OF FI CI AL
Qua việc phỏng vấn trực tiếp GV và HS, tôi thấy GV và HS có những quan điểm khác nhau khi nhận định về NLTH: GV cho rằng: HS chỉ tự học khi yêu cầu và bị bắt buộc. GV mong muốn HS chủ động hơn trong các hoạt động học tập. HS cho rằng: các em vẫn tự học trong quá trình học tập khi có nhu cầu. Tuy nhiên vẫn còn nhiều bạn chưa có ý thức về việc tự học của bản thân . 6. Mức độ hướng dẫn HS tự học
Bảng 1.1. Kết quả mức độ hướng dẫn HS tự học Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Chưa bao giờ
GV
60%
30%
10%
HS
50%
39%
11%
ƠN
7. Mức độ tổ chức học tập theo chủ đề STEM trong giờ học vật lý Bảng 1.2. Kết quả mức độ tổ chức học tập theo chủ đề STEM trong giờ học vật lý Thỉnh thoảng
Chưa bao giờ
GV
33%
58%
9%
HS
35%
55%
10%
NH
Thường xuyên
QU Y
Từ bảng thống kê 1.1 và 1.2, cả GV và HS đều đã tổ chức dạy học chủ đề STEM và hướng dẫn HS tự học nhưng số HS và GV thấy rằng: thỉnh thoảng và chưa bao giờ khi tổ chức dạy học STEM và hướng dẫn HS tự học với tỉ lệ tương đối lớn. 3.2. Thực trạng và nguyên nhân về dạy học vật lý ở trường THPT theo định hướng giáo dục STEM nhằm phát triển NLTH của học sinh
KÈ M
Về phía GV
Phần lớn GV chưa có nhận thức đầy đủ về giáo dục STEM và có những hướng suy nghĩ giáo dục STEM cao xa, khó thực hiện. GV THPT được đào tạo đơn môn, do đó gặp khó khăn khi triển khai dạy học theo hướng liên ngành như giáo dục STEM. Bên cạnh đó, GV còn ngại học hỏi, ngại chia sẻ với đồng nghiệp, nên chưa có sự phối hợp tốt giữa GV các bộ môn trong dạy học STEM.
DẠ Y
Việc đổi mới phương pháp dạy học không được thực hiện một cách triệt để, vẫn còn nặng về phương pháp truyền thống, có đổi mới nhưng chỉ dừng lại ở hình thức, chưa đi vào thực chất nhằm giúp khai thác kiến thức có chiều sâu. Việc vận dụng phương pháp dạy học để phát triển năng lực cho HS trong môn học còn hạn chế.
GV chỉ dành một phần thời gian cho hoạt động STEM (ngoại khóa, hoạt động ngoài giờ lên lớp hoặc một số tiết tự chọn) là chủ yếu. 15