10 minute read

TNSP Thực nghiệm sư phạm

Theo nghị quyết về đổi mới chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông số: 88/2014/QH13 của Quốc hội có nêu: “Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hòa đức, trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh.” Về nội dung đổi mới: “Giáo dục phổ thông 12 năm, gồm hai giai đoạn giáo dục: giai đoạn giáo dục cơ bản (gồm cấp tiểu học 5 năm và cấp trung học cơ sở 4 năm) và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp (cấp trung học phổ thông 3 năm). Giáo dục cơ bản bảo đảm trang bị cho học sinh trí thức phổ thông nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ sở. Giáo dục định hướng nghề nghiệp bảo đảm học sinh tiếp cận nghề nghiệp, chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng;” Và cũng theo nội dung chương trường trình giáo dục tổng thể mới: Giáo dục hướng nghiệp là hoạt động bắt buộc với cấp học THCS, THPT.[25]

Với bộ môn Sinh học, có rất nhiều tác giảNguyễn Quang Vinh, Trần Doãn Bách, Trần Bá Hoành, Trịnh Nguyên Giao, Trần Đăng Cát... đã đề cập giáo dục thực hành và hướng nghiệp là nhiệm vụ của bộ môn Sinh học. Các tác giả Lê Thị Hương, Lê Văn Tính...trong nghiên cứu của mình đã đưa ra mô hình “Vườn thực nghiệm sinh học trong dạy học Sinh học, Công nghệ nông nghiệp(CNNN)”. Mục đích của mô hình là tạo cơ hội cho học sinh tiếp cận thực tế, thể nghiệm cảm xúc tích cực, khai thác những kinh nghiệm đã có và huy động kiến thức, kỹ năng môn Sinh học và CNNN vào thực tế đời sống. Qua mô hình ngoài việc áp dụng các kiến thức vào thực tế, cũng là một phương pháp rèn luyện năng lực của học sinh thích ứng với cuộc sống, môi trường và nghề nghiệp tương lai.[20]

Advertisement

Những công trình khoa học về GDHN trong và ngoài nước đã mang lại rất nhiều giá trị về phương pháp và lý luận đối với GDHN của nước ta. Thông quan việc nghiên cứu, phân tích các đề tài nghiên về vấn đề GDHN hiên nay, tôi nhận thấy rằng, các đề tài đều khẳng định được tầm quan trọng của GDHN, là một hoạt động cấp bách và cần thiết với sự phát triển giáo dục toàn diện của học sinh, cũng như sự phát triển của mỗi quốc gia. Tuy vậy, thực trạng GDHN ở nước ta hiện nay chưa có được nhiều sự quan tâm của mọi người trong xã hội. Đa số ở các trường, GDHN chỉ được coi là một phần trong nhỏ trong mục tiêu giáo dục, đa số các trường chỉ lồng ghép trong một số hoạt động ngoại khóa.Do vậy chưa phát huy hết hiệu quả của GDHN mang lại cho HS. Có rất nhiều phương pháp được các tác giả đề xuất nhằm nâng cao chất lượng GDHN, gây hứng thú cho học sinh trong quá trình học tập. Nhưng đa số các đề tài này chưa thực sự mang lại hiểu quả cao, các tác giả chỉ đưa ra được nội dung mà chưa có phương pháp cụ thể chi tiết cho từng khối lớp, môn học cụ thể. Do đó hiện nay vì tính cấp bách của vấn đề có rất nhiều đề tài đưa ra những phương pháp GDHN mới và đem lại kết quả cao, đó là tích hợp GDHN vào môn khoa học. Đây là chính là một hướng đi mới cần được nghiên cứu và đầu tư.

1.2.Cơ sở lý luận 1.2.1.Khái niệm nghề nghiệp

Có rất nhiều quan điểm khác nhau về nghề nghiệpđược đưa ra. Theo từ điển tiếng Việt thì nghề là “công việc chuyên môn làm theo sự phân công lao động của xã hội”. Nghề nghiệp là nghề để sinh sống và phục vụ xã hội [24]. Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp viết: "Từ nghề nghiệp là những từ ngữ biểu thị những công cụ, sản phẩm lao động và quá trình sản xuất của một nghề nào đó trong xã hội. Những từ này thường được những người trong ngành nghề đó biết và sử dụng. Những người không làm nghề ấy tuy ít nhiều

cũng có thể biết nhiều từ ngữ nghề nghiệp nhưng ít hoặc hầu như không sử dụng chúng. Do đó, từ ngữ nghề nghiệp cũng là một lớp từ vựng được dùng hạn chế về mặt xã hội"[15] Tác giả Đỗ Hữu Châu trong cuốn “Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt”cho rằng:"Từ vựng nghề nghiệp bao gồm những đơn vị từ vựng được sử dụng để phục vụ các hoạt động sản xuất và hành nghề của các ngành sản xuất tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và các ngành lao động trí óc (nghề thuốc, ngành văn thư...) [8] Nghề là một hoạt động lao động trong đó con con người dựa vào năng lực, phẩm chất của mình tạo ra sản phẩm vật chất và tinh thần, là điều kiện cơ bản cho sự tồn tại của con người cũng như toàn xã hội xã hội.

1.2.2. Khái niệm hướng nghiệp

Lịch sử phát triển xã hội loài người nói chung, phát triển và tiến hoá của hệ thống nghề nghiệp nói riêng cho đến tận ngày nay đã cho thấy rất rõ tính phức tạp, khó dự báo của các quy luật chuyển hoá nghề nghiệp. Xã hội ngày càng phát triển, tính phức tạp ấy càng tăng lên. Cùng với sự phát triển không ngừng về mọi mặt của cuộc sống nói chung và thế giới nghề nghiệp nói riêng, hoạt động hướng nghiệp đã và đang ngày càng phát huy vai trò to lớn của mình trong việc giúp đỡ, hỗ trợ cá nhân lựa chọn được một lĩnh vực tác nghiệp chuyên môn phù hợp mà còn như một công cụ quan trọng để thực hiện công tác phân luồng học sinh, thanh niên vào các lĩnh vực lao động theo định hướng phát triển của quốc gia cũng nhu nhu cầu của thị trường lao động. Ngay nay, hướng nghiệp được đã và đang được xem như một lĩnh vực khoa học và là hướng phát triển đúng đắn của nền giáo dục tiên tiến. Có rất nhiều khái niệm hướng nghiệp được đưa ra, chúng ta sẽ em xét các khái niệm về hướng nghiệp trên nhiều phương diện khác nhau.

- Theo từ điển tiếng Việt:“Hướng nghiệp là thi hành những biện pháp nhằm đảm bảo sự phân bố tối ưu (có chú ý tới năng khiếu, năng lực thể lực) nội dung theo ngành và loại lao động giúp đỡ lựa chọn hợp lý ngành nghề” [24]. - Theo từ điển giáo dục học:“Hướng nghiệp là hệ thống các biện pháp giúp đỡ học sinh làm quen tìm hiểu nghề, lựa chọn, cân nhắc nghề nghiệp với nguyện vọng, năng lực, sở trường của mỗi người. Với nhu cầu và điều kiện thực tế khách quan của xã hội” [17]. - Theo UNESCO, “hướng nghiệp (HN) là một quá trình cung cấp cho người học những thông tin về bản thân, về thị trường lao động và định hướng cho người học có các quyết định đúng đối với sự lựa chọn nghề nghiệp” . Như chúng ta biết, hiện nay giáo dục nói chung và GDHN nói riêng không chỉ cung cấp cho người học kiến thức, tri thức khoa học, mà thông qua hoạt động học còn giúp người học phát huy tích cực năng lực, phẩm chất cá nhân, giúp học sinh phát triển toàn diện, đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Đây cũng là cơ sở định hướng cho sự lựa chọn nghề nghiệp của học sinh. Ngày nay, người ta đã nhận thấy chỉ cung cấp thông tin là không đầy đủ mà cần phải chỉ ra sự phát triển về mặt cá nhân, xã hội, giáo dục và nghề nghiệp của học sinh. Một sự thay đổi khác có ảnh hưởng lớn đến hoạt động HN là nó được nhận thức như là một quá trình phát triển, đòi hỏi một cách tiếp cận chương trình chứ không chỉ đơn giản là các cuộc phỏng vấn cá nhân tại các thời điểm quyết định. Trong các cuộc cải cách giáo dục, việc đưa vào giáo dục phổ thông nội dung giáo dục nghề nghiệp để chúng ta có thể định hướng nghề nghiệp, giúp các em có khái niệm về nghề nghiệp và chọn lựa nghề của mình trong tương lai là nội dung rất được coi trọng trong các nền giáo dục tiên[22] - PGS. TS Phạm Viết Vượng quan niệm “Hướng nghiệp là hoạt động định hướng nghề nghiệp của các nhà sư phạm cho học sinh nhằm giúp họ chọn một nghề phù hợp với hứng thú, năng lực của cá nhân và yêu cầu nhân lực xã hội”. [28]

Hướng nghiệp là 1 chuỗi các biện pháp nhằm giúp cho mỗi học sinh đưa ra những lựa chọn định hướng học tập và nghề nghiệp dựa trên năng lực và phẩm chất của mỗi cá nhân sao cho phù hợp với nhu cầu của xã hội. Như vậy,chúng ta có thể thấy rằng hướng nghiệp không chỉ là nhiệm vụ của chỉ riêng ngành giáo dục mà đó là một hoạt động của nhiều lĩnh vực khác nhau trong xã hội...với mục đích cuối cùng giúp học sinh khám phá năng lực của bản thân để lựa chọn nghề nghiệp phù hợp, đáp ứng được yêu cầu chuyên môn trong sản xuất lao động. Trong giáo dục, hướng nghiệp là cũng được coi là một hoạt độn dạy học của giáo viên và học sinh. Giáo viên hướng dẫn giúp đỡ học sinh đưa ra các lựa chọn về phương hướng học tập và nghề nghiệp dựa trên phân tích năng lực, hứng thú bản thân và yêu cầu của xã hội. Như vậy, hướng nghiệp trong trường học được thể hiện như một hệ thống tác động sư phạm nhằm làm cho các em học sinh chọn được nghề một cách phù với với năng lực bản thân [13].Haycó thể nói “Hướng nghiệp là sự tác động của một hệ thống những biện pháp tác động của nhà trường, gia đình và xã hội, trong đó nhà trường đóng vai trò chủ đạo nhằm hướng dẫn và chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn sàng đi vào lao động ở các ngành nghề, tại những nơi xã hội đang cần phát triển, đồng thời phù hợp với hứng thú, năng lực cá nhân” [18].

1.2.3. Khái niệm giáo dục hướng nghiệp

GDHNbao gồm các hoạt động của nhà trường phối hợp với gia đình và các tổ chức xa hội nhằm trang bị kiến thức, hình thành năng lực định hướng nghề nghiệp cho bản thân HS. Giúp học sinh lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực, phẩm chất, tính cách, sở thích, phù hợp với điểu kiện, hoàn cảnh gia đình của mỗi học sinh và phù hợp với nhu cầu của xã hội. [16] Như vậy, GDHN như là một kim chỉ nam, là một quá trình tác động nhiều mặt giúp các em HS hiểu rõ bản thân, từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn với sự lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai.

This article is from: