BÀI TẬP CUỐI KHÓA: VĂN HÓA HỌC

Page 1

THỨ BA, NGÀY 24 THÁNG 05 NĂM 2022

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC TPHCM

BÀI TẬP TIỂU LUẬN NHÓM

BỘ MÔN VĂN HÓA HỌC

ĐỀ TÀI: BIỂU TƯỢNG MẮT THẦN

HORUS TRONG VĂN HÓA AI CẬP

GVHD: Cô NGUYỄN AN THỤY

Phạm Hạ Nguyên 19510801698 Lê Đặng Thảo Nhân 19510801699 Phạm Thị Yên Thi 19510801726 Võ Trúc Vy 19510801749 Dương Thị Mỹ Hòa 19510801670 Đồng Thị Gia Linh 19510801678 Nguyễn Thị Hoàng Cúc 19510801657 Trần Thị Diễm My 19510801690 Hoàng Thị Thuỳ Trang 19510801734
SÁCH NHÓM
DANH
MỤC LỤC A.LỜIMỞ ĐẦU 02 01 03 CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA CHƯƠNG II BIỂU TƯỢNG MẮT THẦN HORUS TRONG VĂN HÓA AI CẬP CHƯƠNG III ẢNH HƯỞNG CỦA BIỂU TƯỢNG MẮT THẦN HORUS ĐẾN CÁC NỀN VĂN HÓA KHÁC TRÊN THẾ GIỚI C.KẾTLUẬN D.TÀILIỆU THAMKHẢO B.NỘIDUNGCHÍNH

A. LỜI MỞ ĐẦU

Văn minh Ai Cập là một trong những nền văn minh phát triển rực rỡ nhất của thế giới

cổ đại. Cho đến nay, những thành tựu ấy vẫn làm cho con người không khỏi thán

phục, ngạc nhiên trước sức sáng tạo kỳ diệu của người Ai Cập xưa. Và mắt thần

Horus là một trong những biểu tượng đặc biệt gắn liền với nền văn hóa Ai Cập cổ đại

mà cho đến tận ngày nay, nó vẫn giữ nguyên sức hút lẫn tầm ảnh hưởng đặc biệt kéo dài xuyên không gian lẫn thời gian.

Vì vậy, mục tiêu của nhóm chúng em trong bài tập lần này là hướng tới việc tìm hiểu nguyên nhân sự hình thành của biểu tượng này trong văn hóa Ai Cập để lý giải vì sao mắt thần Horus lại được lựa chọn để trở thành một biểu tượng văn hóa của người Ai Cập cổ đại. Đồng thời, đưa ra quan điểm chung của nhóm về những điều bí ẩn, những mối liên hệ giữa mắt thần Horus đối với các nền văn hóa trong những khu

vực khác trên thế giới.

CHƯƠNGI:

TỔNG QUAN VỀ

BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA

o Định nghĩa biểu tượng

o Định nghĩa văn hóa

o Định nghĩa biểu tượng văn hóa

o Vai trò của biểu tượng văn hóa

A. BIỂU TƯỢNG LÀ GÌ?

o Biểu tượng bao gồm mọi dạng thức hình ảnh (tĩnh & động) được phô bày, biểu

hiện trực tiếp nhằm tác động đến các cơ quan cảm xúc của con người, khiến

họ cảm nhận được một ý nghĩa trừu tượng thông qua biểu tượng đó.

o Mặt khác, biểu tượng là một dấu hiệu, một qui ước ngầm được chấp nhận bởi

một nhóm người, một cộng đồng cụ thể.

Mang nhiều ý nghĩa sâu sắc và phức tạp hơn các dạng

hình ảnh kia - thậm chí ý nghĩa của biểu tượng cũng

không thực sự giống với những gì chúng biểu hiện.

 Con người sẽ phải tìm hiểu nhiều hơn để hiểu được ý nghĩa của biểu tượng đó.

 Biểu tượng chỉ được chấp nhận đối với một nhóm người nhất định và có thể được giải thích theo nhiều nghĩa khác nhau.

Truyền đạt thông tin hoặc đại diện cho một đối

tượng cụ thể được mô tả đúng với những gì chúng

biểu hiện.

 Con người có thể dễ dàng hiểu được ngay các hình ảnh này nghĩa là gì.

 Có thể sử dụng rộng rãi đối với tất cả mọi người bởi con người có thể trực tiếp hiểu được ý nghĩa của chúng.

Biểu tượng hòa bình: được ra đời trong một chiến dịch kêu gọi các cường quốc cắt giảm vũ khí hạt nhân của người Anh, vào năm 1958.

Theo lời giải thích của tác giả Gerald Holtom, mỗi chi tiết trên biểu tượng hòa bình mà ông thiết kế ra đều mang một ý nghĩa riêng. Cụ thể là dựa trên hệ thống tín hiệu semaphore, đường thẳng ở chính giữa đại diện cho chữ “D”. Trong khi đó, 2 đường kẻ chéo phía dưới là biểu thị cho chữ “N”. Khi ghép lại chúng ta được “N D” viết tắt của “ Nuclear Disarmament” có nghĩa là “Giải trừ vũ khí hạt nhân”, trong tiếng Việt.

Ký hiệu là một dạng hình ảnh truyền tải thông tin về mệnh lệnh nào đó cụ thể (ảnh 1). Ký tự là một phần của văn bản, có chức năng tạo thành các từ ngữ có nghĩa. Hoa văn – họa tiết là những hình ảnh cụ thể được con người chọn lọc trong tự nhiên để thể hiện lại (diễn họa, thêu,…) với mục đích trang trí.

Phân biệt với BIỂU TƯỢNG KÝ HIỆU, KÝ TỰ, HỌA TIẾT – HOA VĂN

B. VĂN HÓA LÀ GÌ?

ĐịnhnghĩabởiE.B.Tylor: “Vănhóalàmộttổngthểphứctạpbaogồm: trithức,tínngưỡng,nghệ thuật,đạođức,phápluật,phongtụcvàcảnhữngthóiquenmàconngườiđạtđượctrongxãhội. ”

Ngay từ thuở sơ khai, mọi hoạt động của mọi loài sinh vật đều vì lẽ sinh tồn. Nhưng đối với con người, hoạt động sống không chỉ dừng lại ở việc chỉ sống và tồn tại đó. Trải qua thực tiễn, thời gian được lặp đi lặp trong việc tương tác với tự nhiên, xã hội, và bản thân đã giúp con người tạo thành những thói quen sống, tập quán.

Từng bước, con người tích lũy những giá trị vật chất – tinh thần, chắt lọc thành những chuẩn mực và lưu truyền chúng từ đời này sang đời khác.

C. BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA LÀ GÌ?

Tạo thành kho tàng di sản quí giá mang bản sắc riêng của một cộng đồng, và ta gọi đó là văn hóa – một thành tựu của loài người, do con người sáng tạo, giữ gìn vì lợi ích của con người.

Biểu tượng văn hóa là một dấu hiệu, dấu ấn riêng, là một qui ước ngầm thuộc về một cộng đồng.

Biểu tượng văn hóa bao hàm một hay nhiều ý nghĩa sâu sắc được chấp nhận bởi một cộng đồng

nhất định và có thể đại diện cho niềm tin, lý tưởng, tâm tư, tình cảm,… của cả một cộng đồng đó.

Các biểu tượng sẽ mang ý nghĩa khác nhau đối với mỗi người, thậm chí, chúng chỉ có nghĩa – được xem là một biểu tượng - khi được đặt ở trong một nền văn hóa cụ thể liên quan tới nó  Nghĩa là

những biểu tượng chỉ nên được hiểu hoặc giải thích thông qua góc nhìn của nền văn hóa mà chúng liên quan, nếu không, chúng sẽ mất đi tính chất độc nhất của vô nhị của mình (mất đi sự độc đáo).

D. VAI TRÒ CỦA BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI

Đối với con người, việc giao tiếp không chỉ được thực hiện qua ngôn từ, qua những cuộc nói chuyện. Và để giải thích, truyền đạt những thứ không thể tri giác được (không có hình dạng cụ thể) ví dụ như tình yêu, lý tưởng, sự đam mê, ý thức của một cộng đồng,… đến với người khác, thì con người sẽ dùng một hình ảnh trung gian để bao hàm và diễn đạt trọn vẹn những giá trị tinh thần đó  Họ sẽ dùng đến biểu tượng.

Vì vậy, biểu tượng văn hóa đối với con người không chỉ có giá trị về mặt vật chất – những gì mà nó thể hiện cho chúng ta nhìn thấy, mà còn là có giá trị về mặt tinh thần, chứa đựng những câu chuyện, những giá trị tinh thần lớn lao hơn, nhằm đại diện cho niềm tin, lý tưởng, tình cảm,…

được chắt lọc và gìn giữ của cả một cộng đồng lớn góp phần tạo nên sự độc đáo, dấu ấn riêng của cộng đồng đó.

II:

HORUS TRONG
AI CẬP CHƯƠNG
o Sơ lược về Ai Cập o Biểu tượng mắt thần Horus trong văn hóa Ai Cập
BIỂU TƯỢNG MẮT THẦN
VĂN HÓA

SƠ LƯỢC AI CẬP CỔ ĐẠI

1

Trước khi Ai Cập bước vào thời kì cổ đại, do yêu cầu thống nhất việc quản lý công tác thuỷ lợi trên phạm vi ngày càng rộng lớn, cùng với nguyện vọng chấm dứt những cuộc tranh chấp lâu dài và tàn khốc nhằm thôn tính đất đai của nhau, nên dần dần các châu hợp thành một quốc gia thống nhất tương đối rộng lớn. Các châu ở miền Bắc thống nhất thành vương quốc Hạ Ai Cập, còn các châu miền nam thống nhất thành vương quốc Thượng Ai Cập. Chỉ khi đến khoảng năm 3100 TCN, vua Narmer thống nhất Thượng Ai Cập và Hạ Ai Cập, đã mở ra thời kì Tảo vương quốc – bước khởi đầu của lịch sử Ai Cập cổ đại.

Thời kì văn hóa Ai Cập phát triển, kim tự tháp, tượng nhân sư xuất hiện.

Ai Cập giành được độc lập, thi hành các chiến lược xâm chiếm các vùng đất lân cận.

Thời kì hình thành nhà

nước chuyên chế, có vua cai trị gọi là Pharaoh

Trải qua 7 vương triều, đến năm 1710

TCN, toàn bộ Ai Cập bị một tộc người

ở Palestine thống trị suốt 1410 năm.

CÔNG NGUYÊN

Cổ vương quốc 3000 - 2150 TCN Trung vương quốc 2200 - 1700 TCN Tânvương quốc 1550 - 700 TCN Tảovương quốc 3200 – 3100 TCN Thời tiền sử 3200 TCN trở về trước
SƠ LƯỢC LỊCH SỬ AI CẬP CỔĐẠI

Bản đồ Ai Cập thời kì Tảo Vương quốc, có thể thấy rằng con người chỉ sinh sống ven con sông Nile là chính.

Bản đồ Ai Cập thời kì Cổ vương quốc

Bản đồ Ai Cập thời kì Tân Vương quốc, dù họ mở rộng và bành trướng lãnh thổ, thì dân cư vẫn tập trung chủ yếu ven con sống Nile.

Ai Cập nằm ở một vị trí địa lý đặc biệt nên có vị trí địa – chính trị quan trọng. Ai Cập là nơi giao nhau của 3 châu lục: Á, Phi, Âu. Tại đây, 3 châu lục hoà nhập quanh một biển trung gian Địa Trung Hải – nơi có thể nối liền hoặc chia cắt 3 đại dương: Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương.

Địa hình Ai Cập là một nước tương đối bị đóng kín. Ai Cập nằm ở Đông Bắc châu Phi có vị trí địa lý phía Bắc

giáp Địa Trung Hải, phía Đông giáp biển Hồng Hải, phía Nam giáp Nubi, nơi giáp giới ấy là một vùng núi hiểm

trở khó qua lại, phía Tây giáp Cộng hòa Li Bi và Sa mạc Sahara. Dân cư Ai Cập không phân bố đều trên lãnh thổ Ai Cập, mà chủ yếu tụ tập sinh sống ven con sông Nile do khí hậu vùng Bắc Phi khô cằn và nóng.

 Cũng chính vì thế nên nền văn minh Ai Cập là nền văn minh phát triển riêng biệt, độc lập, có bản sắc riêng và phát triển liên tục qua các triều đại. Đồng thời dọc theo con sông Nin là nơi dân cư tập trung chủ yếu đã tạo nên cơ sở cho sự ra đời của nhà nước thống nhất cả Thượng và Hạ Ai Cập.

VỊ TRÍ ĐỊA LÝ CỦA AI CẬP CỔ ĐẠI

Ai Cập chia thành hai miền rõ rệt: phía Nam là

thượng Ai Cập – một dải lưu vực hẹp, thuận

lợi cho nền kinh tế chăn nuôi đại gia súc; phía

Bắc là hạ Ai Cập – đồng bằng hình tam giác

phì nhiêu, màu mỡ do phù sa của sông Nin bồi

đắp, dễ giao lưu buôn bán với Châu Á và Tây

Âu. Hằng năm từ tháng 6-11, nước sông Nin

dâng cao đem theo một lượng phù sa phong

phú bồi đắp cho vùng đồng bằng hai bên bờ

ngày càng thêm màu mỡ.

Bên cạnh đó, người Ai Cập cổ đại có khả năng

thích ứng với các điều kiện của thung lũng

sông Nile để phục vụ nông nghiệp. Lũ lụt có

thể dự đoán trước và hệ thống tưới tiêu có

kiểm soát của thung lũng màu mỡ đã tạo ra

lượng cây trồng dư thừa, hỗ trợ dân số đông

đúc hơn, phát triển xã hội và văn hóa.

 Do đó, con sông Nile và sự thích nghi

tuyệt vời của người Ai Cập cổ đại đã đóng

vai trò quan trọng giúp nền kinh tế, nông

nghiệp phát triển, sớm tạo điều kiện cho Ai

Cập có thể bước vào xã hội văn minh sớm

nhất thế giới.

VỊ TRÍ ĐỊA LÝ CỦA AI CẬP CỔ ĐẠI

Ai cập là tặng phẩm của sông Nile

- NhàsửhọcHerodotus-

Nhà sử học Hêrôđôp đã nói rằng: “Ai Cập là tặngphẩmcủasông

Nin” . Sự thành công của nền văn minh Ai Cập cổ đại một phần đến từ khả năng thích ứng của nó với các điều kiện của thung lũng Nin cho sản xuất nông nghiệp. Từ việc có thể dự đoán trước lũ lụt và việc điều tiết thủy lợi ở khu vực thung lũng màu mỡ đã tạo ra nhiều nông sản dư thừa, giúp nuôi dưỡng một lượng dân số đông hơn, tạo điều kiện phát triển xã hội và văn hóa, góp phần quy định hình thức chính thể nhà nước chuyên chế trung ương tập quyền.

Sông Nile - Tài nguyên nông nghiệp phong phú

Sông Nile, chảy theo hướng bắc dài 4.160 dặm từ đôngtrung Phi đến Địa Trung Hải, đã cung cấp cho Ai Cập cổ đại đất đai màu mỡ và nước để tưới tiêu, cũng như phương tiện vận chuyển vật liệu để xây dựng các dự án. Vùng nước quan trọng của nó giúp các thành phố mọc lên giữa sa mạc. Để được hưởng lợi từ sông Nile, những người sống dọc theo bờ sông phải tìm cách đối phó với lũ lụt hàng năm của sông. Họ cũng phát triển các kỹ năng và công nghệ mới, từ nông nghiệp đến đóng tàu và đóng tàu. Sông Nile thậm chí còn đóng một vai trò trong việc xây dựng các kim tự tháp, những kỳ quan đồ sộ nằm trong số những lời nhắc nhở dễ nhận biết nhất về nền văn minh của họ.

Sông Nile - tuyến đường vận chuyển quan trọng

Ngoài việc nuôi dưỡng nông nghiệp, sông Nile đã cung cấp cho người Ai Cập cổ đại một tuyến đường giao thông quan trọng  Kết quả là, họ trở thành những thợ đóng tàu và thuyền có tay nghề cao, những người đã tạo ra cả đồ thủ công bằng gỗ lớn với buồm và mái chèo, có khả năng đi được quãng đường xa hơn và những chiếc mũ trượt tuyết nhỏ hơn làm bằng sậy cói gắn vào khung gỗ . Tác phẩm nghệ thuật của Cổ Vương quốc , tồn tại từ năm 2686 đến

2181 trước Công nguyên, mô tả những chiếc thuyền vận chuyển gia súc, rau, cá, bánh mì và gỗ. Thuyền quan trọng đối với người Ai Cập đến nỗi họ chôn cất các vị vua và chức sắc đã khuất bằng những chiếc thuyền, đôi khi chúng được xây dựng tốt đến mức chúng có thể được sử dụng để đi du lịch thực tế trên sông Nile.

 Người Ai Cập cổ đại luôn tâm niệm sông Nile là dòng sông của sự sống, không chỉ bởi nó mang tới nguồn sống nuôi dưỡng mảnh đất Ai Cập mà còn bởi những giá trị về văn minh và văn hóa vô cùng lớn.

Với nguồn nước dồi dào Sông Nile đã tạo nên vùng thung lũng trù phú nhất “lục địa đen”, góp phần trở thành cái nôi tạo ra nền văn minh Ai cập cổ đại rực rỡ mang đến niềm kiêu hãnh cho toàn nhân loại

Sông Nile hiện nay

THUNG LŨNG SÔNG NILE NHƯ MỘT PHẦN CỦA BẢN SẮC VĂN HÓA

Một xã hội loài người phát triển, con người dần dần đạt được một mức độ của bản sắc cá nhân. Với ý thức cá nhân cao hơn, con người bắt đầu quan niệm các vị thần dưới hình thức cá nhân hóa. Giai đoạn phát triển này được gọi là "thần thoại“ - nảy sinh do nhu cầu giải thích các hiện tượng tự nhiên và xã hội của con người thời tiền sử. Ở đó, thiên nhiên vừa gần gũi vừa đe dọa người nguyên thủy, đánh thức khát vọng khám phá, giải thích, chinh phục tự nhiên. Ở Ai Cập, quá trình này bắt đầu vào cuối thời kỳ tiền sử, khi chữ viết được phát minh và thần thoại đang được hình thành.

THUNG LŨNGSÔNG NILENHƯ MỘT PHẦN CỦA BẢN SẮC VĂN HÓA

Việc sống và lệ thuộc vào con Sông Nile đã ảnh hưởng đến cách người Ai Cập nghĩ về vùng đất mà họ sinh sống. Họ chia thế giới của mình thành Kemet , "vùng đất đen" của Thung lũng sông Nile, nơi có đủ nước và lương thực cho các thành phố phát triển mạnh mẽ. Ngược lại, những vùng sa mạc khô nóng là Deshret, "vùng đất đỏ". Họ liên kết Thung lũng sông Nile và các ốc đảo trên vùng sa mạc với sự sống và sự phong phú, trong khi các sa mạc gắn liền với chết chóc và hỗn loạn.

Tôn giáo Ai Cập cổ đại là một tôn giáo theo đa thần đầu tiên. Nhưng những vị thần phụ chỉ là hỗ trợ cho những thần chính và họ không có trách nhiệm bảo vệ cho những thứ ở dưới trần gian. Những vị thần chính thì ngược lại. Họ bảo vệ, che chở cho con người, thú vật, cây cối bằng súng ống và đạn dược. Các ngôi

đền ở các thành phố lớn trên khắp vùng đất, ven con sông Nile, được xây dựng

để tôn kính các vị thần địa phương. Trong thời kỳ Tân Vương quốc, những ngôi đền này tôn vinh một bộ ba vị thần dựa trên khuôn mẫu được thiết lập bởi gia đình thần thoại của Osiris, Isis và Horus.

Vàogiaiđoạnđó,mỗithịtrấnAi Cậpđềucómộtvịthầnđặcbiệt củariêng mình,được biểuhiện bằngmộtvị thần tônsùngvật chấthoặcmộtvịthầnđượcthể hiện dưới hình dạng của một con vật. Khi quần thể lớn lên trongsựgắnkết,cácvịthầnvà nữ thầnnày được ban cho cơ thể người và ghi nhận các thuộc tính và hoạt động của conngười.

Nữ thần Ammit Đầu cá sấu Nam thần Horus Đầu chim ứng Nam thần Thoth Đầu con cò

THUNG

LŨNGSÔNG NILE

NHƯ MỘT PHẦN CỦA BẢN SẮC VĂN HÓA

Ngoài những vấn đề thực tế, dòng sông rộng lớn có ảnh hưởng sâu sắc đến quan điểm của người Ai Cập cổ

đại về bản thân và thế giới của họ, đồng thời hình thành tôn giáo và văn hóa của họ. Mối liên hệ chặt chẽ giữa người Ai Cập với sông Nile đã khiến họ xác định được một số vị thần Ai Cập với các khía cạnh của sông như

nạn, lũ lụt hàng năm, và sự màu mỡ và phong phú gắn liền với nghề nông của họ.

Một số vị thần có liên hệ mật thiết với dòng sông Nile

Hapi Anuket

Thần lũ lụt sông Nile; Bên

trái đại diện cho Thượng Ai

Cập, biểu tượng hoa sen, bên phải đại diện cho Hạ Ai

Cập, biểu tượng cây cối.

Khnum là vị thần cai quản tất cả nguồn nước của sông hồ và những

mạch nước ngầm. Những đợt lũ

hàng năm của sông Nile mang theo

nước, phù sa và bùn đen, mang lại

sự màu mỡ cho đồng ruộng.

Nữ thần cai quản sông Nile,

với tên gọi "Người chăm sóc

các cánh đồng" . Bà cũng là

vị thần săn bắt và bảo vệ

những đứa trẻ mới sinh.có

biểu tượng là cây sậy.

Thần sông Nin có đầu cá sấu, màu mỡ, người bảo trợ cho

Quân đoàn và quân sự

Ai Cập thời cổ đại

Khnum Sobek

BIỂU TƯỢNG MẮT THẦN

2

BẰNG CHỨNG KHẢO CỔ

Trong một thế giới mà chữ

tượng hình - một dạng chữ

viết bằng hình ảnh - kể câu

chuyện của cả một nền văn minh, chủ nghĩa tượng trưng

là nền tảng của văn hóa Ai

Cập cổ đại. Người Ai Cập đã để

lại một số nghệ thuật và

kiến ​​trúc hấp dẫn nhất trong

lịch sử nhân loại. Phần lớn

những gì làm cho nghệ thuật

Ai Cập trở nên hấp dẫn là tính

biểu tượng được sử dụng

trong việc tạo ra nó. Các biểu

tượng Ai Cập không chỉ mang

tính thẩm mỹ và trang trí mà

còn thể hiện các ý tưởng tôn

giáo và chính trị cũng như

niềm tin về thế giới tự nhiên.

Trong số các biểu tượng Ai

Cập được công nhận rộng rãi

là Ankh, mắt thần Horus, Bọ

Cánh Cứng Scarab, Biểu

tượng ka và Biểu tượng

Cartouche.

Con mắt trái của Horus bằng đất nung (lưu giữ tại Viện bảo tàng Louvre)

Đôi mắt của Horus

được khắc trên

một hộp gỗ nạm vàng, bạc và đồng

của công chúa Shepenupet II.

Bộ sưu tập Con mắt của Horus (lưu giữ tại Bảo tàng Anh)

Một con mắt của Horus được nhân cách hóa dâng hương cho vị thần Osiris được đăng quang trong một bức tranh từ lăng mộ của Pashedu , thế kỷ thứ mười ba trước Công nguyên.

Bởi cuộc sống gắn liền với tự nhiên xung quanh con sông Nile, cùng với đó là niềm tin vào sự tồn tại của linh hồn, tin vào sự tồn tại của thế giới bên kia, mà người Ai Cập cổ đại đã viết nên những câu chuyện thần thoại về những vị thần nhằm giải thích các hiện tượng tự nhiên, xã hội, và hợp lí hóa niềm tin của họ vào các vị thần. Và Horus chính là một trong những vị thần cổ xưa, có vai trò đặc biệt trong niềm tin tâm linh của người Ai Cập cổ đại.

Horus là vị thần cai quản bầu trời mình người đầu chim ưng, Do đó, ông nhìn mọi thứ dưới đôi mắt tinh anh của loài chim ưng.

Horus đại diện cho sức khỏe, sự sống và sự tái sinh. Mắt phải của ông màu trắng, đại diện cho mặt trời và mắt trái của ông là màu đen, đại diện cho mặt trăng. Do đó, người dân Ai Cập đã đồng hóa mắt phải của Horus với thần mặt trời thần Ra, còn mắt trái của ông với thần mặt trăng thần Thoth.

Thần thoại về vị thần Horus có nhiều dị bản. Nhưng câu chuyện phổ biến nhất là người Ai Cập cổ đại tin rằng Osiris là vua của Ai Cập và em trai của ông, Set, mong muốn chiếm lấy ngai vàng của anh mình.

Thông qua thủ đoạn, Set đã thành công trong việc giết chết Osiris và trở thành vị vua mới. Tuy nhiên, vợ của Osiris là Isis, đã cố gắng làm chồng mình tạm thời sống lại bằng phép thuật và sau đó, khi Isis biết mình đang mang thai Horus, cô chạy trốn đến vùng đầm lầy đồng bằng sông Nile để ẩn nấu khỏi người anh trai Set và hạ sinh Horus.

Mặt khác, linh hồn của Osiris vẫn tồn tại và trở thành vị thần của thế giới bên kia còn Isis thì tự mình nuôi nấng Horus. Khi Horus đến tuổi trưởng thành, ông đã tìm cách trả thù cho cha mình. Horus đánh nhau nhiều hiệp với Set và cuối cùng đã giành phần thắng.

Tuy nhiên, hậu quả của trận chiến là Horus đã bị mất đi một con mắt.

Từ đây, những chi tiết kế tiếp liên quan đến con mắt bị thương đó của Horus đã dẫn dắt chính nó trở thành biểu

tượng văn hóa quan trọng của người Ai

Cập cổ đại.

THẦN THOẠI VỀ CUỘC CHIẾN TRẢ THÙ SETH CỦA HORUS

Theo một truyền thuyết, Set đã móc mắt Horus, xé nó thành 6 phần và ném đi. Trong một phiên bản khác, chính Horus đã tự móc mắt ra như một sự hy sinh để đưa cha mình trở về từ cõi chết. Con mắt bị mất của Horus sau đó đã được Hathor (đồng minh của Horus), hoặc Thoth phục hồi một cách thần kỳ. Ở một phiên bản chi tiết hơn, Seth đã chôn cặp mắt của Horus bên sườn núi, nơi mà sau này chúng mọc thành hoa sen. Trong lúc đó, Hathor đã chữa trị cho Horus bằng sữa linh dương và khôi phục con mắt cho ngài. Hay tại một phiên bản khác, Anubis

đã chôn cặp mắt này bên sườn núi còn Isis đã tưới vào đó để hồi sinh chúng. Trong quá trình ấy, cây nho đầu tiên được sinh ra. Câu chuyện này khẳng định rõ hơn cho nghi thức phổ biến vẫn thường nhận diện con mắt của Horus với rượu nho, đồ ăn hay hương liệu dâng lên các vị thần ở đền thờ. Việc những cây có ích mọc lên từ cặp mắt bị chôn vùi của Horus cũng được cho là tương tự như việc lúa mạch và lúa mì mọc lên từ thân xác của cha ngài, Osiris, khi ông đã chết.

Những câu chuyện kể về con mắt mặt trăng của Horus thường kể rằng Thoth là người đã giải cứu nó. Chuyện cũng kể lại rằng khi Horus đã có lại con mắt của mình, ngài dùng nó để hồi sinh cha mình, Osiris. Để tưởng niệm điều này, con mắt Wedjat vẫn

thường được đặt trên vết thương hở của xác ướp, giúp nó có thể hoàn thiện hơn.

THẦN THOẠI VỀ CON MẮT TRÁI CỦA HORUS

Thần thoại kể rằng Ra đã cai trị con người trong một thời gian dài và ông đã quá già yếu, dẫn đến việc con người không còn nghe theo cũng như tôn trọng ông ta. Vì thế, Ra quyết định trừng phạt người dân. Ông sai con gái mình – nữ thần Ureas – đi làm việc đó. Tuy nhiên, Ureas dường như đã quá tay, khiến Ra buộc phải nghĩ cách ngăn chặn nàng, nếu không muốn con người bị tiêu diệt. Để ngăn Ureas uống máu người, Ra đã pha chế một loại nước ép lên men từ hạt lựu, có màu đỏ như máu và lừa con gái uống. Kết quả là Ureas bị say đến bất tỉnh, nhờ thế mà người dân được cứu.

Con mắt thần Ra là biểu tượng cho sự chinh phục và

đánh bại kẻ thù. Con mắt này cũng từng được sử

dụng để tượng trưng cho một loạt nữ thần Ai Cập như

Mut, Bastet, Hathor, Wadjet và Sekhmet. Mặc dù bị coi

là biểu tượng của bạo lực, sự hủy diệt (như sức nóng

của mặt trời), biểu tượng mắt thần Ra cũng được coi

là biểu tượng cho sự bảo vệ. Do vậy, nó cũng thường

xuất hiện trên các lá bùa hộ mệnh, trên tường nhà.

Trong thời kỳ cổ đại, con mắt này thường xuất hiện như biểu tượng của quyền lực hoàng gia.

THẦN THOẠI VỀ CON MẮTTHẦN RA – ĐƯỢC

ĐỒNG HÓA VỚI MẮT PHẢI CỦA HORUS

Song song với Mắt thần Horus là Mắt thần Ra. Một vài người đồng nhất hai mắt thần này với nhau, nhưng cũng có người lại tách chúng riêng biệt. Lý do là bởi Mắt thần Ra thường mang ý nghĩa tiêu cực nhiều hơn.

Nữ thần Ureas – con gái của Ra, thường gắn liền với biểu tượng con bò.

LÝ GIẢI SỰ CHỌN LỰA MẮT THẦN HORUS TRỞ THÀNH

MỘTBIỂUTƯỢNG TRONG VĂN HÓA AI CẬP

Dựa trên quan niệm “sinh ký tử quy” của người Ai Cập - họ có niềm tin về sự tồn tại

của linh hồn và có một sự quan tâm đặc biệt đến thế giới bên kia, vì vậy, họ luôn cần có sự nâng đỡ tinh thần về sự hiện diện của các vị thần – Người sẽ bảo vệ họ khi còn sống và dẫn dắt linh hồn họ đến thế giới vĩnh hằng sau cái chết.

Vì thế, thần thoại về mắt thần Horus đã thể hiện niềm tin của họ về sự sinh – tử, chẳng hạn như Osiris dù đã bị Seth giết, những vị thần nãy vẫn không chết hẳn mà

trở thành vị thần của thế giới bên kia. Và chi tiết quan trọng hơn cả, chính là con mắt trái của Horus dù bị Seth phá hoại đến hư tổn, nhưng vẫn được chữa lành và

phục hồi một cách kì diệu, thậm chí, Horus còn dùng con mắt này để hồi sinh Osiris.

 Chính vì vậy, có thể hiểu rằng dù thần thoại là do con người tạo nên và chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng của con người. Những bởi vì thế, nó mới thể hiện

được mong muốn một chỗ dựa tinh thần trong tâm thức của con người, mà cụ

thể ở đây, chính là niềm tin và mơ ước được tái sinh, được chữa lành và được

bảo vệ  Đó cũng là điều mà thần Horus đã làm được với con mắt trái của mình.

 Từ đó, mắt thần Horus đã được định sẵn giá trị tinh thần mà người Ai Cập muốn hướng tới, và được chọn làm một biểu tượng trong văn hóa Ai Cập để đại diện

cho sự bất khả hủy diệt, có sức mạnh phục hồi, chữa bệnh, và tin rằng nó sẽ

bảo hộ cho linh hồn họ dù là sống hay đã chết.

NHẬN DIỆN PHÂN BIỆT MẮTTHẦN HORUS

Đặc điểm: Con mắt của Horus là một con người hoặc mắt chim

ưng được cách điệu hóa. Biểu tượng thường bao gồm lông mày, một đường sẫm màu kéo dài phía sau góc sau của mắt, đánh dấu má bên dưới trung tâm hoặc góc về phía trước của mắt, và một đường kéo dài bên dưới và về phía sau của mắt, kết thúc bằng hình ảnh cong hoặc hình xoắn ốc. Dấu má giống với nhiều loài chim ưng. Nhà Ai Cập học Richard H. Wilkinson cho rằng đường cong này bắt nguồn từ các dấu hiệu trên khuôn mặt của loài báo gêpa.

Dấu hiệu phân biệtcon mắtthần

Horus và con mắt thầnRa

Con mắt của Ra không được nhầm lẫn với con mắt của Horus. Tuy nhiên, rất đơn giản để phân biệt

hình đại diện của mắt thần Ra với hình đại diện của mắt thần Horus:

- Con mắt của Ra là con mắt nhìn thấy ở bên trái (theo cách đảo ngược, nếu Ra nhìn bằng con mắt này, đó sẽ là mắt phải).

- Con mắt của Horus là con mắt mà nhìn thấy ở bên phải (bằng cách đảo ngược, nếu Horus đang nhìn bằng con mắt này, đó sẽ là mắt trái).

MặcdùthầnthoạivềmắtthầnHorusvàthầnthoạivềmắtthầnRadườngnhưchẳngcósự liênquan,thậmchílàsựgópmặtcủamộttronghaivịthầntrongthầnthoạicủavịthầncòn lại.Tuynhiên,vẫncósựđồnghóacủangườiAiCậpvớihaiconmắtđếntừhaithầnthoạinày, màcụthểlàđồngnhấtmắtphảithầnRavớimắtphảicủaHorus.

Tiếp tục được dựa trên

thần Horus và có sự

mắt trái của Horus sau khi được chữa

lành, con mắt ấy dường như không được

phục hồi hoàn toàn, sức mạnh của nó trở

nên suy yếu hơn và không còn tỏa ra hào

quang rực rỡ như con mắt phải nữa.

 Người Ai Cập xem mắt trái của Horus

đại diện cho mặt trăng nhằm lý giải vì sao

mặt trăng lại không rực rỡ, sáng chói như

mặt trời – được ẩn dụ bởi con mắt bên

phải.

thoại về con mắt trái của những giá trị về sự hồi

sinh – chữa lành; nhưng thần thoại về thần Ra –

thần mặt trời lại gắn liền với sự chinh phục và hủy diệt kẻ thù (dựa trên chi tiết Ureas tàn sát

loài người để trừng phạt sự bất kính của họ với cha mình là thần Ra).

 Do vậy, việc đồng hóa mắt phải của thần

Horus với mắt thần Ra có thể bắt nguồn từ sự tương đồng trong chi tiết “trừng phạt và hủy diệt kẻ thù” mà ở đó, Horus đã giết Seth để trả thù cho cha và trừng phạt hắn vì sự phản bội.

Nhìnchung,sựđồnghóanàyđãphảnánhtínhchấtnhịnguyên

trongniềmtincủangườiAiCậpvềnhữngtháicựcđốilập: Trái–Phải;Sựsống–Hủydiệt;Mặttrăng–mặttrời.

TÍNH NHỊ NGUYÊN CỦA BIỂU TƯỢNG MẮT THẦN HORUS

HỌC

GIÁ TRỊ CỦA BIỂU TƯỢNG HORUS TRONG VĂN HÓA AI CẬP

Mắt Thần Horus là một biểu tượng toán học và được dùng như một đơn vị đo lường, chia làm 6 phần: 1/2, 1/4, 1/8, 1/16, 1/32 và 1/64.

Người Ai Cập cổ đại đã sử dụng phương pháp này để tạo ra các phân số phức tạp. Điều kỳ lạ là tất cả các phân số được cộng lại, đều không có tổng bằng 63/64 thay vì 1. Một vài giả thuyết đặt ra, đây có thể cũng là dấu hiệu thể hiện cho phép thuật Thoth đã sử dụng để chữa lành con mắt của Horus. Bên cạnh đó, nó cũng biểu hiện một tư tưởng phổ biến của người

Ai Cập, đó là vạn vật không có sự hoàn hảo.

TRUYỀN THỐNG

Mắt thần Horus là một biểu tượng ma thuật được cho là mang lại sự bảo vệ,

sức khỏe và cải lão hoàn đồng. Người Ai Cập cổ đại tin rằng nó có các đặc

tính chữa bệnh. Được sử dụng phổ biến để làm bùa hộ mệnh cho cả người sống lẫn người chết.

Biểu tượng mang tính chất bùa hộ mệnh này đã được chế tạo bằng nhiều

loại vật liệu, bao gồm vàng, ngọc lưu ly, đá carnelian và đã được sử dụng làm

đồ trang sức cho cả người sống lẫn người chết.

Ngày nay, nó vẫn tiếp tục được sử dụng như một biểu tượng của sự bảo vệ, mang lại cho họ niềm hạnh phúc và sự yên tĩnh. Mọi người treo tranh và bùa

hộ mệnh của Mắt Thần Horus ở nhà để chống lại tất cả các loại năng lượng

xấu. Nó đã trở thành một truyền thống trong các hộ gia đình khác nhau.

Mặt dây chuyền khắc hình con mắt Horus

: TOÁN

6 BỘ PHẬN CỦA MẮT THẦN HORUS VÀ SỰ TRÙNG HỢP KÌ

LẠ TRONG Y HỌC VÀ THẦN KINHHỌC

Biểu tượng được chia thành sáu phần, đại diện cho việc con mắt của Horus bị vỡ thành sáu mảnh. Mỗi mảnh được liên kết với một trong sáu giác quan và một phần cụ thể. Mỗi một phần trong 6 phần của con mắt Horus đều đại biểu cho một ý nghĩa khác nhau.

• Phía bên phải của mắt có liên quan đến khứu giác, vì nó gần mũi nhất và giống với cơ quan này.

• Dễ thấy, đồng tử đại diện cho thị giác, trong khi lông mày tượng trưng cho suy nghĩ, vì nó có thể được sử dụng để thể hiện suy nghĩ của chúng ta.

• Phía bên trái của mắt tượng trưng cho thính giác bởi nó hướng về phía tai và có hình dạng của một nhạc cụ.

• Đuôi mắt cong giống như một mầm non từ thân cây lúa mì hoặc ngũ cốc nên được coi là tượng trưng cho thực phẩm

– tương ứng với vị giác.

• Cuối cùng, giọt nước mắt được cho là

tượng trưng cho xúc giác bởi phần này

của mắt trông như một thân cây được trồng xuống đất, một hành động liên quan đến sự tiếp xúc vật lý.

Khứu giác: 1/2

Thị giác: 1/4 Trí tuệ: 1/8

Thính giác: 1/16 Xúc giác: 1/64

Vị giác: 1/32

ConmắtcủaHoruskhiđượclồngghépvàophần giữacủanãongười, mỗibộphậncủaconmắttrái Horus sẽ tương ứng với các phần của cơ quan thầnkinhconngười.

Các phân số được sử dụng để biểu thị là phân số Heqat, đơn vị đo lường được người Ai Cập cổ đại sử dụng cho các loại ngũ cốc và bột mì. Mỗi phần trong số này tương ứng với một giác quan khác nhau của con người: 1/2 đại diện cho khứu giác, 1/4 đại diện cho thị giác, 1/8 đại diện cho suy nghĩ, 1/16 đại diện cho thính giác, 1/32 đại diện cho vị giác, và 1/64 đại diện cho cảm ứng. Khi chồng các bộ phận được gợi ý này lên hình ảnh não người ở giai đoạn trung bình, mỗi bộ phận tương ứng với các phần của các đặc điểm cơ quan thần kinh của con người.

CHƯƠNGIII:

BIỂU TƯỢNG MẮT THẦN HORUS

TRONG CÁC NỀN VĂN HÓA KHÁC

TRÊN THẾ GIỚI

o Tác động của văn hóa Ai Cập đến các nền văn hóa khác

o Phân tích sự liên quan giữa biểu tượng mắt thần Horus trong một số nền văn hóa/biểu tượng văn hóa khác

CÁCGIAIĐOẠNCỦALỊCHSỬAICẬPGẮNLIỀNVỚINHỮNGTÁCĐỘNG

CỦA

VĂNHÓAAICẬPĐẾNCÁCNỀNVĂNHÓAKHÁC

1 3200-1100 TCN Thế kỉ X - I TCN 2

Khoảng thời kì Tảo vương quốc  thời kì Tân vương quốc. Nền Văn Minh của người Ai Cập hình thành và phát triển cực thịnh.

3 Giữa Thế kỉ I –năm 650 SCN

Kitô giáo đàn áp và bắt đầu các sách lược loại bỏ tôn giáo bản địa Ai Cập

Ai Cập lần lượt bị Ba Tư, Hy Lạp, La Mã thống trị

1. Acculturation:

Là hiện tượng xảy ra khi những nhóm người có nền văn hóa

khác nhau, tiếp xúc lâu dài và trực tiếp, gây ra sự biến đổi nhận

thức văn hóa ban đầu của 1 hoặc cả 2 nhóm. Nguyên nhân xảy ra hiện tượng này là do có sự trao đổi, giao lưu, va chạm về mặt

chính trị, kinh tế  tiếp xúc về văn hóa  giao lưu văn hóa  biến đổi nhận thức ban đầu của 1 hoặc cả 2 nhóm.

Các học giả thời Trung cổ và Phục Hưng dần quan tâm lại nền văn minh cổ xưa này, làm dấy nên phong trào Egyptomania

Thế kỉ XII - XVII 4

Các khái niệm khác:

● Sự Lan truyền văn hóa: có một nền Văn hóa trung tâm

có hấp dẫn ảnh hưởng tới những Văn hóa xung quanh.

● Sự tiếp biến văn hóa: là sự tiếp nhận có lựa chọn và biến đổi cho phù hợp với bản địa.

● Hỗn dung văn hóa: pha trộn hỗn hợp có duy hợp các nền văn hóa với nhau.

● Cộng sinh văn hóa: các nền văn hóa cùng nhau bình

đẳng, nương tựa đề phát triển.

I.

GIAI ĐOẠN

Khoảng từ thời kì Tảo vương quốc đến thời kì

Tân vương quốc (32001100 TCN): Nền Văn Minh của người Ai Cập hình

thành và phát triển cực thịnh. Trong thời gian này, văn hóa Ai Cập. Chịu ảnh hưởng của yếu tố chiến

tranh, bao gồm cả chiến

tranh xâm lược và bị xâm

lược nên Ai Cập có sự lan

truyền đến văn hóa của

các quốc gia lân cận (Do

Thái, Ba Tư, Ả Rập...) cũng

như tiếp thu học tập từ những nền văn hóa khác.

CỦA VĂNHÓAAI CẬP ĐẾN CÁCNỀNVĂN HÓAKHÁC

Về trang phục, vào thời kì Cổ vương quốc các nền văn minh khác ở vùng Địa Trung Hải và Trung Đông, chẳng hạn như Hy Lạp, La Mã và Lưỡng Hà đã có những trang phục chiếu theo một loại trang phục của người Ai Cập cổ, gọi là Shendyt - loại váy quấn quanh thắt lưng, đôi khi được xếp ly hoặc chụm về phía trước và mang nhiều trang sức trên người.

Đến thời kì Tân Vương quốc từ khoảng năm 1539 TCN cho đến khi bị chinh phục bởi người Assyria, Ba Tư, Hy Lạp, trang phục của người Ai Cập lại bị ảnh hưởng ngược lại bởi những kẻ đến xâm chiếm, quần áo của họ trở nên cầu

kì với kĩ thuật may ráp phức tạp và chi tiết trang trí phong phú hơn.

Ai Cập là một trung tâm quan trọng của cộng đồng người Do Thái bắt đầu từ thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, và văn học Ai Cập ảnh hưởng đến Kinh thánh Do Thái.

Do Thái giáo có thể dựa trên tôn giáo độc thần được giới thiệu bởi pharaoh Akhenaten, trị vì từ khoảng năm 1353 TCN - 1331 TCN.

TrangphụccủangườiAiCậpcónhữngảnhhưởnglẫn tiếpthuđốivớicácnềnvănminhkháccùngthờikì.

Tuy nhiên, cũng có thể do Ai Cập là một vương quốc lớn, với một nền văn hóa phức tạp và công nghệ vượt trội, đã có tác động đến người Do Thái cổ đại theo nhiều cách, và các tư tưởng của

Ai Cập đã giúp hình thành một số ý tưởng ban đầu của Do Thái giáo.

1
CÁC GIAI ĐOẠNCỦA LỊCHSỬ AICẬPGẮNLIỀN VỚI
TÁCĐỘNG
NHỮNG

GIAI ĐOẠN

CÁC GIAI ĐOẠNCỦA LỊCHSỬ AICẬPGẮNLIỀN VỚI NHỮNGTÁCĐỘNG

CỦA VĂNHÓAAI CẬP ĐẾN CÁCNỀNVĂN HÓAKHÁC

Trong thời kì Hy Lạp hóa (cuối thế kỷ IV– I TCN), Các pharaoh người Hy Lạp giao tiếp bằng tiếng Hy Lạp và bản thân đất nước ngày càng trở thành một nước song ngữ và đa văn hóa, quá trình này kéo dài sang thời kỳ La Mã. Biểu tượng sống động nhất của nền văn hóa Hy Lạp-Ai Cập mới phát triển là sự phổ biến của tôn giáo Ai Cập, đặc biệt là nữ thần Isis, người có nhiều tín đồ khắp Địa

Thời kì từ thế kỉ X-I TCN: Ai Cập lần lượt bị Ba Tư, Hy

Lạp, La Mã thống trị. Thời kì đầu khi mới bị Hy Lạp La Mã thống trị, văn hóa bản

địa của Ai Cập vẫn được giai cấp cầm quyền chấp

nhận và học hỏi (như tục ướp xác, tiếp thu và gộp những vị thần của Ai Cập và Hy Lạp, La Mã lại để thờ...). Các biểu tượng

trong văn hóa Ai Cập được tiếp nhận và biến đổi bởi người Hy Lạp La Mã và còn sử dụng đến ngày nay (kí hiệu Rx, kí hiệu ♀, mắt thần Horus  mắt của Chúa, biểu tượng Kim tự tháp...).

Hómēros là tác giả của các tác phẩm Iliad và Odyssey. Ông được coi là một trong những nhà thơ Hy Lạp cổ đại xuất sắc nhất. Hai tác phẩm Iliad và Odyssey của ông đã có ảnh hưởng lớn đến văn chương hiện đại phương Tây.

Trung Hải vào thế kỷ 1 trước Công nguyên.

Một điểm chung lớn của Ai Cập và Hy Lạp là niềm đam mê

đối với văn học. Người Hy Lạp dịch một số tác phẩm của Ai Cập sang tiếng Hy Lạp cổ ( ví dụ như câu chuyện về

Tefnut ). Trong các trường hợp khác, một vài tác phẩm hoặc thể loại văn học của Ai Cập có thể đã được các nhà văn Hy Lạp tiếp nhận và chuyển thể; ví dụ, “Sách của Thoth” có thể là một hình mẫu cho văn học thần bí Hy Lạp được gọi là Hermetica, tức là các tác phẩm liên quan đến thần Hermes, Bộ tam vĩ đại (Thoth và Hermes luôn được coi là tương đương).

Quá trình này cũng có thể xảy ra theo hướng ngược lại, với các văn bản Ai Cập bị ảnh hưởng bởi các kiểu mẫu văn học của Hy Lạp. Ví dụ, một số câu chuyện liên quan đến Inaros có thể đã bị ảnh hưởng bởi những bài thơ sử thi của Homer. Sự ảnh hưởng lẫn nhau này có lẽ chủ yếu xảy

ra trong thời kỳ Hy Lạp hóa và La Mã, nhưng có khả năng là vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, những người Hy

Lạp như Herodotus, đã bắt gặp các truyền thống văn học

Ai Cập, mặc dù ở dạng truyền miệng.

Sự phối hợp Hermes Trisme gistus do người Hy Lạp định cư ở Ai Cập tạo ra, và họ đồng nhất nam thần Thoth và Hermes lại với nhau. Thoth nắm giữ hiểu biết huyền bí, ma thuật, viết lách và các môn khác, kèm với chữa bệnh. Hermes là hiện thân của hiểu biết phổ thông, là người bảo trợ ma thuật, sứ giả truyền tin nhanh nhẹn, chân có cánh.

2

Thời kì giữa TK I - 650: TK I

SCN, Kitô giáo dần được chấp

nhận ở Ai Cập. Do những nhà cầm quyền Kitô giáo muốn

cải tạo những người theo tôn

giáo bản địa thành tín đồ của

tôn giáo mình, một cuộc

chiến giữa tôn giáo bản địa

thờ các vị thần tự nhiên của

Ai Cập và Kitô giáo nổ ra. Kitô

giáo chiến thắng và bắt đầu

các sách lược loại bỏ tôn

giáo bản địa Ai Cập vào

khoảng cuối thế kỉ III. Hậu quả

là, cư dân bản địa không còn

đọc được những ghi chép

bằng chữ tượng hình cổ nữa.

Đến năm 650, Ai Cập bị Hồi

giáo xâm lược, xây dựng lại Ai

Cập bằng đền thờ Hồi giáo, đánh dấu sự đứt gãy của nền

văn minh Ai Cập.

CỦA VĂNHÓAAI CẬP ĐẾN CÁCNỀNVĂN HÓAKHÁC

Theodosius I(trị vì từ năm 379 SCN đến 395SCN),tuyên bố xáclậpKi-tôgiáolàtôngiáochínhthứccủanhànướcLaMã.

Theodosius có cuộc đàn áp Đa thần giáo, Năm 391, ông ban pháp lệnh nghiêm cấm các nghi thức thờ cúng đa thần giáo và đóng cửa các ngôi đền. Năm 393, ông ban hành một đạo luật toàn diện, nghiêm cấm mọt nghi thức tôn giáo công khai nào khác trừ Kito giáo

Đối với hầu hết mọi người ngày nay, “Chúa Ba Ngôi” là một khái niệm Kito giáo. Nhưng các học giả đã chỉ ra Kito giáo đã vay mượn ý tưởng này từ người Ai Cập cổ đại, và tạo ra một số thay đổi đáng kể. Người theo đạo Kito ban đầu đã tìm thấy nguồn cảm hứng cho hệ thống tâm linh của họ trong các tôn giáo từ khắp Địa Trung Hải. Khu vực này đầy rẫy những câu chuyện liên quan đến sự phục sinh, sự cứu rỗi, những ca sinh sản của trinh nữ và những nhân vật trung tâm là con trai của các vị thần tối cao.

CÁC
CỦA LỊCHSỬ AICẬPGẮNLIỀN VỚI NHỮNGTÁCĐỘNG
3
GIAI ĐOẠN
GIAI ĐOẠN

GIAI ĐOẠN

Từ Thế kỉ XVII – XVIII: Các

học giả thời Trung cổ và

Phục Hưng dần quan tâm

lại nền văn minh cổ xưa này, làm dấy nên phong

trào Egyptomania (sự nhiệt tình dành cho văn

hóa Ai Cập): trong thời

kỳ đỉnh cao của Ai Cập, rất ít người có thể đủ

khả năng để trực tiếp

đến Ai Cập. Do đó, mối liên hệ duy nhất mà họ có với Ai Cập là thông

qua văn học, nghệ thuật và kiến ​​trúc, và nó trở thành đại diện cho chủ nghĩa kỳ lạ, lãng mạn và huyền bí.

CỦA VĂNHÓAAI CẬP ĐẾN CÁCNỀNVĂN HÓAKHÁC

Những lái buôn đến Ai Cập đem về phương Tây vô số bảo vật cổ của Ai Cập. Vua

Napoleon cũng cho người nghiên cứu chữ viết, kiến trúc, nghệ thuật, tự nhiên, lịch sử... về Ai Cập, góp phần làm sống dậy nền văn minh này. Thế kỉ XX - nay: các nhà khảo cổ

đều công nhận tầm quan trọng của sự tôn trọng các nền văn hóa và sự toàn vẹn trong các cuộc khai quật. Việc khảo cổ và nghiên cứu văn hóa Ai Cập cổ đại trở nên bài bản, được sự bảo vệ và giám sát của Hội đồng Tối cao khảo cổ học.

PhongtràoEgyptomaniabắtđầutừthếkỉXVIIkéodàiđếntậnngàynay,xuấthiện trongmọilĩnhvựcnghệthuậtnhưkịch,điệnảnh,kiếntrúc,nộithất,thờitrang,mỹ phẩm,...

CỦA LỊCHSỬ AICẬPGẮNLIỀN VỚI
CÁC GIAI ĐOẠN
NHỮNGTÁCĐỘNG
4

PHÂNTÍCHSỰLIÊNQUANGIỮAMẮTTHẦNHORUSVỚIMỘT SỐ NỀNVĂNHÓAKHÁCTRÊNTHẾGIỚI

II.

TheoniềmtinngườiAiCậpcổđại, mắt thần Horus là biểu tượng của khả năng bất khả hủy diệt, giúp ích cho việc tái sinh, là biểu tượng của sức mạnh, sự may mắn và thịnh vượng.

Chúng xua đuổi tà ác, bùa ngải, bảo vệngườimangnóbênmình,nênđược

sử dụng làm trang sức, đồ trang trí trên các chiếnthuyền, chiến xa của ngườiAiCậpcổ…

Niềmtinấykhôngchỉảnhhưởngđến tâmthứccủangườiAiCập,mànócòn lan rộng đến miền bắc khu vực Canaan cổđại – nơi tồntại nền văn minh Phoenicia. Đây có thể là một hình thức lan truyền văn hóa của Ai Cập đến người Phoecinia thông qua thương mại hàng hải trải khắp Địa TrungHải.

ĐƯỢCSỬ DỤNG ĐỂ LÀM BÙA HỘ MỆNH ĐỂ BẢO VỆ CON NGƯỜI

Bùa Amulet có nhiều dòng nhưng nổi tiếng nhất là bùa hộ mệnh Horus Amulet. Chúng là những món đồ đặc biệt đầy ý nghĩa có xuất phát từ miền huyền bí, xa xôi. Bởi từ Amulet có nghĩa là bùa nên bùa Amulet có thể là các loại vòng đeo hay bất cứ vật dụng nhỏ gọn nào có hình ảnh, biểu tượng thần linh hoặc ký hiệu đặc biệt. Với ý nghĩa đó, người ta sử dụng, mang theo bùa Amulet bên mình với mục đích bảo vệ, cầu may.

Các ngư dân Maltese sử dụng những chiếc thuyền gỗ cổ cao truyền thống

của Địa Trung Hải (được gọi là dghajsa)

từ thời cổ đại. Chúng được sơn màu sáng này có thể được chèo, đi thuyền hoặc chạy bằng động cơ, đặc biệt ở trước mũi tàu có đính một đôi mắt.

Đôi mắt này được cho là phiên bản được cải tiến từ nguyên mẫu là biểu tượng con mắt Horus của người Ai Cập cổ, vị thần bảo vệ người Phoenicia khỏi cái ác.

→ Ý nghĩa và sức ảnh hưởng của biểu tượng con mắt Horus lan truyền đến vùng Phoecinie và sử dụng làm một loại bùa phổ biến đến tận ngày hôm nay

1.

KÝHIỆU Rx TRONG YHỌC

Vào thế kỷ thứ 2, Galen vùng Pergamon, thầy thuốc và là nhà triết học

nổi tiếng người La Mã, gốc Hy Lạp đã mượn biểu tượng mắt Ai Cập để

gây ấn tượng với những người bệnh. Sau đó, biểu tượng này dần phát

triển thành ký hiệu Rx mà chúng ta thường thấy trên các toa thuốc. Nó

mang ý nghĩa tượng trưng cho sự hồi phục và tính thống nhất.

Claudius Galen (130 SCN – 210 SCN) là

một nhà văn, nhà triết học và là bác

sĩ nổi tiếng nhất của Đế chế La Mã

với những lý thuyết làm nền tảng

cho y học châu Âu trong suốt 1.500

năm.

BiểutượngmắtthầnHorus củangườiAiCậpcổđại

DấuhiệungànhDượcvớimộtchữRcócái đuôidàixuốngvàmộtgạchxéobắcngang

Một giả thuyết cho rằng nguồn gốc của Rx là từ chữ Latin có nghĩa là "recipere", có nghĩa là "take" hay "take thus". Ngày trước, toa thuốc không có nghĩa là chỉ dẫn cho bệnh nhân mà là toa thuốc của bác sĩ viết

để Dược sĩ theo đó mà thực hiện

 Từ ý nghĩa về mặt y học thuần túy của người Ai cập cổ về biểu tượng con mắt Horus, đã có sự tiếp biến văn hóa, biến đổi thành kí hiệu tượng trưng cho ngành dược phẩm đến tận ngày nay.

2.

3. EYE OF PROVIDENCE - BIỂU TƯỢNG “MẮT CHÚA QUAN PHÒNG” TRONG KI-TÔ GIÁO:

TheEyeofProvidence hay cònđượcgọilàThiênNhãn

hoặcAll-seeingeye làmột biểutượng môtảmộtcon mắt đặt bên trong một tamgiácvàbaoquanhbởi các hào quang  mang ý nghĩađạidiệnchosựquan phòng của Thiên Chúa, phóthác niềmtincủacon người vào con mắt Thiên

Chúa sẽ luôn dõi theo và gìngiữnhânloại.

Thiên Nhãn được sử dụng trong kiếntrúc nhà thờvà nghệthuậtKitôgiáo:

• Tượng trưng cho Thiên ChúaBaNgôi.

• Mang ý nghĩa Thiên Chúahiệndiệnkhắpmọi nơi. tượngtrưng chosự toàn năng, thấu rõ tất

cả những hành vi của conngười

• Và cuốicùng làsựquan

phòng của Thiên Chúa -

cónghĩa là tinrằngmọi sự đềudo Chúasắpđặt hết .

Biểu tượng mắt Chúa quan phòng

được ghi nhận tìm thấy lần đầu tiên

tại nhà nguyện Palatine thuộc nhà

thờ Aachen, ở miền Tây nước Đức.

Nhà thờ này được xây dựng vào

năm 786 bởi Hoàng đế La Mã đầu

tiên, Charlemagne. Đây là một nhà

thờ thuộc Giáo hội Công giáo Rôma

cổ xưa nhất ở Bắc Âu. Từ năm 936

đến năm 1531, nhà thờ là nơi làm lễ

đăng quang cho 30 vị vua và 12

hoàng hậu nước Đức.

Thiên nhãn trong thánh đường của nhà thờ St. Charles tại Vienna, được đặt ở trên cao, nơi có ánh nắng soi rọi vào bên trong, tạo nên ánh hào quang rực rỡ xung quanh biểu tượng này.

Thiên nhãn ở Tây Ukraina gần làng Mykulychyn. Dòng chữ trên đá, được viết bằng một phương ngữ cổ của Ukraine , có nghĩa là "Tất cả mọi sự rồi sẽ qua đi nhưng Mắt của Thiên Chúa sẽ không bỏ qua bạn. "

 Có thể có sự tiếp biến văn hóa sau khi Ai Cập trở thành một tỉnh của La Mã dẫn đến sự dung hợp giữa Thiên Chúa giáo và tôn giáo cổ của Ai Cập – cụ thể là mắt thần Horus, do có điểm tương đồng về sự lựa chọn con mắt trái làm biểu tượng tôn thờ và thể hiện sự uy quyền của bậc thánh thần đối với con người. Tuy nhiên, ý nghĩa của Thiên nhãn so với mắt thần Horus đã có

sự khác biệt rõ rệt thông qua cái tên “All-seeing eye” – sự nhìn thấu vạn vật và sự sắp đặt của Chúa trời – khác với ý nghĩa của bảo hộ và tái sinh của mắt thần Horus.

3. EYE OF PROVIDENCE - BIỂU

TƯỢNG “MẮT CHÚA QUAN PHÒNG”

TRÊN QUỐC ẤN (GREAT SEAL) VÀ TỜ TIỀN DOLLARCỦA NƯỚC MỸ:

Năm1782, ThiênNhãnđượcchọnlàmộtphầntrongbiểutượngkhắctrên Quốcấn(condấuquốcgia)củaHoaKỳ. NgườitachorằngThiênNhãnlà đềnghị của PierreEugene duSimitiere, nhà tư vấnnghệthuật cho ban thiếtkếQuốcấn . Đặcbiệtlàtrênmặtsau củatờgiấybạc1đôlacủaMỹ cũngcóbiểutượngnày .

Con mắt của Chúa (Eye of Providence) nằm trên quốc huy Hoa Kỳ và mặt sau của tờ tiền một đô-la, còn được gọi là Con mắt thấu thị tất cả, tượng trưng cho con mắt của Chúa đang theo dõi loài người, hình thức phổ biến là con mắt được bao quanh bởi một hình tam giác và tia sáng rực rỡ.

Phần thân chính trên mặt trái của biểu tượng là một Kim tự tháp chưa hoàn thiện có 13 bậc, tượng trưng cho 13 tiểu bang đầu tiên

của Mỹ, dưới đáy Kim tự tháp có khắc thời gian năm 1776 bằng

chữ số La Mã, trên đỉnh kim tự tháp sắp hoàn thiện này, con mắt

của Chúa quan sát thấy hết thảy. Toàn bộ biểu tượng ngụ ý Thiên

Nhãn hay Thượng Đế ban ân huệ cho một nước Mỹ thịnh vượng.

Có hai dòng chữ được viết ở bên trái và bên phải: Annuit Cceptis

“Hình ảnh con mắt có thểđược lý giải

nhưsự theo dõi của Chúa. Nhiềungười cho rằng hình tượng này chịu ảnh hưởngtừcon mắtthầnHorustrongvăn hóaAiCậpcổđại. ”

có nghĩa là "Chúa chấp thuận cho chúng ta bắt đầu", Novus Ordo

Seclorum có nghĩa là "Trật tự thế giới mới", trong báo cáo đầu tiên

của Ủy ban thiết kế huy hiệu vào ngày 20 tháng 8 năm 1776 mô tả

rằng "Trên biểu tượng, con mắt của Chúa phóng ra ánh sáng lan

tỏa đến khung tờ tiền và các nhân vật được in trên tờ tiền. "

BIỂU TƯỢNG CON MẮT TRÁI XUẤT HIỆN TRONG NHIỀU HỘI KÍN

A. BIỂU TƯỢNG CỦA HỘI KÍN ILLUMINATI

Illuminati (tạm dịch là khai sáng, thức tỉnh hoặc giác ngộ) là tên của một hội nhóm có thật trong lịch sử được thành lập năm 1776 tại Bavaria (Bayern) vào Thời kỳ Khai Sáng ở Châu Âu. Illuminati được tạo ra với mục đích chống mê tín dị đoan, ảnh hưởng tôn giáo và lạm dụng chính quyền tác động tiêu cực đến đời sống của người dân, ủng hộ giáo dục cho phụ nữ và bình đẳng giới. Do lo sợ tầm ảnh hưởng quá lớn đến quốc gia, Illuminati cùng với các hội nhóm bí mật khác bị chính quyền đương thời cấm. Tuy nhiên, những năm sau đó, nhiều giả thuyết cho rằng tổ chức Illuminati vẫn ngầm hoạt động cho đến ngày nay.

Theo thuyết âm mưu, những biến cố xảy ra trên thế giới có thể là do những kế hoạch bí mật của tổ chức này sắp xếp đằng sau chính phủ.

Biểu tượng của hội Illuminati là hình con mắt ngàn năm trong tam giác quyền

năng phát sáng, chính là đại diện cho sự thấu hiểu và cái nhìn thông suốt thế giới. Đó là một hình tượng mang tính chất biểu trưng cao và có tính ám thị đặc

biệt.

Bên cạnh đó, biểu tượng này còn có sự tương đồng đáng kể với biểu tượng

“mắt Chúa quan phòng” trong Kitô giáo về mặt hình thức với con mắt trái đặt trong tam giác cân. Tuy nhiên, ý nghĩa của biểu tượng này dưới góc nhìn của

Illumination, lại không mang tính chất qui phục thần thánh của loài người, mà nó

thể hiện lý tưởng và tham vọng chinh phục, thoát ly khỏi sức mạnh của thần

quyền của con người nhiều hơn.

4.

BIỂU TƯỢNG CON MẮT

A. BIỂU TƯỢNG CỦA HỘI KÍN ILLUMINATI

Hội Illuminati đã chọn hình tượng con mắt là có lí do rất đặc biệt, có liên quan đến ý nghĩa quyền lực và tái sinh của mắt thần Horus. Đồng thời con mắt cũng có nghĩa là số 1 (1 = 1/2 + 1/4 + 1/8 + 1/16 + 1/32 + 1/64 : con số thần học có 6 yếu tố hợp thành nhưng cũng rất toán học của người Ai Cập cổ quy ước về tính biểu trưng con mắt thần Horus).

Con mắt nằm trong hình tam giác phát sáng cũng là một biểu tượng

khó luận giải mà hội tam điểm đã sử dụng. Hình tam giác là hình đại diện cho sự cân bằng và sức mạnh ( với 3 cạnh đại diện cho mắt trái, mắt phải, con mắt thứ 3 của Horus). Con mắt quyền năng nằm trong sự cân bằng và mang sức mạnh trường tồn cũng chính là phương châm hoạt động và phát triển của hội Illuminati: “Đó là loại bỏ ảnh hưởng của Giáo hội nhằm thiết chế một trật tự thế giới mới”

TRÁI XUẤT HIỆN TRONG NHIỀU HỘI KÍN 4.

BIỂU TƯỢNG CON MẮT TRÁI XUẤT HIỆN TRONG NHIỀU HỘI KÍN

B. THIÊN NHÃN TRONG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Tam Kỳ Phổ Độ là một thuật ngữ dùng để chỉ quan điểm dung hợp các tôn giáo trong tôn giáo Cao Đài. Theo đó, sự hình thành các tôn giáo trên thế giới ở 2 thời kỳ theo trình tự thời gian cuối cùng cũng sẽ hợp nhất ở thời kỳ thứ 3 với một tôn giáo duy nhất là đạo Cao Đài dưới quyền truyền đạo trực tiếp của Thượng Đế.

Thiên Nhãn : Trên Thánh tượng có vẽ một con mắt trái ở trên cao hơn hết, gọi là Thiên Nhãn, nghĩa là con mắt của Trời. Con mắt này hiện ra trong mây, phát ra tia hào quang xung quanh.

Thiên Nhãn có những ý nghĩa sau đây :

 Chỉ thờ 1 con mắt (chứ không vẽ một cặp mắt) vì chỉ có 1 Thượng Đế, chỉ có 1 Thái Cực.

 Vẽ con mắt trái, vì bên trái thuộc Dương, Đức Chí Tôn là chủ Dương quang nên mắt trái tượng trưng Đức Chí Tôn.

Thờ Thiên Nhãn có ý nghĩa đại đồng. Bất cứ sắc dân nào, dân

tộc nào cũng biết vẽ con mắt để

thờ, nên hình con mắt không có

tính cách phân biệt quốc gia, chủng tộc, nên có tính chất chung, tức là đại đồng.

 Phải vẽ con mắt mở để chỉ rằng Đức Chí Tôn thấy rõ tất cả, biết rõ tất cả, không có gì giấu giếm được Trời.

Có nét tương đồng với các đặc điểm của biểu tượng Con mắt Horus, có thể bởi quan điểm dung hợp các tôn giáo.

4.

BIỂU TƯỢNG CON MẮT TRÁI XUẤT HIỆN TRONG NHIỀU HỘI KÍN

D. SỰ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÁC TÔN GIÁO MỚI

Wicca là một tôn giáo ngoại giáo mới

đang ngày càng phổ biến và được

Vìbảnchấtcáctôngiáonàylàđứctinđathầnvàvìsựbí

ẩn,huyềnbícủabiểutượngnày, hìnhảnhconmắtcóthể

lànguyên mẫuCon mắtHorus vẫnhiệndiện và sửdụng

kháphổbiếntrongcáctôngiáomới,hộikín.

Thelema là một tập hợp phức

tạp của niềm tin ma thuật, huyền bí và tôn giáo được

hình thành vào thế kỷ 20 bởi

Aleister Crowley. Thelemites, đó có thể là bất cứ thứ gì, từ

vô thần đến đa thần. Ba vị

thần được tôn trọng ở

Thelema là Nuit, Hadit và Ra

Hoor Khuit, thường được

đánh đồng với các vị thần Ai

Cập Isis, Osiris và Horus.

chấp nhận ở Hoa Kỳ và Châu Âu.Họ

mang một đức tin đa thần dựa vào

thiên nhiên với nguồn gốc từ nhiều

nền văn hóa thuộc các bộ lạc tiền

Kitô giáo ở châu Âu. Nó được hình

thành ở Anh trong giai đoạn nửa đầu

thế kỷ 20 và được Gerald Gardner

giới thiệu vào năm 1954. Wicca

thuộc pagan giáo, họ tôn thờ các vị

thần thánh.

4.

C. KẾT LUẬN

Có thể thấy, khi đứng từ góc nhìn của văn hóa học để phân tích biểu tượng mắt thần Horus, ta mới thấy được sự kì diệu trong trí tưởng tượng của con người Ai Cập cổ đại và cách mà họ khái quát, xâu chuỗi các câu chuyện thần thoại để lí giải cho niềm tin và tín ngưỡng trong đời sống tinh thần giúp tạo

nên sự độc đáo và các giá trị tinh thần bền vững để biểu tượng này tiếp tục được con người tin tưởng và bị thu hút qua thời gian.

• Sách và nội dung văn hóa học trên lớp

• https://study.com/academy/lesson/cultural-symbol-definition-examples.html

• https://courses.lumenlearning.com/culturalanthropology/chapter/symbols-and-culture/

• http://www.differencebetween.net/miscellaneous/difference-between-sign-andsymbol/

• https://dantri.com.vn/khoa-hoc-cong-nghe/kham-pha-nguon-goc-ra-doi-va-y-nghiacua-bieu-tuong-hoa-binh-20180306065217455.htm#&gid=1&pid=3

• https://mythandmore.home.blog/2021/09/14/con-mat-cua-horus/

• https://mythandmore.home.blog/2021/01/19/mat-than-horus/

• https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%AFt_c%E1%BB%A7a_Horus

• https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC6649877/

TÀILIỆU THAM
KHẢO

CẢM ƠN CÔ ĐÃ THEO DÕI

Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.