6 minute read

2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài

2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài 2.1. Trên thế giới

Trong lịch sử phát triển đất nước trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục, dạy học phát huy tính tích cực của người học đã được các nhà giáo dục quan tâm rất nhiều. Từ thời Khổng Tử (551- 479 TCN) người đầu tiên làm việc làm một cuộc cách mạng thực sự trong tư tưởng giáo dục cổ đại. Nói đến quan điểm giáo dục của Khổng Tử không thể không nhắc đến hệ thống phương pháp giáo dục của ông. Đây là hệ thống khá phong phú, đa dạng, sâu sắc thể hiện trên ba phương diện: phương pháp dạy của thầy, phương pháp học của trò và sự kết hợp biện chứng của 2 quá trình dạy và học. Khổng Tử cũng đã đề ra một số phương pháp, nguyên tắc học tập cũng như học đi kèm với tập, phải học mọi lúc mọi nơi, học phải kiên trì chăm chỉ, có suy nghĩ độc lập, nắm bắt chiếm lĩnh tri thức một cách nhất quán. Ông khuyến khích học trò phải biết đặt câu hỏi, phương pháp đàm thoại, tạo niềm vui hứng thú cho người học. John Anos Comenius (1590 - 1672) - một trong những nhà triết học, lí luận giáo dục vĩ đại của thế giới. Ông có câu nói nổi tiếng đó chính là “Nếu như thế giới là trường học của nhân loại, thì cuộc đời của mỗi người là trường học từ khi sinh ra đến lúc chết”. Ông là người đưa ra những phương pháp dạy bằng biểu đồ, đồ thị, hình ảnh và phương tiện trực quan. Ông chính là người đã thay đổi cách thức giáo dục trong trường lớp phổ thông. Komensky (1592-1670) ông cho rằng quá trình dạy học phải qua các giai đoạn: Cảm giác, trí nhớ, tư duy và phản ánh sáng tạo. Quá trình dạy học phải phù hợp với năng lực người học. Giáo dục Nhật Bản cũng hướng đến tính tự lập cho học sinh, mỗi học sinh có thể tự chủ trong học tập, không ỷ lại, có thể hòa nhập với môi trường hội nhập đầy biến động của các giá trị văn hóa và tri thức. Để trang bị tính tự lập cho học sinh, giáo dục Nhật Bản nhấn mạnh “học sinh là trung tâm”, giúp học sinh trải nghiệm kiến thức từ thực tế chứ không phải nhồi nhét kiến thức. Kích thích việc tìm tòi, tính sáng tạo cho học sinh.

Advertisement

Ở Pháp năm 1920 đã hình thành những nhà trường mới, đặt vấn đề phát triển năng lực của trẻ, khuyến khích các hoạt động cho chính học sinh tự quản. Xu hướng này đã có ảnh hưởng sang Mỹ và nhiều nước ở Châu Âu. Ngay sau đại chiến II, đã ra đời những “Lớp học mới” tại một số trường trung học thí điểm. Điểm xuất phát của mỗi hoạt động đều tùy thuộc vào sáng kiến, hứng thú, lợi ích, nhu cầu học của học sinh. Giáo viên là người giúp đỡ, phối hợp các hoạt động của học sinh. Tiếc rằng thí điểm này chỉ duy trì được 7 năm. Ở Nga người ta càng quan tâm đến vấn đề phát huy tính tích cực của học sinh. Nhiều tác giả như: Aristova, L.Bababxki, Iu.K.Danhilov, M.A.Exipov, B.P.Ilina, I.Ia Makhumtov v.v… đã nghiên cứu những con đường phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh.

2.2. Ở Việt Nam

Cùng với quá trình hội nhập và phát triển kinh tế trên thế giới thì giáo dục ở Việt Nam ngày càng được quan tâm. Từ thời xa xưa đã có những quan điểm về phương pháp dạy học trong câu “Học thầy không tày học bạn”. Phương hướng tích cực hóa quá trình dạy học cũng đã được quan tâm từ những năm 1960 thể hiện qua chủ trương “biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo” qua nhiều sách báo, luận văn, luận án đề cập về phát huy tính tích cực của học sinh, sinh viên v.v… đặc biệt, phương pháp tích cực đã được thử nghiệm từ năm 1993 đã được cụ thể qua “Một số vấn đề về phương pháp giáo dục” (Nguyễn Kỳ và Dương Xuân Nghiên, Vụ giáo viên 1993), “phương pháp giáo dục tích cực” (Nguyễn Kỳ, nhà xuất bản giáo dục, 1994). Vấn đề dạy học tích cực ở nước ta tiếp tục được phát triển cho đến ngày nay thể hiện qua các công trình nghiên cứu “kỹ thuật dạy học Địa lí” (NXB Giáo dục, Hà Nội 1999), “Bàn tiếp về dạy học lấy học sinh làm trung tâm” (Trần Bá Hoành). Đối với bộ môn Địa lí, các nhà khoa học trong nước đã tổ chức nhiều hội thảo, công trình nghiên cứu đã đề cập đến các vai trò to lớn của việc dạy học tích cực, nên đã nhiều công trình nghiên cứu đóng góp về lí luận và thực tiễn, tiêu biểu: “Lý luận dạy học Địa lí” của tác giả Nguyễn Dược, Nguyễn Trọng Phúc, (2000), “Phương pháp giáo dục tích cực” của tác giả Nguyễn

Kỳ, 1995, “Kỹ thuật dạy học Địa lí” của Đặng Văn Đức, Nguyễn Thu Hằng, (1999), “PPDH Địa lí theo hướng tích cực” của tác giả Đặng văn Đức, Nguyễn Thị Thu Hằng,(2004), “Rèn luyện kĩ năng Địa lí” của Mai Xuân San (2001), “Hướng và cách đổi mới PPDH Địa lí ở trường Trung học phổ thông” của tác giả Nguyễn Đức Vũ, (2003), “Đổi mới dạy học Địa lí Trung học cơ sở” của tác giả Nguyễn Đức Vũ (2005), “Đổi mới PPDH Địa lí ở Trung học phổ thông” của tác giả Nguyễn Đức Vũ, Phạm Thị Sen, (2004), “Dạy học và PPDH trong nhà trường” của tác giả Phan Trọng Ngọ, (2005),“Hình thành năng lực dạy học tích hợp cho giáo viên trung học phổ thông” của tác giả Nguyễn Phúc Chỉnh (2012), “Dạy học tích hợp phát triển năng lực HS” của tác giả Trần Thị Thanh Thủy (chủ biên, 2016)… Tất cả các tác giả đã nhấn mạnh lí luận và khả năng ứng dụng vào dạy học Địa lí, từ đó đánh giá vai trò to lớn của việc đổi mới PPDH trong môn Địa lí. Các công trình nghiên cứu trên đã giúp chúng ta nhận thức được cơ sở lí luận, những định hướng để xây dựng và thực hiện đề tài trên cơ sở kế thừa và phát triển ngày càng tốt hơn. Thời gian gần đây, nhiều học viên cao học, nghiên cứu sinh quan tâm tới việc sử dụng các phương pháp, phương tiện trong dạy học Địa lí ở trường phổ thông theo hướng tích cực, như: Đỗ Thúy Nga “Phương pháp sử dụng kênh hình trong trong dạy học Địa lí lớp 10 THPT tỉnh Thái Nguyên theo hướng tích cực” , Luận văn thạc sĩ, 2010. Nguyễn Lâm Tới “Rèn luyện kĩ năng sử dụng số liệu thống kê và biểu đồ trong dạy học Địa lí 12 THPT ban cơ bản”, Luận văn thạc sĩ, 2010. Vi Thị Huệ “Vận dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực vào giảng dạy nội dung Địa lí trong môn KHXH ở mô hình trường học mới”, Luận văn thạc sĩ, 2017. Hoàng Việt Hà “Vận dụng quan điểm tích hợp trong dạy học Địa lí lớp 12”, Luận văn thạc sĩ, 2017. Nguyễn Thị Thu Huyền “Dạy học hợp tác trong môn Địa lí 12”, Luận văn thạc sĩ, 2017… Các tác giả cũng đề cập tới việc sử dụng các phương pháp, phương tiện để tổ chức hoạt động nhận thức cho HS chiếm lĩnh tri thức mới, song chủ yếu mới chỉ quan tâm đến một loại phương pháp nhất định.

This article is from: