Trần Nhân Tông đời - đạo không hai _ trial

Page 1


TRẦN NHÂN TÔNG, ĐỜI – ĐẠO KHÔNG HAI

Nguyễn Thế Đăng

Cuốn sách được xuất bản theo hợp đồng bản quyền giữa

Tác giả Nguyễn Thế Đăng và

Công ty TNHH Xuất bản Thiện Tri Thức.

Bản quyền tiếng Việt © 2024 Công ty TNHH Xuất bản Thiện Tri Thức

Không chấp nhận mọi hình thức sao chép, in ấn hoặc chuyển thể sang các

hình thức xuất bản điện tử nào mà chưa có sự cho phép của Thiện Tri Thức.

Team thực hiện: Thảo Triều - Thủy Mộc - Biko - Khánh Linh - HalidayKhánh Minh - Thái Hiền - Mầu Quang Hưng

Địa chỉ: Số 75B, Phố Yên Phụ, phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội Tel: 0328.033.988

Website: https://thientrithuc.com.vn/

Mọi thông tin xin gửi về:

• Góp ý về biên tập: edit@thientrithuc.com.vn

• Tư vấn về dịch vụ xuất bản: contact@thientrithuc.com.vn

3.

4.

5.

7.

9.

11.

Lời mở đầu

Người Việt Nam chúng ta, có lẽ không ai

không biết đến tên Đức vua – Thiền sư Trần

Nhân Tông, người đã hai lần trực tiếp đánh đuổi

quân Nguyên Mông xâm lược, và cũng là người

trong gần mười năm cuối đời đã xuất gia để làm

Sơ tổ phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử.

Điều quan trọng là không phải ngài sống hai

giai đoạn đời và đạo tách biệt nhau: sống ở đời, làm việc đời (làm vua) và cho đến mười năm cuối

thì xuất gia, tu đạo. Ngài đã học và hành đạo ngay

khi còn niên thiếu, vì với ông nội là một vị vua –thiền sư tức vua Trần Thái Tông, và với người cha

cũng là một vị vua – thiền sư tức vua Trần Thánh

Tông, thì quan tâm tới con đường tâm linh khi

còn trẻ là điều bình thường.

Trần Nhân Tông, Đời - Đạo không hai

Cho đến khi đã xuất gia (1298), theo Đại Việt

Sử Ký Toàn Thư chép, “Năm 1301, Thượng hoàng

vân du các nơi, sang Chiêm Thành”. Chỉ một việc

sang Chiêm Thành thôi, ngài đã là người có công

trong việc mở nước về phương Nam, bằng biện

pháp hòa bình. Xuất gia mà vẫn làm công việc

ngoại giao, văn hóa của một Thượng hoàng, cho thấy đạo và đời luôn luôn gắn bó với nhau vậy.

Cuốn sách này có đầu đề là “đời – đạo không hai”. Từ “không hai” là một từ của Phật giáo, “bất nhị”. Đời thay đổi theo dòng thời gian, như lịch sử không bao giờ lập lại. Đạo thì không thay đổi, như

Bát nhã Tâm kinh nói, “không sanh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm”.

Cho nên sống đạo Phật là sống “bất biến tùy duyên”. Sống bất biến là sống đạo, đồng thời sống tùy duyên là sống đời, cả hai trong một đời sống của một con người.

Ngài Trần Nhân Tông là một tấm gương, sống

bất biến tùy duyên, cho không những dân tộc ta mà còn cho thế giới. Sự tùy duyên của ngài, chỉ

nói về việc chiến tranh, thì đã đạt đến cấp độ cao

nhất trong một hoàn cảnh ngặt nghèo nhất: cả ba

lần kinh đô Thăng Long đều bị đốt phá tan hoang.

Sự bất biến của ngài, đó chính là tâm trí huệ rỗng

rang không cố chấp (mà ngài gọi là “thị phi tiếng lặng”) và từ bi “thương khắp” của ngài.

Sau chiến tranh, về thấy hai con ngựa đá

lấm bùn trước hoàng thành đã cháy, ngài thốt

lên hai câu:

Xã tắc hai phen phiền ngựa đá

Non sông nghìn thuở vững âu vàng.

Hai câu thơ trên không chỉ nói lên niềm tin

vào sự vững vàng muôn thuở của non sông đất

nước, mà còn là niềm tin vào phần tâm hồn, vào tinh thần của người Việt. Phần tinh thần ấy là

điều mà ngài suốt đời phụng sự, đó là Phật giáo

tại đất nước Việt Nam.

Niên thiếu chưa từng

rõ Sắc Không

Đ

ây là câu đầu tiên trong bài Xuân Vãn của

ngài. Bài này nói sơ qua về con đường tâm linh cá nhân:

Niên thiếu chưa từng rõ sắc – Không, Một xuân tâm ở tại trăm hoa

Khuôn mặt chúa Xuân nay khám phá

Giường gỗ, đệm thiền ngắm rụng hồng.

Niên thiếu chưa từng rõ sắc – Không. Vào thời niên thiếu, chưa từng rõ (liễu), chưa từng

Trần Nhân Tông, Đời - Đạo không hai

ngộ (liễu ngộ), ch ưa từ ng biết trực tiếp tánh

Không là gì.

Chưa có kinh nghiệm tâm linh trực tiếp về

tánh Không, nhưng không phải ngài không có

kiến thức và không học hỏi về tánh Không, bởi vì

ông nội ngài là vua Trần Thái Tông (1218 – 1277)

và cha ngài là vua Trần Thánh Tông (1240 – 1292)

đều là những người ngộ đạo, và ngộ đạo khi đang

làm vua.

Vua Trần Thái Tông, ông nội của ngài, trực

ngộ tánh Không như thế này:

“Vì thế trẫm cùng mọi người trở về kinh,

miễn cưỡng lên ngôi. Trong khoảng hơn mười năm, mỗi khi rảnh việc trẫm lại hội họp các tôn

đức để tham thiền hỏi đạo, và các kinh điển đại giáo thì đều tham cứu. Trẫm thường đọc kinh

Kim Cương, một hôm đến chỗ ‘ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm’ (hãy nên sanh tâm vào chỗ không trụ), vừa gấp sách lại ngâm nga, bỗng nhiên tự

ngộ. Lấy chỗ ngộ ấy làm bài ca này, đặt tên là

Thiền tông chỉ nam.

Niên thiếu chưa từng rõ Sắc Không

Năm ấy, quốc sư từ núi Yên Tử về kinh, trẫm

mời ở chùa Thắng Nghiêm để in kinh sách. Trẫm

đưa sách này cho quốc sư xem. Sư mới xem qua

một lần, đã tán thưởng:

– Tâm của chư Phật ở hết cả trong này, sao

không in thành kinh để chỉ dạy cho hàng

hậu học?”

Cha ngài, vua Trần Thánh Tông, trong bài

Độc Đại Tuệ ngữ lục hữu cảm, viết:

Đập ngói dùi rùa ba chục niên

Bao lần xuất hạn bởi tham thiền

Một mai biết suốt khuôn mặt mẹ

Mặt mũi nguyên lai thiếu một bên.

Trước mắt không sắc, tai không thanh

Một phiến tâm đầu tự đúc thành

Thanh sắc chẳng can, ngoài môi lưỡi

Mặc người lí nhí với lao xao.

Sống trong một nền văn hóa của gia đình và

dòng họ như vậy thì câu nói “niên thiếu chưa từng

Trần Nhân Tông, Đời - Đạo không hai

rõ sắc – Không” chỉ có nghĩa là ngài chưa ngộ tánh Không, chứ ngài vẫn nghe, học, đọc, nghiên

cứu (Văn), và có lẽ thêm cả tư duy (Tư), rồi thiền

định thiền quán về tánh Không (Tu).

Đây là một khác biệt rất lớn giữa cái học ngày nay với thời xưa. Ở Ấn Độ và Trung Hoa, từ khi

đi học cho có được một nghề nghiệp để sống ở

đời, người ta đồng thời phải học để biết con người

còn có một đời sống tâm linh.

Chẳng hạn, câu đầu tiên của sách Đại Học thuộc Khổng giáo là: “Cái đạo của đại học, cốt ở

làm sáng cái đức sáng, cốt ở đổi mới cho dân, cốt

ở dừng nơi chỗ chí thiện”. (Đại học chi đạo, tại

minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện).

Với đạo Phật, trên mười tuổi là người thiếu

niên đã bắt đầu được học về nhân quả, định luật quản lý đời sống cá nhân và xã hội. Được học

rằng có một đời sống tâm linh, có một trạng thái “tâm” siêu vượt gọi là Niết bàn, biết ngay trong thân thể sẽ già, chết này vẫn luôn luôn có một cái

thân siêu vượt, bất biến gọi là pháp thân… Mặc

dầu để kinh nghiệm trực tiếp cái này là một công

việc suốt đời và với người bình thường người ta

Niên thiếu chưa từng rõ Sắc Không

chỉ kinh nghiệm được phần nào, nhưng chỉ niềm

tin và kinh nghiệm phần nào ấy cũng cho người

ta sống hạnh phúc, không lo âu và vượt qua được cái chết.

Từ thời niên thiếu ngài đã học để lên làm vua, đồng thời vẫn tu tập, như cha mình, “đập ngói dùi

rùa ba chục niên, bao lần xuất hạn bởi tham thiền”.

Cho đến tuổi trưởng thành, khi đang làm vua và

chuẩn bị cho lần thứ ba quân Nguyên Mông tiến

đánh, ngài đã thấy ra “khuôn mặt chúa Xuân” và

cũng là “khuôn mặt xưa nay của chính mình”:

Khuôn mặt chúa Xuân nay khám phá

Giường gỗ, đệm thiền ngắm rụng hồng.

Giai đoạn quyết định này sẽ được nói ở sau, ở đây chỉ nói sự khám phá được khuôn mặt xưa nay của mình, bản tánh của mình, tự tâm của mình, pháp thân của mình, Phật tánh của mình, tánh giác của mình… đã biến đổi cuộc đời ngài như thế nào.

Một điều dễ thấy là từ khi “khuôn mặt chúa

Xuân nay khám phá” thì những bài thơ của ngài

Trần Nhân Tông, Đời - Đạo không hai

thường có chữ “xuân”. Trong khoảng gần ba mươi bài thơ, thì có đến mười bốn bài có chữ “xuân”.

Đời sống tâm linh, sống Đạo không chỉ đem lại sự hoan hỷ, vui tươi, mới mẻ… mà những phẩm

tính này là sự biểu lộ của cội nguồn tâm linh. Đời sống bình thường trở thành sự biểu lộ của năng

lượng nguyên thủy của đời sống tâm linh. Năng

lượng của đời sống tâm linh biến cuộc đời đầy đủ

vật chất của một vị vua thành một môi trường, đạo tràng của tự do, giải thoát, hoan hỷ tràn bờ,

trước kia chưa từng có:

Ai buộc mà đi cầu giải thoát

Chẳng phàm, nào phải kiếm thần tiên… (Sơn phòng mạn hứng)

Khi thấy biết khuôn mặt xưa nay của chính mình thì ý thức bị trói buộc trong bốn câu, “có, không, vừa có vừa không, không vừa có vừa không” được vượt qua, những mâu thuẫn lòng thòng (sắn bìm) bị bỏ lại. Phiền não, trói buộc vì chỉ sống trong vòng vây hạn hẹp của ý thức, khi cắt đứt được sắn bìm lòng thòng mâu thuẫn của

ý thức thì cái vô hạn mở ra, tự do ngay trước mặt:

Niên thiếu chưa từng rõ Sắc Không

Câu có câu không

Từ xưa từ nay

Chấp ngón mất trăng

Chết đuối đất bằng.

Câu có câu không

Như vậy như vậy

Tám chữ mở toang

Toàn không vấn đề.

Câu có câu không

Quay phải quay trái

Thuyết lý om sòm

Ồn ào tranh cãi.

Câu có câu không

Rầu rầu rĩ rĩ

Cắt đứt sắn bìm

Đây kia vui vẻ.

Trần Nhân Tông, Đời - Đạo không hai

Chứng ngộ khuôn mặt chúa Xuân là chứng ngộ được Không, tánh Không.

“Niên thiếu chưa từng rõ sắc – Không”: thời niên thiếu có học về sắc – Không, nhưng đó chỉ là

hai khái niệm của ý thức. Sắc là tất cả những hình tướng do mắt thấy, đây là thế giới hiện tượng. Và

Không, tánh Không là “thế giới” bản thể. Thế giới

hiện tượng của sắc thì khác biệt nhau muôn ngàn

hình tướng, chẳng nối kết gì với nhau. Sự khác

biệt, thậm chí trái ngược, chống đối lẫn nhau tạo

thành thế giới sanh tử, phân mảnh, từ đó có phiền

não, khổ đau.

Ý nghĩa đời người là phải tìm ra nền tảng, môi

trường nguyên thủy nối kết tất cả các khác biệt phân mảnh ấy lại. Nền tảng, môi trường nguyên

thủy này là tánh Không và tánh Không này phải không còn là một khái niệm, mà là được thấy và

biết để trở thành nền tảng đầu tiên và cuối cùng cho tất cả mọi biểu hiện của trời đất người.

“Khuôn mặt chúa Xuân nay khám phá”: khám phá được tánh Không thì “sắc tức là Không, Không tức là sắc”. Cả hai không còn khác biệt mà hòa hợp với nhau để trở thành Một. Đây là

Niên thiếu chưa từng rõ Sắc Không

đời sống chân thực không bị phân hai. Khi ấy thế giới hình tướng (đời) không khác với thế giới bản

thể (đạo). Thế giới vật lý không khác với thế giới

tâm linh. Đây là con đường mà suốt đời ngài Trần

Nhân Tông theo đuổi.

Khi sắc và Không không khác, hòa nhập làm

một, thì đây là tự do, vô sự, an lạc:

Giường gỗ, đệm thiền ngắm rụng hồng.

Khuôn mặt chúa Xuân, nói theo chữ dùng

trong các kinh, như kinh Pháp Hoa, là “thật tướng

của tất cả các pháp”, thật tướng của tất cả mọi sự.

Thật tướng ấy là nền tảng cho cuộc đời chúng

ta, từ xưa cho đến nay và mãi mãi về sau.

Thấy được khuôn mặt ấy, thật tướng ấy thì tất

cả mọi sự biến thành thật tướng. Như một tấm gương biến tất cả hình bóng phản chiếu trong nó

thành chính tấm gương.

Thấy và sống được trong thật tướng ấy thì mọi

sự luôn luôn mới, vì như tấm gương, các hình

Trần Nhân Tông, Đời - Đạo không hai

bóng chưa bao giờ “in chết cứng” vào tấm gương, nên các hình bóng luôn luôn mới.

Luôn luôn mới vì trong tấm gương, không có thời gian và không gian làm giới hạn.

Thật tướng của tất cả mọi sự là Vô Tận Tạng,

danh hiệu của một Bồ tát trong các kinh Đại thừa.

Sống trong thật tướng của tất cả mọi sự, trong Vô

Tận Tạng không có thời gian và không gian cho

nên đời sống luôn luôn mới.

Chính vì không có cái gì là cũ, nên trong bài

giảng tại chùa Sùng Nghiêm, năm 1306, khi có vị

tăng hỏi: Dùng công án xưa để làm gì? Nhà vua, lúc đó đã xuất gia, trả lời rằng:

Mỗi lần đưa ra là một lần mới

(Nhất hồi niêm xuất nhất hồi tân).

Thấy cuộc đời luôn luôn mới, sự vật, thời gian không gian, luôn luôn mới; mọi sự đều được đổi mới tái sanh mỗi ngày, đây là đời sống đích thực

để có thể gọi là đời sống vĩnh cửu.

Thật tướng của đời sống

Đời sống, như chúng ta đều biết, gồm có ba tương quan. Đối với một cá nhân ba tương

quan ấy là: tương quan với những người khác, với

thế giới, và với chính mình. Chính mình đây là

phần thân thể với các giác quan, phần ý thức, tình

cảm, ý chí… và phần tâm linh, cả hai phần gọi là thân – tâm.

Thật tướng của đời sống, thật tướng của tất cả các pháp, là thật tướng của “mình, người và thế giới”. Thật tướng ấy, đối với vua Nhân Tông thì như thế nào?

Trần Nhân Tông, Đời - Đạo không hai

Dứt trừ nhân ngã, thì ra thật tướng kim cương.

Dừng hết tham, sân, mới lảu lòng mầu viên giác.

Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến

Tây phương.

Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về

Cực Lạc.

(Cư Trần Lạc Đạo Phú, Hội thứ Hai)

Người ta không thấy ra thật tướng của đời

sống, “thật tướng kim cương” của đời sống, bởi

vì những che chướng do phân chia ta – người

(nhân - ngã), chủ thể và đối tượng, tâm và cảnh.

Sự phân chia này là một thói quen của ý thức, làm cho thế giới trở nên phân mảnh và những

phần tử phân mảnh trái nghịch nhau, mâu thuẫn nhau, chống đối lẫn nhau. Ý thức phân biệt ra ta – người, chủ thể và đối tượng, tôi và thế giới. Mục tiêu của tất cả các tông phái Phật giáo là xóa bỏ sự phân chia sai lầm và giả tạo này, để nối kết hàn gắn lại những chia rẽ, để hoàn nguyên lại một thế giới không hai (bất nhị) như bao đời nay thực tại vẫn là như thế.

Thật tướng của đời sống

Do ban đầu có ý thức phân biệt, chia rẽ này

dần dần tạo thành các phiền não tham, sân, ganh

tỵ, kiêu căng, đố kỵ… Tham vì thấy cái gì đó ở ngoài mình, khác với mình. Tham nhưng không

sở hữu được, người khác lại giành được, thì khởi lên sân giận, bực tức…

Ta – người, tham sân chỉ là những cái thấy ở

mặt ngoài, những xúc cảm ở mặt ngoài. Không bị

cái thấy phân chia ta – người làm mờ mắt, không

thấy có sự phân chia tuyệt đối giữa ta – người: ta

hoàn toàn tách biệt với người, người hoàn toàn

khác biệt với ta, thì cũng vẫn một đời sống này, nhưng được kinh nghiệm hoàn toàn khác. Không

bị che mắt bởi cái thấy phân chia ấy, thì đời sống

thật ra là thật tướng kim cương. Thế giới hoàn nguyên lại thành trong suốt, không chia cách, sáng tỏ, “một vị”.

Không có tham sân, lấy bỏ, thương ghét… thì thấy ngay xưa nay mình vẫn ở trong “lòng mầu viên giác” (tánh giác, tánh Phật) thông suốt đất trời, chúng sanh, muôn vật. “Mình, người, và thế giới” thật ra là thật tướng kim cương, thật ra là

lòng mầu viên giác, thật ra là tánh giác.

Trần Nhân Tông, Đời - Đạo không hai

Trong thật tướng kim cương, trong pháp tánh (dharmata) kim cương; mình – người không cách

hở mảy may. Trong lòng mầu viên giác, trong bản tánh của tâm, đâu đã từng có tham sân, cho nên

tham sân bề ngoài không thể ô nhiễm.

Lòng mầu viên giác, trong những Hội về sau, ngài gọi là một lòng, mà chữ Hán thường dùng là

Nhất Tâm.

Tin xem!

Miễn cốc (biết) một lòng

Thì rồi mọi hoặc.

(Cư Trần Lạc Đạo Phú, Hội thứ Tư)

Thật thế!

Hãy sá vô tâm, tự nhiên hợp đạo

Dừng tam nghiệp mới lặng thân tâm

Đạt một lòng thì thông Tổ giáo.

(Cư Trần Lạc Đạo Phú, Hội thứ Sáu)

Một lòng (nhất tâm), nói theo kinh Pháp Hoa là

“Nhất Thừa”. Những chữ khác gọi là “một Pháp thân

của tất cả chư Phật”, một Pháp giới Nhất Chân…

Thật tướng của đời sống

Như kinh Hoa Nghiêm, phẩm Dạ Ma cung kệ

tán nói:

Như tâm, Phật cũng vậy

Như Phật, chúng sanh đồng

Tâm, Phật, và chúng sanh

Cả ba không sai khác. ***

Các kinh điển và các tông phái cao cấp đều

nói rằng, tâm mỗi người có sẵn Phật. Vua Nhân

Tông cũng nói.

Vậy mới hay,

Bụt ở cong (trong) nhà

Nhân khuấy (quên) bản nên ta tìm Bụt,

Đến cốc (biết) hay chỉn Bụt là ta.

(Cư Trần Lạc Đạo Phú, Hội thứ Năm)

Bản là căn bản, gốc rễ, nền tảng. Và cái bản

(Phật) ấy vẫn không lìa ta một phút giây nào, dù ta có long đong bao nhiêu trong phiền não

sanh tử.

Trần Nhân Tông, Đời - Đạo không hai

Tin ta vốn (bản) là Phật, đây là năng lượng

lớn cho ta gỡ bỏ những phiền não chướng và sở

tri chướng giả tạo. Một trong những cách gỡ bỏ ấy là phát huy các thiện căn nơi ta để mọi thứ không

phải ta rơi rụng. Lúc ấy mới thấy rằng chúng ta vốn là, vẫn là Đức Thích Ca, Đức Di Lặc:

Tích nhân nghì, tu đạo đức

Ai hay này chẳng Thích Ca.

Cầm giới hạnh, đoạn ghen tham,

Chỉn thực ấy là Di Lặc.

(Cư Trần Lạc Đạo Phú, Hội thứ Tư) ***

Khi thấy và sống trong thật tướng kim cương, trong lòng mầu viên giác, thì mọi sự vật, mọi tướng xuất hiện đều thanh tịnh vì xưa nay chúng vốn thanh tịnh.

Tất cả đều xưa nay thanh tịnh, trong sạch, đó là Tịnh độ trước mắt: “Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương”.

A Di Đà là Vô Lượng Quang, ánh sáng vô lượng. Ánh sáng này là ánh sáng của tự tâm,

Thật tướng của đời sống

sáng soi các thế giới. Cho nên khi thấy và sống

được trong bản tánh của tâm thì đó là tính sáng

soi, đó là A Di Đà, “nào phải nhọc tìm về Cực Lạc”.

Đây là điều kinh Duy Ma Cật nói:

“Thế nên, Bảo Tích! Nếu Bồ tát muốn được

Tịnh độ hãy tịnh tâm mình. Tùy tâm mình tịnh

tức cõi Phật tịnh.”

Khi tâm mỗi người trở lại cội nguồn thanh

tịnh vốn có của nó, người ấy thấy thế giới này là thanh tịnh và sống trong thế giới thanh tịnh ấy.

Bài kệ chấm dứt Cư Trần Lạc Đạo Phú là:

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên

Cơ tắc xan hề khốn tắc miên

Gia trung hữu bảo hưu tầm mích

Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.

(Ở đời vui đạo hãy tùy duyên

Đói thì ăn, hề, mệt ngủ yên

Trong nhà có báu thôi tìm kiếm

Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền).

Trần Nhân Tông, Đời - Đạo không hai

Trong nhà có báu, báu đó là thật tướng kim

cương, là lòng mầu viên giác, là lòng trong sạch, là tính sáng soi. Trong thân tâm mỗi người vốn có sẵn của báu, đó là bản tánh của tất cả mọi sự

vật, cũng là bản tánh của tâm, và bản tánh ấy vốn thanh tịnh, nên tất cả mọi hiện tướng, mọi niệm tưởng khởi hiện từ đó đều là thật tướng kim

cương, đều là lòng mầu viên giác, đều thanh tịnh, sáng soi. Chính nhờ bản tánh vốn thanh tịnh này

mà cõi trần gian chuyển thành cõi Phật thanh

tịnh, sanh tử được thấy là Niết bàn, thức phân

biệt được chứng thực là trí vô phân biệt.

Của báu tánh giác ấy vốn có sẵn, cho nên đời

được thấy là đạo, sanh tử khổ đau được thấy là

Niết bàn tịnh lạc. Cái thấy biết này vốn có sẵn, ngay trong nhà có báu, nên ngài Trần Nhân Tông

mới chỉ dạy cho chúng ta “ở đời vui đạo”, “thôi

tìm kiếm”, vì bản tánh, thật tướng của đời chính

là đạo.

Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.