Tạp chí TSVN tháng 9/2025

Page 1


Hội đồng Biên tập

Nguyễn Việt Thắng, Tiến sĩ

Dương Xuân Hùng, Trưởng Ban Biên tập

Đỗ Huy Hoàn, Nhà báo

Hoàng Hải Đăng, Thư ký Tòa soạn

Phạm Thu Hồng, Nhà báo

Dương Nam Anh, Nhà báo

Trần Anh Thư, Phóng viên

Trần Thị Kim Tiến, Phóng viên

Chủ nhiệm

Nguyễn Việt Thắng, Tiến sĩ

Phụ trách

Nguyễn Chu Hồi, Phó Giáo sư - Tiến sĩ

Chuyên gia

Phạm Anh Tuấn, Tiến sĩ

Trần Đình Luân, Tiến sĩ

Đào Trọng Hiếu, Tiến sĩ

Lê Văn Khoa, Tiến sĩ

Nguyễn Duy Hòa, Tiến sĩ

Nguyễn Khắc Bát, Tiến sĩ

Hồ Quốc Lực, Tiến sĩ

Lê Văn Quang, Chủ tịch Tập đoàn

Thủy sản Minh Phú

Mỹ thuật: Two Nguyễn

Trình bày: Phạm Dương

Kỹ thuật: Đăng Kiên

Hình ảnh: Dương Nghĩa

Đọc bản in: Anh Thư

Tòa soạn:

Điện thoại: 028.62777616

Email: toasoan@thuysanvietnam.com.vn

Lầu 2, Nhà B, 116 Nguyễn Đình Chiểu, P. Đa Kao, Q. 1, TP HCM

Văn phòng Hà Nội:

Điện thoại: 0243.7713699

Tầng 3, nhà A7, 10 Nguyễn Công Hoan, Ba Đình, Hà Nội

Phòng Quảng cáo:

Quảng cáo: 028.62777616

Email: nghia@thuysanvietnam.com.vn

Giấy phép xuất bản: 69/GP-BTTT

ISSN: 0866-8043

Nơi in: In tại Công ty TNHH MTV

Lê Quang Lộc (TP HCM)

Giá bán: 50.000đ - Giá PDF: 10.000đ

Thư tòa soạn

Thưa quý vị bạn đọc,

Theo số liệu từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường, kim ngạch xuất khẩu thủy sản 8 tháng đầu năm 2025 đạt 7,03 tỷ USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm trước. Đây được coi là kết quả tích cực của ngành thủy sản khi phải

đối mặt với biến động về thuế và những rào cản thương mại. Mỹ vốn là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam, tuy nhiên từ 7/8/2025, mức thuế đối ứng 20% sẽ chính thức có hiệu lực với các mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam, trong đó có thủy sản. So với các

đối thủ như Ecuador (thuế 15%), Philippines và Indonesia (19%), hay Thái Lan (19%), thủy sản Việt Nam đang chịu mức thuế cao nhất.

Đứng trước muôn vàn khó khăn từ “cơn bão thuế đối ứng” ngành thủy sản đã nhanh chóng thích ứng linh hoạt, chủ động chuyển hướng xuất khẩu, đẩy mạnh tiêu thụ tại những thị trường tiềm năng, tận dụng FTA

như RCEP, CPTPP để hưởng ưu đãi thuế quan.

Sự hồi phục mạnh mẽ của thị trường Trung Quốc, ASEAN và Nhật Bản, cùng với tín hiệu gỡ bỏ rào cản kỹ thuật từ EU, mở ra dư địa tăng trưởng cho các dòng sản phẩm thủy sản chế biến sâu. Các hiệp định thương mại như EVFTA, CPTPP, UKVFTA tiếp tục tạo lợi thế thuế quan vượt trội so với các nước đối thủ.

“Xoay trục xuất khẩu” sẽ là chủ đề chính của Tạp chí Thủy sản Việt

Nam phát hành trong tháng 09. Trên số báo này, Tạp chí sẽ thông tin tới bạn đọc những phân tích, góc nhìn chuyên sâu về thị trường xuất khẩu thủy sản trong tình hình mới. Từ đó, nhận diện khó khăn, nắm bắt cơ hội để giữ vững mục tiêu mà ngành thủy sản đã đặt ra trong thời gian tới.

Ngoài ra, Tạp chí Thủy sản Việt Nam số 09 còn cung cấp thông tin về tình hình sản xuất, thị trường thủy sản trong và ngoài nước; thức ăn dinh dưỡng; những mô hình nuôi trồng hiệu quả; cách phòng, chống dịch bệnh thủy sản; cùng các hoạt động của cộng đồng doanh nghiệp.

Trân trọng! Ban Biên tập

Thủy sản Việt Nam bứt phá từ nuôi biển công nghệ cao

Khánh

C.P. Việt Nam

Việt Nam khẩn trương ứng phó MMPA của Mỹ

Trong số 135 quốc gia và vùng lãnh thổ

được Hoa Kỳ đánh giá theo Đạo luật Bảo tồn thú biển (MMPA), Việt Nam chỉ được công nhận “tương đương một phần”, cùng với 33 quốc gia khác. Điều này đồng nghĩa thủy sản xuất khẩu sang Mỹ đối mặt nguy cơ bị siết chặt nếu không sớm khắc phục. Trước tình hình đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã tổ chức họp khẩn, giao nhiệm vụ cụ thể cho các đơn vị. Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, đây là công việc cấp bách, cần hành động ngay để duy trì thị phần lớn tại Mỹ – một trong những thị trường thủy sản chủ lực của Việt Nam. Theo ông Nguyễn Quang Hùng, Phó Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư, Việt Nam sẽ tham khảo kinh nghiệm từ 89 quốc gia đã được công nhận hoàn toàn, đồng thời xây dựng kế hoạch kỹ thuật phù hợp để

đáp ứng chuẩn MMPA. Các chuyên gia cũng cho rằng song song với việc đáp ứng yêu cầu của Mỹ, Việt Nam cần mở rộng sang thị

trường mới như Trung Đông, châu Phi, Tây Á và chú trọng xây dựng thương hiệu thủy sản gắn với chuẩn mực quốc tế.

Cảnh sát biển tăng cường ngăn chặn vi phạm IUU

Từ ngày 25 đến 29/8, Đoàn công tác Cảnh sát biển Việt Nam do Đại tá Bùi Đại Hải, Phó Chủ nhiệm Chính trị Cảnh sát biển Việt Nam dẫn đầu đã kiểm tra thực tế tại khu vực biển giáp ranh Việt Nam - Thái Lan - MalaysiaIndonesia nhằm triển khai cao điểm ngăn chặn tàu cá vi phạm khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy

định (IUU) Trong thời gian này, lực lượng Cảnh sát biển đã phối hợp với các đơn vị chức năng tuần tra, kiểm soát, đồng thời tuyên truyền trực tiếp cho hơn 2.300 tàu cá và ngư dân. Các hình thức tuyên truyền gồm phát gần 2.700 tờ rơi, 350 sổ tay pháp luật và trao 820 lá cờ Tổ quốc, giúp ngư dân hiểu rõ chế tài xử phạt khi vi phạm, từ phạt tiền, phạt tù đến tịch thu phương tiện. Đoàn công tác cũng tiến hành kiểm tra nhiều tàu Cảnh sát biển, Kiểm ngư và Dân quân thường trực đang làm nhiệm vụ, biểu dương tinh thần cán bộ, chiến sĩ trong quá trình thực hiện cao điểm chống IUU. Kết quả kiểm tra cho thấy, cơ bản các tàu cá tại khu vực giáp ranh đã chấp hành nghiêm quy định. Thời gian tới, Cảnh sát biển Việt Nam tiếp tục tăng cường phối hợp, tuyên truyền và kiểm soát, góp phần nâng cao cơ hội gỡ “thẻ vàng” của Ủy ban châu Âu (EC).

Xuất khẩu thủy sản 8 tháng đạt

7,03 tỷ USD

Báo cáo tại Họp báo thường kỳ ngày 4/9, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 8 tháng đầu năm 2025 đạt 45,37 tỷ USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, xuất khẩu thủy sản đạt 7,03 tỷ USD, tăng 11,5%.

Đây là một trong những ngành ghi nhận mức tăng trưởng tích cực, cùng với chăn nuôi và đầu vào sản xuất. Xét theo thị trường, châu Á chiếm 43,1% tổng kim ngạch, tiếp đến là châu Mỹ (23,2%) và châu Âu (14,6%). Riêng Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản tiếp tục là ba thị trường lớn nhất của Việt Nam, lần lượt chiếm 20,9%, 19% và 7,1% thị phần. So với cùng kỳ, xuất khẩu sang châu Âu tăng mạnh 38,7%, châu Mỹ tăng 10,6%, trong khi châu Phi tăng gấp đôi. Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhận định kết quả 8 tháng giúp ngành nông nghiệp tự tin với mục tiêu cả năm. Theo tính toán, nếu duy trì mức trung bình 5 tỷ USD/tháng trong 4 tháng cuối, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm 2025 sẽ đạt và vượt 65 tỷ USD như kế hoạch. Sản lượng thủy sản tháng 8/2025 đạt gần 917 nghìn tấn Theo báo cáo tại cuộc họp của Cục Thủy sản và Kiểm ngư sáng 5/9, sản lượng thủy

sản tháng 8 năm 2025 ước đạt 916,4 nghìn tấn, góp phần quan trọng nâng tổng sản lượng 8 tháng đầu năm lên 6,4 triệu tấn. Trong tháng 8, lĩnh vực sản xuất giống cũng ghi nhận kết quả vượt trội với gần 44 tỷ con giống các loại, nổi bật là hơn 21 tỷ con tôm nước lợ và 3,25 tỷ cá tra bột, đáp ứng tốt nhu cầu nuôi trồng. Kết quả này đặc biệt đáng ghi nhận khi hoạt động khai thác vẫn diễn ra ổn định dù chịu ảnh hưởng từ cơn bão số 4 và lệnh cấm biển đơn phương của Trung Quốc trong nửa đầu tháng. Thành công trong tháng 8 tạo nền tảng vững chắc để ngành thủy sản tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm những tháng cuối năm, đặc biệt là công tác chống khai thác IUU và ứng phó biến đổi khí hậu.

Ninh Bình

Quyết liệt chống khai thác IUU

Tỉnh Ninh Bình đang triển khai đồng bộ và quyết liệt các giải pháp nhằm chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU), góp phần cùng cả nước gỡ “thẻ vàng” của Ủy ban châu Âu. Theo đó, tỉnh đặt mục tiêu hoàn thành 100% việc lắp đặt thiết bị giám sát hành trình (VMS) cho tàu cá từ 15m trở lên, đảm bảo toàn bộ tàu được theo dõi khi hoạt động trên biển và đồng bộ dữ liệu trên Cơ sở dữ liệu nghề cá quốc gia. Ninh Bình cũng chỉ

đạo xử lý dứt điểm các hành vi vi phạm, đặc biệt là các tàu cá “3 không” (không đăng ký, không giấy phép, không đăng kiểm) và các lỗi liên quan đến VMS. Tỉnh cũng tập trung đầu tư, nâng cấp hạ tầng cảng cá, khu neo đậu và hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, nâng cao sinh kế cho ngư dân. Những nỗ lực này không chỉ hướng đến phát triển ngành thủy sản bền vững mà còn góp phần quan trọng vào việc bảo vệ nguồn lợi và chủ quyền biển đảo quốc gia.

Mỹ siết chặt MMPA, nguy cơ mất thị trường 200

triệu USD

Ngành thủy sản Việt Nam đang đối mặt với thách thức lớn khi Hoa Kỳ áp dụng Đạo luật Bảo tồn thú biển (MMPA). Theo thông báo mới nhất từ Cơ quan Quản lý Khí quyển và Đại dương Hoa Kỳ (NOAA), 12 nhóm nghề/ngư cụ của Việt Nam không được công nhận tương đương do có nguy cơ cao tương tác với thú biển và thiếu cơ chế giám sát hiệu quả.

Điều này đồng nghĩa với việc kể từ ngày 1/1/2026, các sản phẩm hải sản khai thác từ những nghề này sẽ bị cấm nhập khẩu vào Mỹ. Ước tính, lệnh cấm sẽ ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu khoảng

200 triệu USD, tác động trực tiếp đến các mặt hàng chủ lực như cá ngừ, cá thu, mực, bạch tuộc. Vấn đề này không chỉ gây thiệt hại kinh tế cho ngư dân và doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến uy tín của thủy sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.

TP Huế Cấp giấy chứng nhận đăng ký cá dìa Tam Giang

Cá dìa là đối tượng đặc hữu có giá trị kinh tế cao ở đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, không những thế cá dìa còn là một đặc sản danh tiếng của ẩm thực Huế.

Năm 2022, Trung tâm Khuyến nông TP Huế được Sở Khoa học và Công nghệ thành phố giao nhiệm vụ thực hiện dự án “Phát triển vùng nuôi cá dìa thương phẩm theo chuỗi giá trị gắn với xây dựng thương hiệu “Cá dìa Tam Giang” tại TP Huế”. Trên cơ sở kết quả của mô hình ương, nuôi cá dìa, Trung tâm Khuyến nông đã hoàn thiện 01 quy trình công nghệ ương giống cá dìa và 01 quy trình công nghệ nuôi cá dìa thương phẩm đảm bảo an toàn sinh học. Đây là kết quả của dự án khoa học và công nghệ cấp thành phố được ngân sách nhà nước TP Huế đầu tư (mã số: TTH.2021-KC.27).

Mới đây, nhãn hiệu tập thể “Cá dìa Tam Giang - Huế - Đặc sản đầm phá” được Cục Sở hữu trí tuệ cấp Giấy chứng nhận đăng ký”. Nhãn hiệu này sẽ góp phần phát triển đầu ra và nâng cao giá trị cá dìa, tăng thu nhập và phát triển bền vững cho người dân.

Quảng Ngãi

Quyết liệt chống khai thác IUU

Ngày 8/9, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cùng đoàn công tác Bộ Nông nghiệp và Môi trường

Từ 1/1/2026, khoảng 200 triệu USD thủy sản Việt Nam có nguy cơ mất thị trường Mỹ vì 12 nghề khai thác chưa đáp ứng quy định MMPA Ảnh: ST

đã kiểm tra khu neo đậu tránh trú bão kết hợp cảng cá Tịnh Hòa và làm việc với tỉnh Quảng Ngãi về công tác chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU). Quảng Ngãi hiện có gần 4.900 tàu cá dài từ 6m trở lên, trong đó hơn 95% đã được cấp giấy phép khai thác; công tác đăng ký, đăng kiểm, đánh dấu tàu cá đạt 100%. Tỉnh cũng hoàn thành lắp đặt thiết bị giám sát hành trình (VMS) cho toàn bộ tàu cá, đồng thời áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử eCDT với 100% tàu ra, vào cảng. Đến tháng 8/2025, các cảng cá đã giám sát hơn 13.400 tấn thủy sản, cấp 99 giấy xác nhận nguyên liệu và 62 giấy chứng nhận khai thác cho trên 3.300 tấn hải sản.

Tuy vậy, địa phương vẫn tồn tại tình trạng tàu mất kết nối VMS và vượt ranh giới khai thác. Lực lượng chức năng đã xử lý nhiều trường hợp, song việc thực thi còn khó khăn. Lãnh đạo tỉnh khẳng định sẽ chỉ đạo quyết liệt, xử lý nghiêm vi phạm, đảm bảo có chuyển biến tích cực trước đợt thanh tra lần thứ 5 của Ủy ban châu Âu (EC).

Khánh Hòa Đẩy mạnh tuyên truyền chống khai thác IUU

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Khánh Hòa vừa có công văn yêu cầu báo chí và UBND các xã, phường đẩy mạnh tuyên truyền chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU). Công văn nêu rõ cần phổ biến khuyến nghị của Ủy ban châu Âu, Luật Thủy sản 2017 và các chỉ đạo của Trung ương, tỉnh; đồng thời nhấn mạnh vai trò, nghĩa vụ và quyền lợi của ngư dân khi khai thác trên biển. Nội dung trọng tâm là yêu cầu chủ tàu, ngư dân tuân thủ bật thiết bị giám sát hành trình (VMS) 24/24 giờ từ lúc rời cảng đến khi cập cảng, không tháo, chuyển VMS giữa tàu; không khai thác ở vùng biển nước ngoài; phối hợp với lực lượng chức năng phát hiện, tố giác và xử lý hành vi vi phạm. Sở cũng đề nghị giới thiệu các mô hình, tổ chức, cá nhân điển hình và nhân rộng sáng kiến hiệu quả trong công tác chống IUU.

Mỹ - EU

Ký thỏa thuận thương mại mới, gỡ bỏ thuế thủy sản

Ngày 21/8, Mỹ và Liên minh châu Âu (EU)

công bố thỏa thuận thương mại mới, xóa bỏ thuế đối với hàng công nghiệp Mỹ, mở rộng

tiếp cận thị trường cho nhiều sản phẩm thủy

sản. Thỏa thuận gia hạn ưu đãi đã hết hiệu lực hồi tháng 7 đối với tôm hùm sống, đồng thời bổ sung tôm hùm chế biến. Mỹ sẽ áp dụng mức thuế ưu đãi tối huệ quốc (MFN) cho một số sản phẩm của EU như gỗ, linh kiện hàng không từ 1/9, đồng thời để ngỏ khả năng mở rộng sang các mặt hàng nông sản, thủy sản.

Canada

Bỏ phần lớn thuế trả đũa với hàng hóa

Ngày 22/8, Thủ tướng Canada Mark Carney tuyên bố bãi bỏ phần lớn thuế trả đũa với hàng hóa Mỹ từ 1/9, ngoại trừ ô tô, thép và nhôm. Ông Carney nhấn mạnh, nhờ những điều chỉnh này, Canada hiện có thỏa thuận thương mại tốt nhất trong số các đối tác của Mỹ. Theo chính sách mới, các mặt hàng nằm trong diện được miễn trừ theo Hiệp định Mỹ - Mexico - Canada (USMCA) sẽ không còn chịu thuế. Quyết định này giúp hơn 85% trao đổi thương mại song phương Canada - Mỹ tiếp tục miễn thuế, đồng thời giúp nhiều sản phẩm thủy sản chủ lực xuất sang Mỹ thoát mức thuế trả đũa 35% từng được chính quyền Trump công bố hồi tháng 7. Một ngày trước đó, ông Carney và Tổng thống

Mỹ Donald Trump đã thảo luận thương mại và nhất trí việc gỡ thuế sẽ mở đường cho vòng

đàm phán mới. Hai nhà lãnh đạo cũng bàn về quan hệ kinh tế - an ninh song phương và hợp tác lâu dài nhằm hỗ trợ Ukraine và châu Âu.

Ấn Độ

Ngành tôm nguy cơ mất thị trường

Mỹ

Việc Mỹ áp thuế nhập khẩu tôm 50% đang

đẩy hàng trăm nghìn hộ nuôi tôm ở bang Andhra Pradesh vào cảnh khốn khó. Thị trường Mỹ chiếm tới 40% kim ngạch thủy sản Ấn Độ, tương

đương 7,4 tỷ USD năm 2024, nay siết thuế từ 25% lên 50% như biện pháp trừng phạt vì New Delhi tiếp tục mua dầu Nga. Trong khi đó, đối thủ Ecuador chỉ chịu thuế 15%, giành lợi thế cạnh

tranh rõ rệt. Giá thu mua tôm ở Andhra Pradesh đã giảm gần 20%, trong khi chi phí sản xuất tăng cao khiến lợi nhuận gần như bằng không.

Nhiều hộ nuôi đối mặt với nợ nần, buộc phải tính

chuyển sang nuôi cá, bán rau hay buôn bán nhỏ.

Tây Ban Nha

Tăng hạn ngạch tôm đỏ Địa Trung

Hải năm 2025

Bộ Nông nghiệp Tây Ban Nha vừa công bố

quyết định tăng hạn ngạch khai thác tôm đỏ

Địa Trung Hải trong năm 2025 lên 45,9 tấn.

Quyết định này áp dụng cho 286 tàu khai thác

bằng hình thức lưới kéo đáy tại Địa Trung Hải.

Trong số hạn ngạch trên, 35,9 tấn đến từ thỏa

thuận hoán đổi hạn ngạch với Pháp, và 10 tấn

được điều chuyển từ quỹ dự trữ quốc gia. Theo

Bộ Nông nghiệp, việc tăng hạn ngạch sẽ góp phần củng cố hoạt động của đội tàu lưới kéo đáy tại Địa Trung Hải, đặc biệt trong các mùa cao điểm như mùa hè và dịp Giáng sinh, đồng thời giúp các chủ tàu có kế hoạch sản xuất tốt hơn. Chính phủ cũng cho phép gộp hạn ngạch giữa các tàu nhằm tạo thuận lợi trong quản lý vận hành và tối ưu hóa nguồn lợi khai thác cho từng phương tiện lẫn các hiệp hội nghề cá.

Peru

Phê duyệt Chiến lược Phát triển thủy sản quốc gia đến năm 2040

Chính phủ Peru vừa phê duyệt Chiến lược Phát triển thủy sản quốc gia đến năm 2040, với mục tiêu tái cấu trúc ngành thủy sản thông qua cơ chế quản lý chặt chẽ, đổi mới công nghệ và

CON SỐ & SỰ KIỆN

45,37 TỶ USD

Là kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 8 tháng đầu năm 2025, tăng 12%. Trong đó, xuất khẩu thủy sản đạt 7,03 tỷ USD, tăng 11,5%.

24/24 GIỜ

Là thời gian Bộ Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 4 duy trì nghiêm hệ thống trực các cấp, tăng cường quan sát, phát hiện, theo dõi, giám sát 100% tàu cá hoạt động khu vực biển giáp ranh với các nước Malaysia, Thái Lan, Campuchia.

thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm giá trị gia tăng. Bộ trưởng Sản xuất, ông Sergio González Guerrero cho biết, chiến lược mới sẽ đóng vai trò kim chỉ nam, đưa thủy sản trở thành động lực kinh tế, xã hội và bảo đảm an ninh lương thực. Hiện ngành thủy sản Peru đang tạo việc làm cho khoảng 370.000 lao động, con số này dự kiến vượt 440.000 vào năm 2040. Tỷ trọng đóng góp của ngành vào GDP quốc gia cũng được kỳ vọng tăng từ 0,75% hiện nay lên 1,29%.

Australia

Bắt giữ 10 ngư dân nước ngoài khai thác cá trái phép

Lực lượng Biên phòng Australia (ABF) đã phát hiện một tàu cá Indonesia hoạt động gần rạn san hô Ashmore vào ngày 8/8. Trên tàu có ba thuyền viên, khoảng 150 kg muối dùng để bảo quản hải sản cùng nhiều ngư cụ. Sau khi tham vấn với Cơ quan Quản lý Thủy sản Australia (AFMA) và xem xét tình hình thực tế, toàn bộ ngư cụ và vật dụng bị tịch thu, còn con tàu bị tiêu hủy ngay trên biển theo quy định pháp luật Úc. Ngày hôm sau, một tàu cá Indonesia khác cũng bị phát hiện khai thác trái phép tại khu vực Heywood Shoals, ngoài khơi bờ biển Tây Australia. Lực lượng chức năng xác định có bảy thuyền viên trên tàu, thu giữ khoảng 100 kg muối và nhiều ngư cụ. Toàn bộ tang vật bị tịch thu và con tàu bị tiêu hủy tại chỗ theo quy định. Hiện 10 thuyền viên đã được đưa về Darwin. AFMA sẽ tiếp tục điều tra và xử lý theo Luật thủy sản 1991 (Cth).

Tuấn Minh

KHOẢNG 200 TRIỆU USD

Là kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Mỹ có thể bị mất đi do các thay đổi của Đạo luật Bảo tồn Thú biển (MMPA) nếu Việt Nam không kịp thời đáp ứng các quy định.

916,4 NGHÌN TẤN

Là tổng sản lượng thủy sản tháng 8/2025, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 592,5 nghìn tấn, tăng 4,6%; sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 323,9 nghìn tấn, giảm 1,1%.

Chính sách đi sát thực tế

để bảo vệ tính mạng và sinh kế ngư dân

Cơn bão số 5 (Kajiki) vừa qua một lần nữa gióng lên hồi chuông cảnh báo về sức tàn phá khốc liệt của thiên nhiên. Hơn

cả những con số thiệt hại, điều đặt ra là làm thế nào để chủ

trương “bảo vệ tính mạng nhân dân là trên hết” không chỉ dừng lại ở khẩu hiệu, mà thực sự trở thành “lá chắn” vững chắc cho ngư dân trong những ngày biển động.

Ảnh: Minh Hiền

Từ chỉ đạo khẩn đến hành

động thực tế

Theo thống kê sơ bộ, bão số

5 (Kajiki) đã gây thiệt hại nặng nề cho nông nghiệp và thủy sản.

Gần 34.000 ha lúa, hoa màu và thủy sản bị ngập úng, hư hại, nhiều tuyến đê kè ven biển và đường giao thông huyết mạch bị sạt lở, khiến việc vận chuyển, tiêu thụ và khôi phục sản xuất gặp nhiều khó khăn.

Riêng lĩnh vực thủy sản, báo cáo nhanh từ các địa phương cho thấy đến 19 giờ ngày 26/8, bão

Kajiki đã làm 3.127 ha diện tích nuôi trồng bị ngập, 93 lồng bè bị cuốn trôi, 82 tàu thuyền bị chìm hoặc hư hỏng. Những thiệt hại này không chỉ gây thất thoát lớn về kinh tế mà còn khiến hàng nghìn hộ ngư dân ven biển đối mặt nguy cơ trắng tay, mất sinh kế ngay trước mùa mưa bão cao điểm. Chỉ

một cơn bão cũng có thể làm lung lay toàn bộ sinh kế của cộng đồng ven biển vốn đã mong manh trước tác động kép của thiên tai và thị trường bấp bênh.

Trước tình hình đó, quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước là đặt tính mạng người dân lên hàng đầu, với phương châm “4 tại chỗ” và huy động tối đa cả hệ thống chính trị. Trong bão Kajiki, chỉ đạo từ Trung ương được phát đi liên tục: Từ Công văn 70-CV/TW của Ban Bí thư

đến Công điện 147, 148 của Thủ tướng, phân công trách nhiệm cụ thể cho từng bộ, ngành, địa phương. Đặc biệt, Phó Thủ tướng trực tiếp có mặt tại vùng tâm bão để chỉ huy.

Nhờ sự chỉ đạo quyết liệt, hàng nghìn tàu cá đã kịp thời vào bờ, hàng chục nghìn người dân ở khu vực nguy hiểm được sơ tán, lực lượng quân đội, công an khẩn trương cứu hộ, thông tuyến giao thông, khôi phục điện, tiếp tế nhu yếu phẩm. Đây là minh chứng rõ rệt rằng khi chỉ đạo gắn liền với

hành động, chính sách có thể nhanh chóng đi vào thực tế, giảm thiểu thương vong và ổn định đời sống người dân sau bão.

Không chỉ dừng ở Trung ương, nhiều địa phương cũng chủ động

ứng phó: Hệ thống cảnh báo

được kích hoạt đồng loạt qua tin nhắn, đài duyên hải, loa phát thanh cơ sở; phương án sơ tán

dân được rà soát; lực lượng biên phòng, dân quân tự vệ, y tế sẵn sàng ứng cứu. Ở một số tỉnh ven biển miền Trung, các cảng cá còn được tổ chức lại thành khu neo đậu tập trung, giúp hạn chế va đập tàu thuyền khi bão đổ bộ.

Khoảng trống giữa chính sách và đời sống ngư dân

Tuy đạt nhiều kết quả đáng ghi

nhận, thực tiễn bão số 5 cũng

chỉ ra một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện. Với nhóm tàu nhỏ ven bờ chiếm đa số và dễ bị tổn

thương, việc tiếp cận bảo hiểm

và hỗ trợ tài chính vẫn còn hạn

chế. Cơ chế tạm ứng bồi thường nhanh chưa được áp dụng rộng rãi, khiến nhiều hộ dân khó xoay vốn tái sản xuất sau bão.

Cơ sở hạ tầng phòng chống thiên tai vẫn thiếu và yếu: Nhiều

ngôi nhà ven biển chỉ là cấp 4, mái tôn dễ tốc khi gió lớn; bến cá, khu neo trú an toàn chưa đủ đáp ứng. Ở một số nơi, công tác sơ tán còn

lúng túng; diễn tập ứng phó mang tính hình thức, chưa tạo được kỹ năng thực tế cho bà con. Trang thiết bị an toàn, đặc biệt là hệ thống giám sát hành trình (VMS) đã chứng minh giá trị lớn trong cứu hộ, cảnh báo, nhưng chi phí lắp đặt, bảo trì cao khiến nhiều tàu nhỏ chưa mặn mà. Thông tin cảnh báo, dù được cải thiện, vẫn khó tiếp cận với nhóm ngư dân ít dùng công nghệ. Đây là những “khoảng trống” cần sớm lấp đầy.

Hướng đến “lá chắn” bền vững

Tinh thần “không để dân đói, rét” đã được thực hiện nghiêm túc, cho thấy quyết tâm chính trị mạnh mẽ. Nhưng để mỗi con tàu, mỗi hộ ngư dân có được “lá chắn” thực sự, chính sách cần cụ thể hơn, đi sâu vào từng thiết bị an toàn, từng bến neo trú, từng gói bảo hiểm, từng buổi tập huấn.

Bài toán ở đây không chỉ là ban hành văn bản chỉ đạo, mà là sự

phối hợp chặt chẽ của bốn mắt

xích: Trung ương chỉ đạo – địa phương thực thi – cộng đồng ngư dân tham gia – doanh nghiệp hỗ

trợ kỹ thuật và tài chính. Khi các mắt xích gắn kết, chính sách mới

thực sự thấm vào đời sống, để ngư dân yên tâm bám biển, giữ sinh kế và góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, bão ngày càng khó lường, việc xây dựng “lá chắn” bền vững cho ngư dân không thể chỉ dừng ở ứng phó ngắn hạn. Đây cần là một chương trình quốc gia, gắn với chiến lược phát triển kinh tế –xã hội vùng ven biển. Bên cạnh sự đồng hành của chính quyền, vai trò của doanh nghiệp và tổ chức quốc tế cũng rất quan trọng: Từ hỗ trợ tín dụng để ngư dân lắp thiết bị an toàn, đến đầu tư hạ tầng neo trú, phát triển sinh kế đa dạng, bền vững. Khi hậu phương vững chắc, ngư dân sẽ thêm an tâm vươn khơi, giảm thiểu nỗi lo “trắng tay” mỗi mùa mưa bão.

Thiệt hại từ bão số 5 (Kajiki) vừa qua là lời nhắc nhở về sức mạnh hủy diệt của thiên nhiên, đồng thời là lời cảnh tỉnh để chúng ta củng cố những gì đã làm tốt và nhanh chóng khắc phục những điểm còn yếu. Chỉ khi chủ trương “bảo vệ tính mạng con người là trên hết” được cụ thể hóa bằng hành động quyết liệt, thiết thực, “lá chắn” bảo vệ ngư dân mới thực sự vững chắc không chỉ trước một cơn bão, mà còn trước những thách thức dài hạn của biến đổi khí hậu.

Ảnh: Anh Quân

Công điện số 150/CĐ-TTg được xem là hành

động quyết liệt nhằm giữ vững uy tín hàng Việt Nam, đồng thời mở rộng cơ hội thâm nhập sâu hơn vào các thị trường khó tính toàn cầu.

Gần đây, nhiều lô hàng nông lâm thủy sản của

Việt Nam bị cơ quan quản lý EU cảnh báo vi phạm an toàn thực phẩm. Các vấn đề chủ yếu liên quan đến dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, kháng sinh, phụ gia vượt ngưỡng cho phép. Những cảnh báo này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu mà còn đe dọa uy tín thương hiệu nông sản Việt trên thị trường quốc tế.

Chỉ đạo nóng

Trong bối cảnh đó, ngày 28/8/2025, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Công điện số 150/CĐ-TTg yêu cầu các bộ, ngành, địa phương và hiệp hội tăng cường biện pháp kiểm soát, truy xuất nguồn gốc và đảm bảo chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Công điện nhấn mạnh yêu cầu cấp bách về việc nâng cao chất lượng, truy xuất nguồn gốc sản phẩm, đồng thời củng cố niềm tin của đối tác và người tiêu dùng toàn cầu.

Theo chỉ đạo, Bộ Nông nghiệp và Môi trường giữ vai trò nòng cốt trong việc triển khai hệ thống kiểm soát an toàn thực phẩm trên toàn bộ chuỗi sản xuất. Điều này bao gồm giám sát chặt chẽ việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, kháng sinh và phụ gia trong nông nghiệp. Mục tiêu là hoàn thiện khung kiểm soát vào cuối năm 2025, đảm bảo các sản phẩm từ trồng trọt đến chăn nuôi đều đáp ứng quy chuẩn khắt khe của EU và các thị trường lớn khác.

Bộ cũng được giao nhiệm vụ rà soát các chương trình tập huấn, tổ chức đào tạo chuyên sâu cho nông dân, doanh nghiệp và cơ sở chế biến. Nội dung tập huấn tập trung vào quy trình thu hoạch, sơ chế, bảo quản nông lâm thủy sản an toàn và đúng

quy định. Đây là điểm then chốt

để khắc phục hạn chế trong sản

xuất nhỏ lẻ, thiếu đồng bộ – vốn

là “tử huyệt” khiến nhiều lô hàng

Việt bị trả về trong những năm qua.

Đáng chú ý, Bộ Nông nghiệp

và Môi trường còn chịu trách

nhiệm vận hành hệ thống cơ sở

dữ liệu truy xuất nguồn gốc toàn

diện cho chuỗi cung ứng nông

lâm thủy sản. Với việc Luật Chất

lượng sản phẩm, hàng hóa (sửa đổi) chuẩn bị có hiệu lực, việc xác định lộ trình bắt buộc truy

xuất nguồn gốc cho nhóm hàng

rủi ro cao sẽ là bước ngoặt quan trọng trong nâng tầm quản lý.

Song song với nỗ lực từ Bộ

Nông nghiệp và Môi trường, Bộ

Công Thương đóng vai trò then

chốt trong việc bảo vệ và mở rộng thị trường. Bộ được giao tăng cường giám sát, truy xuất nguồn gốc đối với các sản phẩm

có nguy cơ cao vi phạm. Đặc biệt, hệ thống thương vụ Việt

Nam tại châu Âu và các nước phải theo dõi sát sao các cảnh báo, kịp thời thông tin về thay đổi quy định để doanh nghiệp trong nước điều chỉnh sản xuất.

Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng phải đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường mới, tránh tình trạng phụ thuộc vào một số thị trường truyền thống. Đây là chiến lược quan trọng, nhất là trong bối cảnh các nước nhập khẩu ngày càng siết chặt rào cản kỹ thuật và tiêu

chuẩn chất lượng.

Để giảm bớt gánh nặng cho doanh nghiệp, Bộ Tài chính được giao nghiên cứu cơ chế thông quan nhanh, thuận lợi, song vẫn

đảm bảo kiểm soát rủi ro. Ngoài ra, Bộ sẽ đề xuất các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào chế biến, bảo quản nông

lâm thủy sản, thay thế Nghị định 57/2018/NĐ-CP bằng một cơ

chế đột phá hơn, phù hợp Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân.

Mục tiêu là tạo hành lang pháp lý thuận lợi để thu hút mạnh mẽ đầu tư vào công nghệ cao, công nghệ sạch – yếu tố quyết định nâng cao giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt.

Bộ Ngoại giao được giao đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương, tận dụng tối đa các cơ chế hợp tác với EU, đồng thời thu hút nguồn lực quốc tế hỗ trợ phát triển nông nghiệp hiện đại, bền vững. Trong khi đó, Bộ Khoa học và Công nghệ tập trung

hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia theo hướng

hài hòa với chuẩn mực quốc tế.

Đặc biệt, ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số sẽ trở thành

công cụ cốt lõi trong quản lý chất lượng và truy xuất nguồn gốc.

Đây là xu hướng tất yếu để nông

sản Việt bắt kịp cuộc cách mạng

công nghiệp 4.0 và đáp ứng nhu cầu minh bạch của người tiêu dùng toàn cầu.

Vào cuộc đồng bộ

Không chỉ các bộ ngành, Công điện số 150/CĐ-TTg cũng giao trách nhiệm cụ thể cho chính quyền địa phương và

hiệp hội ngành hàng. Các tỉnh, thành phố, đặc biệt là những địa phương có lô hàng vi phạm, phải khẩn trương khắc phục khuyến

cáo của EU. Công tác này bao gồm kiểm soát dư lượng hóa

chất trong trồng trọt, kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản, cũng

như thiết lập hệ thống giám sát

toàn chuỗi chăn nuôi.

Các hiệp hội sản xuất, chế biến, xuất khẩu nông lâm thủy

sản được yêu cầu huy động hội viên tham gia liên kết chuỗi, tuân thủ quy định truy xuất nguồn gốc, đồng thời hỗ trợ cơ quan

nhà nước trong điều tra nguyên nhân, tháo gỡ rào cản thương mại. Ngoài ra, hiệp hội cũng phải chủ động tìm kiếm thị trường mới, khai thác cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do đã ký kết. Công điện số 150/CĐ-TTg đã thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ của Chính phủ trong việc bảo vệ thương hiệu nông sản Việt Nam. Khẳng định rằng, trong quá trình hội nhập sâu rộng, Việt

tạo nền tảng lâu dài để nâng cao giá trị nông sản. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để sản phẩm Việt tiếp cận sâu hơn vào các thị trường khó tính như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ – nơi người tiêu dùng luôn đặt niềm tin lên hàng đầu. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh gay gắt, uy tín hàng hóa không chỉ quyết định sự sống còn của doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến hình ảnh quốc gia. Công điện số 150/CĐTTg chính là bước đi kịp thời, toàn diện và mạnh mẽ để bảo vệ và phát triển ngành nông lâm thủy sản Việt Nam. Nếu được triển khai đồng bộ, quyết liệt từ trung ương đến địa phương, từ cơ quan quản lý đến hiệp hội và doanh nghiệp, Việt Nam hoàn toàn có thể biến thách thức thành cơ hội, đưa thương hiệu nông sản quốc gia vươn xa hơn trên bản đồ thế giới.

Sau 6 tháng đầu năm, xuất

khẩu thủy sản nước ta đã có

những thay đổi, mặc dù vẫn

ghi nhận tăng trưởng, thế

nhưng thị trường trọng điểm

Mỹ đang có xu hướng sụt giảm. Khó khăn trước đó cùng

thêm quy định mới được ban hành, cánh cửa thị trường

Mỹ đang ngày một hẹp lại với

thủy sản Việt Nam.

Để đảm bảo giá trị xuất khẩu, ngành thủy sản cần có chiến lược đa dạng hóa thị trường

Ảnh: ST

Tăng trưởng dần chậm lại

Thủy sản là ngành mũi nhọn của nền

kinh tế, trung bình hàng năm đóng góp

khoảng 4 - 5% GDP và là ngành hàng xuất khẩu chủ lực của nông nghiệp Việt Nam. Lũy kế 7 tháng đầu năm 2025, kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước đạt 6,2 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước. Việt Nam hiện duy trì vị thế một trong ba quốc gia xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới. Song áp lực cạnh tranh và sự biến động của thị trường đang tác

động đáng kể đến sự tăng trư ởng về giá trị xuất khẩu của ngành. Trong đó, thị trường Mỹ đang có những thay đổi theo chiều hướng không tốt.

Tháng 6/2025, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Mỹ đạt 131,7 triệu USD, giảm 43,8% so với tháng 5/2025 và giảm 17,7% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm, tổng giá trị xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang nước này đạt 898,7 triệu USD, bằng 49,4% kim ngạch cả năm 2024. Với kết quả đó, Mỹ không còn là thị trường số 1 của thủy sản Việt Nam. Sáu tháng đầu năm 2025, xuất khẩu thủy sản sang Mỹ chỉ còn chiếm 17% thị phần, đứng thứ 2 sau Trung Quốc trong số các thị trường xuất khẩu thủy sản chính của Việt Nam. Theo VASEP, chính sách thuế đối ứng của Tổng thống Donald Trump là nguyên nhân chính khiến xuất khẩu thủy sản

Việt Nam sang Mỹ sụt giảm. Những thay đổi liên tục các mức thuế gây ảnh hưởng

nghiêm trọng đến việc lập kế hoạch

sản xuất - kinh doanh, ký kết hợp đồng và giao hàng của các doanh nghiệp cả

ở Mỹ và các nước xuất khẩu. Điều này

khiến các nhà nhập khẩu Mỹ không thể xác định chính xác được chi phí nhập hàng. Trong khi đó, doanh nghiệp thủy

sản Việt Nam cũng gặp khó trong việc

điều chỉnh giá, thời điểm giao hàng và lên kế hoạch dài hạn.

Nguy cơ thêm nghiêm trọng

Vừa đối mặt với mức thuế tăng cao tại thị trường Mỹ, thủy sản Việt Nam lại tiếp

tục gặp rủi ro vì bị quy kết vi phạm đạo luật bảo tồn của nước này.

Cụ thể, Cục Quản lý đại dương và khí quyển quốc gia Mỹ (NOAA) vừa công

bố kết quả so sánh theo Đạo luật Bảo vệ Động vật biển có vú năm 2025 và

Việt Nam nằm trong danh sách bị hạn chế nhiều mặt hàng cá, cua xuất khẩu

sang nước này. Theo kết quả đánh giá, so sánh do NOAA công bố, có khoảng

240 nghề cá từ 46 quốc gia đã bị từ chối kết quả so sánh tương đương. Các thị trường này (trong đó có Việt Nam) sẽ bị cấm xuất khẩu cá và sản phẩm cá từ các ngành thủy sản đó vào Mỹ kể từ ngày 1/1/2026.

Đại diện một doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản cho biết, cá ngừ và các loại cá nổi đều liên quan đến ngư cụ là lưới vây, mà những loài này chiếm tỷ trọng chi phối trong các mặt hàng hải sản xuất khẩu sang Mỹ.

Trước đó, Mỹ từng đưa ra quyết định sơ bộ rằng các biện pháp bảo tồn động vật biển có vú của Việt Nam chưa đạt chuẩn đối với 12 phương thức khai thác, trong đó có lưới rê, lưới vây, lưới kéo và câu vàng. Những sản phẩm như cá ngừ mắt to, cá ngừ vây xanh, cá ngừ vây vàng, cá ngừ sọc dưa, cá kiếm, mực, cá mú, cá thu, cá hồng và cua được cảnh báo sẽ gặp khó khăn khi vào thị trường này. Hơn nữa, theo kết quả báo cáo của NOAA, mặc dù Việt Nam đã có quy định cấm cố ý giết hại và đang thực hiện các chương trình giám sát như kiểm tra cảng, bắt buộc ghi nhật ký đánh bắt nhưng không phải tất cả các tàu cá đều

được giám sát và đều báo cáo việc đánh

Doanh nghiệp thủy sản Việt Nam cần đầu tư chiều sâu cho công nghệ chế biến Ảnh: ST

bắt ngoài ý muốn động vật có vú ở biển.

Tuy nhiên, theo đại diện VASEP, để thay

đổi thói quen sử dụng ngư cụ khi đánh bắt hải sản là một vấn đề nan giải, không thể giải quyết trong một thời gian ngắn.

Chuẩn bị cho chặng đường mới

Trong nhiều năm qua, Mỹ luôn là một trong những thị trường quan trọng của thủy sản Việt Nam. Tuy nhiên, ngành thủy

sản Việt Nam đang buộc phải xoay trục xuất khẩu do thị trường Mỹ ngày càng khó khăn bởi các quy định bảo tồn động vật biển có vú, thuế quan, biến động chính trị, cạnh tranh, và thay đổi xu hướng tiêu dùng. Trong bối cảnh đó, doanh nghiệp

buộc phải tìm hướng đi mới, mở rộng thị phần sang các khu vực khác như Liên minh châu Âu (EU), Trung Quốc, ASEAN, Trung Đông hay Nam Mỹ… Ông Trương Đình Hòe, cố vấn VASEP

nhận định: “Doanh nghiệp Việt Nam không

thể chỉ dựa vào một vài thị trường lớn như Mỹ. Nếu không kịp thời đa dạng hóa, rủi ro sẽ rất lớn khi chính sách thay đổi”. Đây cũng là cảnh báo của nhiều chuyên gia, bởi nếu tập trung quá nhiều vào thị trường Mỹ, doanh nghiệp thủy sản Việt Nam dễ rơi vào thế bị động, rủi ro cao khi chính sách thay đổi. Việc đa dạng hóa thị trường trở thành yêu cầu bắt buộc để bảo đảm ổn định xuất khẩu lâu dài.

Thị trường EU có nhu cầu lớn với mặt hàng thủy sản, mức chi tiêu cao, tuy nhiên, khối lượng và giá trị xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường này còn khá khiêm tốn và gặp nhiều thách thức.

Theo đánh giá của VASEP, nhu cầu nhập khẩu thủy sản của EU rất lớn, trên 50 tỷ USD/năm. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu thủ y sản của nư ớc ta sang thị trư ờng này chỉ dao động trên dư ới 1 t ỷ

USD/năm, chiếm một thị phần rất nhỏ.

Chưa kể, giá trị xuất khẩu thủ y sản sang

thị trư ờng này trong thời gian gần đây khá biến động.

Đặc biệt, sau cảnh báo “thẻ vàng” giá trị xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường EU sụt giảm bình quân 6 - 10%/ năm, hiện đã rơi xuống vị trí thứ 5 (sau Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc và ASEAN). Vậy nên, việ c tiếp c ận EU vẫn là bài toán khó chưa thể tìm đư ợc lời giải tối ưu nhất. Với Trung Quốc, đây hiện là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam. Vị trí địa lý gần, nhu cầu nhập khẩu cao và ưu thế vận chuyển giúp Trung Quốc trở thành lựa chọn hàng đầu khi doanh nghiệp gặp khó tại Mỹ. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng là thị trường đầy biến động. Chính sách nhập khẩu của nước này thường xuyên thay đổi, nhất là trong khâu kiểm dịch, truy xuất nguồn gốc và quản lý biên mậu. Ngoài ra, cạnh tranh từ các nước khác như Ấn Độ, Ecuador (với tôm), hay Nga (cá) rất khốc liệt, việc xâm nhập và bám trụ tại thị trường này không hề dễ dàng.

Ông Nguyễn Văn Kịch, Tổng Giám đốc Công ty Cafatex, phân tích: “Người tiêu dùng Trung Quốc rất đa dạng. Phân

khúc giá rẻ giúp duy trì sản lượng, nhưng muốn phát triển lâu dài, Việt Nam phải tập trung sản phẩm cao cấp cho tầng lớp trung lưu đang tăng nhanh”.

Ngoài những thị trường trọng điểm kể trên, ASEAN và Trung Đông đang được coi là thị trường tiềm năng, cần chiến lược dài hạn.

Trong khu vực ASEAN, các nước như Thái Lan, Singapore, Malaysia hay Philippines là thị trường tiềm năng, nhờ khoảng cách gần và ưu đãi thuế quan trong khối. Tuy nhiên, đây cũng là khu vực có nhiều đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Doanh nghiệp Việt Nam muốn mở rộng cần chú trọng vào sản phẩm chế biến sâu, tiện lợi, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đô thị hiện đại.

Ở Trung Đông, nhu cầu thủy sản nhập khẩu tăng mạnh, đặc biệt các nước vùng

Vịnh như UAE, Arab Saudi, Qatar. Đây là thị trường giàu tiềm năng cho các sản phẩm tôm, cá tra và cá ngừ Việt Nam. Tuy nhiên, rủi ro về thanh toán, tập quán tiêu dùng khác biệt và tiêu chuẩn Halal khắt khe đòi hỏi doanh nghiệp phải chuẩn bị kỹ. Đặc biệt, từ giữa tháng 6/2025, xung đột Israel - Iran đã đẩy khu vực này vào vòng xoáy bất ổn, doanh nghiệp Việt Nam càng cần phải cẩn trọng.

Bà Lê Hằng, Phó Tổng Thư ký VASEP, nhận định: “Trung Đông là thị trường rất hứa hẹn, nhưng doanh nghiệp phải chuẩn bị kỹ về chứng nhận Halal, phương thức thanh toán an toàn, và chiến lược phân phối phù hợp với tập quán tiêu dùng Hồi giáo”.

Những yêu cầu cấp thiết cho cuộc chuyển hướng Ngành thủy sản Việt Nam trước ngã rẽ, song, cơ hội luôn đi kèm thách thức. Để cuộc chuyển hướng này thành công, ngành cần chuẩn bị nhiều giải pháp từ chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn môi trường - xã hội, đến chiến lược xây dựng thương hiệu và đa dạng hóa sản phẩm.

Trong đó, cần nâng cao chất lượng và truy xuất nguồn gốc. Cụ thể, các thị trường EU, Mỹ, Nhật Bản đều đòi hỏi sản phẩm có chứng nhận bền vững (ASC, BAP, MSC), truy xuất nguồn gốc rõ ràng. Doanh nghiệp cần đầu tư vào công nghệ

nuôi trồng, quản lý vùng nuôi, áp dụng số hóa để minh bạch hóa thông tin. Thêm vào đó, cần đa dạng hóa sản phẩm và chế biến sâu. Bởi xu hướng tiêu dùng toàn cầu đang chuyển sang các sản phẩm tiện lợi, chế biến sẵn, thân thiện môi trường. Do đó, các doanh nghiêp thủy sản Việt Nam cần phát triển mạnh sản phẩm giá trị gia tăng thay vì chỉ xuất khẩu thô. Đồng thời, cần xây dựng thương hiệu quốc gia cho thủy sản. Bởi với thương hiệu “Thủy sản Việt Nam” uy tín, gắn với chất lượng và bền vững, sẽ giúp gia tăng giá trị, khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế.

Ngoài ra, các doanh nghiệp rất cần chính sách hỗ trợ từ Nhà nước. Cụ thể, cần có cơ chế tín dụng ưu đãi, hỗ trợ chứng nhận quốc tế, xúc tiến thương mại, đào tạo nhân lực. Chính phủ cũng

cần đàm phán các hiệp định thương mại song phương, khu vực để tạo lợi thế

cạnh tranh cho thủy sản Việt Nam. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng cần tăng tốc, phải đầu tư chiều sâu cho công nghệ, phát triển sản phẩm xanh - sạch -

bền vững và xây dựng thương hiệu riêng.

Đặc biệ t, việc nâng cao năng lực cạnh tranh, tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế, tận dụng thương mại điện tử và học hỏi kinh nghiệm quốc tế được xem là những yếu tố then chốt giúp ngành vươn lên mạnh mẽ trên thị trường toàn cầu.

Khó khăn tại thị trường Mỹ không chỉ là thách thức, mà còn là động lực để thủy sản Việt Nam thay đổi, hướng tới sự bền vững và đa dạng hơn. EU, Trung

Quốc, ASEAN, Trung Đông hay Nam

Mỹ đều là những thị trường tiềm năng, nhưng muốn chinh phục, doanh nghiệp và ngành thủy sản Việt Nam cần chuẩn bị kỹ lưỡng từ nâng chất lượng, gỡ rào cản, phát triển sản phẩm đến xây dựng thương hiệu. Con đường phía trước không dễ dàng, song nếu tận dụng tốt cơ hội và khắc phục hạn chế, thủy sản Việt Nam hoàn toàn có thể vươn lên khẳng định vị thế trong bản đồ xuất khẩu thủy sản thế giới.

Ông Lê Thanh Hòa, Phó Cục trưởng

Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường

CẦN XÂY DỰNG

THƯƠNG HIỆU MỘT

CÁCH BÀI BẢN

Trong bối cảnh các thị trường truyền thống ngày càng khó khăn, cần tìm hướng mở rộng sang các thị trường tiềm năng như: Trung Đông, châu Phi, Tây Á. Đồng thời cần định hướng xây dựng

thương hiệu thủy sản Việt Nam một cách bài

bản. Để làm được điều này, trong thời gian tới, cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa Cục Thủy sản và Kiểm ngư và Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường, đồng thời phân rõ trách nhiệm của các bên nhằm tạo sức mạnh tổng thể, nâng cao vị thế thủy sản nói riêng và nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Ông Tô Việt Châu, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Nông nghiệp và Môi trường)

CHỦ ĐỘNG KỊP THỜI

ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÍA MỸ VỀ MMPA

Vừa qua, Mỹ đã công bố kết quả đánh giá tính tương

đương theo Đạo Luật Bảo tồn thú biển (MMPA). Trong tổng số 135 quốc gia và vùng lãnh thổ

được xem xét, có 89 quốc gia và vùng lãnh thổ

được công nhận tương đương hoàn toàn; 34

quốc gia và vùng lãnh thổ chỉ đạt mức tương

đương một phần, trong đó có Việt Nam; và 12

quốc gia và vùng lãnh thổ không được công nhận

tương đương. Trước thực tế này, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã tổ chức cuộc họp chỉ đạo, giao nhiệm vụ cụ thể cho các đơn vị liên quan. Đây là công việc mang tính cấp bách, vì vậy trong thời gian tới các đơn vị cần

vùng

ĐBSCL

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, sinh kế của hàng triệu ngư dân Đồng bằng sông Cửu

Long (ĐBSCL) đang chịu áp lực nặng nề. Một hướng

đi mới được nhiều tỉnh ven biển triển khai và khẳng

định hiệu quả là mô hình nuôi thủy sản dưới tán rừng

ngập mặn - cách làm vừa tạo thu nhập, vừa phục hồi

hệ sinh thái và thích ứng với nước biển dâng.

Tìm cơ hội từ thách thức

Việt Nam là một trong 10 quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu, nước biển dâng và ĐBSCL chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất. Toàn vùng có 17 cửa sông với tổng chiều rộng khoảng 25 km, dẫn đến sự trao đổi nước từ biển vào đã và tiếp tục gia tăng từ 25 - 65%, khiến diện tích bị ngập triều và xâm nhập mặn tăng theo.

Vùng ĐBSCL chỉ chiếm 12,2% diện tích cả nước nhưng sản xuất lúa chiếm tới 47%, sản lượng lúa

chiếm 56%; diện tích nuôi trồng

thủy sản chiếm 70%, sản lượng

chiếm 40% và 60% xuất khẩu

của cả nước; diện tích cây ăn trái

chiếm 36,5% với trên 50% sản

lượng cả nước...

Tuy vậy, các hiện tượng El Nino, La Nina… đã tạo ra những

tác động không nhỏ, ảnh hưởng

trực tiếp đến lúa và cây trồng, tác động tiêu cực đến kinh tế nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản…

Một trong những giải pháp ưu tiên được các chuyên gia trong và ngoài nước khuyến cáo, là

thay vì chạy theo chống lũ, chống hạn, chống mặn, khắc phục thiên nhiên, hãy “chung sống cùng thiên nhiên”, phát triển thuận thiên. Trong đó, nuôi trồng thủy sản dưới tán rừng là hướng đi ngày càng được các địa phương ven biển chú trọng, đặc biệt vùng ĐBSCL. Chiến lược phát triển thủy sản đến năm 2030 cũng đặt mục tiêu mở rộng diện tích, nâng cao năng suất và giá trị sản phẩm theo hướng bền vững, hữu cơ và ứng dụng khoa học kỹ thuật. Trong đó, phấn đấu đưa nhiều diện tích nuôi này đạt được chứng nhận các tiêu chuẩn hữu cơ, sinh thái và quốc tế.

Nuôi tôm, cá giữ rừng

Tỉnh Cà Mau có tổng diện tích

35.000 ha rừng ngập mặn, với hệ sinh thái dưới tán rừng ngập mặn phong phú, đa dạng. Những năm qua, ngành thủy sản của tỉnh phát triển khá mạnh các mô hình

đa tầng, đa giá trị, thuận tự nhiên. Thay vì chặt phá, bà con nơi

đây tận dụng hệ sinh thái tự nhiên dưới tán rừng để nuôi tôm sú và cua biển, tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên trong môi trường rừng, giúp giảm chi phí đầu vào, giảm phát sinh dịch bệnh. Người dân có thu nhập ổn định, đồng thời cùng địa phương

bảo vệ diện tích rừng. Bởi vì khi tham gia mô hình, người nuôi phải đảm bảo tỷ lệ che phủ rừng trên diện tích nuôi theo quy định. Theo đánh giá, với 1ha người

dân đạt lợi nhuận trung bình khoảng 80 triệu đồng mỗi năm. Đây là mô hình phát triển hài hòa giữa kinh tế và bảo vệ môi trường. Đến nay, đã có nhiều dự án quốc tế và trong nước tham gia hỗ trợ kỹ thuật, vốn và xây dựng chuỗi liên kết tiêu thụ sản phẩm tôm sinh thái. Nhờ vậy, mô hình ngày càng được mở rộng, trở thành sinh kế bền vững của hàng chục nghìn hộ dân. Tỉnh Trà Vinh cũ (nay là Vĩnh Long) đã quy hoạch gần 24.000 ha đất vùng ven biển, trong đó có khoảng một nửa để phát triển diện tích rừ ng kết hợp nuôi trồng thủy sản, với nhiều đối tượng nuôi như tôm, cua biển, cá đối, cá chẽm. Hộ tham gia mô hình được hỗ trợ 50% giống, 50% thức ăn viên, 50% bộ dụng cụ đo môi trường, một phần thuốc phòng trị và quy trình kỹ thuật (khoảng >12 triệu đồng/ha)... Qua nhiều năm sản xuất, mô hình rừ ng - thủ y sản đem lại cho bà con nguồn thu nhập ổn định, bình quân khoảng 100120 triệu đồng/ha/năm. Dự kiến năm 2025, tỉnh phấn đấu trồng mới thêm 50 ha rừng và sẽ tiếp tục giao khoán cho hộ dân và tổ chức chăm sóc bảo vệ kết hợp nuôi thủy sản để tạo nguồn thu nhập. Mô hình không chỉ giúp ứng phó tác động của biến đổi khí hậu, mà còn tạo sinh kế bền vững

Kiên Giang (nay là An Giang).

Tỉnh đã triển khai nhiều mô hình trình diễn nuôi sò huyết dưới tán

rừng, quy mô từ 5 - 30 ha. Nuôi sò huyết tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên, không tốn chi phí thức ăn công nghiệp, ít dịch bệnh và tạo nguồn thu ổn định. Đây được đánh giá là mô hình góp phần bảo vệ rừng phòng hộ và chống xói lở ven biển - vấn đề đang ngày càng nhức nhối ở tỉnh.

Cần thêm chính sách hỗ trợ và định hướng phát triển Nhằm thúc đẩy mô hình nuôi

thủy sản dưới tán rừng, Chính phủ và ngành nông nghiệp đã ban hành nhiều chương trình, đề án liên quan đến phát triển thủy sản bền vững và thích ứng biến đổi khí hậu. Trong đó, chủ yếu tập trung vào việc quy hoạch và giao khoán rừng cho hộ dân, tạo điều kiện cho người dân khai thác hợp lý dưới tán rừng, có trách nhiệm bảo vệ rừng. Khuyến khích chứng nhận sinh thái, hữu cơ (Naturland, ASC), để gia tăng giá trị sản phẩm và mở rộng thị trường xuất khẩu. Khuyến khích thành lập hợp tác xã, tổ hợp tác, liên kết doanh nghiệp - ngư dân, tạo chuỗi giá trị khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ. Hiện nay, nhiều địa phương đã đưa mô hình nuôi thủy sản dưới tán rừng vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ môi trường. Dù có nhiều ưu điểm, mô hình này vẫn đối mặt với không ít khó

khăn như nguồn vốn và kỹ thuật

hạn chế do phần lớn hộ nuôi là quy mô nhỏ, khó tiếp cận tín dụng và kỹ thuật mới.

Mô hình cũng khó đạt chứng nhận quốc tế, mà nguyên nhân là các tiêu chuẩn như ASC, Naturland yêu cầu hồ sơ quản lý rừng, truy xuất nguồn gốc chặt chẽ, trong khi điều này vượt quá khả năng của nhiều hộ cá thể.

Chưa kể, việc quản lý diện tích rừng chưa đồng bộ, có nơi chưa kiểm soát chặt chẽ tỷ lệ rừngao, dẫn đến nguy cơ suy thoái rừng ngập mặn. Việc một số hộ tự ý mở rộng diện tích nuôi cũng

ảnh hưởng đến môi trường.

Quan trọng hơn là đầu ra sản phẩm chưa ổn định. Dù có tiềm năng xuất khẩu, phần lớn sản phẩm từ mô hình vẫn tiêu thụ

qua thương lái, giá cả bấp bênh, đồng thời việc liên kết doanh

nghiệp còn hạn chế. Trong khi

đó, tác động của biến đổi khí hậu

như xâm nhập mặn, sạt lở, nước biển dâng và thời tiết cực đoan

ngày càng khó lường, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả mô hình.

Để mô hình nuôi thủy sản dưới

tán rừng thực sự trở thành sinh kế bền vững, ngành và các địa

phương cần hoàn thiện cơ chế giao khoán rừng, bảo đảm người

dân được hưởng lợi xứng đáng khi tham gia bảo vệ và phát triển rừng.

Đẩy mạnh đào tạo, chuyển giao kỹ thuật, nhất là áp dụng công nghệ sinh học, hệ thống tuần hoàn

nước, đa dạng hóa loài nuôi như tôm, cua, sò, vọp, ốc len…

Đồng thời, phát triển hợp tác xã kiểu mới, liên kết chặt chẽ với

doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu để đảm bảo đầu ra ổn định và hướng tới chứng nhận quốc tế. Kết hợp du lịch sinh thái, khai thác giá trị cảnh quan rừng ngập mặn và mô hình tôm - rừng như một sản phẩm du lịch cộng

Theo căn cứ của Luật Lâm nghiệp, các hộ tham gia mô hình bắt buộc có phương án quản lý rừng và môi trường: diện tích, tỷ lệ che phủ rừng tối thiểu, quy trình cấp nước - xả thải, không sử dụng hóa chất cấm; gắn trách nhiệm bảo vệ rừng của hộ nhận khoán/thuê rừng.

đồng, gia tăng nguồn thu cho ngư dân.

Song song đó là tăng cường nghiên cứu và giám sát môi trường, bảo đảm duy trì cân bằng sinh thái, ngăn chặn tình trạng suy thoái rừng do khai thác quá mức. Mô hình nuôi thủy sản dưới tán rừng tại ĐBSCL không chỉ mang lại thu nhập cho ngư dân, mà còn góp phần quan trọng vào bảo vệ rừng ngập mặn, phòng chống thiên tai và thích ứng biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, để mô hình này lan tỏa và phát triển bền vững, cần sự chung tay của cả nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng ngư dân. Chỉ khi sinh kế ổn định, rừng ngập mặn được đảm bảo thì nuôi thủy sản dưới tán rừng mới thực sự trở thành chìa khóa để phát triển kinh tế xanh, thích ứng tốt với biến đổi khí hậu.

Bảo Hân

Nuôi trồng thủy sản xanh

Chìa

khóa giữ

vững

vị thế xuất khẩu

Trước những thách thức như ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, chi phí tăng cao, sức ép của các thị trường xuất khẩu, việc áp dụng các mô

hình nuôi trồng bền vững là yếu tố tiên quyết để ngành thủy sản duy trì vị thế, gia tăng giá trị và phát triển bền vững.

Nhu cầu cấp bách

Ngành thủy sản từ lâu đã là một trong những trụ cột xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, với kim ngạch thường xuyên đạt trên 9 tỷ USD mỗi năm, tạo sinh kế cho hàng triệu lao động tại các vùng ven biển và đồng bằng. Thế nhưng, bức tranh phát triển của ngành hiện nay đang đứng trước một bước ngoặt lớn. Nếu như trước đây, chỉ cần đảm bảo sản lượng và chất lượng, sản phẩm thủy sản đã có thể vươn ra thế giới, thì nay, điều kiện tiên quyết để một lô hàng có thể đặt chân vào các thị

trường lớn chính là yếu tố “xanh”.

Trong bối cảnh biến đổi khí

hậu diễn biến ngày càng phức tạp, nguồn tài nguyên phục vụ nuôi trồng ngày một khan hiếm, các thị trường nhập khẩu lớn như châu Âu, Mỹ, Nhật Bản siết chặt tiêu chuẩn môi trường và xã hội, chuyển đổi xanh không chỉ là yêu cầu từ bên ngoài, mà đã trở thành nhu cầu nội tại của chính

ngành thủy sản Việt Nam. Con đường xuất khẩu bền vững trong thập kỷ tới chắc chắn sẽ gắn chặt với mức độ “xanh hóa” của các vùng nuôi, doanh nghiệp và toàn bộ chuỗi cung ứng. Trước hết, nhìn từ bên trong, ngành nuôi trồng thủy sản đang đối diện với nhiều thách thức. Tình trạng ô nhiễm môi trường do hoạt động nuôi thâm canh đã đến mức báo động, khi nước thải, chất thải hữu cơ từ ao nuôi, dư lượng kháng sinh và hóa chất không được xử

luôn rình rập, khiến lợi nhuận của người nuôi bị bào mòn nếu tiếp tục duy trì phương thức sản xuất cũ.

Biến đổi khí hậu lại càng làm bức tranh trở nên phức tạp hơn. Xâm nhập mặn, hạn hán, mưa lũ bất thường, nhiệt độ nước tăng là những tác nhân khiến ngành nuôi trồng chịu áp lực lớn. Nếu không thay đổi mô hình theo hướng bền vững, ngành khó có thể duy trì nguồn cung ổn định cho xuất khẩu.

Mặt khác, ngay tại thị trường trong nước, người tiêu dùng cũng ngày càng khắt khe hơn khi lựa chọn thực phẩm. Các chuỗi siêu thị, nhà hàng lớn yêu cầu chứng nhận VietGAP, ASC, BAP cho sản phẩm thủy sản, cho thấy chuyển đổi xanh không chỉ nhằm đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế mà còn là điều kiện để chiếm lĩnh thị trường nội địa.

Bên cạnh sức ép nội tại, yêu cầu từ các thị trường xuất khẩu lớn khiến câu chuyện “xanh” càng trở nên bắt buộc. Liên minh châu Âu là khu vực tiên phong trong việc áp dụng rào cản xanh, với hàng loạt quy định như chống khai thác IUU, cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), yêu cầu truy xuất nguồn gốc và giảm phát thải trong chuỗi cung ứng. Một sản phẩm tôm, cá tra chất lượng cao đến đâu nhưng không đáp ứng tiêu chí môi trường cũng khó lòng vào được EU. Mỹ cũng ngày càng khắt khe hơn, với nhiều quy định về an toàn thực phẩm, chống lao động cưỡng bức, truy xuất nguồn gốc và kiểm soát phát thải. Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc cũng không nằm ngoài xu hướng này. Các nhà nhập khẩu ở những quốc gia này yêu cầu chứng nhận quốc tế như ASC, BAP, GlobalGAP. Trong khi đó, các hiệp định thương mại tự do như EVFTA, CPTPP không chỉ mang lại ưu đãi thuế quan, mà còn lồng ghép những điều khoản khắt khe về môi trường và lao động.

Nguồn: ST

Những mô hình thành công

Thực tế tại nhiều địa phương, chuyển đổi xanh trong nuôi trồng thủy sản không còn là khái niệm xa vời mà đã được áp dụng hiệu quả, mang lại lợi ích rõ rệt. Ở Quảng Trị, diện tích nuôi tôm công nghệ cao đã vượt 50 ha với nhiều mô hình như Biofloc, SemiBiofloc, nuôi nhiều giai đoạn trong nhà lưới. Nhờ áp dụng

đồng bộ kỹ thuật, năng suất đạt 20 - 30 tấn/ha/năm, cao hơn 10 - 15 tấn so với cách nuôi truyền thống, mang lại doanh thu 500800 triệu đồng/ha.

Tại Gia Lai, Công ty TNHH Việt Úc-Phù Mỹ đã đầu tư hàng chục nhà màng hiện đại, áp dụng công nghệ Biofloc để kiểm soát môi trường nuôi. Nhiều hộ dân tiên phong mở rộng diện tích từ 1,6 ha lên 8 ha, nuôi được cả trái vụ, đáp ứng nhu cầu thị trường với giá bán cao.

Trong khi đó, tại Khánh Hòa, mô hình “Chính Floc” do anh Lê

Minh Chính phát triển cũng mang

lại kết quả ấn tượng. Nhờ sử dụng

men vi sinh và chế phẩm sinh học

để cân bằng môi trường, ao nuôi

luôn ổn định ngay cả trong mùa

mưa lũ. Năng suất trung bình đạt

30 - 35 tấn/ha, chi phí sản xuất

dưới 60.000 đồng/kg tôm, trong

khi giá bán trên thị trường thường

vượt 130.000 đồng/kg. Điều này

giúp người nuôi vừa bảo đảm lợi

nhuận, vừa giảm thiểu rủi ro dịch

bệnh và áp lực lên môi trường.

Ngoài nuôi tôm, nhiều doanh nghiệp như Australis hay Phương

Minh còn đầu tư nuôi cá lồng

HDPE công nghệ cao, cho hiệu

quả kinh tế vượt trội và hướng tới phát triển bền vững. Những mô hình trên cho thấy, khi áp dụng công nghệ hợp lý, người nuôi có thể giảm chi phí

đầu vào, tăng năng suất, đồng thời kiểm soát tốt dịch bệnh và

môi trường. Quan trọng hơn, sản phẩm thủy sản được nuôi theo quy trình xanh dễ dàng đạt chứng nhận, mở rộng cơ hội xuất

khẩu vào các thị trường cao cấp.

Giải pháp và cơ hội chuyển

đổi xanh

Để đáp ứng cả nhu cầu nội tại

lẫn yêu cầu từ thị trường, ngành

thủy sản Việt Nam cần một loạt

giải pháp đồng bộ. Trước hết là

áp dụng công nghệ nuôi xanh.

Các mô hình biofloc, tuần hoàn

nước, nuôi tôm công nghệ cao trong nhà kính hay ao nổi đang

dần khẳng định hiệu quả khi vừa

giảm phát thải, tiết kiệm nước, vừa kiểm soát dịch bệnh tốt hơn.

Song song đó, việc ứng dụng năng lượng tái tạo cũng rất cần thiết. Một số vùng nuôi tại Đồng bằng sông Cửu Long đã thử nghiệm lắp đặt điện mặt trời trên ao nuôi, không chỉ giảm chi phí

sản xuất mà còn góp phần giảm phát thải khí nhà kính. Bên cạnh đó, việc nâng cao chất lượng con giống đóng vai trò then chốt, giúp tăng khả năng kháng bệnh, giảm sử dụng kháng sinh, từ đó hướng tới một chuỗi sản xuất bền vững. Việc đẩy mạnh áp dụng các chứng nhận quốc tế như ASC, BAP, GlobalGAP chính là “tấm hộ chiếu xanh” để sản phẩm Việt Nam chinh phục các thị trường khó tính. Một hướng đi quan trọng khác là số hóa và minh bạch chuỗi cung ứng. Ứng dụng blockchain, QR code để truy xuất nguồn gốc từ ao nuôi đến bàn ăn không chỉ đáp ứng yêu cầu của nhà nhập khẩu mà còn tạo niềm tin cho người tiêu dùng. Để các giải pháp trên đi vào thực tế, cần có sự hỗ trợ đồng bộ về chính sách. Nhà nước và hiệp hội cần thúc đẩy các gói tín dụng xanh, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận công nghệ sạch, ưu đãi cho những đơn vị đầu tư vào năng lượng tái tạo. Doanh nghiệp chủ động đầu tư công nghệ, hướng đến các chứng nhận quốc tế và xây dựng thương hiệu xanh. Người nuôi cần thay đổi thói quen sản xuất, tham gia liên kết chuỗi để nâng cao hiệu quả và minh bạch dữ liệu. Nhà nước cùng các hiệp hội phải kịp thời ban hành chính sách khuyến khích, tạo điều kiện tiếp cận vốn ưu đãi, hỗ trợ chuyển giao công nghệ và đẩy mạnh xúc tiến thương mại gắn với tiêu chuẩn xanh. Như vậy, chuyển đổi xanh không còn là khái niệm xa vời mà là xu thế tất yếu, quyết định tương lai của ngành thủy sản Việt Nam. Nếu chậm chân, chúng ta sẽ bị loại khỏi cuộc chơi toàn cầu.

Thùy Khánh

Vùng giống tập trung

Vấn đề cốt lõi trong quy hoạch phát triển

Giống thủy sản đóng vai trò then chốt trong hoạt động nuôi trồng, góp phần quyết định năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, việc lựa chọn vùng phát triển giống tập trung, xây dựng cơ chế chính sách phù hợp và tái cơ cấu lĩnh vực giống thủy sản là những yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.

Trong những năm qua, Nhà nước đã quan tâm đến công tác phát triển giống thủy sản thông qua việc ban hành nhiều quyết định quan trọng, tiêu biểu như: Quyết định số 224/1999/QĐ-TTg (ngày 08/12/1999) phê duyệt Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản thời kỳ 1999–2010; Quyết định 112/2004/QĐ-TTg về phát triển giống chủ động nội địa giai đoạn 2004–2010; Quyết định 2194/QĐ-TTg (2009); Quyết định 1690/QĐ-TTg về Chiến lược phát triển ngành thủy sản 2010–2020; và Quyết định 703/QĐ-TTg (2020), đặt nền tảng cho kế hoạch, quy hoạch giai đoạn tiếp theo.

Trong giai đoạn này, đã hình thành 06 Trung tâm giống Quốc gia, với nhiệm vụ bảo tồn nguồn gen, nghiên cứu chọn giống, sản xuất giống gốc và cung cấp cho các cơ sở sản xuất giống vùng/ địa phương. Song song, các trung tâm giống vùng cũng được xây dựng, tạo thành mạng lưới giống theo cấu trúc từ Trung ương → Vùng → Cơ sở. Tuy nhiên, hiệu quả triển khai còn hạn chế, mang tính manh mún, nhỏ lẻ, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn và chưa định hình rõ nền tảng cho phát triển bền vững. Gần đây, ngành thủy sản tiếp tục ban hành nhiều văn bản trọng điểm nhằm định hướng phát triển giống và nuôi trồng thủy sản trong dài hạn, bao gồm: Quyết định 339/QĐ-TTg (2021) về Chiến lược phát triển ngành đến năm 2030, tầm nhìn 2045; Quyết định 1960/ QĐ-BNN-TCTS (2021) về kế hoạch triển khai Chiến lược; Quyết định 1664/ QĐ-TTg (2021) về phát triển nuôi biển; Quyết định 985/QĐ-TTg (2022–2030) về Chương trình phát triển vùng giống thủy sản chất lượng cao; Quyết định 389/QĐ-TTg (2024–2050) về bảo tồn và bổ sung nguồn giống thủy sản tự nhiên;

cùng với Nghị định 26/2019/NĐ-CP về quy chuẩn kỹ thuật trong sản xuất giống (hiện vẫn còn hiệu lực). Các văn bản này bước đầu đã định hình rõ định hướng, nhiệm vụ và cơ sở pháp lý, nhưng chưa có giải pháp, cơ chế chính sách hợp lý cho công tác phát triển giống thủy sản trong dài hạn.

Theo Cục Thủy sản và Kiểm ngư (2022), cả nước có khoảng 2.104 cơ sở sản xuất giống tôm, với sản lượng hơn 160 tỷ con/năm, trong khi nhu cầu dao động từ 140 - 155 tỷ con/năm. Tuy nhiên, nguồn tôm bố mẹ tôm thẻ chân trắng vẫn phụ thuộc chủ yếu vào nhập khẩu. Đối với giống cá biển, đến năm 2024 sản lượng đạt khoảng 243,6 triệu con, trong đó 146 triệu con được sản xuất trực tiếp và 97,6 triệu con qua ương dưỡng. Lượng giống này vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất trong nước.

Nhìn chung, sản xuất giống tôm và cá

biển ở nước ta còn nhiều bất cập: các cơ sở sản xuất phân tán, nhỏ lẻ, chủ yếu

theo quy mô hộ gia đình. Định hướng phát triển vùng sản xuất giống tập trung

quy mô lớn cũng như công tác chọn tạo, gia hóa giống bố mẹ vẫn còn lúng túng.

Hệ quả là chất lượng con giống thấp, không đồng đều, tỷ lệ sống thấp, giá thành cao và khó kiểm soát, từ đó cản trở sự phát triển bền vững của ngành nuôi tôm và cá biển, nhất là trong bối cảnh nhu cầu giống chất lượng cao ngày

càng tăng do mở rộng nuôi thâm canh và công nghiệp. Trước thực trạng này, việc quy hoạch và đầu tư phát triển các vùng sản xuất giống tập trung, gắn với nghiên cứu

chọn tạo giống, chủ động nguồn bố mẹ

và kiểm soát chất lượng giống trở thành

yêu cầu cấp thiết để nâng cao năng suất, hiệu quả và tính bền vững của ngành nuôi biển Việt Nam.

Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có hệ thống tiêu chí khoa học đầy đủ và rõ ràng

cho việc lựa chọn và quy hoạch các vùng sản xuất – ương dưỡng giống thủy sản tập trung. Việc này cần dựa trên lợi thế

tự nhiên, sự tương thích giữa điều kiện sinh thái của từng khu vực với đặc điểm sinh học – sinh sản của từng nhóm loài

thủy sản, cũng như quy luật tổng nhiệt

đặc trưng của các vùng sinh thái. Đặc

biệt, đối với những đối tượng nuôi chủ lực và có giá trị kinh tế cao như tôm và

cá biển, yêu cầu về môi trường ổn định và khắt khe càng đòi hỏi sự quy hoạch

chặt chẽ.

Câu hỏi đặt ra là: Những vùng nào hội

đủ điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội

và hạ tầng kỹ thuật để được quy hoạch

thành các trung tâm sản xuất giống thủy

sản tập trung, hiệu quả và bền vững?

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm

của giai đoạn tới là: Hình thành các vùng

sản xuất giống tập trung quy mô lớn; đẩy

mạnh chọn tạo và gia hóa giống bố mẹ

Ảnh: Phan Thanh
Cường

Ảnh: Phan

Thanh

Cường

có chất lượng di truyền cao; đồng thời

ban hành cơ chế, chính sách phù hợp để

phát triển ngành giống thủy sản, nhằm tạo đột phá về năng suất, chất lượng và

nâng cao năng lực cạnh tranh của nuôi trồng thủy sản Việt Nam trong nước và quốc tế.

Tiêu chí về điều kiện tự nhiên để lựa chọn vùng sản xuất tập trung gồm:

- Chất lượng nước biển ổn định: Nước có độ mặn phù hợp (28 - 35‰), ít biến động theo mùa, không ô nhiễm và độ pH ổn định.

- Nguồn nước cấp và thoát riêng biệt:

Có khả năng cấp nước sạch và xả thải riêng, không gây lây nhiễm chéo mầm bệnh giữa các trại.

- Khí hậu ôn hòa quanh năm: to C (1) lý

tưởng từ 26 - 30°C, ít bão, không có mùa lạnh dưới 20°C. Điều này giúp sản xuất giống quanh năm, không bị gián đoạn.

- Địa hình và địa chất phù hợp: Địa hình ven biển bằng phẳng, đất cát pha, thoát nước tốt, không bị nhiễm phèn/ mặn ngầm. Không nằm trong vùng sạt

lở, sụt lún hay có nguy cơ thiên tai cao.

- Giao thông thuận tiện: Gần đường quốc lộ, cảng biển, sân bay để vận chuyển giống đi các vùng nuôi tiêu thụ.

Các tỉnh ven biển Việt Nam được chia theo ba vùng sinh thái chính: Bắc

Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Mỗi vùng có

đặc điểm tự nhiên khác nhau, từ đó ảnh hưởng đến mức độ thích hợp cho phát triển giống tôm và cá biển. Tuy nhiên, về lợi thế phát triển giống tôm và cá biển thì vùng Nam Trung Bộ hiện là khu vực có nhiều lợi thế, cụ thể như sau:

1. Vùng Nam Trung Bộ

Điều kiện tự nhiên thuận lợi: Nhiệt

độ ổn định quanh năm, trung bình 26–28°C, K (1) ≈ 8500–9500 độ ngày, ít biến động mùa đông. Nhiều vũng, vịnh kín gió, nước sạch, độ mặn cao và ổn định phù hợp cho nuôi vỗ thành thục tôm, cá bố mẹ và ương con giống tôm, cá biển. Hạ tầng và kinh nghiệm: Tập trung nhiều trung tâm nghiên cứu và sản xuất giống thủy sản biển như Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 3, Trường Đại học Nha

Trang. Hiện là trung tâm sản xuất giống tôm giống và cá biển lớn nhất cả nước, đặc biệt là các giống như tôm he chân trắng, tôm sú, cá mú, cá hồng, cá chim vây vàng...

2. Vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ

Mùa đông lạnh, nước biển lạnh dưới 20°C, K ≈ 6000–7000 độ ngày. Môi trường nước ven bờ có biến động mạnh về độ mặn, nhiệt độ, ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của ấu trùng tôm cá. kkhông thuận lợi cho việc nuôi vỗ thành thục nhiều loài tôm, cá biển nhiệt đới, gây khó khăn cho sản xuất giống quanh năm. Vùng này phù hợp cho ương dưỡng nâng cấp cá bột, hậu ấu trùng tôm khi có thiết bị tăng nhiệt 3. Vùng Nam Bộ Vùng này có địa hình đồng bằng, Nhiệt độ tương đối cao, K ≈ 8000–8800 độ ngày. Tuy vậy, độ mặn thấp và biến động nhiều theo mùa vụ. Khó khăn trong việc cung cấp nước mặn, rất ít nơi thực sự phù hợp cho sản xuất giống tôm, cá biển. Có thể phù hợp cho việc ương

dưỡng nâng cấp con giống nhỏ kho chuyển từ nơi khác đến.

Như vậy, vùng Nam Trung Bộ được xác định là khu vực có lợi thế tự nhiên, hạ tầng kỹ thuật và nguồn nhân lực phù hợp để phát triển giống tôm và cá biển. Đây là vùng có lợi thế hàng đầu của cả nước trong lĩnh vực sản xuất giống thủy sản biển. Khu vực này đóng vai trò quan trọng trong việc chọn tạo và phát triển đàn giống bố mẹ, đồng thời không chỉ cung cấp con giống chất lượng cao mà còn cung cấp trứng đã thụ tinh (phôi), cá bột và hậu ấu trùng tôm cho các địa phương khác để ương dưỡng. Để giảm sự chồng chéo, tăng tính chủ động và tạo động lực thực chất cho từng chủ thể. Nhà nước tập trung vào việc tạo nền tảng (hạ tầng và thể chế), doanh nghiệp đầu tư và vận hành, còn nhà khoa học cung cấp đầu vào công nghệ, cụ thể như sau:

Nhà nước: Thiết kế không gian phát triển dựa trên các tiêu chí khoa học về sinh thái, khí hậu, quy luật tổng nhiệt độ. Đầu tư công vào hạ tầng cơ bản: hệ thống cấp thoát nước, giao thông nội vùng, hệ thống điện, trung tâm kiểm định giống, chất lượng môi trường... Ban hành cơ chế ưu đãi (thuế, đất đai, tín dụng) để thu hút doanh nghiệp đầu tư xây dựng vùng giống theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Doanh nghiệp: Giữ vai trò trung tâm vận hành chuỗi sản xuất, bao gồm xây dựng nhà trại, nhập và chọn lọc giống bố mẹ, triển khai sản xuất giống thương phẩm, và kết nối đầu ra với vùng nuôi. Chủ động “đặt hàng” cho các viện, trường và đơn vị nghiên cứu để phát triển công nghệ. Áp dụng cơ chế hợp đồng nghiên cứu – chuyển giao công nghệ thay vì trông chờ vào các đề tài nghiên cứu mang tính học thuật thuần túy.

Nhà khoa học: Tư vấn và cung cấp giải pháp công nghệ về chọn tạo giống bố mẹ có năng suất và chất lượng vượt trội. Hoàn thiện công nghệ sinh sản nhân tạo. Phát triển quy trình ương dưỡng khép kín. Hỗ trợ đào tạo kỹ thuật viên, chuyển giao kỹ thuật và giám sát chất lượng trong giai đoạn đầu vận hành các vùng giống mới.

Tóm lại, để chủ động nguồn giống chất lượng, đáp ứng đầy đủ nhu cầu phát triển sản xuất, việc lựa chọn các vùng có lợi thế về điều kiện tự nhiên, hạ tầng và nhân lực để quy hoạch thành

vùng sản xuất giống tập trung, cũng như vùng ương dưỡng phôi, cá bột và hậu ấu trùng tôm, là yêu cầu cấp thiết; đồng thời việc xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp theo từng giai đoạn phát triển, cùng với thúc đẩy phân cấp quản lý và xã hội hóa các hoạt động trong chuỗi sản xuất giống, là những vấn đề then chốt trong chiến lược tái cơ cấu lĩnh vực giống thủy sản.

Ghi chú: (1) Quy luật tông nhiệt: ∑ (t –t o) = K ; Trong đó: ∑ (T−T0): Là tổng nhiệt độ hiệu dụng tích lũy trong suốt chu kỳ phát triển (còn gọi là tích nhiệt hiệu dụng); T: là nhiệt độ trung bình ngày; T 0 : là nhiệt độ ngưỡng sinh trưởng (hay còn gọi là nhiệt độ giới hạn dưới), tức là mức nhiệt độ tối thiểu để sinh vật bắt đầu phát triển và K: là tổng nhiệt độ cần thiết để một loài sinh vật phát triển từ một giai

đoạn sinh trưởng nhất định (thường từ trứng đến trưởng thành).

Mỗi loài sinh vật có một giá trị t 0 và K đặc trưng. Ví dụ, cây lúa có thể có t 0 =10 o C và K ≈ 2500 o C tùy giống. Nếu biết

nhiệt độ trung bình từng ngày (T), ta có thể tính được bao nhiêu ngày cần để đạt tổng nhiệt độ K, từ đó dự đoán được thời điểm sinh vật sẽ trưởng thành.

Quy luật ông nhiệt độ có ý nghĩa trong việc Dự báo thời gian thành thục, dự báo lịch nuôi, trồng tối ưu, dự báo vòng đời của dịch - bệnh hại trong nông nghiệp và phân vùng sinh thái cho các giống cây trồng thích hợp. Tổng nhiệt độ cao giúp tôm/cá bố mẹ thành thục sớm, rút ngắn thời gian từ khi nuôi đến khi cho sinh sản.

Anh Vũ

SAO LẠI BÔI BẨN CÁ

RÔ PHI?

Câu chuyện con cá rô phi một lần nữa làm “nóng” cộng đồng mạng lẫn

người nuôi và doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu cá rô phi. Tuy nhiên, nó

lại không đến đến từ sự gia tăng diện tích, giá cả, hay nhu cầu tiêu thụ,

mà từ những thông tin hết sức nguy hại cho ngành hàng rất giàu tiềm

năng này được đăng tải trên một số phương tiện truyền thông.

Ngay sau khi đọc được bài báo có nội dung gây bất lợi cho người nuôi và chế biến, xuất khẩu cá rô phi Việt Nam được đăng tải trên một phương tiện truyền thông trong nước, Phóng viên Tạp chí Thủy sản Việt Nam đã nhanh chóng gửi bài viết này cho ông Võ Văn Phục – Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Thủy sản sạch Việt Nam (Vinacleanfood) cùng một số nông dân đang hành nghề nuôi cá nước lợ và rất nhanh chóng, người viết đã nhận được “phản hồi tức giận” từ cộng đồng nuôi trồng và chế biến, xuất khẩu thủy sản ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).

Bên cạnh thế mạnh truyền thống là nuôi và chế biến, xuất khẩu tôm nước lợ, năm 2025, trước diễn biến mới của thị trường, Vinacleanfood quyết định mở rộng thêm nghề nuôi và chế biến, xuất khẩu cá rô phi nước lợ. Ngay vụ nuôi đầu tiên bằng nguồn nước có độ mặn từ 10-20‰, Vinacleanfood đã thu được kết quả rất khả quan ở hầu hết các chỉ tiêu quan trọng của nghề nuôi, như: tỷ lệ sống, tốc độ tăng trưởng, độ dầy thịt lưng…

đặc biệt là chất lượng cá được các chuyên gia của Đoàn làm dự án xuất khẩu cá rô phi cho Bộ Nông nghiệp Mỹ đánh giá là ngon nhất trong số cá rô phi mà họ được ăn thử. Hiện công ty đã xây dựng xong nhà xưởng, quy trình chế biến và đang thực hiện lô hàng đầu tiên để cho khách hàng ngay trong tháng 9 này. Ông Phục chia sẻ: “Cá rô phi nước lợ nuôi công nghiệp, đặc biệt là khi nuôi ở độ mặn 10-20‰ có chất lượng thịt rất ngon và đã được người tiêu dùng Mỹ đánh giá rất cao”. Liên quan đến bài viết cho rằng, “ăn cá rô phi chẳng khác gì thuốc độc”, ông Phục chỉ nói gọn lỏn: “Khùng”. Giải thích thêm cho cái sự “khùng” trên, ông Phục dẫn chứng:

“Cá rô phi ngày nay hầu hết được nuôi theo mô hình công nghiệp với nguồn nước rất sạch, nên không có chuyện nước tù như bài viết đã nêu. Còn tất cả các yếu tố đầu vào khác, như: thức ăn, chế phẩm sinh học… đều có chứng nhận chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm, nên chất lượng cá cũng

đạt các tiêu chuẩn quốc tế và được xuất đi rất nhiều thị trường; trong đó lớn nhất là thị trường Mỹ”. Có lẽ, mọi người đều biết, thị trường Mỹ vốn nổi tiếng là rất khắt khe với các tiêu chuẩn về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm, nhưng cũng là một trong những thị trường tiêu thụ cá phi lớn nhất thế giới. Chỉ riêng điều này thôi cũng đủ để cho thấy chất lượng và độ an toàn của cá rô phi nuôi công nghiệp ở Việt Nam là tốt như thế nào.

Tuy chỉ là người chuyên nuôi các loài cá nước lợ khác, như: cá chẽm, cá Hồng Mỹ, cá chim vây vàng… nhưng khi đọc bài viết trên, anh Võ Điền Trung Dũng – Giám đốc Công ty TNHH Đại Ngư Nghiệp, cũng bức xúc không kém khi cho rằng, ngay từ cái title bài viết đã là “quá bậy” và hết sức nguy hại, nhưng không hiểu sao vẫn được người biên tập cho đăng tải. Đa số những người nuôi thủy sản, trong đó có cả những người không có nuôi cá rô phi cũng đều bức xúc trước những thông tin được đăng tải trong bài viết, thậm chí có người còn cho rằng, đây là loại truyền thông bẩn nhằm mục đích bôi nhọ hình ảnh con cá rô phi Việt Nam, nhưng đáng tiếc là nó lại xuất hiện ngay trên trang thông tin trong nước chứ không phải trang quốc tế như trường hợp của con cá tra trước đây. Nhắc đến câu chuyện truyền thông bẩn đối với con cá tra, người viết chợt rùng mình và cảm thấy rất lo cho con cá rô phi. Lo là

bởi con cá rô phi không chỉ là đối tượng xuất khẩu rất tiềm năng, nhờ dễ nuôi, chất lượng thịt thơm ngon, giá cả phải chăng, rất phù hợp với nhu cầu dinh dưỡng, cùng mức thu nhập của người tiêu dùng các nước trong bối cảnh kinh tế vốn rất khó lường. Trở lại với câu chuyện con cá tra. Chắc hẳn mọi người quan tâm đến lĩnh vực thủy sản Việt Nam vẫn còn nhớ trường hợp con cá tra Việt Nam đã bị bôi bẩn như thế nào trên một số phương tiện truyền thông ở châu Âu và phải mất thời gian khá dài và tổn thất rất lớn cho cả ngành hàng tỷ đô này mới có thể lấy lại hình ảnh thật của mình.

Một bài viết có nội dung hết sức mơ hồ, thiếu cơ sở khoa học theo kiểu: “Người bán cá tiết lộ:...” đáng lẽ ra không được phép xuất hiện trên cả các trang mạng xã hội, chứ chưa nói đến trang thông tin điện tử. Tôi không muốn phân tích sâu về chuyên môn vì đó là công việc của các nhà khoa học, của doanh nhân… mà chỉ muốn nói đến góc độ đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp của người làm truyền thông nói chung và người làm báo nói riêng. Người viết có thể không có chuyên môn, nhưng ít ra cũng phải dẫn chứng được cơ sở khoa học về vấn đề mà mình nêu ra, bởi nếu không, bài viết không chỉ thiếu tính thuyết phục, mà đôi khi còn đưa đến tác động tiêu cực đến uy tín, hình ảnh cả một ngành hàng, gây nên những thiệt hai không đáng có.

Bệnh đường ruột trên tôm và biện pháp xử lý triệt để

Bệnh đường ruột ở tôm

khá phổ biến với các

biểu hiện bệnh như phân

trắng, đứt khúc, trống

ruột, phân loãng,...kéo

dài có thể dẫn đến hư

gan tụy của tôm. Bệnh

thường xảy ra ở tôm

nuôi sau 1 tháng, mức

độ xảy ra nhiều nhất vào

giai đoạn 60-90 ngày

tuổi, gây ảnh hưởng rất

lớn đến sự thành công

của vụ nuôi, nếu không

phòng và điều trị kịp thời

sẽ làm giảm năng suất

và chất lượng tôm nuôi.

Nguyên nhân

Nhiễm vi khuẩn Vibrio spp: khi chất lượng nước kém, mật độ Vibrio tăng cao, xâm nhập vào cơ thể và gây bệnh cho tôm. Hầu hết các chủng Vibrio đều có khả năng gây bệnh, khi vào đường ruột, vi khuẩn phá hủy thành ruột gây viêm, tôm không ăn được dẫn đến trống ruột, đứt khúc.

Nhiễm ký sinh trùng Gregarine (trùng 2 tế bào): khi tôm ăn phải ký chủ của loài Gregarine này như nhuyễn thể 2 mãnh vỏ, giun nhiều tơ, ốc... sẽ bị ấu trùng xâm

nhập vào ruột, phát triển thành dạng trưởng thành, sống ký sinh và bám vào thành ruột. Khi mật

độ Gregarine dày đặc sẽ làm tắc

nghẽn ruột, hình thành những

tổn thương ở đường ruột tạo

điều kiện cho tác nhân cơ hội tấn

công gây bệnh cho tôm nuôi.

Thức ăn:

- Tôm ăn thức ăn bị ẩm mốc, nhiễm khuẩn gây ngộ độc cho tôm

- Tôm ăn phải tảo độc trong ao như tảo lam: loài tảo độc này sẽ tiết độc tố làm tê liệt lớp biểu bì mô ruột, làm ruột không hấp thu được thức ăn, tôm yếu và bị bênh.

Môi trường:

- Thời tiết thất thường như mưa nắng kéo dài cũng làm cho tôm yếu, bỏ ăn làm cho ruột trống.

- Chất lượng nước kém: nước

đục, nhiều bọt dơ, tảo tàn, tảo

nở hoa, khí độc... làm cho tôm

stress, ăn kém hoặc bỏ ăn.

- Khi đường ruột tôm bị tổn

thương và suy giảm các chức năng

của cơ quan này, tôm không hấp

thụ được thức ăn làm giảm sức

khỏe tôm, cùng với sự tấn công

của các tác nhân cơ hội sẽ làm tôm

bệnh nghiêm trọng hơn và chết.

Tác hại

Mặc dù không gây chết hàng

loạt trong thời gian ngắn, nhưng

sẽ làm tôm bị bệnh mãn tính, khó

điều trị. Tôm bị bệnh, bỏ ăn, không

bắt mồi, còi cọc, không lớn, hoạt

động yếu gây ảnh hưởng đến năng

suất và chất lượng tôm nuôi.

Các biện pháp phòng chống

bệnh đường ruột

Kiểm soát tốt chất lượng nước: diệt khuẩn định kỳ, xử lý chất hữu

cơ dư thừa, bùn đáy ao, tảo độc, thường xuyên kiểm tra nồng độ ôxy hòa tan (>4ppm) tốt nhất là 5ppm (kích thích tôm ăn khỏe, lớn nhanh, ít bị bệnh tấn công).

Kiểm soát chất lượng thức ăn và lượng cho ăn: đảm bảo thức ăn sạch, hạn chế lượng thức ăn dư thừa gây ô nhiễm hữu cơ.

Tăng sức đề kháng và diệt mầm bệnh trong đường ruột tôm.

Sử dụng chế phẩm sinh học:

- Chế phẩm vi sinh: ổn định hệ vi khuẩn đường ruột, tăng mật độ vi khuẩn có lợi trong đường ruột tôm; chủng vi sinh đặc hiệu chuyên ức chế ký sinh trùng; vi sinh xử lý nước

và đáy ao nuôi để phân hủy chất hữu cơ, thức ăn dư thừa.

- Chế phẩm enzyme: enzyme hỗ trợ tiêu hóa, enzyme cắt tảo độc, xử lý nước ao ô nhiễm hữu cơ.

Đề xuất giải pháp từ C ông ty Thái Nam Việt

Bệnh đường ruột ở tôm nuôi tuy không gây chết hàng loạt nhưng lại làm giảm chất lượng tôm và năng suất vụ nuôi, do đó, cần được phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Tuy nhiên, việc điều trị bệnh có thể nhanh

chóng và hiệu quả nhưng sẽ gây

ảnh hưởng đến sự phát triển sau đó của tôm nuôi, do đó bệnh này chủ yếu phòng là chính. Sử

dụng chế phẩm sinh học sẽ giải

quyết được vấn đề mục tiêu và

đảm bảo cho sự tăng trưởng và sức khỏe tôm, hạn chế được

thiệt hại và nâng cao năng suất.

TNV

AQ - 6S Vi sinh xử lý môi trường

Chế phẩm vi sinh chuyên xử lý tảo, chất hữu cơ dư thừa và bùn đáy ao nuôi,ức chế triệt để Vibrio spp. …

AQUAFEED/AQUAMEDICA

Men đường ruột Ức chế phân trắng, phân loãng, trống ruột, đứt khúc sau 3 ngày.

BATENDO

Chế phẩm vi sinh đặc hiệu chuyên ức chế ký sinh trùng

Từ trại nuôi đến không gian trực tuyến, Grobest mang giải pháp kỹ thuật

kịp thời và hiệu quả đến người nuôi

Khi mạng xã hội trở thành kênh học hỏi quen thuộc của nhiều hộ nuôi tôm, đặc biệt là

nhóm người nuôi chủ động ứng dụng kỹ thuật hiện đại, thường xuyên cập nhật xu hướng

của ngành, Grobest đã đưa kiến thức kỹ thuật lên sóng livestream (tư vấn trực tuyến) để

người nuôi có thể tiếp cận và áp dụng ngay vào thực tế. Với cam kết luôn lấy khách hàng

làm trung tâm, Grobest mang đến một kênh hỗ trợ thân thiện, thiết thực và kịp thời cho cộng đồng nuôi tôm trên cả nước.

Buổi livestream đầu tháng 8 cùng các chuyên gia với chủ đề “Nâng cao hiệu quả nuôi tôm với thức ăn chức năng”.

Livestream cùng chuyên gia –Kênh tri thức sát thực tế dành cho người nuôi tôm

Hiện nay, ngày càng nhiều hộ nuôi tôm tìm đến mạng xã hội nhằm cập nhật kiến thức kỹ thuật và trao đổi kinh nghiệm nuôi nhằm tối ưu năng suất, tiết kiệm chi phí. Trong đó, những nội dung ngắn gọn, dễ hiểu như video, hình ảnh minh họa về quản lý ao, phòng bệnh hay cách xử lý sự cố được phần lớn người dân ưu tiên

vì có thể áp dụng ngay vào thực tế nuôi. Đây cũng là kênh quan trọng để người nuôi tìm kiếm giải pháp cho các thách thức về môi trường, dịch bệnh và chi phí, từ đó nâng cao hiệu quả vụ nuôi. Nắm bắt xu hướng đó, Grobest Việt Nam đã triển khai chuỗi livestream cùng chuyên gia nuôi tôm định kỳ hàng tháng trên fanpage và kênh YouTube chính thức, bắt đầu từ tháng 7/2024. Nhờ nhận được sự quan tâm và ủng hộ từ cộng đồng người nuôi, chương trình đã được duy trì đều

đặn suốt hơn một năm qua. Mỗi buổi phát sóng xoay quanh một chủ đề “nóng” với nội dung được phát triển dựa trên sự quan tâm và khó khăn thực tế của người nuôi. Chuỗi livestream mở ra một kênh kết nối mới, đưa thông tin kỹ thuật đến với hàng nghìn người nuôi trên cả nước nhanh chóng, dễ tiếp cận.

Buổi livestream đầu tháng 8 cùng các chuyên gia với chủ đề

“Nâng cao hiệu quả nuôi tôm với thức ăn chức năng”.

Ngoài ra, các chuyên gia

Grobest còn trực tiếp đến tận trang trại nuôi để đồng hành

cùng bà con, theo dõi thực tế quá trình nuôi tôm. Với mô hình

Mobile Lab, đội ngũ kỹ thuật

kiểm tra, phân tích và tư vấn

ngay tại ao nuôi. Từ đó, các buổi livestream trở thành cầu nối mở

rộng tri thức từ farm ra cộng

đồng, giúp bà con ở bất kỳ đâu

cũng có thể tiếp cận thông tin chính xác và kịp thời.

Nhờ áp dụng xu hướng số hóa

một cách nhanh nhạy và đúng

hướng, Grobest không chỉ hỗ trợ

người nuôi kịp thời với những giải pháp thực tiễn, mà còn khẳng

định vai trò đồng hành lâu dài

của mình trong hành trình phát triển ngành tôm bền vững.

Uy tín từ chuyên gia Grobest:

Giải pháp nuôi tôm dựa trên kiến

thức và kinh nghiệm thực tiễn

Các buổi livestream của

Grobest quy tụ đội ngũ chuyên gia uy tín, vừa có nền tảng khoa

học, vừa giàu kinh nghiệm thực tiễn. Trong đó, TS. Khương Văn

Thưởng - Giám đốc Kỹ thuật là người trực tiếp đồng hành cùng

hàng trăm trại nuôi trên cả nước, mang đến những kinh nghiệm

cập nhật và thiết thực cho người nuôi. Chương trình còn có sự tham gia của TS. Lê Văn Khoa - Giám đốc Đối ngoại, với nhiều năm nghiên cứu và trình bày tại các hội nghị quốc tế về thủy sản, cùng TS. Trần Ngọc Thiên KimGiám đốc Công thức, chuyên gia trong việc nghiên cứu và phát triển những sản phẩm thức ăn nuôi tôm chất lượng cao, tối ưu về chi phí sản xuất và mang lại năng suất vượt trội nhất.

Nội dung buổi livestream bám sát những vấn đề đang diễn ra trong mùa vụ, giúp người nuôi có thể áp dụng ngay vào thực tế tại thời điểm phát sóng.Mỗi

buổi phát sóng thường kéo dài khoảng 60 phút. Các chuyên gia

lựa chọn nội dung sát với tình

hình mùa vụ, để kiến thức truyền

tải có thể được vận dụng ngay trong thời điểm phát sóng. Đầu

vụ, các chuyên gia sẽ chia sẻ về những lưu ý về phòng bệnh và kiểm soát môi trường, giữa vụ tập trung vào quản trị ao và dinh dưỡng. Đến cuối vụ, nội dung sẽ nhấn mạnh cách tối ưu hệ số FCR để nâng cao lợi nhuận.

Chương trình còn giới thiệu mô hình toàn diện GROFARM PRO cùng 7 yếu tố cốt lõi, giải pháp

đã chứng minh hiệu quả trong việc giúp tôm khỏe mạnh, lớn

đồng đều và giảm thiểu hao hụt.

Trong suốt buổi phát sóng, các chuyên gia không chỉ trình

bày kiến thức chuyên môn mà

còn theo dõi phần bình luận để

trò chuyện trực tiếp với bà con.

Các câu hỏi được giải đáp ngay

trên sóng, giúp người xem có

cảm giác như đang được tư vấn

trực tiếp tại ao nuôi.

Với những thắc mắc chưa kịp

trả lời, người nuôi có thể tiếp

tục nhắn tin qua fanpage để

nhận được sự hỗ trợ chi tiết sau chương trình. Nhờ tính tương tác cao và sự đồng hành sau chương trình, chuỗi livestream đã nhận

được đánh giá tích cực từ giới chuyên môn cũng như sự hưởng ứng nhiệt tình của cộng đồng người nuôi.

Tại TP. Hồ Chí Minh, anh Linh đã lựa chọn bộ sản phẩm Gold Shield - Vista Sú với sự đồng hành sát sao của chuyên gia Grobest. Trong suốt vụ nuôi, đội ngũ kỹ thuật thường xuyên theo dõi các chỉ số môi trường, đưa ra tư vấn dinh dưỡng và hướng dẫn quản lý ao.

Nhờ đó, anh đạt kết quả ấn tượng với ADG (chỉ số tăng trọng bình quân) đạt 0,51g/tôm/ngày, FCR (tỷ lệ chuyển đổi thức ăn) chỉ 1,2, tỷ lệ sống 100%, thu về lợi nhuận trung bình hơn 5,6 tỷ đồng/ha. Thành công cho thấy hiệu quả từ giải pháp kết hợp giữa kiến thức khoa học và kinh nghiệm thực tiễn, đồng thời phản ánh những giá trị mà Grobest lan tỏa qua các buổi livestream. Các hộ nuôi vừa tiếp nhận kiến thức từ chuyên gia, vừa được trực tiếp giải đáp những vướng mắc trong quá trình nuôi. Với sự đầu tư bài bản về nội dung, đội ngũ chuyên gia uy tín và cam kết đồng hành lâu dài, chuỗi livestream kỹ thuật của Grobest đang trở thành nguồn tri thức mở, gắn liền với thực tế sản xuất của cộng đồng người nuôi tôm Việt Nam. Đây được xem là bước đi có tính dài hạn, góp phần hình thành một cộng đồng người nuôi chủ động, có kiến thức quản trị ao và hướng tới mô hình nuôi bền vững. Các hộ nuôi trên khắp cả nước có thể theo dõi các buổi livestream định kỳ hằng tháng của Grobest Việt Nam để học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm và nâng cao hiệu quả sản xuất, qua đó chung tay xây dựng ngành tôm Việt Nam ngày càng phát triển. Grobest

Hà Tĩnh

Giá thủy sản ổn định sau bão, nguồn cung hàng đông lạnh vẫn chiếm ưu thế

Sau bão số 5, giá thủy sản tại các chợ truyền thống cơ bản ổn định, không có biến động lớn. Do thuyền bè chưa thể ra khơi, nguồn hàng tươi sống còn hạn chế, thị trường chủ yếu tiêu thụ cá nướng, cá muối, hàng đông lạnh và một số loại hải sản dễ bảo quản. Giá bán phổ biến như cá nục nướng 25.000 – 35.000 đồng/con, cá thu nướng 300.000 đồng/kg, cá chim 130.000 – 180.000 đồng/kg, mực 220.000 – 250.000 đồng/kg, tôm nuôi 200.000 – 300.000 đồng/kg. Nguồn cung hiện vẫn dựa vào hàng dự trữ, song dự kiến giá sẽ ổn định hơn khi tàu thuyền sớm ra khơi trở lại.

Quảng Ninh Hải sản khan hiếm, giá tăng mạnh do biển động Từ vài ngày qua, các chợ đầu mối hải sản ở Quảng Ninh rơi vào tình trạng rất thiếu hàng, khi tàu thuyền không thể ra khơi do biển động, ảnh hưởng của bão số 5. Tại chợ Hạ Long 1, khu vực hàng tươi sống vắng vẻ, hầu hết chỉ còn hàng đông lạnh hoặc cá nuôi. Cá song nuôi phổ biến nhất, bán ở mức 200.000 đồng/kg; mực đông lạnh loại nhỏ là 350.000 đồng/kg (cao hơn bình thường); ghẹ loại 1 có giá 500.000 đồng/kg, tăng khoảng 100.000 so với trước. Ngoài ra, tôm vằn tự nhiên được thương lái bán với giá lên tới 650.000 đồng/kg, cá chim biển khoảng 220.000 đồng/kg, đều bán rất nhanh vì số lượng rất ít.

Lâm Đồng Nguồn cung dồi dào, giá bán đa dạng

Vào mùa cá Nam, nguồn hải sản ven biển Lâm Đồng dồi dào, vừa phục vụ tiêu thụ tươi sống vừa chế biến thành sản phẩm cá khô, một nắng. Tận dụng những ngày nắng gắt, nhiều hộ dân tập trung sơ chế, phơi cá để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Trung bình 3 – 4 kg cá tươi cho ra 1 kg cá khô. Hiện giá bán cá khô dao động 170.000 – 230.000 đồng/kg, tùy loại; sau khi trừ chi phí, người làm thu lãi khoảng 40.000 – 70.000 đồng/kg. Đối với mực, giá ổn định so với năm trước, chỉ nhích nhẹ: mực một nắng ở mức 600.000 – 800.000 đồng/kg, mực hai nắng 850.000 đồng đến hơn 1 triệu đồng/kg. Các loại đặc sản khác như cá thu, cá mú một nắng có giá 350.000 – 400.000 đồng/kg. Hải sản khô được ưa chuộng nhờ hương vị đậm đà, dễ bảo quản và chế biến đa dạng món ăn.

TP.HCM

Giá tôm tươi tăng, nông dân phấn khởi

Ngày 26/8, tại xã Long Điền (TP.HCM), Hợp tác xã Chợ Bến tổ chức thu hoạch vụ tôm thứ hai trong năm 2025. Hiện giá tôm thẻ chân trắng loại 25 – 30 con/kg được thương lái thu mua tại ao từ 170.000 – 180.000 đồng/kg, tăng 10.000 – 20.000 đồng so với 4 tháng trước. Với năng suất bình quân hơn 3 tấn/ao, nông dân vừa được mùa, vừa được giá, lợi nhuận ước đạt khoảng 30% so với tổng doanh thu. Trên địa bàn xã Long Điền, diện tích nuôi trồng thủy sản thâm canh đạt khoảng 100 ha, tập trung vào các loài có giá trị kinh tế cao như tôm thẻ chân trắng, cá mú, cá chim và cua biển. Giá tôm tăng trở lại đang mang đến tín hiệu tích cực, giúp bà con thêm gắn bó với nghề và khuyến khích mở rộng vùng nuôi công nghệ cao.

Vĩnh Long 7 tháng thu hoạch trên 490.400 tấn thủy sản

Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường Vĩnh Long, trong tháng 7, sản lượng thủy sản toàn tỉnh đạt trên 86.000 tấn, gồm hơn 65.000 tấn nuôi trồng và gần 21.000 tấn khai thác. Diện tích thả nuôi trong tháng ước 11.420 ha, trong đó vùng mặn lợ 10.745 ha với sản lượng gần 28.500 tấn, vùng nước ngọt 872 ha đạt hơn 34.600 tấn. Lũy kế 7 tháng, tổng sản lượng thủy sản thu hoạch 490.484 tấn, bằng 52,55% kế hoạch năm. Trong thời gian tới, ngành nông nghiệp Vĩnh Long tiếp tục quan trắc môi trường nước, thu mẫu giáp xác để phân tích mầm bệnh, đồng thời thông báo kịp thời cho người nuôi quản lý ao nuôi. Song song đó, địa phương đẩy mạnh tuyên truyền đăng ký nuôi các đối tượng thủy sản chủ lực, vận động ngư dân tuân thủ Luật Thủy sản và triển khai các giải pháp chống khai thác bất hợp pháp.

Xuất khẩu tôm 7 tháng đầu năm: Tăng tốc ở châu Á, chịu sức ép lớn từ Mỹ

Tháng 7/2025, xuất khẩu tôm Việt Nam đạt 410 triệu USD, tăng 9% so với cùng kỳ 2024. Tính chung 7 tháng, kim ngạch đạt 2,5 tỷ USD, tăng 24%. Thị trường Mỹ – chiếm tỷ trọng lớn thứ hai – đang gặp khó do thuế nhập khẩu 20%, cao hơn Ecuador (15%), Indonesia và Philippines (19%). Kết quả sơ bộ POR19 công bố tháng 6 với mức thuế chống bán phá giá tăng mạnh càng gây áp lực. Riêng tháng 7, xuất khẩu tôm sang Mỹ đạt 63 triệu USD, giảm 29%; lũy kế 7 tháng đạt 404 triệu USD, chỉ tăng 3%. Ngược lại, châu Á tăng tốc: Trung Quốc & Hồng Kông dẫn đầu với 710 triệu USD (tăng 78%), chiếm 29% tổng kim ngạch; CPTPP đạt 699 triệu USD (tăng 36%), trong đó Nhật Bản 320 triệu USD; Hàn Quốc 203 triệu USD (tăng 13%). Xuất khẩu sang EU đạt 309 triệu USD (tăng 17%), nhờ EVFTA và nhu cầu sản phẩm chế biến. Về cơ cấu, tôm chân trắng đạt 1,6 tỷ USD (63% tổng kim ngạch), tôm sú 260 triệu USD (10%), các loại khác 657 triệu USD (tăng 117%). Dự báo cả năm, xuất khẩu tôm có thể đạt 3,6 – 3,8 tỷ USD nếu tận dụng tốt thị trường châu Á, EU, CPTPP. Tuy nhiên, rủi ro giảm tốc vẫn hiện hữu khi Mỹ áp thuế cao và cạnh tranh từ các đối thủ trong khu vực ngày càng lớn.

Xuất khẩu cua ghẹ Việt Nam lập kỷ lục 10 năm; giá trong nước tăng cao

Trong 6 tháng đầu năm 2025, kim ngạch xuất khẩu cua ghẹ Việt Nam đạt hơn 173 triệu USD (tương đương khoảng 4.400 tỷ đồng), tăng 38% so với cùng kỳ năm trước — mức cao nhất trong một thập kỷ qua. Các thị trường trọng điểm như Trung Quốc, Nhật Bản, Australia và EU đều ghi nhận tăng trưởng tích cực: Australia tăng 58%, EU tăng 71% so với cùng kỳ. Sức cầu quốc tế tăng mạnh đã kéo theo giá thu mua trong nước tăng đáng kể: tại Cái Nước (Cà Mau), cua gạch loại 1 được trả tới 700.000 đồng/kg, cua thịt dao động 400.000 – 450.000 đồng/kg; ghẹ loại 1 đạt 500.000 – 600.000 đồng/kg, loại 3 từ 200.000 – 300.000 đồng/kg.

Nhật Bản

Giá sò điệp Hokkaido lập kỷ lục

Sản lượng sò điệp Hokkaido tại vùng biển Okhotsk giảm mạnh trong mùa khai thác năm nay, đẩy giá xuất khẩu lên mức cao nhất từ trước tới nay. Tính đến cuối tháng

7, sản lượng mới đạt 145.300 tấn, giảm 9% so với cùng kỳ 2024 và chỉ bằng một nửa kế hoạch do nắng nóng kéo dài khiến sò điệp chết hàng loạt. Tại Sarufutsu, nguồn cung sò điệp khan hiếm, và giá sản phẩm 2S-4S lên tới 337 yên/kg (2,28 USD), cao hơn 60% so với năm ngoái, trong khi tại Esashi, giá sò điệp ghi nhận mức 313 yên/kg (2,12 USD), tăng 40%. Giá thu mua tại bến của nhiều hợp tác xã vẫn duy trì xu hướng leo thang, bất chấp kích cỡ nhỏ hơn. Các chuyên gia cảnh báo, nếu tình trạng chết hàng loạt tiếp diễn, giá sẽ còn tăng cao, gây áp lực cho thị trường Trung Quốc, Hàn Quốc và châu Âu, dù Mỹ vẫn duy trì nhu cầu ổn định.

Mỹ Thị trường cá thịt trắng vẫn ảm đạm

Tuần 32/2025 (4-10/8), thị trường cá thịt trắng tại Mỹ tiếp tục trầm lắng dù giá tại nguồn ở Trung Quốc và Việt Nam đã nhích lên. Nguyên nhân chính là các nhà nhập khẩu Mỹ còn tồn kho lớn và nhu cầu bán lẻ yếu. Giá phi lê cá rô phi đông lạnh từ Trung Quốc gần như đi ngang, chỉ loại cỡ lớn giảm nhẹ. Giá rô phi cổng trại tại Trung Quốc tăng sau nhiều tháng giảm, nhưng xuất khẩu sang Mỹ trong quý II xuống mức thấp nhất hơn 10 năm, cho thấy xu hướng suy giảm dài hạn. Trong khi đó, cá tra ghi nhận dấu hiệu khả quan hơn khi giá tại Việt Nam phục hồi nhẹ và Vĩnh Hoàn đạt lợi nhuận quý II cao nhất từ 2022. Đáng chú ý, Mỹ nhập khẩu cá tra tháng 6/2025 đạt mức cao nhất kể từ 6/2022, nhờ Việt Nam đẩy mạnh giao hàng trước khi chính sách thuế mới được áp dụng. Tuy nhiên, triển vọng chung còn phụ thuộc vào khả năng Mỹ giải phóng tồn kho và sức mua thị trường hồi phục.

Nga

Tăng tốc xuất khẩu cua sang Trung Quốc

Tại thành phố biên giới Hunchun (tỉnh Cát Lâm, Đông Bắc Trung Quốc), giá cua Kamchatka của Nga hơn 320 nhân dân tệ (44,5 USD/ kg) và trung bình khoảng 150 con được bán ra mỗi ngày qua cả kênh trực tuyến lẫn cửa hàng. Trước đây, cua Nga phải vận chuyển qua Hàn Quốc và Nhật Bản, vừa làm đội giá vừa ảnh hưởng đến chất lượng. Nhờ rút ngắn thủ tục hải quan và loại bỏ nhiều rào cản, năm ngoái Hunchun nhập khẩu 1,5 triệu con cua Kamchatka, chiếm hơn 80% tổng lượng cua Nga vào Trung Quốc. Dự kiến, con số này còn tăng mạnh nhờ các dự án kho lạnh và trung tâm logistics mới ngay tại cửa khẩu. Theo Hải quan Trung Quốc, kim ngạch nhập khẩu cua sống, tươi và đông lạnh từ Nga năm ngoái vượt 1,14 tỷ USD, tăng 16,7% so với năm trước. Với hạ tầng logistics ngày càng hoàn thiện, Nga được kỳ vọng sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh đáng gờm của Ecuador tại thị trường Trung Quốc.

Trung Quốc, Ba Lan

Trở thành thị trường

thủy sản lớn nhất của Na Uy

Theo Hội đồng thủy sản Na Uy, tháng 7 vừa qua đánh dấu bước ngoặt khi Trung Quốc và Ba Lan vượt Mỹ trở thành hai thị trường lớn nhất của thủy sản Na Uy. Dù Mỹ vẫn nhập khẩu mạnh với giá trị đạt 1,1 tỷ NOK (107 triệu USD), tốc độ tăng trưởng tại Trung Quốc và Ba Lan vượt trội hơn, đưa hai thị trường này vươn lên dẫn đầu. Tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Na Uy trong tháng 7 đạt 13,9 tỷ NOK, tăng 8% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, cá hồi tiếp tục giữ vai trò chủ lực với sản lượng tháng 7 đạt 136.000 tấn, xấp xỉ mức kỷ lục vào mùa thu năm trước. Trung Quốc ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng 88%, nhờ giá giảm, nguồn cung dồi dào và kênh bán hàng mới. Trong khi đó, xuất khẩu sang Mỹ chậm lại, chỉ tăng 3% về giá trị dù sản lượng tăng 16%, phần nào do tác động từ thuế quan và giá giảm.

Argentina

Giá mực tăng mạnh tại Trung Quốc

Giá mực Argentina tại Trung Quốc đang tăng vọt ở mọi phân khúc. Trong tuần 32 (4-10/8), mực 150-200g tăng 16,4%, loại 200-300g và 400-600g cùng tăng 24%, trên 600g tăng 17% so với cùng kỳ năm ngoái. Dù sản lượng mực tháng 7 của Argentina đạt 206.500 tấn, vượt cả năm 2024, giá vẫn tăng do tồn kho Trung Quốc cạn kiệt và đội tàu nước này giảm sản lượng 11% tại Tây Nam Đại Tây Dương. Các chuyên gia dự báo giá mực Argentina sẽ duy trì xu hướng tích cực đến hết quý III, thậm chí nhích lên từ tháng 8. Ngành khai thác mực của Argentina thắng lợi lớn khi nửa đầu năm xuất khẩu 174.330 tấn trị giá 495 triệu USD, tăng 39% về giá trị, riêng Trung Quốc chiếm hơn một nửa. Trong khi đó, nguồn cung từ Falklands, Peru và mực ống Nhật Bản đều sụt giảm, khiến các nhà máy chế biến Trung Quốc tiếp tục đối mặt thiếu nguyên liệu giữa lúc nhu cầu nội địa tăng cao.

Chile

Mở cơ hội xuất khẩu cá hồi sang Australia

Hội đồng Cá hồi Chile (Consejo del Salmón) vừa thực hiện chuyến công tác hai ngày tại Australia nhằm mở rộng thị phần tại một trong những thị trường tiêu thụ cá hồi lớn nhất thế giới. Đoàn Chile đã gặp gỡ các nhà bán lẻ hàng đầu như Woolworths, Coles và ALDI, và các nhà nhập khẩu lớn Bidfood Australia, Pacific West Food, Manettas Seafood và Markwell Foods. Mục tiêu là tìm hiểu xu hướng tiêu dùng, đặc biệt ở các sản phẩm cá hồi tươi và xông khói - nhóm hàng đang tăng trưởng mạnh nhờ nhu cầu thực phẩm lành mạnh, chất lượng cao.

Theo Hội đồng, từ đầu năm 2025 đến nay, Chile đã xuất sang Australia 163 tấn cá hồi, chủ yếu bằng đường hàng không, với thời gian vận chuyển chỉ ba ngày, tương đương vận chuyển nội địa từ Tasmania ra Sydney. Động thái này cho thấy Chile quyết tâm nâng cao thị phần cá hồi tại châu Đại Dương, sau khi đã tăng cường quan hệ với thị trường Brazil, điểm đến lớn thứ hai sau Mỹ của cá hồi Chile. Tuấn Minh

Chuyển hướng thị trường

Chiến lược sống còn giữa bão thương mại

Trước những cú sốc thuế quan và bất ổn thương mại, nhiều quốc gia thủy sản buộc phải xoay trục thị trường hoặc quay về nội địa.

Nhưng đi kèm cơ hội là hàng loạt rủi ro, đòi hỏi sự linh hoạt ứng biến để duy trì xuất khẩu và tiêu thụ bền vững.

Xoay trục linh hoạt

Indonesia là ví dụ điển hình khi đối

mặt với thuế nhập khẩu 19% từ Mỹ –

thị trường tiêu thụ 60% trong tổng kim

ngạch tôm 1,68 tỷ USD năm 2024. Hàng

loạt kế hoạch mở rộng sản xuất đã phải

đình lại, khiến ngành buộc phải dồn sức

mở cửa Trung Quốc, nơi nhập khẩu tới

1 triệu tấn tôm mỗi năm, đồng thời xúc

tiến sang Trung Đông, Hàn Quốc và EU.

Theo ông Andi Tamsil, Chủ tịch Hiệp

hội nuôi tôm Indonesia, mức thuế

19% có thể khiến xuất khẩu tôm của Indonesia giảm tới 30% trong năm nay, đẩy sinh kế của khoảng một triệu lao

động rơi vào tình cảnh rủi ro. Để thích

ứng, ngành tôm đang dồn sức quảng bá

tại Trung Quốc. Tháng 6 vừa qua, ông Tamsil đã dẫn đầu đoàn doanh nghiệp

sang Quảng Châu, gặp gỡ các nhà

nhập khẩu, chuỗi nhà hàng và nền tảng

thương mại nông sản. Nhiều chuyến xúc tiến thương mại khác cũng đang

được lên kế hoạch. Ngoài Trung Quốc, ông Budhi cũng nhấn mạnh tiềm năng

mở rộng sang Trung Đông, Hàn Quốc, Đài Loan và châu Âu, trong bối cảnh

Jakarta đang tiến gần đến việc ký kết hiệp định thương mại tự do với Brussels. Ngành tôm Ấn Độ, vốn phụ thuộc lớn vào thị trường Mỹ, chịu áp lực nặng nề sau khi Washington áp thuế 25% và chuẩn bị nâng lên 50% từ ngày 27/8. Giá tôm cổng trại tại Andhra Pradesh đã giảm gần 20%. Khoảng 300.000 hộ nuôi tôm ở bang này đang cân nhắc chuyển sang nuôi cá, buôn bán nông sản hoặc tìm sinh kế khác. Trong khi đó, nhiều hãng xuất khẩu bắt đầu chuyển hướng

một phần từ Mỹ sang Trung Quốc. Các tập đoàn lớn như Avanti Feeds và Devi Seafoods đã mở rộng kênh siêu thị và thương mại điện tử để tiêu thụ trong nước, giảm phụ thuộc vào Mỹ.

Trong giai đoạn đầu năm 2024, Ecuador ghi nhận mức xuất khẩu tôm sang Trung

Quốc giảm mạnh, trong khi xuất khẩu sang Mỹ và châu Âu bắt đầu tăng trưởng, phản ánh chiến lược giảm lệ thuộc vào một thị trường duy nhất. Tháng 6/2025, xuất khẩu tôm Ecuador tăng 17,5% so với cùng kỳ lên 126.074 tấn – một con số kỷ lục hàng tháng. Trong đó, xuất sang Mỹ tăng đến 43,7% (21.388 tấn), và sang châu Âu tăng 41,9% (28.617 tấn). Đây là dấu hiệu cho sự hấp thụ kịp thời các thị trường Mỹ và châu Âu trong bối cảnh giới hạn từ Trung Quốc và tác động của thuế quan từ Mỹ đối với Ấn Độ. Trước đây, Ecuador chủ yếu xuất tôm “nguyên đầu, có vỏ” (HOSO) phục vụ Trung Quốc. Tuy nhiên, trước tình trạng Trung Quốc tiêu thụ chững lại, Ecuador đã đẩy mạnh xuất khẩu sang châu Âu các sản phẩm giá trị gia tăng như tôm bóc vỏ, làm sạch nhanh, nâng cao sức cạnh tranh quốc tế. Việt Nam cũng không đứng ngoài xu hướng khi cá tra liên tục bị Mỹ kiện chống bán phá giá, doanh nghiệp đã tăng tốc xuất khẩu sang châu Âu, ASEAN, Trung Quốc và tận dụng các hiệp định thương mại tự do. Song song đó, thị trường nội địa được xem như bệ đỡ khi thủy sản Việt Nam ngày càng hiện diện mạnh trong siêu thị và kênh thương mại điện tử. Rủi ro và những bài học đắt giá Dù mang lại lối thoát,

biệt giữa các thị trường khiến doanh nghiệp tốn kém chi phí tuân thủ.

Giá bán cũng là một thách thức lớn trong khi Mỹ và Nhật Bản sẵn sàng trả giá cao, Trung Quốc và nhiều nước châu Á chỉ chấp nhận mức giá thấp, khiến biên lợi nhuận giảm sút. Ngoài ra, xây dựng mạng lưới phân phối mới, tiếp cận người tiêu dùng và quảng bá thương hiệu tại thị trường lạ tốn nhiều nguồn lực, chưa kể rủi ro chính sách bất ngờ như lệnh cấm nhập khẩu hay siết kiểm dịch có thể khiến cả ngành lao đao.

Công cuộc chuyển đổi thị trường của Ecuador từ  lệ thuộc vào Trung

Quốc sang đa dạng hóa sang Mỹ và châu Âu không hề “thuận buồm xuôi gió” khi

vướng hàng loạt rủi ro về nhu cầu, giá cả, chi phí sản xuất và hậu cần. Theo nhiều chuyên gia, thủy sản Ecuador

đạt tăng trưởng bùng nổ nhờ thị trường

Trung Quốc nhưng phải đối diện nguy cơ khủng hoảng nếu thị trường này thay đổi

chính sách.

Với Indonesia, dù mở cửa sang Trung Quốc và Trung Đông, nhưng lợi nhuận giảm khiến nông dân và doanh nghiệp

chưa thể tái đầu tư như kỳ vọng. Còn Ấn Độ và Việt Nam, dù đã khéo léo cân bằng thị trường, nhưng vẫn phải đối diện áp lực cạnh tranh giá và nhu cầu cao về chứng chỉ bền vững từ châu Âu.

3 chiến lược

Theo ông Willem van der Pijl, người sáng lập và điều hành Shrimp Insights, để duy trì tăng trưởng bền vững, nhiều quốc gia thủy sản đang theo đuổi ba hướng chiến lược. Thứ nhất, đa dạng hóa thị trường để tránh phụ thuộc quá mức, kết hợp khai thác cả phân khúc cao cấp ở châu Âu và phân khúc đại trà ở châu Á. Thứ hai, nâng cao giá trị gia tăng và chuẩn hóa sản phẩm với các chứng chỉ

quốc tế như ASC, BAP, MSC hay Halal, đồng thời đầu tư vào chế biến sâu để gia tăng biên lợi nhuận. Thứ ba, phát triển mạnh thị trường nội địa như một bệ đỡ chiến lược, tận dụng xu hướng tiêu dùng thủy sản tiện lợi, chế biến sẵn và kênh bán lẻ hiện đại. Ấn Độ và Ecuador là hai minh chứng cho việc chuyển đổi sang chế biến sâu để nâng cao cạnh tranh. Theo Undercurrent

News, sản lượng tôm giá trị gia tăng ở Ecuador đã tăng đáng kể, từ 127.980 tấn năm 2020 lên 202.537 tấn năm 2021, và đạt 268.720 tấn năm 2022, tương đương mức tăng 33% theo năm và 110% so với năm 2020. Quốc gia này vẫn nổi bật với các sản phẩm truyền thống như HOSO, nhưng đã mở rộng sang HLSO và các sản phẩm giá trị gia tăng như tôm thịt rút gân PD hay PPV để thâm nhập sâu hơn vào các thị trường cao cấp.

Bên cạnh đó, liên kết chuỗi sản xuất –chế biến – xuất khẩu cùng sự hỗ trợ chính sách từ chính phủ về logistics, xúc tiến thương mại và đàm phán hiệp định tự do thương mại là yếu tố then chốt. Ông

Robins McIntosh, Phó giám đốc điều hành Charoen Pokphand Food (CPF) Thái Lan nhận định, thực tế cho thấy, trong bão thương mại, quốc gia biết chủ động xoay trục, đa dạng hóa và tập trung vào giá trị thay vì chỉ chạy theo sản lượng, sẽ biến thách thức thành cơ hội để củng

cố vị thế trên bản đồ thủy sản toàn cầu.

Công nghệ Nano Bubbles

Giải pháp cấp thiết nâng tầm ngành thủy sản Việt Nam

Nano Bubbles – Giải pháp cấp thiết cho ngành thủy sản Việt Nam

Ngành thủy sản Việt Nam

đang giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế với kim ngạch xuất khẩu hàng chục tỷ USD mỗi năm. Tuy nhiên, bên cạnh thành công, người nuôi và doanh nghiệp cũng đang đối mặt với nhiều thách thức: dịch bệnh bùng phát, môi trường nước ô nhiễm, chi phí sản xuất leo thang và yêu cầu chất lượng khắt khe từ các thị trường nhập khẩu. Trong bối cảnh đó, việc ứng dụng công nghệ Nano

Bubbles không chỉ mang tính đột phá mà còn trở nên cấp thiết

để đảm bảo sự phát triển bền vững của toàn ngành.

Ôxy hòa tan là yếu tố sống còn trong nuôi trồng thủy sản. Thiếu ôxy khiến tôm, cá chậm lớn, dễ nhiễm bệnh, thậm chí chết hàng loạt khi thời tiết biến động. Các phương pháp cấp ôxy truyền thống như quạt nước hay máy thổi khí thường tiêu tốn nhiều điện năng nhưng hiệu quả không ổn định. Nano Bubbles đáp ứng nhu cầu này bằng cách cung cấp nguồn ôxy dồi dào, ổn định, giúp thủy sản sinh trưởng nhanh, nâng cao tỷ lệ sống và rút ngắn thời gian nuôi.

Một trong những thách thức lớn nhất hiện nay là chất lượng nước suy giảm. Hàm lượng amoniac, nitrit cao cùng vi khuẩn gây bệnh khiến người nuôi phải tăng cường sử dụng hóa chất và kháng sinh. Đây là nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp

đến sức khỏe người tiêu dùng và

uy tín thủy sản Việt Nam. Công

nghệ Nano Bubbles giúp cải thiện

đáng kể chất lượng nước, phân

hủy chất hữu cơ, giảm mùi hôi và

hỗ trợ diệt khuẩn hiệu quả. Nhờ

đó, thủy sản được nuôi trong môi

trường an toàn hơn, hạn chế dịch

bệnh, đáp ứng tốt hơn các tiêu chuẩn quốc tế.

Bên cạnh yếu tố môi trường, chi phí sản xuất cũng là mối quan tâm hàng đầu. Nano Bubbles có

khả năng tiết kiệm điện năng so với hệ thống sục khí truyền thống, đồng thời giúp giảm chi phí thuốc men và nhân công xử lý sự cố. Với năng suất và chất lượng thủy sản được nâng cao, lợi nhuận của người nuôi cũng

được cải thiện rõ rệt. Đây là bước

đi tất yếu trong xu thế phát triển nông nghiệp công nghệ cao.

Giải pháp này rất hiệu quả trong việc cải thiện chất lượng nước, giảm thiểu việc thay nước và ngăn

ngừa thất thoát các khoáng chất, từ đó gia tăng lợi nhuận. Đồng thời, nó còn giúp tăng cường khả năng kháng bệnh, giảm tỷ lệ hao

hụt và nâng cao lợi nhuận

Trong bối cảnh cạnh tranh

toàn cầu, các thị trường lớn như

Mỹ, EU, Nhật Bản ngày càng đặt

ra những tiêu chuẩn khắt khe

hơn về chất lượng và an toàn

thực phẩm. Việc áp dụng công

nghệ Nano Bubbles không chỉ

giải quyết bài toán sản xuất

trước mắt mà còn là chiến lược

dài hạn giúp ngành thủy sản Việt

Nam phát triển bền vững, giữ vững thương hiệu trên thị trường quốc tế.

 Có thể khẳng định, Nano

Bubbles không còn là lựa chọn mà là yêu cầu cấp thiết, giúp ngành thủy sản vượt qua thách

Thông tin liên hệ: CÔNG TY TNHH B.H.N Số điện thoại: 028.668.101.95~96

Website: bhnenc.com

thức, tối ưu hiệu quả và nâng cao giá trị trên toàn cầu.

B.H.N

Email: bhnenc@gmail.com Địa chỉ: Số DP-18 Dragon Parc2, KDC Phú Long, Đường Nguyễn Hữu Thọ, Xã Nhà Bè, TP.HCM

Cuộc cách mạng không kháng sinh trong chăn nuôi Từ

“tấm lưới an toàn” đến chiến lược dài hạn

Kháng kháng sinh không chỉ là vấn đề y học, mà còn là thách thức toàn cầu

đối với ngành chăn nuôi. TS. Bernhard

Eckel, Đại diện Dr. Eckel Animal Nutrition GmbH & Co. KG, chia sẻ kinh nghiệm và giải pháp thực tiễn giúp giảm sử dụng kháng sinh mà vẫn duy trì hiệu quả sản xuất.

PV: Vì sao kháng kháng sinh vẫn là vấn đề trung tâm trong ngành chăn nuôi hiện đại, thưa ông?

TS. Bernhard Eckel: Kháng kháng sinh là một trong những thách thức sức khỏe lớn nhất hiện nay, không chỉ trong y học mà còn tác động đến toàn bộ hệ sinh thái. Trong nhiều thập kỷ, kháng sinh là “tấm lưới an toàn” cho chăn nuôi thâm canh, nhưng cái giá phải trả là quá đắt: Gia tăng kháng thuốc, siết chặt quy định và giảm niềm tin người tiêu dùng.

Tại Dr. Eckel, chúng tôi chọn hướng đi khác: Xây dựng mô hình chăn nuôi khỏe mạnh, hiệu quả mà không phụ thuộc vào thuốc. Chúng tôi tin vào tương lai nơi năng suất và trách nhiệm đi song hành – bền vững, an toàn và hiệu quả.

PV: Theo ông, thách thức lớn nhất khi giảm kháng sinh nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả chăn nuôi là gì?

TS. Bernhard Eckel: Ngành chăn nuôi hiện chịu áp lực cao khi phải tối ưu hiệu quả trong khi chi phí hạn chế, đồng thời vật nuôi liên tục đối mặt với stress, mầm bệnh và các tác động môi trường. Khi kháng sinh không còn là giải pháp nhanh, việc xây dựng một hệ thống chăn nuôi khỏe mạnh từ bên trong trở thành yêu cầu cấp thiết.

Trong đó, quản lý và đào tạo là thách thức quan trọng nhất. Những yếu tố tưởng chừng đơn giản như cân đo thức ăn, vệ sinh chuồng trại hay kiểm soát các chất gây ô nhiễm quyết

định thành công của cả trang trại. Người chăn nuôi cần được hướng dẫn thực hành đúng cách

để đạt hiệu quả bền vững.

PV: Vì sao sức khỏe đường ruột lại là trọng tâm chiến lược của Dr. Eckel?

TS. Bernhard Eckel: Đường

ruột là trung tâm kết nối giữa dinh dưỡng và hệ miễn dịch,

đóng vai trò quyết định sức

khỏe tổng thể của vật nuôi. Một

đường ruột yếu sẽ khiến vật nuôi

sức đề kháng kém, tăng trưởng

chậm và dễ mắc bệnh. Ngược lại, khi đường ruột khỏe mạnh, khả năng chống chịu, sức sống và hiệu quả chăn nuôi được cải

thiện toàn diện. Chính vì thế, chăm sóc và duy trì sức khỏe

đường ruột được xem là trọng tâm chiến lược của Dr. Eckel, vì

đây là nền tảng để khai thác tối đa tiềm năng của vật nuôi.

PV: Phytogenic (chất bổ sung từ thực vật) đóng vai trò gì trong việc giảm sử dụng kháng sinh?

TS. Bernhard Eckel: Phytogenic, hay các chất bổ

sung từ thực vật, đóng vai trò như hệ miễn dịch tự nhiên, giúp bảo vệ vật nuôi từ bên trong. Chúng không chỉ hỗ trợ tiêu hóa mà còn kháng khuẩn, chống viêm và cân bằng hệ vi sinh đường ruột, đồng thời không để lại tồn dư và không gây kháng thuốc. Sử dụng phytogenic là cách tiếp cận chủ

động, giúp vật nuôi khỏe mạnh ngay từ đầu thay vì phụ thuộc vào kháng sinh khi bệnh xuất hiện.

PV: Có bằng chứng nào cho

thấy PFAs cải thiện sức khỏe và hiệu quả vật nuôi không?

TS. Bernhard Eckel: Hoàn toàn có. Các nghiên cứu khoa học và kết quả thực tế đều chứng minh điều này. Với sản phẩm Anta®Phyt, chúng tôi ghi nhận những cải thiện rõ rệt: hiệu quả sử dụng thức ăn tốt hơn, tỷ lệ chết giảm, hiệu suất ổn định trên nhiều loài vật nuôi.

Trong thử nghiệm với gà đẻ, năng suất tăng hơn 20% và chất lượng trứng được cải thiện đáng kể. Những kết quả tương tự cũng

được ghi nhận ở heo con và bê: vật nuôi khỏe mạnh hơn, ít cần can thiệp điều trị, đồng thời hiệu quả kinh tế cao hơn. Đây không phải là kỳ vọng, mà là tiến bộ thực sự mà PFAs mang lại.

PV: Điều gì làm Anta®Phyt khác biệt, thưa ông?

TS. Bernhard Eckel: Anta®Phyt là sự kết hợp tinh tế giữa khoa học và tự nhiên. Thành phần chính gồm hoa bia và cam thảo, vừa có khả năng kháng khuẩn mạnh, vừa hỗ trợ hệ miễn dịch. Hoa bia nhắm trực tiếp vào các vi khuẩn đường ruột có hại như Clostridium, trong khi cam thảo giúp tăng sức đề kháng nội sinh.

Sản phẩm không chỉ giải quyết triệu chứng trước mắt mà còn xây dựng khả năng chống chịu lâu dài cho vật nuôi. Quan trọng hơn, hiệu quả này đã được kiểm chứng thực tế tại các trang trại, trong điều kiện chăn nuôi khắt khe nhất.

PV: Ông nhìn nhận thế nào về vai trò tương lai của kháng sinh trong chăn nuôi?

TS. Bernhard Eckel: Kháng sinh nên là giải pháp ngoại lệ, không phải công cụ sử dụng thường xuyên. Chúng chỉ nên được dùng trong những trường hợp bệnh lý thực sự — điều này là trách nhiệm với vật nuôi, người tiêu dùng và cả thế hệ tương lai.

Tin vui là ngành chăn nuôi đã có những công cụ thay thế hiệu quả: phytogenic, vệ sinh chuồng trại tốt, dinh dưỡng tối ưu và di truyền bền vững. Khi kết hợp các yếu tố này, nông dân hoàn toàn có thể giảm hoặc loại bỏ sự phụ thuộc vào kháng sinh mà vẫn đạt hiệu quả mong muốn. Điều này không chỉ khả thi mà đang được triển khai thực tế.

PV: Ông kỳ vọng gì từ cơ quan quản lý và ngành chăn nuôi trong tương lai?

TS. Bernhard Eckel: Chúng ta cần nhiều hơn những lệnh cấmcần nguồn cảm hứng và một lộ trình rõ ràng để khuyến khích đổi mới, hỗ trợ những nhà sản xuất có trách nhiệm và tưởng thưởng những ai dám khác biệt. Các công cụ đã có, khoa học sẵn sàng. Quan trọng là dám nghĩ khác, dám đầu tư và hướng tới việc xây dựng sức khỏe vật nuôi bền vững. Tại Dr. Eckel, chúng tôi cam kết đồng hành cùng quá trình chuyển đổi nàykhông chỉ theo kịp xu hướng, mà còn góp phần định hình tương lai ngành chăn nuôi.

Trân trọng cảm ơn

Năm nay cũng không là ngoại lệ, dù khó khăn có phần lớn hơn, phức tạp hơn, khó giải quyết hơn, nhưng các doanh nghiệp vẫn có sự lạc quan, tự tin riêng của mình khi bước vào mùa cao điểm chế biến, xuất khẩu của năm 2025.

Gánh nặng từ thuế Hơn nửa chặng đường xuất khẩu của năm 2025 đã trôi qua. Những khó khăn, thách thức từ nội tại lẫn bên ngoài đều đã lộ diện. Từ việc chỉ lo mỗi mức thuế chống trợ cấp (CVD) chưa đến 3%, doanh nghiệp phải đón nhận thêm mức thuế đối ứng ban đầu lên đến 46%. Chưa hết choáng vì mức thuế này, doanh nghiệp phải chịu thêm “cú đấm bồi” từ thuế chống bán phá giá (AD) hơn 35%. Mặc dù sau đó, thuế đối ứng được kéo giảm xuống còn 20%, nhưng nếu mức thuế AD được giữ nguyên đến lần phán quyết cuối cùng thì cánh cửa vào thị trường Mỹ gần như đóng lại với thủy sản nói chung và con tôm nói riêng của Việt Nam.

Viễn cảnh trên là có thể hiểu được, bởi ngoài Ấn Độ bị áp thuế đối ứng 50%, còn lại các đối thủ chính của con tôm Việt Nam đều có mức thuế thấp hơn. Mặc dù tới thời điểm hiện tại, thuế AD vẫn chưa có hiệu lực, nhưng theo các doanh nghiệp, do diễn biến hai vụ kiện AD và CVD còn phức tạp, nên để xuất khẩu tôm sang Mỹ, doanh nghiệp đều phải trích dự phòng gần 8% doanh số theo quy định của bên kiểm toán. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến lợi nhuận của hầu hết doanh nghiệp xuất khẩu tôm sang Mỹ trong 7 tháng qua không tăng tương ứng so với doanh số xuất khẩu.

Nếu chỉ so sánh mức thuế đối ứng giữa Việt Nam với các cường quốc tôm trên thế giới, thì khả năng xuất khẩu tôm Việt

Nam vào thị trường Mỹ vẫn còn

nhờ vào thế mạnh phân khúc hàng chế biến sâu có giá trị gia tăng cao. Tuy nhiên, điều doanh nghiệp quan tâm hơn chính là diễn biến thuế AD ở kỳ xem xét hành chính thứ 19 (POR19).

Theo đó, nếu các doanh nghiệp (DN) là bị đơn bắt buộc có giải trình hợp lý, chứng minh được tính minh bạch và phù hợp của hồ sơ, chứng từ và được phía

Bộ Thương Mại Mỹ (DOC) chấp thuận, hy vọng ở phán quyết thuế cuối cùng cho POR19 diễn ra trong tháng 12 tới sẽ có mức

thuế thấp nhất. Khi đó, chẳng

những việc xuất khẩu tôm vào

Mỹ tiếp tục được duy trì mà

doanh nghiệp sẽ thu hồi lại

được nguồn quỹ dự phòng đã

trích (8%), góp phần làm tăng

lợi nhuận cả năm. Còn nếu mức thuế AD cuối cùng vẫn cao, khả

năng giữ thị trường Mỹ sẽ rất

mong manh.

Kinh nghiệm và bản lĩnh

Có dịp trò chuyện cùng các

doanh nghiệp ngành tôm ở TP.

Cần Thơ mới thấy hết sự tự tin

của họ qua câu nói: “Lịch sử

của ngành tôm từ trước đến giờ

luôn được viết bằng 2 từ “Vượt

khó” và mỗi giai đoạn vượt khó

cũng là một sự sàng lọc tự nhiên

nhưng cũng hết sức gắt gao

của thị trường. Vì vậy, số doanh

nghiệp ngành tôm hiện tại hầu

hết đều có bề dày kinh nghiệm

và bản lĩnh trên thương trường

nên dẫu mùa tôm năm nay được

đánh giá là rất khó, nhưng sự tác

động đến doanh nghiệp cũng

được giảm nhẹ đi phần nào. Tuy

nhiên, trước tình hình thế giới

đầy “biến động, bất định, phức

tạp, mơ hồ”, doanh nghiệp cũng

không hề chủ quan mà luôn nỗ

lực sát cánh cùng nhau, biết

chấp nhận những điều không

như ý để đi cùng nhau đến bến

bờ thành công.

Cao điểm mùa tôm năm nay tuy không có được sự sôi động từ đồng tôm đến nhà máy như mọi năm, mà thay vào đó là sự thận trọng, sự toan tính một cách tỉ mỉ, chính xác từng thời điểm thả giống, từng cỡ tôm thu hoạch, từng giai đoạn chốt số lượng, giá cả cho từng hợp đồng… Và đến thời điểm này, mọi thứ dường như đang diễn ra theo đúng các kịch bản đã được doanh nghiệp và người nuôi tôm xây dựng ngay từ khi khó khăn mới vừa xuất hiện. Trên đồng, tôm vẫn đang phát triển tốt, giá vẫn đang ở mức khá cao. Bên trong các nhà máy, hoạt động chế biến, xuất khẩu tuy không quá tất bật, nhưng vẫn được duy trì ở cường

độ không hề nhỏ.

Từ từ mọi thứ sẽ tốt đẹp hơn Khó khăn, lo lắng là tâm trạng

thường trực của mỗi doanh nghiệp, nhưng vẫn còn đó sự

lạc quan: “Từ từ rồi mọi thứ sẽ tốt đẹp hơn trước”, như chia sẻ

của ông Phục. Sự lạc quan đó không chỉ được thể hiện qua lời nói nhằm trấn an nhau, mà còn

ở thực tế đã và đang diễn ra ngay trong mùa cao điểm chế biến, xuất khẩu này. Điều dễ nhận thấy nhất là hiện tại, thị trường

Mỹ khó khăn vẫn đang chồng chất; tôm đang vào cao điểm thu hoạch rộ… nhưng giá tôm chẳng

những không giảm theo quy luật

mà còn có xu hướng tăng nhẹ trong những ngày cuối tháng

8 này. Hiện giá tôm tại các nhà

máy khu vực ĐBSCL đều được

niêm yết ở mức khá cao và theo

lý giải của doanh nghiệp là nếu

không đẩy giá lên sẽ không mua

đủ lượng tôm phục vụ các hợp

đồng dịp cuối năm.

Khi được hỏi về khả năng xuất

khẩu từ nay đến cuối năm, hầu

hết doanh nghiệp ít nhiều đều

có sự lạc quan riêng của mình.

Ông Võ Văn Phục – Tổng giám

đốc Công ty Cổ phần Thủy sản sạch Việt Nam, chia sẻ: “Dù mức thuế đối ứng không được như kỳ vọng nhưng chúng ta đã cố gắng lắm rồi. Thuế Mỹ không thấp thì xuất khẩu vào Mỹ sẽ giảm đi một chút. Vấn đề hiện nay của chúng ta là phải tìm cách để nâng cao năng suất, áp dụng khoa học công nghệ để giảm chi phí, giá thành sản xuất nhằm thúc đẩy tăng trưởng và tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia. Từ từ rồi mọi thứ sẽ tốt đẹp hơn trước”. Còn theo ông Hồ Quốc Lực – Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Thực phẩm Sao Ta (FMC), FMC đã có đối sách cho thị trường Mỹ trong trường hợp có bất thường ở mức thuế của POR19 và lợi nhuận nếu có giảm cũng không lớn do đã có trích lập dự phòng. Ngược lại, nếu mức thuế thuận lợi, FMC nhiều khả năng sẽ hoàn thành tất cả các chỉ tiêu kế hoạch năm. Và như để minh chứng rằng, doanh nghiệp ngành tôm đã có sự chuẩn bị khá kỹ càng cho tình huống xấu nhất về thuế có thể xảy ra, mới đây, một doanh nghiệp xuất khẩu tôm trong khu công nghiệp An Nghiệp thuộc TP. Cần Thơ vừa cho biết, trong số lô hàng hơn 10 container xuất khẩu trong tháng 8, chỉ có duy nhất 1 container được xuất khẩu sang Mỹ. Lo lắng, thận trọng trước biến động của thị trường là cần thiết, nhưng tự tin, bản lĩnh và linh hoạt trong tìm kiếm, mở rộng thị trường mới là điều được doanh nghiệp đặc biệt quan tâm hàng đầu trong bối cảnh vụ tôm năm nay. Và đó cũng là điều đáng để chúng ta tự tin vào một kết quả xuất khẩu ở mức chấp nhận được trong năm nay để có thêm tinh thần, động lực chuẩn bị chu đáo hơn cho mùa tôm năm tới. Xuân

Hồng trà Nam Phi

Nguồn dinh dưỡng mới cho cá rô phi

Bổ sung 30% chiết xuất hồng trà Nam Phi (rooibos) giúp ấu trùng cá rô phi tăng trưởng

vượt trội, đồng thời cải thiện miễn dịch và khả

năng kháng bệnh.

istock

Phụ gia tự nhiên

Việc ứng dụng thảo dược trong khẩu phần nuôi cá ngày càng được chú trọng như một giải pháp thay thế bền vững cho phụ gia tổng hợp. Trong đó, polyphenol từ trà được ghi nhận có khả năng thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn và cải thiện đáp ứng miễn dịch thông qua hoạt tính chống ôxy hóa.

Rooibos (Aspalathus linearis), loài cây bản địa Nam Phi, đặc biệt giàu hợp chất sinh học như flavonoid aspalathin, quercetin và rutin. Các chất này giúp trung hòa gốc tự do, giảm stress ôxy hóa, từ đó bảo vệ tế bào và hỗ trợ sức khỏe tổng thể.

Nghiên cứu mới cho thấy bổ sung 30% chiết xuất hồng trà Nam Phi trong khẩu phần ấu trùng cá rô phi mang lại hiệu quả tăng trưởng rõ rệt. Ngoài ra, nhiều thử nghiệm trên gia cầm, gia súc và thủy sản cũng khẳng định tiềm năng của trà rooibos trong việc nâng cao sức đề kháng, giảm viêm và cải thiện chất lượng sản phẩm.

Theo các chuyên gia dinh dưỡng thủy sản, việc tích hợp chiết xuất trà rooibos vào thức ăn có thể trở thành bước tiến quan trọng, giúp nâng cao phúc lợi cá nuôi và góp phần tăng năng suất và tính bền vững cho ngành thủy sản toàn cầu.

Triển vọng dinh dưỡng

Nghiên cứu được tiến hành tại Phòng thí nghiệm sinh học nước ngọt, Trường Đại học Walter Sisulu (Nam Phi), sử dụng ấu trùng cá rô phi Mozambique (Oreochromis mossambicus).

Trà rooibos được cung cấp từ nhà sản xuất tại tỉnh Western Cape.

Rooibos chứa hệ hợp chất phenolic đa dạng, nổi bật là flavonoid aspalathin, aspalalinin, quercetin và rutin. Thành phần

này mang lại khả năng chống

ôxy hóa mạnh, có thể cải thiện sức khỏe tổng thể và khả năng

kháng bệnh của cá nuôi.

Trong thí nghiệm, ba nghiệm

thức được xây dựng: nhóm đối chứng (không bổ sung rooibos), nhóm bổ sung 30% chiết xuất rooibos lên men (FRT) và nhóm bổ sung 30% chiết xuất rooibos xanh (GRT). Tổng cộng 900 ấu

trùng được bố trí ngẫu nhiên vào hệ thống nuôi tuần hoàn, chia

đều cho các bể lặp lại. Cá được cho ăn thủ công đến khi no, 3 lần/ngày, trong 8 tuần liên tục.

Kết quả cho thấy các nhóm cá rô phi được bổ sung chiết xuất trà rooibos đạt tốc độ tăng trưởng vượt trội so với đối chứng, đồng thời hứa hẹn mang lại lợi ích về miễn dịch và sức khỏe đường

ruột. Các chuyên gia đánh giá việc ứng dụng chiết xuất rooibos

trong dinh dưỡng cá rô phi có

thể mở ra hướng đi mới, vừa

nâng cao hiệu quả sản xuất vừa

gia tăng tính bền vững cho nuôi

trồng thủy sản.

Thúc đẩy tăng trưởng

Ba khẩu phần thí nghiệm có

thành phần dinh dưỡng nền

tương đồng, cho thấy việc bổ

sung chiết xuất FRT và GRT

không làm thay đổi đáng kể

cấu trúc dinh dưỡng so với đối

chứng. Điều này gợi ý rằng mặc

dù không ảnh hưởng đến tỷ lệ

đại dưỡng chất và khoáng chất,

chiết xuất rooibos vẫn mang lại những lợi ích bổ sung, như cải

thiện khả năng tiêu hóa, tăng

tính khả dụng sinh học của

dưỡng chất và cung cấp các hợp

chất hoạt tính sinh học.

Trong nghiên cứu này, bổ sung FRT và GRT vào khẩu phần giúp ấu trùng cá rô phi tăng trưởng tốt hơn, nâng cao hiệu quả sử dụng

thức ăn và gia tăng chỉ số nội

tạng (VSI%). Đặc biệt, khẩu phần bổ sung GRT cho kết quả vượt trội hơn FRT về tăng trưởng và hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR), cho thấy chiết xuất rooibos, nhất là GRT, có thể ảnh hưởng đến

hành vi ăn của cá, từ đó thúc đẩy tăng trưởng.

Cá rô phi dễ chấp nhận khẩu phần có nguồn gốc thực vật, do đó kết quả này phù hợp với các nghiên cứu trước đây về tác động tích cực của chiết xuất thực vật như trà xanh và thảo dược trong nuôi thủy sản. Những bổ sung này đã được chứng minh giúp

cải thiện FCR, khả năng hấp thu

dưỡng chất, các chỉ số huyết học và đáp ứng miễn dịch. Việc FCR cải thiện rõ rệt ở nhóm bổ sung trà rooibos khẳng định cá rô phi chuyển hóa thức ăn thành sinh

khối hiệu quả hơn so với nhóm đối chứng.

Hiệu quả này phản ánh sức

khỏe tiêu hóa và hoạt động chuyển hóa được cải thiện,

nhiều khả năng nhờ đặc tính sinh học của rooibos. Dù nhóm bổ sung rooibos tăng trọng vượt trội, nhóm đối chứng lại có hệ số thể trạng cao hơn phản ánh mức độ “béo khỏe” theo chiều dài cơ thể. Kết quả tưởng chừng nghịch lý này cho thấy rooibos thúc đẩy tăng trưởng tuyến tính và phát triển khối cơ nạc, trong khi nhóm đối chứng có xu hướng tích lũy nhiều mô mỡ hơn. Bổ sung chiết xuất trà rooibos vào khẩu phần, như minh chứng trong nghiên cứu này, có thể tăng cường miễn dịch ở cá rô phi Mozambique thông qua nhiều cơ chế: Tăng cường hoạt động thực bào; điều hòa cytokine miễn dịch; tăng số lượng bạch cầu; giảm stress ôxy hóa; và cải thiện hệ enzym chống ôxy hóa Nghiên cứu cho thấy cải thiện rõ rệt tăng trưởng, hiệu quả sử dụng thức ăn và bảo vệ gen. Đặc biệt, trà rooibos xanh giúp tăng trọng và hệ số chuyển đổi thức ăn tốt hơn, nhờ các hợp chất polyphenol như axit protocatechuic, hỗ trợ sức khỏe ruột và hấp thu dưỡng chất. Hiệu quả bảo vệ gen, thể hiện qua giảm tần suất hồng cầu vi nhân, khẳng định vai trò chống ôxy hóa của rooibos. Tuy nhiên, biến đổi gan được ghi nhận cho thấy cần nghiên cứu thêm về liều bổ sung và tác động lâu dài. Tương lai, cần làm rõ cơ chế phân tử và ảnh hưởng đến miễn dịch, chất lượng sản phẩm nhằm ứng dụng bền vững chiết xuất rooibos trong nuôi trồng thủy sản.

Protein lúa mạch
Giải pháp thức ăn thủy sản bền vững

Protein cô đặc từ lúa mạch (BPC) cho quả dinh dưỡng cao, thay thế một phần protein truyền thống. Thử nghiệm trên nhiều loài cá nuôi khẳng định BPC duy trì tăng trưởng và giảm phát thải môi trường.

Áp lực tìm nguồn đạm thay thế

Ngành nuôi trồng thủy sản toàn cầu đang đứng trước bài toán kép: vừa phải đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về sản lượng, vừa phải giảm áp lực lên nguồn tài nguyên và môi trường. Trong nhiều thập kỷ, bột cá là nguồn protein chính trong khẩu phần thủy sản. Tuy nhiên, hạn chế về nguồn cung, giá thành cao và tác

động đến khai thác biển đã thúc đẩy ngành công nghiệp thức ăn tìm kiếm giải pháp thay thế.

Protein thực vật, đặc biệt là đạm đậu nành cô đặc (SPC) và gluten ngô (CGM) đang được sử dụng phổ biến. Song, hai nguồn này cũng bộc lộ nhiều hạn chế: SPC đắt đỏ, có rủi ro về kháng dinh dưỡng, trong khi CGM thiếu hụt lysine và methionine, làm giảm cân bằng axit amin trong khẩu phần.

Trong bối cảnh đó, đạm cô đặc từ lúa mạch (BPC) đang nổi lên như một lựa chọn thay thế mới, vừa có tính bền vững cao, vừa được chứng minh hiệu quả dinh dưỡng trên nhiều loài cá

CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA

nuôi chủ lực. Hiện, các thị trường nhập khẩu lớn như EU, Bắc Mỹ và

Nhật Bản đều siết chặt quy định về phát thải và tính bền vững

trong chuỗi cung ứng khiến nhu

cầu về nguyên liệu xanh như BPC gia tăng.

Khả năng tiêu hóa

BPC được sản xuất tại nhà

máy tinh chế sinh học tuần hoàn

lớn nhất châu Âu, nơi toàn bộ

dòng nguyên liệu được tận dụng

tối đa, gần như không phát sinh

chất thải. Điều này giúp BPC

không chỉ là một nguồn protein

chất lượng cao, mà còn là một

nguyên liệu có dấu chân môi

trường thấp, phù hợp với xu hướng kinh tế tuần hoàn và cam

kết giảm phát thải của ngành nuôi trồng thủy sản châu Âu.

BPC chứa khoảng 63% protein thô, mức cao so với nhiều nguồn protein thực vật khác. Hàm lượng axit amin cân đối, giàu lysine và methionine, giúp BPC có thể thay thế một phần hoặc thậm chí toàn bộ các nguồn protein truyền thống. Đây chính là nền

tảng khoa học để BPC được thử nghiệm rộng rãi trên cá hồi vân, cá tráp và cá chẽm Âu – ba đối tượng nuôi biển chủ lực của Địa Trung Hải.

Một loạt thử nghiệm đã đánh giá hệ số tiêu hóa biểu kiến (ADC) của BPC trên ba loài cá cho thấy khả năng tiêu hóa protein ổn định, tiêu hóa lypid đạt trên 93% trong khi tiêu hóa phospho ở cá hồi vân trên mức 50%, vượt trội so với SPC và CGM nhờ hoạt tính phytase tự nhiên, giúp giải phóng phospho hữu dụng cho cá. Ngoài ra, tiêu hóa axit amin đạt mức cao, nhất là lysine và methionine. Kết quả này khẳng định BPC không chỉ giàu protein mà còn dễ hấp thu, khắc phục nhiều hạn chế vốn có của SPC và CGM.

Hiệu quả tăng trưởng

Trong thử nghiệm 14 tuần trên

cá hồi vân, khẩu phần thay thế 50% (BPC50) và 100% (BPC100) nguồn SPC+CGM bằng BPC cho thấy: Cá ăn ngon, không giảm lượng ăn và ốc độ tăng trưởng

và FCR ổn định. Nhóm BPC50

đạt hiệu quả giữ lại protein và lipid cao hơn, đồng thời giảm thải phospho. Điều này chứng minh BPC có thể tham gia linh hoạt vào công thức, vừa tối ưu chi phí, vừa hướng tới tính bền vững sinh thái.

Tương tự cá hồi vân, cá tráp được cho ăn khẩu phần BPC50 và BPC100 đều duy trì tốc độ tăng trưởng, FCR và hiệu quả sử dụng protein. Đáng chú ý, khả năng tiêu hóa phospho ở cá tráp cũng được cải thiện, góp phần giảm ô nhiễm nước.

Thử nghiệm trên cá chẽm Âu xác nhận hồ sơ tiêu hóa khả quan của BPC với ADC protein 92,2%, lipid 94,1% và năng lượng 87,7%. Ngay cả ở mức bổ sung 30%, cá vẫn duy trì lượng ăn và tăng trưởng bình thường.

Theo các chuyên gia dinh dưỡng, so với SPC, BPC ít rủi ro về yếu tố kháng dinh dưỡng, đồng thời có lợi thế giá thành khi sản xuất quy mô lớn trong mô hình biorefinery. Ngoài ra, BPC giàu lysine và methionine hơn CGM, giúp cân bằng công thức dễ dàng hơn. Tuy nhiên, BPC không thể thay thế hoàn toàn bột cá, nhưng có thể giảm phụ thuộc đáng kể mà vẫn duy trì hiệu quả tăng trưởng, đồng thời thân thiện hơn với môi trường. Với tính linh hoạt, hiệu quả dinh dưỡng và lợi thế môi trường, BPC có tiềm năng trở thành nguyên liệu chiến lược trong ngành công nghiệp thức ăn thủy sản toàn cầu trong thập kỷ tới.

CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA

Thủy sản Việt Nam

bứt phá từ nuôi biển công nghệ cao

Chính phủ xác định nuôi biển công nghiệp là trụ

cột trong chiến lược phát triển kinh tế biển bền

vững, nhằm giảm áp lực khai thác ven bờ, gia tăng giá trị xuất khẩu và khẳng định vị thế thủy

sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Công nghệ định hình diện mạo mới

Trong bối cảnh nguồn lợi ven bờ suy giảm và yêu cầu thị trường quốc tế ngày càng khắt khe, nuôi biển đang được coi là hướng đi lâu dài để ngành thủy sản Việt Nam phát triển vươn xa. Những con số mới nhất từ Cục Thủy sản và Kiểm ngư cho thấy, giai đoạn 2020–2024, diện tích nuôi biển của cả nước đã đạt 58.000 ha, thể tích lồng gần 9,7 triệu m³, tăng hơn 38% so với trước đó. Sản lượng cũng đạt 832.000 tấn, phản ánh

tốc độ công nghiệp hóa mạnh mẽ của ngành. Nhiều địa phương như

Quảng Ninh, Khánh Hòa, Phú Yên, Kiên Giang nổi lên như những “cực tăng trưởng” mới, góp phần định hình diện mạo nuôi biển Việt Nam trong giai đoạn mới.

Mục tiêu mà Chính phủ đặt ra đến năm 2030 là đưa diện tích nuôi lên 300.000 ha, thể tích lồng

đạt 12 triệu m³, sản lượng 1,45 triệu tấn và giá trị xuất khẩu từ 1,8 đến 2 tỷ USD. Để đạt được cột mốc này, ngành thủy sản buộc phải thoát khỏi phương thức nuôi nhỏ lẻ ven bờ, phụ thuộc vào lồng tre gỗ truyền thống, để chuyển sang quy mô công nghiệp, nuôi xa bờ, ứng dụng công nghệ hiện đại và gắn liền với chuỗi giá trị toàn cầu. Khẳng định hướng đi tất yếu đó, Diễn đàn “Phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển an toàn, bền vững, hiệu quả và thích ứng biến đổi khí hậu” do Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với tỉnh Quảng Ninh tổ chức cuối tháng 8/2025 đã trở thành nơi để các bên nhìn lại thực trạng và bàn giải pháp. Tại đây, thông điệp chung được nhấn mạnh: nuôi biển công nghệ cao không chỉ là chìa khóa nâng cao năng suất, mà còn là chiến lược dài

hạn để hội nhập quốc tế và thích

ứng biến đổi khí hậu.

Những mô hình sử dụng lồng

HDPE có thể tích từ 1.000 đến

6.500 m³ đã chứng minh hiệu quả vượt trội. Khi kết hợp với con giống nhân tạo và thức ăn công nghiệp, phương thức này giúp năng suất, lợi nhuận tăng thêm từ 13 đến 20% so với cách nuôi truyền thống, đồng thời giảm thiểu ô nhiễm, nâng cao khả năng chống chịu thiên tai.

Bước chuyển mạnh mẽ của địa phương

Sự chuyển mình rõ nét đã

diễn ra ở nhiều địa phương. Hải

Phòng, với hơn 125 km bờ biển, đã quy hoạch lại nuôi nhuyễn thể theo vùng, riêng Tiên Lãng có gần 1.900 ha. Thành phố còn ban hành kế hoạch bảo vệ nguồn lợi thủy sản đến 2030, đồng thời

kiến nghị Trung ương hỗ trợ đầu

tư hạ tầng vùng nuôi ven và ngoài khơi, nhằm tạo nền tảng cho việc chuyển đổi công nghệ.

Quảng Ninh cũng nổi lên như một điểm sáng khi mạnh mẽ thay thế lồng gỗ bằng lồng HDPE, coi đây là con đường duy nhất để tiến đến nuôi biển công nghệ cao. Trung tâm Khuyến nông tỉnh đóng vai trò cầu nối, tổ chức mô hình trình diễn, kết nối người nuôi với doanh nghiệp và thị trường, giúp địa phương phát triển theo hướng xanh, tuần hoàn.

Song song với nỗ lực của địa phương, nhiều doanh nghiệp trong nước cũng đã phát triển thành công lồng HDPE, lồng chìm, cụm lồng xa bờ chịu sóng gió, phù hợp khí hậu nhiệt đới gió mùa. Việc thử nghiệm tại Quảng Ninh, Khánh Hòa, Ninh Thuận cho thấy mô hình này giúp giảm thiệt hại mùa bão, tăng an toàn sinh học và giảm chi phí vận hành. Tuy nhiên, chi phí đầu tư ban đầu lớn, thiếu bảo hiểm tài sản ngoài khơi, hạn chế về hạ tầng

điện – viễn thông và logistics lạnh vẫn là những rào cản. Bà Lê Thị Hải, đại diện doanh nghiệp, chia

sẻ: “Ứng dụng công nghệ cao với

những loài có giá trị trung bình sẽ khó thu hồi vốn nhanh. Dù tích hợp AI, năng lượng mặt trời, quan

trắc môi trường hay giám sát từ

xa, vẫn cần hệ thống cảnh báo chủ động, bởi trong bão gió, con người không thể trực tiếp ở ngoài

lồng bè để xử lý.”

Giải pháp đồng bộ cho tầm

nhìn 2030

Ở góc độ nghiên cứu, các viện

– trường đặc biệt nhấn mạnh

đến việc làm chủ công nghệ

sản xuất giống các loài chủ lực.

Đây là bước then chốt để giảm

phụ thuộc nhập khẩu, chủ động

nguồn cung cho các trang trại

công nghiệp, đồng thời gia tăng

tỷ lệ nội địa hóa trong chuỗi cung

ứng. Không chỉ dừng lại ở giống, các cơ sở nghiên cứu còn đưa ra nhiều công nghệ mới như lồng biển sâu, hệ thống bán kín, AI, IoT, robot vệ sinh lưới, năng lượng tái tạo và blockchain cho truy xuất nguồn gốc. Nếu được triển khai

đồng bộ, Việt Nam hoàn toàn có thể rút ngắn khoảng cách với các quốc gia dẫn đầu và tiến thẳng vào quỹ đạo công nghiệp số.

Theo PGS.TS. Thái Thanh Bình, Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật và Thủy sản, khái niệm “nuôi cá bằng máy tính” giờ đã trở thành hiện thực. Ở nhiều nước, người ta có thể ngồi trong bờ để điều khiển nuôi cá ngoài biển.

“Việt Nam cũng phải tiến tới điều này. Các địa phương như Hải

Phòng, Quảng Ninh cần có doanh nghiệp tiên phong, và các cơ sở đào tạo sẵn sàng đồng hành thử nghiệm. Có như vậy mới đủ sức cạnh tranh trong và ngoài nước”, ông Bình đề xuất.

Một mắt xích quan trọng khác là hợp tác xã (HTX). Theo Hiệp hội

Nuôi biển Việt Nam, HTX chính là lực lượng trung tâm để liên kết hộ nuôi, giúp họ tiếp cận công nghệ cao, vốn, bảo hiểm, dịch vụ thú y và thị trường. Thông qua HTX, việc áp dụng tiêu chuẩn, chứng

chỉ bền vững trở nên khả thi,

đồng thời tạo điều kiện ký hợp

đồng bao tiêu với doanh nghiệp

chế biến, xuất khẩu. Thực tế tại

Quảng Ninh, mô hình HTX Hàu

sữa vừa mang lại lợi nhuận, vừa

cải thiện môi trường biển, đồng

thời góp phần xây dựng thương

hiệu bản địa.

PGS.TS. Nguyễn Hữu Dũng –

Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt

Nam nhấn mạnh rằng, trong ít

nhất 10 năm tới, HTX vẫn sẽ là lực

lượng chủ công hùng hậu nhất

của nuôi biển Việt Nam. “Để HTX thật sự phát huy vai trò, cần những giải pháp đột phá về cơ chế, chính sách. Trong đó, nổi bật là quy hoạch phát triển nuôi biển theo phương thức công nghiệp; hoàn thiện thủ tục pháp lý để giao khu vực biển lâu dài cho người dân và HTX; xây dựng các cụm công nghiệp nuôi biển; đăng kiểm cơ sở và phương tiện nuôi biển; phát triển bảo hiểm rủi ro cho tài sản và lao động; đào tạo nhân lực; đồng thời ban hành chính sách hỗ trợ vốn, đặc biệt là miễn giảm phí sử dụng khu vực biển trong những năm đầu để khuyến khích đầu tư”, ông Dũng nêu ý kiến. Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cũng khuyến nghị, muốn nhân rộng nuôi biển công nghệ cao, trước hết cần chuẩn hóa kỹ thuật và đào tạo bắt buộc cho người nuôi. Đồng thời, phát triển mô hình nuôi đa loài – đa tầng (IMTA) để tận dụng dinh dưỡng trong hệ sinh thái, gắn sản phẩm với chứng chỉ bền vững, mở rộng thị trường xuất khẩu.

Đại diện Cục Thủy sản và Kiểm ngư cho rằng, phát triển nuôi biển không chỉ dừng ở tăng trưởng sản lượng, mà cần thay đổi tư duy sản

xuất. Ngành phải được tổ chức lại theo chuỗi giá trị khép kín: từ nuôi, thu hoạch, bảo quản, chế biến sâu đến tiêu thụ, toàn bộ quá trình minh bạch thông qua truy xuất nguồn gốc để đáp ứng chuẩn mực của những thị trường khó tính. Song song với đó là cách tiếp cận đa ngành, kết hợp nuôi biển với du lịch, năng lượng tái tạo, vận tải biển hay bảo tồn sinh thái, nhằm tối ưu tài nguyên và giảm xung đột không gian. Sự kết nối của “năm nhà” –quản lý, khuyến nông, địa phương, viện – trường, doanh nghiệp và HTX chính là chìa khóa để mở ra một diện mạo mới cho thủy sản Việt Nam. Nhìn tổng thể, một gói giải pháp đồng bộ đang dần hình thành. Việc hoàn thiện quy hoạch không gian biển và hạ tầng vùng nuôi, chuẩn hóa công nghệ lồng HDPE, lồng chìm, cụm lồng xa bờ, đầu tư trung tâm giống chất lượng cao, phát triển hợp tác xã làm trục liên kết với doanh nghiệp chế biến – xuất khẩu, số hóa dữ liệu, ứng dụng blockchain và chứng chỉ quốc tế, cùng với đào tạo nguồn nhân lực tay nghề cao và bảo đảm an sinh nghề biển, tất cả đang tạo nền tảng cho ngành nuôi biển bứt phá. Nếu những giải pháp này được triển khai quyết liệt, mục tiêu 1,45 triệu tấn sản lượng và 2 tỷ USD xuất khẩu từ nuôi biển vào năm 2030 hoàn toàn khả thi. Quan trọng hơn, nuôi biển công nghệ cao không chỉ là động lực tăng trưởng kinh tế, mà còn là chiến lược thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm áp lực khai thác tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học. Khi công nghệ, tài chính xanh và đổi mới sáng tạo cùng hội tụ trên biển, Việt Nam sẽ thật sự “ra khơi lớn”, khẳng định vị thế quốc gia biển trong khu vực và trên trường quốc tế.

Thùy Khánh

NEW HOPE VĨNH LONG KHỞI CÔNG XÂY DỰNG

GIAI ĐOẠN 2

Ngày 19 tháng 08 năm 2025, tại Khu công nghiệp

Bình Minh (tỉnh Vĩnh Long), Công ty TNHH New Hope

Vĩnh Long đã long trọng tổ chức Lễ Động Thổ, khởi

công xây dựng giai đoạn 2, đánh dấu bước tiến quan

trọng trong chiến lược phát triển của New Hope Vĩnh

Long, không chỉ mở rộng quy mô nhằm đáp ứng nhu

cầu ngày càng tăng của khách hàng, mà còn là minh

chứng rõ nét cho sự phát triển của New Hope Vĩnh

Long trong ngành thức ăn thủy sản.

Theo kế hoạch, giai đoạn

2 bao gồm việc xây dựng kho thành phẩm

có diện tích gần 20.000 m², hiện

đại và đạt tiêu chuẩn. Đồng thời, New Hope Vĩnh Long cũng đầu

tư nâng cấp thiết bị phục vụ sản

xuất thức ăn tôm và đưa vào vận

hành 2 dây chuyền sản xuất thức

ăn cá giống với công nghệ tiên

tiến hàng đầu thị trường Việt

Nam. Những hạng mục mới này sẽ giúp công ty nâng cao năng lực sản xuất, mở rộng năng lực lưu trữ, hướng đến mục tiêu

sản lượng cung ứng hàng năm là 300.000 tấn, tối ưu hiệu quả phân phối cùng nhiều dòng sản phẩm chiến lược, hỗ trợ người nuôi đạt được hiệu quả cao hơn trong nuôi tôm, cá. Đại diện New Hope Vĩnh Long, ông Vạn Tiến – Tổng giám đốc công ty phát biểu tại buổi lễ: “Xây dựng giai đoạn 2 chính là một bước tiến chiến lược, thể hiện quyết tâm của New Hope Vĩnh

khẳng định New Hope Vĩnh Long đang trên đà phát triển, tự tin hướng đến vị thế thương hiệu số 1 về thức ăn thủy sản tại Việt Nam. Chúng tôi tin rằng với dự án này, bà con sẽ được phục vụ tốt hơn, từ nguồn cung ứng kịp thời đến giải pháp nuôi trồng hiệu quả.” Ông Đoàn Văn Bảo Trung –Giám đốc điều hành Gocons, đại diện Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng GOCONS – đơn vị thi công, chia sẻ: “Chúng tôi cam kết đảm bảo tiến độ, chất lượng công trình, tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn xây dựng, an toàn và môi trường. GOCONS rất vinh dự

được đồng hành cùng New Hope

Vĩnh Long trong dự án có ý nghĩa quan trọng này.”

Trong bối cảnh nhu cầu ngày càng cao về nguồn thức ăn chất lượng, ổn định và đa dạng, minh

chứng là sản lượng New Hope

Vĩnh Long đã tăng gấp đôi năm

trước, việc New Hope Vĩnh Long

đầu tư xây dựng giai đoạn 2

không chỉ giải quyết vấn đề năng

lực dự trữ mà còn giúp rút ngắn thời gian cung ứng, hạn chế rủi ro gián đoạn nguồn hàng trong mùa cao điểm.

Không chỉ dừng lại ở năng lực kho bãi, dự án giai đoạn 2 còn mở ra cơ hội lớn để New Hope Vĩnh

Long dẫn đầu thị trường Việt

Nam về thức ăn thủy sản. Với công nghệ tiên tiến và danh mục

sản phẩm ngày càng đa dạng, công ty hướng đến mục tiêu giúp

người nuôi đạt được năng suất cao hơn, chi phí hợp lý hơn và

lợi nhuận bền vững hơn

Thành lập từ năm 2017, New Hope Vĩnh Long là công ty thuộc

Tập đoàn New Hope – một trong

những tập đoàn chăn nuôi và nông nghiệp hàng đầu thế giới.

Với tổng vốn đầu tư hơn 26 triệu

USD, sản phẩm bao gồm nhiều

chủng loại thức ăn cho cá, tôm.

Điểm khác biệt của New Hope

Vĩnh Long là hệ thống quản lý

chất lượng nghiêm ngặt, dây

chuyền sản xuất hiện đại cùng

đội ngũ kỹ thuật chuyên môn cao. Công ty không chỉ cung cấp

sản phẩm mà còn đồng hành

cùng người nuôi trong suốt vụ nuôi, hướng đến lợi ích cao nhất

cho khách hàng.

Lễ Động Thổ khởi công xây dựng giai đoạn 2 lần này một lần nữa khẳng định chiến lược phát

triển bền vững, gắn liền lợi ích

của doanh nghiệp với cộng đồng nuôi thủy sản. Đây cũng là minh chứng cho sự tăng trưởng không ngừng của New Hope Vĩnh Long sau hơn 8 năm hoạt động. Trong bối cảnh ngành thủy sản đứng trước nhiều cơ hội và thách thức, từ biến động thị trường xuất khẩu đến yêu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm, sự đầu tư bài bản của New Hope được xem như minh chứng cho lời khẳng

New Hope Vĩnh Long

Bí quyết nuôi tôm đẹp màu

được

lái tôm thích mê

Trong nghề nuôi tôm, màu sắc và độ chắc thịt luôn quyết định giá trị thương phẩm. Con tôm đỏ đẹp, vỏ cứng, thịt ngon không chỉ dễ bán mà còn được trả giá cao hơn.

Tại xã Hòa Thắng (Lâm Đồng), Công ty TNHH Bảo Ý đã sử dụng thức ăn

tôm GOAL MAX 8904 do C.P. Việt

Nam giới thiệu và nhanh chóng thấy hiệu quả.

Ông Bùi Văn Tri chia sẻ: “Trước đây màu tôm chưa đẹp nên thương lái chưa đánh giá cao.

Từ khi dùng thức ăn tôm GOAL MAX, chỉ sau 7 ngày tôm đã chuyển sang màu đỏ sáng, vỏ cứng, thịt chắc, sức đề kháng tốt. Thương lái ưa chuộng, vận chuyển xa vẫn khỏe, nên thường xuyên quay lại mua.”

Không chỉ người nuôi, thương lái cũng đánh giá cao. Anh Thuận, một thương lái lâu năm, cho biết: “Tôm từ trang trại của chú Tri có tỷ lệ hao hụt thấp, màu sắc đẹp, cân nặng đạt chuẩn. Nhờ được cho ăn GOAL MAX

8904, tôm khỏe mạnh, chắc thịt, màu đỏ bắt mắt, khách hàng rất thích. Nhờ vậy việc kinh doanh của tôi thuận lợi hơn, khách hàng tin tưởng hơn.”

Có thể thấy, thức ăn tôm GOAL MAX 8904 không chỉ giúp người nuôi nâng cao năng suất, bán được giá cao, mà còn giúp thương lái an tâm hơn khi đưa sản phẩm ra thị trường. Đây chính là giải pháp giúp tôm Việt ngày càng khẳng định chất lượng và gia tăng giá trị thương phẩm.

CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA

Tiên phong nuôi

cá cảnh công nghệ cao

Anh Lê Văn Huệ ở ấp Xóm Bền, xã Thanh Tuyền, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương (nay là xã Tây Nam, TP.HCM), là một trong những người tiên phong và thành công với mô hình nuôi cá cảnh công nghệ cao, mang về thu nhập hàng tỷ đồng mỗi năm.

Theo đuổi đam mê

Anh Lê Văn Huệ khi còn đang là sinh viên ngành công nghệ thông tin đã có sở thích nuôi cá cảnh. Sau này, dù đã có công việc ổn định, nhưng niềm đam mê cá cảnh của anh vẫn chưa dừng lại.

Những năm gần đây, nghề nuôi cá cảnh tại TP.HCM đang phát triển mạnh mẽ và đa dạng với hơn 70 loài. Trong đó, chủng loại chính gồm có hơn 50 loài nuôi sinh sản và 20 loài khai thác tự nhiên thuần dưỡng làm cá cảnh. Người dân chủ yếu nuôi theo các hình thức như nuôi trong hồ kính, nuôi hồ xi măng lót bạt, nuôi ao, nuôi trong keo, hũ, bình, thau, chậu… TP.HCM

Nhận thấy, thời buổi kinh tế ngày càng phát triển, thu nhập của người dân ngày càng tăng lên, đời sống tinh thần cũng ngày một phong phú thì thú chơi cá cảnh của người dân cũng ngày một “nở rộ”. Do đó, anh Huệ đã quyết tâm đầu tư công sức, tài chính để xây dựng mô hình nuôi cá cảnh. Thời điểm đó, anh thuê ao, hồ ở xã An Tây, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương (cũ) để nuôi các dòng cá nội địa như tứ vân, hồng nhung, cánh buồm,... Ngoài niềm đam mê, anh tìm hiểu thêm tài liệu từ sách báo và tích cực tham gia các lớp tập huấn về nuôi cá cảnh do các đơn vị tổ chức. Cùng với đó, anh còn chịu khó học hỏi kinh nghiệm từ các hộ nuôi cá cảnh ở địa phương. Nhờ vậy, anh đã có những thành công bước đầu. Cá loài cá đều sinh trưởng, phát triển mạnh, chủ vựa cá tìm đến trang trại của anh ngày càng nhiều.

Có được thành công, anh mạnh dạn đầu tư bổ sung đa dạng các loài cá nuôi. Được sự hướng dẫn kỹ

thuật của Trung tâm Khuyến nông

Bình Dương (cũ) nên anh đã xây dựng trang trại nuôi cá dĩa thương phẩm với diện tích 1.200 m2, các

bể nuôi đều được lót bạt. Ban đầu, anh thử nghiệm thả 2.000 con cá dĩa giống. Sau một thời gian, cá phát triển tốt, sinh sản nhiều,

được tiêu thụ mạnh ở TP Hồ Chí

Minh và các vùng lân cận.

Đầu tư công nghệ

Khi có được số vốn nhiều hơn, anh Huệ về xã Thanh Tuyền, huyện

Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương (cũ)

để mở trang trại. Không dừng lại

ở phương pháp truyền thống, anh

Huệ mạnh dạn đầu tư công nghệ

hiện đại vào nuôi cá. Trang trại

gồm hệ thống bể kính được thiết

kế gọn gàng, đầy đủ hệ thống cấp thoát nước bằng van xả tự động.

Bên canh đó, ở hồ để nuôi thả cá

bột được lắp đặt thiết bị phun

sương tự động để cũng cấp đủ

ôxy cho cá,… Đặc biệt, trước đây, anh Huệ chủ yếu dựa vào lực lượng nhân công tại chỗ

cá, nhưng hiện trang trại của anh hầu như sử dụng công nghệ, máy móc thay thế, theo dõi việc sản xuất cũng trở nên thuận tiện và tiết kiệm chi phí nhân công.

Đến nay, trang trại gần 2.000 m² của anh vừa nuôi cá thương phẩm, vừa tập trung phát triển những

dòng cá cao cấp như cá ông tiên Ai Cập - loài cá hoang dã đắt đỏ và khó nuôi. Chỉ riêng cá ông tiên, mỗi năm anh bán ra khoảng 5.000 con, đạt doanh thu 2,5 tỷ đồng. Cá vàng - dòng cá phổ thông, cũng đem lại thu nhập ổn định khoảng 50 triệu đồng/tháng.

Bên cạnh đó, anh còn chủ động lai tạo, thuần dưỡng và phân phối cá giống. Trong những năm gần đây, nhiều thanh niên đến học hỏi mô hình của anh như một hướng khởi nghiệp nông nghiệp bền vững, hiện đại.

Anh Huệ đánh giá, nghề nuôi cá cảnh phù hợp với nhiều đối tượng từ người trẻ đến những người lớn tuổi. Mô hình vừa là thú vui vừa mang lại kinh tế cho gia đình. “Hiện nhu cầu trong lĩnh vực nuôi cá cảnh khá cao, tôi cố gắng sản xuất nhiều nhưng vẫn không đủ hàng để bán”, anh Huệ cho biết thêm.

Với sự năng động, nhiệt huyết của tuổi trẻ cộng với bản lĩnh “dám nghĩ dám làm”, anh Lê Văn Huệ là một trong những thanh niên tiêu biểu của địa phương. Nhiều năm liền, anh Huệ được công nhận là Nông dân sản xuất - kinh doanh giỏi, đạt danh hiệu Nghệ nhân nuôi cá cảnh, và là tác giả của nhiều sáng chế cải tiến trong kỹ thuật nuôi cá.

Thanh Hiếu

Ảnh: Minh Châu

Điện hóa nghề nuôi hàu ở Maine

Trang bị từ sà lan pin mặt trời đến tàu điện, nghề nuôi nhuyễn thể tại

Maine đang bước vào một cuộc cách mạng xanh, bền vững và hiệu quả hơn.

được lắp phía sau để di chuyển

giữa các lồng nuôi nổi.

Chiếc sà lan là sản phẩm của

Shred Electric – công ty chuyên phát triển giải pháp năng lượng

xanh cho nuôi biển. Ngoài sà

lan, công ty này còn chế tạo tủ

lạnh  ShredCube nhỏ gọn và sạc

bằng năng lượng mặt trời, có thể

đặt vừa thùng xe bán tải điện,

giúp bảo quản hàu mà không cần đá lạnh hay máy nổ.

Tất cả thiết bị hợp lại thành một mô hình trang trại nhuyễn

ồn ào, ô nhiễm, khó bảo trì trong môi trường nước mặn, và gây phiền toái cho cư dân ven biển.

Trong khi đó, điện mặt trời và pin sạc giúp giảm chi phí, bảo vệ sức

khỏe người lao động và làm cho những vịnh biển trở nên yên tĩnh, dễ chịu hơn.

Ngành công nghiệp nuôi nhuyễn thể tại Maine thu về 85-110 triệu USD/năm với số lượng lao động toàn thời gian trên 700 người tại hơn 200 trại nuôi. Đối tượng nuôi chủ yếu gồm hàu,vẹm, sò điệp, được nuôi theo các mô hình trung hòa carbon, gần bờ, dễ điện hóa.

phủ. Dưới boong là 800 pound pin lithium, sạc qua đêm tại bến. Trên thùng xe điện Ford

Lightning của Planson là

chiếc  ShredCube – thiết bị làm

lạnh kết nối điện toán đám mây, giúp giám sát nhiệt độ, vị trí và các chỉ số chất lượng. Chi phí lắp đặt thiết bị này khoảng 8.000 USD và đang được cấp bằng sáng chế.

Mô hình xanh giữa vịnh Casco Từ xa, chiếc bè trôi gần một hòn đảo ở vịnh Casco, Maine trông như chiếc xuồng gỗ cũ có mái che. Nhưng lại gần mới thấy, đó là một sà lan nuôi hàu vận hành hoàn toàn bằng năng lượng tái tạo.

Trại nuôi hàu này sử dụng cụm pin mặt trời 2,4 kilowatt làm mái che. Bên dưới là bộ pin lithium chịu nước biển, nối với bộ nghịch lưu, cung cấp điện cho máy đảo hàu, máy bơm nước và các thiết bị phụ trợ. Một động cơ điện Torqeedo công suất 20 mã lực

thể  trung hòa carbon từ khâu

nuôi đến khâu giao hàng mà

không cần sử dụng đến một giọt nhiên liệu hóa thạch.

“Điện hóa” ngành nuôi biển

Ngành nuôi nhuyễn thể Maine tuy nhỏ với doanh thu 85-110 triệu

USD/năm nhưng đang tăng trưởng nhanh, với hơn 200 trại và 700 lao

động hoạt động quanh năm.

Các chủ trại đang dần từ bỏ

động cơ đốt trong để hướng đến

mô hình điện hóa. Không chỉ vì

lý do khí hậu, mà còn bởi yếu tố

kinh tế khi máy phát xăng dầu

Tuy nhiên, cũng như mọi cuộc chuyển đổi công nghệ khác,  chi phí đầu tư ban đầu cao khiến các chủ trại khó tự lực xoay xở. Do đó, chính quyền liên bang, các tổ chức phi lợi nhuận và một số công ty công nghệ đang đóng vai trò quan trọng trong việc khởi động cuộc cách mạng này.

Xu hướng tất yếu

Tháng 5 vừa qua, Nick Planson (Shred Electric) và Chad Strater (The Boat Yard LLC) đã giới

thiệu mô hình trang trại không xăng dầu ngay tại trung tâm Sea Meadow Marine, sông Cousins, Yarmouth.

Chiếc tàu điện do họ thiết kế dài 8 mét, sử dụng động cơ Flux Marine tương đương 100 mã lực, được tài trợ 181.500 USD từ chính

Cách đó vài dặm, tại  trang trại Maine Ocean Farms (Freeport), ông Willy Leathers – Giám đốc điều hành, đang nuôi khoảng 2 triệu con hàu. Doanh nghiệp này cũng chuẩn bị lắp đặt 2 trạm sạc tại Portland và Yarmouth thông qua một dự án trị giá 1 triệu USD (trong đó 500.000 USD từ Bộ Năng lượng Mỹ). Ngoài ra, một  sà lan điện nhỏ hơn với quy mô 6 tấm pin mặt trời và một tua-bin gió cũng đang được triển khai với sự hỗ trợ của Bộ Nông nghiệp Mỹ.

Năm nay, Maine Ocean Farms dự kiến cung cấp 350.000 con hàu. Với tàu điện và các trạm sạc mới, họ có thể  giao hàu bằng đường thủy đến các cầu tàu tại Portland thay vì dùng xe tải như trước. “Chúng tôi luôn tìm kiếm giải pháp hiệu quả hơn, đồng thời giảm tiếng ồn và khí thải môi trường”, ông Leathers chia sẻ.

Dũng Nguyên

tôm càng xanh

Trong những năm gần đây, khoa học kỹ thuật đã

có nhiều bước tiến đáng kể, đóng vai trò quan trọng giúp người nuôi tôm càng xanh có thể nuôi

với quy mô lớn, mật độ cao hơn (nuôi công nghiệp)

và cho năng suất cao.

Tôm càng xanh là loài

tôm nước ngọt đặc trưng ở Việt Nam và một số nước trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Campuchia, Malaysia,… Tại Việt Nam, tôm càng xanh sống tự nhiên trong ao hồ sông suối, mương rạch,… Tôm có thể sống trong điều kiện rộng muối, độ mặn tới 12‰ và trong tự nhiên, tôm ăn các loài có trong nước như tôm cá con và các động thực vật phù du có trong môi trường.

Tôm có giá trị dinh dưỡng cao, thịt ngon, nhiều người ưa chuộng. Để đáp ứng nhu cầu, từ lâu tôm càng xanh được đưa vào nuôi xen canh tôm lúa hoặc nuôi luân canh trong ao, hồ,… Nhưng trở ngại lớn ở việc nuôi tôm càng xanh theo phương thức truyền thống là sản lượng không cao, tôm nuôi bị phân đàn, đặc biệt tôm nuôi hao hụt nhiều, tỷ lệ sống tầm 50% và tôm bị dịch bệnh,… dẫn đến năng suất không cao.

Trong những năm gần đây khoa học kỹ thuật (KHKT) đã có những bước tiến đáng kể, đóng vai trò quan trọng giúp người

nuôi tôm càng xanh có thể nuôi với quy mô lớn, mật độ cao hơn

(nuôi công nghiệp) cho năng suất cao. Một số thành tựu về KHKT trong nuôi tôm càng xanh có thể kể đến như:

- Thời gian qua, các Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản, trường đại học và một số trung tâm giống thủy sản đã nghiên cứu cho sản xuất thành công giống tôm càng xanh toàn đực (tôm đơn tính). Ưu thế của tôm càng xanh toàn đực là lớn nhanh hơn con cái, vì thế nuôi toàn đực sẽ cho sản lượng cao.

- Bên cạnh đó, các chuyên gia dinh dưỡng cũng đã nghiên cứu

được thức ăn tổng hợp (thức ăn công nghiệp) chuyên dùng cho tôm càng xanh, thay thế thức ăn tự nhiên. Nhờ đó, mô hình nuôi tôm càng xanh công nghiệp với mật độ thả cao, ăn hoàn toàn thức ăn tổng hợp chế

biến từ nhà máy ngày càng phổ biến, cho năng suất, sản lượng thu hoạch cao.

- Hay sự phát triển của KHKT cũng đã góp phần tạo ra nhiều sản phẩm hữu ích như men vi

sinh, enzyme tiêu hóa, thúc đẩy quá trình tiêu hóa ở tôm nuôi

bằng thức ăn công nghiệp. Bên cạnh men đường ruột thì nhiều dòng vi sinh (probiotic) cải thiện chất lượng nước nuôi tôm cũng ra đời. Chúng phân hủy chất hữu cơ lơ lửng, hấp phụ chất bài thải,… tạo môi trường ao nuôi thông thoáng, ít ô nhiễm. Các dòng phổ biến như Bacillus ssp, Saccharomyses, Nitrobacter, Nitrosomonas có trong các sản phẩm mà người nuôi thường sử dụng như BIO BACTER, BIO

BACIPRO,… Các sản phẩm này định kỳ 7 - 10 ngày tạt xuống ao nuôi 1 đợt, liều 1 kg/2.0003.000 m3 nước sẽ giúp cải thiện môi trường nước ao nuôi tôm.

Đặc biệt, sự phát triển của

KHKT đã cho phép chiết tách và sử dụng prebiotic, một thành phần quan trọng cho sức khỏe hệ vi sinh vật đường ruột của tôm. Chúng có công dụng làm tăng khả năng phòng vệ cơ thể (tăng hệ miễn dịch), giúp tăng sức đề kháng, góp phần phòng ngừa bệnh tật xảy ra ở tôm nuôi. Bằng cách trộn prebiotic vào

thức ăn cho tôm ăn sẽ giúp hạn chế dịch bệnh, tăng tỷ lệ sống. Prebiotic phổ biến dùng cho tôm hiện nay là Beta - Glucan 1,3-1,6 có trong sản phẩm BIO ACTIVIT for shrimp do Công ty Bio Pharmachemie sản xuất. Tóm lại, KHKT đã phát triển không ngừng và đóng góp lớn cho nhiều ngành, trong đó có ngành nuôi trồng thủy sản. KHKT đã khắc phục các trở ngại mà người nuôi gặp phải như công tác sản xuất giống, cải thiện chất lượng nước, chế biến thức ăn cho tôm, sản xuất men vi sinh, enzyme hay các chất giúp tăng sức đề kháng, tăng hấp thu,… Từ đó giúp nuôi tôm ở mật độ cao, tôm lớn đồng đều kích cỡ, tăng năng suất, sản lượng,… mang lại lợi nhuận cao hơn. Đặng Hồng Đức

Cố vấn kỹ thuật Công ty Bio Pharmachemie

Sản phẩm vi sinh cải thiện chất

 Hỏi: Bệnh hoại tử gan tụy cấp trên tôm thẻ chân trắng thường xuất hiện vào giai đoạn nào? Xin tư vấn biện pháp phòng bệnh?

(Trần Hoài Thanh, xã Giao Thủy, tỉnh Ninh Bình)

Trả lời:

Bệnh hoại tử gan tụy cấp (AHPND) hay còn gọi là bệnh tôm chết sớm (EMS) thường xuất hiện ở giai đoạn tôm được 45 ngày tuổi, làm cho tôm chết hàng loạt gây thiệt hại nghiêm trọng. Bệnh do vi khuẩn

Vibrio parahaemolyticus gây nên, chúng

tiết ra loại độc tố rất mạnh phá hủy mô và làm rối loạn chức năng của gan tụy trong hệ tiêu hóa của tôm.

Hiện, bệnh chưa có thuốc điều trị, cần

lưu ý các biện pháp phòng để tránh gây

thiệt hại cho tôm: Lựa chọn tôm bố mẹ

khỏe mạnh, không nhiễm bệnh, kiểm nghiệm chính xác để tránh tình trạng tôm giống bị nhiễm bệnh. Tiến hành sốc

Formol 100 - 200 ppm trong 30 giây đến 1 phút để chọn ra tôm post khỏe và loại trừ tôm giống nhiễm bệnh. Chuẩn bị sát trùng ao nuôi một cách kỹ lưỡng: Sên vét đáy ao, phơi nắng đáy ao, sát trùng đáy, Xử lý nước ao lắng cẩn thận trước khi bơm vào ao.

Kiểm soát môi trường ao nuôi, nguồn nước cấp, dụng cụ và thiết bị phải sạch khuẩn.

Không thả tôm ở mật độ quá cao, có thể nuôi ghép cá rô phi, nuôi nước xanh.

Chủ động quản lý ao nuôi thông qua các bước chuẩn bị ao nuôi đúng quy trình, trại nuôi có ao lắng đúng quy cách, áp dụng các biện pháp an toàn sinh học; có các biện pháp cắt mầm bệnh đối với các ao nuôi đã từng xuất hiện bệnh thông qua việc luân canh và đa canh, có thời gian phơi và cày đáy ao đủ lâu giữa các vụ nuôi, luân canh tôm - lúa, tôm - cá, đa canh với cá hoặc nuôi cá trong ao lắng. Có thể nuôi ghép tôm với

cá rô phi để phòng bệnh. Không nên thả với mật độ cao, thả với mật độ thấp vừa phải thì nó có tác dụng diệt tảo đáy, làm sạch đáy ao, ăn các con tôm bệnh chết giúp giảm sự lan truyền của bệnh,... Hạn chế tối đa việc sử dụng kháng sinh trong suốt vụ nuôi, nên dùng các chế phẩm sinh học để quản lý dịch bệnh và môi trường ao nuôi. Khi thu hoạch tôm nên lưu ý diệt khuẩn trước khi xả nguồn nước ra ngoài môi trường nhằm tránh sự lây lan mầm bệnh qua các ao khác.

 Hỏi: Kỹ thuật chăm sóc ấu trùng

Mysis?

(Phan Hoàng Nam, xã Tuy Phong, tỉnh

Lâm Đồng)

Trả lời: Ấu trùng giai đoạn này có tập tính bắt

mồi chủ động, thức ăn là động vật phù du. Hiện nay thức ăn sử dụng để nuôi ấu trùng

Mysis chủ yếu là ấu trùng Artemia. Đây là thức ăn thích hợp nhất và thuận tiện cho người sử dụng. Thức ăn tổng hợp được bổ sung xen kẽ với Artemia. Mỗi ngày cho ăn khoảng 6 - 8, chú ý tính toán lượng thức ăn sao cho vừa đủ). Nếu dư thừa sẽ gây lãng phí và dễ gây ô nhiễm môi trường nuôi (ấu trùng Artemia nếu dư thừa chúng sẽ tiếp tục phát triển trở thành sinh vật cạnh tranh với ấu trùng tôm về thức ăn và dưỡng khí).

Vì ấu trùng Mysis có nhu cầu dưỡng khí cao và có tập tính bơi lội dạng treo nên dễ bị lắng đáy. Do đó, người nuôi cần theo dõi kỹ để kịp thời có những điều chỉnh giúp ấu trùng bơi lội đều trong nước (như dùng vòi sục khí hoặc khuấy đảo nước để nâng ấu trùng lên).

Phân của ấu trùng Mysis dạng rời rạc, lơ lửng trong nước nên phải thay nước để giữ ổn định môi trường. Thời gian biến thái của ấu trùng Mysis tùy thuộc vào nhiệt độ nước thông thường 4 - 6 ngày ở nhiệt độ 27 - 290C thì chuyển qua giai đoạn Postlarvae.

 Hỏi: Tôi muốn nuôi hải sâm cát thì cần chuẩn bị ao như thế nào?

(Nguyễn Nam Hoàng, xã Tuyên Lâm, tỉnh Quảng Trị)

Trả lời: Hiện nay, nuôi hải sâm cát trong ao là hình thức nuôi phổ biến, đã được các chuyên gia Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III triển khai ở nhiều địa phương. Ao nuôi hải sâm có diện tích khoảng 5.000 - 10.000 m2 . Ao nuôi phải đáp ứng các điều kiện môi trường: Độ mặn: Dao động từ 25 - 30‰; pH: Dao động từ 7,5 - 8,5; Nhiệt độ nước: Từ 26 - 29 0 C; Độ sâu mực nước ao: 1,2 m; Đáy ao: Bùn cát. Ao nuôi càng nhiều dinh dưỡng thì hải sâm càng mau lớn. Vì vậy, ao nuôi phải được thay nước thường xuyên, vừa để tránh ô nhiễm, vừa cung cấp thức ăn cho hải sâm nên cần chọn ao có vị trí gần biển, dễ thay nước theo thủy triều và có độ mặn ổn định.

Do hải sâm cát di chuyển chậm nên để tránh bị địch hại tấn công, người nuôi cần diệt tạp, các loại địch hại trước khi thả giống. Ngoài ra, khi cải tạo ao nuôi hải sâm cát, lưu ý nên bón thêm vôi để bổ sung thêm canxi và diệt tạp trong ao. Liều lượng bón vôi khoảng 200 kg/ha.

Thức ăn của hải sâm cát là chất mùn bã hữu cơ có trong đáy ao nên khi cải tạo ao, lưu ý không nên cải tạo ao quá sạch vì như vậy sẽ làm mất đi lượng thức ăn của hải sâm. Sau khi bón vôi diệt tạp, phơi khô ao khoảng 3, 4 ngày thì có thể thả nuôi hải sâm. Trên ao bố trí các giàn đập để cung cấp thêm ôxy cho hải sâm cát. Ngoài ra, khi làm cống lấy nước thì nên có hệ thống lưới chắn để ngăn rác và địch hại vào trong ao.

Ban KHKT

CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA

Nguyên nhân

PHÒNG TRỊ BỆNH XUẤT HUYẾT TRÊN CÁ TRA

Bệnh xuất huyết trên cá tra có thể bộc phát gây hao

hụt rất cao khi cá bị stress do nhiệt độ cao hoặc/

và tác động cơ học (do đánh bắt, vận chuyển,…), và thường nhiễm kép (multi-infection) với các tác nhân

gây bệnh khác như: gan thận mủ, hội chứng vàng da,… Bệnh này thường xuất hiện nhiều lần trong suốt

chu kỳ nuôi, gây ảnh hường lớn đến sự tăng trưởng

của cá, kéo dài thời gian nuôi và chi phí điều trị.

Tác nhân gây bệnh là nhóm vi khuẩn di động Aeromonas spp. bao gồm vi khuẩn Aeromonas hydrophila, A. sobria và A. caviae Trong đó, vi khuẩn Aeromomas hydrophila được xem là loài gây bệnh cho cá nước ngọt quan trong nhất. Đây là các vi khuẩn Gram âm dạng hình que ngắn, hai đầu tròn, kích thước 0,5 x 1 - 1,5 µm, di động nhờ có 1 tiên mao.

Đặc điểm

Bệnh được ghi nhận lần đầu tiên tại Mỹ trên cá hồi (nước ngọt) vào năm 1979, sau đó bệnh xuất hiện tại một số nước châu Á. Tại Việt Nam, bệnh được ghi nhận trước năm 1993. Hiện nay, bệnh xuất hiện ở hầu khắp các vùng nuôi cá nước ngọt và gây thiệt hại lớn về kinh tế cho người nuôi ở các tỉnh ĐBSCL. Loài cảm nhiễm: Cá tra (P. hypophthalmus), cá basa (Pansianodon bocourti) và một số loài cá nước ngọt. Ở nước ta bệnh xuất hiện ở hầu hết các loài cá nuôi lồng, bè và ao hồ nước ngọt. Bệnh xảy ra trên cá ở tất cả các giai đoạn nuôi. Bệnh lây lan nhanh, tỷ lệ chết cao (có thể đến 90%) trong trường hợp bệnh nặng.

Mùa vụ xuất hiện bệnh: Ở Việt Nam, bệnh xuất huyết do A. hydrophila xảy ra quanh năm, tập trung vào đầu mùa khô, đặc biệt là khi cá bị stress như sau khi trời mưa.

Phương thức truyền lây: Bệnh lây từ cá bệnh sang cá khỏe trong cùng một ao nuôi. Mầm bệnh tồn tại trong môi trường có thể gây bệnh trực tiếp cho cá khỏe qua dụng cụ chăm sóc nhiễm bệnh (thau, vợt, lưới,…). Mầm bệnh có thể tồn tại và sinh sản trong môi trường nước ao nuôi và lây từ ao này sang ao

khác, từ vùng nuôi này sang vùng nuôi khác.

Triệu chứng

Giai đoạn đầu sau khi nhiễm bệnh cá kém ăn hoặc bỏ ăn, nổi lờ đờ trên tầng mặt. Da cá thường đổi màu tối không có ánh bạc, cá mất nhớt. Ở giai đoạn tiếp theo, xuất hiện các đốm xuất huyết trên thân, các gốc vây, quanh miệng, mắt và hậu môn.

Xuất hiện các vết loét ăn sâu vào cơ. Trên vết loét thường có nấm và ký sinh trùng ký sinh. Mắt lồi đục, quanh hốc mắt bị sưng tấy, mất nhớt; hậu môn viêm xuất huyết; bụng trướng to, các vây xơ rách.

Bệnh tích

Ruột có thể chứa đầy hơi, gan thận thường bị hoại tử. Xoang bụng xuất huyết, gan tái nhợt, mật sưng to, thận sưng, xuất huyết.

Trường hợp cấp tính, khi mổ cá thấy nhiều dịch đỏ lẫn máu ở xoang bụng, xuất huyết nội tạng, cá chết nhiều trong thời gian ngắn.

Chẩn đoán

Chẩn đoán lâm sàng: Dựa vào các triệu chứng điển hình.

Chẩn đoán phòng thí nghiệm: Lấy mẫu theo hướng dẫn. Gửi mẫu cá bệnh đến Phòng thử nghiệm được chỉ định.

Phòng bệnh

Ao được bao lưới xung quanh, bờ ao được kè chắc chắn, không rò rỉ; cải tạo ao và xử lý môi trường theo đúng quy trình kỹ thuật. Nước cấp vào ao nuôi phải

được xử lý đảm bảo chất lượng, nước được lọc qua lưới lọc hai lớp, kích cỡ mắt lưới 40 µm.

Cá tra giống phải khỏe mạnh, có nguồn gốc rõ ràng, đảm bảo an toàn dịch bệnh và đáp ứng

các Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia

về giống thủy sản; Giống thủy sản từ cơ sở sản xuất ngoài tỉnh,

Ảnh:

nhập khẩu phải có Giấy chứng nhận kiểm dịch; kiểm tra chất lượng theo quy định.

Trước khi thả nuôi có thể tắm cá qua một số sản phẩm sát trùng để tiêu diệt mầm bệnh.

Tuân thủ mật độ thả nuôi theo hướng dẫn của cơ quan quản lý nuôi trồng thủy sản.

Sử dụng vaccine phòng bệnh theo hướng dẫn của nhà sản xuất

hoặc cơ quan quản lý chuyên ngành thú y thủy sản. Chỉ được

sử dụng thuốc, hóa chất và chế phẩm sinh học trong Danh mục thuốc thú y dùng trong thú y thủy

sản được phép lưu hành tại Việt

Nam và theo hướng dẫn của cơ

quan quản lý chuyên ngành về

thú y thủy sản; ngừng sử dụng

trước khi thu hoạch theo hướng

dẫn của nhà sản xuất.

Sử dụng thức ăn công nghiệp

dạng bột, dạng mảnh hay dạng

viên có kích thước phù hợp với

cỡ miệng cá; hàm lượng đạm và

thành phần cần thiết khác phải

đảm bảo đáp ứng nhu cầu cho

từng giai đoạn phát triển của cá.

Quản lý tốt lượng thức ăn cho cá, tránh lãng phí và gây ô nhiễm môi

trường nước ao nuôi; Các loại

thức ăn tổng hợp và tự chế biến

cần bảo quản tốt, tránh bị nhiễm

nấm mốc và nhiễm khuẩn; thức

ăn tươi sống cần phải được xử lý

đảm bảo không còn mầm bệnh

trước khi cho ăn.

Bổ sung các loại vitamin, khoáng,… để tăng sức đề kháng cho cá trước và trong thời kỳ bệnh thường xảy ra. Hằng ngày, theo dõi sức khỏe cá như: màu sắc, khả năng hoạt

động, lượng thức ăn tiêu thụ. Kiểm tra các yếu tố môi trường ao nuôi: DO (hằng ngày); pH, độ kiềm (02 ngày/lần); H2S, NH3 (01 tuần/lần).

Không dùng chung dụng cụ giữa các ao, lồng, bể. Dụng cụ dùng trong quá trình sản xuất

phải được vệ sinh, khử trùng trước và sau khi sử dụng.

Không để cho cá bị sốc do môi trường thay đổi xấu: nhiệt độ, hàm lượng ôxy hòa tan, nhiễm bẩn của nước.

Đối với nuôi cá lồng bè, cần thường xuyên treo túi vôi, mùa xuất hiện bệnh 2 tuần treo một lần, còn lại một tháng treo 1 lần. Vôi có tác dụng khử trùng và kiềm hóa môi trường nước.

Lượng vôi tính trung bình 2 kg vôi nung/10 m3. Lồng, bè lớn treo nhiều túi và lồng, bè nhỏ treo ít túi tập trung ở chỗ cho ăn và phía

đầu nguồn nước chảy.

Người làm việc tại cơ sở nuôi

phải thực hiện vệ sinh, khử trùng khi ra, vào cơ sở.

Lấy mẫu cá để xét nghiệm xác

định mầm bệnh định kỳ ít nhất 01 lần/tháng/ao đối với cá nuôi thương phẩm; 02 lần/tháng/ao đối với cá ở giai đoạn ương giống.

Chủ cơ sở nuôi cần theo dõi nắm thông tin về tình hình dịch bệnh xảy ra trong khu vực/vùng, tình hình dự báo thời tiết và cảnh báo dịch bệnh của cơ quan chuyên môn để có biện pháp chủ động phòng tránh dịch bệnh. Khi cá có dấu hiệu bất thường, chủ cơ sở nuôi phải thông báo ngay cho cơ quan thú y để xác định kịp thời tác nhân gây bệnh. Cá bệnh, cá chết và chất thải của ao bị bệnh phải được thu gom và xử lý kịp thời theo hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật, cơ quan quản lý chuyên ngành thú y thủy sản. Cơ sở nuôi cá tra phải có hệ thống sổ theo dõi sức khỏe cá, tình hình sử dụng thuốc, hóa chất, chế phẩm sinh học và sản phẩm xử lý cải tạo môi trường trong suốt quá trình sản xuất. Hồ sơ phải được lưu giữ đầy đủ để xuất trình khi có yêu cầu. Sổ theo dõi ao nuôi phải có xác nhận của cơ quan chuyên ngành thú y thủy sản có thẩm quyền để phục vụ yêu cầu kiểm tra, truy xuất nguồn gốc khi nước nhập khẩu yêu cầu.

Điều trị bệnh Để điều trị bệnh xuất huyết trên cá tra, cần xử lý môi trường nước bằng thuốc sát trùng, bổ sung kháng sinh trộn vào thức ăn (như florfenicol, doxycycline), trong 57 ngày, liều lượng và sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Trong trường hợp cá giống hoặc mật độ cao, có thể sử dụng các sản phẩm diệt khuẩn dạng tắm cho cá với liều lượng và thời gian phù hợp. Cùng với đó, bổ sung men vi sinh cùng các Vitamin C, E để cá hồi phục nhanh hơn. Đồng thời, cần kiểm soát chất lượng nước, sử dụng thức ăn chất lượng tốt, và bổ sung khoáng chất để tăng cường sức đề kháng cho cá.

Lựa chọn cá tra giống phải khỏe mạnh, có nguồn gốc rõ ràng
LHV

trong nuôi trồng thủy sản

Ổi, loại cây trồng phổ biến trong nhiều vùng trên thế

giới, không chỉ là nguồn cung cấp trái cây giàu dinh

dưỡng mà còn được biết đến với các tính chất y học

và thảo dược. Trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, lá ổi

đã được chứng minh là một nguồn tài nguyên quý giá, mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe của thủy sản. Ảnh: Wikipedia

Nhiều lợi ích

Thảo dược là một trong những nguyên liệu tiềm năng được sử dụng phổ biến trong phòng trị bệnh cho người và động vật. Nhiều

loại thảo dược được ghi nhận có vai trò quan trọng trong việc kiểm soát dịch bệnh vì chứa nhiều chất có hoạt tính kháng ôxy hóa, kháng vi khuẩn, giảm stress và tăng cường hệ miễn

dịch trên động vật (Chakraborty et al., 2011).

Trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, lá ổi đã

được chứng minh là một nguồn tài nguyên quý giá, mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe của thủy sản.

Dịch chiết lá ổi cho thủy sản là một giải pháp tự nhiên giúp tăng cường hệ miễn dịch, cải thiện tăng trưởng, và phòng bệnh hiệu quả cho tôm, cá. Hoạt chất sinh học trong lá ổi có tác dụng kháng khuẩn, chống ôxy hóa, giúp tôm cá chống lại các tác nhân gây bệnh như Vibrio spp., đồng thời giúp cá giải độc, giảm stress và tăng khả năng tiêu hóa thức ăn.

Giải pháp bền vững

Những năm qua, đã có rất nhiều nghiên cứu về cây ổi trên một vài động vật thủy sản như cá tra, cá lóc, cá trê, cá rô phi và tôm sú đã được chứng minh là cải thiện đáng kể hiệu suất tăng trưởng, miễn dịch cũng như chống viêm hiệu quả. Kết quả nghiên cứu của Gobi và cộng sự (2016) đã chứng minh dịch chiết lá ổi làm tăng sự tăng trưởng và hệ thống miễn dịch của cá rô phi đơn tính (Oreochromis mossambicus). Ngoài ra, theo Truong et al., (2018), dịch chiết lá ổi bổ sung vào thức ăn cũng làm tăng hệ thống miễn dịch của cá tra giống.

Năm 2021, một nghiên cứu của Dewi cùng cộng sự cho thấy tác động tích cực của chiết xuất lá ổi ở các nồng độ khác nhau khi trộn vào thức ăn. Việc bổ sung cao chiết lá ổi ở nồng độ 5 g/kg thức ăn cho giá trị tổng tế bào máu, hoạt tính phenoloxidase, hoạt tính thực bào và sản sinh các phân tử ôxy hóa cao nhất, đồng thời các protein có liên quan đến miễn dịch (lysozyme, superoxide dismutase, glutathione peroxidase,…) cũng được biểu hiện.

Ngoài ra, tăng trưởng của tôm được bổ sung cao chiết ổi cũng cao hơn so với tôm đối chứng, tôm ở nghiệm thức bổ sung cao chiết ổi (5 g/kg thức ăn) có tốc độ tăng trưởng cao nhất và hệ số tiêu tốn thức ăn thấp nhất. Sau cảm nhiễm với vi khuẩn V. parahaemolyticus, tỷ lệ sống của tôm được bổ sung cao chiết ổi (5 g/kg thức ăn) đạt 72,27%, cao hơn so với các nghiệm thức còn lại.

Gần đây nhất, tại Việt Nam, các nhà khoa học của Trường Thủy sản, Đại học Cần Thơ và Sở Khoa học Công nghệ TP Cần Thơ đã thực hiện nghiên cứu xác định liều lượng bổ sung dịch chiết lá ổi vào thức ăn lên một số chỉ tiêu miễn dịch của cá điêu hồng.

Hiện nay, cá điêu hồng được nuôi với mật độ cao đã và đang gây ảnh hưởng lên chất lượng nước nuôi khiến dịch bệnh trên cá điêu hồng nuôi bè xảy ra trầm trọng và gây thiệt hại nặng về kinh tế (Dang & Nguyen, 2012).

Trong thí nghiệm, cá điêu hồng giống (45,1 ± 1,64 g/con) sau khi mua về được thuần dưỡng trong các bè cá 15 ngày trước khi bố trí thí nghiệm. Trong giai đoạn thuần cá trước thí nghiệm, cá được cho ăn theo nhu cầu 2 lần/ngày.

Lá ổi được sử dụng để sản xuất dịch chiết là lá ổi tươi. Lá ổi sau khi được thu hái, được rửa qua nước sạch và nước muối loãng để loại bỏ bùn đất đồng thời loại bỏ các lá sâu sau đó được xử lý qua đèn tia cực tím trước khi đưa vào sản xuất dịch lá ổi. Dịch lá ổi sử dụng cho toàn bộnghiên cứu này được sản xuất dựa vào kết quả nghiên cứu của Nguyen et al., (2020). Dịch lá ổi sau khi sản xuất được bảo quản trong tủ đông (bổ sung nhiệt độ) để dùng cho thí nghiệm. Thí nghiệm được thực hiện với 5 nghiệm thức bao gồm nghiệm thức đối chứng 0% và 4 nghiệm thức bổ sung 0,08, 0,2, 0,5 và 0,8% dịch chiết lá ổi vào thức ăn cho cá mỗi nghiệm thức được lặp lại 4 lần. Cá được bố trí vào mỗi giai với số lượng 120 con/giai. Cá được cho ăn 2 lần/ngày đến thỏa mãn nhu cầu. Thí nghiệm được theo dõi trong 8 tuần nuôi.

Kết quả nghiên cứu cho thấy tổng hàm lượng miễn dịch globulin (Ig) tăng dần qua các tuần và đạt cao nhất tại tuần 8 ở hai nghiệm thức 0,5% (26,21 mg/mL) và 0,8% (24,97 mg/mL). Hàm lượng lysozyme đạt mức cao nhất sau 8 tuần ở hai nghiệm thức là 0,5% và 0,8% tương ứng 228,43 U/mL và 223,52 U/mL. Riêng hàm lượng glucose cho thấy các giá trị giảm dần và đạt mức thấp nhất ở nghiệm thức 0,8% (14,40 mg/dL) sau 8 tuần. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng việc bổ sung 0,5% dịch chiết lá ổi vào thức ăn giúp tăng khả năng miễn dịch của cá điêu hồng nuôi bè trong 8 tuần thí nghiệm.

Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.