3 minute read

SH Sinh học

hướng nghiệp ở Anh đó là sự ra đời của Đảng Lao Động vào năm 1997, nó làm thay đổi mạnh mẽ những quan điểm về hướng nghiệp. Đối tượng của hướng nghiệp không chỉ là thanh thiếu niên mà dành cho tất cả mọi người trong xã hội.[32] Tại Trung Quốc vào năm 1914 -1915, Yanpei Huang tiến hành điều tra và khảo sát tại các trường trung học về vấn đề hướng nghiệp, ông không ủng hộ quan điểm giáo dục của Trung Quốc lúc bấy giờ. Sau chuyến thăm quan tại các trường học ở Mỹ, ông nhận định rằng nội dung hướng nghiệp của Mỹ lúc bấy giờ là phù hợp nhất đối với hệ thống giáo dục Trung Hoa trong việc giải quyết và ngăn chặn các khủng hoảng về kinh tế. Ông đưa ra quan điểm kết hợp giữa giáo dục và nghề nghiệp, sau này được gọi là Hiệp hội giáo dục hướng nghiệp do ông và Yuanpei Ca thành lập tại Thượng Hải vào năm 1917. Từ 1917 đến 1948, Hiệp hội giáo dục hướng nghiệp thành lập 5 trường dạy nghề, 12 trung tâm giáo dục dạy nghề, và 12 trung tâm hướng nghiệp và tư vấn hướng nghiệp. Vào ngày 29 tháng 9 năm 1993, Hiệp hội Hướng dẫn Nghề nghiệp Trung Quốc(CCGA), một chi nhánh của Hiệp hội Giáo dục Kỹ thuật và Dạy nghề Quốc giavới sự hỗ trợ của Ủy ban Giáo dục Nhà nước, được thành lập tại Bắc Kinh. Mục tiêu củaCCGA bao gồm tăng cường nghiên cứu trong lĩnh vực hướng nghiệp,thúc đẩy thực hành hướng nghiệp, đào tạo các chuyên gia hướng nghiệp, thúc đẩy tăng cườngtrao đổi quốc tế vàhợp tác trong tư vấn nghề nghiệp.[38]

1.1.2. Tình hình giáo dục hướng nghiệp ở Việt Nam

Advertisement

Bác Hồ đã từng nói: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có con người xã hội chủ nghĩa. Bác mong muốn, đào tạo không chỉ có lòng yêu nước, tinh thần cách mạng, đạo đức... mà còn phải là người có kiến thức khoa học, chuyên môn trình độ vững vàng. Bác là người rất coi trọng công tác giáo dục, Bác cho rằng kết hợp giữa lý

thuyết và thực tế là một nguyên tắc quan trọng, học đi đôi với hành, học đi đôi vớilaođộng. GDHN ở nước ta đã tiến hành nghiên cứu và triển khai khá sớm, từ những năm 70 của thế kỉ XX. Cơ sở lý luận và thực tiễn GDHN của Việt Nam chủ yếu được xây dựng trên cơ sở lý luận và thực tiễn của Liên Xô. Thời kỳ này GDHN ở Việt Nam chủ yếugiáo dục cho HS những hành vi, thái độ khi tham gia vào hoạt động nghề nghiệp[11] Năm 1979, Bộ Chính trị đưa ra Nghị quyết về cải cách giáo dục khẳng định HN là bộ phận khăng khít của quá trình giáo dục. Quyết định 126/CP ngày 19/3/1981 của Chính phủ có viết:“Về công tác HN trong trường phổ thông và việc sử dụng hợp lý HS các cấp THSC và THPT tốt nghiệp ra trường” đã tạo hành lang pháp lí cho sự phát triển của công tác HN, nhất là HN cho HS phổ thông [10] Đầu những năm 80, người có công lớn nhất với sự nghiệp phát triển GDHN ở nước ta là GS. Phạm Tất Dong. Ông đã nghiên cứu rất nhiều những vấn đề liên quan đến GDHN như: nội dung và các phương pháp GDHN dành cho học sinh, thanh thiếu niên...Những quan điểm và nội dung về GDHN của ông được thể hiện thông qua rất nhiều các bài báo khoa học, các công trình nghiên cứu. Một trong những bài báo được nhiều người quan tâm nhất đó là “Hướng nghiệp cho thanh niên” vào năm 1982. Ngoài ra cũng có rất nhiều tác giả khác như Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Thị Bình, Đoàn Chi, Đặng Danh Ánh, Nguyễn Minh Đường, Nguyễn Văn Hộ cũng nghiên cứu về GDHN cho HS. Họ đã đề cập đến vai trò của nhà trường trong việc định hướng nghề cho HS, đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lương GDHN trong nhà trường. Trong giai đoạn 1983-1996, GDHN ở nước ta đã đạt được một số thành tựu quan trọng, được coi là thời kì thịnh vượng nhất. Các tác giả Nguyễn Trọng Bảo, Đoàn Chi, Cù Nguyên Hanh, Hà Thế Ngữ, Tô Bá Trọng, Trần

This article is from: