4 minute read

giáo dục STEM nhằm phát triển NLTH của học sinh

Qua việc phỏng vấn trực tiếp GV và HS, tôi thấy GV và HS có những quan DẠY KÈM QUY NHƠN OFFICIAL điểm khác nhau khi nhận định về NLTH: GV cho rằng: HS chỉ tự học khi yêu cầu và bị bắt buộc. GV mong muốn HS chủ động hơn trong các hoạt động học tập. HS cho rằng: các em vẫn tự học trong quá trình học tập khi có nhu cầu. Tuy nhiên vẫn còn nhiều bạn chưa có ý thức về việc tự học của bản thân . 6. Mức độ hướng dẫn HS tự học Bảng 1.1. Kết quả mức độ hướng dẫn HS tự học Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ GV 60% 30% 10% HS 50% 39% 11% 7. Mức độ tổ chức học tập theo chủ đề STEM trong giờ học vật lý Bảng 1.2. Kết quả mức độ tổ chức học tập theo chủ đề STEM trong giờ học vật lý Thường xuyên Thỉnh thoảng Chưa bao giờ GV 33% 58% 9% HS 35% 55% 10% Từ bảng thống kê 1.1 và 1.2, cả GV và HS đều đã tổ chức dạy học chủ đề STEM và hướng dẫn HS tự học nhưng số HS và GV thấy rằng: thỉnh thoảng và chưa bao giờ khi tổ chức dạy học STEM và hướng dẫn HS tự học với tỉ lệ tương đối lớn. 3.2. Thực trạng và nguyên nhân về dạy học vật lý ở trường THPT theo định hướng giáo dục STEM nhằm phát triển NLTH của học sinh  Về phía GV Phần lớn GV chưa có nhận thức đầy đủ về giáo dục STEM và có những hướng suy nghĩ giáo dục STEM cao xa, khó thực hiện. GV THPT được đào tạo đơn môn, do đó gặp khó khăn khi triển khai dạy học theo hướng liên ngành như giáo dục STEM. Bên cạnh đó, GV còn ngại học hỏi, ngại chia sẻ với đồng nghiệp, nên chưa có sự phối hợp tốt giữa GV các bộ môn trong dạy học STEM. Việc đổi mới phương pháp dạy học không được thực hiện một cách triệt để, vẫn còn nặng về phương pháp truyền thống, có đổi mới nhưng chỉ dừng lại ở hình thức, chưa đi vào thực chất nhằm giúp khai thác kiến thức có chiều sâu. Việc vận dụng phương pháp dạy học để phát triển năng lực cho HS trong môn học còn hạn chế. GV chỉ dành một phần thời gian cho hoạt động STEM (ngoại khóa, hoạt động ngoài giờ lên lớp hoặc một số tiết tự chọn) là chủ yếu. 15

GV chưa dành nhiều thời gian để cho HS tự học, tự nghiên cứu, hướng dẫn DẠY KÈM QUY NHƠN OFFICIAL học sinh tự học. GV chưa dành nhiều thời gian trên lớp để học sinh báo cáo, thuyết trình, thảo luận, luyện tập, thực hành, bảo vệ kết quả tự học của mình.  Về phía HS HS ở đây chủ yếu là HS vùng sâu, vùng xa, HS dân tộc thiểu số chiếm 70% nên việc tiếp cận tìm tòi thông tin phục vụ cho việc học còn hạn chế. Hầu hết các em chưa có phương pháp học tập phù hợp, chưa tích cực trong việc tìm tòi nghiên cứu bài học nên chưa phát triển các năng lực. Trình độ HS không đồng đều, HS chưa hứng thú với môn học, năng lực của học sinh còn hạn chế nên GV dạy gì thì các em học cái ấy. Một số HS mất kiến thức gốc nên việc học của các em bị hạn chế, đặc biệt là khả năng tự học. Tính thụ động ở HS, HS lười suy nghĩ, đọc sách, ôn bài ở nhà, chỉ đợi đến giờ lên lớp là vào học. Một số HS thuộc gia đình khó khăn nên phải dành thời gian làm việc phụ giúp gia đình nên không có thời gian tự học.  Hình thức kiểm tra, đánh giá và nội dung chương trình Hình thức kiểm tra, đánh giá hiện nay vẫn còn là rào cản. Cụ thể là kì thi trung học phổ thông quốc gia được tổ chức theo hình thức làm bài thi trắc nghiệm kiểm tra kiến thức, kĩ năng. Trong khi kiểm tra, đánh giá theo mô hình giáo dục STEM là đánh giá thông qua sản phẩm, đánh giá quá trình. Vì vậy trên thực tế, việc triển khai giáo dục STEM vẫn phải hạn chế ở các lớp cuối cấp để dành thời gian cho em ôn thi. Nội dung chương trình còn nặng nề về kiến thức, chưa gắn với thực tiễn cuộc sống. Do phải học nhiều môn nên không có thời gian cho việc tự học.  Cơ sở vật chất, trang thiết bị Chưa có phòng học STEM riêng, trong khi phòng thực hành bộ môn chưa phù hợp để HS có không gian hoạt động, làm việc nhóm, nghiên cứu, thí nghiệm cũng là một khó khăn. Sĩ số mỗi lớp học quá đông cũng gây khó khăn cho tổ chức hoạt động, cản trở việc đổi mới phương pháp dạy học của GV. Trên cơ sở phân tích các nguyên nhân, khó khăn đã đề cập ở trên, chúng tôi thấy muốn tổ chức dạy học STEM có hiệu quả, thành công việc đầu tiên GV phải dành nhiều thời gian đọc, nghiên cứu, tìm hiểu về các tài liệu chuyên sâu STEM. Từ đó, căn cứ vào điều kiều kiện dạy học cụ thể ở mỗi nhà trường thực hiện các hoạt động chuyên môn: trao đổi ý kiến với đồng nghiệp, thống nhất xây dựng các chủ đề STEM của mỗi phân môn, tổ chức các hoạt động dạy học phù hợp. Không 16

Advertisement

This article is from: