giảm xuống, chân tay run rẩy, những cơ thịt co cứng. Lão còn cố gượng dậy thêm mấy lần nữa. Lão cố xoay người đổi tư thế; lão cố bám vào chân bàn... nhưng chân tay lão không còn chút sức lực nào, mỗi cố gắng chỉ làm cho cơ thể lão mệt mỏi và đau đớn hơn. Lão loay hoay. Viết&Đọc Đặc San 2017 31


- Sao lại buồn ngủ thế này? Lão kinh hoàng, không lẽ, đây sẽ là giấc ngủ cuối cùng của lão sao? Lão lê mình về phía trước, nhưng chẳng tiến lên được tí nào. Lão la lên cầu cứu, nhưng từ miệng lão chỉ thốt ra được những tiếng thì thào. Lão thở dốc. Cơn buồn ngủ lại ập về. Mắt lão nặng nhọc mở không ra. - Hay là ngủ ít phút, may ra mình sẽ khỏe lên chăng? - lão tự nhủ. Khi vừa nhắm mắt, thời gian như cuốn phim quay nhanh hiện lên trước mặt lão. Ngày thơ dại, lão rong chơi cùng lũ bạn, khi bị té, lão được mẹ âu yếm đỡ đứng lên; lúc thanh xuân, tình yêu đầu, người con gái có mái tóc nâu, mùi hương tóc làm lão ngây ngất, những nụ hôn mơ màng, nồng cháy, rồi chiến tranh, những giây phút thành đạt hạnh phúc, những thất bại đau thương. Và cả những khắc khoải, cô đơn. Hơi thở trở nên nhẹ nhàng hơn, lồng ngực lão phập phồng yếu ớt dấu hiệu của sự sống. Hàng phút mới thấy lão hít thở một lần. Có cái gì trong cổ lão làm lão khò khè. Hai giọt lệ ứa ra nơi khóe mắt. Gió lay những cành cây, làm ánh trăng đong đưa trên nền nhà. Gió thổi tung những chiếc lá khô, gió vi vu đón rước. Lão lang thang ngược về quá khứ. Bất chợt có một luồng ánh sáng chói lòa chiếu dãi, luồng ánh sáng làm lão e dè ngừng bước. Có ai gọi tên lão? Lão lại như nhìn thấy mẹ lão đỡ lão đứng dậy ngày thơ dại. Mơ màng, lão đi vào luồng ánh sáng đó.

GIẢI THOÁT Hồi còn nhỏ, nhà tôi có nuôi một con mèo. Không biết làm sao mà lần ấy con mèo chỉ đẻ có một con. Tôi thích con mèo con lắm, liền xin mẹ tôi con mèo ấy. Mẹ tôi thấy tôi xin cũng ừ hử cho qua chuyện. Con mèo con cũng chẳng đẹp gì. Nó có màu rằn ri, có lẽ vì tôi hay ôm ấp nên nó lại còn bị còi cọt nữa. Khi nó lớn thêm một ít, mẹ nó không cho nó bú nữa. Nhà tôi đông con nên ngồi ăn cơm dưới đất. Mỗi bữa cơm nó hay mon men quanh mâm cơm, chầu chực. Nó còn nhỏ nên chưa phân biệt được chén cơm của mèo và mâm cơm của người; không ăn cơm trong chén mà cứ lao đầu vào mâm cơm nhà đang ăn. Mấy ông anh lớn nhà tôi lúc đầu còn gạt nhẹ nó ra, tôi cũng cố đẩy nó gần chén cơm của nó, nhưng hình như mâm cơm hấp dẫn hơn nên nó cứ léo nhéo chạy vào. Những 32 Viết&Đọc Đặc San 2017

lúc bực quá, ông anh lớn cầm nó liệng thẳng ra sân, con mèo kêu ré lên đau đớn. Tôi nhìn con mèo mà rơm rớm nước mắt, miệng nhai cơm mà nghẹn nuốt không trôi. Khi rảnh rỗi tôi hay ôm nó vào lòng, cái cảm giác sở hữu, nó của riêng tôi, cộng thêm tôi hay rủ rỉ nói chuyện với nó... tôi như rờ thấy được sợi giây liên hệ giữa nó và tôi. Tôi tưởng tượng nó sẽ lớn lên, sẽ cùng tôi chia sẻ những giây phút vui buồn. Con mèo hình như có bệnh gì, nó ăn mà không ngon miệng. Nó lại không được bú mẹ nữa nên sau 1, 2 tháng nó lại càng hom hem hơn. Tôi như thấy rõ, mỗi lần bị liệng ra sân, nó gượng dậy nặng nhọc hơn, rồi dũng khí ”lao vào mâm cơm” cũng yếu hơn. Tôi ”thần giao cách cảm” một điều gì không lành sắp đến với nó. Mấy ngày sau thì con mèo chết. Tôi ôm nó vào lòng. Cái xác cứng ngắc, gầy, và lạnh. Lần đầu tiên trong đời, một đứa bé 7, 8 tuổi cảm nhận được cái cảm giác sinh tử, biệt ly. Tôi chôn cái xác mèo mà khóc rưng rức. Bất lực vì đã không còn làm gì được nữa, ân hận vì đã không bảo vệ được cho nó, những lúc nó bị liệng ra sân. Hàng tháng sau mà tôi không sao quên được nó, ngày nào cũng leo lên gác nhà ngồi khóc một mình, cảm thấy mình bất lực hơn, cảm thấy lòng ân hận hơn. Sau lần đó, tim tôi cũng rạn nứt thêm. Tôi luôn thích những con thú nhỏ. Nhìn những con gà con mới nở, những con heo con mới đẻ... có một cái gì đó như tinh khiết, như sự khởi đầu của sự sống. Nhà thằng bạn trong xóm mới đào một cái ao, ở nơi đất cao nên ao phải lót một lớp bạt nhựa để giữ nước. Mỗi ngày qua nhà nó chơi, chẳng hiểu nhà nó đào ao làm gì, nhưng tôi vẫn thích ngồi coi gia đình nó hì hục làm việc. Khi ao đào xong, nước đổ đầy rồi thì má thằng bạn mua về 100 con vịt, nhìn đàn vịt con lúc nhúc ăn dưới ao, lòng con trẻ vui lâng lâng, tôi mơ ước nhà tôi cũng có được một cái ao như thế. Rồi ngày nào tôi cũng qua coi vịt, những con vịt mới nở được ít ngày, lông vàng óng như tơ, những cái chân xinh, những cái mỏ đỏ hồng. Bà hàng xóm thấy tôi thích vịt như vậy liền nói: - Chúng mày mỗi đứa mua một con vịt, thả chung vào đàn, tao nuôi cho, khi nào vịt lớn, bán lấy tiền mua kem. Lòng tôi vui như mở hội, chạy vội về nhà, tìm trong heo được mấy ngàn, rồi cùng thằng bạn ra chợ, mua hai con vịt con về thả vào đàn. Giờ thì ngoài việc thích coi vịt, tôi còn có phần sở


hữu trong đám vịt con ấy nữa. Niềm vui tăng lên gấp đối. Ngày qua ngày, tôi thấy đàn vịt lớn thêm, nhờ cùng chung hai con vịt, tình bạn của chúng tôi cũng khắng khít hơn. Một hôm, mới sáng sớm, tôi lại chạy qua nhà hàng xóm, đàn vịt vẫn ồn ào dưới ao. 102 con vịt mụ mẫm. Thằng bạn cũng chạy ra chơi với tôi. Nhìn mặt nó rầu rầu, giọng nói nó cũng trầm hơn. Nó nói con vịt của tôi bị bệnh nên chết rồi. Tôi thấy mình như bị hụt hẫng, con vịt của tôi chết rồi sao? Trong 102 con vịt, sao nó biết là con của tôi chết? Mà ngày hôm qua tôi có thấy con nào có dáng bệnh đâu? Tôi cố dằn lòng, làm thinh, miệng lẩm bẩm đếm vịt, xem có còn đủ 102 con không. Nhưng chúng nó lao nhao, không sao đếm được. Lòng tôi buồn rười rượi. Thất vọng nhiều hơn, vì biết một đứa bạn mình quý mến đang lừa dối mình. Tôi thất thểu đi về nhà, cảm giác bâng khuâng khó hiểu. Những ngày sau đó, tôi còn qua nhà thằng bạn chơi thêm được mấy lần nữa, nhưng tình bạn không thể hàn gắn. Tôi sớm học thêm bài học về sự phản bội của bạn bè. Sau lần đó, tim tôi cũng rạn nứt thêm. Bôn ba ngoài đời khi tuổi còn đang măng sữa, giờ thì tôi đã lớn khôn. Đời đã cho tôi nhiều niềm vui, nhưng đời cũng cho tôi nhiều cay đắng. Có lẽ cay đắng nhiều hơn. Sau mỗi lần bị phản bội, tim tôi tan nát càng thêm nát tan hơn. Những nỗi đau, lan ra trong từng thớ thịt, theo máu, về óc não, quay về tim, rồi lại lan ra trong từng thớ thịt, những nỗi đau đó như đã trở thành một phần của cuộc đời tôi. Tôi rong chơi trong những nỗi đau đó. Sau này tim tôi không còn rung động như trước được nữa, cuộc đời đã làm cho nó luôn ở trong một trạng thái bình thường khó tả, buồn vui luôn ở trong mức độ. Tôi ngỡ ngàng như mình đã đạt được một trạng thái giải thoát trong tu hành, vào đời nhưng không bị chuyện đời ảnh hưởng. Trong cái vô cùng của thời gian, tôi thấy mọi chuyện trong cuộc đời tôi đều vô thường: tình cảm, sống chết, tiền bạc, danh vọng... tất cả đều vô thường, không ý nghĩa. Tôi đã được giải thoát hay đang rơi vào một trạng thái của bệnh tâm thần? Nguyễn Tiến Thành

Mơ Tôi đang mơ, Obama, ông đang thang lang nơi đường phố Trên quê hương tôi, Ngang qua những cụ già còng lưng bên gánh hàng rong ven đường Tôi mơ ông chạnh lòng Và dừng bước ngồi xuống cạnh bên Tôi đang mơ Ông nhìn những huy hoàng nhưng không bỏ sót những con đường nhỏ chông chênh em bé chân không, oằn vai đôi thùng nước nặng trĩu tương lai, không dám tìm mơ ước Cúi mặt nhìn, chân khô mốc vết chai. Tôi đang mơ Ông, sau những đón chào rượu bia có một không hai Cũng quá bước đến những nhà tù tăm tối, gõ song sắt, giang rộng tay ôm lấy những người ”bị cho là phạm tội” chỉ bởi vì đã yêu quá non sông. Tôi mơ thấy ông tự tay mình gỡ những xiềng xích, cùm gông và rạng rỡ nụ cười ngày gặp mặt... Ôi, giấc mơ ngày mà mộng mị biết bao. Oslo 22/05/2016 (Nhân chuyến đến VN của tổng thống Obama) Nguyệt Minh Viết&Đọc Đặc San 2017 33


Truyện thật ngắn

CÓ PHẢI CÒN YÊU?

Cơn mưa kéo dài. Cô đứng trên một vỉa hè, nước mưa chảy dài trên chiếc áo khoác của cô. Cô không muốn về nhà, cô ghét anh ta vô cùng và cô cũng ghét bản thân mình. Tại sao tôi luôn như thế này? Tại sao tôi tức giận về mọi thứ? Cô suy nghĩ. Cô ngồi xuống nơi vỉa hè, mặc dù vỉa hè đang ẩm ướt và có lẽ cô sẽ bị cảm lạnh. Nhưng cô vẫn muốn ngồi ở đây bây giờ. Cô nhắm mắt lại và ngã đầu ra phía sau, nước mưa rơi trên khuôn mặt của cô. Cô suy nghĩ: “Tôi đã quá mỏi mệt và chỉ đêm nay thôi, tôi có đủ can đảm để giải thích với anh ta bằng một giọng bình tĩnh rằng tôi ghét anh, tôi muốn chia tay với anh.” Nhưng bây giờ cô đang ngồi bên lề đường, trong cơn mưa lạnh giá, cô đang nghĩ đến một người đàn ông đã làm ảnh hưởng cuộc sống của cô rất nhiều. Bất chợt cô bật khóc, và ngay lập tức cô giận cho bản thân mình. Tại sao cô không thực hiện được, đây là lần cuối cùng mà cô muốn làm. Cô đã tuyệt vọng và rất tuyệt vọng. Đột nhiên cô nghe thấy có ai đó mở cửa và đóng sầm cánh cửa lại. Cô nhận ra anh đi từ xa, mặc dù trời tối và mưa. Bước đi của anh trong một dáng điệu đặc biệt đã cuốn hút cô. Làm thế nào 34 Viết&Đọc Đặc San 2017

Minh Hồng

mà bước chân của anh trong mưa vẫn bình tĩnh, ôn hòa như thế? Anh đi đến và ngồi xuống đối diện với cô, anh nhìn cô một lúc. Sau đó anh mỉm cười rất vô tư, anh không thể thấy rằng cô đang ghét anh. Cô đã khó khăn lắm để chiến đấu với bản thân mình để chuẩn bị nói lời chia tay với anh, nhưng tại sao anh không nhìn thấy. Có lẽ anh nghĩ rằng mọi thứ sẽ tốt đẹp. Cô hít một hơi thật sâu và nhắm mắt lại: “Hãy can đảm để nói lời chia tay.” Cô suy nghĩ. Bất chợt anh cười và nâng cằm của cô lên và hôn cô. Anh đã chuyền hơi ấm để xoa tan cái lạnh trong cô, cô cảm thấy ấm áp và an toàn. Tại sao thế? Anh rất bình tĩnh ôm cô và thì thầm bên tai cô. Tất cả mọi giận dỗi trong đầu của cô dần dần biến mất. Điều anh làm hiệu lực như vậy sao? Cô thầm nghĩ. Cô lắng nghe hơi thở của mình và của anh và tâm hồn cô đang ở trong trạng thái đồng bộ hóa. Bằng cách nào đó cô đã nhìn thấy lập luận của mình là vô lý. Anh dìu cô đứng lên, họ bước đi chung với nhau trong cơn mưa. Có lẽ mọi thứ sẽ tốt đẹp trở lại, cô nhắm mắt, lắng nghe hơi thở của mình. Và cô biết ơn người đàn ông đã đưa cô về nhà một lần nữa.


THỜI GIAN LÀ GÌ?

Khi bạn hỏi: “Thời gian là gì?” Trong tâm trí của chúng ta nảy ra ý niệm của năm, tháng, ngày, giờ, phút và giây. Và nếu bạn hỏi: “Thời gian đếm ngược như thế nào?” Chắc chắn chúng ta sẽ nghĩ ngay đến đồng hồ và lịch. Nhưng thực tế nó không phải là đồng hồ treo trên tường, mà đây là chiếc đồng hồ ở bên trong trái tim của chúng ta, và nó đếm được nhịp tim. Và đây cũng là một tấm lịch mà không ghi lại ngày giờ làm việc trong tuần hoặc mỗi ngày. Mà là những ngày, tháng, năm, chúng ta đã trải qua, làm gì, đi đâu và ở đâu? Nếu chúng ta không tạo ra được những gì được gọi là ý nghĩa và giá trị… Sẽ là hư không và quên lãng. Không có sự khởi đầu sẽ không có tương lai. Chúng ta hãy làm điều tốt đẹp và hãy cẩn thận đi qua, để không bao giờ trở lại từ đầu. Thời gian cho mỗi người chúng ta là khác nhau và mỗi người chúng ta nên chịu trách nhiệm cho chính mình. Những gì chúng ta có thể làm để sử dụng hoặc để lãng phí… Điều này nó phụ thuộc vào hành động của mình và cách thức mà mình bước đi… Nếu trái tim của chúng ta là một tờ giấy trắng và trong tay của chúng ta là một cây bút. Chúng ta sẽ viết những gì? Có lẽ chúng ta sẽ cố gắng viết lên điều tốt đẹp để lại trong trái tim phải không? Nhưng đôi khi chúng ta cũng viết nhầm, chúng ta xóa nó đi và viết thêm một lần nữa. Nhưng làm thế nào chúng ta có thể viết sai và xóa đi xóa lại nhiều lần? Mỗi người chúng ta đều biết rằng chà xóa nhiều lần là khả năng phá vỡ tờ giấy. Chúng ta phải biết trái tim có những điều mà khó có thể xóa… Hãy tưởng tượng, khi chúng ta ra chợ mua một bông hoa xinh đẹp. Lá của nó rất mỏng manh và tinh tế, hoa có màu sắc rực rỡ và mang lại một hương vị tuyệt vời…Chúng ta sẵn sàng cắm hoa vào bình và đặt nó ở một nơi tốt đẹp trong nhà của mình và để tận hưởng nó. Nhưng sau một tuần, bông hoa bắt đầu phai nhạt. Nó không còn xinh đẹp và đầy đủ như trước nữa. Cánh hoa mỏng manh và tinh tế đã bắt đầu trở thành thô lỗ và thậm chí cuống hoa bị hôi thối, hương sắc tuyệt vời không còn nữa. Cuộc sống là ngắn ngủi, vì vậy chúng ta không thể sống buông thả ngày qua ngày với cuộc sống của mình, mà hãy nên gieo trồng những hạt giống tốt. Để kết quả gặt hái lấp đầy trái tim với niềm vui đích thực và đầy đủ ý nghĩa.

BAO GIỜ TRỜI MƯA

Nơi bên khe đá, có hai bông hoa xinh đẹp mọc bên cạnh nhau. Mỗi ngày thức dậy, cả hai bông hoa nhìn nhau và trao cho nhau những nụ cười rạng rỡ, ấm áp. Thời gian trôi qua với những ngày thật đep, hai bông hoa trò chuyện với nhau từ sáng đến chiều tối. Nhưng đến một ngày nọ, họ đối xử ích kỷ với nhau. Tình bạn ấm áp đã bị tan vỡ. Họ trách móc nhau và tránh mặt nhau. Thời gian nắng hạn đã trôi qua. Một hôm cơn mưa rơi xuống nơi khe đá, các bông hoa vui mừng chờ đợi cơn mưa đến, để làm dịu cơn khát của họ và vươn mình đứng lên trong cuộc sống. Ngày hôm sau, hai nhân vật bông hoa xinh đẹp này đã được xoa dịu cơn bực tức. Họ quay lại nhìn nhau, hai bông hoa chuyện trò vui vẻ với nhau. Vài ngày trôi qua, trời vẫn không mưa, hai bông hoa bắt đầu tuyệt vọng, bi quan đang bao phủ tâm hồn của họ. Hai bông hoa nói chuyện với nhau bằng một giọng buồn bã: -Bây giờ tôi hết hy vọng, mưa không đến với chúng ta, cái chết đang chờ đợi chúng ta. -Vâng, và bạn là người duy nhất, tôi sẽ nhớ bạn. -Cho đến cuối cùng của cuộc sống tôi sẽ theo bạn, chúng ta mãi mãi là bạn thân. Sau đó hai bông hoa nhìn nhau đầy thương yêu và bắt đầu khóc. Đột nhiên họ cảm thấy thân thể mát dịu. Họ cảm thấy lớn mạnh nhiều hơn trước. Những giọt nước mắt đã tạo thành sông, giọt nước của cuộc sống đã thúc đẩy và dần dần cơn khát đã biến mất. Họ vui mừng vì họ đã phát hiện ra, dù mưa chưa đến, nhưng họ đã có nước mắt để đạt cho bông hoa của mình lớn mạnh. Họ không còn chờ đợi phép lạ, vì phép lạ đã có sẵn bên trong tâm hồn của họ.

Minh Hồng

Viết&Đọc Đặc San 2017 35


Thơ Cung Vĩnh Viễn.

Có mùa thu đầm ấm trái chín ở trên cành chim chóc vui tiếng hót gió mơn cánh lá vàng, Có mùa đông trắng xóa vui bên bếp lửa hồng môi tươi và má thắm ly rượu đỏ thêm nồng. Nhưng tứ thời bát tiết và ở khắp mọi nơi luôn luôn tôi đều thấy bao nhiêu những nghĩa đời. Bao nhiêu là cảnh ngộ những kiếp người triền miên trong lầm than thương khó trong tủi nhục oan khiên.

NGÓN TAY PHẬT CHỈ Theo ngón tay Phật chỉ tôi cất bước lên đường nhớ lời kinh đã dậy chư Phật ở mười phương. Trên con đường xa ấy có mùa xuân nồng nàn cỏ hoa khoe sắc thắm lòng người cũng chứa chan. Có mùa hè rực rỡ đất trời cùng mang mang biển xanh mầu bát ngát tình thơm trong nắng vàng. 36 Viết&Đọc Đặc San 2017

Ở trong vòng sinh diệt vạn vật cũng luân hồi khổ đau hay hạnh phúc tự cái tâm mình thôi. Thân ta là giả có kiếp sống cũng vô thường theo ngón tay Phật chỉ thấy con đường tình thương.

HÀNH THA HƯƠNG Nhớ xưa Nguyễn Bính từ quê Bắc bỏ xứ vô Nam đã thấm buồn nức nở những bài than thế sự thương nhà thương chị đến thương thân mỗi độ xuân về đêm trừ tịch như động sâu vào nơi chấn thương


gác trọ canh trường chai rượu nhạt bạn tác biệt tăm gái bạc lòng tìm đâu ra kẻ còn tha thiết mà nói ân tình với thủy chung mê thơ Nguyễn Bính buồn quay quắt ta nối dài thêm khúc đoạn trường đã đành Nam Bắc xa xôi đấy đã thấm vào đâu cách đại dương đã thấm vào đâu bao mất mát của kẻ bôn đào biệt cố hương đồng đất nước người xa lạ quá sống mỏi mòn trong nợ áo cơm cái tìm vẫn chẳng bao giờ thấy cái thấy hình như chỉ não lòng ta gẫm đời ta thì cũng đáng tự mình treo lấy án chung thân rồi những mùa xuân nơi đất khách ta buồn hay Nguyễn Bính buồn hơn chỉ biết đôi lần ta bắt gặp giữa phố đông người sao thảm thương có kẻ chân đi không tới đất mặt mũi vêu vao gã Sở cuồng muốn đến làm quen mà bắt chuyện hóa ra là bóng ở trong gương ngắm cái thân tàn ma dại ấy chẳng dám trách ai đã bạc lòng mùa xuân đất khách không đào thắm cũng chẳng mai vàng để nhớ mong lòng cứ trơn như hòn đá cuội không về cũng chẳng có ai trông mà đi còn biết đi đâu nữa trời thì xa thẳm đất chưa dung.

GẶP BẠN BÈ XƯA Về đây những mái tóc sương về, tuy chẳng phải quê hương của mình mỗi người nặng một tâm tình mỗi người trải một hành trình biển dâu. Thôi thì trăm nhánh sông sầu nhớ nguồn nhớ cội tìm nhau hợp dòng thôi thì đừng kể đục trong tạm quên những nỗi long đong kiếp người. Tìm nhau, tìm lại cái thời tuổi thơ ánh mắt nụ cười hồn nhiên chuyện vui chơi chuyện sách đèn đời tươi những giấc mộng hiền đêm xuân.

Bây giờ nặng gánh thời gian trôi theo vận nước thăng trầm nổi trôi tuổi già lưu lạc quê người nghe mưa trông nắng bồi hồi lòng quê. Thôi thì khăn gói gió đưa về nơi bè bạn hẹn hò gặp nhau nhắc chi tới chuyện mai sau mây trôi bèo dạt về đâu thì về.

GỬI THEO BÙI BẢO TRÚC Như để thay cho tiếng giã từ đài trổi lên bài hát Viễn du đi cho thỏa mộng giang hồ nhỉ đâu ngỡ ông đi tít tít mù. Cái mộng giang hồ thời xanh tóc chẳng hay ông đã thỏa lòng chưa đi học đi làm nơi xứ lạ rồi tới lần đi đến mút mùa. Nương thân đất khách quê người đấy nhưng mà nghiệp dĩ chẳng buông tha trên đài Việt ngữ ông vang tiếng chữ nghĩa ông đem trải trải ra, Thư gửi bạn ta viết mỗi ngày chuyện kim chuyện cổ chuyện đông tây bao nhiêu những mảnh đời oan trái ông mượn làm câu chuyện giãi bày. Nhưng mà tâm sự còn u uẩn mỗi lần gặp gỡ ở cali nghe ông thổ lộ riêng tư để hiểu được là ông khác khác kìa. Ở cái nhà ga trạm cuối cùng nơi ông làm việc đã bao năm những người yêu thích ông đều nhớ giây phút mà ông chợt... ngập ngừng. Được tin ông bệnh đã từ lâu tuổi già nghe trước lại quên sau nay ông lên chuyến tầu đi suốt thôi chẳng bao giờ gặp lại nhau.

Viết&Đọc Đặc San 2017 37


Người đàn bà trên cầu Nitelva Phạm Tín An Ninh

Thực ra cây cầu không có tên, nhưng có lẽ vì nó bắc ngang qua đoạn quanh co và đẹp nhất của dòng sông Nitelva, nên người dân ở địa phương này thường gọi như thế. Đây là đoạn cuối cùng của một con sông lớn trước khi đổ ra biển. Sau khi các con đã trưởng thành và có cuộc sống riêng, vợ chồng tôi bán ngôi nhà rộng cũng nằm bên bờ sông này, nhưng ở tận vùng Fjerdingby xa xôi, về đây mua căn nhà nhỏ trong một khu apartment, nằm khá xa thành phố. Chỉ làm việc thêm một năm là đến tuổi về hưu. Sống trong vùng ngoại ô tĩnh mịch này, cả ngày không biết làm gì, ngoài cái thú đọc sách và đi bộ. Ở đây khá lâu rồi, nhưng lúc ấy còn phải đi làm, mùa hè thì bận bịu chuyện sửa sang nhà cửa, mùa đông thì chỉ nằm nhà hoặc bay sang Mỹ thăm con nhân dịp nghỉ lễ Phục Sinh, nên chúng tôi không biết gần bên nhà có một con đường đi bộ đẹp và thơ mộng đến như thế. Sau này, khi đã về hưu, nhờ ông bà láng giềng người bản xứ giới thiệu và rủ đi bộ, chúng tôi mới biết. Con đường tráng nhựa đen bóng, lớn như những tỉnh lộ trong vùng, nhưng đặc biệt chỉ dành riêng cho người đi bách bộ. Chạy quanh co xuyên qua cánh rừng đầy những loại hoa dọc theo bờ sông Nitelva, đến khúc sông đẹp nhất, là một chiếc cầu đúc bắc qua để tiếp tục đến một khu rừng khác, nhưng bây giờ là cánh rừng thông với những hàng cây cao, thẳng tắp, che kín cả mặt trời. Chúng tôi khởi sự đi bộ vào đầu mùa hè, bởi 38 Viết&Đọc Đặc San 2017

mùa đông con đường và cả khu rừng ngập đầy tuyết, dòng sông đóng cứng băng, chẳng ai có hứng thú. Chúng tôi thường đi vào buổi chiều tàn, vắng người. Mùa hè Bắc Âu trời tối muộn. Có những hôm, đến 12 giờ đêm mà vẫn còn chói chang ánh nắng mặt trời. Hôm đầu tiên và suốt cả tuần sau đó, khi đến giữa cây cầu, chúng tôi thấy một người đàn bà Á châu. Không biết bà đã đến đây từ lúc nào, nhưng khi vừa bước lên cầu chúng tôi đã thấy bà đứng bất động bên thành cầu nhìn đăm đăm xuống dòng sông, như không hề để ý đến mọi điều chung quanh. Muốn chào, hỏi thăm bà đôi câu, nhưng không dám, ngại làm mất đi cái không khí yên tĩnh riêng tư của bà. Mãi một hôm, trên đường trở về, khi đến gần đầu cầu, trời đang nắng bỗng đổ xuống một cơn mưa rào, chúng tôi chạy vào trú mưa dưới một tàn cây khá lớn, bất ngờ gặp bà đứng sẵn ở đó. Bà gật đầu chào và kéo bà xã tôi đứng sát bên bà để tránh mưa tạt. Rất vui khi biết bà là người đồng hương, đến định cư ở nước Bắc Âu xa xôi này từ khá lâu, năm 1979. Nhìn mái tóc bạc, tôi đoán bà cao tuổi hơn mình. Trông bà hiền lành, nói năng từ tốn, thỉnh thoảng nở nụ cười, nhưng khó tìm được nét vui nào, bởi đôi mắt thật buồn. Và không ngờ cơn mưa rào hôm ấy đã đưa chúng tôi trở thành những người bạn già đồng hương sống đời lưu lạc. Bà cho biết, bởi hoàn cảnh đặc biệt, nên hơn hai mươi năm nay, từ khi dọn về sống ở vùng này, bà


không quen biết ai. Bà muốn sống yên lặng một mình trong căn nhà nhỏ, riêng tư với những nỗi niềm quá lớn của mình. -Tôi vẫn muốn giữ lấy quá khứ buồn bã cho riêng mình, cứ sợ chia sẻ với người khác thì mình sẽ chẳng còn lại cái gì hết. Lần đầu tiên, khi đến thăm chúng tôi bà tâm tình như thế. Tôi nói như để an ủi bà: -Người ta thường nói lời phân ưu, chia buồn. Nhưng thực ra cũng chỉ là một cách an ủi thôi. Chứ làm sao có thể chia sớt được nỗi buồn của người khác. Tuy nhiên, khi nói ra cũng là cách để làm nhẹ bớt những gì cứ đè nặng trong lòng mình đi chị ạ. Sau đó bà thường đến chơi và càng lúc càng thân tình với vợ chồng tôi. Bả bảo thấy rất hợp với chúng tôi, vì có cùng những hoàn cảnh, hoạn nạn, và giờ thì đang cùng ”sống ở cuối trời quên lãng” tận xứ Bắc Âu này. Sau lần vợ chồng tôi gật đầu trước đề nghị khi bà muốn được kết nghĩa chị em, bà ôm chầm lấy chúng tôi nước mắt sụt sùi, bảo là bà chỉ có một cô con gái, nhưng phải sống ở trong Trung Tâm dành cho người bị bệnh tâm thần, mất trí nhớ. Trung Tâm này khá lớn nằm trong khu vực chúng tôi đang ở. Chúng tôi đã từng đi qua lại rất nhiều lần, nhưng không biết đó là một trung tâm như thế. Chiều hôm sau, chúng tôi cùng đi bộ theo bà đến thăm cô con gái. Không ngờ đây là một cơ sở rất qui mô, có nhiều bác sĩ đảm trách. Cứ một bác sĩ phụ trách mười bệnh nhân, và mỗi bệnh nhân có riêng một y tá trực tiếp săn sóc, dẫn dắt đi chơi, mỗi năm có hai lần đi du lịch nước ngoài tùy theo hoàn cảnh, xuất xứ của mỗi người. Cô bé trông khá xinh, nhưng đôi mắt thất thường. Có khi đang thật buồn, bất ngờ trở nên giận dữ. Dường như đôi lúc vẫn còn nhận ra mẹ, nên sau vài phút xa lạ, lại ôm vai và vuốt tóc mẹ. Khi mới đến, cả bà và vợ chồng tôi đã được dặn dò, bất cứ tình huống nào cũng luôn nở nụ cười. Có khi cô bé cũng cười với chúng tôi, nhưng bất chợt sa sầm nét mặt. Tôi nhìn thấy bà cười, nhưng có dòng lệ ứa ra từ khóe mắt. Trên đường về, thấy bà trầm ngâm, chúng tôi tìm cách đi sau bà, tôn trọng sự yên lặng và những suy nghĩ trong đầu bà. Đã có hẹn trước, chúng tôi mời bà về nhà dùng cơm tối với chúng tôi. Biết sở thích của bà, bà xã tôi đã cuốn sẵn chả giò, về nhà chỉ chiên lên là xong. Tối hôm ấy, bà ở lại với chúng tôi, và ngồi kể lại

cuộc đời mình. Bà cho biết đây là lần đầu và cũng là lần duy nhất bà kể những điều này, bởi bà xem chúng tôi như người thân trong nhà, và có thể sau này có đôi điều cần thiết phải nhờ đến chúng tôi. Trước ngày mất nước, chồng bà là thiếu tá Pháo Binh thuộc Quân Đoàn I. Ông là bạn học cùng lớp với ông anh cả của bà. Hai người làm đám cưới ở Nam Định, lúc bà vừa đúng 18 tuổi. Sau đó theo về sống cùng nhà chồng, ở thành phố Hải Phòng. Nhưng chỉ mấy tháng sau thì xảy ra chuyện Hiệp Định Genève, chia đôi đất nước, bà theo gia đình chồng xuống tàu há mồm di cư vào Nam, trong lúc cả gia đình của bà vẫn còn kẹt lại. Ngoài cha mẹ, bà chỉ có một người anh duy nhất, là bạn cùng học ở Hà nội với ông chồng. Vào miền Nam, chỉ có một lần duy nhất bà nhận được tấm bưu thiếp của gia đình với đôi dòng vắn tắt, rồi bặt tin luôn. Nuốt bao đau đớn vào lòng, bà cố quên đi nỗi buồn chia ly, để cùng gia đình chồng tìm kế sinh nhai trên vùng đất mới, giúp chồng tiếp tục con đường học vấn dở dang. Sau ba năm đại học, ông đi dạy toán ở một vài trường trung học tư thục để lo cho gia đình. Khi ấy ông bà cũng vừa có đứa con trai đầu lòng. Mấy năm sau, do tình hình chiến tranh ngày một leo thang, ông theo lệnh gọi nhập ngủ vào Trường Sĩ Quan Thủ Đức. Sau đó được chọn theo học Ngành Pháo Binh. Ra trường, ông lần lượt chuyển về phục vụ tại các đơn vị Pháo Binh của các Sư Đoàn Thuộc Vùng 3, rồi Vùng 2. Khi thăng cấp Thiếu Tá, đang làm Tiểu Đoàn Phó, ông được chọn sang Mỹ học một khóa chuyên môn. Về nước, được bổ nhiệm về Trường Pháo Binh Dục Mỹ để đảm trách huấn luyện. Năm 1971, tình hình chiến sự Vùng 1 trở nên quyết liệt, sau những thiệt hại nặng nề trong cuộc hành quân Hạ Lào Lam Sơn 719, ông được chọn bổ sung cho Pháo Binh Quân Đoàn I. Bà và ba đứa con di chuyển theo ông, thuê căn nhà nhỏ ở thành phố Đà Nẵng. Bà lo việc học hành cho mấy đứa nhỏ, ông ở đơn vị, mỗi tuần một đôi lần về thăm. Có khi bận hành quân cả tháng mới về được một lần rồi vội vã ra đi. Đầu tháng ba 75, thấy tình hình có nhiều dấu hiệu bất lợi, ông thu xếp cho vợ và ba đứa con về lại Sài Gòn, tá túc tạm thời với gia đình người em, một sĩ quan Hải quân, đang làm việc ở Hải Quân Công Xưởng. Hôm đưa ra phi cơ, ông ôm bà và hai đứa con thật chặc, không muốn rời nhau. Không ai ngờ đó lại là dấu hiệu của chia ly. Ngày 11.3 Ban Mê Thuột thất thủ. Cuộc di tản từ Pleiku theo tỉnh lộ 7 B đã kết thúc số phận của các Viết&Đọc Đặc San 2017 39


đơn vị thuộc Quân Đoàn II, từng tạo nên những chiến công hiển hách, đặc biệt đã đánh tan mấy Sư đoàn Cộng quân của Mặt Trận B3, để giữ vững Kontum và Tây Nguyên trong suốt mùa hè khói lửa 1972. Rồi tiếp theo là lệnh bỏ Quân Đoàn I của vị tướng lừng danh Ngô Quang Trưởng. Không mấy ai tin là ông sẽ bỏ vùng đất địa đầu từng thắm đẫm máu đào của hàng vạn sinh linh, đồng đội, một thời trấn giữ, giành lại từng tất đất, để dựng cờ trên Cổ Thành Quảng Trị. Vậy mà cuối cùng đã bỏ, bỏ thật. Mọi người, từ quân tới dân đều bàng hoàng, hụt hẫng. Kế hoạch di tản và sự phối hợp, chỉ huy tồi tệ của một số tướng lãnh, đã tạo nên một cuộc bại trận đớn đau bi phẫn nhất trong lịch sử chiến tranh. Một cuộc lui quân đẫm máu trên bờ biển Thuận An, mà có những người lính gọi đó là pháp trường cát. Một vùng biển máu ngập những xác người, cả dân và đủ mọi sắc lính. Một quân đoàn với ba sư đoàn bộ binh thiện chiến, nhiều Liên Đoàn Biệt Động Quân dạn dày lửa đạn, những Thiết Đoàn Kỵ Binh với hỏa lực hùng mạnh, hai Lữ Đoàn TQLC của một đơn vị Tổng Trừ Bị vang danh, từng tạo những chiến tích lẫy lừng ở các trận chiến Mậu Thân, Quảng Trị, giờ phải lâm vào bước đường cùng, không còn lối thoát, không còn đạn để có thể chiến đấu. Nhiều người tự sát trong tiếng cười ngạo nghễ, nhiều người bị giết khi vừa bắn đi viên đạn cuối cùng, và tất cả số còn lại bị bắt bởi những tên du kích! Chồng bà là một trong hàng vạn người lính bất hạnh ấy. Vị thiếu tá Pháo Binh đã phải phá hủy hết các khẩu pháo, từng bao nhiêu năm sống chết với mình, để chỉ tự vệ bằng cây súng cá nhân M16, rồi cuối cùng cũng phải vất đi để chiến đấu với sóng biển, với số phận, khi tìm cách bơi ra những chiến hạm Hải Quân lắc lư xa tít ngoài khơi, dưới xích sắt của những chiến xa M113 cũng lội sóng đi tìm sinh lộ. Ở Sài Gòn, mỗi ngày bà ra bến Bạch Đằng hỏi tin tức chồng mình, nhờ người em Hải quân liên lạc các chiến hạm công tác tại Vùng I. Nhưng tất cả đều không thể cho bà một tin tức nào cụ thể. Trong cái mất mát quá lớn và khủng khiếp ấy, cá nhân một ông thiếu tá, chồng bà, trở nên vô cùng nhỏ nhoi hơn bất cứ lúc nào. Cuối cùng thì Cộng quân cũng vào đến Sài Gòn. Người Mỹ có lệnh phải ra đi. Những người làm việc cho Mỹ hoặc có liên quan đến họ bắt đầu được ưu tiên di tản khỏi Việt nam bằng phi cơ. Tướng Lê Minh Đảo chỉ huy Sư Đoàn 18 BB của ông cùng các lực lượng Thiết Giáp, Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Địa Phương Quân tăng phái, đã 40 Viết&Đọc Đặc San 2017

chiến đấu thật dũng mãnh, kiêu hùng, ngăn chặn hằng mấy quân đoàn địch tràn vào Long Khánh, làm cả thế giới ngạc nhiên, thán phục. Nhưng cũng chỉ cầm chân được hơn một tuần. Địch quân tránh đụng độ, mở đường sang hướng Biên Hòa để bao vây, uy hiếp Sài Gòn. Tối ngày 29.4, người em chồng từ Hải Quân Công Xưởng mang xe về nhà đón vợ con xuống tàu. Anh thúc hối bà và ba đứa con theo ông di tản. Nhưng bà nhất quyết cùng con ở lại chờ chồng. Miền Nam mất vào tay Cộng Sản đã hơn một tháng, chồng bà vẫn biệt tăm. Bà nghĩ chắc ông đã bị bắt, lặn lội ra Đà Nẵng tìm. Vào các trại tù nhốt những sĩ quan miền Nam hỏi thăm, nhưng không ai biết chồng bà. Bà tìm đến nhà anh tài xế cũ, nhờ đưa bà đi thăm một số đồng đội của chồng. Cuối cùng, một anh trung sĩ, người lính thân cận của ông, cho biết là ông đã chết trên biển. Chính anh cùng bơi ra với ông, và nhìn thấy ông bị thương do pháo kích của địch, rồi chìm xuống biển, nhưng anh không thể nào cứu được, bởi lúc ấy, anh cũng không nghĩ là mình có thể sống sót. Bà nhờ anh trung sĩ đưa bà ra bờ biển và chỉ nơi nào ngoài khơi mà ông đã ra đi. Nhìn những cánh hải âu lượn lờ trên mặt nước, tưởng như hóa thân của chồng mình, bà quỳ xuống khóc nức nở. Cuộc đổi đời đã dìm bà và cả ba đứa con xuống vực thẳm. Nhà người em bị tịch thu, kẻ chiến thắng đuổi mẹ con bà không chỉ ra khỏi nhà mà ra khỏi cả Sài Gòn. Bà dắt con chạy lên Long Khánh tá túc nhà một người bạn thân có vườn cây ăn trái, rồi mua lại một căn nhà tranh bên cạnh để sống qua ngày. Nhờ người bạn giúp, bà theo buôn bán trái cây. Cả ba đứa con phải nghỉ học, ở nhà khai khẩn thêm đất hoang, làm vườn, trồng khoai, trồng sắn. Lo âu khốn khổ chất chồng, bà không còn biết đến thời gian. Mấy năm sau, nhờ những thùng quà của người em chồng từ Mỹ gởi về, mẹ con bà có được chút vốn làm ăn, cậu con trai lớn tập tành buôn bán thuốc tây. Bớt khổ một chút. Nhưng đùng một cái, khi cậu con trai đầu lòng này vừa tròn 22 tuổi, thì trận chiến biên giới với Campuchia bùng nổ, Trung Cộng đòi dạy cho Việt nam một bài học. Thằng bé bị bắt “thi hành nghĩa vụ quân sự”. Bà phản đối, nêu lý do nó là con của “ngụy” sao các ông tin mà cho vào ”Quân Đội Nhân Dân”. Nhưng họ vẫn nhất quyết cưỡng bách, bảo là đáng lẽ phải đi cả hai anh em, như vậy là nhân đạo lắm rồi. Cũng có thể thằng bé


phải thế chỗ cho một thằng nào có tiền bạc chạy chọt hoặc quen biết bà con với đám chính quyền. Năn nỉ xin xỏ không được, bà khóc hết nước mắt tiễn con đi, làm lính cho kẻ thù. Bà đau lòng lắm, chỉ cầu mong Trời Phật và vong linh chồng bà phù hộ cho nó. Nhưng chỉ ba tháng sau, bà nhận giấy báo, đứa con trai đầu lòng của bà đã trở thành liệt sĩ! Không biết xác thân nằm ở nơi nào. Người ta chỉ mang đến cho bà tấm bằng Tổ Quốc Ghi Công. Họ vừa ra khỏi nhà, bà xé nát rồi cho vào bếp lửa. Trong ngôi nhà tranh bé nhỏ giờ có hai cái bàn thờ, leo lét ánh đèn dầu. Giữa năm 1979, muốn cướp tài sản của những người gốc Hoa, Cộng Sản bày ra chương trình ”Ra đi bán chính thức”. Nhờ người em chồng ở Mỹ, liên lạc được một người lính thuộc cấp thân cận cũ gốc người Hoa Chợ Lớn, nhờ ứng vàng và lo lót cho công an, làm giấy tờ giả cho ba mẹ con bà ra đi. Ông sẽ hoàn tiền lại khi họ đến Mỹ. Chiếc thuyền mới đóng, lớn và chắc chắn, nhưng mới ra khơi hai ngày thì hỏng máy. Hai người thợ máy đi theo lại chẳng biết gì về máy tàu, nên cuối cùng chiếc thuyền như thả trôi giữa biển mênh mông, mang theo số mạng của hơn hai trăm người. Tất cả chỉ còn cầu nguyện để mong có một chiếc tàu nào cứu thoát. Nhưng bao nhiêu lời cầu xin vẫn chưa làm động lòng Trời. Chiếc thuyền trôi dạt trên hai mươi ngày, lương thực đã cạn, và vì do không điều khiển được nên bị sóng đánh, nhiều lúc như muốn chìm. Nước tràn vào trong khoang. Mặc dù không còn sức, nhưng tất cả đàn ông đều được gọi lên trên mạn thuyền để thay nhau tát nước. Một số tháo những thanh gỗ trên đài chỉ huy, thu góp tối đa áo quần, chăn mền mang theo, đốt lên tạo thành cột khói để làm dấu hiệu cấp cứu. Con thuyền nghiêng ngả, những đợt sóng lớn đánh vào mạn thuyền, kéo theo một số người xuống biển khơi. Sinh mạng con người lúc này thật nhỏ nhoi. Ai cũng nghĩ rồi sẽ đến lượt mình. Khi tàu sắp chìm, thì Thượng Đế xuất hiện. Một chiếc tàu chở dầu của Vương quốc Na Uy đã cứu họ. Thủy thủ đoàn trên tàu rất nhân đạo, tận tình cứu vớt. Họ thi nhau dùng dây đu xuống chiếc thuyền bị nạn, ưu tiên cõng theo con nít và đàn bà, và giúp những người đàn ông cố bám theo chiếc thang lưới, leo lên tàu. Ngay trên sàn tàu, họ sắp xếp đàn ông vào một khu, đàn bà một khu khác, rồi dùng vòi nước ngọt ”tưới” lên những người bị nạn để giúp họ tỉnh táo lại, và phát quần áo mới để thay. Sau khi hoàn hồn, không tìm thấy cậu con trai,

bà và cô con gái chia nhau đi tìm nhưng không ai biết. Cả anh lính Hải quân đã giúp mẹ con bà cũng mất tích. Bà và cô con gái ôm nhau khóc nức nở, đòi nhảy xuống biển. Vị thuyền trưởng người Na Uy biết chuyện nên lệnh cho cô bác sĩ đưa mẹ con bà vào phòng y tế săn sóc và bảo đảm sự an toàn. Bà bảo, nếu không nghĩ đến cô con gái út, bà đã nhảy xuống biển. Đến định cư ở Na Uy, một đất nước giàu có và đầy lòng nhân đạo, bà và cô con gái được ưu tiên sắp xếp cho định cư ngay tại thủ đô Oslo. Mẹ con được cấp một căn nhà mới khang trang, hai phòng ngủ có đầy đủ tiện nghi. Cô con gái được theo học một trường Gymnas (trung học đệ nhị cấp) sau một khóa học ngôn ngữ Na Uy dành cho người ngoại quốc. Bà cũng được theo học tại một trường Voksengymnas (trung học dành cho người lớn). Hằng tháng, với số tiền trợ cấp đặc biệt, hai mẹ con không những sống đầy đủ mà còn dành dụm trả dần cho vợ người lính Hải quân tiền tương ứng với số vàng mà người em chồng của bà đã hứa với người thuộc cấp cũ. Người lính ân nhân này cũng đã chết trên biển cùng với đứa con trai của bà. Cuộc sống tưởng chừng yên ả, sau khi những đau thương mất mát tạm lắng xuống, thì cô con gái trở nên kỳ lạ, thất thường sau những cơn ác mộng. Ở nhà, ban ngày chỉ đóng cửa nằm suốt trong phòng, ban đêm thức giấc la hét thất thanh. Bà phải đưa con tới trường, nhưng nhiều hôm cô bé la hét và vất tung sách vở chạy ra ngoài. Được đưa vào bệnh viện tâm thần chữa trị, nhưng không thuyên giảm. Bệnh tình ngày càng trầm trọng, mất dần trí nhớ. Thấy cô bé không còn làm chủ được mình, có thể nguy hại đến bản thân và cho người khác, Hội đồng Y khoa quyết định đưa vào một trung tâm đặc biệt dành chữa trị lâu dài. Bà không chịu, khóc lóc xin cho cô con gái được sống ở nhà, bà sẽ tự chăm sóc cho con, nhưng mọi người đều khuyên bà nên để cho cháu vào sống ở Trung tâm, để có thể chữa trị và giúp bà tự lo được cho mình. Hơn nữa, mỗi tuần Trung Tâm sẽ sắp xếp cho bà hai lần vào thăm và ở lại với con khoảng ba tiếng đồng hồ. Đúng vào lúc này bà lại nhận thêm một tin buồn. Người em chồng vừa qua đời ở Mỹ do một tai nạn giao thông. Bà không thể sang dự tang lễ được. Trung Tâm đặc biệt này nằm trong khu vực chúng tôi đang ở. Bà thì đã dọn về đây từ lâu rồi, sau ngày cô con gái được đưa vào sống ở đây. Từ ngày thân tình, bà luôn đi bộ với chúng Viết&Đọc Đặc San 2017 41


tôi mỗi ngày trên con đường dọc theo bờ sông Nitelva. Nhưng khi đến giữa cầu bà dừng lại, đứng ở đó, chờ chúng tôi trở lại, sẽ cùng về với nhau. Điều đặc biệt, thành chiếc cầu này là một tấm lưới bằng sắt sơn màu xám, trên đó có treo rất nhiều ổ khóa, cả mấy trăm chiếc. Có những cái nằm riêng một mình, có những cái khóa chung vào với hai, ba cái khác. Trên nhiều ổ khóa có khắc tên hai người, một số có tên nhiều người. Đã mấy lần, vợ chồng tôi tò mò, đứng lại xem và đọc vài cái tên trên ấy. Chỉ toàn tên người bản xứ, Nauy. Tôi nghĩ có lẽ đây là nơi hẹn hò, thề non hẹn biển của những cặp tình nhân. Buổi chiều, sau ngày đến thăm cô con gái và ở lại nhà chúng tôi, khi cùng thả bộ tới giữa cầu, bà dắt tay chúng tôi đến một chiếc ổ khóa lớn, nằm riêng rẻ trên tấm lưới thành cầu. Cái khóa đồng, có khắc đậm năm cái tên. Mặt trước là tên của vợ chồng bà, mặt sau là tên của ba đứa con. Cũng lần đầu tiên, bà giải thích vì sao bà thường đứng một mình giữa thành cầu. Vì cứ mỗi lần nhìn xuống dòng sông phía dưới, bà đều nhìn thấy hiện lên khuôn mặt của chồng bà và hai đứa con trai. Trong gợn sóng, bà vẫn thấy họ mỉm cười với bà. Chính điều này đã giúp bà có nghị lực để sống tới hôm nay. Mỗi năm, bà làm giỗ chung cho ba cha con vào giữa tháng ba, vì họ đều mất trong cùng tháng ba. Tháng ba, Bắc Âu đang mùa Đông, trời rất lạnh. Khoảng thời gian này, vợ chồng tôi lại thường sang Mỹ thăm ba cô con gái, và cũng để trốn lạnh. Nhưng năm nay, chúng tôi ở lại Na Uy, theo mong muốn của bà. Ước nguyện của bà là sau kỳ giỗ này bà theo chúng tôi sang Tây Ban Nha, sống trên đảo nào đó vài hôm, để bà có thể mỗi ngày ngồi trước biển, nhìn ra đại dương xa xăm, hy vọng sẽ thấy được quê hương và hình ảnh chồng và hai đứa con trai. Bà nghĩ như thế. Trong ngày giỗ, bà khẩn khoản nhờ chúng tôi, trước khi trao một tờ giấy ủy quyền, để khi bà qua đời, thân xác được thiêu, và chúng tôi sẽ mang tro cốt rải xuống dòng sông Nitelva, nơi mà bà thường đứng trên cầu, mỗi buổi chiều hè, nhìn xuống đó. Bà cũng dặn dò, nhờ chúng tôi bỏ hết mấy tấm ảnh của gia đình, chồng và các con vào quan tài để cùng thiêu với bà. Bà đi với vợ chồng tôi sang Mallorca, một hòn đảo du lịch nổi tiếng của Tây Ban Nha và ở đây hai tuần. Bà bắt buộc chúng tôi phải để cho bà bao trọn chuyến du lịch này. Theo ước muốn của bà, mỗi ngày sau khi ăn điểm tâm xong, vợ chồng tôi 42 Viết&Đọc Đặc San 2017

đưa bà ra biển, nơi có mô đất cao, được làm thành một vườn hoa rất đẹp. Bà ngồi trên ghế đá có dù che, nhìn ra một vùng biển trời mênh mông trước mặt. Không biết bà có nhìn thấy được chồng con và quê hương ở phía cuối chân trời? Chúng tôi ngại, không dám hỏi bà. Sau chuyến đi khoảng ba tháng, bà bị bệnh. Chúng tôi đến thăm. Bà than mệt, thỉnh thoảng lên cơn ho. Tôi nghĩ bà chỉ cảm nhẹ, hoặc mùa này nhiều người bị dị ứng phấn hoa, nên đi mua thuốc cho bà. Khi mang cốc nước đến cho bà uống thuốc, tôi vỗ vai, an ủi: - Bà chị đã trên 80 rồi, tất nhiên sức khỏe có yếu đi, hay mệt, hoặc có thể bị dị ứng phấn hoa, chứ chẳng có chuyện gì đâu” Bà xã tôi dọn dẹp nhà cửa, nấu cơm, làm ít món ăn bà thích, và dặn dò bà phải nghỉ ngơi, không được làm việc gì, nhà cửa, cơm nước để chúng tôi lo. Không ngờ bệnh tình ngày một nặng hơn. Chúng tôi đưa bà vào bệnh viện. Sau khi khám và làm xét nghiệm, bác sĩ cho biết trong phổi bà có nước, và có cả vi khuẩn. Tình trạng khá nguy hiểm. Hơn một tuần sau bà mất. Là người thân duy nhất được bà ghi vào hồ sơ, chúng tôi được bệnh viện báo tin. Với tờ ủy quyền, chúng tôi nhận đứng ra lo việc an táng cho bà. Tôi đến Trung Tâm Tâm Thần, nơi cô con gái của bà ở, báo tin cho Bác sĩ Giám Đốc, và yêu cầu vào ngày tang lễ, xin Trung Tâm đưa cô con gái đến dự và chịu tang cho mẹ, theo truyền thống Việt nam Đám tang tổ chức ngay tại nhà quàn bệnh viện. Ngoài vợ chồng tôi, chỉ có cô con gái của bà và hai người của Trung Tâm Tâm Thần. Tôi cũng mời một vị sư đến niệm kinh cho bà. Cô con gái ăn mặc đúng phong cách, một bộ vest đen mới toanh, theo sự hướng dẫn của cô ý tá, cùng chúng tôi quỳ xuống trước linh cữu của bà. Không biết cô gái có biết điều gì đang xảy ra hay không? Chỉ im lặng cúi đầu. Khi vị sư choàng chiếc khăn tang vào đầu, cô đưa tay giật xuống. Không biết cô ý tá nói nhỏ với cô điều gì, rồi lấy chiếc khăn tang quấn lại trên đầu. Lần này cô bé yên lặng, chống hai tay cúi xuống. Đúng một trăm ngày, theo ước nguyện của bà, cũng là đầu tháng bảy, mùa hè, chúng tôi mang tro của bà ra rải giữa dòng sông, dưới chiếc cầu Nitelva, cùng lúc với những cánh hoa hồng trắng được bỏ xuống. Loại hoa bà thường cắm trên bàn thờ chồng và hai đứa con trai của bà. Hôm ấy trời đang thật đẹp, bỗng bất chợt một cơn mưa rào.


Mùa hè ở đây thường như thế. Vợ chồng tôi vội vàng chạy vào dưới tàn cây ở phía đầu cầu trú mưa, nơi mà lần đầu tiên chúng tôi đã thực sự gặp bà, để rồi sau đó trở thành thân thiết. Chiều hôm sau, khi đi bách bộ, tôi mang theo chai Jip, chùi sạch và đánh bóng lại ổ khóa của bà treo trên thành cầu, lấp lánh năm cái tên được khắc sâu trên ấy. Nước mắt tôi bỗng trào ra, khi nhớ tới bà và câu chuyện đau thương của gia đình bà. Cả một gia đình đều là nạn nhân của Cộng sản. Một chế độ man rợ đã gây nên biết bao chia lìa tang tóc cho đồng bào và hủy hoại cả quê hương đất nước. Và đó cũng chỉ là một trong muôn vàn thảm cảnh sau ngày CS cưỡng chiếm miền Nam, xích xiềng cả nước. Từ hôm ấy, cứ mỗi lần đi bộ, chúng tôi đều dừng lại giữa cây cầu Nitelva này khoảng vài phút, đứng yên lặng bên thành cầu, tưởng niệm vợ chồng và hai đứa con trai bất hạnh của bà. Bệnh viện cũng đã trao lại cho chúng tôi những di vật của bà. Trong đó ngoài hai thẻ ngân hàng và mấy tấm ảnh còn có lá thư ngắn viết cho vợ chồng tôi và tờ di chúc viết bằng tiếng Việt. Bà nhờ tôi dịch ra tiếng Na Uy hai bản, nhờ bệnh viện chứng nhận. Một bản trao lại cho kommune (văn phòng thị xã), một bản cho Trung Tâm Tâm Thần. Trong đó bà quyết định, tất cả tài sản, căn nhà và tiền bạc trong ngân hàng, bà xin hiến tặng cho Trung Tâm, nơi nuôi nấng chăm sóc con gái của bà. Bà chỉ có một yêu cầu, khi nào con gái bà qua đời, xin cho thiêu xác và rải tro xuống dòng sông, giữa cầu Nitelva, để cháu được đoàn tụ với bố mẹ và hai anh, khi theo dòng sông chảy ra biển và cùng nhau trôi dạt về lại quê nhà.

Phạm Tín An Ninh

Thơ Dương Kiền

Già Buổi sáng xem hoa nở, Buổi chiều chờ trăng lên, Cứ sống không vội vã, Tuổi già, tuổi bình yên. Đừng nghĩ bệnh, không bệnh, Đừng nghĩ già, không già, Trẻ mọc răng quấy khóc, Ta rụng răng, cười khà. Buổi sáng chào ngày mới, Chiều, giã từ ưu phiền, Tối, ngủ mơ như trẻ, Tuổi già, tuổi thần tiên. (2012)

Bảy mươi Bảy mươi kể cũng chưa già, Hẳn không trẻ nữa, chẳng ra quái gì. Thơ một bài, rượu mấy li, Cái chi chi cũng chi chi với đời. Có khi ngất ngưởng câu cười, Bỗng khi nước mắt chợt rơi bất ngờ. Thì thôi cũng sống cho vừa, Không dài không ngắn, không thừa thiếu ai.

(2009) Viết&Đọc Đặc San 2017 43


Tục lệ thi chim đầu xuân Hoài Mỹ

Nhân dịp tết Nguyên Đán Bính Thân vừa rồi, tôi tạm xếp lại mọi chuyện đời, mọi việc thường nhật mà về thăm làng nước theo lời trăn trối cách nay hơn chục năm của Bố tôi. Theo lệnh dậy của đấng sinh thành, tuyệt đối tôi không được “gậm cỏ non” ở bất cứ gò đống nào và dọc đường cũng không được “dừng bước giang hồ” để giải khát “bia ôm” hay nghỉ ngơi trên “cà phê võng”... nhưng phải giữ linh hồn và thân xác cho trong sạch mà về thẳng quê quán để viếng mộ Tổ. Bởi tôi là chắt đích tôn của cụ Tổ. Cứ theo lời kể của Bố, tôi chọn đúng ngày đầu tháng Giêng, tức Mồng Một Tết mà “vinh quy bái tổ”, bởi chẳng những đang ở thượng đỉnh của “tháng Giêng là tháng ăn chơi” mà trọng yếu hơn cả là vào dịp này - đúng Mồng Ba Tết - làng tôi có một tục lệ cổ truyền lâu đời tốt đẹp: Thi Chim. Thật tình tôi chưa được một lần trải nghiệm trong cuộc đời mà chỉ nghe kể rằng cụ Tổ dòng họ tôi nổi tiếng về chim. Nói cách khác, chim của cụ Tổ đã từng chiếm chức vô địch trong nhiều năm. Vì quá nổi tiếng về chim mà cụ Tổ có tới “năm thê bẩy thiếp”. Tôi tò mò hỏi chim của cụ Tổ nhờ đâu mà nổi tiếng hơn sóng cồn như thế, 44 Viết&Đọc Đặc San 2017

Bố tôi để lộ ra ngay vẻ hãnh diện, mô tả một cách sinh động như thể chim cụ Tổ đang ở trước mặt khiến người nghe (là tôi) có cảm tưởng tay mình có thể sờ được chim cụ. Giọng say sưa của Bố tôi: - Chim cụ Tổ bao giờ cũng to nhất giữa bày chim được đem ra đọ sức. Lông chim của cụ đen nhánh. Đầu chim thoạt nhìn đã thấy khiếp, lúc nào cũng chúi chúi về phía trước giống như thể muốn phá chuồng mà chui ra. Ấy cũng nhờ một tay cụ Tổ bà chăm sóc chim cụ Tổ ông. Khéo lại dịu dàng nên cụ bà bảo chim cụ ông làm gì nó cũng theo, bảo ngổng đầu, nó ngổng; ra hiệu xẹp đi, nó từ từ nằm xuống. Vậy mà cụ ông vẫn không cho cụ bà vuốt ve chim mình nhiều lần trong ngày, nói làm thế nó quen hơi nên phần nhiều cụ ông tự mình vuốt ve chim mình. Chẳng thế mà lúc thi, chim cụ Tổ làm được nhiều trò trong khi chim của các cụ khác cứ như không hồn, nhìn yếu thấy rõ, nằm xụi lơ...” Vâng, tên làng tôi là Hoàng Nguyên, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nam Ninh), cách Hà Nội khoảng 35 cây số. Như trên đã nói, tôi về tới nơi chôn nhau cắt rốn của... bố tôi vào ngày thứ hai tháng Giêng, đúng dịp thi


chim hàng năm. Tôi may mắn mang theo cái Ipad thứ xịn (các con tôi tặng tôi nhân ngày tôi “thất thập cố lai hy”) nên tôi đã thâu hình và âm thanh toàn bộ cuộc thi chim này mà nay tôi có thể tường thuật trung thực với quí độc giả. Tôi dự tính sẽ đưa “phim” này lên mạng YouTube, biết đâu “mèo mù vớ cá rán” mà được cả hàng triệu người chiếu cố, chẳng những nổi tiếng như siêu diễn viên nhờ chim mà còn vớ được tí tiền còm như thể chim nuôi mình, giống như trường hợp nam danh ca PSY (Jae-sang Park) của Nam Hàn với điệu nhẩy ngựa “Gangnam Style”. Quang cảnh ngày thi chim ở làng tôi hôm đó không khác gì ngày Chị Em Thúy Kiều trẩy hội. Trời nắng nhẹ, quang đãng, thời tiết ấm áp như thể “ngày xuân con én đưa thoi; thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” - chỉ khác chút đỉnh, hội Đạp Thanh trong Đoạn Trường Tân Thanh (còn gọi là truyện Kiều) của thi hào Nguyễn Du “đã ngoài sáu mươi”, tức là đã qua 2 tháng của 90 ngày, tức 3 tháng của mùa Xuân. Trong khi hội thi chim tại làng tôi lại rơi đúng vào một trong những ngày đầu tháng Giêng. Dân chúng ở làng tôi đã đông mà từ các thôn lân cận tuôn sang cũng nhiều; dường như ai cũng diện đẹp, nên càng giống cảnh “dập dìu tài tử, giai nhân; ngựa xe như nước, áo quần như nêm; ngổn ngang gò đống kéo lên...”, nghĩa là khán giả dĩ nhiên không leo lên gò và các mô đất nhưng cùng trải dài về phía khán đài. Tiếng của MC: “Chương trình sắp sửa bắt đầu. Yêu cầu những người thi chim thì xếp hàng ở phía bên tay phải tôi, còn những ai không có chim thì đứng phía trước”. Thế nhưng đám đông nào chịu nghe khiến MC phải nhắc lại: “Xin ưu tiên nhường chỗ cho người thi chim. Quí bà, quí cô không có chim, làm ơn vui lòng ngồi vào ghế để quí ông có chim được phô chim ra thoải mái mà không bị che”. Vậy mà một số khán giả vẫn cứ đứng sát các lồng chim; tay chỉ chỏ; miệng phê bình: Tôi thấy chim của ông Bõng to nhất đấy, lại nhìn khỏe, năm nay thể nào cũng thắng. Người khác cãi: - To nhưng lông không mượt đều, lại hình như có sợi bạc làm chim mất cứng. Một giọng nói nữa nổi lên: - Nhìn chim cụ Trùm kìa. Dáng ngổ ngáo, cái mỏ lại đỏ ửng. Úi giời ơi, tha hồ là đẹp. Thể nào cũng ôm giải. Bỗng có tiếng như reo lên: “Ơ kìa, ai như mụ

Đuống thế kia? Mụ cũng được thi à?”. Có lời giải thích ngay: - Luật không phân biệt đàn ông, đàn bà. Bất cứ ai có chim đều được mang ra thi. Nhưng nghe đâu mụ ấy mượn chim lão Nghiện xóm Thượng, đem đi thi đấy. Người bên cạnh trĩu môi: - Chim mới chiếc thế kia mà đòi lọt vào mắt các cụ Giám Khảo. Chim gì mà cổ cứ rụt vào như đầu rùa. Chân lại không có cựa, lấy gì làm oai. Có gí gạo thóc vào tận mỏ, nó cũng không ngóc đầu nổi mà mổ.... Nhiều lồng chim được người chủ phủ vải lên chứ không để chim lộ ra. Hỏi ra mới biết, phần chim sợ nơi đông người, mất sinh khí; phần được che đi, chim không hót, đỡ phí sức. Hèn chi cố nhân đã dạy: “Chim khôn thì khôn cả lông; khôn cả cái lồng, người xách cũng khôn”. Tôi để ý hai phụ nữ sồn sồn đứng gần. Một bà hỏi thăm: - Năm nay ông nhà không thi chim à? Bà kia thở dài: - Có mỗi con chim lại bị liệt, lấy chim đâu nữa mà thi với cử - Sao thế, bà chị? - Ấy, cũng một phần tại tôi. Số là hôm ấy ông nhà tôi có việc ra thành phố, giao chim của ông ấy cho tôi quản lý. Sáng vẫn thấy chim ông ấy nhìn tôi mà hót. Tôi đùa đưa mồm tôi vào giữa hai cái then lồng, vậy mà nó cũng biết chĩa đầu ra như thể muốn tôi hôn. Đến gần trưa, tôi mải cho đàn lợn ăn, không còn để ý chim của ông ấy. Xong việc lên nhà mới thấy chân bên phải chim bị mắc vào cái then cửa lồng. Không biết từ bao giờ, nhưng khi gỡ ra thì chim ông ấy đã bị liệt. Tôi cố xoa, cố bóp, làm đủ mọi cách mà chim ông ấy cũng vẫn cứ đờ ra. Chiều tối ông nhà tôi về, thấy chim mình bị nạn, ông ấy chẳng còn thiết cơm cháo gì nữa... Giờ thì con chim nhà tôi vẫn liệt, chẳng bù cho xưa, nay cứ rũ xuống. Tôi phải động viên mãi ông nhà tôi mới tạm nguôi, định ra giêng tìm con chim khác thay thế...” Tới giờ thi, tiếng MC lại vang lên trong mi-cờ-rô: “Yêu cầu đồng bào giữ yên lặng, tránh làm chim sợ và để ban Giám Khảo dễ dàng làm việc. Bây giờ thì xin các chủ chim lấy hết vải phủ lồng ra để mọi người được thấy chim. Và, xin hãy làm theo tôi đếm: Một, hai, ba, đưa chim ra! - Nào, một, hai, ba, giơ chim cao lên!”. Dưới ánh nắng đã lên khá cao, khán giả nhìn rõ từng con chim. Trong khi chủ chim vẫn nâng lồng lên khỏi đầu với vẻ mặt tuy trang nghiêm nhưng không giấu nổi những nét căng thẳng lẫn hãnh Viết&Đọc Đặc San 2017 45


diện về chim của mình. MC: “Kính mời ban Giám Khảo bắt đầu làm phận sự của mình!”. Khoảng 5, 6 người ở chạc tuổi cao niên, mặc áo dài, khăn đóng, đến từng chiếc lồng, quan sát chim, ghi ghi chép chép. Tiếng nhạc điệu quân hành hòa trong âm thanh reo hò của đám đông, tạo nên bầu khí hỗn loạn. MC dường như cũng muốn “ăn thua đủ”, không ngừng nâng cao giọng hét hơn nữa để giới thiệu từng con chim-thí-sinh; nào: “Đây là chim bác Dần, một niềm hy vọng của xóm Hạ!”, nào: “Ban Giám Khảo đang quan sát chim bà Đuống, một ‘sự cố’ có một không hai trong dòng thác cách mạng thi chim của làng ta!”; nào: “Đến chim của ông Sộp, con chim được đánh giá là trẻ nhất nhưng không vì thế thua kém đàn anh, trái lại xem ra chim này có nhiều khí thế xông pha, đúng thứ ‘hàng hiệu’ của nhân dân ta: ‘Chim khôn kêu tiếng rảnh rang’, khác chi ‘người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe’, phải vậy không khán thính giả?”. Rồi MC rống lên thật sự: - A, đây là một sự cố vĩ đại: Một con cu! Vâng, cu của cụ Nhộng! Nhưng thưa đồng bào, ban Giám Khảo đang thảo luận, trường hợp này có hợp lệ không? Chúng ta hãy chờ đợi quyết định của ban Giám Khảo... Quí vị ấy đều gật đầu cả. Có thế chứ, dù sao cu cũng là chim, mà chim cũng là cu, tuy hai mà là một! Chẳng thế mà ca dao nước ta đã có câu: “Cu kêu 3 tiếng cu kêu; kêu mau đến Tết dựng nêu ăn chè”. Nhưng liệu cu cụ Nhộng có hạ nổi các chim khác không? Xin đồng bào gắng chờ đợi câu trả lời. Ở đời luôn luôn có sự bất ngờ. Vậy trong khi chờ đợi, xin khán thính giả hãy dành một tràng pháo tay thật to và thật rộn ràng cho cu cụ Nhộng! Chẳng những vỗ tay hết cỡ mà đám đông còn rộng lượng tặng luôn những câu reo hò vượt quá chỉ tiêu nồng nhiệt: “Hoan hô cu cụ Nhộng!” Và: “Cu cụ Nhộng vạn tuế! Và nữa: “Cu cụ Nhộng vĩ đại! Không đầy một tiếng sau, cuộc chấm thi kết thúc. Tới mục ăn uống miễn phí gồm sắn luộc, ngô nướng. Các quán bán quà lấy tiền thì có bánh đa, kẹo kéo, lòng lợn chấm mắm tôm và thịt chó, dựa mận... Nước uống có cả nước trà, nước vối, nước mía lau, nước ngọt hàng nội và có cả rượu trắng (đế). Vui không tả nổi. Vui hơn nữa là trai gái “lí le” nhau, đúng là “thương nhau nên phải đi tìm; nhớ nhau một lúc như chim lạc đàn”... Dĩ nhiên không thiếu cảnh “nước đục thả câu” nên càng... vui hơn nữa. Tới giờ ban Giám Khảo tuyên bố kết quả. Ông 46 Viết&Đọc Đặc San 2017

đại diện nói dài dòng về ý nghĩa cuộc thi, chúc tụng sự phấn đấu của các chủ chim, ca ngợi tinh thần (!) của tất cả chim-thí-sinh, tiện thể khen lấy khen để tính tích cực của khán thính giả. Sau cùng: - Tôi xin thay mặt toàn ban Giám Khảo tuyên bố chim chiếm giải nhất: Chim ông Sáu! - chim chiếm hạng nhì: Chim ông Chửa! - và chiếm hạng ba: Cu ông Nhộng!” Vỗ tay. Bàn tán. Nhất trí. Phản đối. Thôi thì đủ thứ phản ứng Chủ chim xách chim lên lãnh giải thưởng, gồm bằng tưởng lệ, xấp tiền mặt và ít thức ăn đặc biệt dành cho chim. Vấn đề chính yếu chính là niềm kiêu hãnh, không chỉ cho cá nhân người chủ chim thắng giải mà cho cả gia tộc. Bỗng dưng tôi nhớ cụ Tổ của dòng họ tôi rồi buột miệng ứng khẩu hát: “Như có con chim trong ngày vui đại thắng!” Tôi theo chân nhiều người đến chiêm ngưỡng chim ông Sáu, con chim vừa chiếm giải quán quân. Khách quan nhận xét, chim này quả xứng đáng: Dáng cường tráng, đầu to, cẳng cao với cựa sắc, lông lá rậm rạp. Và không hổ danh vô địch, chim ông Sáu không ngán trước đông người, vẫn cất tiếng lanh lảnh hót: Cúc cu! Cúc cu! Có người đứng gần đó, vội thông dịch: “Chim đòi đạp mái đấy!”. Trước ngày trở về “quê hương thứ hai” là Na Uy, một đất nước đẹp thì có đẹp nhưng lạnh lẽo mà vào thời điểm này lại bị phủ đầy tuyết, khiến chim chóc bay di cư đến các vùng nắng ấm xa xôi khác; chim nào chậm chân, à quên chậm cánh phải ở lại thì co ro cúm rúm, nhìn chán lắm, ngứa cả mắt... tôi ghé lại thăm mộ cụ Tổ lần nữa như để chào biệt. Trên tấm bia mộ, tên tuổi cùng ngày và nơi sinh, tạ thế của cụ Tổ đã phần nào phai mờ theo thời gian đúng như lới tiên tri: “Trăm năm bia đá thì mòn”, nhưng hình khắc chim cụ Tổ thì dường như ngược lại, nay càng sắc nét hơn: Một con chim bự thật bự; đầu ngổng lên như thách đố nắng mưa; những lớp lông xù lên như vừa lâm trận. Tôi thầm thĩ: “Xin cụ Tổ cho con một con chim giống của cụ. Con nguyện sẽ trở về làng mình đây để giở lại trang sử chim chiến thắng mà cụ đã dầy công xây dựng. Con xin chào cụ Tổ, tạm biệt chim cụ Tổ và xin hẹn tái ngộ!” Hoài Mỹ


Ông nói: GÀ! Bà nói: VỊT!

Cổ Ngư

Trước khi việc chăn nuôi được công nghiệp hóa, từ đông sang tây, gà và vịt luôn chiếm điạ vị chúa tể trong sân gia cầm. Bên cạnh bọn gà tây, gà sao, ngan, ngỗng, bồ câu... mờ nhạt, hình ảnh chàng gà trống oai phong lẫm liệt, mẹ gà cần cù và bầy con lông vàng ươm như tơ chiêm chiếp quẩn quanh, hay mấy mợ vịt xếp hàng một ồn ào như chợ vỡ tiến thẳng ra ao... vẫn là những hình ảnh khó quên, đã in đậm dấu trong trí nhớ con người từ thời thơ ấu, trong truyền thuyết, trong cả văn chương bình dân lẫn văn chương bác học. Vì vậy, không mấy ngạc nhiên khi thấy gà vịt xuất hiện đầy dẫy trong truyện tranh và phim hoạt họa, với đầy đủ các tính khí của loài vật, lại được nhân cách hóa cho thêm phần gần gũi với những cô cậu bé con loài người. Vậy thì, nào, mời tất cả cùng ghé thăm sân gia cầm. Viếng ổ gà trước, thăm chuồng vịt sau! Con gà cục tác lá chanh... Trước khi trở thành món thịt luộc vàng lựng hay miếng McNuggets bao bột thơm ngậy, con gà phải chui ra từ quả trứng. Ðến đây, nhiều người lại nghĩ ngay về câu hỏi triết học nổi tiếng: Con gà có trước quả trứng hay quả trứng có trước con gà? Không biết có phải vì muốn trả lời cho câu hỏi trên, mà hai anh em Nino và Toni Pagot đã cùng với Ignacio Colnaghi tạo ra chú gà đen Calimero với chiếc mũ không rời đầu, chính là một nửa vỏ trứng trắng. Xuất hiện lần đầu tiên năm 1963, trong mục quảng cáo cho hiệu bột giặt Ava của

Ý, đến thập niên 70 của thế kỷ 20, chú gà con Calimero nhảy thẳng từ truyện tranh sang phim hoạt họa và chiếm được lòng thương yêu của trẻ con Ý và Pháp. Các bộ phim ngắn được tiếp tục sản xuất cho đến tận năm 1995, thuật lại những cuộc phiêu lưu của Calimero cùng các bạn hoàng anh Priscilla, đôi chim Valeriano-Rosella, anh vịt xanh Piero và cô vịt cận Susy. Bước vào thế kỷ 21, Calimero rời phim hoạt họa phẳng để một lần nữa nhảy sang không gian ba chiều với loạt phim truyền hình chiếu đều đặn mỗi sáng trên đài TF1 của Pháp những năm gần đây. Ngoài Calimero, ở Âu châu, ít ai biết đến Kieku và Kaiku, hai chú gà Phần Lan (Asmo Alho vẽ và Mika Waltari viết kịch bản) dù tuổi thọ của cặp gà này cũng khá đáng kể (1932-1975). Ở Pháp, mặc dù con gà gô-loa thường được xem là biểu tượng quốc gia, nhưng hình như không có một họa sĩ truyện tranh hay phim hoạt họa nào lưu ý đến điều này cả. Tìm mãi, mới thấy trong đám gia súc, gia cầm của anh em Sylvain, Sylveste (họa sĩ J. L. Pesch & Maurice Cuvillier) cô gà mái Poulette. Phải chờ đến tận năm 2000, họ nhà gà trời Âu mới đến giờ đăng quang trong bộ phim Chicken Run (Gà chẩu). Aardman Studio của hai tác giả Anh Peter Lord, Nick Park đã hợp tác với hãng DreamWorks của đạo diễn Spielberg (Hoa Kỳ) để cùng dựng bộ phim hài hước này. Các nhân vật không thoát Viết&Đọc Đặc San 2017 47


thai từ nét chì ngọn cọ mà đều được làm bằng bột nặn (pâte à modeler): chàng gà cồ Mẽo – tài tử xiếc Rocky Rod, nàng mái tơ Ginger, lão gà cụ Poulard từng có mặt trong phi đội hoàng gia Royal Air Force, mợ mái dầu Bernadette, cô gà ù thơ ngây Babette, chị gà kỹ sư Macbec, vợ chồng chủ trại Tweedy, chuột Nick và Pat... Nàng Ginger, với sự tiếp tay bất đắc dĩ của Rocky, tìm đủ mọi cách để đưa đàn gà thoát khỏi sự tàn sát của vợ chồng chủ trại Tweedy, đã nhiều dịp gây cho khán giả những trận cười thoải mái. Cũng nói thêm một chút, chàng Rocky đã được tài tử gạo cội Mel Gibson lồng giọng trong nguyên bản tiếng Anh và ngôi sao Gérard Depardieu cho mượn tiếng trong bản Pháp ngữ, đủ cho thấy cái «oai» của anh gà trống này. Ở bên kia bờ Ðại Tây Dương, hình như con gà được các họa sĩ phim hoạt họa chú ý nhiều hơn so với cựu lục điạ, bằng chứng là anh trống trắng Charlie, từ lâu đã là một trong những ngôi sao của vòm trời Looney Tunes-Warner Bros. Bên cạnh Charlie lúc nào cũng dương dương tự đắc như... gà trống, còn có mợ Prissy tình lụy, chú gà con mọt sách Egghead Jr. và một lô một lốc kẻ thù của Charlie: vịt đen Daffy, chó Barnyard Dawg, mèo Sylvestre, diều hâu con Henry... Tất cả, dưới nét bút của Chuck Jones & Robert McKimson, đã tạo nên những bộ phim ngắn có phong thái đặc biệt, khác hẳn các bộ phim của hãng Disney. Trong hàng trăm nhân vật hoạt họa do nhóm Looney Tunes tác tạo (các họa sĩ Friz Freleng, Chuck Jones, Bob Clampett, Robert McKimson, Tex Avery...), có thể kể thêm chú trống choai Rattled Rooster, khá mờ nhạt so với Charlie.

Cũng cần nhắc đến ở đây, Chanteclerc còn là tên một bộ phim mà hãng Disney dự định sản xuất, dựa theo một truyện ngụ ngôn của Âu châu. Tuy nhiên, dự án này, vì nhiều lý do, đã không thể thực hiện được. Cũng vì lẽ đó, mà cho đến cuối thế kỷ 20, hãng Disney vẫn chưa có một «siêu sao gà» nào cả! Nhìn vào các bộ phim hoạt họa dài ngắn của hãng Disney, người ta cũng thấy gà xuất hiện đây đó, khi mờ khi tỏ. Sớm nhất, có lẽ là gà mẹ và đàn con trong phim Mẹ gà khôn ngoan (1934). Ðây là một phim luân lý, đúng với tinh thần của câu tục ngữ Việt Nam «tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ». Mẹ gà và đàn con chăm chỉ, trồng bắp để ăn, trong khi hai anh hàng xóm lười biếng, ham chơi, heo Peter và vịt Donald, lúc nào cũng chỉ chực chờ để xin được ăn món bắp luộc thơm phức. Oái oăm thay, sau khi bộ phim ra đời, mẹ gà, bầy con và cả heo Peter không gây được nhiều ấn tượng nơi người xem và chìm vào quên lãng, trong khi Donald dần dần nổi tiếng, trở thành «siêu sao» và leo lên vị trí thứ hai của các VIP trong hãng Disney, chỉ thua có mỗi chú chuột Mickey mà thôi! Năm 1934, Walt Disney cũng tạo ra nàng gà-ca sĩ opéra Clara (phim Giúp trẻ mồ côi) với thân hình đồ sộ của các diva và chiếc mũ to đùng trên đầu. Sau đó, Clara còn có dịp xuất hiện trên sân khấu, hát song ca với Donald, đánh bạn với bò cái Clarabelle, cô vịt Daisy hoặc nàng chuột Minnie trong một số phim ngắn hoặc truyện tranh. Nhưng, kém may mắn hơn các bạn cùng trang lứa, Clara được ít người nhắc đến, dù cho đến tận những năm gần đây, vẫn thấp thoáng có mặt trong các bộ phim Bài hát mừng Giáng Sinh của Mickey (1983, dựa theo truyện của Charles Dickens) hoặc Ai muốn bắt chú thỏ Roger? (1988).

Họa sĩ Tex Avery, trong khi đầu quân cho hãng Metro-Goldwyn-Mayer (MGM) đã trình làng bộ phim ngắn Chú gà quê (1936). Ba nhân vật chính: gà rù Lem, gà mái nhẹ dạ Daisy, gà ô Charles với đủ mánh khóe để lòe mắt gái tơ, đã đưa khán giả đến những bất ngờ lý thú của cuộc tình một nàng hai chàng. Ngoài ra, năm 1990, mười năm trước khi bộ phim Chicken Run ra mắt khán giả, họa sĩ Don Bluth, tác giả của các bộ phim hoạt họa nổi tiếng Chuột Fievel ở vùng viễn tây, Công chúa Anastasia và Ðất tiền sử đã tung ra thị trường bộ phim vẽ Rock-O-Rico / Rock-A-Double với nhân vật chính là chàng gà-ca sĩ nhạc rock Chanteclerc. Ở Pháp, Chanteclerc được ca sĩ nổi tiếng Eddy Mitchell lồng tiếng. Bộ phim, tuy vậy, lại không được sự chú ý đặc biệt của cả người lớn lẫn trẻ em.

Ngoài ra, những cuộc tình tay ba hay cuộc bể dâu trong sân gà vịt cũng đã được hãng Disney đưa lên màn ảnh trong hai bộ phim ngắn Cock o’ the Walk (1935) và Chú gà giò (1943). Bộ phim đầu kể về chuyện chàng gà ô Cock o’ the Walk, vô địch thế giới về môn quyền anh, vênh vang áo gấm về làng. Nàng gà trắng Prunella, trong một phút yếu lòng, đã quên bạn tình là anh gà mờ Hick Rooster để ngả vào vòng tay người hùng Cock. Thế là có thượng võ đài. Chẳng may cho chàng gà macho, tình yêu gọi sức mạnh, anh lẻo khoẻo Hick Rooster hạ knock-out ngay đối thủ, giành lại được trái tim nàng Prunella, lại lời thêm chức vô địch quyền anh nữa! Bộ phim thứ nhì dựa theo một câu truyện phổ thông của Mỹ, với nhân vật chính là chú gà giò ngốc nghếch suốt ngày chỉ biết chơi yo-yo, giữa một sân gia cầm

48 Viết&Đọc Đặc San 2017


nhộn nhịp, yên vui. Ở đó có ngài trống đỏ Cocky Locky, bà mái nạ dòng Henny Penny, nhóm gà tây trưởng giả, đứng đầu là Turkey Lurkey, hai chàng lưu linh: Vịt Ducky Lucky và ngỗng Goosey Poosey... Cả bọn không biết con cáo quỷ quyệt Foxy Loxey đang đứng ngoài nhỏ dãi thèm thuồng, bày mưu tính kế. Sau đó, xôn xao vì tin đồn thổi do cáo già tung ra, địa vị ngài trống đỏ trong sân gà vịt bị lung lay. Lợi dụng tình thế, thêm lời xúi dại của cáo Foxy Loxey, gà giò khờ khạo đứng lên làm cách mạng, đòi giữ vị trí lãnh đạo. Cuối cùng, vị lãnh đạo mới này đã lùa tất cả vào hang cáo để ẩn nấp, vì chắc mẩm: Trời sắp sập đến nơi! Kết cuộc thế nào, ai cũng có thể đoán được! Một bộ phim ngắn khác: Hiền mẫu Pluto (1936) kể câu chuyện về chú chó Pluto, vì vô tình, lọt vào ổ gà đúng lúc gà mái đi vắng, đàn con lại vừa chui ra khỏi vỏ. Gà con, cũng như những loài chim khác, nhận động vật đầu tiên mà nó trông thấy làm... mẹ! Thế là chú chàng Pluto đành tíu tít với bổn phận mới, nhưng, làm ơn mắc oán, Pluto bị gà trống gà mái đả thương tơi bời để giành lại con, đành lủi thủi nhủi về chuồng. May thay, đàn gà con có nghĩa, cuối cùng cũng tìm được đến với «mẹ chó» Pluto! Năm 1945, trong bộ phim dài Ba chàng du ca, bên cạnh vịt trắng Donald, còn có thêm chàng gà đỏ cao bồi Panchito và anh két xanh đỏm dáng Jose Carioca. Cả ba đưa dẫn khán giả đến thăm viếng những vùng đất và tập tục của châu Mỹ La-tinh. Ngoài sự kết hợp giữa người thật và các nhân vật hoạt họa (toon), cùng nhau nhảy múa theo điệu salsa, bộ phim còn muốn nói lên tinh thần đoàn kết giữa ba vùng Bắc-Trung-Nam Mỹ, thể hiện qua tình thân của Donald, Panchito và Jose Carioca. Sau đó, trong gần hai mươi năm, gà biến mất hẳn trong những phim hoạt họa của hãng Disney. Mãi đến 1973, trong phim Robin, hiệp sĩ rừng xanh, dựa theo truyền thuyết Anh quốc, bên cạnh những nhân vật chính: cáo Robin, gấu Jean Bé, chó Cha Tuck, sư tử Hoàng tử Jean, sói Cảnh sát trưởng vùng Nottingham, người ta mới thấy sự xuất hiện trở lại của chàng trống đẹp mã-ca sĩ hát dạo Allan và bà gà Gertrude, nhũ mẫu của nàng cáo Marianne-vị hôn thê của Robin. Gần đây hơn, trong bộ phim Nông trại nổi loạn (2004), một trong những bộ phim hoạt họa cuối cùng của hãng Disney thực hiện theo lối cổ điển, gia đình gà lại có dịp xuất hiện đông đủ, dù chỉ sắm vai «quần chúng». Cuối cùng, ở đầu thế kỷ 21, vào dịp Giáng Sinh năm 2005, một «siêu sao gà» của hãng Disney đã chào đời: Gà con, vai chính trong bộ phim dùng hình ảnh tổng hợp

Little Chicken. Chú gà trắng cận thị này, có lẽ thừa hưởng gien của ông cố Gà giò, lúc nào cũng sợ trời sập, cùng với bé vịt Abby và bé… bự heo Boulard kết thành một bộ ba ngộ nghĩnh, gây cười cho khán giả suốt từ đầu đến cuối bộ phim, nhưng cũng không ít lần làm bố gà Buck Cluck đau đầu, khổ tâm ! Năm nay, 2016, cũng nhân mùa Giáng Sinh, hãng Disney lại tung ra bộ phim hoạt họa ba chiều Vaiana, cô gái Hạ-uy-di. Một trong những nhân vật của bộ phim mới toanh này là chú gà trống Hei-Hei, với đôi mắt ốc nhồi trắng dã và bộ tịch rất… ngố tầu, chắc chắn sẽ gây nhiều tình huống bất ngờ và thú vị ! Lạch bạch dáng vịt bầu Trong khi làng gà chỉ đơn cử được vài «ngôi sao» nhàn nhạt, thì xóm vịt hãnh diện trương ngay hai «siêu sao nặng ký»: vịt trắng Donald và vịt đen Daffy. Như đã giới thiệu ở trên, Donald xuất hiện lần đầu tiên như một nhân vật phụ trong phim Mẹ gà khôn ngoan (1934). Tính đến năm 2016, Donald đã được tám mươi hai tuổi. Theo giấy hộ tịch, Donald sinh ngày thứ sáu mười ba, tháng ba, cầm tinh con... vịt, con trai của mẹ Hortense và bố Rodolphe, anh song sinh của Della. Tính tình nóng nảy, cáu bẳn, lười nhác, vụng về, qua loa, đố kỵ, nhát như cáy nhưng khi lên cơn lại sửng cồ nhảy choi choi quyết ăn thua đủ..., gồm mọi thói hư tật xấu trên đời, chỉ được cái chân thật! Donald, với bộ áo thủy thủ trên người, lúc nào cũng túng thiếu và suốt đời chạy quanh tìm việc vặt nuôi thân. Cũng có lẽ vì khá «nhân bản» so với chuột Mickey «gương mẫu kiểu hướng đạo sinh», nên Donald được rất nhiều khán giả ái mộ. Sinh ra từ nét vẽ của Walt Disney, nhưng Donald thực sự sống động trong các bộ phim ngắn và truyện tranh thực hiện bởi bộ ba Jack King (chủ nhiệm), Jack Hannah (viết kịch bản), Carl Barks (hoạ sĩ), với giọng nói vừa nhanh vừa ù ù cạc cạc rất khó nghe khó hiểu do Clarence Nash lồng tiếng. Nhìn vào danh sách dài dằng dặc những bộ phim của hãng Disney thực hiện và có mặt Donald trong đó, người ta thấy chú vịt này hiện diện ở khắp mọi nơi, trong mọi thời đại, có lúc đại diện cho Hoa Kỳ hợp tấu cùng chàng gà Mễ Panchito và anh két Ba Tây Jose Carioca khắp vùng Trung-Nam Mỹ (Ba chàng du ca, 1945), có lúc làm gã lính Ðức tôn thờ Hitler như thần tượng (Der Führer’s Face, phim tuyên truyền chống phát-xít thời Ðệ Viết&Đọc Đặc San 2017 49


nhị thế chiến, 1943)... Cùng với chuột Mickey và chó đần Dingo, vịt Donald đã tham dự vào nhiều cuộc phiêu lưu kỳ thú: bắt ma (Những oan hồn cô đơn, 1937), lau chùi chiếc đồng hồ khổng lồ (Thợ chùi đồng hồ, 1937), chiếm lại cây đàn huyền diệu từ tay gã khổng lồ Willie (Mickey và hạt đậu thần, phỏng theo truyện cổ tích Âu châu, 1947), chống lại kẻ định tiếm ngôi vua (Hoàng tử và gã nghèo khó, phỏng theo truyện của nhà văn Mỹ Mark Twain, 1990). Ðến năm 2004, có lẽ để kỷ niệm sinh nhật bảy mươi tuổi của Donald, lần đầu tiên bộ tam sên này có mặt trong một cuốn phim dài hơn sáu mươi phút: Ba chàng ngự lâm pháo thủ, dựa theo câu truyện kiếm hiệp của nhà văn Pháp Alexandre Dumas (cha). Bộ phim quy tụ hầu hết các «tài tử gạo cội» của hãng Disney: cặp chuột Mickey-Minnie, cặp vịt Donald-Daisy, chó đần Dingo, bò cái Clarabelle, chó Pluto, cũng như sói Pat Hibulaire và anh em bọn trộm Rapetou trong các vai phản diện... Chỉ nhìn riêng tiểu sử của Donald, cũng đã có nhiều điều để nói, cũng đủ dựng hẳn một cái chợ vịt, nhưng không, các hoạ sĩ của hãng Disney còn muốn làm hơn thế nữa, họ đã tạo cho Donald một gia đình thật đông đúc. Nếu lấy Donald làm nhân vật trung tâm, sẽ tìm thấy ở thế hệ trên: ông nội Joseph Duck, bà nội Elvire hiền từ, quán xuyến của Donald, quen sống đời thôn trang; bố Rodolphe Duck, mẹ Hortense Picsou, dì Matilda Picsou, ông cậu giàu sụ nhưng keo kiệt khó ai bì Balthazar Picsou (còn mang tên Scrooge, lão hà tiện nổi tiếng trong truyện Bài hát Giáng Sinh của Charles Dickens); một ông chú họ khác, Donald Dingue, bác học nổi tiếng... gàn. Ngang lứa với Donald có vịt đẹp-ý trung... áp Daisy; em gái Della, em họ Gontran suốt đời gặp may, đồng thời cũng là tình địch của Donald; anh họ Gus, lười nhác nhưng rất tham ăn tục uống, phụ việc ở nông trại cho bà nội Donald; thêm một anh họ nữa, Popop, lúc nào cũng như từ cung trăng rơi xuống, hippie, yêu đời, chỉ mỗi tội vụng về, còn hơn cả Donald một bực! Thế hệ sau Donald có anh em sinh ba: vịt con Riri, Fifi, Loulou, lúc nghịch như quỷ, khi ngoan hơn thiên thần, con của Della, gọi Donald bằng cậu. Rộng ra hơn trong mớ liên hệ dây mơ rễ má, xóm giềng làng nước, người ta còn thấy Daisy cũng có ba cô cháu gái: Lily, Lulu, Zizi; ông cậu Balthazar Picsou thì có bao nhiêu kẻ thù, từ những bậc đại phú giàu nứt đố đổ vách như Gripsou, Flairsou, qua cô vịt phù thủy áo đen Tick, đến anh em nhà trộm Rapetou. Hàng xóm của Donald còn có anh chim Géo với những phát minh đủ loại, trên vai lúc nào cũng có chú người máy tí hon Filament đeo dính. Cuối 50 Viết&Đọc Đặc San 2017

cùng, cũng cần phải nhắc đến Toby Dick, kẻ đã có lần cứu Donald thoát chết đuối. Lão sói biển này, cùng với bạn… tàu Sancho Pacha và chú cá heo trung thành Poupy rốt cuộc có hẳn một série truyện tranh, tách riêng khỏi Donald và họ hàng làng nước xóm vịt. Ngoài Donald và Thành phố Vịt, hãng Disney còn có hai chàng thích chén chú chén anh: Vịt Ducky Lucky và ngỗng Goosey Poosey (Chú gà giò, 1943), cô vịt xanh đội mũ nồi Sonia suýt toi mạng trong hàm răng sói dữ (Peter và con sói, 1946, dựa theo nhạc khúc của nhà soạn nhạc Nga Sergei Prokofiev), chị em nhà ngỗng Amélie & Amélia với dáng đi đủng đỉnh của các bà mệnh phụ, lặn lội từ Anh quốc sang tận Paris thăm ông chú say xỉn Waldo (Những nhà quý tộc mèo, 1970), chàng vịt bịt mặt với nhiều hành tung xuất quỷ nhập thần Myster Mask (phim hoạt họa truyền hình 91 tập, khởi chiếu từ 1991), bé vịt trời bắt xấu Abby (Gà con, 2005)… Nhưng nổi tiếng nhất, với giải Academy Award 1939 dành cho phim hoạt họa ngắn, là chú vịt con xấu xí trong bộ phim cùng tên, phỏng theo truyện của nhà văn Ðan Mạch Hans Anderson. Từ thuở lọt lòng, vịt con xấu xí đã lộc ngộc, ồ ề hơn nhiều so với anh em vịt lụa cùng lứa, nên bị cả gia đình hắt hủi. Lang thang mãi, cuối cùng vịt con mới tìm được gia đình đích thực của mình: đàn chim vương giả thiên nga. Trước đó, 1931, Walt Disney cũng đã giới thiệu một phiên bản Vịt con xấu xí trên phim đen trắng, nhưng không gây được tiếng vang. Donald, dù rất cà chớn, nhưng lại được tánh tốt bụng, thương người. Chú vịt khùng Daffy đứng cạnh bên, hiện rõ vai phản diện: gian hùng, giảo hoạt, với đủ mưu thần chước quỷ trong đầu để toan tính hại đối thủ. Gầy hơn mắm, đen như củ súng với một khoanh trắng quanh cổ, keo kiết xác, ưa đấu đá hơn thua, kèm tính tự kỷ ám thị bẩm sinh, chú Daffy cảu nhảu càu nhàu lúc nào cũng nghĩ: Tất cả mọi điều vô lý kẻ khác làm đều đổ hết cả lên đầu vịt của mình. Vì vậy, phải hành động, nhiều khi phải ra tay trước đối phương! Nghĩ là làm, vịt Daffy, thỉnh thoảng cùng với tay sai là chú heo nhút nhát có tật nói lắp Porky, tấn công hết gà trống Charlie, đến thỏ xám Bugs Bunny, mèo đen Sylvestre, con quái Taz, người Hỏa tinh Marvin..., có lẽ chỉ đôi chút kiêng dè lão Elmer chuyên nghề... thợ săn! Thường là thất bại ê chề, nhưng Daffy luôn gượng dậy, và quyết tâm nâng mục tiêu lên cao hơn nữa, để tự khuyến khích mình phải đạt tới thắng lợi cho bằng được! Các họa sĩ Tex Avery, Fritz Freleng, Bob Clampett và


Chuck Jones đã lần lượt đem đến cho nhân vật Daffy những tật thói và tính cách nhân vật ngày một phức tạp, đôi khi rất... tâm thần! Xuất hiện trong hơn 150 phim hoạt họa ngắn, đến năm 2003, bên cạnh các tài tử Brendan Fraser, Jenna Elfman, Steve Martin, Timothy Dalton... Daffy cùng với chú thỏ lanh lợi, thông minh Bugs Bunny và vài tài tử toon khác (vàng anh Titi, chó đồng Vil, cướp biển Sam râu đỏ...) có mặt trong bộ phim dài Giờ hành động của nhóm Looney Tunes. Bộ phim do Joe Dante, người dựng Gremlins, thực hiện, hãng Warner Bros. sản xuất. Ngoài ra, một loạt phim hoạt họa truyền hình chủ đề khoa học giả tưởng với Daffy trong vai chính cũng được trình chiếu trong vài năm gần đây. Cuối cùng, chàng vịt thích chành chọe này cũng đã thỏa chí, trở thành «siêu sao liên hành tinh»! Dù không thể so sánh với Donald, Daffy hay Picsou, nhưng sự xuất hiện gần đây của ngỗng bán mì… vịt tiềm (?!) San Ping, bố nuôi của gấu trúc Po trong ba bộ phim Kung fu Panda (hãng DreamWorks, các họa sĩ Mark Osborne, John Stevenson, Jennifer Yuh Nelson, Alessandro Carloni, 2008-2011-2016) cũng gây nhiều chú ý nơi khán giả mê hoạt họa. Loạt phim này đưa người xem trở về với đất Trung Hoa thời trung cổ, cùng với các sinh hoạt, tập tục, cách ăn mặc và nhất là tinh thần thượng võ diệt ác trừ tà của giáo phái Thiếu lâm. Bên Nhật, giữa hàng ngàn nhân vật của loạt phim hoạt họa truyền hình và trò chơi điện tử Pokémon (Satoshi Tajiri, Ken Sugimori & Junichi Masuda), có thể tìm ra được chú vịt xanh hiền lành Koaruhī, vịt nâu Kamonegi kè kè bên mình nhánh tỏi tây (poireau), vừa là thức ăn, vừa làm vũ khí, hay vịt vàng Koduck lúc nào cũng nhăn nhó than nhức đầu ! Ở Pháp, có đại diện là vịt đen Canardo, trong loạt truyện tranh hai mươi lăm quyển (từ 1979 đến 2016, nhà xuất bản Casterman) của họa sĩ Benoit Sokal. Thám tử tư, lù đù trong chiếc áo khoác trắng, cặp mỏ to kềnh che gần hết mặt lúc nào cũng nhép một điếu thuốc lá, mê whisky, tặc lưỡi luôn miệng, Canardo gợi ngay đến hình ảnh nhân vật Columbo. Trong thế giới nửa người nửa thú rất «thời sự» của Canardo, có đủ án mạng, thanh toán, khủng bố, truy lùng, điều tra, bắt giữ..., với cảnh sát trưởng-thỏ khờ Garenni, mụ cò hung hiểm Clara, nàng chó bắn súng giỏi hơn cao bồi Carmen... Ở đó, chính-tà lẫn lộn, hắc-bạch không phân minh: Canardo đúng là loại truyện tranh

dành cho người lớn! Thay lời kết Ðược thuần hóa quá lâu, lại thêm tính lười nhác, bất cẩn, vịt nhà Á châu đã quên mất cách làm tổ, ấp trứng. Ðàn vịt cỏ cứ chạy tràn đồng, vừa kiếm ăn, vừa đẻ rơi đẻ vãi. Người đi chăn phải lội ruộng nhặt trứng vịt đem về bỏ vào ổ gà. Vì lẽ đó, ta mới có câu «Mẹ gà, con vịt»: gà mái ấp trứng, nở ra một bầy vịt con. Mẹ cục tác đi đầu, con cạp cạp theo sau, ra đến ao, con nhảy ào xuống nước, tung tăng bơi lội, mẹ nháo nhào chạy quanh trên bờ, cầu cứu: «Mẹ ơi, con vịt chết chìm, hết bơi, hết lội, hết tìm cá tôm!» Gà nhà trên toàn thế giới thì đã quên mất cách bay (trừ đàn gà trong phim Gà chẩu), và, với đà công nghiệp hóa trong ngành chăn nuôi hiện nay, những tiểu dị chắt lọc được từ mấy ngàn năm qua, đọng lại ở các giống gà ác, gà tre, gà ri, gà chọi, gà Nhật Bản, gà Hồ, gà Ðông Cảo... sẽ dần nhường chỗ cho các giống «gà Mỹ» ngắn ngày, trứng nhiều, thịt... nhạt thống trị! Và rồi, với máy ấp, chẳng bao lâu nữa, gà nhà cũng sẽ chịu cùng số phận của vịt, quên đi hai trong những hoạt động chính của loài chim: làm tổ và ấp trứng. Khi đó, chắc chắn làng gà xóm vịt sẽ có thêm nhiều «ngôi sao» mới, thay thế cho Calimero, Charlie, Daffy và Donald!

Cổ Ngư Tài liệu tham khảo: 1. Patrick Gaumer & Claude Moliterni, Dictionnaire mondiale de la bande-dessinée, (Larousse 2001) 2. Plusieurs auteurs – Encyclopédie de la bande-dessinée internationale (Omnibus 2003) 3. Patrick Brion, Tex Avery (Chêne 1984) 4. Jerry Beck, Looney Tunes, l’encyclopédie (Semic 2003) 5. Dave Smith & Steven Clark, Walt Disney, 100 ans de magie (Michel Lafon 2001) 6. John Grant, Encyclopedia of Walt Disney’s animated characters (Hyperion 1998) 7. https://fr.wikipedia.org/wiki/Canardo 8. https://fr.wikipedia.org/wiki/Donald_Duck 9. https://fr.wikipedia.org/wiki/Daffy_Duck 10. https://en.wikipedia.org/wiki/Foghorn_Leghorn

Viết&Đọc Đặc San 2017 51


Viên đá lạ kỳ

Vào những ngày cuối đời, bố tôi kể tôi nghe nhiều điều về đời ông, một người sinh ra vào cuối thập niên ba mươi, thời lụi tàn của triều đại phong kiến, nhường chỗ cho một đất nước phân rẽ, tiến tới ba mươi năm nội chiến tả tơi và kết thúc bằng sự ra đời của một triều đại mới mà Người Buôn Gió, trong Đại Vệ Chí Dị, gọi là nhà Sản. Một trong những lời bố nói khiến tôi nghĩ ngợi: «Bố ân hận đã không viết sách để lại.» Tôi xin bố cho tôi thâu thanh những gì ông kể suốt những ngày theo ông đến bệnh viện xạ trị, vào thuốc, cấp cứu… cho đến khi ông ra đi. Tôi cũng ghi chép khá nhiều. Bố tôi mất tháng tư năm 2006. Một trong những lời ông nói khiến tôi đau xót: «Bố đã chết từ 30 năm qua, sau ngày 30 tháng tư năm 75.» Mười năm trôi qua. Đã nhiều lần tôi mở các ghi chép về đời sống đại gia đình, tiểu gia đình, về hiện tình đất nước kể từ khi bố chào đời ở Huế cho đến 54, 75, và sau đó… Đã nhiều lần tôi cho cuộn băng ghi âm vào máy, muốn nghe lại giọng nói thân yêu của bố… Rút cuộc, tôi chưa bao giờ đọc quá được một trang, nghe quá được một câu. 52 Viết&Đọc Đặc San 2017

Bất nhẫn. Cảm giác cầm trong tay một viên đá ẩn chứa không phải chỉ cuộc đời một con người mà cả một gia đình, nhiều thế hệ, một đất nước, một nền văn minh bị bức tử rồi dìm trôi. Viên đá phát sáng, lôi cuốn lạ kỳ nhưng cũng nhọn lểu, và nặng chịch. Sau hai năm cứ lôi ra cất vào, cuối cùng, không chịu nổi thương động, tôi xếp tất cả các trang giấy lẫn cuộn băng, cho vào một chiếc hộp, cất đi cùng với túi tro của bố. Tôi đặt chiếc hộp này sau tấm ảnh đức Phật Di Lặc, xin ngài giúp tôi quên đau và vui lên. Đó là cách tôi tự chữa thương. Vết thương mồ côi. Vết thương của một đứa trẻ lỡ cầm trong tay viên đá thần bí, bị nó cuốn hút, thôi thúc phải chạm vào, nhìn vô sâu tận, tìm kiếm điều ẩn chứa bên trong. Việc mân mó viên đá này thật kỳ lạ. Trong tôi có hai tiếng nói. Tiếng nói thứ nhất xúi bảo: «Đó chính là mình. Là xương thịt, máu mủ của mình. Là cuộc đời mình. Hãy nhập vào nó!» Tiếng nói thứ hai can gián: «Tìm hiểu ư? Nó có đem lại lợi lộc, cơm áo đâu nào! Mà cũng chẳng làm cho mình an vui! Trong đó toàn là máu và nước mắt, khổ nhục, tang thương, bất bình, hoài cảm. Sự đã rồi. Đa mang mà làm gì!»


Mười năm, hai tiếng nói không ngưng nhảy nhót, tiếng này tiến thì tiếng kia lùi và nhiều lần, chúng dẫm lên nhau khiến tôi đến khổ. Giữa mùa thu năm ngoái, 2015, tôi bay từ Paris qua Bergen thăm chú Dương Kiền, người em kế của bố, sau khi hay tin ông bước vào trận chiến cuối của đời mình, chống lại căn bạo bệnh ung thư phổi. Tại đây, tôi gặp lại chú thím Dương Phục & Vũ Thanh Thủy. Tôi cũng gặp lại một số anh, em họ Dương đã nhiều năm đứt mạch liên lạc, đặc biệt là anh Dương Khuê, trưởng nam của bác cả Dương Lân – anh em đã hơn 30 năm không gặp kể từ ngày anh theo chú Dương Kiền vượt biển, đến được Na Uy. Các em Dương Kim, Dương Khoa, Dương Khanh, Dương Khương cùng vợ con đổ về quây quần quanh chú Dương Kiền. Tôi cũng nghe được giọng nói thân thuộc của mẹ và em Dương Huy tôi từ Sài Gòn lẫn giọng nói bây giờ mới nghe của em Dương Vũ Thuận An, trưởng nữ của chú thím Dương Phục từ Houston gọi qua. Tại chỗ, tôi nghe các cháu nội của chú Kiền là Dương Khả, Dương Kính và Dương Khải đàn dương cầm và tây ban cầm mừng đại gia đình sum họp; Dương Tường Vi đọc thơ tỏ tình với ông nội. Điều này thật quý vì cháu sinh trưởng ở Na Uy, là nơi rất ít người Việt sinh sống, thế mà, không những nói tiếng Việt ngon lành, cháu còn làm được cả thơ. Bài thơ khá dài, tôi nhớ một câu: « Ông ơi, đời vô thường. » Tôi chỉ ở Bergen hai ngày, nhưng đó là hai ngày đậm đặc yêu thương. Chú Dương Kiền, mặc dù mệt mỏi, vẫn thức cùng cả nhà đến nửa khuya. Chuyện không dứt được. Khóc, cười, cười, khóc miên man… Tất cả ba thế hệ đều tham dự. Chúng tôi chia sẻ với nhau những gì mình biết về ông bà nội, về gia đình các bác Dương Lân, Dương Hùng, Dương Bào, Dương Cự (bố tôi), các chú thím đã ra đi hay vẫn còn, các con các cháu tản mác khắp nơi, về làng Đồng Dụ, huyện Phượng Dực, tỉnh Hà Đông quê cha đất tổ, rồi Hà Nội, Huế, Sài Gòn, Cần Thơ, Nha Trang, Biên Hòa đất lành chim đậu, để rồi Suối Máu, Trảng Bom, Côn Đảo, Koh Kra… đày đọa tội tình, cuối cùng là Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Na Uy, Pháp… quê người đất khách. Trong giấc ngủ gục trên máy bay trở về Pháp, tôi mơ thấy mình cầm viên đá trên tay, nhìn nó, miết

vào nó, và cảm thấy nhộn nhạo, khó thở. Đầu hè năm nay, 2016, chồng tôi cho hay chú thím Phục sắp ra mắt cuốn hồi ký viết về đời mình ở Houston. Anh được tin từ một người bạn ở Houston, vốn sinh hoạt công giáo và thân thiết với chú thím Phục báo cho. Tôi đón tin bằng sự im lặng. Như tôi đã im lặng sáu tháng trước đó, khi mẹ tôi và em Huy từ Sài Gòn kể với tôi qua đường dây viễn liên là họ đã được đọc bản thảo cuốn hồi ký rất hay này. Như tôi đã đáp lời thím tôi bằng thái độ khá cầm chừng khi thím chìa cho tôi xem tập bản thảo lẫn một số hình ảnh chú thím đang thu thập để chuẩn bị đưa đi in, khi chúng tôi gặp nhau ở Bergen. Cảm giác phải đụng vào viên đá gồ ghề kia khiến tôi ngại, dù tiếng nói thứ nhất «Đó chính là gia đình mình! Là mình!» chưa bao giờ im vắng hẳn. Chú thím út tôi, Dương Phục & Vũ Thanh Thủy, tôi chỉ gặp bằng xương bằng thịt được có đôi lần, khi gặp cả hai cùng lúc, khi chỉ một trong hai người. Lý do là vì khi tôi lớn lên, gia đình tôi cũng như muôn vạn gia đình Việt Nam khác, bị ly tán khắp nơi. Các chú, các bác và bố tôi người di tản khỏi Sài Gòn trước 75, người ngồi tù cải tạo mục xương, người vượt biển tìm đường sống. Cho nên, tôi chỉ gặp được chú thím Dương Phục kể từ 90 trở đi, sau khi chú thím đã trải qua các cửa ải tù đày, vượt ngục, vượt biển, rơi vào tay hải tặc, lưu vong để rồi trở lại Việt Nam hay đến Pháp, Na Uy… tìm thăm gia đình. Gặp chung, gia đình sum họp, không khí bao giờ cũng rôm rả, nhất là trong bàn ăn, khi cả bố tôi lẫn chú Kiền, chú Phục cùng ngồi. Chất giọng của anh em họ Dương rất lạ, nhất là của bố tôi và chú Kiền. Đó là âm thanh của bảy phần Hà Nội pha với ba phần Huế do trong nhà, bố và chú Kiền sinh trưởng ở Huế, còn các bác Dương Lân, Dương Hùng, Dương Bào và chú Dương Phục đều chào đời ở Bắc Việt, chỉ sống một thời gian ở Huế khi ông nội được bổ nhiệm làm quan Thượng Thư Bộ Lại tại đây. Giọng bố vang dội như Đại Hồng chung, giọng chú Kiền khoan hòa, từ ái, giọng chú Phục ấm áp, truyền cảm. Chúng tôi mà ngồi với nhau thì không bao giờ có temps mort. Người này nói, người kia tiếp, chuyện tuôn có khi sôi nổi, hùng mạnh, nghe sướng cả người, cảm giác như đang nghe bồi thẩm đoàn tranh biện, có khi thiết tha, quấn quít dù là lời ra từ miệng đàn ông. Khi bác cả Dương Lân còn sống, cũng y như vậy, mà Viết&Đọc Đặc San 2017 53


lại còn vui hơn vì bác vừa thoải mái vừa rất tếu lâm. Giữa các anh em họ Dương với nhau là thế, trò chuyện bình đẳng, nhưng hết sức tương kính. Các chú thím lễ nghĩa với người trên, phép tắc trong ý tứ lẫn ngôn từ nhưng với người dưới thì thân ái như bạn bè. Chú Kiền, chú Phục thường vỗ vai chồng tôi và em Huy, rủ rê đi tìm thịt chó, lá mơ. Chú Kiền vẫy gọi tôi, bảo đi chợ Tết chọn hoa với chú. Thím Phục (trong nhà, các cháu gọi thím Vũ Thanh Thủy như thế) khều tôi đi chợ Sài Gòn ăn hàng. Thím trò chuyện với người chị họ thân nhất nhà của tôi là Dương Diễm Diễm - con gái út của bác Dương Lân - và tôi như bạn gái đồng trang lứa, đến độ chú Phục phải thắc mắc: «Nói chuyện với cháu chồng mà cứ như với bạn! » Nói chuyện với chú thím, hay đúng hơn là được nghe chú thím nói thích thú vô cùng vì chú thím là nhà báo, thông tin nhiều vô kể. Mỗi một chuyện được đưa ra, chú nói thì thím tiếp bợ, thím nói thì chú bồi chồng… Thông tin lẫn ý kiến đều được đưa ra một cách tương hỗ, nhịp nhàng. Cả những chuyện kể chỉ để cười xòa rồi quên mà chú thím vẫn cho tôi cảm giác họ là hai chiếc cánh của một cây kéo, chẳng lìa được nhau. Trò chuyện với gia đình thế nào thì viết sách thế đó. Từng chương, từng mục, đều hiển lộ sự bình đẳng, tôn trọng và phò trợ nhau của hai người đồng nghiệp tốt. Tuy nhiên, ngoài cái nồng nàn của luyến ái nam nữ, tỉ lệ 50-50, cái sâu dày của tình nghĩa vợ chồng chung chia đủ mọi mùi vị, tỉ lệ cũng 50-50 thì trong sách hay ngoài đời, tôi vẫn cảm thấy chú tôi nể vợ hơn người và thím tôi nhường nhịn chồng không ít. Tôi cứ lưỡng lự mãi để rồi lại ôm lấy, đọc ngấu nghiến Tình Yêu - Ngục Tù và Vượt Biển, hồi ký của hai phóng viên chiến trường Dương Phục và Vũ Thanh Thủy dày gần bảy trăm trang do chú thím tôi gửi bưu điện chuyển nhanh qua cho. Hành trình đọc không êm ái. Điều này tôi đã biết trước. Nhưng cuối cùng thì, bị tiếng nói thứ nhất chinh phục, tôi đã cầm viên đá lên, cùng với hai người đục đá can đảm soi rọi không phải chỉ cuộc đời riêng tư của một người đàn ông tên Phục, một người đàn bà tên Thủy, một đôi lứa sinh ra, lớn lên, yêu nhau trên mảnh đất ròng rã khổ đau mà là bao nhiêu riềng mối, liên hệ giữa Phục, giữa Thủy, giữa Phục và Thủy với mẹ cha, anh chị em, con cháu, bạn bè, đồng nghiệp, đồng ngũ và… 54 Viết&Đọc Đặc San 2017

giặc dữ. Tôi đã xuyên qua từng phiến đá, có khi vời vợi ánh sáng tâm linh, có khi long lanh nghĩa tình, lại có khi tối đen cặn bã mà nhìn rõ hơn nhiều điều liên quan đến đại gia đình, rộng lớn hơn nữa, một đất nước trong giai đoạn miền Nam xấu xí vì miền Bắc xấu xa. Hành trình đọc không êm ái. Bảy trăm trang sách là bảy trăm trang lắng nghe tiếng nói của không chỉ chú Phục, thím Phục mà cả tiếng nói của bố mà tôi vẫn giữ nguyên trong cuộn băng thâu thanh lẫn trên những trang giấy ghi chép. Càng nghĩ đến câu «Bố ân hận đã không viết sách để lại.» tôi càng thấy quý cuốn hồi ký này. Dẫu mỗi con người có một cuộc đời riêng, những người cùng thời lại cùng nhà vẫn có nhiều điểm chung, từ sự thụ hưởng huyết thống, giáo dục, văn hóa đến sự nếm chịu thời thế đảo điên, gia cảnh tiêu điều. Thế nhưng, không phải ai cũng có thể viết lại được điều từng trải. Không phải ai cũng đủ duyên lực để làm được điều ấy. Khó nhọc như đục đá! Nhưng vẫn kiên tâm đẽo tới cùng, cho lòi ra cái thực mới thôi. Đã lâu tôi không đọc gì. Mấy ngày thu này, ngồi nhìn lá rụng sau mưa, rồi nhìn cái tủ sách bỏ không của mình, buồn không chịu nổi. Tôi đứng dậy lau chùi bụi đóng dày các kệ. Trên cao, nơi có chân dung bố, tôi đặt cuốn Việt Nam Thế Kỷ 20 của chú Dương Kiền, Tình Yêu - Ngục Tù và Vượt Biển của chú thím Dương Phục & Vũ Thanh Thủy bên sách của em Dương Kim, của anh, của tôi, và của con trai chúng tôi. Bố không viết sách để lại, nhưng mắt bố nhìn tới, hẳn đã đọc tất cả và cảm thấy an ủi. Thắp một nén hương, thì thầm câu thơ bố viết năm xưa: Con sẽ hiểu nhiều khi lớn thêm Vàng bay như lá rụng bên thềm Lúc trang sử máu không còn máu Là lúc hiện chân sáng ngời lên

Mạch Nha-Dương Huệ Châu Giữa thu 2016 - Thương kính dâng chú Dương Kiền, giỗ đầu.


Ký Ức Của Mẹ Mười chín xuân sang, Mẹ đi lấy chồng Một thời son trẻ bao chàng mong Nữ sinh Gia hội, Quốc học Huế Mẹ vướng tình Ba trên lối về... Hiệp định năm tư, chia bến bờ Trai tài gái sắc dệt mộng mơ Giáo đường Gia hội, vui duyên mới Tình yêu hạnh phúc, tựa sao trời.. Trăm năm bia đá dẫu có mòn Tình nghĩa Ba Mẹ vẫn sắt son Trải bao năm tháng ngàn dâu bể Con cháu bây xem vẫn Vuông Tròn...!!!

Thằng cù

Mưa Đời Rải Xuống Có thể nào không hay Xuân mới vừa thay lá lòng ước như mùa hạ dù theo nhau vất vả ngày mưa có một thời xa xưa ta cùng nhau xuống núi rồi chia tay rất vội quên đem theo lời gọi lời chào ngày lên trên non cao gót giang hồ đây đó hỡi người em ngày nọ đã lặng yên mà nhỏ lệ rơi có mười năm cuộc đời đi làm người đánh giặc nâng kiếm ngang tầm mắt bạn bè ta đứa mất, đứa còn có mười năm héo hon đi làm người tù tội ở chân mây đầu núi những ngày đông gió thổi căm căm Vội vã mãi cũng xong một thời ta cung kiếm giờ ngậm ngùi chôn kín mà quên đi những chuyện sông hồ hãy là một giấc mơ êm đềm người mộng tưởng mai mưa đời rải xuống xót xa lòng độ lượng bao la

Trần Như Xuyên

Viết&Đọc Đặc San 2017 55


Món Quà Tĩnh Mịch Đêm Giao Thừa Vũ Thanh Thủy

Tiếng gọi «Bà ơi?» của đứa cháu gái 7 tuổi đánh thức tôi dậy. Tôi đoán là bé Audrey lại nằm mơ rồi tỉnh giấc nên đành rời giấc ngủ đang ngon để sang thăm chừng phòng con cháu. Ngày mai là Mồng Một Tết. Mặc dầu tôi đã cố hết sức giảm bớt mọi việc, tôi biết ngày mai vẫn sẽ là một ngày rất bận bịu - bắt đầu bằng một loạt gọi điện thoại chúc Tết đại gia đình hai bên và kết thúc với một bữa tiệc trong gia đình. Tôi đã đoán đúng về giấc mơ của đứa cháu 7 tuổi. Bé Audrey đang ngồi trên giường, mếu máo vì bị dì Mai-Kim, con gái út của tôi 16 tuổi nằm giường bên, thức giấc càu nhàu. Thấy tôi vào, con bé ôm choàng lấy tôi, «Bà nằm ở đây với con đi. Khi nào con ngủ rồi bà hãy về phòng, nghe bà?» Tôi nửa ngồi, nửa nằm bên cạnh con bé. Bàn tay nhỏ nhắn của bé nắm chặt lấy tay tôi. Từ chỗ tôi ngả người, tôi có thể nhìn qua cửa sổ ra sân trước và thấy cả một phần con phố vắng nửa khuya. Ánh đèn vàng hiu hắt rọi sáng những giọt sương mù bay nhẹ như tơ vương trong không gian. «Đã đến Tết chưa Bà?» Nghe giọng nói tỉnh táo của bé Audrey, tôi biết ngay là con bé đã tỉnh ngủ và muốn nói chuyện. Tôi thì thào vào tai cháu, «Con ngủ đi, thì ngày mai mới được lì xì!» Con bé cầm tay tôi đặt vào lưng bé. Tôi gãi nhẹ lên lưng cháu, chợt nhớ ngày xưa còn bé mẹ cháu mỗi lần đi ngủ cũng đòi tôi gãi lưng. Và tôi nhớ mẹ tôi cũng hay gãi lưng cho tôi mỗi lần tôi khó ngủ. Bây giờ nhiều lúc tôi không khỏi thắc mắc làm sao mẹ tôi ngày xưa có được thì giờ để làm hết 56 Viết&Đọc Đặc San 2017

mọi việc vào những ngày lễ tết. Mẹ tôi ngày xưa cũng đi làm, hết coi tiệm thuốc tây tới điều hành một trường trung học, thế mà mẹ tôi vẫn chu toàn mọi việc trong dịp Năm Mới. Những bữa ăn thịnh soạn cho ba ngày Tết. Rồi làm dưa, muối hành, làm bánh mứt mẹ tôi cũng sắm sửa chu đáo hàng tuần trước để chuẩn bị đón Xuân. Lì xì ngày Tết. Đêm Giao Thừa, chúng tôi thường thức phụ mẹ thu dọn nhà cửa trong lúc chờ giờ đi lễ nửa đêm. Có năm chúng tôi ngồi giúp mẹ đơm cúc áo vào những quần áo mới mẹ may cho từng đứa. Vừa làm vừa nghe mẹ kể chuyện thời thơ ấu ở nhà ông bà ngoại tận Thái Bình. Sau khi đi lễ nửa đêm về, bao giờ cả nhà cũng quây quần ngồi ăn cháo gà và bánh chou crème trước khi đi ngủ. Có năm, sau bữa cháo gà, tôi thức khuya hơn thường lệ, thấy mẹ cùng hai chị lớn vẫn còn thức. Mọi người vừa nói chuyện vừa cắt những miếng vải may áo đầm còn thừa để khâu cho đám bé con chúng tôi những chiếc nơ cài đầu cho hợp với áo đầm mới mặc đi chúc Tết ngày mồng Một. Những cái nơ đơn giản đáng lẽ chỉ may một chút là xong mà mẹ và các chị kéo dài thật lâu. Có lẽ chỉ vì không ai muốn ngừng câu chuyện thì thầm đang hồi đậm đà trong lúc cả nhà đã say ngủ. Tôi ghi nhớ những kỷ niệm này nhưng đã không thực hiện được với các con của tôi. Một phần vì ngày Tết nơi xứ Mỹ không có cái không khí rộn ràng, thiêng liêng của lúc Giao Thừa. Cũng không có lễ nửa đêm như ngày Giáng Sinh. Gia


đình tôi năm nào cả nhà cũng nghỉ ngày mồng Một, cũng đi chúc Tết đại gia đình, nhưng đêm Giao Thừa không còn gì đặc biệt để thức chờ như tại Việt Nam. Phần khác, chúng tôi dường như chẳng bao giờ có thì giờ để làm bất cứ điều gì nếu không phải là thật cần thiết. Trong cảnh sống bận rộn của thời đại vào đầu thế kỷ 21, chỉ hàng ngày lo việc Đài phát thanh từ sáng sớm tới chiều, rồi sau đó lại lo tiếp tờ tuần báo, thêm việc canh giờ thúc dục đứa con gái út thức dạy cho đúng giờ, ăn sáng cho no, nhớ đem theo đủ thức ăn trưa, rồi tối về cơm nước, ăn uống, chuyện trò đôi chút với hai đứa con còn ở lại nhà đã đủ làm tôi bở hơi tai đến nổi không đủ thì giờ để ngủ cho đẫy giấc. Cuối tuần thì đón mấy đứa cháu ngoại về vừa để chơi với cháu, vừa để cho bố mẹ chúng có một chút thì giờ thơ mộng, lãng mạn với nhau mà không bị trẻ con quấy phá. Rồi đưa con bé út đi sinh hoạt, chợ búa, giặt giũ, dọn dẹp, nấu ăn sẵn cho cả tuần để mỗi ngày hai đứa con chỉ cần hâm lên là có bữa ăn… là hết ngay hai ngày nghỉ cuối tuần. Đời sống máy móc của xã hội bây giờ khiến những ngày lễ tết chỉ làm tôi thêm bận và mệt mỏi. Tôi lo ngại các con cháu tôi sẽ mất đi sự kỳ diệu của tuổi thơ trong ngày đầu năm. Cái kỳ diệu mà mẹ tôi đã tạo được cho chị em chúng tôi một cách có vẻ thảnh thơi và hết sức dễ dàng. Tôi vẫn thường nghĩ, thì giờ của ngày xưa sao dư thừa và sẵn sàng quá, nên mẹ tôi muốn làm việc gì cũng được. Nhưng bây giờ, nhìn Giao Thừa nhẹ đến bên cửa sổ, hồi tưởng lại ngày thơ ấu, tôi mới nhận ra chính mẹ tôi là người đã tạo cho chúng tôi cái cảm tưởng thảnh thơi đó. Mẹ tôi đã lo liệu hết mọi chuyện để đón năm Mới. Dù cha tôi cũng hăng hái góp phần bằng cách đi mua cành mai hay cành đào về cắm trong lọ, nhưng chính mẹ tôi mới là người lo từ trong ra ngoài. Mẹ tôi như một bà nội tướng hướng dẫn từng người trong gia đình chuẩn bị mọi việc chu đáo để mừng Năm Mới. Chính mẹ tôi là người đã tạo ra Năm Mới. Giờ đây, nằm trong phòng con, tôi nhận ra là ngọn đuốc «làm Mẹ/làm Bà» đã được mẹ trao qua tay tôi tự bao giờ. Tôi nhìn xuống bé Audrey đã say ngủ nhưng bàn tay vẫn nắm chặt lấy tay tôi. Tôi nhìn sang Mori nằm bên cạnh, môi con bé chợt nhoẻn một nụ cười thật tươi trong giấc ngủ. Thằng anh Elijah nằm tầng trên cựa mình, đạp chăn rơi xuống đất. Tôi nhẹ gỡ tay Audrey, bước xuống khỏi giường, nhặt tấm chăn đắp lên mình Elijah. Nhìn đàn trẻ say ngủ, tôi chợt như mới nhìn thấy

các cháu - thật sự nhìn thấy các cháu tôi - sau một thời gian thật dài. Tôi nhận ra nét mặt chúng đã bớt dần nét bụ bẫm của trẻ thơ, cái miệng của Audrey đang có dạng trở thành móm như miệng mẹ và cánh mũi của Elijah đang có đà nở ra giống mũi bố. Tôi bàng hoàng nhận ra thời gian đã trôi qua thật nhanh: Mới ngày hôm qua, tôi ở tuổi các cháu tôi, rồi các con tôi. Ngày hôm nay, tôi đã là người mẹ, là người bà -- và là người có nhiệm vụ phải tạo ra Năm Mới. Tôi nhìn qua cửa sổ, ngước mắt lên trời cao. Sương mù đã tan dần. Một ánh sao đang lấp lánh trên bầu trời đen nhánh mênh mông. Tôi nhớ đến một bài hát nghe từ thời thơ ấu, «Hỡi vì sao sáng, hỡi vì sao đêm… Hãy soi đường cho ta tới được ánh sáng tuyệt hảo của ngươi.» Căn nhà vẫn đắm chìm trong cái tĩnh mịch của đêm thâu. Mọi người vẫn bình an say ngủ. Tôi nhìn ánh sao đêm, nhớ đến lời mẹ dặn hãy nhìn ánh sao đêm mà ao ước, thầm thì lời cầu nguyện cho tôi được trở thành một người mẹ tốt, một người bà tạo được niềm tin nơi con cháu. Tôi mong ước - dù biết sẽ không bao giờ có thể giống được như mẹ tôi - ít nhất cũng bắt chước được mẹ ở chỗ chú ý tới con cháu và biết trân trọng gia đình như món quà quý giá nhất của cuộc đời. Tôi cúi xuống hôn lên trán bé Mori. Con bé nằm giang xõng tay chân trong giấc ngủ, đạp tung chăn ra ngoài. Tôi nhẹ nhàng xếp cháu nằm lại cho ngay ngắn, đắp chăn cho hai đứa, rồi cúi xuống hôn lên má bé Audrey. Tôi rón rén rời phòng ba đứa nhỏ đi ra, và ngừng lại ở cửa phòng hai đứa con gái còn lại ở nhà. Con bé út, MaiKim, quấn chặt người trong chăn chỉ thò mỗi cái đầu ra ngoài trong khi con chị chỉ đắp hờ tấm chăn ngang bụng. Con bé út đã 16 tuổi, cao hơn mẹ cả nửa cái đầu nhưng trong giấc ngủ khuôn mặt lộ nét trẻ dại như mãi là baby của mẹ. Con bé lớn, Trang-Thu, thì giống bố như hệt, từ mặt mũi, tính tình, tới dáng nằm. Tôi ngừng lại bên các con, cúi xuống hôn lên trán từng đứa, ngửi thấy lại cái mùi trẻ thơ riêng biệt của từng đứa con ngày mới chào đời - cái mùi chỉ người mẹ mới có thể nhận ra. Tôi nhón gót đi trở về phòng mình, nhẹ nhàng chui vào trong chăn và úp mặt vào tấm lưng rộng của chồng, chợt thấy nước mắt ứa ra từ trái tim rộn ràng tình yêu và cảm xúc. Ngoài cửa sổ, Giao Thừa vừa thầm lặng bay qua. Vũ Thanh Thủy Viết&Đọc Đặc San 2017 57


Cái bóng của vị thầy tu (tặng bạn tôi NVL)

Phạm Tín An Ninh

Dừng xe trước quán cà phê nằm bên triền núi, tôi kéo Lân vào ngồi bên chiếc bàn nhỏ, nằm riêng rẽ dưới bóng mấy cành thông. Ngày thường, quán vắng khách. Đã hơn bốn giờ chiều mà mặt trời đang ở trên đỉnh đầu. Mùa hè Bắc Âu ngày dài ra, có những ngày cuối tháng sáu, gần như không thấy bóng đêm. Trời nắng, nhưng không nóng lắm. Thỉnh thoảng có vài cơn gió làm lung lay những cành thông, như muốn khuấy động cái không gian tĩnh mịch và tạo thêm chút mát mẻ, thư thái cho khách nhàn du. Đến đây đã nhiều lần, dần dà bọn tôi trở thành khách quen của ông chủ quán, người Na-Uy, vốn trước kia ở cùng xóm với tôi, nên đã dành cho chúng tôi sự tiếp đãi đặc biệt, thoải mái. Hơn nữa đã từng nghiên cứu về Đạo Phật, nên biết Lân đang tu tập, ông chủ cũng tỏ ra ít nhiều tôn kính, có khi trao đổi đôi điều về Phật và Thiền học, mặc dù ông chưa hề biết quá khứ, nhất là cả một thời tuổi trẻ đầy sôi nổi, hào hùng và biến động của Lân. Gần mười năm nay, sau khi về hưu, hằng năm, vào khoảng giữa tháng Mười, vợ chồng tôi thường sang Cali ở sáu tháng để trốn mùa Đông Bắc Âu, mà với tuổi già càng lúc cái lạnh như càng ngấm vào da thịt và cả trong lòng mình. Đến hè, mỗi lần trở lại Na Uy, tôi thường ghé lại thăm 58 Viết&Đọc Đặc San 2017

Lân. Từ lúc nhận ra tuổi già qua nhanh quá, cái quỹ thời gian không còn nhiều, và một số bè bạn đã lần lượt ra đi, chúng tôi dành nhiều thì giờ cho nhau hơn. Lân về hưu trước tôi một năm, và anh đã chọn một hướng đi đặc biệt cho tuổi già: tu tại gia. Ăn chay trường và mỗi ngày sống với kinh kệ như một vị thầy tu, mặc dù không đến chùa. Anh cho rằng cái khung cảnh và sinh hoạt ở một số chùa chiền bây giờ không thích hợp với anh. Hầu hết bạn bè và những người quen biết đều tôn trọng cái quyết định đó, cũng như rất mến mộ phong cách, đạo đức của anh. Thực ra, trước khi chọn con đường tu hành, anh cũng đã có đầy đủ tố chất của một vị chân tu rồi. Hiền lành, đạo hạnh, luôn chia sẻ tấm lòng với tha nhân, nhất là những người không may, gặp điều khốn khó, và với ai anh cũng luôn nở một nụ cười hiền hòa nhân ái. Lân dùng nguyên ngôi nhà ở sửa sang lại làm tịnh thất, nằm trong khu ngoại ô, bên bìa rừng yên tĩnh. Anh sống ẩn dật, chỉ tiếp vài ba người bạn chí thân.Tôi thường đến đây với Lân, có khi ở lại cả tuần, theo anh ngồi tĩnh tâm hay tập thiền, nhưng thỉnh thoảng Lân cũng chiều tôi, theo tôi ra ngồi ở cái quán cà phê bên vách núi yên tĩnh này. Tôi nghĩ đây là nơi lý tưởng để Lân còn nhìn thấy một chút “thế gian” và chúng tôi có thể ngồi hằng giờ tâm sự chuyện đời xưa, nhắc


nhớ khoảng thời gian khá dài mà chúng tôi có cùng chung quá khứ. *** Tháng sáu năm 1976, sau khi bị chuyển tù ra Bắc, đến Trại Hang Dơi thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn, tôi gặp lại người bạn cũ, có thời ở cùng đơn vị. Anh ở khác lán với tôi, nhưng cùng tổ và nằm bên cạnh Lân. Qua anh bạn này, tôi quen biết Lân từ đó, để rồi sau này trở thành thân thiết. Điều đặc biệt là dù qua bao lần “biên chế”, bị chuyển đi nhiều trại, Lân và tôi đều được may mắn, đi chung với nhau cho đến ngày Lân ra tù, tháng 9 năm 1981. Trước ngày miền Nam thất thủ, Lân là thiếu tá, làm việc ở Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân (thuộc Bộ Tư lệnh Không Quân). Một công việc bất đắc dĩ, ngoài sở thích của Lân. Anh vốn là phi công trực thăng được chuyển về đây sau khi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa và được Hội Đồng Giám Định Y Khoa xếp vào loại 2, không thể phi hành hay chiến đấu được. Anh bị trọng thương trong một chuyến bay cấp cứu (rescue) một phi hành đoàn bạn bị bắn rơi trong trận chiến An Lộc. Lớn hơn tôi một tuổi. Lân tình nguyện vào Không Quân và được sang Mỹ học ngành hoa tiêu trực thăng. Về nước được bổ sung cho Phi Đoàn Long Mã 219 ở Đà Nẵng, từ thời còn sử dụng trực thăng loại H-34, về sau này được thay thế bằng UH-1. Đây là một phi đoàn đặc biệt. Trên các máy bay sơn toàn màu đen, không vẽ quốc kỳ và bất cứ danh hiệu hay mã số nào, ngoài hình những lá bài “ách xì” cơ, rô, chuồn, bích. Phi Đoàn có nhiệm vụ thả và bốc các toán lôi hổ, biệt kích, hoạt động trong vùng đất địch. Lân nổi tiếng là một phi công tài giỏi, thông minh và can đảm. Sau đó, được thuyên chuyển về một phi đoàn thuộc Vùng 3. Năm 1970, Lân cùng phi đoàn đã đóng góp nhiều chiến công trong các cuộc hành quân sang lãnh thổ Cam Bốt. Năm 1972, tham dự trận chiến An Lộc, đổ quân, tản thương cho Liên Đoàn 81 BCND và một số đơn vị thiện chiến khác, Lân mấy lần bị thương nhẹ, được đặc cách thăng cấp thiếu tá. Khi đã có lệnh và đang chờ thuyên chuyển đến một phi đoàn khác để giữ chức vụ Phi Đoàn Phó, thì anh tình nguyện tham gia phi vụ cấp cứu (rescue) một phi hành đoàn bạn bị bắn rơi. Nhờ tài năng, lòng dũng cảm và nhất là tình đồng đội “không bỏ anh em không bỏ bạn bè”, anh đã bất chấp mọi hiểm nguy, cứu được 3 trong 4 người của một phi hành đoàn, khi phi cơ phải đáp khẩn cấp vì bị trúng đạn phát hỏa, người xạ thủ đã bị tử thương. Được bốn gunships yểm trợ, Lân đã lừa địch và bất ngờ đáp xuống

trong màn lưới đạn, bốc ba người bạn đang bị Cộng quân truy bắt. Nhưng khi vừa bốc phi cơ lên, Lân bị trúng hai viên đạn, làm gãy xương cánh tay và ống chân trái. Sau này, trong một dịp tình cờ, tôi gặp anh co-pilot trong phi vụ này, kể lại chuyến bay rescue vô cùng hiểm nguy với tất cả lòng thán phục Lân. Anh bảo, nếu không có Lân hôm ấy, chắc chắn việc cấp cứu đã không thành và ba người bạn cùng phi đoàn đã bị địch quân giết hay bắt sống. Khi ở trại Nghĩa Lộ, tôi được sắp xếp cùng tổ với Lân. Chúng tôi thuộc đội phát rừng (vào mùa Đông) và tăng gia (vào mùa Hè, vì mùa Đông, ở vùng này rất lạnh, không trồng rau được). Tù ăn uống thiếu thốn và lao động cực khổ, nhưng Lân rất khỏe mạnh. Có lẽ nhờ vào khả năng mưu sinh. Phải nói đây là một sở trường đặc biệt của Lân mà bạn tù ai cũng nể phục. Anh có thể bắt tôm, cá bằng tay không, khi đứng giữa một dòng suối hay con sông. Nhìn dấu chân các loài vật anh biết ngay đó là con vật gì. Chỉ cần một nhánh cây anh có thể “sáng chế” thành một cái bẫy để bắt các loại chim, chồn, và cả thỏ rừng. Nhờ vậy mà anh nuôi sống cả một tổ tù, đặc biệt cứu vài người bị đau bệnh, kiệt sức. Anh còn biết cả thuốc Nam, các loại lá, vỏ cây trị bệnh. Một lần đi rừng chặt nứa, tôi bị một con ong đất chích vào tay, sưng vù lên và tím cả một vùng da. Lân cho biết nọc loài ong này rất độc, có thể làm chết người. Anh dùng dây rừng cột chặt cánh tay tôi lại, đi tìm một loại lá và vỏ cây gì đó đắp lên. Chỉ sau một giờ đồng hồ vết sưng biến mất. Một buổi trưa nhân ngày lễ, được nghỉ lao động, anh đã câu được gần ba mươi con ếch ngay trong trại, dưới các rãnh mương thoát nước. Chính tay trưởng trại đã đi theo xem và phục tài của Lân. Tất cả ếch câu được đều giao cho nhà bếp “hậu cần” để có thêm chất thịt cho anh em. Lân cho biết là chỉ cần nghe tiếng ếch kêu đêm hôm trước là anh biết có khoảng bao nhiêu con và đang trốn ở đâu. Cần câu chỉ là một thanh tre và một sợi chỉ từ cái bao cát được Lân xe lại, và mồi câu chỉ bằng một miếng bông gòn nhỏ. Tối hôm ấy, tôi khuyên Lân nên chấm dứt chuyện câu ếch và cần phải giấu kín cái tài mưu sinh, vì có thể bị bọn cai tù nghi ngờ, “ra tay” trước đề phòng khả năng anh trốn trại. Tôi cũng ngạc nhiên, khi Lân là một phi công “hào hoa”, nhưng khả năng mưu sinh thoát hiểm rất tuyệt vời. Lân cho biết, khi còn nhỏ, nhờ cả thời tuổi thơ sống bên quê ngoại, một vùng quê ở Tây Ninh, anh đã theo đám bạn bè và cả những người nông dân lớn tuổi, học được rất nhiều điều như thế. Điều làm tôi nể phục hơn, ngoài mưu trí, lanh Viết&Đọc Đặc San 2017 59


lẹ, Lân còn là một con người gan dạ, liều lĩnh và chí tình với bạn bè. Một lần trải qua một trận kiết lỵ kéo dài, thuốc men không có, tôi chỉ còn khoảng ba mươi ký, kiệt sức đứng không vững. Lợi dụng lúc đi lấy “phân xanh” ( loại lá cây để ủ thành phân bón), không có vệ binh canh giữ, Lân đã lén vào trại heo của Hợp Tác Xã (cách trại khoảng vài trăm mét, mà trước đó đám tù bọn tôi có đến vài lần làm chuồng cho họ) bắt một chú heo con (heo sữa) mang về giấu ngoài khu vực tăng gia (nằm sát bên hông trại), để hôm sau vùi vào hầm lửa (do tù đào và dùng các gốc cây đốt lửa sưởi ấm) cho tôi ăn dần. Nhờ đó mà tôi sớm lấy lại được sức. Một lần khác, khi được giao cho công việc lên phơi lúa trên sân trại, nằm ngay trước ban chỉ huy trại, Lân thấy có một buồng chuối thật dài sắp chín được đám bộ đội chăm sóc cẩn thận, bao lại bằng mấy tấm bao cát và chống lên bằng hai thanh gỗ. Vài hôm sau, trong một buổi sáng sớm mùa Đông, khi sương mù còn dày đặc (đứng cách vài thước không nhìn thấy nhau), Lân đã lẻn lên sân trại cắt trộm cả buồng chuối mang ra chôn giấu ngoài khu lao động. Hai hôm sau chuối chín, chờ lúc không có mặt tay quản giáo, Lân đào buồng chuối lên để cả tổ cùng ăn. Vì sợ mùi chuối chín dễ bị phát hiện, nên Lân đề nghị phải ăn cho hết. Một thời gian quá lâu thiếu chất đường, nên cả tổ tám người thanh toán buồng chuối khoảng một trăm quả trong vòng 20 phút đồng hồ mà vẫn chưa thấy ngọt. Nhưng vì ăn nhiều quá, nên khi vừa đứng dậy, cả bọn bị ói thốc tháo ra toàn là chuối. Biết tài bắt cá của anh, nên mỗi lần trại tù hay hợp tác xã bên cạnh tổ chức “tảo” các hồ cá để thả cá con, Lân đều được chọn đi bắt cá. Hầu hết các hồ chỉ nuôi loại cá trắm cỏ, nhưng có nhiều loại cá khác, như cá lóc, cá trê sống trong đó, sẽ ăn hết đám cá trắm cỏ con. Nên trước khi thả cá, phải “tảo”hồ, băng cách bơm cạn và bắt tất cả các loại cá khác nằm dưới bùn. Lân sở trường về việc này. Nhưng thay vì phải giao tất cả cả bắt được cho trại, anh tìm vài cái hang dưới bờ hồ, tạo thành những cái hộc để nhốt một số cá lóc vào đó. Những cái hồ cá này, cũng là nơi cho tù rửa ráy hay tắm sau giờ lao động. Và cứ mỗi lần tắm, Lân lại bắt một con cá nhốt sẵn trong hộc, mang về cho cả tổ cùng ăn. Vì là đội tăng gia, được giữ mấy cái bình tưới bằng nhôm, nên dễ dàng giấu cá trong đó mà không bị “phát hiện”. Có một kỷ niệm tôi không thể nào quên. Một khoảng thời gian ở Trại Hang Dơi, bọn CS luôn tìm mọi cách vắt kiệt sức của chúng tôi. Tất cả tù đều phải lên rừng chặt nứa (loại tre nhỏ) mang về bán cho nhà máy giấy Việt Trì, theo hợp đồng 60 Viết&Đọc Đặc San 2017

của trại. Chỉ tiêu mỗi ngày là ba mươi cây. Nếu không đủ, sẽ không được nhận khẩu phần ăn. Chỉ sau một tháng là nứa ở các vùng núi chung quanh trại tù hết sạch. Chúng tôi phải chia nhau một toán ba người đi rất xa lên các dãy núi cao tìm nứa. Lân và tôi luôn đi chung một toán. Trời mùa Đông, lạnh buốt xương, và suốt cả ngày mưa phùn rả rích. Các lối mòn, ngõ ngách lên núi biến thành bùn nhão, trơn như mỡ. Bọn tôi phải đóng những cái cọc ngắn dọc trên các con đường, mỗi lần vác nứa xuống, dùng đầu ngón chân tì vào các cọc để không bị trượt ngã xuống vực. Nguy hiểm hơn là khi bị té ngã, bó nứa chùi xuống đâm vào người đi trước, có thể mất mạng. Một buổi trưa, len lỏi trong rừng già, rất khó khăn để chui qua những cây mây già, nằm chằng chịt như những con trăn dài chặn các lối đi, những cây cổ thụ cao to che hết ánh sáng mặt trời. Khi bọn tôi đang lo âu có thể bị lạc đường, chia nhau đi chặt vào các thân cây làm dấu, thì bất ngờ một một cây cổ thụ bỗng rung rinh, lá cây xào xạc, bóng một con vật to lớn nhảy xuống. Cả ba thằng khựng lại, rồi như theo bản năng, nhanh chóng tìm lại ngồi sát vào nhau, mặt thằng nào cũng tái xanh. Bỗng Lân quát lớn: “Đừng sợ, đứng dậy, đưa dao lên!” Tôi làm theo Lân như cái máy. Khi hoàn hồn, nhận ra ngay trước mặt mình không xa, một con dã nhân (vượn người?), cao to bằng ba con người, lông lá đầy mình, mặt mày dữ tợn, đang rú gào đe dọa chúng tôi. Lân rất bình tĩnh, bảo bọn tôi cùng hét thật lớn và bước tới với con dao đưa lên chém vào không khí. Không ngờ con dã nhân lùi lại, rú thêm mấy tiếng rồi nhảy phóc lên cây, phóng đi nơi khác. Hôm ấy bọn tôi về tay không và biết là sẽ bị phạt mất phần ăn, nên Lân đã đi tìm mấy mụt măng rừng và luộc lên cho bọn tôi ăn đỡ đói. Tôi và anh bạn tù kia phục Lân vô cùng. Nếu hôm ấy mà không có Lân, chẳng hiểu bọn tôi sẽ phản ứng ra sao. Cũng đã từng bao lần vào sinh ra tử, nhưng đứng trước một tình huống quá bất ngờ này, thực tình chúng tôi mất hết bình tĩnh, chẳng biết cách nào đối phó. Đây cũng là lần đầu tiên tôi nhìn thấy một con vật lạ lùng, ghê sợ, mà trước đây chỉ biết mơ hồ qua sách vở và lời kể của ông bà. Năm 1979, trước khi chuyển trại để rời khỏi Hoàng Liên Sơn, vì Trung Cộng đang tấn công vào các tỉnh biên giới phía Bắc, đội tù chúng tôi được chọn ra hai tổ đi lao động “thông tầm”, gặt lúa cho một HTX nông nghiệp, ở cách xa trại khoảng mười cây số. Lân được chọn làm toán trưởng. Chúng tôi khoảng 20 người, đi bộ, có hai tên vệ binh đi theo. Đến nơi vào buổi chiều, trời sắp tối, bọn tôi được trú ngụ trong một cái đình


làng bỏ hoang, một phần mái và một bức tường đã rệu rã. HTX dùng cái sân đình để chứa và phơi lúa. Không biết có phải để “khuyến khích tinh thần” hay tạo thêm sức, HTX “bồi dưỡng” cho bọn tôi một bữa xôi nếp với thịt trâu khá no nê. Có cả một xị rượu mía. Đây có lẽ là bữa ăn thịnh soạn nhất trong đời tù bọn tôi. Sáng hôm sau, tay Chủ nhiệm HTX hướng dẫn chúng tôi ra khu ruộng, nằm cách ngôi đình làng khoảng 100 mét. Khi đến nơi bọn tôi mới ngỡ ngàng. Đây là những đám ruộng sình, lúa rất tốt, nhánh nào cũng trĩu đầy hạt, nhưng nếu bước chân xuống ruộng, người ta sẽ bị lún sâu xuống ngay, khó mà ngoi lên được, vì càng cử động, tìm cách thoát lên, lại càng bị lún xuống thêm, có thể ngập đầu. Bọn tôi lắc đầu ngán ngẩm, khi vừa hiểu ra cái giá của bữa cơm nếp có thịt trâu, rượu mía tối hôm qua. Trong khi cả bọn nhìn nhau bất lực, Lân đưa ra sáng kiến. Dùng các tấm cửa cũ của ngôi đình bỏ hoang, cột dây kéo hai đầu, chỉ cần một người (chọn những người nhẹ ký nhất) ngồi trên tấm cửa, gặt lúa, những người còn lại, đứng trên bờ hai đầu, thay phiên kéo và giữ thăng bằng tấm cửa và an toàn cho người gặt lúa. Một tấm cửa khác kéo theo bên cạnh, để chứa những bó lúa gặt được. Khi nào đầy lúa, người gặt ra dấu, để được kéo vào bờ. Sáng kiến của Lân được mọi người hoan nghênh, kể cả tay Chủ nhiệm. Khoảng mười tấm cửa cũ đủ loại lớn nhỏ được mang ra sử dụng, một số cuộn dây được cung cấp, kể cả một số tre được mang tới để vài anh chẻ ra đan thành những cuộn dây dài. Không ngờ sáng kiến của Lân lại tuyệt vời. Chỉ hai hôm, tất cả lúa trên hơn mười thửa ruộng sình được gặt xong. HTX “thu hoạch” được số lượng lúa khá lớn. Tay Chủ nhiệm xin cho bọn tôi được ở lại thêm một ngày để nghỉ ngơi và “liên hoan”. Ăn cơm trắng với cá “trám cỏ”. Thấy có một cái trống rách, bỏ nằm lăn lóc trong góc đình, Lân bèn nghĩ ra một điều “kỳ lạ” khác. Anh tháo da từ cái trống ra, mượn một cái chảo đun sôi gần cả một đêm, sáng hôm sau, các miếng da nở ra, mềm, dẻo và trắng mướt. Lân thái nhỏ ra, xin thêm đậu phụng (lạc), giã nát cùng với ít rau, rắc lên. Miếng da rách trong chiếc trống lăn lóc ngày hôm qua, bây giờ đã trở thành một món ăn khoái khẩu. Những bạn tù hôm ấy chắc chắn không ai có thể quên Lân và những ngày tù thật đặc biệt này. Sau khi được chuyển về Trại Nghệ Tĩnh, Lân rủ tôi và một người bạn thân nữa tổ chức một cuộc trốn trại. Tôi rất tin tưởng vào khả năng vượt thoát của Lân. Thời gian này bắt đầu được thăm nuôi, Lân đã nhờ người nhà mang theo nhiều thức ăn khô, một số tiền mặt và một cái địa bàn nhỏ

dấu kín trong hũ mắm ruốc. Nhờ hối lộ hậu hỹ cho tên công an phụ trách, nên mọi thứ đều trót lọt. Nhưng chưa tới ngày thực hiện thì bất ngờ Lân có lệnh thả. Anh rất ngạc nhiên về việc này. Kế hoạch trốn trại phải hủy bỏ, vì tôi và người bạn còn lại không tin vào khả năng của mình, nếu không có Lân. Năm 1983, sau gần một năm được chuyển về Trại Z-30 C Hàm Tân, tôi được thả. Ra trại, thay vì về quê ngoài Nha Trang, tôi vào Sài Gòn tìm Lân. Vì trước lúc chia tay, Lân cho biết là sau khi về nhà, anh sẽ mua ghe tổ chức vượt biên. Anh còn dặn dò, bất cứ lúc nào ra khỏi tù, tôi nhớ tìm gặp anh ngay. Tôi luôn tin tưởng vào khả năng, đạo đức và chân tình của Lân. Thời gian trong tù, qua tâm sự của Lân, tôi biết rất rõ về nhà cửa, địa chỉ và tất cả những người trong gia đình anh. Ông cụ đã mất trước 75, Lân chỉ còn bà cụ đang sống với hai cô em gái trong ngôi nhà khá lớn ở bên Quốc lộ, gần Ngã Tư Hàng Xanh. Ông anh duy nhất là một Biên Tập Viên Cảnh Sát, làm việc tại Sài gòn, đã kịp rời khỏi Nhà Bè vào sáng sớm ngày 30.4.75. Lân được cả nhà, đặc biệt là bà mẹ hết lòng yêu thương. Chính vì điều này mà Lân đã không đành bỏ mẹ để ra đi khi CS chiếm Sài Gòn, mặc dù khi ấy Lân có nhiều phương tiện trong tay, đã giúp khá nhiều bạn bè ra khỏi nước. Sau này Lân còn cho tôi biết, chính mẹ và các em gái của Lân đã bán nhiều tài sản và dùng vàng bạc giấu được sau các đợt “đánh tư sản”, tìm đường dây đến một tay thứ trưởng Bộ Nội Vụ CS mua cho Lân cái giấy ra trại, để vượt biên sớm. Lân là một trong số rất ít tù được thả sớm từ miền Bắc trong thời gian ấy. Khi tìm đến nhà, tôi gặp mẹ và cô em lớn của Lân. Bà mẹ cũng là một người tu hành. Bên kia phòng khách, tôi nhìn thấy một tượng Phật Quan Âm lớn hơn một người thật, cao gần đến trần nhà. Tôi bảo tôi là bạn tù rất thân của Lân vừa mới được thả ra, tìm đến thăm Lân, nhưng cả mẹ con đều bảo Lân đang sống ở vùng kinh tế mới dưới Phước Tuy. Nhìn vẻ mặt của hai người tôi biết là họ đang nghi ngờ tôi, có thể là một gã công an nào đó muốn thăm dò tin tức Lân. Khi tôi hỏi xin địa chỉ nơi ở của Lân trong vùng kinh tế mới để đi thăm, viện cớ là tôi ở ngoài Trung, sau này khó có thể gặp Lân, hai người bảo là không biết, hơn nữa người lạ cũng không được phép đến đó. Đoán là có điều gì xảy ra cho Lân, nên cả mẹ và em Lân cố tình giấu giếm, tôi lấy tờ Giấy Ra Trại đưa cho cô em xem và kể thêm một số chi tiết về Lân cũng như những người trong gia đình. Khi ấy hai người mới tin và cho tôi biết là Lân tổ chức vượt biên, kéo theo một số bạn bè, nhưng chẳng may Viết&Đọc Đặc San 2017 61


ghe bị mắc cạn ở cửa sông Mỹ Tho, Lân bị bắt và đang bị nhốt trong một trại tù rất khắc nghiệt. Tôi cám ơn và xin tạm biệt, nhờ chuyển lời thăm Lân khi có thăm nuôi. Tôi cũng để lại địa chỉ và nhờ nói lại với Lân, khi ra tù nhớ liên lạc với tôi. Mẹ của Lân bảo cô em vào lấy một số tiền biếu tôi. Tôi từ chối nhưng hai mẹ con nhất mực bắt tôi phải nhận. Cô em đã nhét tiền vào túi áo của tôi. Sau hơn tám năm, trở về nhà, chưa kịp làm quen với mấy đứa con, nhất là con gái út còn nằm trong bụng mẹ ngày tôi vào tù, và cũng chưa kịp hỏi được tin tức về nơi chôn cất cha tôi, ông đã chết trong môt trại tù khác trong Nam từ tháng 6/1976, thì bốn hôm sau, tôi được “mời” ra công an thị trấn, nhận cái giấy trả lại trại tù, với lý do “nhân dân địa phương không chấp nhận cho tôi được tạm trú”. Khăn gói vào lại trại tù Z-30C, được cho ở tạm nhà thăm nuôi ba hôm, sau đó nhận một tấm Giấy Ra Trại khác, với nơi chỉ định tạm trú mới là sinh quán của tôi. Ở đó tôi chẳng còn ai, ngoài bà cô già, góa bụa sống trong ngôi nhà từ đường của ông bà nội tôi để lại. Tôi lại bị chính quyền CS ở đây hành hạ, làm nhục đủ điều. Không còn con đường nào khác, ngoài vượt biên. Nhờ một ông anh con ông cậu ruột, nguyên là một HSQ Hải quân, đang có sẵn ghe đánh cá, tôi liều lĩnh âm thầm khuyến khích và tổ chức vượt biên, chỉ dành cho gia đình và những người thân thiết nhất. Tôi nhờ đứa cháu vào nhà Lân. Rất may là Lân vừa mới ra khỏi tù hơn một tuần lễ, cũng nhờ bà mẹ lo lót. Lân mua giấy tờ giả, đóng vai một “cán bộ thương nghiệp” ra Nha Trang công tác. Tôi gởi Lân ở chung nhà với một người bạn thân khác của tôi, là căn phòng nhỏ ngay phía sau một trường tiểu học mà anh là hiệu trưởng, không ai để ý. Đúng giờ hẹn, tôi cho người đón Lân bằng xe Honda và đưa Lân trốn trong một ghềnh đá sát bên bờ biển ở một nơi an toàn. Tôi hẹn cho ghe ghé đến, đậu xa bờ khoảng 200 mét, báo mật hiệu bằng đèn và cho thằng cháu chèo thúng chai vào đón. Nhưng Lân bảo không cần, vì thúng chai chèo chậm lắm, anh sẽ bơi ra tàu cho nhanh. Khi kéo Lân lên tàu, hai đứa ôm chầm lấy nhau, như thầm hứa hẹn một “trang sử” mới. Mặc dù có người anh định cư ở Mỹ từ 1975, nhưng Lân quyết định cùng đi Na Uy với chúng tôi. Mấy lần tôi hỏi, có phải trong lòng Lân còn “hận” Mỹ, đã phản bội, bỏ rơi người bạn đồng minh, để đất nước và cả dân tộc mình điêu đứng lầm than? Lân cười, bảo chỉ muốn sống gần tôi, người bạn đã cùng sống chết với anh trong suốt đoạn đời tù đày khốn khổ. Lân cùng học rồi cùng vào làm một sở với tôi cho đến ngày về hưu. Chúng tôi cùng hăng say 62 Viết&Đọc Đặc San 2017

hoạt động trong một tổ chức kháng chiến ngay từ ngày đến Trại Tị Nạn Bataan, Phi Luật Tân. Vào thời điểm ấy, tổ chức này rất nổi tiếng và được nhiều người khắp nơi tham gia, ủng hộ. Khi một cán bộ cao cấp của tổ chức từ Hoa Kỳ đến Na Uy sinh hoạt, cả Lân và tôi xin tình nguyện được về “chiến khu quốc nội”(?), nhưng ông ta bảo không còn cần thiết nữa. Chỉ một tháng sau đó, tổ chức này rạn nứt, tan vỡ, phơi bày bao điều không thật, đau lòng. Chúng tôi thất vọng và phẫn nộ khi có cảm giác mình bị lừa dối. Những năm sau, Lân sang Mỹ nhiều lần, thăm ông anh, họp bạn bè và tìm hiểu các tổ chức, hội đoàn hoạt động ở đây. Anh háo hức, thiết tha mong được đóng góp phần mình. Lân thường bảo, cuộc sống lưu vong này sẽ trở nên vô nghĩa, nếu chúng ta không làm được điều gì. Chẳng lẽ rồi bọn mình cũng chỉ là những “con chim ẩn mình chờ chết!”hay sao? Cuối cùng, dường như Lân đã không tìm được một “ánh sáng nào ở cuối đường hầm”. Anh bảo những hình thức, phô trương, những bộ quân phục và lon lá bị lạm dụng, những ông bà háo danh chủ tịch, tranh giành cộng đồng này, hội đoàn nọ, tệ nhất là mấy cái chính phủ với đám tướng tá tự phong, tự diễn, lố bịch như đám phường tuồng, làm anh muốn buồn nôn. Có những ông chưa có một ngày trong lính, nhưng lúc nào cũng tỏ ra là một nhà quân sự tài ba, huênh hoang chê bai ông tướng này ông tá khác, phê phán đủ các trận chiến ngày xưa. Cũng có những ông gốc lính, chẳng biết tài năng đến đâu, chửi bới không sót một người nào, từ các cấp chỉ huy của mình ngày trước cho đến tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, bằng lời lẽ hạ cấp bẩn thỉu, chụp mũ người này người khác, nếu không hoan hô “cái tài thao lược” của phe ông. Bạn bè thì một số thoải mái với cuộc sống mới và đã biến thành những con người mới, quên mình đã từng là lính và bị tù đày. Một số thì tìm đến với nhau trong những hội hè, mong có nhiều cuộc họp mặt tiệc tùng, để có dịp mặc bộ quân phục, tìm lại chút “dư âm ngày cũ”. Chưa kể một số đua nhau về Việt nam, để đi trở lại trên những “đường xưa lối cũ.” Lân bảo, vẫn biết mỗi người có quyền chọn cho mình một cách sống riêng để bù đắp những mất mát hay xoa dịu phần nào vết thương quá khứ, tất cả đều tội nghiệp, nhưng sao anh vẫn thấy có điều gì đó làm xót xa, đau đớn trong lòng. Đôi khi Lân than thở với tôi: -Đã hơn gần 30 năm sống trong cái cộng đồng ly hương này, sao nhiều lúc mình vẫn có cái cảm giác bồng bềnh như ngày nào còn ngồi với bạn trên chiếc thuyền vượt biển ra khơi!


Tôi lên mặt lý sự cốt an ủi Lân: -Bạn đừng lý tưởng quá, thời gian nó sẽ xói mòn và làm đổi thay tất cả. Trong cái xô bồ, mình phải gạn lọc để chấp nhận và trân trọng những gì tương đối, bởi rất nhiều anh em, cũng như chúng ta, đành phải “lực bất tòng tâm” trước những ước vọng đó sao! Tôi thầm tiếc và tội nghiệp cho Lân, một con người yêu nước, tài ba, can đảm và đức độ như vậy mà chẳng còn một nơi nào để “dụng võ”. Nhiều lúc thấy Lân trầm ngâm, ngồi im lặng như một thiền sư, tôi tự hỏi, từ ngày chọn con đường tu hành, ngày đêm với kinh kệ, không biết trong lòng Lân có còn nỗi khắc khoải nào không? Tôi ngại không dám hỏi Lân. Mới đây, trong lúc ngồi bên nhau Lân nói với tôi: -Bây giờ tôi chỉ còn mong ước hai điều, trước khi chết được thấy đất nước mình đổi thay, không còn Cộng sản, và khi nhắm mắt được có bạn ở bên cạnh để vuốt mắt và niệm cho tôi một bài kinh A Di Đà! *** Con chim gỗ trên chiếc đồng hồ treo trong quán cà phê vừa hót lên bảy tiếng. Như vậy là bọn tôi ngồi đây đã ba giờ đồng hồ. Trời không tối nên cứ tưởng còn sớm lắm. Ánh mặt trời vẫn chói chang qua những tàng cây. Tôi đứng dậy giành đi trả tiền. Lân bước ra trước, đứng chờ ở vệ đường, nhắm mắt ngước mặt lên trời. Không biết anh đang cầu nguyện điều gì hay muốn xóa đi, quên hết những gì mà chúng tôi vừa tâm sự, để trở về với cái tâm yên tĩnh của một thầy tu. Anh đứng yên lặng nhưng cái bóng của anh lung linh, sống động trải dài theo bờ con dốc đá. Nhìn cái bóng, tôi mơ hồ như bất ngờ được gặp lại người phi công trẻ, hào hoa, oai hùng, mà mình đã từng quen biết từ một thời nào xa xưa như trong tiền kiếp. Bỗng dưng, tôi nhớ tới những đồng đội bạn bè đã hy sinh, nhớ tới những chàng phi công hào hùng đã từng sống chết với đơn vị tôi trong Mùa Hè 1972 và suốt một thời binh lửa. Khi bước đến bên Lân, tôi vẫn thấy anh đứng lặng yên, bất động, hướng mắt nhìn về một nơi xa xăm nào đó. Trên không gian bao la chỉ có vài áng mây đang chầm chậm bay về phía cuối chân trời.

dấu lặng Dấu chấm lặng trả lại đời yên ắng... Những tinh khôi lại theo nắng tìm về Trả lại cuộc đời những chen chúc đam mê con ốc nhỏ cuộn tròn nghe tiếng sóng... Dấu chấm lặng nghe gió trời lồng lộng... Những buồn vương theo con nước trôi xa Trôi ngược dòng tiếng ai hát ngân nga Chạm đáy mắt tuổi thơ còn in dấu Thả chấm lặng Ta thả người nghiến ngấu thả sân si còn đầy giữa trần gian Trở về nơi nắng gió biển ngút ngàn Đem trăn trở đắp thành lâu đài cát Thả chấm lặng giữa biển đời bát ngát ta mỉm cười, đếm chi nữa nông - sâu vẫy bàn tay chào tháng sáu mưa ngâu Chấm lặng - thả giữa chốn đời - in dấu! Nguyệt Minh

Phạm Tín An Ninh

Viết&Đọc Đặc San 2017 63


Đồng Nghiệp Dị Chủng

Hoàng Quân

Lời mở đầu: ”Đồng Nghiệp Dị Chủng” là một trong 12 truyện ngắn từ tập truyện ”Bông Hoa Trên Phím” xuất bản 2015 của tác giả Hoàng Quân. Tác giả định cư và làm việc ở Đức Quốc từ năm 1982. Tập truyện xoay quanh những hoài niệm thời học trò, trong khuôn viên đại học cho đến những ngày bắt đầu cuộc sống mới trên xứ người. Dù viết với dạng tự truyện nhưng những kỷ niệm của tác giả lại rất chân thật và gần gũi với người đọc và bạn sẽ tìm thấy chính mình trong từng kỷ niệm tuổi học trò, từng suy nghĩ, trăn trở trong đời sống thường nhật. Những suy nghĩ vụn vặt về gia đình, đàn ông, về sự khác biệt văn hóa trong cuộc sống hàng ngày với những người bạn dị chủng được chuyển tải một cách nhẹ nhàng, kín đáo nhưng dí dỏm, đầy cảm xúc và lôi cuốn người đọc đến câu chuyện cuối cùng. ”Bông Hoa Trên Phím” còn cho ta những bức tranh hiếm hoi thú vị về sinh hoạt của người Việt Nam ở Đức Quốc.

Ông anh họ, là nhân viên ngân hàng ở Việt Nam, gật gù: - Vậy ra, Thi làm ở phòng Tham Mưu Tín Dụng Quốc Tế. Tôi giật bắn cả người: - Úi trời trời, nghe sao mà dao to búa lớn quá vậy. Việc của em đơn giản lắm, săm soi mấy con số trong báo cáo tài chánh của con nợ, vạch lá tìm sâu. Rồi viết lời đề nghị nên cho vay bao nhiêu. Hội đồng quản trị của ngân hàng quyết định chớ em đâu có quyền hạn gì. Ông anh nghiêm giọng: - Mấy lời bàn ra, bàn vô đó, tiền không! Chẳng biết ở tây thì sao, chứ ở ta, mấy ghế này, phúc lợi từ cửa sau nhiều lắm, xây cửa, xây nhà mấy hồi. Tôi ngồi ở “ghế“ này mấy năm, bổng lộc đến bằng cửa trước đàng hoàng, ghi tên tôi là người nhận ngay ngắn. Có lịch các loại, hoặc dao rọc thư, hoặc 64 Viết&Đọc Đặc San 2017

khối thủy tinh, thẻ kim loại để chận giấy. Cứ đà này, tôi bám trụ ở đây mãn kiếp, vẫn chưa đủ vật liệu xây nhà. Thật ra, tôi chẳng hề mơ màng đến những đặc quyền, đặc lợi của công việc. Nhưng đôi lúc, giữa những tám tiếng ở văn phòng, tôi hay có những ý nghĩ rất... khoa học giả tưởng. Chẳng hạn như Diedrich không phải từ Hamburg, tít tận bắc Đức, mà là Đình, dân Hà Nội. Chẳng hạn như Viktor, chẳng phải là dân Franfurt ở trung Đức, mà là Vinh, chàng trai xứ Huế. Ngồi đối diện tôi là Ralph, người Bavarian duy nhất trong nhóm. Khi ông trưởng phòng xếp chỗ ngồi, tôi than thầm, xúi quảy thiệt, boss đặt đâu, phải ngồi đó. Chớ nghe nói, dân miền nam Đức khó chịu, kỳ thị chủng tộc lắm. Ban đầu tôi kính nhi viễn chi. Dần dà, tôi thấy thiên hạ dường như gieo tiếng ác cho người dân Bavarian. Ralph rất dễ thương, đã nhiều lần “quạt“ thẳng tay những ai dám xách mé hình thức và nội dung da vàng, mũi tẹt của


tôi. Trong văn phòng, Ralph nói tiếng Đức tiêu chuẩn ...quốc tế. Nhưng khi nói chuyện với người nhà, Ralph chuyển “tông“ qua tiếng địa phương. Tôi nghe, tiếng được tiếng mất. Tưởng tượng như nghe một người Việt miền tây nói, “bắt con cá gô bỏ trong cái gổ nó kêu gột gột“. Tôi chớp vội vài ba chữ hiểu lõm bõm, láo lếu nhại giọng Ralph. Ralph không chấp nê tôi - chửi cha không bằng pha tiếng - mà còn chỉ cho tôi dăm ba câu thổ ngữ thứ thiệt của nhà quê Bavaria. Lâu lâu, tôi trả bài, cả đám có dịp cười rân. Tôi nghĩ, nếu nói tiếng Việt với Ralph, sẽ xưng hô ông tui, chớ không lẽ mày tao sao. Có lần Ralph kể về một chuyến nghỉ hè ở Úc và Tân Tây Lan. Ấn tượng sâu sắc nhất đối với Ralph là Tân Tây Lan không có thú dữ. Tôi trề môi, tỏ vẻ nghi ngờ: - Thiệt không? Tui chưa đi Tân Tây Lan lần nào. Nhưng tui chắc chắn bên đó có thú dữ. - Đã không biết mà còn bày đặt hỏi vặn vẹo. Đánh cá một cây kem nhe. Tôi sẽ đưa sách nói về thú vật xứ đó cho Thi coi.- Ralph giọng chắc nịch. - Khỏi cần, ông đưa cho tui coi lại xấp hình ông chụp bên đó đi.- Tôi nhún vai rất “lạnh“. - Đây, người đẹp cứ tự nhiên. Trưa nay đi mua kem nộp cho tôi. - Ralph đẩy xấp hình qua. - Đừng có mơ với mộng -Tôi chùn mũi, rút tấm hình Ralph chụp giữa phố, thảy ra trước mặt Ralph. Tôi chỉ mấy cô gái trong hình, nhướng mày hỏi.- Đây là gì hả? Không phải thú dữ sao! Quê nhà tui, quý ông khơi khơi gọi tụi tui là cọp, là sư tử. Ralph không nín cười được: - OK, chịu thua. Vậy chớ Thi là cọp hay sư tử? - Vừa cọp, vừa sư tử mà còn hơn nữa... Tôi bỏ dở câu nói, nhớ đến bài hát Ta Yêu Em Lầm Lỡ của Phạm Duy thuở nào. Ai đời, đường đường một đấng nam nhi, hậu duệ của Lạc Long Quân, mà tự xưng là loài cỏ cây man rợ, loài ma quái ngu si, rồi rền rĩ ta yêu em lầm lỡ, bây giờ đường nào đi. Ta hỏi lẩm cẩm xong, ta dài giọng chì chiết em yêu ma quỷ dữ đã đến gieo sầu đau. Vừa phải thôi chớ, em nghe mà sôi cả ruột gan, ta rặt một tuồng đem than gắp bỏ tay người. - Sao, là beo, báo hay gấu? Tiếng Ralph kéo tôi khỏi cơn nóng mặt giùm cho bao nhiêu con cháu Âu Cơ. Tôi rùn vai: - Là gì nữa hả? Chắc tui cần cả nửa ngày để cắt nghĩa. Mà thôi! -Tui còn cả đống việc. Lúc khác nghen.

Nói vậy, chớ tôi nghĩ, Ralph chẳng bao giờ có thể hiểu được. Tiếng Đức của tôi, dù được rèn luyện qua nhiều năm trung học và đại học với người bản xứ, cộng thêm dạn dày kinh nghiệm thông ngôn, nhưng tôi làm sao cắt nghĩa Ta yêu em vất vả, ôi! lần cuối lần đầu, em là cành gai sắc cho thịt nát xương đau... Mà tôi có đanh đá với Ralph rằng, người khôn nói với người “kia“ bực mình, chắc Ralph cũng chẳng thấm để mắng tôi điêu ngoa, chua chanh, chát khế. Ralph kể, khi ông trưởng phòng dẫn tôi đến nhận việc, Ralph nghĩ, tôi là người Hoa, tức sẽ gặp vấn đề với chữ R. Tôi cười lục khục: - Ông yên tâm. Tui không gọi ông là Lalph đâu. Nhưng cái chữ L cắc cớ ở giữa lại làm tui tréo cả lưỡi. Nếu ông cho phép tui gọi ông là Raph, chắc tui sẽ tăng tuổi thọ thêm vài năm. - Ừ, gọi sao cũng được. Hy vọng Thi thông cảm, trong con mắt Âu châu của chúng tôi, người Á châu nào cũng giống nhau. Tôi đâu thèm để bụng chuyện lặt vặt này. Tại, nhầm lẫn như vậy đã xảy ra nhiều lần, mà tôi rầu nhất là lần người đồng hương nhầm. Trong hội tết, khi mấy cô bé bắc kỳ đang quây quanh chồng tôi hỏi chuyện, chồng tôi chỉ tôi: - Bà xã anh tới rồi đây. Mấy em thắc mắc gì thì cứ hỏi chị đi nhe. Một cô bé láu táu: - Chị chắc là người Trung? Tôi lật đật mừng rỡ. Thường thì, trời có tối như đêm ba mươi, nghe giọng tôi cũng biết tôi từ nơi quê hương em nghèo lắm ai ơi. Nhưng đằng này, tôi đâu đã mở miệng, mà cô bé nhận ra, chắc trông tôi ngoan hiền như mấy o Huế chính hiệu chớ gì. Chao ơi, sao hồi giờ, bao người nhận ra điều này, mà chẳng nghe ai “thành thật“ góp ý cho tôi vui. Tôi chưa kịp lên tiếng để xác nhận cho cô bé, là cô có nhận xét rất chi chính xác thì cô khác phản đối: - Này, đằng ấy nói thế nào đấy chứ. Mắt chị ấy không xếch, mà lại to nữa. Nếu hơi “chậm tiêu“ như thường lệ, chắc tôi sẽ vội lên tiếng đính chính rằng, cô bé ơi, chắc tại cô bé chưa đặt chân lên đất thần kinh, nên cô có suy nghĩ sai lạc về đôi cửa sổ linh hồn của người xứ đó. May quá, bỗng nhiên, trong đầu óc rù rờ của tôi sáng lên ánh chớp, Trung đây là Trung Quốc nằm phía bắc của Cao Bằng, chứ không phải là Trung Việt nằm ở phía nam Hải Phòng. Tôi nào trách chi lời con trẻ nói thiệt, tưởng nhầm tôi là Viết&Đọc Đặc San 2017 65


…thím xẩm. Cho chừa cái tật xí xọn mặc áo chẽn nút vải. Chỉ ngậm mà nghe thôi, đã đau nhoi nhói ở tâm thất trái hết mấy chục phút. Vào hãng, như thường lệ, Ralph chào “Hi“. Tôi muốn ghẹo, giả đò hỏi: - Ông nói Hai với ai đó? - Với Thi. Tại sao? - Tại tui không phải Hai mà là Năm. Biết chưa! Tui là con thứ năm trong gia đình, hai là Zweite, mà tui là Fuenfte, là Năm. - Trời đất, tôi có biết nói tiếng Việt hồi nào đâu. Tôi là người Đức mà. - A, vậy ý ông nói tui là cá mập (Hai: tiếng Đức có nghĩa là cá mập) - Aha, tôi đâu chào bằng tiếng Đức. Tôi không nghĩ đến điều này. Nhưng bây giờ, tôi thấy Thi đúng là cá mập. Ralph cười cười. Từ đó Ralph hay gọi tôi là Hai hoặc Sharky. Giữa hai bàn chúng tôi, gần hai màn ảnh computer to tướng, tôi chưng mấy chậu cây hết đất sống ở nhà tôi, một chậu long tu, một chậu thủy trúc và cây lan hồ điệp chỉ toàn lá. Có lần, tôi đang chăm chú truy cập thông tin trên liên mạng, một tay điều khiển con chuột, tay kia cầm hột xí muội nhâm nhi. Bất chợt, tôi có cảm tưởng bị “theo dõi“, ngước lên, nhìn qua mấy chậu cây, Ralph đang quan sát tôi. Bị bắt gặp, Ralph lúng túng: - Thấy Thi đang ăn say sưa món gì đó, tôi nhìn nãy giờ vẫn chưa nhận ra. Tôi phịa: - Đây là một món trân châu. Vừa ngon, vừa bổ. Tôi lạng ghế qua hộc tủ, lấy hộp kẹo ho đựng xí muội. Mở nắp hộp, tôi chồm qua bàn: - Mời ông ăn thử miếng ngon quê tui. - Cám ơn Thi. Ralph nhón một hột xí muội, cho vào miệng. Tôi không kịp hướng dẫn cách ăn, chưa kịp tưởng tượng phản ứng của Ralph. Mặt Ralph nhăn quéo lại, quýnh quíu lấy khăn giấy, nhả hột xí muội vào khăn. Ralph như chưa hoàn hồn, lắp bắp: - Xin lỗi, xin lỗi Thi nhe. Vị của món này lạ quá. Tôi, tôi không vứt đâu, lát nữa tôi sẽ ăn, và ăn hết. - Ông biết không, ăn chầm chậm thưởng thức. Chứ ông thảy cả hột vào miệng như ăn sô- cô -la là hỏng.- Tôi nói từng chữ, cố giữ cho mình đừng cười rú lên. Chớ Ralph vừa hoảng sợ, lại vừa cảm thấy bị quê mà ngã lăn ra, thì tôi mang tội ngộ sát, hay cố sát chứ chẳng chơi. Ôi, bây giờ lên lớp cho Ralph về nghệ thuật ẩm thực của lứa tuổi thích ô mai, chắc như đàn gảy 66 Viết&Đọc Đặc San 2017

tai trâu. Tôi biết tỏng Ralph chờ tôi quay đi, là len lén vứt hột xí muội vô thùng rác. Tôi tội nghiệp cho số phận hẩm hiu của hột xí muội...trao thân nhằm tướng cướp. Ralph xúi ...khôn tôi nhiều chuyện. Tôi nhận được thư báo tặng cổ phiếu của ngân hàng, phần thưởng đồng đều cho nhân viên còn trong mức lương cố định. Tôi nói, sẽ bán để đãi gia đình tôi vài bữa đại tiệc. Hỏi Ralph sẽ làm gì với mớ cổ phiếu đó. Ralph sửa sửa gọng kính: - Tôi lãnh lương ngoài mức, nên chờ đến tháng ba, khi có kết quả tổng kết tài chánh của ngân hàng, mới có tiền thưởng. Buổi trưa khi đi ăn chung, Ralph rành rẽ chỉ dẫn cho tôi nhiều lập luận để nói chuyện với xếp, đòi lên lương. Tôi rất ngại nói chuyện tiền bạc: - Ralph à, tui cảm thấy hài lòng với lương bổng hiện tại. So với đồng nghiệp cùng phòng, tui là người đến sau rất lâu. - Thi nghĩ như vậy là sai. Thi cũng nhận công việc tương tự như những người khác. Những đòi hỏi trong việc làm buộc phải có thù lao tương xứng. Nếu Thi không chu toàn trách nhiệm, xếp đã “bứng“ Thi đi rồi. - Ờ, ờ, thong thả tui lựa lời nói với xếp. -Tôi hoãn binh. - Thong thả là bao giờ. Chắc Thi không đủ tự tin để nói chuyện chớ gì? - Còn lâu à.-Tôi xửng cồ - Ông chống mắt coi nhe, nội trong tuần, tui sẽ lo xong chuyện này. Có lẽ do câu nói khích của Ralph, tôi đùng đùng gặp boss, dõng dạc: Thưa xếp, tôi có thể nói thẳng với ông... Khi nhận được thư báo tăng lương từ phòng nhân sự, tôi vui vì có thêm xu hào mỗi tháng trong trương mục, nhưng có lẽ vui hơn vì thấy mình đã biết …mở miệng. Tôi kể cho Ralph nghe, rồi đùa: - Vậy là từ nay gia đình tui sẽ ăn tôm gỗ. - Tôi không rành về hải sản, nhưng đoán tôm gỗ ngon lắm. -Ralph ngây thơ, tưởng đó là loại tôm như tôm sú, tôm thẻ, tôm hùm... - Không phải hải sản, mà là mộc sản. Tôm bằng gỗ mà. -Tôi rõ ràng từng chữ. - Tôi đoán sắp được nghe một câu chuyện lý thú.Ralph nói như reo. - Ừ, hồi giờ tụi tui thích ăn đồ biển lắm, mà không có khả năng mua, cho nên tui sắm con cá gỗ. Mỗi bữa dọn lên bàn, ngày nào cũng có cảm tưởng thưởng thức hải vị. Bây giờ lên lương, thì ăn món sang hơn, ăn tôm gỗ đó. -Tôi đều đều giọng văn tả cảnh.


- Chúa ôi! Tôi thấy người Việt có óc khôi hài dễ thương ghê. -Ralph xuýt xoa. - Ông đừng có vơ đũa cả nắm nghe. Có tới mấy chục triệu người Việt, mà ông mới nghe một mình tui nói, đã vội vàng nhận xét này kia.- Tôi ngoe ngoảy. - Thi làm tôi tò mò muốn biết về quê hương của Thi lắm. Kỳ nghỉ tới có lẽ tôi sẽ đến Việt Nam, để coi thú dữ ở đó ...dữ chừng nào. Tôi thấy vui vui, Ralph đâu đến nỗi “u mê” như tôi vẫn thỉnh thoảng hồ đồ tuyên bố. Ralph đi ngang gõ gõ nhẹ bàn tôi: - Thi à! Ngồi thẳng lưng lên. Khòm như vậy hại cột sống đó. Tôi sửa thế ngồi, ậm ừ, mắt vẫn không rời màn ảnh, tay vẫn nhấn bàn phím rào rào. Hồi xưa, tôi đã có thời hài lòng với cái tật khòm của mình. Tại có người ”chôm” đâu đó câu thơ Dáng đứng lưng còm, dễ thương dữ dội! Cho tôi lô ...độc đắc. Bây giờ, lô độc đắc xài hết rồi, tôi đôi lúc muốn ”sửa lưng” mình, mà coi bộ tật thành mãn tính. Tôi đành tự trao giải an ủi, mình có tật, chắc có tài. Tật thì rành rành đó, mà tài nằm đâu kỹ quá, tìm hoài chẳng thấy. Ờ, ờ, nếu bây giờ người ta có hỏi Vẫn tóc ngang vai, vẫn dáng đứng lưng còm? Thì tôi sẽ trả lời rằng... - Thi à, Thi nói bà Krone thủ kho bút chỉ văn phòng đặt mua loại nệm ghế đặc biệt để ngồi cho đúng. Vừa nói, Ralph vừa đưa cuốn Hướng Dẫn Chăm Sóc Sức Khỏe Cho Những Người Làm Việc Văn Phòng. Khỉ thiệt, Ralph lại ”phá đám”. - Ừ, ừ. -Tôi đang tiếc phút mơ màng, để tâm hồn treo ngược ở cành cây nên không thấy Ralph đang nhìn tôi chờ đợi lời cám ơn. Thứ Hai vào, tôi còn mệt đừ vì cuối tuần khách khứa. Lâu lắm rồi, mới rủ rê được bạn bè đến chơi tán nhảm, vui quá trời, nhớ lại tôi cười tủm tỉm. Ralph gởi email cho tôi: ”Trưa nay đi ăn với tôi nghe”. Tôi trả lời trong email: ”Hẹn hôm khác. Cuối tuần tui đã ăn đủ cho cả tháng rồi”. Buồn cười, ngồi đối diện nhau, mà thỉnh thoảng tụi tôi vẫn thư qua lại vèo vèo. Ralph lại gởi email: ”Tôi cần nghe ý kiến của Thi, ăn trưa nhe”. Chà, hấp dẫn đây, được làm quân sư quạt mo. Tôi đứng dậy, chỉ vào đồng hồ, hẹn giờ. Chẳng biết chuyện gì, mà mặt Ralph giống đưa đám suốt bữa ăn. Lúc qua bên cafeteria, tôi nhắc, nói giọng Bavarian: - Ông làm ơn dẹp cái bản mặt bảy ngày trời mưa của ông đi.

- Ừ, tôi cố gắng lắm, mà vui không nổi. - Giọng Ralph rầu rĩ- Tôi tìm được đúng người của đời tôi. Nhưng sai thời điểm. Tôi đang buồn muốn chết. Tôi ráng nín cười. Chu choa ơi, người Đức mà cũng bày đặt tương- tư-thổn-thức- thất-tìnhtoan- tự -tử...Chuyện lạ bốn phương đó chứ. Tôi dịch đại khái câu thơ cà ...muối cho Ralph nghe. Chung vui anh gởi lời mừng, Mai kia ly dị xin đừng quên anh. Giọng Ralph ráo hoảnh: - Tôi đâu có phải chờ. Bettina ly dị rồi. - À, vậy, cô ấy không yêu ông? -Tôi tỏ vẻ hiểu chuyện. - Có, có chứ! - Ủa, vấn đề ở đâu? Thôi, tui không biết sao nữa. Hay là bây giờ ông lây cái ”văn hóa” của tui. Lâu lâu nghệch mặt buồn một bữa, mà chẳng có lý do gì rõ ràng. Ralph chẳng thèm để ý đến cái giọng có vẻ xóc óc của tôi: - Tôi rủ Bettina dọn về ở chung. Nhưng nàng không chịu. Ban đầu nói, cần thời gian suy nghĩ... - Thì cũng phải. Chuyện sống chung phải cân nhắc kỹ càng. Ông thương người ta, phải tập kiên nhẫn chứ. Tôi sốt ruột không chờ Ralph dứt lời. - Tại Thi không biết đó. Cả năm nay rồi, cuối tuần nào tôi cũng chạy mấy trăm cây số thăm nàng. Trời, trời, tưởng gì. Tự thuở khai thiên lập địa, con Rồng cháu Tiên chúng tôi, khi yêu nhau, bất kể mấy núi, mấy sông, mấy đèo cách trở, có ai nề hà gì đâu. - Thì ông chạy thêm một năm nữa, hay miết cho đến bao giờ cô ấy xiêu lòng thì thôi. Đang ủ rũ, Ralph cũng bật cười: - Bộ Thi tính trù cho tôi như vậy cho đến khi về hưu hay sao? Mà đến lúc đó cũng chẳng có gì thay đổi. Mới đây nàng nói với tôi, nàng rất thương tôi, nhưng không muốn bước vào một quan hệ nào nữa. Có lẽ, những sóng gió trong hôn nhân vừa qua đã làm nàng ngại. - Ông còn muốn gì nữa. Ông yêu và được yêu, hạnh phúc quá trời rồi. - Nhưng đâu có sống chung với nhau đâu. - Thì ông hẹn với cô ấy kiếp sau đi. -Tôi nghiêm chỉnh. Ralph quay qua hẳn nhìn tôi: - Thi không giỡn đó chứ. Thể nào Thi sẽ hét toáng rằng, người Âu châu chúng tôi hời hợt, cạn cợt. Nhưng tôi nói thật, tôi thực tế lắm. Những gì đang Viết&Đọc Đặc San 2017 67


hiện hữu trước mắt, mới đáng kể. Kiếp trước, kiếp sau gì đối với tôi chỉ đơn thuần là những từ, những ngữ mà thôi. Tôi nhìn bâng quơ qua cửa kiếng, mùa thu đã đến tự hồi nào. Rừng cây trước cafeteria đổi màu vàng, cam, đỏ. Thấy gió lùa từng đám lá rơi lả tả, tôi tự nhủ, mùa này đi đứng, phải cẩn thận từng bước chân. Không phải tìm chiếc lá vàng để làm bằng chứng yêu ai. Mà lo đạp nhằm lá ướt, trơn trợt, dơ tay với thử trời cao thấp, thì có nước đi đo giường bệnh viện. Chao ơi, thời gian, không gian. Sao mà trật lất vầy trời. Nếu đứng đối diện tôi, bên tách cà phê thoang thoảng hương, không phải là Ralph, mà là một Tuấn, Tú, Tài, Toàn nào đó, một chàng trai nước Việt, chắc tôi sẽ ân cần khuyên nhủ Kiếp nào có yêu nhau thì xin tìm đến mai sau. Cứ ấp ủ, nâng niu niềm mơ ước như vậy cũng đủ hạnh phúc cả kiếp này. Mà không chừng vậy lại đẹp hơn, chứ lỡ, ...có thành đôi lứa chắc gì ta đã thoát ra đời khổ đau... - Chiều nay họp tổng kết quý ba đó. Thôi, trở về văn phòng kẻo trễ. Tiếng Ralph kéo tôi về thực tại. Còn mười lăm phút nữa là phải nhọc lòng, mệt óc với những bận rộn của ...kiếp này. Tôi không còn đủ thì giờ để tâm sự với đồng nghiệp đồng chủng trong tưởng tượng rằng, tôi thương lắm câu ru: Tóc mai sợi vắn sợi dài, Lấy nhau chẳng đặng thương hoài ngàn năm. Hoàng Quân Trích lời trong các nhạc phẩm:

Ta Yêu Em Lầm Lỡ, Phạm Duy https://www.youtube.com/watch?v=I-va7SoCNw8 Em Đến Thăm Anh Đêm 30, Vũ Thành An https://www.youtube.com/watch?v=cQTPqdvIhIE Kiếp Nào Có Yêu Nhau, Phạm Duy https://www.youtube.com/watch?v=luQ12658cI0 Tóc Mai Sợi Vắn Sợi Dài, Phạm Duy https://www.youtube.com/watch?v=szDh_pwYSvs

Nhân nhận sách “Khi Đồng Minh Nhảy Vào” bạn tặng Nhận sách tặng chiều đông Quê hương len vào lòng Thì thầm tiếng thương cũ Ngàn năm vẫn chưa buông Đây những trang sách khổ Dựng nước của những người Đây những trang sách khổ Phá nước của những người Bạn ta xa cố thổ Đã mấy chục năm trời Phương Nam còn ngoái cổ Cuối đời kêu khôn nguôi

Nguyễn Văn Thực

Cốc rượu luân hồi Người say cốc rượu luân hồi Trải bao vạn kiếp men đời chưa quên Trăng tơ rơi vãi bên thềm Tơ bao nhiêu sợi, cô miên bao lần Phù vân, vẫn chỉ phù vân Trải thêm một kiếp thấm dần nguồn đau Vương tình là vướng thêm sầu Đâu là tình cuối, tình đầu để say Tình đi để bóng đổ dài Bao nhiêu lá rụng, thu phai đêm tàn Kiếp người như bóng trăng tan Tan như mây khói, tỏa tràn hư vô

Phụng Long

68 Viết&Đọc Đặc San 2017


Lời Chúc Mừng Năm Mới Nhà vua Harald - Na Uy

Bản Việt ngữ: Dương Kim Hồi mùa hè chúng tôi chọn ra một cây đặc biệt trong Công Viên Hoàng Cung và chúng tôi gọi đó là cây Ước Nguyện. Nhiều người đã tới đấy xem và được mời treo lên cây những hy vọng và mong ước của họ dành cho Na Uy và thế giới. Suốt mùa hè những lời nguyện cầu đó của quần chúng bay lất phất trong gió. Người này tới người khác đến với cây. Cành tiếp cành của cây cổ thụ ấy nặng trĩu những ước vọng của trẻ con, người lớn, thanh thiếu niên và người già, của người dân Na Uy và cả của du khách. Trẫm thật vui khi nhìn thấy nhiều ước nguyện mà họ bày tỏ lại rất trùng với những hy vọng và ước nguyện của chính Trẫm cho Đất Nước và cho tương lai. Năm 2016 là một năm đầy sự kiện đáng ghi nhớ mà Hoàng Gia rất biết ơn. Trong dịp kỷ niệm 25 năm lên ngôi, Trẫm và Hoàng Hậu trong cuộc tuần du bằng đường biển đã cảm nghiệm được lòng hiếu khách và sự nồng nhiệt tận cùng đặc thù Na Uy – qua những lần tiếp xúc với dân chúng trong cuộc ngân khánh tuần du dọc duyên hải Na Uy, và trong các bữa yến trong vườn. Hoàng Hậu và Trẫm chân thành cảm ơn về những kỷ niệm tốt đẹp trong năm đặc biệt vừa qua. Một trong những ước nguyện lớn nhất của Trẫm là chúng ta tiếp tục gặp gỡ nhau trong tinh thần tự

do, không sợ hãi và không bị cản trở, không hàng rào chia cách. Đó là một trong những giá trị cởi mở, đẫm tính cách Na Uy của xã hội chúng ta. Trên cây Ước Nguyện có mẫu giấy một đứa trẻ viết: «Con ước nguyện là mọi người hãy tốt bụng chút đỉnh với chính mình». Trẫm nghĩ đấy là một ước nguyện khôn ngoan. Có nhiều người đã trải nghiệm rằng họ bị đòi hỏi quá nhiều đến nỗi họ phải mệt mỏi rã rời cả tinh thần lẫn thể xác. Nhưng Trẫm cũng có cảm tưởng là nhiều đòi hỏi trong số những đòi hỏi đó lại là những đòi hỏi tự họ đặt ra cho chính mình. Chúng ta mệt mỏi đơn thuần vì chúng ta nghĩ rằng mình không đáp ứng đầy đủ được những đòi hỏi đó. Trẫm trộm nghĩ một trong những điều quan trọng cho con người chúng ta là mình cảm thấy mình hữu dụng. Cảm thấy mình có thể sinh ích, có thể làm tròn công việc mỗi ngày. Nhiều người, những kẻ đang bị thất nghiệp, họ thấy mình như thế. Trong năm nay chúng ta đánh dấu 50 năm đã tìm thấy dầu hỏa ở những giàn khoan Na Uy – Với sự thịnh vượng mà sự kiếm ra dầu hỏa đã mang lại cho Na Uy. Đồng thời nhiều người trong ngành này mới đây đã bị mất việc. Trẫm cảm kích sự quyết tâm đi tìm ý tưởng mới Viết&Đọc Đặc San 2017 69


và những sự thay đổi mới mà Trẫm đã chứng kiến. Một trong những ước nguyện của Trẫm là chúng ta sẽ sẵn sàng để nhìn ra và ôm vào lòng tàinguyên-con-người trong Đất Nước chúng ta; và rằng mọi người có thể cảm nhận mình đang góp sức và cảm thấy mình hữu ích – không lệ thuộc tuổi tác, giới tính, sắc tộc hoặc năng lực lao động. Một bé gái và một bé trai cùng viết một ước nguyện và treo trên cây như sau: «Con mong ước chúng ta làm sao cho phụ nữ được sống an toàn ở Na Uy – và chúng ta không còn phải yêu cầu về chuyện này nhiều lần nữa.» Xã hội chúng ta sẽ là nơi an toàn cho tất cả. Đặc biệt chúng ta nỗ lực làm sao cho những người dễ bị tổn thương nhất nhận được sự bảo vệ tốt nhất. Trong năm 2015 các nhà lãnh đạo thế giới đã đồng thuận với nhau về những mục-tiêu-bền-vững mới để tạo ra một thế giới tốt hơn. Một trong những mục tiêu là tranh đấu chống bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em. Trong lãnh vực này Na Uy đã nhận thấy rằng Na Uy cần phải nỗ lực hơn trong chính quốc gia của mình. Nếu chúng ta sẵn lòng để tạo dựng một xã hội an toàn cho tất cả mọi người, thì điều quan trọng là phải nói lên những điều đang xảy ra, và rằng những người có khả năng hành động là những người biết lắng nghe đồng thời là người có khả năng hành động mạnh mẽ. Ở quận Oppland có một trường tiểu học từ lớp 4 tới lớp 7, thầy cô các lớp này đã ra một đầu bài là viết thư cho vua; những lá thư này sau này Trẫm đã được đọc. Một bé gái đã viết trong thư cho Trẫm: «Rất quan trọng chuyện gìn giữ những truyền thống, để những truyền thống đó không bị bỏ vào bị, và bị vất vào một cái kệ bụi bậm nào đó». Cây là một hình ảnh minh họa rất khéo trong chuyện này. Rễ là di sản và truyền thống. Cây nằm phía trên mặt đất luôn bị đủ thứ là cây đòi hỏi sự chăm sóc xuyên qua các mùa và qua các giai đoạn cuộc sống. Bao lâu cây còn sống, bấy lâu rễ càng lúc càng ăn sâu xuống lòng đất. Ở Na Uy có nhiều truyền thống về tôn giáo lẫn văn hóa. Như mùa Giáng Sinh mà chúng ta vừa mới ăn mừng. Từ ngày mai – ngày 1 tháng Một năm 2017 – Giáo Hội chính thức tách rời khỏi chính quyền. Đồng thời chúng ta đánh dấu 500 năm xảy ra Phong Trào Cải Cách Giáo Hội, một phong trào đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển xã hội. Điều quan trọng là chúng ta phải biết đến cội rễ của chúng ta – và làm cho những thế hệ mới hiểu biết được những mối liên kết trong văn hóa chúng ta. Trẫm muốn nói đến lịch sử, truyền thống tôn giáo, truyện kể, huyền thoại, cổ tích, nhạc và nghệ thuật tạo hình. 70 Viết&Đọc Đặc San 2017

Trong mỗi văn hóa, mỗi quốc gia, sự hiểu biết về di sản này sẽ giúp chúng ta thành nhân hơn. Đây là một gia tài giúp chúng ta nhận ra cội nguồn, chứ không phải sống trong một khoảng chân không. Chúng ta bị ảnh hưởng và có được những cảm hứng từ những nguồn của những người sống trước chúng ta. Sự trải nghiệm này chúng tôi đã trải qua khi năm ngoái Hoàng Hậu và Trẫm mời tiệc đãi khách đa tôn giáo tại Hoàng Cung. Khi chúng ta chia sẽ tư tưởng, những biểu hiện văn hóa và thức ăn từ các rương báu vật của tôn giáo khác nhau, chúng ta tới gần nhau hơn và hiểu nhau hơn. Điều ước nguyện của Trẫm là trong một thời đại luôn có nhiều sự thúc đẩy liên tục từ ngoại cảnh, chúng ta cũng nên dành thời giờ đi vào kho bạc nội tâm riêng của mỗi chúng ta và làm cho nội tâm ấy sống động lên, cho riêng mình và cho nhau. Trẫm có kinh nghiệm là một khi nắm chắc được cội nguồn, thì lúc đó ta sẽ có thể dễ dàng cởi mở tâm hồn với mọi người hơn. Hoàng Hậu và Trẫm đã được nhắc nhở về vị trí của mình trong buổi lễ kỷ niệm ở nhà thờ chính tòa Nidaros ngày 23 tháng 6 – đánh dấu 25 năm chúng tôi được tấn phong tại đó. Được Chúa chúc phúc cho công vụ của chúng tôi – được quỳ xuống nơi phụ hoàng và thái thượng hoàng đã từng nhận lãnh cùng một phước lành này, và chúng tôi cảm thấy được thêm rất nhiều sức mạnh. ------------Thanh niên bày tỏ mong muốn có được sự ổn định, sự cận kề, sự an ổn và những cuộc trò chuyện có tình có lý. Từ trước tới giờ thanh niên gặp nhiều thử thách. Nhưng Trẫm thành thật cảm thông với các bạn trẻ đang đứng trước những sự lựa chọn và chịu nhiều những ảnh hưởng từ bên ngoài và những áp lực rõ rệt hơn so với một hai thế hệ trước. Trẫm cảm kích sâu xa với nhiều bạn trẻ sống trong một bối cảnh như thế. Các bạn là tấm gương cho chúng tôi, những người già, đã không dấn thân đủ vào những vấn đề như môi sinh và sự phân chia phúc lợi. Có nhiều mẫu giấy trên cây Ước Nguyện – đặc biệt là từ những người trẻ nhất – trong đó các em bày tỏ ước vọng về việc ít xả rác hơn và có được một khí hậu tốt hơn. Khi Trẫm thấy rằng các bạn trẻ thời nay có ý thức xã hội và lương tâm ấy, thì Trẫm rất lạc quan cho tương lai. Một trong những ước nguyện thú vị nhất mà Trẫm được nghe trong năm qua, đó là một ước nguyện từ một cảnh sát viên làm việc với những thanh niên trong hoàn cảnh khó khăn. Cuộc đàm thoại giữa ông ta với một trong những số thanh niên được chiếu lên Chương Trình Thời Sự hồi mùa thu. Bạn thanh niên đó cho rằng ông cảnh sát cứ mơ mộng viễn vông khi ông ta cứ tin ông ta có thể thay đổi tính khí của anh và những người bạn


của anh. Cảnh sát viên trả lời: «Có lẽ là thế. Nhưng giấc mơ của tôi bắt đầu từ nơi bạn.» Anh thanh niên nghe thế, liền im lặng. Ước mơ của Trẫm dành cho các bạn. Nếu chúng ta có những ước mơ tốt đẹp dành cho nhau, nếu chúng ta muốn mọi người được tốt – lúc ấy nhiều điều kỳ diệu có thể xảy ra. Thật tuyệt vời khi chúng ta giúp đỡ cho những kẻ khác được khá hơn trong những vùng lân cận, ở đất nước Na Uy, và có khi với tư cách một công dân quốc tế. Một lời cảm ơn đặc biệt tối nay dành cho các bạn thi hành nhiệm vụ ở nước ngoài – và có lẽ đang nhớ thương gia đình và bạn bè thân hữu ngay trong đêm nay. Cảm ơn sự nỗ lực các nhà ngoại giao và các tổ chức nhân đạo, cũng như cảnh sát và những lính chiến bảo vệ - cho hòa bình, ổn định, sức khỏe và an ninh cho đồng loại. Mọi người thân mến, Cả Hoàng hậu và Trẫm trong năm nay sẽ tròn 80 tuổi. Đối với chúng tôi điều này có vẻ như chuyện huyền ảo. Như bao người già đã có kinh nghiệm trước chúng ta, hiếm khi người ta cảm thấy mình già đúng như tuổi tác. Thật là vui khi chúng tôi được gặp nhiều người làm cho cho chúng tôi xúc động, cho chúng tôi nhiều sáng kiến, tạo cho chúng tôi một hình ảnh Đất Nước Na Uy mới mẻ – với nhiều khả năng vươn lên và cả những thử thách. Chúng tôi hy vọng và nghĩ rằng con người sẽ có khả năng tiếp tục xây dựng Đất Nước này bằng những giá trị như lòng tín nhiệm, tấm lòng chung và sự rộng lượng. Những con người sẽ tạo được những dấu ấn trên xã hội chúng ta bằng sức

lực dẻo dai, mạnh khoẻ và bằng kiến thức rộng lớn của họ. Đời sống đã dạy Trẫm điều quan trọng này: Con người thực ra không bị thay đổi nhiều lắm theo giòng thời gian. Chúng ta vẫn cần được ai đó quan tâm đến mình. Chúng ta cần được trở nên hữu dụng. Chúng ta cần được ai đó ghé mắt nhìn – được công nhận - mình là mình. Chúng ta cần có người dành thời giờ để lắng nghe chúng ta và có mặt cạnh chúng ta. Chúng ta cần được biết rằng chúng ta sẵn sàng làm một cái gì đó, đỡ đần một ai đó ngoài mình ra. Cho nên Trẫm rất vui mừng là nơi mảnh giấy phất phơ trên nhánh cây ngoài cùng của cây Ước Nguyện có ghi: «Tôi ước mong một Na Uy vốn phong phú về sự đa dạng, có năng lực để thương tha nhân, nơi Đất Nước đó mình được là mình. Một Đất Nước tự do thứ thiệt!» Trong năm mới Trẫm hy vọng Na Uy, Âu Châu và thế giới sẽ được in những dấu ấn sau: Chúng ta, những người chia sẻ trái đất này công nhận trước hết chúng ta là đồng loại. Chúng ta cùng nhau làm trái đất trong lành hơn. Chúng ta chọn chiến đấu cái ác bằng cái thiện. Và từ cây Ước Nguyện trong Công viên Hoàng cung, lời chúc sau cùng là: «Tất cả mọi ước nguyện trên cây sẽ được toại nguyện». Chúc mừng năm mới!

Viết&Đọc Đặc San 2017 71


Cuối Đường Chưa Đến Dương Kiền

2 Duy mơ về những mùa hè, mùa thu Hà Nội, những phượng vĩ, những cây bàng, cây sấu. Từ ngõ nhà Duy đi ra là phố Lý Thường Kiệt chạy ngang hỏa lò và tòa án, tên cũ là phố Hàng Bông Thợ Ruộm, có lẽ là phố duy nhất bị đổi tên từ ”Hàng này”, ”Hàng nọ” để mang tên một vị anh hùng dân tộc, mà không ai biết tại sao. Từ ngõ Nhà Đo đi về tay trái chỉ vài trăm thước là chùa Quán Sứ, thẳng tới nữa là ga Hàng Cỏ, đi về tay phải là trường Nguyễn Trãi, nếu năm nay còn đi học Duy sẽ lên đệ ngũ. Cách đầu ngõ một quãng ngắn có con phố ở đó có trụ sở cảnh binh, vì thế ngõ Duy ở tên là ngõ Nhà Đo chăng (Đến cảnh binh làm thẻ thì phải đo)? Những cái tên bạn bè lãng đãng trở lại với Duy. Hoàn và Hiển. Huy và Đức. Độ và Lợi. Hiển học trên Duy một lớp, lại lớn hơn Duy tới ba tuổi và lớn cả về xác trong khi Duy còm cõi vì bị hen nặng. Một hôm đang ở trường, năm đó cả bọn học lớp nhì trừ Hiển học lớp nhất trường Quang Trung, Duy lên cơn nghẹt thở, mặt xám ngoét, thầy Dũng sai Hiển cõng về nhà. Mà Hiển cõng được thật, chạy thẳng một mạch hơn hai cây số giao về giao cho nhà Duy. Vì lớn nhất nên Hiển cũng sớm biết yêu và sớm thất tình. Tình yêu của Hiển thuộc loại ngang trái ”cổ điển”. Nhà Hiển nghèo, nhà nàng giàu, chẳng những thế thuộc loại danh giá nhất Hà thành. Chàng nàng yêu nhau, tha thiết nhưng tuyệt vọng. Hiển làm thơ, mê Nguyễn Bính, những vần thơ đau khổ cho 72 Viết&Đọc Đặc San 2017

mối tình khờ dại phải kể là ”hay” vì chân thành với những câu lục bát rất Nguyễn Bính. Nhưng nếu chỉ thế thôi thì rồi cũng qua đi, không ngờ Hiển khai gian tuổi, đi lính. Năm 1953 ấy Pháp cần lính, không ai thắc mắc gì có hay không có giấy khai sinh miễn là cầm được khẩu súng, mà Hiển thì cao lớn trước tuổi. Duy ”phục” Hiển lắm, nhất là Hiển lại đi lính nhảy dù, đội mũ đỏ, áo hoa dù còn mới tinh thẳng nếp. Duy còn nhớ những ngày cuối tháng tư đầu tháng năm 1954, Hà Nội vắng hẳn đi lũ lính Pháp và tây đen say rượu, trận Điện Biên Phủ đã hốt hết lính Pháp vào cái lòng chảo nhỏ hẹp, Hiển đến nhà kéo Duy ra đầu đường nói: ”Tớ sắp đi nhảy, chắc Điện Biên Phủ.” Nhưng Hiển không nhảy. Trời xấu. Xấu cho đến ngày 7 tháng năm, mười ngàn quân Pháp đầu hàng, không có Hiển trong đó. Hiển theo đơn vị vào Nam, người yêu trốn theo Hiển, người lính nhảy dù tí hon ấy gặp được hai cái may một lúc. Tân không liều lĩnh như Hiền nhưng cũng hơn tuổi và sớm trưởng thành hơn Duy. Cũng đã biết yêu, cũng mê thơ Nguyễn Bính. Khi Duy nằm bệnh, Tân đến nói: ”Tớ đi đây.” Duy không biết tại sao Tân đi, nhà Tân nghèo, bố mẹ Tân thuộc loại chất phác tay làm hàm nhai, không ai tính chuyện di cư vào Nam. Nhưng cái tuổi mười bảy đầy mơ mộng ấy thường có những cơn say. Những cơn say ngây thơ của Hiển, của Tân, của Duy không ít thì nhiều là do ”Đoạn tuyệt”, do cùng chất men say của Dũng một đêm trăng kề


mạn thuyền viết thư tỏ tình, của không khí Tự Lực văn đoàn nói chung mà bao cậu bé như Duy vừa qua tuổi đánh khăng, đánh đáo, bắt đầu chán ”Người Nhạn Trắng”, ”Kim Hồ Điệp” của nhà xuất bản Văn Hồng Thịnh mỗi tập hai hào, tập tễnh làm thơ gửi báo “Cậu Ấm Cô Chiêu” của Thi Thi Tống Ngọc, đươc đăng bài thơ đầu đời với bút hiệu Nắng Hè, một truyện ngắn trên tờ Giang Sơn. Những Hiển, những Tân, những Duy chìm đắm trong một Hà Nội phẳng lặng không biết tới lửa chiến tranh ngùn ngụt chỉ cách đấy không đầy vài chục cây số. Phượng đỏ đường Cổ Ngư, ve sầu rền rĩ sân tòa án, kem Phi Điệp, rạp xi-nê Philamonique, bánh tôm bờ hồ, lạc rang húng lìu, sấu giầm cam thảo...làm cho cậu bé dù chỉ mới ở tuổi mười lăm, phải nao nao khi xa Hà Nội. Nhưng chị Khanh của Duy có lẽ ngoài cái nao nao ấy, chị còn mang theo điều mà Duy chưa có trong hành trang thơ dại: một mối tình. Nhà đông con, Duy có bảy anh chị em nhưng chỉ có chị Khanh là con gái sau anh Lý, anh cả Duy. Chị không đẹp, có thể hơi xấu nữa, nhưng có duyên. Sống mũi gẫy của chị, hai mắt buồn buồn làm không mấy ai để ý ngay đến chị nhưng khi chị cười, mắt chị sáng lên, vẻ tươi tắn bỗng xóa đi một cách bất ngờ nhan sắc vốn bình thường của chị. Với Duy đã quá quen, vậy mà Duy đôi khi cũng ngạc nhiên thấy chị bỗng khác hẳn. Thì ra chị đang cười, nụ cười của chị cởi mở, hồn nhiên làm gương mặt chị sáng hẳn lên, khiến người ta quên đi mặt chị có khá nhiều tàn nhang và khi chị không cười thì nhạt nhẽo, phẳng lặng. Anh Phan đã yêu chị vì nụ cười chăng, Duy không biết, nhưng Duy biết là anh yêu chị. Anh là bạn của anh Lý nên thường đến nhà Duy cùng học bài, làm bài. Phòng học cho mấy anh em, thật ra là căn nhà để xe cũ được dọn sạch, không phải là chỗ của chị Khanh. Chị là con gái, có phòng riêng, học riêng nhưng anh Phan giỏi toán lại hơn chị đến hai lớp, là cái cớ để chị mang sách vào hỏi và mỗi khi anh nhăn mặt: -Mới chỉ Khanh hôm trước, đã quên rồi! Thì chị cười. Và nụ cười của chị chẳng những đủ làm anh kiên nhẫn chỉ lại từ đầu, còn có thể đưa anh đến nhà Duy lúc đầu mỗi tuần hai ngày rồi sau gần như mỗi ngày, trên cái xe đạp cũ tuột

xích nhiều lần từ nhà anh tận bên kia hồ Thuyền Cuông. Những cuộc tình của thập niên 1950 hình như chỉ có thế, quá lắm là cái nhìn vụng trộm và cặp má đỏ bừng. Và chiều mấy cậu em, như Duy chẳng hạn. Anh thường đèo Duy lên tuốt bờ hồ mua lạc rang hay sấu giầm, lúc về dặn nhỏ: -Đem vào cho chị Khanh, đừng nói của anh Phan. Chẳng nói của anh Phan thì chị Khanh cũng biết là của anh Phan, vì Duy làm gì có tiền, và làm sao lên tuốt bờ hồ để mua cho bằng được lạc rang của ông Tàu mà chị Khanh vẫn khen ”Lạc béo quá”. Hình như chỉ có một lần hai người bạo dạn bằng với cô Mai hay cô Loan của Tự Lực văn đoàn. Hôm ấy, không biết ở đâu mà chị Khanh có mấy quả nhót. Chị đưa cho anh một quả, anh tính đưa lên miệng thì chị cười, nói: -Phải cà đã chứ, anh Phan! Phan ngơ ngác: -Cà à? Cà thế nào? Chị nói ”Cà thế này này” rồi cầm một quả cà lên áo len, chỗ tay anh. Anh mặc áo len màu xanh đậm, quả nhót để lại những chấm lấm tấm trắng như những hạt mưa bụi đầu xuân. Chị đưa quả nhót đỏ mọng cho anh rồi quay đi thật nhanh. Quả nhót ấy anh có ăn không, Duy không biết nhưng Duy đoán là không vì cả những vết lấm tấm trên tay áo len anh vẫn để như vậy, nhiều ngày sau. Năm 1952 anh bị động viên, nghe nói anh bị đưa vào tận trong Nam học quân sự, với cái bằng tú tài một Pháp, anh ra trường với cấp bậc thiếu úy. Anh tự nhiên đứng vào một phía trong cuộc chiến mà chẳng hề lựa chọn. Vắng anh, chị Khanh cũng vắng nụ cười, gương mặt chị đã phẳng lặng lại càng phẳng lặng hơn. Được cái đơn vị anh quanh quẩn ở chiến trường miền Bắc nên mỗi lần nghỉ phép về Hà Nội anh vẫn lui tới nhà Duy, già dặn hơn, tự tin hơn nhưng mối tình của anh với chị Khanh thì vẫn câm nín như vậy. Thầy đẻ Duy có vẻ sốt ruột, chị Khanh đã hai mươi rồi, ”Cậu Phan là người tử tế” có hôm tự nhiên đẻ nói thế nhưng ”cậu Phan” thì cứ về phép rồi lại đi và chiến tranh Viết&Đọc Đặc San 2017 73


càng ngày càng ác liệt. Mùa xuân năm 1954 Duy còn nhớ bỗng dưng Hà Nội ngập tràn những bướm, phần nhiều là bướm trắng. Bướm bay từng đàn trong sân tòa án, khắp các bãi cỏ ven đường, nhiều hơn hẳn những mùa xuân, mùa hè trước mà Duy được biết. Như bao cậu bé khác, Duy mê bướm, nhiều đêm Duy lẻn đi bắt trứng bướm về để trong màn, sáng hôm sau mấy chú bướm lột vỏ đập cánh yếu ớt trên đỉnh màn. Nhưng Duy không ướp bướm vì anh Phan thường nói ”Đừng ác Duy, thả cho nó bay đi. Một con bướm chết cũng ghê tởm như bất cứ xác chết nào.” Một buổi chiều anh Phan đến chơi, rủ Duy đi bộ một vòng cho mát, Duy chỉ anh xem bướm bay, anh cũng ngạc nhiên:

con bướm thật lớn, thật nhiều màu của anh Phan nhởn nhơ trong những khu rừng, bãi cỏ, những giao thông hào mà người ta điên cuồng đâm chém nhau trong cơn mất trí của cùng một lúc hàng chục ngàn con người. 3 Thời tiết của cái thung lũng này cũng bí hiểm như những khu rừng bao quanh nó. Ban ngày gió Lào nóng như nung khô quánh nhưng khi nắng vừa tắt, sương đã xuống ướt đẫm với cái lạnh cắt da làm cho bọn lính Pháp cố co người lại trong tấm chăn dạ. Paul càu nhàu: -Lạ thật. Tao ở vùng núi Alpe, có tuyết, cũng không lạnh thế này.

-Ô?, em không biết đâu, xa lắm, Điện Biên Phủ.

Paul là sĩ quan Pháp duy nhất mà Phan thân với vì ngang cấp bậc cũng có, nhưng thích nó vì nó thành thật nhiều hơn. Đánh nhau, nó sợ mà không dấu là mình sợ trong khi những sĩ quan khác phần khinh khỉnh với Phan là thăng da vàng, phần cố làm ra giữ truyền thống quân đội. Trong những ngày đầu êm ả ở Điện Biên Phủ, ngoài việc đốc thúc lính củng cố công sự, tuần tiễu thăm dò, Paul thích truyện trò với Phan, và kể về nó không khoa trương:

Sau này thì Duy biết, khi Điện Biên Phủ thành câu chuyện hàng ngày ở Hà Nội, và qua lời anh Lý kể, anh Phan là pháo binh nên từ trước khi Pháp quyết định biến Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm, anh theo đại tá Piroth chỉ huy trưởng pháo binh Pháp lên Điện Biên Phủ quan sát. Rồi sau lần đi dạo với Duy ấy, từ đầu tháng ba không thấy anh tới nữa, anh đã ở Điện Biên Phủ. Cuộc tình của chị Khanh dang dở trong im lặng như nó khởi đầu trong một thành phố giả như bình thản không nghe thấy tiếng đạn pháo từ một thung lũng nhỏ hẹp mà ở Ba-lê, ở Genève, ở Hoathịnh-đốn...người ta chăm chú lắng nghe.

-Ông già tao nuôi cừu trên núi Alpe. Làng Bonneval quê tao ở khoảng giữa Bourg d’Oisans và Le Grand Bornand, mày học chương trình Pháp chắc mày biết. Tao thích núi Alpe, không khí trong lành, phong cảnh thì tuyệt, nhất là mùa xuân và mùa hè, hoa tím, hoa vàng phủ khắp sườn đồi, những cây hồng núi Alpe, rhodéreon, bung ra những chùm hoa rực rỡ. Nhưng tao không thích làm nông dân mà xứ nào cũng vậy, tiếng Việt chúng mày gọi là nha que phải không, nên học hết trung học tao đăng lính, ai ngờ bị đưa qua cái xứ khốn nạn này. Còn mày, tại sao mày lại đi đánh nhau với chính đồng bào của mày?

Ngày 7 tháng năm Điện Biên Phủ thất thủ, số phận anh Phan ra sao mấy ai nhớ tới trong cơn phấn khích của người này, nỗi bồn chồn của người khác. Anh chỉ được cái chép miệng của đẻ: ”Tội nghiệp cậu Phan hiền như cục đất!”. Chị Khanh có buồn không, có khóc thầm không, Duy không biết vì Duy bắt đầu ốm nặng, sốt thương hàn vào lúc ấy vẫn được coi là căn bệnh nguy kịch. Vì thế hình ảnh cuối cùng của Duy về Hà Nội là những đàn bướm trắng lẫn lộn với những

-Tao bị động viên.

-Ừ, nhiều thật nhỉ, nhưng toàn bướm trắng và nhỏ. Có một nơi anh đến, bướm to bằng bàn tay, mà màu thì đẹp tuyệt, có con xanh biếc, có con rực rỡ không biết bao nhiêu màu. -Ở đâu vậy anh?

74 Viết&Đọc Đặc San 2017

-Trốn! -Ừ, tao cũng nghĩ thế, nhưng lại không làm được. Có những người như thế đó, mày gọi là gì thì gọi, nhu nhược, ừ thì tao là thằng nhu nhược. Tất nhiên tao thích đi học, có người yêu, đi chơi lăng nhăng hơn là đánh nhau, nhất là cho nước Pháp mà tao không thích.


Đúng ra là Phan bị động viên vào quân đội Quốc Gia vì quân đội Pháp chỉ nhận những người tình nguyện hay có quốc tịch Pháp nhưng vì binh chủng pháo binh Pháp không bổ sung kịp quân số từ chính quốc, Phan được biệt phái sang pháo binh Pháp. Với Phan, Phan dửng dưng, đàng nào cũng phải bỏ học đi lính, là con đẻ hay con ghẻ cũng thế thôi. Bỗng dưng Paul hỏi quặt sang chuyện khác: -Mày có tin là Việt Minh đánh Điện Biên Phủ không? -Tao không biết, nhưng tao mong là họ đừng đánh, tao cũng sợ chết như mày. Paul chỉ lên mái hầm nói: -Lão Piroth tin là hầm này chịu được pháo của bọn vàng, nếu như bọn đó có thể đưa pháo tới, mà cái đó thì lão không tin. Lạy Chúa, giá mà lão ấy đoán đúng, mình nằm trong cái rọ... Điện Biên Phủ quả là cái rọ, như Paul ví. Một vùng đất bằng phẳng không quá sáu cây số bề ngang, mười hai cây số bề dài, chung quanh là núi cao vây bọc, cách xa phòng tuyến gần nhất của quân Pháp 300 cây số, chỉ có một con đường mòn vô dụng qua Sốp Nạo và Nậm Hu tiến sang Mường Khoa thuộc Thượng Lào và một phi đạo của Nhật để lại đủ cho phi cơ DC3 lên xuống. Cái phi đạo ấy mà ăn vài quả pháo... Đại tá Piroth có lẽ là sĩ quan pháo binh giỏi nhất của quân đội Pháp trên chiến trường Đông Dương. Ông bị mất một tay trong đệ nhị thế chiến nên không kẹp dưới nách chiếc gậy chỉ huy như các tư lệnh khác mà cầm trong tay còn lại bất cứ khúc cây nào ông vớ được để chỉ trỏ, trông ông dễ thân thiện hơn, nhưng không phải vì vậy mà binh sĩ dưới quyền không kính nể vì ông là một tay pháo binh nặng ký. Tướng Navarre không ưa ông nhưng không thể không cần tới ông ở Điện Biên Phủ, nơi mà Navarre đánh ván bài: phải chặn được Việt Minh chiếm Thượng Lào rồi men theo sông Mê-kông uy hiếp Nam Đông Dương. Hay ít nhất đây là “cái nhọt tụ độc” giải tỏa áp lực của Việt Minh ở vùng châu thổ sông Hồng, nơi đã cầm chân già nửa lực lượng cơ động, 44 tiểu đoàn, mà cứ tiếp tục ung thối...Hồi tháng 5 năm 1953 khi đang ở Đức Navarre nhận được

điện thoại của thủ tướng René Mayer từ Paris gọi tới. Trong các trao đổi với Mayer, tuy Mayer không nói rõ, chỉ mập mờ: ”Chúng ta phải tìm ra một giải pháp tháo gỡ trong danh dự.” rồi trước khi lên đường sang Đông Dương ông gặp thống chế Juin để nghe Juin nói: ”...để Việt Minh hiểu rằng họ không có cơ hội giải quyết tình hình bằng quân sự. “ thì ông hiểu ông phải tìm một chiến thắng nào đó đủ để ”tháo gỡ trong danh dự”. Ông có thắng được ở Điện Biên Phủ không? “Chiến lược con nhím” của Salan thành công ở Nà Sản liệu có tái diễn ở Điện Biên Phủ chăng? Giống và khác nhau ở chỗ nào? Liệu Điện Biên Phủ có phải là cái ”vực thẳm nuốt các tiểu đoàn” như Cogny ví von cứ điểm Nà Sản không?” Sau khi cùng Navarre, Cogny, tướng không quân Dechaux và Piroth bay nhiều vòng trên Điện Biên Phủ, cái thung lũng còn ngủ yên với những mái nhà sàn lẫn trong màu xanh bát ngát của núi rừng và những thửa ruộng vuông vức một ngày cuối năm 1953, tướng Gilles đưa con mắt chột hướng về Piroth: -Chúng ta chỉ thắng được bằng không quân và pháo binh. Nếu không có một trong hai cái đó hoặc cả hai thì chúng ta nên quên cái thung lũng chết tiệt này đi. Tôi sẽ nhận nếu anh, Piroth, chính anh chỉ huy pháo binh. Piroth trầm ngâm nhìn những triền núi cao. Nếu Giáp kéo được những khẩu pháo lên đó. Có thể không, chỉ với sức người? Những tin tình báo trái ngược về khả năng pháo của Việt Minh được tăng cường sau khi Trung Cộng rảnh tay ở Triều Tiên như một ẩn số chưa được giải đáp. Cho đến bây giờ thì chưa thấy gì khác ngoài những khẩu 95 ly cũ kỹ, là một thứ trò chơi nếu như đây là lần đầu tiên có một trận địa pháo thực sự, so với những khẩu 105 và 155 ly mà Piroth có. Nhưng còn những mỏm núi kia, nếu Giáp có thể lên được đó và rót xuống, thì không cần có những khẩu pháo mới mà Việt Minh có thể nhận được, Giáp cũng có thể làm câm họng những khẩu 155 ly. Những chỏm núi kia... Không, tụi nó không lên được đó, sức con người không phải thần thánh. Mà lên được đó, tức là phơi mình cho B26 dội bom, không cần phản pháo. Bản đồ pháo binh mà Piroth hoạch định chỉ để bảo vệ các cứ điểm chống lại cuộc tấn công biển người, là điều mà Navarre chờ đợi, để tiêu Viết&Đọc Đặc San 2017 75


diệt những binh đoàn tinh nhuệ của Giáp, giải tỏa áp lực vùng đồng bằng Bắc Việt và thượng Lào. Gilles nói thêm, hướng về Navarre: -Nhưng nếu cái bệnh tim quái ác của tôi nó vẫn tiếp tục quấy rầy thì ông phải nghĩ đến người thay thế tôi. Vả lại, tôi đã chui rúc quá lâu ở Nà Sản rồi. Cái gật đầu của Piroth đưa 14000 quân Pháp lên Điện Biên Phủ. Gilles nói đúng, 14000 quân Pháp với công sự kiên cố cũng không chống nổi biển người nếu không có pháo binh và không quân. Pháo binh và không quân phải nghiền nát ít nhất phân nửa lực lượng địch, may ra quân trú phòng mới làm được phần còn lại ở một trận địa hoàn toàn cô lập, cách xa Hà Nội 300 cây số, một giờ rưỡi giờ bay và chỉ được tiếp vận bằng máy bay. Khi tiếng súng đã nổ thì chỉ có thắng hay bại, không có vấn đề rút vì không có đường rút. Nà Sản khác, nhảy vào Nà Sản cũng là nhảy vào sau lưng địch nhưng bất ngờ và có đường rút. Đằng này, mình chọn chiến trường nhưng địch cũng có quyền chọn, họ sẽ không đánh nếu họ không thắng... Nhưng Piroth đã gật đầu, Gilles không rút lại lời của mình được nữa. Chuyến lên Điện Biên Phủ đầu tiên của Phan là chuyến đi theo đại tá Piroth để ghi nhận những nhận xét và chỉ thị tại chỗ, chuyển về cho ban tham mưu lập bản đồ pháo binh. Điện Biên Phủ còn yên tĩnh, công binh đã sửa xong phi đạo và các buldozer đang đào đất để xây hầm. Như một cuộc đi dạo chơi, có lẽ chỉ có vài tiểu đội của Việt Minh trong những khu rừng ngút ngàn kia đang lặng lẽ theo dõi để báo về cho bộ tham mưu của Võ Nguyên Giáp. Bấy giờ là đầu xuân, nắng hanh vàng đẹp, cỏ cao xanh mướt, thỉnh thoảng điểm những vùng hoa dại rực rỡ với những con bướm muôn màu, lớn hơn bất cứ loại bướm nào Phan đã được thấy. Có một lúc, khi chỉ có một mình đại tá Piroth đứng với Phan, ông bỗng hỏi: -Theo thiếu úy, chiến tranh là một vấn đề kỹ thuật hay vấn đề tinh thần? Rồi như sợ Phan không hiểu, ông nói tiếp: -Kỹ thuật, tức là nếu ta có đủ yếu tố và ta tính đúng thì ta sẽ thắng, còn tinh thần là cái ta không 76 Viết&Đọc Đặc San 2017

tính được hay chỉ ước lượng với rất nhiều sai số. Phan trả lời một cách ngoại giao: -Tôi chỉ là một thiếu úy mới ta trường, không đủ tư cách để bàn với đại tá vấn đề như vậy. Piroth biết thừa Phan không muốn nói ra ý nghĩ của mình, nhưng hình như ông chỉ cần nói điều ông tin với bất cứ ai có mặt lúc đó, dù là Phan hay Gilles hay Navarre: -Kỹ thuật, chỉ là vấn đề kỹ thuật. Cái mái hầm này có chịu được công phá của 105 ly không? Tầm trọng pháo của ta tới đâu để không cho địch đe dọa ta được? Cái khoảng trống kia có an toàn cho ta chưa? Piroth tốt nghiệp Saint Cyr khi ông mới hai mươi tuổi, một hãnh diện cho gia đình và cha ông, chỉ là một hạ sĩ quan đã lăn lộn đủ mọi chiến trường thuộc địa, yêu binh nghiệp nếu không hơn thì cũng ngang yêu bà mẹ của Piroth, người đàn bà vùng rượu nho Sauvingon. Cha ông có hai điều để say mê: ngồi khề khà với chai rượu La Buvette do nho của chính làng ông trồng, vỏ màu tím sẫm bám một lớp phấn trắng «không đâu có» dù là Bordaux hay Baujolais và thằng con trai duy nhất, thằng Peroth phải trở thành sĩ quan của «nước Đại Pháp» La granduer Francais. Ông chẳng hưởng gì nhiều của nước Đại Pháp ngoài lương quèn của một hạ sĩ quan trong thời kỳ cực thịnh của chế độ thực dân suốt từ Phi sang Á nhưng ông yêu đời lính, mê những đêm trăng trên sa mạc Tunisis, nằm phục sau những cồn cát ``chờ bọn mọi`` nghe cái im lặng rùng rợn của sa mạc cũng đầy khoái cảm nhơ khi ông làm tình với vợ sau những ngày dài xa cách. Piroth không phụ lòng ông, học khá, thi đậu vào Saint Cyr, ra trường tuy không là thủ khoa nhưng trẻ nhất trong khóa, gia nhập pháo binh, lăn lộn ở Algérie, Tunusies. Đệ nhị thế chiến mang lon thiếu tá, được De Lattre tin cậy, gặp riêng là ”cậu cậu, tớ tớ”. Năm 1943 bị thương ở Ý phải cưa cụt một tay lên sát vai nhưng vẫn được giữ lại trong quân đội. Thì đây là lúc ông thử sức với Giáp dù De Lattre không còn. Ông coi thường Cogny, khinh ngầm Gaucher, Điện Biên Phủ là ”của ông”, thắng hay bại là ”do ông”, nếu ông khóa miệng được những


khẩu pháo của Giáp thì dù Việt Minh có đánh biển người, có thí bao nhiêu sinh mệnh cũng vô ích. Vì thế trên máy bay trước khi Gilles mở miệng hỏi, ông đã có câu trả lời. Nhưng ông vẫn phải nhìn lên những triền núi gần như dốc đứng, cây xanh trùng điệp, những giải mây trắng là là thỉnh thoảng rực đỏ dưới ánh mặt trời. Ông thốt lên: -Tuyệt quá! Thấy Phan ngơ ngác, ông cười: -Thiếu úy không thấy đẹp à? Cái thung lũng này và mấy triền núi kia đẹp quá chứ. Tháng trước tôi nghỉ phép về quê ngồi uống rượu với ông già ở vườn sau nhìn lên dãy núi Pyréné cũng đẹp thế này là cùng. Ông già mới gởi cho tôi mấy chai do ông tự nấu bằng nho vườn nhà, ông khoe còn ngon hơn La Buvette nữa, để hôm nào mình phải ngồi đây uống rượu mới được.

Nhưng cái ”hôm nào” ấy không có, ông và Phan và hàng chục ngàn những con người khác túi bụi với công việc, cái lòng chảo nhỏ vô danh ấy bụi mù suốt ngày đêm, những hầm hố, những pháo đài mọc lên, cái tên Điện Biên Phủ bắt đầu xuất hiện trên báo chí khắp thế giới, từ Ba-lê đến Hoa-thịnh-đốn, từ Mạc-tư-khoa đến Bắc-kinh. Và rừng già Bắc Việt, nơi đặt bản doanh của Võ Nguyên Giáp. Phan ghét người Pháp, ghét chế độ thuộc địa, yêu nước bồng bột như bao thanh niên ở tuổi Phan, nhưng hôm ấy trước thái độ phấn khích, nghiêm nghị của Piroth, Phan đứng nghiêm đưa tay chào: -Mon colonel! (còn tiếp)

thư cho nhau Ban Thực Hiện Đặc San Viết & Đọc chân thành cảm ơn quý bạn Viết, bạn Đọc cùng các Văn Thi sĩ, Họa Sĩ, Nhạc sĩ góp mặt trong số này. Và cùng với việc đóng góp các sáng tác còn là sự đón nhận nồng nhiệt của quý độc giả, sự khích lệ của quý thân hữu và đặc biệt sự ủng hộ tài chánh cho việc ấn loát số vừa qua của quý vị: Trần văn Nho 200kr, Phạm Đức Thịnh 200kr, Nguyễn Tiến Thành 200kr, Trần Thị Mỹ Ninh 100kr, Diễm Thanh 200kr, Trân Thị Xuân Lan 200kr, Hà Ngọc Anh 200kr Ủng hộ chi phí ấn loát xin gửi vào trương mục của Ban Dang - 0540 62 44336, hoặc vào số di động 952 02 208(vipps)với ghi chú ”VD17”. Ước mong mọi công sức của chúng ta sẽ được gói trọn trong Đặc San Viết & Đọc Xuân Đinh Dậu 2017, một món quà trao cho nhau trong ngày đầu Năm Mới. Một lần nữa xin chân thành cảm ơn và kính chúc toàn thể quý vị Năm Mới an khang thịnh vượng. Ban Thực Hiện Viết&Đọc Đặc San 2017 77


78 Viết&Đọc Đặc San 2017


Viết&Đọc Đặc San 2017 79


80 Viết&Đọc Đặc San 2017


Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.