Tạp chí TSVN tháng 4/2025

Page 1


Hội đồng Biên tập

Nguyễn Việt Thắng, Tiến sĩ

Dương Xuân Hùng, Trưởng Ban Biên tập

Đỗ Huy Hoàn, Nhà báo

Hoàng Hải Đăng, Thư ký Tòa soạn

Phạm Thu Hồng, Nhà báo

Dương Nam Anh, Nhà báo

Trần Anh Thư, Phóng viên

Trần Thị Kim Tiến, Phóng viên

Chủ nhiệm

Nguyễn Việt Thắng, Tiến sĩ

Phụ trách

Nguyễn Chu Hồi, Phó Giáo sư - Tiến sĩ

Chuyên gia

Phạm Anh Tuấn, Tiến sĩ

Trần Đình Luân, Tiến sĩ

Đào Trọng Hiếu, Tiến sĩ

Lê Văn Khoa, Tiến sĩ

Nguyễn Duy Hòa, Tiến sĩ

Nguyễn Khắc Bát, Tiến sĩ

Hồ Quốc Lực, Tiến sĩ

Lê Văn Quang, Chủ tịch Tập đoàn

Thủy sản Minh Phú

Mỹ thuật: Two Nguyễn

Trình bày: Phạm Dương

Kỹ thuật: Đăng Kiên

Hình ảnh: Dương Nghĩa

Đọc bản in: Anh Thư

Tòa soạn:

Điện thoại: 028.62777616

Email: toasoan@thuysanvietnam.com.vn

Lầu 2, Nhà B, 116 Nguyễn Đình Chiểu, P. Đa Kao, Q. 1, TP HCM

Văn phòng Hà Nội:

Điện thoại: 0243.7713699

Tầng 3, nhà A7, 10 Nguyễn Công Hoan, Ba Đình, Hà Nội

Phòng Quảng cáo:

Quảng cáo: 028.62777616

Email: nghia@thuysanvietnam.com.vn

Giấy phép xuất bản: 69/GP-BTTT

ISSN: 0866-8043

Nơi in: In tại Công ty TNHH MTV

Lê Quang Lộc (TP HCM)

Giá bán: 50.000đ - Giá PDF: 10.000đ

Thư tòa soạn

Thưa quý vị bạn đọc,

Nhân dịp kỷ niệm 66 năm ngày truyền thống ngành Thủy sản Việt Nam (1/4/1959 - 1/4/2025), Tạp chí Thủy sản Việt Nam xin gửi lời tri ân sâu sắc

đến hàng triệu ngư dân, người nuôi trồng, doanh nghiệp và các nhà khoa học đã không ngừng nỗ lực vì sự phát triển của ngành.

Đây không chỉ là dịp để nhìn lại hành trình đã qua mà còn là động lực

cho sự đổi mới, nâng cao giá trị thương hiệu thủy sản Việt Nam, hướng tới phát triển xanh, bền vững, đồng thời khẳng định vị thế vững chắc trên

trường Quốc tế.

Nằm trong chuỗi các hoạt động hưởng ứng sự kiện này, Hội chợ triển lãm Quốc tế công nghệ ngành tôm Việt Nam lần thứ 6 - VietShrimp 2025 đã được tổ chức tại TP. Cần Thơ từ ngày 26 - 28/03. Với sự tham dự của 150 đơn vị cùng hơn 200 gian hàng, VietShrimp 2025 được giới chuyên gia và cộng đồng doanh nghiệp đánh giá là hội chợ về con tôm thành công nhất từ trước tới nay cả về quy mô lẫn chất lượng.

VietShrimp 2025 khép lại, nhưng dư âm từ 4 phiên hội thảo với các tham luận chuyên sâu về định hướng, giải pháp, đặc biệt là các giải pháp về công nghệ số, công nghệ sinh học… chắc chắn sẽ còn tiếp tục lan tỏa đến các mắt xích trong chuỗi giá trị ngành tôm.

Tất cả đã và đang kết nối với nhau trên hành trình đưa ngành tôm phát triển ổn định, hiệu quả, bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu và phù hợp với xu thế sản xuất, tiêu dùng xanh quốc tế.

“Ngành tôm Việt - Nắm bắt vận hội mới” sẽ là chủ đề chính của Tạp chí

Thủy sản Việt Nam phát hành trong tháng 04. Trên số báo này, Tạp chí sẽ thông tin tới quý bạn đọc những vấn đề xoay quanh câu chuyện phát triển bền vững ngành tôm; cơ hội và thách thức mà con tôm Việt sẽ đón nhận trong năm 2025.

Ngoài ra, Tạp chí Thủy sản Việt Nam số 04 còn đưa ra góc nhìn về việc Tổng thống Mỹ Donald Trump dự định áp thuế đối ứng lên tới 46% với hàng hóa Việt Nam. Cùng với đó là thông tin về tình hình sản xuất, thị trường thủy sản; thức ăn dinh dưỡng; những mô hình nuôi trồng hiệu quả; cách phòng, chống dịch bệnh thủy sản và hoạt động của cộng đồng doanh nghiệp.

Trân trọng! Ban Biên tập

Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề nghị Mỹ miễn trừ thuế với một số

nhóm nông, thủy sản

Ngày 11/4, trong khuôn khổ chuyến công tác tại Mỹ, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Trung đã làm việc với Thứ trưởng

Bộ Nông nghiệp Mỹ Jason Hafemeister, đề nghị Mỹ xem xét miễn trừ thuế với một số nhóm hàng nông, thủy sản thiết yếu như cá, tôm, tiêu, điều, cà phê, rau quả – các mặt hàng không cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm Mỹ nhưng có giá thành hợp lý, phù hợp nhu cầu người tiêu dùng.

Cục Thủy sản và Kiểm ngư khuyến cáo ổn định sản xuất trước áp lực

thuế từ Mỹ

Trước thông tin Mỹ công bố mức thuế đối ứng 46% với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam, Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã có văn bản gửi các Sở Nông nghiệp và Môi trường địa phương ven biển và vùng ĐBSCL, yêu cầu tăng cường chỉ đạo sản xuất nuôi trồng thủy sản. Cục cảnh báo mức thuế này sẽ ảnh hưởng đáng kể tới chuỗi giá trị ngành thủy sản, nhất là khi Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn, chiếm khoảng 20% kim ngạch.

Do đó, các địa phương cần hướng dẫn người dân không thu hoạch ồ ạt, không cắt giảm sản lượng một cách bị động, tránh gây rối loạn thị trường. Cần tập trung hỗ trợ kỹ thuật, cập nhật thông tin thị trường, khuyến khích áp dụng công nghệ để giảm chi phí, nâng cao năng suất, đảm bảo truy xuất nguồn gốc nhằm duy trì chất lượng và sức cạnh tranh. Ngoài ra, các địa phương cần chuẩn bị sẵn phương án chuyển hướng xuất khẩu sang các thị trường khác như Trung Quốc, Hàn Quốc, EU, Nhật Bản và phát triển thị trường nội địa thông qua liên kết chuỗi tiêu thụ. Đồng thời, khuyến khích doanh nghiệp tăng tạm trữ nguyên liệu, chuẩn bị cho thời điểm thị trường Mỹ mở lại.

VASEP đề xuất 2 gói hỗ trợ với doanh nghiệp thủy sản với thuế đối ứng từ Mỹ

Trước diễn biến Mỹ hoãn áp dụng mức thuế đối ứng 46% đối với thủy sản Việt Nam trong 90 ngày, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) đã tổng hợp ý kiến các

50 năm Giải phóng miền Nam Mốc son chói lọi của dân tộc

Ngày 30/4/1975 là mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Đại thắng mùa xuân 1975 khép lại một thời kỳ đen tối, đầy đau thương, chia cắt; mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, non sông thu về một mối, cả nước cùng đi lên xã hội chủ nghĩa.

Năm 2025, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta long trọng kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đây là dịp để chúng ta ôn lại những trang sử hào hùng, tri ân biết bao lớp người ngã xuống vì độc lập, tự do của dân tộc. 50 năm trôi qua, đất nước đã chuyển mình mạnh mẽ. Vượt qua đau thương của chiến tranh, nhân dân ta từng bước xây dựng lại quê hương, vững vàng tiến lên, ngày càng khẳng định vai trò và vị thế trên trường quốc tế.

Kỷ niệm 50 năm Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, một lần nữa nhắc nhở chúng ta nhớ về câu chuyện thần kỳ của một đất nước nhỏ bé, vốn là thuộc địa, đã đánh thắng chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Và cũng chính đất nước nhỏ bé đó đang vươn mình mạnh mẽ, trở thành một Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc. Đây cũng là lời nhắc nhở mỗi người dân Việt Nam luôn ghi lòng tạc dạ lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Sứ mệnh của thế hệ hôm nay là kế tục truyền thống anh hùng, tự lực, tự cường, làm chủ tri thức, xây dựng đất nước phồn vinh, sánh vai cùng bạn bè năm châu.

doanh nghiệp và xin đề xuất với Chính phủ và các Bộ “2 gói” hỗ trợ cần thiết để đối phó với những bất ổn và gia tăng năng lực của cộng đồng doanh nghiệp thủy sản. Đề xuất đầu tiên tập trung vào việc hỗ trợ duy trì sản xuất, củng cố chuỗi cung ứng và gia tăng năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Các giải pháp bao gồm thành lập “Quỹ phát triển công nghệ ngành thủy sản”, khơi thông thị trường nội địa, giảm thuế VAT, miễn giảm tiền thuê đất và hỗ trợ tín dụng cho doanh nghiệp. Ngoài ra, VASEP còn đề nghị hỗ trợ lao động thông qua giãn thời gian đóng BHXH và trợ cấp thất nghiệp. Đề xuất thứ hai nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu và gia tăng xúc tiến thương mại cho năm 2025-2026. Theo đó, hiệp hội đề xuất các hoạt động xúc tiến thương mại quốc tế như hội chợ thủy sản tại các thị trường Bắc Mỹ, châu Á, và châu Âu; đồng thời, mong muốn Nhà nước hỗ trợ 100% chi phí tham gia các sự kiện này, giúp doanh nghiệp tiếp cận thị trường mới và giảm bớt gánh nặng chi phí.

Cảnh báo sâu biển gây hại vùng nuôi nhuyễn thể tại miền Bắc

Chiều 12/4, Chi cục Thủy sản Hà Tĩnh cho biết Trung tâm Quan trắc Môi trường và Bệnh thủy sản miền Bắc vừa cảnh báo về sự xuất hiện của loài sâu biển (rết biển) Chloeia sp. tại các vùng nuôi ngao ở một số tỉnh phía Bắc như Ninh Bình, Quảng Ninh. Đây là loài sinh vật đáy, hoạt động mạnh vào ban đêm, có khả năng tấn công và ăn thịt ngao cùng các loài nhuyễn thể khác, gây thiệt hại đáng kể cho người nuôi. Trung tâm khuyến cáo người nuôi cần tăng

Mỹ tạm hoãn thuế đối ứng 90 ngày Cơ hội cho thủy sản Việt Nam

Chiều ngày 2/4 (ngày 3/4 theo giờ Việt Nam), Tổng thống Mỹ

Donald Trump công bố mức thuế nhập khẩu với hàng chục nền kinh tế, trong đó Việt Nam chịu mức 46%. Đối với ngành thủy sản, mức thuế 46% này được đánh giá là một cú sốc lớn. Mỹ hiện là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn thứ hai của Việt Nam, chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu. Mức thuế cao này khiến tôm và các mặt hàng thủy sản khác của Việt Nam gần như mất khả năng cạnh

tranh về giá so với các đối thủ khác như Ấn Độ (26%), Indonesia (32%) hay Ecuador (10%). Tuy nhiên, tới ngày 9/4, ông Trump bất

ngờ tuyên bố sẽ tạm hoãn áp dụng trong vòng 90 ngày và trong thời gian đó sẽ áp mức thuế chung 10% với các đối tác. Bộ Công

Thương Việt Nam đã gửi công hàm đề nghị phía Mỹ tạm hoãn quyết

định áp thuế để dành thời gian trao đổi, tìm giải pháp hợp lý cho cả hai bên. Hiện tại, Việt Nam và Hoa Kỳ đang tích cực trao đổi, thảo

luận các biện pháp cụ thể nhằm tháo gỡ vướng mắc, thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại song phương, hướng đến thương mại công bằng, bền vững và hài hòa lợi ích của cả hai bên.

cường theo dõi, không thả ngao giống quá nhỏ, ưu tiên kích cỡ lớn và chủ động bắt sâu bằng phương pháp thủ công như giăng lưới, dẫn dụ bằng ánh sáng. Tuyệt đối không sử dụng hóa chất diệt sâu ngoài danh mục cho phép để tránh gây hại đến môi trường và con nuôi.

Đặt mục tiêu gỡ “thẻ vàng” IUU vào quý IV/2025

Ngày 13/4, tại Hội nghị giao ban thường kỳ, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy đã giao một số nhiệm vụ trọng tâm trong quý II, trong đó đáng chú ý là mục tiêu gỡ “thẻ vàng” IUU vào quý IV năm nay. Đây là nhiệm vụ chiến lược trong bối cảnh xuất khẩu thủy sản phục hồi mạnh mẽ nhưng ngành cũng đối mặt với nhiều thách thức về thị trường và cạnh tranh quốc tế.

Ngành thủy sản quý I/2025 tăng

trưởng mạnh

Theo Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), quý I/2025, ngành thủy sản Việt Nam đạt giá trị xuất khẩu 2,29 tỷ USD, tăng 18,1% so với cùng kỳ năm 2024. Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong ba năm trở lại đây, phản ánh sự phục hồi tích cực

Tổng thống Mỹ Donald Trump trong buổi công bố mức thuế nhập khẩu mới với các đối tác thương mại ngày 2/4 (giờ Mỹ) Ảnh: Chip Somodevilla

Quý I/2025, sản lượng tôm nuôi đạt khoảng 205.000 tấn, tăng 4,2% so với cùng kỳ, trong đó tôm thẻ chân trắng chiếm tỷ trọng lớn Ảnh: ST

của thị trường và nỗ lực duy trì chuỗi sản xuất ổn định. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực ghi nhận mức tăng trưởng rõ nét như tôm, cá tra, cá ngừ. Tôm đạt kim ngạch khoảng 790 triệu USD, cá tra đạt gần 570 triệu USD. Thị trường tiêu thụ chính vẫn là Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, EU và Hàn Quốc.

TP Huế Cấp giấy chứng nhận đăng ký cá

dìa Tam Giang

Cá dìa là đối tượng đặc hữu có giá trị kinh tế cao ở đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, không

những thế cá dìa còn là một đặc sản danh tiếng của ẩm thực TP Huế.

Mới đây, nhãn hiệu “Cá dìa Tam GiangHuế - Đặc sản đầm phá” được Cục Sở hữu trí tuệ cấp Giấy chứng nhận đăng ký”. Nhãn hiệu này sẽ góp phần phát triển đầu ra và nâng cao giá trị cá dìa, tăng thu nhập và phát triển bền vững cho người dân.

Kiên Giang

Phát hiện 7 ổ dịch trên tôm nuôi ở An Biên

Trong quý I/2025, huyện An Biên (Kiên Giang) ghi nhận 7 ổ dịch tôm nuôi với diện tích nhiễm bệnh lên tới 10,95 ha, chủ yếu tại hai xã Nam Thái A và Nam Yên. Trước tình hình này, ngành chức năng đã nhanh chóng cung cấp 580 kg hóa chất Chlorine cho các hộ dân để tiêu hủy tôm bệnh và xử lý môi trường, ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh và bảo vệ các vùng nuôi lân cận.

Sẽ áp thuế trả đũa Anh

Theo các doanh nghiệp Mỹ, chính phủ Anh áp thuế cao đối với tôm và việt quất nhập

khẩu từ Mỹ, gây thiệt hại cho ngành thủy sản và nông sản Mỹ. Cụ thể, thuế nhập khẩu tôm lạnh vào Anh dao động từ 12% đến 18%, thuế việt quất tươi là 2%, và thuế việt quất đông lạnh là 20%. Ngoài ra, một số doanh nghiệp cũng chỉ trích Anh hỗ trợ không công bằng cho các nhà sản xuất máy móc nặng. Doanh nghiệp Mỹ nhận định, chính sách thuế và trợ cấp của Anh làm tổn hại ngành công nghiệp Mỹ và gây ra tình trạng mất việc làm.

Na Uy

Tăng cường bảo vệ cá bơn Đại Tây

Dương

Cục Thủy sản Na Uy đã kéo dài thời gian đóng cửa vụ khai thác cá bơn halibut Đại Tây Dương thêm gần 03 tuần đến 20/4, thay vì 31/3 như

trước đây. Các ngoại lệ đối với quy định này rất hạn chế và tuân theo Điều 44 của Quy định về

Thu hoạch. Lệnh đóng cửa áp dụng cho tất cả các loại ngư cụ trên toàn quốc. Trond Ottemo, đại diện cơ quan pháp chế, Cục Thủy sản, cho biết: “Tại Na Uy, cá halibut đại tây dương và rái cá đang được bảo vệ nghiêm ngặt. Đối với cá rái cá, thời gian bảo vệ ở khu vực phía Bắc sẽ kéo dài đến ngày 20/5. Chúng tôi đang tổng hợp ý kiến và đánh giá các biện pháp cần thiết trong tương lai. Tuy nhiên, việc kéo dài thời gian bảo vệ cá halibut là cần thiết”. Các quy định đánh bắt hiện hành yêu cầu cá halibut Đại Tây Dương phải đạt kích thước tối thiểu 84 cm và chiều dài tối đa trên 3 mét.

Canada

Nova Scotia sắp đối mặt thuế quan của Mỹ

Thuế quan của Trung Quốc đối với thủy sản

Canada đã có hiệu lực từ ngày 20/3, trong khi thuế quan 25% từ Mỹ sẽ áp dụng từ tuần sau. Ông Stewart Lamont, giám đốc điều hành công ty tôm hùm Tangier cho biết, ngành tôm hùm đang rất lo lắng về tác động của thuế quan đối với giá cả. Mặc dù nhu cầu tôm hùm vẫn cao, đặc biệt khi thiếu hụt trước mùa xuân, giá có thể giảm khi thuế quan của Mỹ được áp dụng và nguồn cung tăng lên. Ông Osborne Burke, Giám đốc điều hành Victoria

Ảnh:

Oanh Thảo

Co-operative Fisheries Ltd. tại Cape Breton, lo ngại thuế quan của Mỹ sẽ tác động nghiêm trọng đến ngành khai thác cua, vì phần lớn sản phẩm của họ được xuất khẩu sang Mỹ. Theo chính quyền Nova Scotia, tỉnh này đã xuất khẩu 1,2 tỷ USD hải sản sang Mỹ và 614 triệu USD sang Trung Quốc trong năm 2024.

Nga

Dùng công nghệ hiện đại để chống khai thác trộm thủy sản

Bộ Công nghiệp và Thương mại Nga đã

đề xuất sửa đổi luật hiện hành, cho phép sử dụng máy bay không người lái (drone) để ngăn chặn và phòng ngừa săn trộm thủy sản trên lãnh thổ quốc gia. Hiện tại, pháp luật chưa quy định rõ ràng việc sử dụng drone để chống săn trộm, điều này gây khó khăn cho việc áp dụng công nghệ này trong ngành thủy sản, nhưng khả năng sửa đổi luật trong thời gian tới là cao. Bên cạnh drone, các công nghệ như camera nhiệt và hồng ngoại cũng sẽ được sử dụng vì săn trộm thường xảy ra vào ban đêm. Việc áp dụng chủ động các công nghệ này sẽ giúp Nga giảm chi phí đối phó với săn trộm, đặc biệt là chi phí nhân lực khi ngành thủy sản đang thiếu nhân sự.

Chile

Sản lượng vẹm giảm 10%- 20% vào năm 2025

Chile, quốc gia đứng đầu thế giới về xuất khẩu vẹm nuôi, đối mặt với khó khăn lớn khi diện tích nuôi giảm 30%-40% trong năm 2024 do thiếu hụt giống, kéo theo nguy cơ giảm

sản lượng năm 2025 và 2026. Ông Rodrigo Carrasco, giám đốc điều hành Hiệp hội nuôi vẹm Chile, dự báo sản lượng sẽ giảm 10%20% vào năm 2025, khiến mùa thu hoạch kết thúc sớm và mùa nuôi tiếp theo bị trì hoãn đến đầu năm 2026. Vị lãnh đạo hiệp hội cảnh báo rằng nuôi vẹm trong thời gian ngắn có thể giảm hoặc trì hoãn sản lượng do thiếu nguồn thức ăn tự nhiên, ảnh hưởng đến kích thước và năng suất, và sản lượng mùa vụ tiếp theo. Ấn Độ Vay vốn ODA phát triển nuôi trồng thủy sản Ấn Độ đã ký thỏa thuận vay trị giá 191,736 tỷ JPY (khoảng 1,28 tỷ USD) vào ngày 28/3/2025 dưới dạng Viện trợ phát triển chính thức (ODA) của Nhật Bản, nhằm hỗ trợ sáu dự án quan trọng trong các lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, giao thông đô thị, cung cấp nước, quản lý rừng, bảo tồn đa dạng sinh học và thúc đẩy đầu tư. Một phần lớn khoản vay, 3,580 tỷ JPY (khoảng 23,8 triệu USD), sẽ được sử dụng cho “Dự án thúc đẩy nuôi trồng thủy sản và cải thiện sinh kế bang Assam”. Dự án này nhằm nâng cao sản xuất cá, củng cố chuỗi cung ứng thủy sản và cải thiện đời sống cộng đồng nông thôn tại Assam, giúp khu vực này trở thành trung tâm nuôi trồng thủy sản hàng đầu trong khu vực. Các khoản vay còn lại được sử dụng cho dự án quản lý rừng, xây nhà máy khử muối nước biển, và bảo tồn đa dạng sinh học.

CON SỐ & SỰ KIỆN

2,29 TỶ USD

Là kim ngạch xuất khẩu thủy sản quý I/2025, tăng 18,1% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, xuất khẩu tôm đạt kim ngạch khoảng 790 triệu USD, cá tra đạt gần 570 triệu USD.

2 TRIỆU TẤN

Là tổng sản lượng thủy sản cả nước trong quý I/2025, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước.

17,8 USD/KG

Là giá tôm Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ trong tháng 2/2025, tăng 11% so cùng kỳ 2024. Đây là mức cao nhất trong gần một năm qua.

46% Là mức thuế đối ứng mà Mỹ dự kiến áp dụng với hàng hóa từ Việt Nam. Hiện, mức thuế này đang tạm hoãn trong 90 ngày để chờ đàm phán từ Chính phủ hai

Đan Linh

Ông Alexandros Samartzis

Giám đốc Dinh dưỡng và Hỗ trợ Thủy sản châu Á của De Heus

De Heus là một trong những tập đoàn hàng đầu thế giới

trong lĩnh vực sản xuất thức ăn chăn nuôi, với danh mục sản

phẩm đa dạng dành cho hầu hết các loài vật nuôi, từ gia súc, gia cầm đến thủy sản. Đặc biệt tại Việt Nam, chúng tôi tự hào

là một trong những doanh nghiệp tiên phong và có vị thế vững

chắc trong ngành thức ăn thủy sản, cung cấp giải pháp dinh dưỡng tối ưu cho nhiều đối tượng nuôi, đồng thời luôn đồng hành cùng người nuôi và các đối tác để hướng đến sự phát triển bền vững.

VietShrimp năm nay thực sự để lại nhiều ấn tượng sâu sắc đối với tôi. Đây là một sự kiện được tổ chức rất chuyên nghiệp, chu đáo và quy mô ngày càng lớn mạnh qua từng năm. Chúng tôi chân thành cảm ơn Ban tổ chức, đặc biệt là Tạp chí Thủy sản Việt Nam, vì đã mang đến một nền tảng kết nối vô cùng quý báu cho toàn ngành. VietShrimp không chỉ là nơi gặp gỡ giữa các doanh nghiệp trong nước, mà còn thu hút sự quan tâm của rất nhiều đối tác quốc tế, tạo nên một không gian mở để cùng nhau trao đổi, hợp tác và phát triển. Đối với De Heus, VietShrimp là dịp để chúng tôi không chỉ giới thiệu các sản phẩm và giải pháp dinh dưỡng mới nhất, mà còn lắng nghe trực tiếp những chia sẻ từ người nuôi, từ các chuyên gia trong ngành, từ đó điều chỉnh và cải tiến sản phẩm để phù hợp hơn với thực tế. Đây cũng là nơi chúng tôi có thể gặp gỡ, củng cố mối quan hệ với khách hàng hiện tại, đồng thời mở rộng mạng lưới với các đối tác tiềm năng trong và ngoài nước.

Chúng tôi rất vui mừng và vinh dự khi tiếp tục đồng hành cùng VietShrimp trong hành trình phát triển ngành tôm Việt Nam, và chắc chắn sẽ tiếp tục tham gia những kỳ tiếp theo. Một lần nữa, xin cảm ơn Ban tổ chức vì đã mang đến một sự kiện tuyệt vời như thế này.

Biến thách thức thành cơ hội

Mặc dù Mỹ áp mức thuế đối ứng

mới lên hàng hóa của Việt Nam trong đó có sản phẩm tôm, song theo các nhà chuyên môn, đây có thể là khó khăn, thách thức nhưng cũng là cơ hội để tái cấu trúc, mở

rộng và phát triển các thị trường tiềm năng khác của con tôm Việt.

trưởng Bộ Nông nghiệp

Tăng trưởng cao

Theo số liệu từ VASEP, trong hai tháng đầu năm, xuất khẩu thủy sản đã ghi nhận những tín hiệu tích cực với tổng kim ngạch đạt 1,423 tỷ USD, tăng trưởng 18,2% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, đáng chú ý, tôm tiếp tục là điểm sáng lớn nhất, đóng góp 542,387 triệu USD trong 2 tháng đầu năm, tăng trưởng 30,8%. Riêng tháng 2/2025, kim ngạch xuất khẩu tôm đạt 231,406 triệu USD, tăng 33,9%.

Xét về mặt hàng, tôm thẻ chân trắng (TTCT) là sản phẩm xuất khẩu chủ lực của ngành tôm, giá trị kim ngạch xuất khẩu của TTCT trong 2 tháng đầu năm đạt 344 triệu USD, tăng 15% so với cùng kỳ. Tôm sú xuất khẩu 45 triệu USD, giảm nhẹ 5%, còn sản phẩm “tôm loại khác” đạt 216 triệu USD, tăng đến 222%.

Cùng với sự gia tăng về sản lượng, mức giá bán tăng cao cũng đóng góp vào tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu tôm hai tháng đầu năm. Theo VASEP, giá tôm thẻ chân trắng bình quân tại tất cả thị trường hiện đang ở mức hơn 9 USD/kg, tăng 5%, trong khi giá tôm sú tăng đến 14%, đạt gần 12,8USD/kg. Xét về thị trường, các thị trường thuộc top đầu vẫn duy trì phong độ đó là Trung Quốc, Mỹ, EU, đây là nơi các hiệp định thương mại như EVFTA đang phát huy hiệu quả. Trong đó, thị trường Trung Quốc tiếp tục là thị trường

chủ lực của tôm Việt Nam, với tổng kim ngạch

đạt 204 triệu USD, chiếm 34% và tăng 150% so với cùng kỳ. Theo VASEP, mức tăng này đến từ sự đột biến của xuất khẩu tôm hùm. Trong khi đó, xuất khẩu sang Mỹ đạt 77 triệu USD, tăng trưởng 7%, là mức tăng khiêm tồn nhất so với các thị trường chính của tôm Việt Nam. Hiệp hội cho biết, người tiêu dùng Mỹ đang lo ngại lạm phát cũng như các chính sách thuế nhập khẩu chưa rõ ràng nên giảm chi tiêu cho hải sản.

Năm 2025, ngành tôm đặt mục tiêu xuất khẩu khoảng 4,3 - 4,5 tỷ USD, tăng trưởng 10 - 15% so với năm 2024. Với kết quả tích cực ghi nhận được trong hai tháng đầu năm, ngành tôm có nhiều triển vọng để đạt, thậm chí vượt mục tiêu đặt ra.

Bình tĩnh vượt khó

Một thông tin không mấy thuận lợi cho xuất khẩu, trong đó có nhóm hàng thủy sản, khi Mỹ có thể sẽ áp mức thuế đối ứng lên tới 46% đối với hàng hóa Việt Nam trong thời gian tới. Trước tình hình này, cả người nuôi và doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản rất hoang mang, lo lắng.

Theo thông tin từ Sở Nông nghiệp Môi trưởng tỉnh Cà Mau, một số doanh nghiệp thu mua tôm đang có sự điều chỉnh giá tôm nguyên liệu từ các ao nuôi. Giá tôm bị sụt

cơ cấu lại thị trường, ngành hàng.

giảm, chỉ trong 2 ngày 4 và 5/4, giá tôm thẻ chân trắng được ghi nhận trên thị trường trong tỉnh giảm trên 10.000 đồng/kg theo kích cỡ. Hiện tại doanh nghiệp không dám chào giá, ký bán cho các khách hàng Mỹ, một số container còn đang trên tàu biển vận chuyển chưa biết hướng xử lý (đang chờ chốt mức thuế). Một số doanh nghiệp cho biết, các khách hàng Mỹ như Mazzetta, Blue Sea, Limson... yêu cầu tất cả các công ty tại Việt Nam tạm ngưng xuất hàng.

Ông Lê Văn Sử, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau, khuyến cáo: “Thời điểm này, người nuôi tôm phải hết sức bình tĩnh, tuyệt đối không hoang mang, tiếp tục theo dõi sát tình hình biến động về mức thuế. Quan trọng nhất là cần ổn định tình hình sản xuất, không nên thu hoạch sớm, thu hoạch vội, không bán tháo dẫn tới xáo trộn thị trường. Bên cạnh đó, tích cực phối hợp với ngành chức năng để có những giải pháp cần thiết, nhất là áp dụng khoa học kỹ thuật để giảm giá thành,

này. Các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu tôm thận trọng và cân nhắc trong việc giảm giá thu mua tôm nguyên liệu, do có thể ảnh

hưởng xấu đến tình hình sản xuất của người dân và doanh nghiệp. Tiếp tục phối hợp các cơ quan, đơn vị, hội ngành nghề hỗ trợ người dân vượt qua thời điểm khó khăn này”.

Chiều 7/4, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy đã chủ trì cuộc họp với đại diện các hiệp hội và doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu lớn sang Mỹ để kịp thời chủ động thích ứng với tình hình mới về thương mại quốc tế. Tại đây, Bộ trưởng kêu gọi toàn ngành giữ vững sự bình tĩnh, linh hoạt, bám sát chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các hướng dẫn từ bộ ngành và tiếp tục tham vấn ý kiến từ hiệp hội, doanh nghiệp. Đồng thời, đề nghị các doanh nghiệp chủ động trong đàm phán với đối tác phía Mỹ, qua đó tạo tiếng nói chung nhằm tác động đến các cơ quan chức năng nước này. Theo VASEP, với kim ngạch xuất khẩu thủy sản hàng năm khoảng 2 tỷ USD, Mỹ chiếm 1/5 giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, thị trường này đang không chỉ giữ thị phần số 1 mà còn có tính định hướng cao đối với ngành thủy sản Việt Nam. Do vậy, mức thuế mới khiến cho doanh nghiệp thủy sản Việt Nam hoang mang lo ngại về khả năng mất thị trường lớn này.

Do vậy, VASEP kiến nghị Chính phủ cần đàm phán với Chính phủ Mỹ không áp mức 46% lên tất cả các mặt hàng, cần tách riêng mức thuế áp dụng cho từng mặt hàng theo danh mục hàng hoá xuất khẩu sang Mỹ với mức thuế tương ứng. Ngoài ra, Chính phủ cần xem xét giảm thuế nhập khẩu về 0% cho hàng hóa là thủy sản được nhập khẩu từ Mỹ - trong đó đặc biệt chú ý tới các sản phẩm chủ lực như tôm, cá ngừ...; vì thực tế nhập khẩu thủy sản của Việt Nam từ Mỹ là không đáng kể và thậm chí gần như không có (ví dụ: cá ngừ). Việc này để có cơ sở đàm phán và đề nghị phía Mỹ áp dụng mức thuế nhập khẩu đối ứng là 0% tương tự phía Việt Nam áp dụng cho Mỹ.

Về phía các doanh nghiệp, VASEP khuyến nghị cần cân nhắc kỹ thời gian và kế hoạch xuất hàng để tránh bị áp mức thuế không mong muốn.

 Ngày 24/3/2025, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức

Tiến đã ký Quyết định 456/QĐ-BNNMT về chương trình Giám sát viên trên tàu cá hoạt động khai thác thủy sản ở vùng biển Việt Nam. Theo đó, chương trình giám sát viên trên tàu cá được áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân tham gia quản lý, khai thác, thương mại sản phẩm thủy sản có nguồn gốc khai thác trong vùng biển Việt Nam. Cụ thể, triển khai hiệu quả kế hoạch hành động về quản lý và bảo tồn thú biển Việt Nam giai đoạn 2024 - 2028 phê duyệt tại Quyết định số 1287/QĐ-BNNPTNT ngày 8/5/2025. Theo dõi, giám sát hoạt động khai thác thủy sản của các đội tàu ở vùng biển Việt Nam để thu thập thông tin, dữ liệu và việc tuân thủ pháp luật về khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản của các tổ chức, cá nhân tham giá hoạt động khai thác trên biển. Cung cấp thông tin, dữ liệu cho cơ quan quản lý nhà nước về thủy sản ở Trung ương và các cơ quan khoa học tại Việt Nam đầy đủ, khách quan về hoạt động khai thác thủy sản trên biển và các nguồn thông tin, dữ liệu khác có liên quan. Triển khai giám sát đặc biệt đối với các loài thú biển, các loài nguy cấp, quý hiểm, các loại khai thác không chủ ý và môi trường sống của chúng có phân bố di cư qua vùng biển Việt Nam. Giao Cục Thủy sản và Kiểm ngư chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên quan tổ chức thực hiện Chương trình, tham mưu xây dựng kế hoạch hàng năm hoặc từng giai đoạn theo yêu cầu quản lý hoặc yêu cầu của thị trường nhập khẩu.

 Ngày 2/4/2025, Văn phòng Chính phủ đã có Thông báo 147/TB-VPCP về Kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà tại cuộc họp về dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số Nghị định trong lĩnh vực thủy sản (Nghị định số 37/2024/NĐ-CP ngày 4/4/2024 và Nghị định số 38/2024/NĐCP ngày 5/4/2024). Theo đó, về việc sửa đổi, bổ sung một số Nghị định trong lĩnh

vực thủy sản: Phó Thủ tướng Chính phủ

Trần Hồng Hà kết luận như sau: Bộ Nông nghiệp và Môi trường khẩn trương hoàn thiện dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 37 và Nghị định số 38 của

Chính phủ theo đúng chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ - Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về IUU tại văn bản số 30/ TB-VPCP ngày 25/1/2025 và văn bản số 1257/VPCP-NN ngày 12/2/2025 của Văn phòng Chính phủ. Tiếp tục tổng hợp, nghiên cứu tiếp thu các ý kiến góp ý của các bộ, ngành và địa phương, Hiệp hội để hoàn thiện dự thảo Nghị định, không chỉ xử lý các khuyến nghị của EC liên quan đến gỡ “thẻ vàng” IUU mà còn để khắc phục các tồn tại, hạn chế nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy phát triển ngành thủy sản theo hướng bền vững, hội nhập quốc tế.

 Ngày 4/4/2025, Cục Thủy sản và Kiểm ngư có Công văn số 188/TSKNNTTS gửi Sở Nông nghiệp và Môi trường các tỉnh, thành phố ven biển và các tỉnh, thành phố nội đồng vùng ĐBSCL về việc tăng cường chỉ đạo sản xuất NTTS trong bối cảnh Mỹ công bố sơ bộ mức thuế nhập khẩu đối ứng với Việt Nam. Theo đó, yêu cầu các địa phương bám sát địa bàn sản xuất, tuyên truyền, hướng dẫn kỹ thuật quản lý tốt thủy sản; hướng dẫn áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến để nâng cao chất lượng, giảm chi phí sản xuất, quan tâm xây dựng thương hiệu, đảm bảo kiểm soát và truy xuất nguồn gốc xuất xứ. Sẵn sàng cho kịch bản không thể đàm phán, nỗ lực chuyển hướng xuất khẩu sang thị trường khác; tổ chức liên kết sản xuất để giảm khâu trung gian, phối hợp hỗ trợ doanh nghiệp chế biến tăng sản lượng thu mua, tạm trữ nguyên liệu trong thời gian thị trường Mỹ chưa được đàm mức áp thuế phù hợp; quan tâm phát triển các sản phẩm phù hợp, hỗ trợ tổ chức cho các doanh nghiệp chế biến, người nuôi liên kết với chuỗi siêu thị, nhà hàng, khách sạn để tăng cường tiêu thụ nội địa… 

Vân Anh

triển bền vững

Thứ trưởng Bộ Nông

nghiệp và Môi trường

Phùng Đức Tiến cho

rằng: “Để ngành thủy

sản phát triển bền

vững, chúng ta cần

xoay quanh 3 trụ cột

cốt lõi, giảm khai thác, tăng nuôi trồng và đẩy

mạnh bảo tồn biển, bảo

vệ và phát triển nguồn

lợi thủy sản”.

Kết quả quan trọng

Theo số liệu báo của của Cục

Thủy sản và Kiểm ngư, tính đến tháng 3 năm 2025, số lư ợ ng tàu cá của 28 tỉnh, thành phố ven biển đã giảm từ 86.820 chiế c năm 2020 còn 82.487 chiế c, trung bình giảm khoảng 0,6 %/ năm. Trong giai đoạn này, có 18 đ ịa phương ven biển có số tàu cá giảm dần.

Đối với nuôi trồng thủy sản trên biển, đến nay, hoạt động nuôi biển đã bư ớc đầu thu hút

đư ợc sự quan tâm c ủa các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào chuỗi ngành hàng. Nhiều công nghệ mới, hiện đại được ứng dụng trong nuôi biển. Năm 2024, diện tích nuôi biển của cả nước đạt

9,7 triệu m³ lồng và 58.000 ha nuôi nhuyễn thể, tăng 2,1%

so với năm 2023. Cũng trong

năm 2024, sản lượng nuôi biển đạt 832.000 tấn.

Công tác bảo tồn biển trong thời gian qua cũng đư ợc quan tâm và đạt được một số kết quả tích cực. Tổng diện tích vùng biển Việt Nam được bảo tồn khoảng 201.749 ha, chiếm

khoảng 0,202% diện tích vùng

biển tự nhiên của Việt Nam.

Trải qua gần 4 năm th ự c hi ệ n Chiến lược ph á t triển thủy sản, chưa đầy 3 năm thực hiện

Chương trình quốc gia phát triển khai thác thủy sản hiệu quả, bền vững v à hơn 2 năm

th ự c hi ệ n Đề á n chuyển đổi nghề, ch í nh quyền c á c cấp, c á c th à nh phần kinh tế đ ã th ự c hi ệ n một số mô hình chuyển đổi sinh

kế tại c á c cộng đồng ngư dân ven biển.

Một số mô hình đã phát huy hiệu quả, tạo hiệu ứng, thu hút được sự tham gia của cộng đồng như tại Quảng Ninh, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, Kiên Giang... Đây cũng là cơ sở để các địa phương học hỏi, tham khảo. Điểm nghẽn cần tháo gỡ Để phát triển thủy sản thành ngành kinh tế quan trọng, bền vững và chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, trong Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 do Chính phủ ban hành nêu rõ 3 trụ cột quan trọng: “Giảm khai thác, tăng nuôi trồng và đẩy mạnh bảo tồn biển, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản”.

Rong mơ tại làng chài xã Nhơn Hải (thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định) phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho các loài thủy sản sinh sống, góp phần đa dạng hệ sinh thái biển.

Ảnh: Nguyễn Phan Dũng Nhân

Tuy nhiên, thự c tế cho thấy, chính sách giảm khai thác (giảm tàu cá) chưa đư ợc thự c hiệ n nghiêm túc, hiệ u quả. Việ c triển khai thự c hiệ n Đề án chuyển đổi nghề, c ắt giảm tàu cá t ại các đ ịa phương thời gian qua chưa được quan tâm đúng mức. Số lượng tàu khai thác được chuyển đổi nghề còn rất thấp. Một số mô hình chuyển đổi nghề đã được triển khai thực hiện nhưng hiệu quả chưa cao, thậm chí có mô hình đã thất bại sau một thời gian triển khai thí điểm.

Nguyên nhân chủ yếu là do phương thức chuyển đổi nghề, cơ chế chính sách của từng địa phương chưa đầy đủ, chưa phù hợp với thực tiễn, dẫn đến hiệu quả chuyển đổi nghề trong khai thác hải sản, đặc biệt các nghề khai thác ven bờ triển khai còn chậm.

Trong khi đó, phát triển ngành nuôi biển hiện nay cũng đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Có thể kể tới một số trở ngại dẫn tới điều này như hạn chế về quy định pháp lý, quy hoạch, hạ tầng, thiếu nguồn nhân lự c có tay nghề cao, thiếu chính sách thu hút, khuyến khích c ộng đồng ngư dân khai thác thủ y sản chuyển sang nghề nuôi trồng và dịch v ụ nuôi trồng thủ y sản trên biển...

Không chỉ vậy, công tác bảo tồn biển vẫn còn nhiều tồn t ại. Diệ n tích mặt nư ớc tự nhiên đư ợc bảo tồn hiệ n nay còn rất thấp so với mục tiêu đề ra (6%) tại Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam.

Phát biểu tại Hội nghị “Định hướng phát triển khai thác thủy sản hiệu quả bền vững và có trách nhiệm” tổ chức ngày 11/4 tại Thanh Hóa, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến thẳng thắn nhìn nhận, nuôi trồng thủy sản trong nhiều năm qua đã phát triển,

Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, t ầm nhìn đến năm 2045, đã nêu rõ một số nhiệm vụ quan trọng. Trong đó, tổ chức lại hoạt động khai thác hải sản theo hướng giảm khai thác gần bờ, đẩy mạnh khai thác tại các vùng biển xa bờ và viễn dương phù hợp với từng vùng biển và khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển đi đôi với thực hiện đồng bộ, có hiệu quả công tác đào tạo, chuyển đổi nghề cho ngư dân.

nhưng lợi thế của chúng ta còn

rất nhiều, tiềm năng nuôi thủy sản hồ chứa vẫn còn chưa được khai thác đúng mức.

Đặc biệt, Thứ trưởng cũng

chỉ ra vấn đề tồn tại ở nhiều địa phương hiện nay đó là công tác

đăng ký, đăng kiểm tàu cá, lắp

đặt thiết bị giám sát hành trình, chống khai thác IUU... còn yếu và chưa đồng bộ.

Giải pháp chiến lược

Để ngành thủy sản phát triển

bền vững trong thời gian tới, Thứ

trưởng Phùng Đức Tiến nhấn

mạnh 3 trụ cột chính, gồm: Giảm

khai thác, tăng nuôi trồng và đẩy

mạnh bảo tồn biển, bảo vệ và

phát triển nguồn lợi thuỷ sản.

Thứ trưởng chỉ rõ: “Việc khai

thác thủy sản phải gắn chặt với công tác chống IUU, trong đó

chú trọng thực hiện đăng ký, đăng kiểm tàu cá, thiết bị giám sát hành trình; truy xuất nguồn gốc sản phẩm, đồng thời cần tập trung rà soát lại cơ cấu đội tàu, cơ cấu nghề khai thác.

Tăng cường nuôi biển, đổi mới khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ bảo quản sau thu hoạch, góp phần nâng cao giá trị và tăng tính cạnh tranh của sản

phẩm trên thị trường”.

Trước những thách thức của

ngành thủy sản, Cục trưởng Cục

Thủy sản và Kiểm ngư Trần Đình

Luân cho rằng, giảm tàu khai thác ven bờ và thúc đẩy nuôi

trồng là con đường tất yếu để bảo vệ nguồn lợi biển và phát

triển sinh kế bền vững.

Được biết, hiện nay, Cục Thủy sản và Kiểm ngư đang phối hợp

cùng một số đơn vị tập huấn kỹ

năng nuôi biển cho ngư dân tại một số địa phương. Người đứng đầu ngành thủy sản cho rằng, chỉ khi có đội ngũ chuyên gia kỹ thuật nuôi biển lành nghề thì thực hiện mục tiêu nuôi biển mới hiệu quả. Từ việc hướng dẫn người dân nuôi con gì cho phù hợp cho tới việc phát triển mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước và quốc tế. Một khi đời sống của người dân được cải thiện thì họ sẽ không nghĩ đến việc khai thác hủy diệt.

“Mỗi địa phương sẽ có cách làm riêng và mục tiêu cuối cùng là làm thế nào để người dân được hưởng lợi, không phải rời bỏ quê hương. Hiện nay ở các địa phương đã có một số mô hình phát triển nuôi trồng thủy sản hay, hiệu quả. Tuy nhiên, để nhân rộng cần có sự chung tay của lãnh đạo địa phương cũng như cộng đồng để cùng xây dựng những ngôi làng ven biển thực sự trở thành nơi đáng sống”, ông Luân chia sẻ.

Muốn xanh

khoa học công nghệ

VietShrimp 2025 đã khép lại, nhưng

dư âm từ 4 phiên hội thảo với các

tham luận chuyên sâu về định

hướng, giải pháp, đặc biệt là các

giải pháp về công nghệ số, công

nghệ sinh học… chắc chắn sẽ còn

tiếp tục lan tỏa đến các mắt xích

trong chuỗi giá trị ngành tôm.

Tất cả đã và đang kết nối với nhau

để đi cùng nhau trên hành trình đưa ngành tôm phát triển ổn định, hiệu quả, bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu và phù hợp với xu thế sản xuất, tiêu dùng xanh quốc tế.

Xanh hóa và vai trò chính sách

Đây là điều cần thiết, nếu không muốn nói là rất quan trọng cho mục tiêu xanh hóa ngành tôm như chủ đề của phiên hội thảo đầu tiên. Không phải đợi đến bây giờ, mà ngay từ những năm 2021, Chính phủ, Bộ NN&PTNT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã có những văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về phát triển thủy sản xanh. Gần đây nhất, phải kể đến Quyết định 540/QĐ-TTg, ngày 19/6/2024, về việc phê duyệt Đề án Phát triển KHCN và ứng dụng chuyển giao công nghệ thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp đến năm 2030. Cùng với đó là các dự án có liên quan như: “Dự án Cải thiện hệ thống tuần hoàn nước phục vụ nuôi trồng thủy sản bền vững”; “Dự án Thúc đẩy thực hiện quản lý rừng bền vững

và Bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam”; “Dự án Cộng đồng ven biển thông minh thích ứng biến đổi khí hậu tại Việt Nam”…

Trong đó, nhấn mạnh nhiệm vụ nghiên cứu, chuyển giao và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sản xuất thức ăn thủy sản, các sản phẩm dinh dưỡng bổ sung thức ăn thủy sản từ phụ phẩm nông nghiệp, các chế phẩm sinh học xử lý môi trường nuôi; quy trình công nghệ nuôi tuần hoàn nguồn nước, không chất thải; quy trình thu gom, xử lý tái sử dụng nước nuôi khép kín, xử lý bùn thải, nước thải trong nuôi trồng thủy sản; công nghệ tái chế, sử dụng phụ phẩm trong ngành tôm thành các sản phẩm giá trị gia tăng… Chuyển giao các công nghệ trong lĩnh vực thủy sản: Công nghệ tái chế, sử dụng phụ phẩm trong ngành sản xuất tôm (vỏ tôm, râu tôm, nước thải, bùn thải) thành các sản phẩm giá trị gia tăng như Chitin, Chitosan, Peptide, axit amin, thực phẩm (dầu tôm, bột tôm), thức ăn chăn nuôi, phân bón, năng lượng tái tạo. Theo đại diện Công ty Cổ phần Thủy sản Minh Phú, muốn xanh hóa vùng nuôi phải

thực hiện xanh hóa cả chuỗi quy trình nuôi, từ con giống cho đến chế phẩm sinh học, thức ăn, chất xử lý môi trường… Điều này đã và đang được Minh Phú triển khai thực hiện cho kết quả ban đầu khá khả quan bằng mô hình MPBio không cắt mắt tôm bố mẹ, không sử dụng clorin trong xử lý nước, nuôi với mật độ thấp… để đảm bảo sức tải môi trường. Ông Ngô Tiến Chương thuộc Tổ chức GIZ đề xuất rằng, để tạo động lực thúc đẩy phát triển bền vững ngành thủy sản cần có cơ chế, chính sách cho hợp tác công tư (PPP). Cũng theo ông Chương, chúng ta đã xác định mô hình tôm – lúa, tôm – rừng là rất phù hợp chiến lược phát triển xanh, nhưng vấn đề là muốn tăng thu nhập cho người nuôi thông qua việc tăng năng suất thì mật độ thả nuôi bao nhiều là vừa, đồng thời nếu muốn tăng mật độ thả nuôi lên thì giải pháp bổ sung thức ăn như thế nào để đảm bảo môi trường…

Con giống, thức ăn và bài toán chi phí Một trong những thách thức lớn nhất của ngành tôm trên con đường xanh hóa hiện

nay là làm sao giải được bài toán chi phí, giá thành trong nuôi tôm. Những năm gần đây, tuy ngành tôm luôn có sự tăng trưởng cả về sản lượng lẫn kim ngạch xuất khẩu, nhưng lợi nhuận của người nuôi ngày càng teo tóp lại, thậm chí nhiều hộ thua lỗ. Nguyên nhân có nhiều, nhưng theo người nuôi thì chủ yếu đến từ yếu tố con giống và môi trường. Chính con giống chất lượng không ổn định, môi trường nuôi ngày càng ô nhiễm và cùng với đó là thời tiết thất thường làm phát sinh dịch bệnh gây thiệt hại tôm nuôi. Tuy nhiên, vấn đề không hẳn như vậy, bởi vẫn có những trang trại, hộ nuôi thành công với mức lợi nhuận khá cao. Liên quan đến vấn đề tôm giống và dịch bệnh, theo TS. Nguyễn Duy Hòa, các trại giống và farm nuôi giai đoạn gièo cần kiểm soát tốt bệnh TPD với bộ giải pháp đầy đủ, bao gồm: Acid hữu cơ phối hợp Bacillus sp đối kháng tốt Vibrio paraheamolyticus; Vitamine và nhóm chống strees; Giải độc vi khuẩn… Đồng thời sử dụng thức ăn có độ đạm cao nhưng liều lượng ít lại để rút ngắn thời gian nuôi, giảm rủi ro. Cũng có ý kiến cho rằng, đối với bệnh TPD chỉ có thể đánh chặn, bởi nếu để nó xảy ra rồi thì chỉ có nước thiệt hại vì TPD muốn phát hiện sớm cũng rất khó không khác gì chuyện 2 giờ vàng trong phòng chống bệnh đột quỵ. Mặt khác, tùy điều kiện, mục đích cụ thể mà người nuôi có thể chọn tôm giống dòng kháng bệnh hay dòng lớn nhanh để đảm bảo tính hiệu quả.

Ngành nuôi tôm tại Việt Nam đang chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ, với thức ăn đóng vai trò then chốt trong việc đảm bảo năng suất, giảm chi phí sản xuất, duy trì sức khỏe tôm và bảo vệ môi trường. Từ thức ăn tươi sống, thức ăn công nghiệp đến các giải pháp sinh học thân thiện môi trường, ngành thức ăn nuôi tôm đang không ngừng đổi mới để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Tuy nhiên, theo các diễn giả, tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) mới là chỉ số quan trọng đánh giá thành công của một vụ nuôi. Các mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh theo quy trình Grofarm (2024) cho thấy FCR dao động từ 1.08 đến 1.25 - 1.45, giúp tối ưu hóa dinh dưỡng và giảm giá thành sản xuất.

Đây là vấn đề rất quan trọng, bởi theo các nhà khoa học, chỉ khoảng 26,4 - 30% tổng đạm ăn vào được tôm tích lũy để tăng trưởng, phần còn lại phục vụ hoạt động sống hoặc thải ra môi trường, gây ô nhiễm nếu không được quản lý tốt. Thức ăn thừa có thể làm gia tăng Nitơ (>60%) và Phốt-pho (>85%) trong ao nuôi. Để giải quyết vấn đề này, Grobest và các doanh nghiệp khác cho biết đang nghiên cứu các giải pháp dinh dưỡng tối ưu, sử dụng vi sinh vật đối kháng để lên men thức ăn, giảm pH và tạo acid hữu cơ, từ đó tăng khả năng tiêu hóa và miễn dịch cho tôm. Việc định lượng thức ăn tự nhiên cũng được khuyến nghị để đảm bảo mật độ nuôi phù hợp, tránh lãng phí và ô nhiễm.

Những mảnh ghép hoàn hảo Theo đại diện Công ty DeHheus, thủy sản bền vững gồm nhiều yếu tố: Môi trường, trách nhiệm xã hội, kinh tế… Do đó, muốn giảm phát thải trong nuôi tôm cần quan tâm ngay từ các yếu tố đầu vào, bởi theo nghiên cứu các yếu tố này tạo ra đến 80% lượng phát thải trong quá trình nuôi tôm. Một trong số đó là nguồn đạm đến từ thức ăn cho tôm. Vì vậy, vị đại diện DeHeus đề xuất cần xác định trong chuỗi giá trị đạm động vật đâu là yếu tố then chốt để từ đó có giải pháp thay thế nhằm giảm nguồn đạm từ bột cá để giảm thải. Hay nói cách khác là tiến tới sản xuất thức ăn chuyên biệt cho mô hình nuôi tôm bền vững. Việc sử dụng bột côn trùng cũng là một giải pháp tốt giúp sản xuất bền vững và đạt tiêu chí xanh. “Chỉ cần thay thế một phần cân đối bột côn

trùng thì sẽ có hiệu quả kinh tế. Ấn Độ là quốc gia rất tiết kiệm chi phí trong nuôi tôm nhưng người nuôi cũng đã chấp nhận sản phẩm này của chúng tôi” – đại diện một công ty đến từ Ấn độ chia sẻ.

Cũng theo vị đại diện Công ty DeHeus, vấn đề quan trọng là thúc đẩy nguồn nhân lực, phát triển cộng đồng, chuyển giao kiến thức… để thúc đẩy sự phát triển của toàn chuỗi cung ứng bền vững (điện mặt trời, xa nâng chạy bằng điện, hạn chế sử dụng bao bì nhựa, quản lý toàn bộ quy trình sản phẩm để giảm phát thải carbon. Theo đó, phải xem hợp tác xã là một mắt xích quan trọng vì từng

mắc xích phải mạnh thì mới kết nối chặt chẽ, hiệu quả. Đây là bài học đắt giá từ thành công của mô hình hợp tác xã ở Hà Lan.

Công ty TNHH Khoa kỹ sinh vật Thăng

Long cho rằng, vấn đề cốt lõi không chỉ ở con giống tốt mà còn phải có mô hình nuôi tốt. Liên quan đến mô hình, Công ty Uni-President đem đến mô hình 3 tốt, như là một trong những giải pháp giúp đạt tỷ lệ thành công cao, giá thành thấp, lợi nhuận sẽ cao. Với phương châm là “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, nên dù chi phí có thể tăng thêm nhưng theo đại diện công ty này, tôm nuôi được đảm bảo an toàn hơn, tỷ lệ thành công sẽ cao hơn. Minh chứng cho nhận định trên là mô hình ao đất độ mặn thấp dù mật độ thả nuôi không cao nhưng bù lại sẽ có tỷ lệ sống cao, tôm nuôi được về cỡ lớn nên người nuôi sẽ có lợi nhuận cao, trong khi chi phí đầu tư thấp và luôn đảm bảo sức tải môi trường.

Làm thế nào để giảm nguy cơ nhiễm Vibrio là một vấn đề khá nóng được nhiều đại biểu quan tâm, bởi Vibrio rất khó kiểm soát do xuất hiện hầu hết trong môi trường tại các vùng nuôi. Chúng có nhiều chủng khác nhau, ngay cả trong một loài cũng có một vài biến thể trong quá trình tiến hóa, thích nghi, nên độc tính cũng rất khó đoán, khó phân biệt với những loài khác. Tuy nhiên, các ý kiến cũng cho rằng, Vibrio luôn có một hàm lượng cho phép trong môi trường ao nuôi và tùy tình huống mà có độ dung sai khác nhau. Khoáng chất chỉ là một mảnh ghép nhỏ trong hệ sinh thái ao nuôi nhưng có một vai trò rất quan trọng đối với toàn bộ hệ sinh thái này, đặc biệt là giúp nâng cao hệ miễn dịch cho tôm, thúc đẩy quá trình trao đổi chất… Hạt khoáng càng mịn thì bề mặt càng lớn, càng dễ cho vi sinh vật bám vào trở thành hạt nhân của bloc, nên sự khác biệt về kích thước cũng sẽ đưa đến khác biệt về hiệu quả. Do đó, theo đại diện Công ty Khoáng Vĩnh Hảo, sử dụng khoáng chất tự nhiên giúp quản lý hệ sinh thái tài nguyên bền vững, cho hiện tại và cho cả tương lai.

Ông Trần Công Khôi – Trưởng phòng quản lý Giống và Thức ăn thủy sản (Cục Thủy sản và Kiểm ngư) cho rằng, chúng ta đã có sự chuẩn bị tốt, nên bắt nhịp rất nhanh khi các tham luận đã có sự chuẩn bị công phu đi sâu vào các vấn đề của ngành. Điểm đáng chú ý là lần này các tham luận không đi sâu vào chi tiết kỹ thuật mà đi sâu vào công nghệ, đặc biệt là công nghệ chuyển đổi số, công nghệ sinh học và các công nghệ khác có tính kết nối với nhau. Đây có thể nói là bước chuẩn bị rất tốt của ngành và Ban Tổ chức. Sắp tới, các hội nghị về giống, quản lý dịch bệnh, thức ăn, xử lý môi trường… cũng sẽ được tổ chức theo mục tiêu phục vụ sản xuất năm 2025 và giai đoạn 5 năm 2026 - 230. Như vậy chuỗi đã khá là hoàn thiện từ: Giống thức ăn, quy trình nuôi, công nghệ nuôi, môi trường nuôi, dịch bệnh và chế biến. Hy vọng chúng ta sẽ đi cùng nhau, đi xa hơn trong giai đoạn tới đưa ngành tôm phát triển ổn định, hiệu quả, bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu và phù hợp với xu hướng phát triển xanh của thế giới.

VIETSHRIMP 2025

Điểm hội tụ tinh hoa

ngành

tôm Việt

Đúng như sự công bố từ năm trước, sáng ngày 26/3/2025 Hội chợ

Triển lãm Quốc tế Công nghệ ngành tôm Việt Nam năm 2025 với chủ

đề XANH HÓA VÙNG NUÔI, tưng bừng khai mạc tại Trung tâm Xúc tiến Đầu tư – Thương mại và Hội chợ Triển lãm Cần Thơ.

Không gian hội chợ vừa qua được

cho có quy mô lớn nhất so với

các lần trước đó, khi có khoảng

150 gian hàng từ trong và ngoài nước tham dự chiếm kín cả 5 sảnh hội chợ và

có khá nhiều gian hàng đến từ nước ngoài như các nước Bắc Âu, Tây Âu, Ấn Độ, Đài

Loan... Tôi đi hai vòng, ”điểm danh” các doanh nghiệp (DN) lớn hàng đầu các mắt xích chuỗi giá trị con tôm. Các DN cung ứng thức ăn, con giống, các loại chế phẩm nuôi, thuốc thú ý, hóa chất xử lý nước nuôi chiếm gần trọn không gian. Còn lại là các DN cung ứng các loại vật tư như các thiết bị phục vụ nuôi tôm, lưới nhựa, bạt…

Một số điểm nổi bật, theo góc nhìn của tôi là các DN tham gia đã nhận thức được chủ đề Hội chợ, nên nhiều gian hàng đã quảng bá các giải pháp xanh ứng dụng trong chăn nuôi nói chung, nuôi tôm nói riêng; các giải pháp tiến tới Net Zero…

Các DN tham gia đáp ứng nhanh nhu cầu bức xúc hiện nay là tôm nuôi bị dịch bệnh tấn công nặng nề nên có rất nhiều gian hàng trưng bày các chế phẩm phục vụ nuôi tôm khắc chế các dịch bệnh phổ biến. Và để ngăn chặn dịch bệnh từ đầu, có các gian hàng trưng bày các bộ kit xét nghiệm nhanh các dịch bệnh phổ biến như EHP, WSSV, AHPND. Các DN tham gia đáp ứng xu thế xanh, tuần hoàn và an toàn nên có trưng bày các sản phẩm thay thế kháng sinh; giải pháp xử lý nước thải; các nguồn

đạm từ côn trùng thay thế đạm cá… Các DN tham gia đáp ứng xu thế tự động hóa, kiểm soát toàn diện và nâng cao tính an toàn có hệ thống tự động hóa quy trình thu thập dữ liệu và phần mềm quản lý dữ liệu…

Tổng quan, Hội chợ Vietshrimp quy tụ hầu hết tinh hoa ngành tôm; trừ lĩnh vực chế biến. Cho nên, nếu có nhu cầu, kiên nhẫn khảo sát từng gian hàng sẽ thấy những cái mới, cái hay có thể là cơ hội mới cho người nuôi tôm. Hội chợ này có tiếng vang rất xa và tốt. Minh chứng như được rất nhiều nhà tài trợ; như các tạp chí thủy sản lớn châu Á tới dự để tìm thông tin, như các DN lớn các nơi trên thế giới tới tham gia gian hàng.

Cụ thể hơn, tại Hội chợ, tôi gặp người bạn, đang điều hành một DN chế biến và vùng nuôi từ Đà Nẵng bay vào, để có dịp học hỏi giải pháp xanh hóa vùng nuôi và các giải pháp kỹ thuật mới trong nuôi tôm. Rồi ngay sau đó, bất ngờ, tôi gặp cô giám đốc một DN trên TP. HCM xuống dự cùng các cộng sự. DN này là đối tác với một hệ thống phân phối thực phẩm hàng đầu bên Hoa Kỳ. Cô ta có mặt ở đây để có cơ hội hiểu

biết thêm về sự tiến bộ ngành nuôi tôm Việt cũng như các giải pháp xanh hóa vùng nuôi.

Bởi đây sẽ là một điểm cộng lớn cho ngành tôm

Việt nếu qua thông tin, phía hệ thống phân phối nêu trên cảm nhận được sự nỗ lực và thành quả của ngành nuôi chúng ta tiến tới cân bằng phát thải trên lộ trình phát triển bền vững của mình. Ngoài không gian đầy màu sắc và đông đảo khách nói trên, ở Hội chợ còn có 4 phiên hội

thảo với những chủ đề hết sức thiết thực và thời sự như Phát triển xanh hóa ngành nuôi tôm/ Nuôi tôm giảm phát thải/ Phát triển giá trị chuỗi cung ứng ngành tôm/ Tăng công nghệ, giảm chi phí trong nuôi tôm. Do không có nhiều thời gian, tôi chỉ dự Hội thảo đầu tiên. Cảm nhận là sự quan tâm chủ đề này khá tốt, hội trường không còn ghế trống. Tuy nhiên, theo suy nghĩ chủ quan, phần chăm lo của cơ quan chức năng đầy đủ rồi với rất nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn… Cái kỳ vọng là các giải pháp, hành động cụ thể, thiết thực, hiệu quả đã và đang diễn ra để học hỏi về áp dụng hoặc chỉnh sửa cái đang làm… Anh Nguyễn Việt Thắng, Chủ tịch Hội Thủy sản Việt Nam và anh Dương Xuân Hùng, Trưởng Ban biên tập Tạp chí Thủy sản Việt Nam là Trưởng ban và Phó ban tổ chức Hội chợ cũng rất quan tâm tới chất lượng các phiên hội thảo nên đã cố công mời rất nhiều chuyên gia làm diễn giả cho các phiên hội thảo. Hai anh đau đáu về tình hình nuôi tôm đang đối diện với quá nhiều khó khăn, người nuôi như đang lạc lõng không biết đâu là bến bờ! Hai anh bàn có nên tổ chức hội thảo xoay quanh con tôm, mà tham gia chính là các DN, hộ nuôi tôm lớn. Người trong cuộc sẽ nắm rõ các nút thắt để tập trung tháo gỡ, sẽ có kết quả thiết thực hơn.

Tôi ra về hơi sớm nên thực tình có sự luyến tiếc, bởi còn thời gian ở đây sẽ có dịp nhận thêm thông tin mới, bổ ích từ các phiên hội thảo; sẽ có dịp gặp thêm nhiều người quen từ các lĩnh vực liên quan con tôm, sẽ có thêm những thông tin quý báu khác. Từ đó, nâng thêm hiểu biết cho mình. Nhưng rõ ràng, tuy chỉ hơn ba tiếng đồng hồ ở Hội chợ tôi đã có thêm nhiều hiểu biết tình hình, xu thế ngành tôm nhà. VietShrimp 2025 với chủ đề thời sự, thiết thực, thật sự đem lại nhiều lợi ích cho ngành tôm ta. VietShrimp qua đó ngày càng được sự quan tâm đông đảo hơn. Để đáp ứng, để khẳng định vị thế… VietShrimp 2026 sẽ được tổ chức ở TP. HCM, cũng trong tháng 3 thường lệ.

TS. Hồ Quốc Lực

Công ty WMW Không

Là một trong những đơn vị tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu và phân phối nguồn nguyên liệu

sạch ngành chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam, Công ty TNHH Xuất nhập khẩu WMW

cam kết không ngừng đổi mới để cung cấp những giải pháp tiên tiến nhất, hướng đến sự bền vững trong mọi hoạt động.

Trong khuôn khổ Hội chợ Triển lãm

Quốc tế công nghệ ngành tôm Việt

Nam lần thứ 6 năm 2025, phóng viên

Tạp chí Thủy sản Việt Nam đã có cuộc trao đổi nhanh với ông Phan Công Minh Triết, Giám đốc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu WMW.

Phóng viên: WMW đã có những bước tiến mạnh mẽ chỉ sau 2 năm thành lập và trở thành một trong những công ty tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu và phân phối nguồn nguyên liệu sạch. Ông có thể chia sẻ về quá trình hình thành và phát triển của công ty?

Ông Phan Công Minh Triết: Công ty TNHH Xuất Nhập Khẩu WMW thành lập và hoạt

động từ năm 2023, có sứ mệnh cung cấp nguồn nguyên liệu sạch trong ngành chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Với sự tâm huyết và nỗ lực không ngừng, chúng tôi luôn cố gắng nghiên cứu chuyên sâu về chất lượng sản phẩm, tìm kiếm và chọn lọc sản phẩm chất lượng, tạo mối quan hệ bền vững với các đối tác lớn trên thế giới, mang lại sản phẩm chất lượng cao, tạo chuỗi cung ứng cho thị

trường và khách hàng.

Với phương châm không ngừng đổi mới, chúng tôi tin rằng sẽ mang lại thành công bền vững cho cả

doanh nghiệp và cộng đồng người nuôi thủy sản

Đến nay, công ty chúng tôi tự hào là một thương hiệu uy tín trong lĩnh vực nhập khẩu và phân phối các mặt hàng nguồn nguyên liệu sạch, chất lượng, đa dạng và ổn định đến từ nhiều đối tác trên thế giới.

Đặc biệt, công ty tập trung vào việc tạo ra các sản phẩm phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng tại Việt Nam dựa trên dữ liệu thu thập thực tế từ người nuôi. Qua nỗ lực nghiên cứu, chúng tôi đã thành công trong việc phát triển các sản phẩm vi sinh và enzyme có tính hiệu quả cao, đáp ứng nhu cầu của người nuôi và đối tác.

Phóng viên: Việc lựa chọn sản phẩm kinh doanh và xây dựng thương hiệu uy tín là yếu tố then chốt cho sự thành công. Ông có thể chia sẻ lý do tại sao ông lại chọn khởi nghiệp trong lĩnh vực này?

Ông Phan Công Minh Triết: Một thách thức lớn trong ngành thủy sản tại Việt nam hiện nay là sự phụ thuộc quá nhiều vào kháng sinh. Lạm dụng kháng sinh không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe và phát triển của tôm nuôi, mà còn tác động đến mặt kinh tế và vấn đề thương mại

sản tập trung vào các sản phẩm tốt cho sức khỏe, sản phẩm thân thiện môi trường. Vì vậy, chúng tôi quyết định khởi nghiệp trong lĩnh vực này với mong muốn mang đến những sản phẩm chất lượng cao, an toàn và bền vững cho thủy sản, môi trường và xã hội. WMW chủ động giải quyết vấn đề này bằng cách nghiên cứu, tìm kiếm các giải pháp sinh học an toàn và thân thiện với môi trường. Chúng tôi cung cấp các sản phẩm enzyme và probiotic tiên tiến (bao gồm cả dòng đơn và đa chủng), giúp nâng cao hiệu quả nuôi trồng mà không gây tác động tiêu cực đến hệ sinh thái. Đặc biệt, các sản phẩm có nguồn gốc từ thảo dược thiên nhiên được phát triển dựa trên công nghệ tiêu chuẩn châu Âu và nguyên liệu thực vật tuyển chọn từ Trung Quốc. Những giải pháp này không chỉ giảm thiểu sự phụ thuộc kháng sinh mà còn cải thiện chất lượng sản phẩm đầu ra, tối ưu hóa hiệu suất nuôi và đảm bảo tính bền vững của ngành thủy sản.

Phóng viên: Các sản phẩm nổi bật của WMW hiện nay là gì, thưa ông?

Ông Phan Công Minh Triết: Với sự chú trọng vào việc phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao, đầu tư vào thiết bị hiện đại và hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn

ISO 9001:2015, chúng tôi cam kết mang đến các sản phẩm chất lượng cao và ổn định cho người nuôi và đối tác. Một số sản phẩm tiêu biểu có thể kể đến như:

Aromar: Sản phẩm thảo dược chiết xuất từ rau diếp xoăn, tỏi, quế cassia, húng tây, kết hợp với axit hữu cơ và chất kết dính độc tố nấm mốc. Aromar giúp cải thiện sự hấp thụ dinh dưỡng và tăng cường miễn dịch cho vật nuôi, đồng thời ngăn ngừa các bệnh thường gặp như lỏng ruột, phân trắng.

PhytoAqua: Sản phẩm thảo dược chiết xuất từ tỏi, húng tây, chanh, cây xô thơm và bạch đàn, kết hợp với axit citric, axit lactic, Vitamin E và axit béo monoester. PhytoAqua hỗ trợ tăng sức khỏe đường ruột, tiêu diệt các vi khuẩn gây bệnh như EHP, EMS và thúc đẩy tăng trưởng cho vật nuôi.

PhytoGuard: Sản phẩm chứa tinh dầu từ sả, tràm, bạc hà ngô, được sử dụng để điều trị nhiễm trùng, ký sinh trùng và các tổn thương trên vật nuôi.

Phóng viên: Là một doanh nghiệp trẻ, nhưng WMW đã đạt được một số thành tựu

và dần khẳng định thương hiệu. Ông có thể

cho biết những yếu tố nào góp phần tạo nên sự thành công đó?

Ông Phan Công Minh Triết: Ngoài chất lượng sản phẩm đóng vai trò tiên quyết tạo nên thành công của WMW thì yếu tố không kém phần quan trọng đó chính là công ty sở hữu đội ngũ nhân sự đầy tận tâm và nhiệt huyết, có tầm nhìn xa. Chúng tôi đã không ngừng học hỏi, sáng tạo và liên tục cải tiến để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.

Tiếp theo là chiến lược tiếp thị sản phẩm hiệu quả. Nhờ đó, sản phẩm và thương hiệu của công ty mới có thể đến được với khách hàng, tạo sự ấn tượng ban đầu và hình thành lòng tin. Thêm một yếu tố khác, đó chính là công ty đã tạo được mối quan hệ hiệu quả, bền vững với các đối tác và khách hàng.

Phóng viên: Ông đã gặp phải những thách thức lớn nào khi bắt đầu khởi nghiệp?

Và ông đã vượt qua chúng ra sao?

Ông Phan Công Minh Triết: Khi đã quyết định khởi nghiệp, chắc chắn sẽ có những rủi ro cũng như thử thách, khó khăn đi kèm. Và với WMW cũng không ngoại lệ. Trong đó, thách thức lớn nhất chính là việc xây dựng lòng tin khách hàng, từ đó có thể tạo dựng

thương hiệu trước vô vàn đối thủ cạnh tranh.

Để xây dựng uy tín, việc cung cấp sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao là yếu tố hàng đầu. Vì vậy, chúng tôi đã không ngừng cố gắng, tập trung vào nâng cao chất lượng sản phẩm, thiết

lập các tiêu chuẩn chất lượng rõ ràng và thực hiện kiểm soát nghiêm ngặt từ khâu lựa chọn đối tác sản xuất, nhập khẩu, lưu kho đến phân phối. Các quy trình kiểm tra và giám sát chặt chẽ giúp đảm bảo rằng mỗi sản phẩm đến tay khách hàng đều đạt chất lượng tốt nhất.

Cùng với đó, công ty liên tục cải tiến và nâng cấp sản phẩm. Sự đổi mới và cải tiến liên tục giúp công ty không chỉ đáp ứng mà còn vượt qua kỳ vọng của khách hàng. Bên cạnh đó, chất lượng dịch vụ cũng được chú trọng, việc lắng nghe phản hồi từ khách hàng và áp dụng những cải tiến mới sẽ giúp sản phẩm luôn phù hợp với nhu cầu thị trường, từ đó nâng cao lòng tin và sự hài lòng của khách hàng. Tại WMW, chúng tôi hiểu rằng sự tin tưởng của khách hàng là kết quả của một quá trình dài xây dựng và duy trì chất lượng, sự chuyên nghiệp và lòng tận tâm. Chúng tôi luôn đặt khách hàng vào trung tâm của mọi hoạt động,

lắng nghe và đáp ứng mọi nhu cầu của họ một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Chính nhờ sự kiên định với nguyên tắc này mà chúng tôi đã và đang tạo dựng được lòng tin vững chắc và sự hài lòng tuyệt đối từ khách hàng.

Phóng viên: Ông thấy rằng xu hướng tiêu dùng nguyên liệu sạch tại thị trường Việt Nam và quốc tế đang phát triển như thế nào? Công ty có kế hoạch gì trong tương lai để mở rộng nghiên cứu và cải thiện nguồn nguyên liệu sạch không?

Ông Phan Công Minh Triết: Hiện, xu hướng tiêu dùng nguyên liệu sạch tại thị trường Việt Nam và quốc tế đang phát triển. Người tiêu dùng ngày càng chú trọng đến sức khỏe, an toàn và tính bền vững. Công ty sẽ nắm bắt cơ hội này để phát triển nghiên cứu, kết nối thêm nhiều chuyên gia đầu ngành, các tổ chức, nhà máy lớn để cập nhật những công nghệ tiên tiến nhất trên thế giới, từ đó tạo chuỗi cung ứng sạch cho thị trường Việt Nam.

Cùng với đó, công ty tiếp tục mở rộng danh mục sản phẩm, đầu tư mạnh mẽ vào công nghệ và phát triển thêm nhiều giải pháp tối ưu, giúp nâng cao vị thế của ngành thủy sản trên bản đồ thế giới. Chúng tôi tin rằng, sự đổi mới không ngừng sẽ mang lại thành công bền vững cho cả doanh nghiệp và cộng đồng người nuôi thủy sản.

Chúng tôi cam kết duy trì sự ổn định và liên tục cải thiện chất lượng sản phẩm cũng như mẫu mã, nhằm mang lại sự hài lòng tối đa cho khách hàng và đối tác.

Phóng viên: Ông đánh giá như thế nào về VietShrimp 2025?

Ông Phan Công Minh Triết: Đây là lần đầu tiên WMW tham dự VietShrimp. Chúng tôi thật sự ấn tượng với hội chợ lần này, công tác tổ chức chuyên nghiệp, lượng khách tham quan khá đông và đặc biệt, có rất nhiều khách quan tâm đến vấn đề nguyên liệu sạch trong thủy sản. Hội chợ là cơ hội lớn để chúng tôi có thể trao đổi, chia sẻ những kiến thức, vấn đề lớn trong ngành. Thông qua đó, chúng tôi có thể mở rộng phạm vi tiếp cận, đảm bảo các cơ hội hợp tác mới và tăng lợi nhuận.

Trân trọng cảm ơn ông!

Kim Tiến (Thực hiện)

TẬP ĐOÀN VIỆT ÚC

SỰ THÀNH CÔNG CỦA KHÁCH

Đây là chia sẻ của ông Nguyễn Công Cẩn, Phó Tổng Giám đốc Kỹ thuật Tập đoàn Việt Úc, đồng thời là lời

khẳng định của Tập đoàn Việt Úc trong hành trình lập nghiệp tại thị trường Việt Nam. Đó có lẽ là chỉ dẫn tạo

nên thành công của của Tập đoàn ngày hôm nay.

LÀ THÀNH CÔNG CỦA CHÚNG

Không phải là doanh nghiệp lâu đời nhất

đặt chân tại thị trường

Việt Nam, nhưng lại là một trong những doanh nghiệp có vị trí vững chắc nhất và tăng tốc mạnh mẽ nhất trong lĩnh vực thủy sản, đặc biệt là mảng sản xuất tôm giống.

Phóng viên: Trong ngành thủy sản Việt Nam, Tập đoàn Việt Úc đã liên tục ghi dấu ấn ở nhiều lĩnh vực sản xuất, trở thành một trong những doanh nghiệp đầu tàu của ngành hàng tỷ đô này. Bí quyết làm nên thành công của Tập đoàn là gì, thưa ông?

Ông Nguyễn Công Cẩn: Trong hành trình hơn 20 năm qua, Việt Úc luôn đặt trọng tâm người nuôi tôm là quan trọng nhất, với phương châm sự thành công của khách hàng là thành công của chúng tôi. Vì vậy, toàn bộ đội ngũ của Việt Úc luôn luôn hướng

đến giải pháp làm sao ứng dụng những giải pháp tối ưu để đem

lại hiệu quả cho người nuôi. Đặc biệt nhất là về khoa học kỹ thuật và quy trình nuôi, chúng tôi đã hỗ trợ cho bà con để luôn có kết quả nuôi tốt trong 20 năm qua, đem lại sản phẩm tốt, đáp ứng sự khắt khe của thị trường.

Phóng viên: Vậy điều mà

Tập đoàn Việt Úc tâm đắc nhất trong hành trình phát triển

những năm qua là gì, thưa ông?

Ông Nguyễn Công Cẩn:

Thành tựu đặc biệt nhất của Việt

Úc có lẽ là sự chủ động hoàn

toàn trong các khâu sản xuất về

sản phẩm con tôm. Đầu tiên là

tôm bố mẹ, chúng tôi có những

công nghệ để lai tạo ra dòng tôm

bố mẹ thích nghi với môi trường.

Một ví dụ khá rõ ràng là trong đợt

Covid-19, chúng tôi chủ động

hoàn toàn nguồn tôm bố mẹ, đáp

ứng được sản xuất ở Việt Nam một cách hiệu quả. Cuối cùng là

đem lại chất lượng con tôm tốt, sản phẩm tôm Việt Nam được thị

trường thế giới chấp nhận.

Phóng viên: Vậy trong quá

trình nghiên cứu gia hóa tôm, ưu thế cũng như thuận lợi của

doanh nghiệp là gì và Tập đoàn

có gặp khó khăn gì không, thưa ông?

Ông Nguyễn Công Cẩn: Kể

đến hành trình làm được tôm bố mẹ thì chúng tôi cũng như những doanh nghiệp khác hay bất cứ chương trình gì thì đều là

quá trình tìm hiểu, học hỏi, đặc biệt nhất là giai đoạn đầu rất khó khăn.

Đầu tiên là phải hiểu được việc này như thế nào và phải chọn người ra sao để hiện được nhiệm vụ đó. Chúng tôi phải có đủ điều kiện về kinh tế để triển khai chương trình và triển khai một

cách ổn định, bền vững dài hạn

hơn mười mấy năm qua. Nhưng trong quá trình đó, quy định của nhà nước ở giai đoạn đầu có thể

là sự hỗ trợ và là động lực rất lớn

của chúng tôi. Mặc dù chưa thật

đầy đủ trong giai đoạn đầu tiên

của tôm bố mẹ nhưng Chính phủ

Việt Nam cũng có những hỗ trợ

và đưa lên những chính sách khá

thực tế. Và chúng tôi đã áp dụng

được để mang lại hiệu quả.

Thứ hai, chúng tôi còn gặp rào

cản trong khoa học kỹ thuật. Ví dụ

như trong rất nhiều công nghệ thì chúng tôi chọn công nghệ nào?

Những sàng lọc đó đều trải qua quá trình khá thách thức. Cuối

cùng, chúng tôi cũng đạt được thành công, chọn được công nghệ tiên tiến nhất để đem đến kết quả khá hoàn hảo của ngày hôm nay.

Phóng viên: Để có thể đẩy mạnh việc gia hóa tôm bố mẹ, kế hoạch sắp tới của doanh nghiệp là gì, thưa ông?

Ông Nguyễn Công Cẩn: Hiện nay, chúng tôi đã có những lộ

trình và cũng đang triển khai một số chương trình mới, đặc biệt nhất là chương trình cải thiện khả năng thích nghi của con tôm, tạo dựng được môi trường sản xuất ổn định hơn, xanh hơn cho người nuôi tôm trong thời gian tới.

Phóng viên: Ngoài thành công trong sản xuất con giống, nhiều năm qua, các mô hình nuôi tôm công nghệ cao của Việt Úc cũng góp phần quan trọng trong phát triển ngành tôm tại nhiều địa phương và cả nước. Ông có thể chia sẻ thêm với độc giả về điều này?

Ông Nguyễn Công Cẩn: Ngoài tôm bố mẹ, Việt Úc còn có quy trình nuôi tôm công nghệ cao, áp dụng khoa học công nghệ nuôi tiên tiến nhất trên thế giới hiện nay. Đặc biệt, chúng tôi hoàn toàn không sử dụng hóa chất, kháng sinh trong suốt quá trình nuôi. Đây cũng là một thách thức lớn về mặt quy trình của Việt Úc. Để thực hiện điều này, chúng tôi phải mời các chuyên gia có đủ khả năng để hiểu biết và tư vấn chúng tôi áp dụng được. Và kết quả tốt đẹp là chúng tôi có sự quản lý môi trường ổn định hơn, bền vững hơn trong quá trình nuôi. Khi làm được như vậy, chúng tôi lại chia sẻ thành quả và cách thức đó cho người nuôi tôm Việt Nam cũng như bạn bè và cộng đồng. Nó cũng là động lực, là điểm cộng, là sự tương tác qua lại để đem đến thành công chung của ngành tôm hiện tại.

Phóng viên: Với cam kết nuôi tôm không kháng sinh, sản phẩm tôm Việt Úc được định vị như thế nào trên thị trường, thưa ông?

Ông Nguyễn Công Cẩn: Về mặt quy trình nuôi, mỗi người có giải pháp khác nhau, có thể xử lý theo cách này hay cách khác, nhưng với Việt Úc thì chúng tôi

Ông Nguyễn Công Cẩn, Phó Tổng Giám đốc Kỹ thuật Tập

chọn định hướng sinh học hoàn toàn, sử dụng vi sinh xử lý môi trường, tạo môi trường tốt cho con tôm, nhất là không dùng kháng sinh. Và như thế, đầu vào sản xuất của chúng tôi là an toàn, đầu ra con tôm an toàn theo tiêu chuẩn cao nhất của thế giới hiện tại. Đặc biệt, những chất có nguy cơ tồn lưu ảnh hưởng tới sức khỏe con người đều được chúng tôi loại bỏ ngay từ ban đầu. Đây là lợi thế rất lớn cho sản phẩm tôm Việt Úc tại những thị trường khắt khe, khó tính.

Phóng viên: Để ngành thủy

sản Việt Nam có thể phát triển

hiệu quả và bền vững, phù hợp với xu hướng “sản xuất xanh”, quan điểm của Việt Úc về vấn

đề này như thế nào, thưa ông?

Ông Nguyễn Công Cẩn: Đối

với Việt Úc, chúng tôi hướng đến

chuỗi giá trị toàn ngành, nên

từng phân khúc đều có sự đầu tư nghiên cứu, đặc biệt tạo ra môi trường sản xuất “xanh”. Vì vậy, nên các quy trình sản xuất của chúng

tôi luôn hướng đến cách thức sản xuất bền vững. Điều này tạo ra sự

ổn định của Việt Úc nói riêng và của ngành tôm trong tương lai.

Đối với ngành, theo tôi đầu tiên là hành lang pháp lý, những quy

định của nhà nước vẫn luôn hỗ trợ

tích cực để ngành có một không gian nhằm phát triển an toàn. Từ

sản xuất xanh sẽ giúp các doanh nghiệp đi theo hướng bền vững.

Đối với từng doanh nghiệp phải

thật sự đầu tư, nghiên cứu khoa

học một cách nghiêm túc để có

thể ứng phó với sự biến đổi của

môi trường.

Hiện nay, Việt Úc có khá nhiều

chương trình đồng hành với bà

con. Chẳng hạn như, con giống

của Việt Úc đưa ra thị trường

luôn có đội ngũ tư vấn quy trình

đoàn Việt Úc: Với Việt Úc, chúng tôi cũng có nhiều sản phẩm đưa ra thị trường và đóng góp quan trọng cho thành quả của người nuôi. Đầu tiên có thể kể đến là tôm bố mẹ của Việt Úc mà chúng tôi lai tạo và chọn ra được những thế hệ vượt trội, sản xuất được con giống chất lượng để đem lại thành công cho người nuôi. Chúng tôi có farm nuôi, có nhà máy thức ăn, cũng như nhà máy chế biến để tạo ra sản phẩm tôm thương phẩm chế biến để

đến bàn ăn người tiêu dùng.

nuôi, hỗ trợ cách thức từng ao hồ, rồi đến quá trình chăm sóc cũng như các thao tác về an toàn sinh học. Sắp tới, Việt Úc dự kiến

cùng bà con xây dựng tiêu chuẩn của con tôm tại farm nuôi đạt chất lượng như mong muốn của nhà máy chế biến, xuất khẩu.

Phóng viên: Đến Hội chợ

Triển lãm VietShrimp năm nay với vai trò là nhà tài trợ kim cương, ông có nhận xét gì về không khí tại triển lãm?

Ông Nguyễn Công Cẩn: Đến

với VietShrimp năm nay tôi nhận

thấy có nhiều doanh nghiệp lớn tham gia, đem đến những công nghệ mới phục vụ cho ngành tôm. Đến giai đoạn này tôi có thể nhìn ra được là những doanh nghiệp trong ngành thủy sản đã thực sự đầu tư rất nhiều trong lĩnh vực khoa học công nghệ, đem lại sự bền vững cho ngành tôm.

Trân trọng cảm ơn ông!

RONG NHO

Hướng đi tiềm năng của người dân ven biển

Cây rong nho không chỉ mang lại giá trị kinh tế cao mà còn có khả năng cải tạo môi trường nước tại vùng nuôi. Tại nhiều địa phương ven biển, mô hình trồng rong nho đang được đẩy mạnh phát triển, trở thành đối tượng sản xuất mới của ngư dân.

Phát triển tiềm năng, lợi thế

Tận dụng lợi thế về điều kiện tự nhiên, tỉnh Khánh Hòa đã đẩy mạnh các mô hình trồng rong nho tại nhiều địa phương, trong đó tập trung chủ yếu tại phường Ninh Hải (thị xã Ninh Hòa).

Ông Đặng Ngọc Thoại - Tổ trưởng Tổ hợp tác trồng rong nho Ninh Hải cho biết, tổ hợp tác hiện có gần 30 ha trồng rong nho.

Trước đây, các thành viên của tổ hợp tác nuôi tôm, nuôi ốc hương, làm muối, tuy nhiên, khi những đối tượng nuôi cũ không mang lại hiệu quả kinh tế như mong muốn, các hộ đã chuyển sang trồng rong nho.

Cũng theo ông Thoại, trồng rong không khó, nhưng đòi hỏi thời tiết nắng ấm, điều kiện môi trường nuôi phải sạch. Chi phí đầu tư của nghề trồng rong nho cũng thấp hơn so với các nghề nuôi trồng thủy sản khác, trung bình khoảng 200 triệu đồng/ha (sử dụng khoảng 3 - 5 năm), cho thu hoạch khoảng 30 tấn rong tươi/năm. Với giá bán như hiện tại trên thị trường thì người dân có lãi khá. Không chỉ vậy, nghề này còn tạo việc làm ổn định cho nhiều lao động thu hoạch rong nho với thu nhập 300.000500.000 đồng/người/ngày.

Với sự phát triển mạnh của mô hình này, phường Ninh Hải đã trở thành “thủ phủ” rong nho của tỉnh Khánh Hòa, diện tích đạt hơn 60 ha, sản lượng hơn 600 tấn/năm. Đây cũng là vùng trồng rong nho nguyên liệu chất lượng cao của nhiều doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu rong nho.

Sản phẩm rong nho của tỉnh Khánh Hòa chủ yếu xuất khẩu (trên 70% sản lượng rong nho của tỉnh) sang các thị trường như Nhật Bản, Mỹ, châu Âu…, số lượng còn lại tiêu thụ nội địa.

Đa dạng hóa sản xuất của

ngư dân

Tỉnh Ninh Thuận có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho rong nho

phát triển. Chính vì thế, bên cạnh nghề khai thác rong tự nhiên, nhiều hộ dân trên địa bàn tỉnh

đã nhân rộng mô hình trồng rong nho tại các ao, đầm ven biển. Rong nho cho giá trị kinh tế cao nên đã mở ra nhiều triển vọng mới trong việc đa dạng hóa sản xuất và nâng cao thu nhập cho người dân địa phương.

Xã Cà Ná, huyện Thuận Nam

được đánh giá là nơi lý tưởng

để rong nho sinh trưởng và phát triển. Hiện, tại địa phương đã phát triển nhiều mô hình trồng rong nho quy mô lớn theo hướng liên kết sản xuất.

Ông Lê Xuân Trọng, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Cà Ná, huyện Thuận Nam, cho biết, tại xã Cà Nà, trồng rong nho đang là một mô hình mới để phát triển kinh tế địa phương, đồng thời người dân còn có thể tận dụng

triệt để các diện tích ao, đầm

trên địa bàn.

Theo chia sẻ của người dân tham gia mô hình, rong nho dễ trồng, chỉ cần đảm bảo nguồn nước sạch và độ mặn ổn định

28 - 35‰. Sau khoảng 60 ngày cấy giống, rong đạt chiều dài thu hoạch và có thể khai thác liên tục. Sản phẩm rong nho tươi hiện

có giá bán từ 45.000 - 65.000

đồng/kg, rong nho tách nước từ

120.000 - 180.000 đồng/kg. Sản phẩm rong nho có thể chế biến thành nhiều sản phẩm đa dạng

như: rong tươi, rong khô, sốt mè, bột, gia vị… được thị trường rất

ưa chuộng.

Xã Cà Ná đang kiến nghị các

cơ quan chức năng có chính sách hỗ trợ để nhân rộng mô

hình trồng rong nho nhằm đẩy

mạnh phát triển kinh tế của địa phương.

Triển vọng phát triển tại

miền Bắc

Năm 2024, đề tài “Nghiên

cứ u hoàn thiện quy trình trồng rong nho (Caulerpa lentillifera J. Agardh) thương phẩm tại Hải

Phòng” được nghiệm thu.

Theo báo cáo, nhóm nghiên cứ u đã thử nghiệm mô hình trồng rong nho bằng giàn nổi nuôi thủ y s ản tại Cát Bà và mô

hình trồng trong ao đất t ại trại bào ngư huyện Bạch Long Vĩ. Rong đư ợc trồng với mật độ 800 g/m2, độ sâu 80 cm đối với trồng giàn nổi và 110 cm đối với trồng ao đất. Kết quả thực nghiệm cho thấy rong nho phù hợp với điều kiện tự nhiên tại vùng biển Hải Phòng. Với tốc độ tăng trưởng của rong lên đến trên 3%/ngày, tỷ lệ thể quả thân đứng là rất lớn, nhiều thể quả ghi nhận dài đến trên 10 cm. Khối lượng thể quả thu được là 1,878 kg/m2 với tỷ lệ rong thành phẩm là 70,79% ngày thứ 40 tại Cát Bà và 1,1 kg/m2 với tỷ lệ 61,4% thành phẩm tại Bạch Long Vĩ. S ản phẩm rong thành phẩm thu từ các hình thức nuôi tại Hải Phòng đều đạt chỉ tiêu về cảm quan đối với rong thương phẩm, đảm bảo các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm và các chỉ tiêu theo quy định hiện hành. Trên cơ sở kế t quả thự c nghiệm, đề tài đã xây dựng được quy trình trồng rong nho hoàn thiện phù hợp với đặc điểm khu vực biển đảo thành phố Hải Phòng. Mặc dù tiềm năng lớn và hứa hẹn giá trị kinh tế cao, tuy nhiên, để phát triển bền vững nghề trồng rong nho cần tạo được đầu ra ổn định cho sản phẩm, tránh tình trạng được mùa, mất giá; nâng cao chất lượng rong nho để nâng cao giá bán. Cùng với đó, đầu tư cơ sở hạ tầng cho vùng trồng bài bản và thống nhất quy trình trồng rong đảm bảo tiêu chuẩn phục vụ xuất khẩu. Đặc biệt, xây dựng và mở rộng các vùng trồng đạt tiêu chuẩn VietGAP, đáp ứng các tiêu chuẩn của thị trường; hướng dẫn các doanh nghiệp, người dân xây dựng thương hiệu gắn với chỉ dẫn địa lý, tăng cường công tác quảng bá thương hiệu cho sản phẩm rong nho…

Giải bài toán nhiễm khuẩn

trên cá biển

Những năm gần đây, nghề nuôi cá biển đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ về diện tích nuôi và sản lượng ở Việt Nam. Tuy nhiên, sự phát triển mô hình nuôi thâm canh, mật độ cao kết hợp với diễn biến thời tiết bất thường đã dẫn tới sự gia tăng dịch bệnh, gây thiệt hại

không nhỏ cho người nuôi, đặc biệt là các bệnh truyền nhiễm gây ra do vi khuẩn. Vì thế, bài viết này nhằm cung cấp những thông mới nhất về các bệnh nhiễm khuẩn phổ biến

trên cá biển cũng như biện pháp phòng ngừa và điều trị.

Các bệnh nhiễm khuẩn phổ biến trên cá biển

Đối với nhiều loài cá biển, đặc biệt là cá vược (Vandeputte et al. 2019), mắc bệnh tenacibaculosis có đặc trưng là các lở loét với tỷ lệ tử vong cao. Tenacibaculum maritimum là tác nhân chính gây ra căn bệnh này. Các triệu chứng lâm sàng bên ngoài có thể bao gồm thối đuôi, loét bề mặt cơ thịt và miệng và hoại tử vây (Mabrok et al. 2023).

Ngoài ra, một trong những bệnh nhiễm khuẩn phổ biến khác ảnh hưởng đến nhiều loài cá biển và động vật hai mảnh vỏ là bệnh vibriosis. Căn bệnh này có thể gây tử vong lên đến 50% và ảnh hưởng đến tất cả các giai đoạn phát triển của cá. Các triệu chứng bao gồm cá bơi lội lờ đờ, loét da, thối vây, chán ăn, xuất huyết và sung huyết ở gan, thận và lá lách (Mohamad et al. 2019). Khi ở giai đoạn nặng hơn, cá bị nhiễm trùng toàn thân có thể dẫn đến tử vong (Deng et al. 2020). Một số loài vi khuẩn thuộc họ Vibrionaceae gây ra bệnh này bao gồm Vibrio harveyi, Vibrio vulnificus, Vibrio parahaemolyticus, Vibrio alginolyticus, và Vibrio anguillarum

Bên cạnh đó, nhóm vi khuẩn Aeromonas spp, trong đó A.hydrophyla được xem là tác nhân gây bệnh phổ biến trên các loài cá biển, với các triệu chứng phổ biến bao gồm xuất huyết và chấm xuất huyết trên các cơ quan nội tạng và và bề mặt, lá lách to, chán ăn, và hoại tử mô kẽ của thận.

Giải pháp hiện tại

Hiện tại, kháng sinh được sử dụng phổ biến để điều trị các bệnh nhiễm khuẩn trong nuôi trồng thủy sản. Theo một nghiên cứu của Lulijwa và cộng sự (2020), 75% các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản sử dụng oxytetra cycline, florfenicol, and sulphadiazine, trong đó 55% sử dụng erythromycin, amoxicillin,

sulphadimethoxine, và enrofloxacin. Việc lạm dụng kháng sinh đã dẫn tới sự xuất hiện của các chủng vi khuẩn đa kháng thuốc, gây tác động tiêu cực đến an toàn thực phẩm và sức khỏe con người. Đối với ngành cá biển, nghiên cứu Griffin và cộng sự (2020) cho thấy 90% vi khuẩn gây bệnh trên cá biển là các chủng vi khuẩn đa kháng thuốc, 20% trong số đó là kháng ít nhất 1 loại kháng sinh trở lên. Những kết quả trên cho thấy, sử dụng kháng sinh không còn được xem là một giải pháp hiệu quả, và cần phải có những nghiên cứu, phát triển phương pháp điều trị mới để thay thế. Thể thực khuẩn được xem là một giải pháp tiềm năng trong việc điều trị bệnh nhiễm khuẩn. Thể thực khuẩn được xem là virus có khả năng ký sinh trên vi khuẩn. Thành phần chính của thể thực khuẩn là lõi protein, bên trong có chứa vật chất di truyền là DNA hoặc RNA. Hiệu quả của phương pháp này phụ thuộc vào số lượng, tần suất và phương pháp áp dụng. Nghiên cứu Silva và cộng sự cho thấy, độ mặn và hàm lượng vật chất hữu cơ trong nước có ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả điều trị của thể thực khuẩn. Theo đó, hiệu quả điều trị của thể thực khuẩn sẽ tỷ lệ thuận với nồng độ muối ở trong nước, điều này cho thấy phương pháp này khá phù hợp để áp dụng trong ngành nuôi cá biển.

Từ thập niên 1980s, vaccine đã được ứng dụng thành công trong ngành công nghiệp nuôi cá Hồi ở Na Uy, giảm 90% lượng kháng sinh sử dụng. Vaccine dùng trong thủy sản bao gồm: Vaccine sống giảm độc lực, vắc xin bất hoạt, DNA vaccine, vaccine tiểu đơn vị.

Hiện tại, chỉ có vaccine bất hoạt là được phép sử dụng rộng rãi và thương mại hóa thành công trong thủy sản. Tuy nhiên, việc phát triển một loại vaccine có khả năng phòng

được nhiều bệnh, giá cả phải chăng vẫn đang

Vibrio parahaemolyticus N/A > 96 μM (MIC) Qu et al. (2013) N/A

Edwardsiella ictaluri N/A N/A 25μM (MIC) Lu et al. (2011)

Flavobacterium columnare > 200 µg/ml (MIC) Simora et al. (2021) N/A

Streptococcus iniae N/A N/A > 100μM (MIC) Lu et al. (2011)

N/A: Không áp dụng

gặp nhiều khó khăn, bên cạnh đó tác dụng phụ của vaccine cũng là điều khiến người nuôi cân nhắc khi sử dụng.

Giải pháp tương lai

Peptide kháng khuẩn được xem là một thành phần của hệ miễn dịch tự nhiên của cá. Phần lớn các peptide kháng khuẩn có nguồn gốc từ động vật có và không có xương sống và sẽ hoạt động theo cơ chế không cần thụ thể. Ưu điểm của peptide kháng khuẩn có khả năng bảo vệ vật chủ chống lại nhiều mầm bệnh, duy trì hiệu quả trong điều kiện môi trường bất lợi, khả năng xảy ra hiện tượng kháng kháng khuẩn thấp. Có năm loại peptide kháng khuẩn phổ biến là Piscidins, Defensins, Hepcidines, Cathelicidins, and Histone.

Nhiều nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng probiotics, prebiotics and synbiotics giúp tăng tỷ lệ sống, tốc độ tăng trưởng, tăng cường khả năng miễn dịch ở nhiều loài cá biển. Probiotics là những vi khuẩn có lợi có khả năng tồn tại và phát triển trong đường ruột của cá, giúp ức chế các vi khuẩn có hại. Prebiotics là những chất xơ không tan, là nguồn thức ăn cho hệ vi khuẩn đường ruột. Vì thế, việc kết hợp sử dụng probiotic và prebiotic sẽ giúp tăng cường sức khỏe đường ruột, tối ưu hóa việc sử dụng thức ăn, qua đó giúp giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi nhuận của người nuôi.

Thảo dược từ lâu cũng được sử dụng rộng rãi trên nhiều đối tượng cá biển do những tác dụng tích cực như giảm stress, tăng cường hoạt động của enzyme protease, tiết ra các hợp chất kháng khuẩn giúp phòng và điều trị một số bệnh nhiễm khuẩn phổ biến.

Kết Luận

Bệnh nhiễm khuẩn là một vấn đề gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành nuôi cá biển. Hiện tại, kháng sinh vẫn là phương pháp điều trị phổ biến, tuy nhiên việc gia tăng các chủng vi khuẩn đa kháng thuốc, đòi hỏi cần phải có giải pháp điều trị phù hợp hơn. Việc sử dụng probiotics, prebiotics và thảo dược cũng mang lại những kết quả tích cực. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng tùy thuộc vào loài, giai đoạn phát triển, mầm bệnh, quy trình kỹ thuật cũng như các yếu tố môi trường.

Việt Nam

1. Hồ chứa nước đầu nguồn

2. Ao xử lý nước cấp

3. Trạm bơm

4. Hệ thống ao nuôi, mương cấp và thoát

5. Ao lắng bùn thải

6. Hệ thống lọc sinh học

Hình 1: Sơ đồ cấu trúc cơ sở hạ tầng mô hình nuôi tôm ít thay nước

Mô hình nuôi tôm ít thay nước(1)

hiện đang được áp dụng rộng

rãi tại nhiều tỉnh ven biển Việt

Nam như một giải pháp nuôi bền

vững, hiệu quả và dễ triển khai.

Nền tảng của mô hình là quy trình

kiểm soát chất lượng nước, bao

gồm xử lý nước đầu vào, duy trì

sự ổn định môi trường ao nuôi, và

xử lý nước thải. Các quy trình này

được hỗ trợ bởi hệ thống hạ tầng

và trang thiết bị kỹ thuật tương

đối hoàn chỉnh.

Cấu trúc cơ bản của mô hình nuôi tôm ít thay nước gồm:

1. Vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng và trang thiết bị a) vị trí địa lý và điều kiện môi trường; b) cơ sở hạ tầng: Hồ chứa nước, ao xử lý, ao nuôi, mương cấp thoát nước, cống thu gom bùn thải và hệ thống xử lý nước thải…(hình 01); c) trang thiết bị dụng cụ: Máy bơm, máy sục khí, máy đảo nước, máy hút bùn, bộ dụng cụ kiểm tra sinh học và chất lượng môi trường, máy tạo Ozon (xử lý nước)…

Tỷ lệ diện tích trong cơ cấu mặt bằng diện tích: Hồ chứa nước đầu nguồn: 15-20; ao nuôi 50-60; khu xử lý nước thải: 15-20 và diện tích phụ trợ: 5-10. Tuy vậy, tỷ lệ trên có thể thay đổi tùy thuộc vào hình thức, mật

độ nuôi. Nuôi mật độ thưa thì diện tích nuôi tăng, hồ chứa nước cấp, khu xử lý nước thải giảm và ngược lại.

2. Các quy trình cồng nghệ áp dụng

7. Ao trồng rong

8. Bãi chứa bùn thải

9. Rừng ngập mặn

2.2. Quy trình kiểm soát thức ăn

Kiểm soát chất lượng thức ăn và kỹ thuật cho ăn hợp lý trong nuôi tôm đóng vai trò quan trọng và trực tiếp ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng, hiệu quả sử dụng thức ăn (FCR). Một quy trình chặt chẽ bao gồm các bước từ kiểm soát đầu vào, bảo quản, kích thước thức ăn phù hợp cho từng giai đoạn, tần suất cho ăn và phương pháp và thời điểm cho ăn.

2.3. Quy trình quản lý và chăm sóc Quy trình quản lý và chăm sóc ao nuôi tôm phụ thuộc vào hình nuôi thâm canh, thâm canh hoặc nuôi công nghiệp, là một trong những yếu tố quyết định đến năng suất và hiệu quả kinh tế. Nó bao gồm từ các hoạt động: Chuẩn bị ao nuôi, xử lý, cấp nước và gây màu nước, thả giống, theo dõi các yếu tố môi trường, kỹ thuật thay nước và bổ sung nước, loại chất thải rắn, kiểm tra sinh học, kiểm tra sức khỏe tôm… 2.4. Quy trình kiểm soát chất lượng giống Kiểm soát

2.1 Quy trình công nghệ kiểm soát chất lượng nước: Xử lý nguồn nước cấp; duy trì sự ổn định môi trường trong ao nuôi; thu gom và xử lý bùn thải, nước thải; với sự hỗ trợ bởi hệ thống hạ tầng và trang thiết bị đồng bộ.

sức khỏe, di truyền và khả năng thích nghi

môi trường trước khi đưa vào ao nuôi, gồm: Kiểm tra nguồn gốc, đàn giống cùng bố

mẹ (2) và điều kiện của cơ sở sản xuất giống; phiếu kiểm dịch và xét nghiệm bệnh; đánh giá chất lượng ngoại hình, khả năng hoạt động và khả năng thích nghi với môi trường.

Kỹ thuật ương nâng cấp và thuần hóa giống. Xác định thời gian thả giống và kỹ thuật thả giống ra ao nuôi.

3. Nhân lực và cách bố trí

Yêu cầu về nhân lực và cách bố trí sắp xếp nguồn nhân lực trong một cơ sở nuôi tôm phụ thuộc vào quy mô trang trại, hình thức nuôi, mức độ tự động hóa, và quy trình kỹ thuật áp dụng. Dưới đây là một phân tích mang tính học thuật và thực tiễn: Quy mô nhỏ (1–2 ha) cần khoảng 3–5 người; trung bình (3–10 ha) cần 6–15 người; quy mô >10 ha cần tổ chức nhân sự theo mô hình phân cấp rõ ràng (quản lý – kỹ thuật – công nhân). Trong đó cần làm rõ chức năng nhiệm vụ của từng vị trí.

4. Hạch toán kinh tế Hạch toán kinh tế trong cơ sở nuôi tôm thương phẩm là một trong những yếu tố cần thiết để đánh giá hiệu quả sản xuất, kiểm soát chi phí, và đưa ra các quyết định quản lý phù hợp. Việc hạch toán kinh tế là điều kiện bắt buộc để đảm bảo tính bền vững và sinh lời. Trong đó chú ý đến việc theo dõi chi phí, doanh thu, lợi nhuận theo từng vụ nuôi hoặc chu kỳ sản xuất; đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn lực (đất đai, lao động, vốn, thức ăn…); phân tích điểm hòa vốn, suất đầu tư, và rủi ro kinh tế từ đó đưa ra quyết định tái đầu tư, cải tiến kỹ thuật, hoặc điều chỉnh quy mô tiếp theo.

Trong đó, quy trình kiểm soát chất lượng nước trong ao nuôi tôm là cốt lõi của mô hình nuôi tôm ít thay nước, vì nó là nền tảng trong việc đảm bảo chất lượng môi trường tối ưu cho tôm, hạn chế dịch bệnh và tăng hiệu quả sinh trưởng. Dưới đây là quy trình kiểm soát chất lượng nước chặt chẽ, mang tính hệ thống: a) Kiểm soát chất lượng nguồn nước cấp

Lựa chọn nguồn nước, chất lượng nước và thời điểm thích hợp để lấy nước vào hồ chứa. Các bước lọc-xử lý trước khi chuyển vào ao nuôi gồm: Lọc nước vào ao chứa (lọc cơ học); xử lý ao xử lý bằng Chlorine, chế phẩm vi sinh(3) ( (xử lý hóa học và sinh học), lắng thứ

cấp và điều chỉnh các yếu tố môi trường; cấp nước vào ao nuôi ở mức nước 70 - 80 cm/150 cm, gây màu tảo(4)

b) Duy trì sự ổn định chất lượng nước ao nuôi

Kiểm soát chất lượng nước trong ao nuôi tôm là một phần cốt lõi trong việc duy trì sự ổn định môi trường, tối ưu cho sự phát triển của tôm và phòng ngừa dịch bệnh. Các biện pháp kỹ thuật được áp dụng trong mô hình nuôi ít thay nước gồm: 1) tăng dần độ sâu từ 70 cm đến mức mong muốn sau 20 - 30 ngày; 2) Theo dõi, điều chỉnh và duy trì các chỉ tiêu môi trường nước hàng ngày: pH: 7.5 - 8.5, DO: ≥ 5 - 7 mg/l; to C: 26 - 30°, S‰: 5 - 30 (tùy vào loài tôm nuôi), độ kiềm: 80 - 160 mg/l; 3) Kiểm soát NH 3 < 0.1 mg/; NO 2< 0.25 mg/l bằng chế phẩm vi sinh và cung cấp đủ ôxy (5); 4) Duy trì sự phát triển của tảo đơn bào có lợi: Tảo khuê khi S‰ ≥ 15, tảo lục khi độ mặn ≥ 15; 5) Duy trì hàm lượng O 2 ≥ 5 mg/l bằng máy sục khí hoặc đảo nước; 6) Thu gom chất thải rắn, bùn thải chuyển sang hệ thống ao xử lý (Hình 01).

c) Xử lý bùn thải, nước thải Xử lý bùn và nước thải từ ao nuôi tôm được mô tả chi tiết và theo trình tự logic các bước: Thu gom bùn và nước thải từ ao nuôi chuyển vào ao lắng-li tâm để tách bùn thải và nước thải. Nước thải được chuyển sang hệ thống lọc sinh học hoặc ao trồng rong biển để xử lý. Nước sau khi được xử lý sinh học có thể diệt mầm bệnh bằng các biện pháp hóa học hoặc vật lý để tái sử dụng. Trong điều kiện nào đó nước thải có thể xả trực tiếp ra rừng ngập mặn (Hình 01).

Tóm lại, mô hình nuôi tôm ít thay nước, tuy mức độ công nghiệp hóa thấp hơn so với công nghệ RAS, vẫn cho thấy tính linh hoạt cao, dễ áp dụng cho nhiều hình thức và quy mô nuôi khác nhau. Mô hình này phù hợp với trình độ kỹ thuật phổ biến của người nuôi, đồng thời đáp ứng yêu cầu về kiểm soát chất lượng môi trường và an toàn sinh học – những tiêu chí cốt lõi của nuôi trồng thủy sản bền vững.

Ngoài ra, mô hình dễ tích hợp với các công nghệ mới như Biofloc, RAS, nuôi hai giai đoạn, cũng như các công nghệ số như IoT, cảm biến giám sát chất lượng nước và AI trong quản lý ao nuôi. Nhờ kiểm soát chặt chẽ và duy trì sự ổn định của môi trường ao, mô hình giúp hạn chế dịch bệnh, cho phép nuôi với mật độ linh hoạt. Việc giảm thay

nước không chỉ giảm thiểu xả thải mà còn duy trì hệ vi sinh có lợi trong ao, góp phần ổn định hệ sinh thái nuôi tôm.

Ghi chú:

(1) Sản phẩm của nhiệm vụ “Áp dụng và hoàn thiện mô hình nuôi tôm ít thay nước” của Thái Lan, do Bộ Khoa học và Công nghệ giao trực tiếp (1998); đề tài cấp Nhà nước KC.07.01 (2003); và kết quả nghiên cứu hoàn thiện của TS Nguyễn Tiến Long (2022)

(2) Con giống cùng một mẹ đẻ ra sẽ lột xác cùng một thời điểm, tránh được hiện tượng ăn thịt lẫn nhau khi lột xác. (3) Chế phẩm vi sinh là tổng hợp của những chủng vi sinh vật có lợi, có tác dụng giảm thiểu chất thải hữu cơ Amonia, Nitrit, Nitrat & Hydrogensulfide…; cải thiện môi trường, giảm stress & làm tăng sức đề kháng vật nuôi với bệnh tật) vào ao nuôi; liều dùng tùy thuộc vào hướng dẫn của các nhà sản xuất. (4) Gây nuôi lục tảo hoặc khuê tảo giai đoạn đầu: Chlorella sp: Bón phân vô cơ với liều lượng:10 - 20 kg/1ha (Đạm/lân = 2/1) hoặc phân NPK; Khuê tảo: Bón phân theo công thức: (NH4)2 SO 4 /Ca(H2 PO 4) 3 H2 O/(NH2 )2 CO là 100 /15/5 với liều dùng 10 - 20 kg/ha/lần bón. (5) Ôxy hòa tan là một trong những yếu tố cốt lõi trong quản lý ao nuôi tôm: Duy trì sự sống và tăng trưởng của tôm, ổn định môi trường ao, hỗ trợ hoạt động của vi sinh vật có lợi, ảnh hưởng đến pH và các chỉ tiêu môi trường khác, tác động đến hiệu quả cho ăn và chuyển hóa thức ăn, và giảm rủi ro về sốc môi trường. Việc đảm bảo hàm lượng DO luôn ở mức ổn định (thường >4 mg/L) là yêu cầu bắt buộc nếu muốn duy trì ao nuôi hiệu quả, tránh dịch bệnh và tối ưu năng suất.

Anh Vũ

SHRIMPL

Số hóa ngành nuôi trồng thủy sản

vì một

tương lai thông minh và bền vững

Với tham vọng số hóa toàn diện chuỗi giá trị nuôi trồng thủy sản, SHRIMPL đang xây dựng một nền tảng tích hợp dữ liệu và dịch v ụ, nhằm hỗ trợ người nuôi, nhà máy thức ăn, doanh nghiệp chế biến và cơ quan quản lý tối ưu hóa hoạt động sản xuất một cách hiệu quả và bền vững.

Trong cuộc trao đổi cùng Tạp chí Thủy sản Việt Nam, ông Steve Dang – Giám đốc điều hành (COO) và ông Ciaron McKinley – Đồng sáng lập kiêm Tổng Giám đốc (CEO) của SHRIMPL, đã chia sẻ tầm nhìn chiến lược của doanh nghiệp, những thách thức lớn hiện nay của ngành nuôi trồng thủy sản, cùng vai trò của dữ liệu và công nghệ trong việc hướng tới một tương lai bền vững hơn cho ngành thủy sản toàn cầu.

Phóng viên: Theo ông, những thách thức lớn nhất mà ngành nuôi trồng thủy sản hiện nay đang đối mặt là gì?

Ông Steve Dang: Dịch bệnh thường được xem là rào cản lớn nhất, nhưng theo tôi, thách thức cốt lõi của ngành nuôi trồng thủy sản hiện nay chính là việc thiếu một “hệ điều hành” tổng thể – một nền tảng chung để kết nối người nuôi, nhà máy thức ăn và cơ quan quản lý. Việc thiếu hụt hạ tầng kỹ thuật số khiến các mắt xích trong chuỗi giá trị vận hành rời rạc, thiếu liên kết, dẫn đến hiệu quả sản xuất khó được tối ưu.

Một trở ngại lớn khác là khả năng tiếp cận nguồn vốn tài chính vẫn còn rất hạn chế. Khi không có vốn, việc hiện đại hóa hay chuyển đổi chuỗi giá trị nuôi trồng thủy sản dù ở bất kỳ quốc gia nào cũng sẽ gặp nhiều khó khăn và dễ rơi vào bế tắc.

Phóng viên: Theo ông, đâu là những rào cản lớn nhất khiến công nghệ khó được áp dụng trong ngành nuôi trồng thủy sản? Và làm thế nào chúng ta có thể từng bước vượt qua những rào cản đó?

Ông Steve Dang: Có ba yếu tố chính cản trở việc áp dụng công nghệ trong ngành nuôi trồng thủy sản.

Thứ nhất là quy mô sản xuất.

Việt Nam hiện là một trong những quốc gia dẫn đầu thế giới về nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là tôm, với kim ngạch xuất khẩu hàng tỷ

USD mỗi năm. Tuy nhiên, phần lớn sản lượng vẫn đến từ hàng ngàn trang trại nhỏ lẻ, vận hành theo cách truyền thống, thậm chí thủ công như vài thập kỷ trước. Chính mô hình phân tán và quy mô nhỏ này khiến việc tiếp cận và ứng dụng công nghệ trở nên khó khăn.

Trong khi đó, các quốc gia như Ecuador, Brazil hay Mexico đã phát triển mạnh các mô hình trang trại quy mô lớn với mức độ tự động hóa cao. Nhờ vậy, họ có thể thu thập dữ liệu hiệu quả hơn, đưa ra quyết định chính xác hơn và dễ dàng tiếp cận các dịch vụ tài chính.

Thứ hai là rào cản tài chính.

Như tôi đã đề cập, thiếu nguồn vốn là một thách thức lớn. Không có tài chính, người nuôi khó có thể đầu tư vào công nghệ mới hay mở rộng quy mô sản xuất. Không chỉ nông hộ, ngay cả các cơ quan quản lý nhà nước cũng gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn để đổi mới toàn diện ngành.

Thứ ba, và có lẽ ít được nhắc đến, là tầm nhìn.

Hiện nay, nhiều doanh nghiệp từ các công ty truyền thống đến các startup vẫn chưa hình dung rõ ngành nuôi trồng thủy sản hiện đại sẽ vận hành ra sao. Tại SHRIMPL, chúng tôi tin rằng tương lai của ngành nằm ở sự kết nối: Tích hợp tất cả mắt xích trong chuỗi giá trị, từ người nuôi, nhà máy thức ăn, doanh nghiệp chế biến đến cơ quan quản lý trên cùng một nền tảng số hóa. Khi dữ liệu, kiến thức và công nghệ được chia sẻ đồng bộ, tất cả các bên đều có cơ hội phát triển bền vững và cùng nhau hưởng lợi.

Phóng viên: SHRIMPL đang sử dụng dữ liệu và trí tuệ nhân tạo (AI) như thế nào để vừa hỗ trợ người nuôi vượt qua các thách thức hiện nay, vừa thúc đẩy phát triển bền vững trong ngành tôm, thưa ông?

Ông Steve Dang & ông Ciaron McKinley: Dữ liệu là nền tảng trong toàn bộ hoạt động của SHRIMPL. Khi công nghệ phát triển, ngành nuôi trồng thủy sản cũng chứng kiến sự bùng nổ về cả khối lượng lẫn chất lượng dữ liệu – với tần suất cập nhật nhanh hơn, ổn định và chi tiết hơn bao giờ hết. Để xử lý hiệu quả nguồn dữ liệu ngày càng phức tạp này, chúng tôi ứng dụng mạnh mẽ trí tuệ nhân tạo (AI).

AI giúp giảm thiểu sai số, phân tích nhanh chóng và đưa ra các khuyến nghị hành động kịp thời – từ đó hỗ trợ người nuôi đưa ra quyết định chính xác và kịp thời hơn. Một trong những ứng dụng nổi bật là mô hình “song sinh số” (digital twins) – bản sao ảo của ao nuôi, vùng nuôi hoặc toàn bộ hệ thống sản xuất, cho phép mô phỏng, giám sát và tối ưu hóa quy trình vận hành. Tính đến nay, SHRIMPL đã số hóa hơn 1 triệu hecta ao nuôi – và con số này vẫn đang tăng lên từng ngày.

Chúng tôi cũng tích hợp ảnh vệ tinh vào nền tảng để xác minh điều kiện thực tế tại trang trại – như đánh giá chất lượng nước, xác định tình trạng thả giống hay phát hiện những dữ liệu bất thường, đặc biệt hữu ích ở những khu vực thiếu dữ liệu thực địa. Ngoài ra, AI còn được đưa vào các công cụ quản lý tồn kho, điều phối nhân sự và vận hành trang trại – tất cả gói gọn trong một nền tảng di động, hỗ trợ các trại quy mô lớn vận hành hiệu quả và tiết kiệm nguồn lực.

Khi làm việc với các tổ chức tài chính, bảo hiểm hay ngân hàng, chúng tôi còn kết hợp

AI với các mô hình thống kê và kinh tế sinh học để đưa ra bức tranh toàn diện và đáng tin cậy hơn về hiệu quả sản xuất. SHRIMPL không chỉ dừng lại ở phân tích kỹ thuật, mà còn chuyển hóa dữ liệu thành các mô hình rủi ro và công cụ tài chính – từ đó kết nối dòng vốn quay trở lại ngành, thúc đẩy tái đầu tư, đổi mới và tăng trưởng bền vững.

Tóm lại, AI không chỉ giúp tối ưu hóa vận hành, giảm lãng phí và nâng cao hiệu suất, mà còn đóng vai trò then chốt trong việc xây dựng một ngành tôm minh bạch, linh hoạt và thích ứng tốt với những biến động trong tương lai.

Phóng viên: Với tốc độ phát triển chóng mặt của công nghệ số, ông dự đoán ngành nuôi trồng thủy sản sẽ thay đổi ra sao trong 5 - 10 năm tới?

Ông Steve Dang & ông Ciaron McKinley: Ngành nuôi trồng thủy sản đang tiến gần đến một bước ngoặt quan trọng – tương tự như những cuộc cách mạng công nghệ từng diễn ra trong lĩnh vực tài chính, thương mại điện tử hay sản xuất công nghiệp. Tất cả những ngành này đều chuyển mình mạnh mẽ nhờ tích hợp dữ liệu và công nghệ vào trung tâm hoạt động và nuôi trồng thủy sản cũng đang bước vào giai đoạn chuyển đổi tương tự.

Dù nông nghiệp – thủy sản vốn được xem là lĩnh vực tiếp cận công nghệ chậm, nhưng hiện nay tốc độ chuyển đổi đang diễn ra nhanh hơn bao giờ hết. Các nhà máy thức ăn đã bắt đầu xây dựng chiến lược dài hạn 12, 24, thậm chí 36 tháng hướng tới một tương lai số hóa, kết nối toàn diện.

SHRIMPL hiện đang đồng hành cùng họ, đồng thời hợp tác với các tổ chức tài chính phát triển như ADB, IFC và nhiều ngân hàng thương mại để huy động nguồn lực cho hành trình này.

Chúng tôi tin rằng, trong 5 - 10 năm tới, ngành sẽ vận hành như một chuỗi giá trị kết nối – nơi dữ liệu được chia sẻ an toàn, hiệu quả, tạo ra giá trị cho tất cả các bên tham gia. Khi đó, nhà máy thức ăn không chỉ đơn thuần bán sản phẩm, mà trở thành đơn vị cung cấp giải pháp toàn diện: Từ tư vấn kỹ thuật, kiểm soát dịch bệnh đến hiện đại hóa trang trại.

Sự cộng hưởng này sẽ giúp trại nuôi vận hành hiệu quả hơn, nhà máy tối ưu chi phí, còn người tiêu dùng thì yên tâm với chuỗi cung ứng minh bạch hơn.

Thực tế, mô hình tương lai này đã bắt đầu hình thành ở một số quốc gia Nam Mỹ – nơi công nghệ tự động hóa và phân tích dữ liệu đã được ứng dụng mạnh mẽ trong nuôi trồng thủy sản. Đây là lời cảnh tỉnh cho các thị trường như Việt Nam. Là một cường quốc về nuôi tôm, Việt Nam cần đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa nếu muốn duy trì và nâng cao vị thế trên thị trường toàn cầu.

Tại SHRIMPL, chúng tôi định hướng trở thành nền tảng hạ tầng số phục vụ chính phủ trong việc hỗ trợ hoạch định chính sách, nâng cao năng lực quản lý ngành và hiện đại hóa hạ tầng bằng sức mạnh dữ liệu. Đó cũng là lý do chúng tôi có mặt tại VIETSHRIMP 2025 để kết nối với các địa phương, lắng nghe thực tiễn và cùng chia sẻ tầm nhìn về một tương lai nuôi trồng thủy sản thông minh, hiệu quả và bền vững hơn.

Phóng viên: Ông đánh giá thế nào về VietShrimp 2025?

Ông Steve Dang & ông Ciaron McKinley: Đây thực sự là một sự kiện ấn tượng. Chúng

tôi đánh giá cao nỗ lực của ban tổ chức trong việc quy tụ đầy đủ các mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị thủy sản. Trong suốt hai ngày tham dự, chúng tôi đã có cơ hội gặp gỡ nhiều khách hàng tiềm năng, kết nối với các đối tác mới và mở ra những cơ hội hợp tác đầy triển vọng. SHRIMPL chắc chắn sẽ quay trở lại vào năm sau!

Điều khiến chúng tôi đặc biệt ấn tượng là tính quốc tế ngày càng rõ nét của VietShrimp. Chúng tôi đã gặp gỡ đại diện đến từ Nam Mỹ, Philippines, Indonesia, Thái Lan, Pháp và Đức – tạo nên một nguồn năng lượng toàn cầu vô cùng tích cực. Chính sự đa dạng, cởi mở và tinh thần hợp tác ấy đã giúp VietShrimp trở thành một điểm đến hấp dẫn, có giá trị thực sự đối với những doanh nghiệp công nghệ như SHRIMPL.

Chân thành cảm ơn ông!

Công ty CP BQ&Q

“Xanh hóa vùng nuôi” là trách nhiệm của

Ông Dương Thanh Triều, Tổng Giám

đốc Công ty CP BQ&Q cho biết:

“Xanh hóa vùng nuôi không chỉ là

xu hướng mà còn là trách nhiệm của mỗi doanh nghiệp. Chính vì

thế, công ty không ngừng đầu tư nghiên cứu và phát triển sản phẩm, giải pháp tiên tiến, đóng góp vào sự

phát triển bền vững của ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam”.

Ngay từ những ngày đầu thành lập, Công ty CP BQ&Q đã kiên định với

phương châm “Luôn đặt chất lượng

sản phẩm lên hàng đầu”, cam kết cung cấp những sản phẩm và dịch vụ chất lượng, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất để phát triển bền vững, bảo vệ môi trường và cộng

đồng. Trong khuôn khổ Hội chợ Triển lãm

Quốc tế Công nghệ ngành tôm Việt Nam lần

thứ 6 năm 2025 (VietShrimp 2025), phóng viên Tạp chí Thủy sản Việt Nam đã có cuộc phỏng vấn với ông Dương Thanh Triều, Tổng

Giám đốc Công ty CP BQ&Q.

Phóng viên: Qua 15 năm đồng hành với thị trường Việt Nam, Công ty CP BQ&Q đã khẳng định được vị thế là một trong những doanh nghiệp cung cấp nguyên liệu hàng đầu cho nuôi trồng thủy sản. Ông có thể chia sẻ rõ hơn về quá trình hình thành của công ty? Có những cột mốc nào trong hành trình phát triển của công ty mà ông cảm thấy tự hào nhất?

Ông Dương Thanh Triều: BQ&Q là một trong những doanh nghiệp tiên phong trong việc hướng tới phát triển nông nghiệp bền vững. Chúng tôi cam kết sẽ mang đến những

sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao, góp phần vào sự phát triển bền vững của ngành tôm Việt Nam.

Trải qua gần 15 năm hoạt động, Công ty CP BQ&Q đã khẳng định được vị trí nhất định. Hiện công ty đang hợp tác với nhiều đối tác có thương hiệu, ở nhiều nước trên thế giới, bao gồm: Mỹ, Hà Lan, Hàn Quốc, Mexico, Ấn Độ, và nhiều quốc gia khác. Cung cấp cho thị trường Việt Nam gần 100 sản phẩm nguyên liệu với chất lượng cao, ổn định và bền vững. Một cột mốc quan trọng của công ty chính là vào năm 2018, khi lần đầu tiên Công ty

BQ&Q tham gia VietShrimp. Tại đây, công ty đã kết nối thêm được nhiều đối tác mới là các nhà sản xuất, trang trại nuôi,… từ đó mở rộng thị trường tiêu thụ. Cột mốc này tạo nên bước ngoặt lớn cho công ty, mở ra nhiều cơ hội lớn cho sự phát triển bền vững của BQ&Q.

Phóng viên: Các dòng sản phẩm nguyên liệu nhập khẩu chính của công ty hiện nay là gì? Các sản phẩm này có ưu điểm nổi bật nào so với sản phẩm nội địa trong cùng lĩnh vực không, thưa ông?

Ông Dương Thanh Triều: Từ những ngày đầu thành lập cho đến nay, BQ&Q luôn kiên

định với chiến lược phát triển bền vững. Chúng tôi không ngừng đầu tư nghiên cứu và phát triển sản phẩm, giải pháp tiên tiến, đóng góp vào sự phát triển bền vững của ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam. Hiện, các sản phẩm nhập khẩu của công ty vừa đảm bảo chất lượng, vừa an toàn, thân thiện với môi trường, như: Yucca, enzyme, vi sinh thảo dược gan, hỗn hợp vitamin khoáng chất…

Các sản phẩm này đều được nhập khẩu từ những đối tác lớn trên thế giới, có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực. Điển hình như sản phẩm Yucca Star Powder, Yucca Star Liquid với chiếc xuất Yucca schidigera 100% thiên nhiên, được sản xuất bởi BAJA AGRO INTERNATIONAL SA. DE C.V, một trong những công ty hàng đầu thế giới về sản xuất chiết xuất Yucca. Đây cũng là công ty có đồn điền trồng Yucca schidigera lớn nhất và duy nhất trên thế giới. Công ty đang sở hữu hơn 500 ha trồng Yucca và được phân chia khu vực theo số năm trồng, để đảm bảo thu hoạch cây Yucca đúng độ tuổi, cho ra sản phẩm chất lượng nhất. Hiện, tại Việt Nam, Công ty BQ&Q đang phân phối độc quyền sản phẩm Yucca Star Powder, Yucca Star Liquid. Để đảm bảo mang đến những giải pháp nuôi trồng thủy sản tối ưu, BQ&Q luôn đặt chất lượng sản phẩm lên hàng đầu. Trước khi nhập khẩu bất kỳ sản phẩm nào vào Việt Nam, chúng tôi đều tiến hành quá trình kiểm tra nghiêm ngặt, từ việc trực tiếp khảo sát vùng nguyên liệu, đánh giá quy trình sản xuất tại nhà máy, đến việc thử nghiệm thực tế tại các ao nuôi trong nước. Sự kỹ lưỡng này là minh chứng cho cam kết của BQ&Q trong việc cung cấp những sản phẩm chất lượng tốt nhất, mang lại hiệu quả cao cho người nuôi.

Phóng viên: Ông có thể chia sẻ về những

chiến lược mà công ty đã áp dụng để duy trì sự cạnh tranh trên thị trường Việt Nam?

Ông Dương Thanh Triều: Những năm qua, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, và sự cạnh tranh gay gắt từ các quốc gia khác đã khiến cho nghề nuôi tôm trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Đặc biệt, các biểu hiện của biến đổi khí hậu như nắng nóng, bão lũ hạn hán kéo dài, đặc biệt là gia tăng nhiệt độ và thay đổi lượng mưa, tác động tiêu cực đến nguồn nước và sức khỏe tôm nuôi, gây phát sinh dịch bệnh, ảnh hưởng lớn đến người nuôi.

Trong bối cảnh thách thức ngày một gia tăng, để duy trì sự cạnh tranh, công ty CP BQ&Q sẽ tìm kiếm thêm nhiều sản phẩm chất lượng, bền vững, có giá thành phù hợp để đưa vào thị trường Việt Nam. Đồng thời, BQ&Q tiếp tục chú trọng nhập khẩu các sản phẩm enzyme để thay thế các hóa chất nhằm giải quyết các vấn đề trong nuôi tôm.

Hiện nay, enzyme đang được ứng dụng rộng rãi trong nuôi trồng thủy sản nhờ giá thành hợp lý và dễ áp dụng. Bản thân enzyme được tạo ra bởi các sinh vật sống, động vật và thực vật bậc cao đến các dạng đơn bào, do đó không gây ô nhiễm môi trường. Việc ứng dụng các biện pháp sinh học trong các lĩnh vực nuôi trồng và sản xuất vừa giúp nâng cao năng suất thu hoạch cho người nuôi, đồng thời góp phần bảo vệ môi trường và sức khỏe cho người tiêu dùng.

Nhằm mang lại giải pháp hiệu quả tối ưu cho người nuôi, phù hợp với điều kiện biến

đổi khí hậu ở Việt Nam, bộ phận R&D của Công ty BQ&Q đã hợp tác chặt chẽ với R&D của Công ty Tex Biosciences, dưới sự dẫn dắt của Tiến sĩ Aadarsh Narendra Dev, cùng nhau tập trung nghiên cứu và phát triển các sản phẩm tiên tiến như Ecupro (Sản phẩm bổ sung thức ăn giúp làm giảm các tác nhân gây TPD), EHP Pro (Làm giảm các tác nhân gây EHP), Superzyme (Tẩy nhớt bạt hiệu quả, xử lý bùn bã hữu cơ, sử dụng cho tôm quảng canh) và Microclean: Lựa chọn kinh tế cho xử lý nước thải.

Đặc biệt, Ecupro và EHP Pro là sự kết hợp

độc đáo giữa vi sinh và enzyme, mang đến

khả năng cải thiện vượt trội trong việc tiêu hóa thức ăn và hấp thu chất dinh dưỡng. Việc bổ sung men vi sinh vào thức ăn giúp tăng cường đáng kể số lượng vi khuẩn có lợi trong

Với sự hợp tác với các đối tác lớn và uy tín trên thế giới, BQ&Q luôn đảm bảo nguồn cung và chất lượng sản phẩm khi đến tay khách hàng. Đội ngũ nhân viên có chuyên môn, nhiệt huyết và giàu kinh nghiệm, luôn hỗ trợ khách hàng tận tâm.

ruột, từ đó tối ưu hóa quá trình tiêu hóa ở tôm. Đồng thời, probiotic trong sản phẩm còn tạo ra các chất chuyển hóa thứ cấp, có tác dụng mạnh mẽ trong việc chống lại mầm bệnh Vibrio sp và giảm thiểu nguy cơ mắc các bệnh khác. Bên cạnh đó, các enzyme được bổ sung giúp thủy phân hiệu quả các chất dinh dưỡng chính như carbohydrate, protein và chất béo thành dạng dễ hấp thụ trong ruột, đảm bảo tôm nhận được đầy đủ dưỡng chất cần thiết cho sự phát triển khỏe mạnh. Ngoài ra, bộ phận R&D của BQ&Q kết hợp với các bộ phận R&D của các đối tác tại Hàn Quốc cũng như tại Mỹ để nghiên cứu đưa ra các sản phẩm phù hợp với biến đổi khí hậu với môi trường tại Việt Nam với giá thành phù hợp nhất.

Phóng viên: Ông đánh giá thế nào về VietShrimp 2025?

Ông Dương Thanh Triều: Đây là lần thứ 5 BQ&Q tham gia VietShrimp. Hội chợ lần này được tổ chức chuyên nghiệp và bài bản hơn so với những năm trước, lượng khách tham quan cũng khá đông. Cùng với đó, địa điểm tổ chức khá thuận tiện cho việc di chuyển của nhiều doanh nghiệp.

Thông qua các gian hàng triển lãm và chuỗi Hội thảo trong khuôn khổ VietShrimp đã cho thấy xu hướng ứng dụng công nghệ cao, tối ưu hóa chi phí và phát triển bền vững trong nuôi trồng thủy sản, nhất là nuôi tôm nước lợ. Đặc biệt, nhiều giải pháp mới về vi sinh, dinh dưỡng và quản lý môi trường ao nuôi đã được giới thiệu, mở ra những cơ hội phát triển mới cho ngành tôm nước ta.

Trân trọng cảm ơn ông!

Đông Á bứt phá để dẫn đầu

Công ty CP Đông Á là đối tác chiến

lược của các doanh nghiệp, tập đoàn

lớn như: Samsung, TH true MILK,

Hòa Phát, Tôn Hoa Sen, Masan, Calofic, Sawaco, Cleanfood…

Sản phẩm Chlorine Đông Á mang tới

lãm VietShrimp 2025

Từ một cơ sở sản xuất hóa chất nhỏ, bằng nội lực và tầm nhìn chiến lược, Công ty CP Đông Á đã vươn lên thành một đơn vị tên tuổi trong ngành sản xuất hóa chất của Việt Nam. Trong khuôn khổ

Hội chợ Triển lãm Quốc tế công nghệ ngành tôm Việt Nam lần thứ 6 năm 2025, phóng viên

Tạp chí Thủy sản Việt Nam đã có cuộc phỏng vấn nhanh với ông Đỗ Quốc Toàn - Giám đốc chi nhánh miền Nam, Công ty CP Đông Á.

Phóng viên: Với thế mạnh về sản xuất hóa chất phục vụ đa ngành, nhất là các ngành công nghiệp trong nước, ông có thể chia sẻ về hành trình phát triển của Công ty CP Đông Á, thưa ông?

Ông Đỗ Quốc Toàn: Được thành lập từ năm 2003, đến nay Đông Á đã có hơn 22 năm kinh nghiệm. Xuất phát điểm của Đông Á chỉ là một cơ sở sản xuất Javen nhỏ, cung cấp hàng hóa cho Tổng công ty giấy Việt Nam, nhân sự không đến 30 người. Sau hơn hai thập kỷ gây dựng và

phát triển, hiện quy mô nhà máy đã tăng lên hơn 35.000 m2, nhân sự hơn 400 người, đó là một thành tựu đáng tự hào của chúng tôi. Đến nay thương hiệu Đông Á đã có chỗ đứng nhất định trên thị trường, là đối tác chiến lược của các doanh nghiệp, tập đoàn lớn như: Samsung, TH true MILK, Hòa Phát, Tôn Hoa Sen, Masan, Calofic, Sawaco, Cleanfood…

Phóng viên: Với lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, Công ty CP Đông Á chuyển mình sang như thế nào, thưa ông?

Ông Đỗ Quốc Toàn: Thực tế, dự án này chúng tôi nghiên cứu từ năm 2020. Lúc đó, chúng tôi làm phân tích dữ liệu thị trường và nhận thấy Chlorine là một sản phẩm có lượng dùng khá nhiều trong ngành thủy sản, số lượng nhập khẩu thống kê lên tới 25.000 - 30.000 tấn/năm. Chúng tôi đánh giá đây là một mặt hàng rất tiềm năng nên nghiên cứu các công nghệ sản xuất trên thế giới, cuối cùng, chúng tôi chọn công nghệ Sodium

Process của Nhật Bản. Công nghệ này cho ưu điểm vượt trội, sản phẩm sản xuất ra tan nhanh hoàn toàn, hầu như không có cặn so với công nghệ Calcium cũ.

Tháng 8/2023, Đông Á khánh thành, đưa vào hoạt động nhà máy sản xuất Chlorine và trở thành doanh nghiệp đầu tiên sản xuất Chlorine tại Việt Nam. Sau đó, Đông Á đã triển khai thử nghiệm Chlorine từ các đơn vị chức năng có chuyên môn và ứng dụng thực tế. Sau khi ghi nhận ý kiến đóng góp từ các chuyên gia và người nuôi tôm, Đông Á đã tích cực điều chỉnh chất lượng, đến tháng 10/2023 sản phẩm của công ty chính thức được đưa ra thị trường.

Phóng viên: Ông đánh giá thế nào về tiềm năng của sản phẩm Đông Á trong ngành thủy sản?

Ông Đỗ Quốc Toàn: Tôi nghĩ có một vấn đề chúng ta sẽ trao đổi sâu hơn sau các câu trả lời của tôi, đó là tính phát triền bền vững. Xét về bản chất, các sản phẩm của Đông Á là hóa chất, mà hóa chất thì nghe rất nhạy cảm khiến nhiều người lo ngại về khả năng đồng hành lâu dài và những ảnh hưởng đến môi trường. Tuy nhiên, từ góc nhìn của nhà sản xuất, tôi cho rằng hóa chất là một phần không thể thiếuquan trọng là chúng ta sử dụng chúng như thế nào cho đúng, cho phù hợp. Riêng với lĩnh vực thủy sản, đặc biệt là nuôi tôm, dịch bệnh đang ngày càng nhiều và phức tạp, xuất hiện nhiều chủng bệnh mới. Trong điều kiện đó, các sản phẩm sát trùng, khử khuẩn đóng vai trò thiết yếu để đảm bảo sự phát triển ổn định của tôm. Đông Á đã dành nhiều thời gian nghiên cứu các hợp chất liên quan đến Chlorine và nhận thấy rằng, hợp chất Clo công nghệ Sodium Process là một trong những giải pháp hiệu quả nhất hiện nay – vừa có giá trị sử dụng cao, vừa mang lại hiệu quả thực tiễn rõ rệt.

Vậy nên, tiềm năng phát triển của dòng sản phẩm này là rất lớn. Tuy nhiên, theo chủ trương các cơ quan quản lý khuyến cáo là tìm nhiều giải pháp để khách hàng sử dụng hiệu quả hơn – đồng nghĩa là sử dụng ít hơn nhưng vẫn đảm bảo tác dụng. Điều này đặt ra bài toán đổi mới cho các doanh nghiệp như chúng tôi, đó là: Phải tiếp tục nghiên cứu và cung cấp các giải pháp toàn diện hơn. Bên cạnh các sản phẩm khử trùng, Đông Á đang mở rộng nghiên cứu sang các sản phẩm bổ trợ giúp tăng cường sức khỏe tôm nuôi. Dự

kiến vào tháng 6/2025, chúng tôi sẽ ra mắt sản phẩm mới là Canxi Clorua (CaCl2 ) - đó là sản phẩm dùng trong nuôi trồng thâm canh, siêu thâm canh, sản phẩm này rất cần thiết để bổ sung các khoáng chất, tăng cường sức đề kháng, giúp tôm dễ dàng tạo vỏ mới.

Phóng viên: Hiện nay, ngành thủy sản đang chuyển hướng “sản xuất xanh” phù hợp theo chủ trương của Đảng, Chính phủ và ngành nông nghiệp. Công ty Đông Á có những giải pháp gì để đồng hành cùng ngành thủy sản theo xu hướng xanh hóa này?

Ông Đỗ Quốc Toàn: Như tôi đã chia sẻ trước đó, tương lai chúng ta hướng tới sản xuất xanh, phát triển bền vững, chú trọng yếu tố môi trường. Không chỉ ở ngành thủy sản mà trên toàn bộ chuỗi giá trị sản xuất và chúng tôi hoàn toàn ủng hộ tinh thần đó. Tuy nhiên, cũng cần thẳng thắn nhìn nhận rằng, khi chúng ta chấp nhận công nghiệp hóa thì ít nhiều cũng đi kèm với sự đánh đổi nhất định về yếu tố môi trường. Điều quan trọng là chúng ta phải biết cách quy hoạch, kiểm soát và tối ưu quy trình sản xuất sao cho tác động đến môi trường được hạn chế ở mức thấp nhất, đồng thời vẫn đảm bảo hiệu quả kinh tế cho người dân và doanh nghiệp.

Thế nên, chúng tôi sẽ làm ra sản phẩm chất lượng nhất có thể, cụ thể:

Tập trung sản xuất các sản phẩm có hiệu suất sử dụng cao, nghĩa là nếu 1 kg sản phẩm của Đông Á đưa vào môi trường thì những sản phẩm còn lại gần như phải ít nhất có thể, nghĩa là phế phẩm ít;

Thứ hai là tạo ra sản phẩm từ các phế phẩm

để làm sao ít thải ra môi trường nhất, hoặc là ít phải bỏ ra chi phí hay cho hóa chất khác để trung hòa hay xử lý nó.

Thứ ba, chúng tôi cũng chú trọng kế hoạch xanh hóa sản xuất, hạn chế carbon hay hướng tới tín chỉ carbon.

Về trực tiếp, chúng tôi hiểu rằng là doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất hóa chất, việc đạt được “tác động bằng không” đến môi trường là điều rất khó, nhưng chúng tôi sẽ không ngừng nỗ lực để tối ưu làm sao giảm tác động đến môi trường ở mức thấp nhất.

Phóng viên: Một trong những sứ mệnh của Đông Á là “Sản xuất đáp ứng đủ nhu cầu đa dạng của ngành công nghiệp trong nước thay thế sản phẩm nhập khẩu”. Vậy,

hiện nay Công ty đã hoàn thành được mục tiêu này chưa? Và trong những năm tới, công ty sẽ đặt ra mục tiêu nào, thưa ông?

Ông Đỗ Quốc Toàn: Với câu hỏi này, tôi xin chia sẻ hai nội dung chính. Thứ nhất, liên quan đến việc đưa sản phẩm của Đông Á ra thị trường, đặc biệt là sản phẩm Chlorine. Để thuyết phục người tiêu dùng chuyển từ hàng nhập khẩu sang sản phẩm trong nước, chúng tôi đã phải trải qua hơn một năm rất vất vả, không chỉ về chi phí mà còn cả công sức và thời gian để thay đổi tâm lý “sính ngoại” vốn ăn sâu trong nhận thức của người nuôi. Vậy nên, sản phẩm Chlorine đến hiện tại, chúng tôi chỉ chiếm được một vị trí nhỏ trong thị trường vì thực tế thị trường quá lớn, mỗi tháng Đông Á cung cấp ra thị trường khoảng 400 - 500 tấn. Về mặt chất lượng, sản phẩm của chúng tôi đạt các yêu cầu khắt khe về hàm lượng, độ tan, độ cặn…Nhưng mức độ chấp nhận và quen dùng sản phẩm Việt của khách hàng vẫn còn khá chậm. Dù chủ trương “Người Việt ưu tiên dùng hàng Việt” đã có từ rất lâu, nhưng thực tế do thương hiệu hàng Việt từ trước giờ hay gặp drama, nhiều sản phẩm để lại không ít điều tiếng khiến các đơn vị làm chuẩn chỉ như Đông Á chúng tôi gặp nhiều khó khăn trong việc lấy lại niềm tin của bà con. Mặc dù vậy, từng bước một chúng tôi cũng đã thay đổi được định kiến của khá nhiều bà con. Thứ hai, liên quan đến đa dạng hóa sản phẩm cũng như đáp ứng nhu cầu sử dụng hàng của ngành nông nghiệp. Thực tế mà nói, để đầu tư một công nghệ sản xuất hóa chất nói chung rất khó và đòi hỏi nguồn lực lớn, không chỉ liên quan đến vấn đề kinh phí, pháp lý, môi trường mà còn thủ tục giấy tờ… nhất là đối với doanh nghiệp tư nhân như chúng tôi. Chúng tôi định hướng phát triển thêm sản phẩm nhưng mỗi bước phát triển đều phải cân nhắc kỹ lưỡng về vấn đề thị trường, nhu cầu, tính khả thi, thủ tục. Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn tăng công suất mỗi năm và mở rộng thêm sản phẩm mới… Đó có thể coi là thế mạnh của một đơn vị tư nhân làm kinh tế như chúng tôi: Linh hoạt, nhanh nhạy với thị trường và luôn sẵn sàng đổi mới.

Trân trọng cảm ơn ông!

Gian hàng Việt Anh thu hút sự quan tâm của nhiều đối tác, khách hàng tại Hội chợ triển

Việt Anh

Tiên phong trong nghiên cứu

và ứng dụng công nghệ sinh học ngành thủy sản

Với phương châm mang đến sự yên tâm và hài lòng tuyệt đối cho người chăn nuôi, hơn 20 năm qua, Công ty CP Đầu tư Liên doanh Việt Anh đã gặt hái được nhiều thành công trên hành trình đồng hành cùng ngành thủy sản

Việt Nam.

Bên lề sự kiện VietShrimp 2025, ông Trần Văn Dũng - Tổng Giám đốc Công ty CP Đầu tư Liên doanh Việt Anh đã có những chia sẻ tâm huyết với Tạp chí Thủy sản Việt Nam về câu chuyện xây dựng thương hiệu và cách thức đồng hành cùng bà con nông dân.

Phóng viên: Ông có thể chia sẻ đôi chút về hành trình của Công ty CP Đầu tư liên doanh Việt Anh trong hơn 20 năm qua?

Ông Trần Văn Dũng: Công ty CP Đầu tư Liên doanh Việt Anh được thành lập với sứ mệnh cung cấp các giải pháp an toàn sinh học và hiệu quả cho ngành chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Hơn 20 năm qua, chúng tôi đã không ngừng phát triển, mở rộng quy mô và đổi mới công nghệ nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển xanh bền vững. Việt Anh hiện sở hữu nhà máy đạt chuẩn GMP-WHO, sản xuất đa dạng các sản phẩm

thuốc thú y, thuốc thủy sản, men vi sinh, chế phẩm sinh học phục vụ cả thị trường trong nước và xuất khẩu. Bên cạnh đó, chúng tôi đã xây dựng được mạng lưới đại lý rộng khắp toàn quốc, đồng hành cùng hàng nghìn hộ nuôi, giúp bà con nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế.

Phóng viên: Trong những thành tựu đã đạt được đó, đâu là dấu ấn đậm nét nhất của Việt Anh, thưa ông?

Ông Trần Văn Dũng: Một trong những dấu ấn quan trọng nhất của Việt Anh là sự tiên phong trong nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học vào ngành nuôi trồng thủy sản. Chúng tôi đã nghiên cứu và phát triển thành công quy trình VAQ3+2 - mô hình nuôi tôm bền vững giúp tăng tỷ lệ thành công lên đến hơn 70%, năng suất tăng 10 - 20% và giảm chi phí 5 - 7%. Ngoài ra, Việt Anh cũng đã cho ra đời các sản phẩm kết hợp Viaprotic - công nghệ men vi sinh thế hệ mới giúp cải thiện môi trường ao nuôi, giảm kháng sinh, nâng cao sức khỏe tôm cá và hướng tới mô hình nuôi trồng bền vững.

Phóng viên: Hiện nay, thị trường Việt Nam có đa dạng thương hiệu thuốc thú y - thủy sản, tuy nhiên, Việt Anh vẫn khẳng định được vị thế vững chắc. Bí quyết nào giúp Công ty luôn thắng thế như vậy, thưa ông? Ông Trần Văn Dũng: Việt Anh khẳng định vị

lãm VietShrimp 2025 Ảnh: Việt Anh

uy tín thương hiệu và sự đồng hành chặt chẽ với người nuôi. Trong quá trình hoạt động, chúng tôi luôn tập trung vào 3 yếu tố.

Một là, đầu tư vào nghiên cứu và phát triểnKhông ngừng cải tiến công thức, áp dụng công nghệ sinh học để tối ưu hiệu quả sản phẩm. Hai là, chất lượng là ưu tiên hàng đầu - Sản phẩm được sản xuất tại nhà máy đạt chuẩn GMP-WHO, kiểm định nghiêm ngặt trước khi đến tay người nuôi.

Ba là, chú trọng dịch vụ khách hàng và hỗ trợ kỹ thuật, thể hiện bằng việc đội ngũ chuyên gia của Việt Anh luôn sẵn sàng tư vấn, hỗ trợ người nuôi trồng trong suốt quá trình sử dụng sản phẩm.

Phóng viên: Hiện nay, tình hình nuôi trồng thủy sản của nước ta không thực sự “xuôi chèo mát mái” do dịch bệnh vẫn tiềm ẩn, vấn đề môi trường cũng khiến sức khỏe của tôm, cá nuôi bị ảnh hưởng. Ông có thể chia sẻ để bà con chăn nuôi khắc phục được khó khăn này và sản xuất đạt hiệu quả?

Ông Trần Văn Dũng: Để giảm rủi ro thiệt hại do dịch bệnh và tối ưu hiệu quả sản xuất, theo tôi người nuôi cần lưu ý kiểm soát chất lượng nguồn nước, trong đó người nuôi nên sử dụng các chế phẩm vi sinh. Với kinh nghiệm hàng chục năm trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh thuốc thú y thủy sản của Việt Anh, bà con hoàn toàn có thể yên tâm sử dụng sản phẩm của chúng tôiViaprotic. Với giải pháp men vi sinh toàn diện, Viaprotic toàn toàn có thể giúp bà con nuôi trồng thủy sản cải thiện môi trường ao nuôi, giúp xử lý nước sạch, tôm khỏe, giảm nguy cơ dịch bệnh. Cùng đó, áp dụng mô hình nuôi bền vững như VAQ3+2, giúp kiểm soát tốt hơn chất lượng con giống, yếu tố môi trường, chế độ dinh dưỡng phù hợp từ đó tối ưu chi phí và tăng năng suất. Quan trọng nhất, bà còn cần hạn chế kháng sinh và hóa chất, chuyển sang giải pháp sinh học, kết hợp sử dụng sản phẩm thảo dược giúp tôm cá phát triển khỏe mạnh, đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu cũng như góp phần tạo ra hệ sinh thái nguồn nước cho nuôi trồng thuỷ sản bền vững.

Phóng viên: Ngành nông nghiệp Việt

Nam nói chung và ngành thủy sản nói riêng đã và đang định hướng “sản xuất xanh”.

Theo ông, liệu ngành có gặp khó khăn gì khi phát triển theo xu hướng này?

Ông Trần Văn Dũng: Trong thời gian qua, Việt Anh đã đồng hành với Chính phủ trong

việc triển khai các chương trình phát triển xanh, giảm phát thải và bảo vệ môi trường, góp phần thúc đẩy ngành thủy sản phát triển bền vững hơn. Chúng tôi đã tập trung nghiên cứu và đưa ra các giải pháp sinh học, giúp người nuôi vừa đảm bảo hiệu suất sản xuất vừa hạn chế tác động tiêu cực đến môi trường.

Tuy nhiên, theo tôi nhận thấy, xu hướng sản xuất xanh cũng gặp một số thách thức như: Chi phí đầu tư ban đầu cao khiến nhiều hộ nuôi vẫn ngần ngại khi chuyển đổi sang công nghệ sinh học. Cùng đó, nhận thức về sản xuất xanh sạch còn hạn chế, nên một số người nuôi vẫn sử dụng kháng sinh vì hiệu quả tức thì, chưa quen với việc sử dụng chế phẩm sinh học.

Thêm nữa, hệ thống quản lý và giám sát

hiện chưa đồng bộ, vì thế, cần có chính sách hỗ trợ mạnh mẽ hơn để khuyến khích mô hình nuôi an toàn sinh học.

Để đồng hành cùng chương trình “sản xuất xanh”, Việt Anh sẽ tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển các dòng sản phẩm sinh học thân thiện với môi trường, đồng thời phối hợp cùng các tổ chức và cơ quan quản lý để thúc đẩy nhận thức và hỗ trợ người nuôi trong quá trình chuyển đổi sang mô hình sản xuất xanh.

Phóng viên: Vậy để người nuôi trồng thủy sản thực hiện theo định hướng “sản xuất xanh” một cách dễ dàng trong điều kiện như hiện nay, Công ty Việt Anh sẽ có những trợ lực gì giúp bà con, thưa ông?

Ông Trần Văn Dũng: Việt Anh luôn chú trọng những giải pháp đơn giản nhất nhưng hiệu quả đạt cao nhất để đồng hành cùng người nuôi trồng thủy sản.

Thứ nhất, Việt Anh cam kết hỗ trợ người nuôi bằng giải pháp sinh học tiên tiến, như cung cấp các sản phẩm Viaprotic, VAQ3+2 giúp tối ưu hiệu quả nuôi mà không cần lạm dụng kháng sinh.

Thứ hai, chúng tôi sẽ thực hiện tư vấn kỹ thuật tận nơi. Đội ngũ chuyên gia của Việt Anh luôn đồng hành, hướng dẫn người nuôi áp dụng các phương pháp sản xuất sạch, hiệu quả.

Thứ ba, Việt Anh có những chính sách hỗ trợ đại lý và hộ nuôi, đặc biệt, hợp tác cùng các đại lý để đưa sản phẩm chất lượng đến tay người nuôi với chi phí hợp lý.

Hơn 20 năm qua, chúng tôi đ ã không ngừng phát triển, mở rộng quy mô và đổi mới công nghệ nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển xanh bền vững. Một trong những dấu ấn quan trọng nhất của Việt Anh là sự tiên phong trong nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học vào ngành nuôi trồng thủy sản.

Phóng viên: Ngành thủy sản Việt Nam được dự báo có nhiều tiềm năng phát triển mạnh hơn nữa, tuy nhiên, theo đó thì thị trường cũng sẽ có những

phát triển như thế nào, thưa ông? Ông Trần Văn Dũng: Việt Anh có đầy

kiện cần và

giữ vững vị thế trên thị trường Việt Nam. Chiến lược thời gian tới của Việt Anh là đẩy mạnh đổi mới và mở rộng thị trường. Đầu tiên, chúng tôi vẫn sẽ thực hiện nâng cao năng lực sản xuất, trong đó, tiếp tục đầu tư vào công nghệ sinh học, nhà máy hiện đại để đảm bảo sản phẩm chất lượng cao.

Thứ hai, Việt Anh sẽ mở rộng thị trường xuất khẩu, nhằm đưa các sản phẩm đạt chuẩn quốc tế ra thị trường nước ngoài, đặc biệt là khu vực Trung Đông.

Thứ ba, trong thời đại công nghệ số như hiện nay, Việt Anh không thể tách rời cuộc cách mạng mới này. Vậy nên, một trong những chiến lược mới của Công ty là thực hiện chuyển đổi số trong quản lý và chăm sóc khách hàng, trong đó, tập trung ứng dụng công nghệ trong giám sát vùng nuôi, cung cấp thông tin nhanh chóng và hiệu quả hơn.

Với định hướng này, Việt Anh hoàn toàn tự tin sẽ tiếp tục khẳng định vị thế vững chắc trong ngành thủy sản, đồng hành với người nuôi tôm hướng đến những vụ nuôi thành công.

Trân trọng cảm ơn ông!

Thuế quan Mỹ

Thị trường thủy sản đối đầu sóng gió

Người tiêu dùng cá rô phi và cá hồi tại Mỹ, cùng các hãng sản xuất tại Trung

Quốc và Canada sẽ là những đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nhất nếu Tổng

thống Donald Trump thực hiện kế hoạch tăng thuế nhập khẩu.

Theo chuyên gia Gorjan Nikolik của Rabobank, quyết định nâng mức thuế đối với cá rô phi nhập khẩu từ Trung Quốc từ 25% lên 45%, kết hợp áp thuế 25% đối với hàng hóa từ Canada, sẽ gây ra tác động tiêu cực đáng kể đối với chuỗi cung ứng thủy sản. Tình hình có thể nghiêm trọng hơn nếu Mỹ triển khai thêm các khoản phí cảng đối với các tàu do Trung Quốc đóng và vận hành. Điều này không chỉ làm gia tăng chi phí nhập khẩu mà còn có nguy cơ gián đoạn nguồn cung các mặt hàng thủy sản phổ biến trên thị trường Mỹ.

Thị trường rô phi chao đảo Mức thuế mới 45% đối với cá rô phi đông lạnh nhập khẩu từ Trung Quốc, chiếm tới 82% trong tổng số 209 triệu bảng nhập khẩu vào Mỹ năm ngoái, chắc chắn sẽ gây ra cú sốc lớn cho giá cả và nhu cầu tiêu dùng tại thị trường này. Trước quy mô nhập khẩu khổng lồ như vậy, câu hỏi đặt ra là liệu các quốc gia xuất khẩu khác có thể lấp đầy khoảng trống này, và nếu có, thì mất bao lâu?.

Indonesia đã hưởng lợi khi xuất khẩu cá rô phi sang Mỹ tăng 22% trong năm qua. Tuy nhiên, theo ông Nikolik, sản lượng của Indonesia chỉ bằng một phần mười so với Trung Quốc. Trong khi đó, Việt Nam có thể bù đắp phần nào bằng cá tra - từng ghi nhận mức tăng 36% về lượng nhập khẩu khi

Mỹ áp thuế 20% lên cá rô phi. Dù vậy, vị chuyên gia cảnh báo rằng, với thặng dư thương mại

lên tới 123 tỷ USD với Mỹ, Việt Nam có thể trở thành mục tiêu tiếp theo của các biện pháp thuế quan nghiêm ngặt hơn.

“Nếu cá rô phi Trung Quốc và cá tra Việt Nam đều bị áp thuế, toàn bộ phân khúc cá nước

ngọt trên thị trường Mỹ có thể

bị ảnh hưởng nghiêm trọng”, ông Nikolik nhận định. Do thiếu nguồn thay thế đủ lớn để bù

đắp nguồn cung sụt giảm, dự

báo người tiêu dùng Mỹ sẽ phải

chuyển sang các loại thủy sản

khác ngoài cá rô phi, hoặc lựa

chọn những nguồn protein động

vật giá rẻ hơn như thịt gia cầm.

Thị trường thủy sản Mỹ hiện

vẫn phần nào được bảo vệ nhờ

chiến thắng của ông Trump hồi

tháng 11 và chính sách ưu tiên

đánh thuế hàng nhập khẩu.

Điều này đã thúc đẩy các nhà

nhập khẩu tăng mạnh lượng

mua fillet cá rô phi đông lạnh –

tăng 30% từ tháng 11 đến tháng

12, và tăng 51% so với cùng kỳ

năm trước.

Nói về giải pháp lâu dài

cho vấn đề trên, ông Gorjan Nikolik cho rằng, Brazil, Ấn Độ và Indonesia có thể trở thành nguồn cung ổn định nếu tiếp

tục tránh được mức thuế cao

từ Mỹ - điều hoàn toàn khả

thi vì các nước này được xem là đồng minh chiến lược của Washington. Tuy nhiên, hiện

tại, lượng cá tra và cá rô phi họ xuất khẩu sang Mỹ vẫn còn

thấp và cần thêm thời gian để

phát triển ngành công nghiệp

xuất khẩu đủ lớn. Hiện, ngành nuôi cá rô phi nội địa tại Mỹ quy mô hẹp, chỉ phục vụ thị trường cá tươi sống và chưa mở rộng do chi phí nuôi ở Trung Quốc rẻ hơn.

Cá hồi “bế tắc”, tôm đón

cơ hội

Ngành nuôi cá hồi của

Canada sẽ bị ảnh hưởng nghiêm

trọng nếu Trump áp mức thuế

25% đối với hàng nhập khẩu từ

Canada. Theo Nikolik, Canada cung cấp 144 triệu bảng trong

tổng số 283 triệu bảng cá hồi

tươi nguyên con mà Mỹ nhập

khẩu trong năm 2024. Ông

nhận định, nếu mức thuế này

được áp dụng vào tháng 4, các

quốc gia sản xuất cá hồi khác

sẽ gặp khó khăn trong việc lấp

đầy khoảng trống do nguồn cung cá hồi không linh hoạt, bởi quy trình nuôi kéo dài hai năm, năng lực sản xuất hạn chế và việc vận chuyển cá tươi bằng

đường hàng không tốn kém,

đặc biệt đối với cá nguyên con chưa chế biến.

“Rất khó để các quốc gia khác

đẩy mạnh xuất khẩu cá hồi tươi sang Mỹ trong ngắn hạn. Mặc

dù họ có thể thực hiện một số

điều chỉnh nhỏ, nhưng vì cá hồi

chủ yếu được vận chuyển bằng máy bay, Canada vẫn không có

đối thủ. Giá sẽ phải tăng đáng

kể trước khi các quốc gia như

Chile, Scotland, Na Uy, Iceland

và Quần đảo Faroe có thể gia

tăng xuất khẩu sang Mỹ.

Trong khi các nhà xuất khẩu tôm nhắm đến thị trường Mỹ

đã phải chịu ảnh hưởng từ sức mạnh vận động hành lang của ngành tôm đánh bắt tự nhiên tại

Mỹ, họ có khả năng sẽ ít bị ảnh hưởng hơn khi đối mặt với đợt thuế mới”, vị chuyên gia phân tích.

Tôm là thủy sản được tiêu thụ nhiều nhất tại Mỹ và có lượng nhập khẩu lớn nhất. Hai quốc gia xuất khẩu chính là Ấn Độ và

Ecuador có ít thặng dư thương

mại với Mỹ, do đó ít có khả năng bị ảnh hưởng bởi thuế, ít nhất là theo tiêu chí này. Ấn Độ, nhà

cung cấp tôm lớn nhất cho Mỹ, còn là đồng minh chiến lược quan trọng của Mỹ ở châu Á.

Với nguồn cung tôm linh hoạt, ngay cả khi một số nhà sản

xuất như Việt Nam bị đánh thuế, các quốc gia khác vẫn có thể dễ dàng lấp đầy khoảng trống

cung ứng. Sau nhiều năm chịu các mức thuế đối kháng và chống bán phá giá, hiện tôm có vẻ là loài ít bị ảnh hưởng nhất.

Chi phí vận chuyển tăng Mặc thuế của Mỹ có thể làm hỗn loạn thị trường thủy sản, nhưng một viễn cảnh khác, thậm chí còn nguy hiểm hơn đối với thương mại toàn cầu và địa chính trị, đang ngày càng đến gần. Theo ông Michael Every, chuyên gia kinh tế vĩ mô, trong một nghiên cứu gần đây, những đề xuất cực đoan từ Đại diện Thương mại Mỹ (USTR) về việc áp dụng phí qua cảng đối với các tàu Trung Quốc đã gây sốc cho ngành hàng hải toàn cầu. Vào tháng 2, USTR đã đề xuất thu phí lên tới 1,5 triệu USD đối với các tàu do Trung Quốc đóng khi đi vào các cảng của Mỹ. Hội đồng Vận tải biển thế giới cảnh báo: 98% tàu cập cảng Mỹ có thể bị ảnh hưởng bởi các đề xuất của USTR, kéo theo ngu cơ xáo trộn chuỗi cung ứng toàn cầu. Các nhà hoạch định chính sách cần xem xét lại những đề xuất này và tìm kiếm giải pháp thay thế để hỗ trợ các ngành công nghiệp Mỹ. Hiệp hội các nhà sản xuất Mỹ đã lên tiếng ủng hộ cả hai đề xuất về phí cảng cũng như các hạn chế liên quan đến việc hàng xuất khẩu phải sử dụng tàu đóng của Mỹ. Tuy nhiên, họ cũng cảnh báo phí vào cảng có thể gây gánh nặng quá lớn cho các nhà sản xuất Mỹ. Hiệp hội cho biết, các khoản phí sẽ làm giảm khả năng cung cấp năng lực vận chuyển cần thiết tại các cảng Mỹ, tăng áp lực lên cơ sở hạ tầng trong nước và làm tăng chi phí có thể khiến hàng hóa xuất khẩu của Mỹ kém cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Vũ

Hà Tĩnh

Ngư dân “đắc lộc” ngay đầu vụ cá nam

Nhờ thời tiết thuận lợi, trong gần một tuần qua, ngư dân vùng biển Cửa Sót (Thạch Hà, Hà Tĩnh) đã thu hoạch hàng chục tấn hải sản, trị giá hàng trăm triệu đồng. Cá đù đầu mùa, thịt dày và ngọt béo, được ưa chuộng với giá bán lẻ từ 30.000 – 45.000 đồng/kg. Bên cạnh cá đù, ngư dân còn đánh bắt được cá cơm, cá nục, cá mai, cá ngừ ơng… Cá cơm bạc có giá từ 45.000 – 50.000 đồng/kg, mang lại lợi nhuận cao sau khi trừ chi phí. Cá mai cũng được đánh bắt nhiều và có giá bán khá cao trong dịp này.

Bình Thuận Tuy Phong vào mùa mực

Mùa mực ở Tuy Phong, Bình Thuận từ tháng 3 đến tháng 5 là thời gian ngư dân đánh bắt mực. Mực cơm có giá từ 80.000 – 100.000 đồng/kg, trong khi mực ống lớn dao động từ 200.000 - 300.000 đồng/kg. Mực Tuy Phong nổi bật với độ tươi ngon, mềm và ngọt, được thị trường địa phương ưa chuộng và xuất khẩu ra khu vực, góp phần nâng cao thu nhập cho ngư dân và thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương.

ĐBSCL

Giá cá kèo tăng cao, người nuôi lãi lớn

Những ngày qua, giá cá kèo tại ĐBSCL tăng cao kỷ lục, mang lại lợi nhuận đáng kể cho người nuôi. Ngày 31/3, tại Cà Mau, thương lái thu mua cá kèo tận ao với mức giá 205.000 đồng/kg đối với loại 30 con/ kg và 190.000 đồng/kg đối với loại 40 con/kg. So với hơn một tháng trước, giá cá đã tăng khoảng 40.000 đồng/kg, dù không vào dịp lễ, Tết. Nguyên nhân chính khiến giá cá kèo tăng mạnh là do nguồn cung giảm trong khi nhu cầu tiêu thụ vẫn ở mức cao. Những năm gần đây, nhiều hộ dân giảm diện tích thả nuôi cá kèo vì lo ngại biến động giá cả và điều kiện thời tiết thất thường, khiến sản lượng cá giảm đáng kể. Trong khi đó, thị trường tiêu thụ, đặc biệt là tại các nhà hàng, quán ăn lớn ở TP. HCM và các tỉnh lân cận, vẫn duy trì ổn định, đẩy giá cá tăng mạnh. Nhiều hộ nuôi phấn khởi khi bán cá với mức giá cao nhất trong nhiều năm qua, tạo động lực để họ mở rộng sản xuất trong những vụ nuôi sắp tới.

Giá cá nuôi lồng bè tăng

Khảo sát tại một số hộ nuôi cá lồng bè tại khu vực ĐBSCL cho thấy giá cá thương phẩm hiện đang tăng mạnh. Cụ thể, cá bớp có giá dao động từ 190.000 - 210.000 đồng/kg, tăng từ 50.000 - 60.000 đồng/kg so với trước. Cá mú trân châu cũng tăng mạnh, hiện có giá từ 180.000 - 190.000 đồng/kg, tăng từ 65.000 - 70.000 đồng/kg. Cá chim vây vàng có giá 140.000 - 145.000 đồng/kg. Tuy nhiên, cá mú sao lại giảm nhẹ, từ 480.000 đồng/kg năm ngoái xuống còn 410.000 đồng/kg. Cùng với đó, giá con giống cũng tăng đáng kể, như cá mú giống năm ngoái chỉ có giá 15.000 đồng/con, nay đã lên 22.000 đồng/con. Cá bớp giống hiện có giá 30.000 đồng/con, tăng 10.000 đồng/con so với năm trước, khiến người nuôi gặp nhiều khó khăn.

Kiên Giang Giá cá giống tăng

Giá cá giống tại tỉnh Kiên Giang đang có xu hướng tăng khoảng 30% so với cùng kỳ năm 2024, do nhu cầu mua giống thả nuôi của người dân tăng mạnh. Theo ghi nhận tại một số cơ sở kinh doanh cá giống ở huyện Giồng Riềng và Kiên Lương, giá cá sặc rằn giống hiện dao động từ 150.000 - 180.000 đồng/kg (loại 100 - 140 con/kg), cá rô từ 90.000 - 115.000 đồng/kg (loại 140 - 150 con/kg), cá trê vàng từ 110.000 -120.000 đồng/kg (loại 120 - 150 con/kg), cá lóc từ 1.0001.100 đồng/con, cá lân 100 con/kg có giá từ 1.000 - 1.200 đồng/con… Nguyên nhân khiến giá cá giống tăng là do nhu cầu thả nuôi của người dân đang ở mức cao, trong khi nguồn cung hạn chế. Thời tiết thuận lợi và giá cá thương phẩm ổn định thời gian qua cũng góp phần thúc đẩy người nuôi mở rộng sản xuất, kéo theo nhu cầu con giống tăng mạnh.

Thị trường tôm giống sôi động

Từ đầu năm 2025 đến nay, thị trường tôm giống tại các vùng nuôi tôm trọng điểm của tỉnh Kiên Giang trở nên sôi động, đặc biệt trong mùa vụ thả tôm. Nhu cầu tôm giống tăng mạnh, khiến giá cả dao động từ vài chục đồng đến gần 200 đồng/post tùy loại và chất lượng giống. Nông dân hiện nay lựa chọn tôm giống từ các công ty uy tín, với giá tôm sú gia hóa dao động từ 159 - 168 đồng/post và TTCT siêu tăng trưởng từ 128 - 138 đồng/post. Mức giá này không có sự biến động mạnh so với năm trước. Tuy nhiên, tôm giống càng xanh toàn đực đang thu hút sự quan tâm đặc biệt. Giá tôm giống này hiện tại dao động từ 130 - 140 đồng/con, tăng từ 20 - 40 đồng/con so với một tháng trước. Các đại lý hiện chỉ nhận đơn đặt trước từ 7 - 10 ngày và báo giá trước 3 ngày do tình hình giá cả tăng liên tục.

Vĩnh Long Giá lươn ổn định trở lại

Sau một thời gian dài giá lươn thương phẩm thấp, gần đây giá lươn đã ổn định trở lại, giúp nông dân có lời. Sau 8 - 10 tháng nuôi, lươn đạt trọng lượng 300 – 350 g/con và có thể xuất bán. Hiện, giá lươn (loại 3 con/kg) dao động từ 110.000 -120.000 đồng/kg. Với mức giá này, bình quân 1.000 con lươn, nông dân lãi khoảng 15 triệu đồng. Giá lươn tăng trong thời gian qua là do nhiều hộ nuôi lươn không tái nuôi vì lỗ, dẫn đến nguồn cung lươn thương phẩm giảm. Hiện nay, đa phần lươn được xuất bán tại TP. Cần Thơ và TP. HCM .

Phú Quý

Sản lượng đánh bắt hải sản đạt 2.841 tấn

Sản lượng hải sản đánh bắt trong quý I/2025 (từ ngày 11/12/2024 đến 10/3/2025) đạt 2.841 tấn, bao gồm 1.757 tấn cá, 713 tấn mực và 371 tấn hải sản khác, đạt 9,47% so với kế hoạch năm (mục tiêu 30.000 tấn), giảm 2.407 tấn so với cùng kỳ năm 2024. Về năng lực tàu thuyền, tính đến ngày 10/3/2025, tổng số tàu là 1.740 chiếc, trong đó có 105 chiếc tàu dưới 6m do địa phương cấp xã quản lý, và 1.635 chiếc tàu cá từ 6m trở lên do Chi cục Thủy sản quản lý, bao gồm 130 chiếc tàu làm dịch vụ thu mua và chuyển tải hải sản.

Peru

Giá mực giảm sâu ở Chimbote

Giá mực ống khổng lồ tại

Chimbote – khu vực trung tây

Peru, đang lao dốc. Trong khi đó, giá tại Tacna (miền Nam) vẫn ổn định, còn thị trường

Paita (miền Bắc) ghi nhận giao dịch hạn chế. Cụ thể, giá mực cập bến tại Chimbote chỉ còn 5,5-7 soles/kg (1,48-1,89 USD/kg), thấp hơn đáng kể so với mức 8.000-8.500 soles/tấn (2.160-2.295 USD/tấn) của tuần trước.

Trong khi đó, giá tại Tacna vẫn ổn định ở mức 8 soles/kg (2,16 USD/ kg) và chưa có dấu hiệu điều chỉnh. Thị trường Paita tiếp tục trì trệ, chưa có cập nhật về giá. Hiện nay, các nhà máy chế biến tại Chimbote tiếp nhận khoảng 200 tấn mực nguyên liệu mỗi ngày, chủ yếu để chế biến mực nguyên con. Dù kích thước mực nhỏ hơn, nhưng giá giảm đã kích thích hoạt động thu mua, giúp thị trường sôi động hơn.

Trung Quốc Giá mực đại dương vẫn ổn định

Thị trường mực đại dương vẫn duy trì ổn định với giá cả không biến động ở hầu hết các kích cỡ. Các loại mực miếng lớn, đuôi, đầu to, dải cỡ trung và dải lớn tiếp tục duy trì mức giá của tuần trước. Tuy nhiên, theo China Ocean Squid Index, giá dải nhỏ và dải cực nhỏ đã giảm nhẹ. Cụ thể, giá dải nhỏ giảm 200-700 nhân dân tệ/tấn (khoảng 28-98 USD/tấn), tương đương 0,84%-2,98%, trong khi dải cực nhỏ giảm 500 nhân dân tệ/tấn (khoảng 70 USD/tấn), tương đương 2,17%-2,22%. Dù có sự điều chỉnh ở các sản phẩm kích thước nhỏ, thị trường mực đại dương dự kiến vẫn duy trì sự ổn định trong ngắn hạn. Khu vực Shidao, Longkou thuộc tỉnh Sơn Đông, vựa chế biến mực của Trung Quốc, không có biến động về giá. Các sản phẩm như xiên mực Argentina, râu mực chiên giòn, dải tai và hoa mực Peru vẫn giữ nguyên mức giá trước đó nhờ nhu cầu ổn định.

Châu Âu

Lo ngại cá ngừ Thái Lan miễn thuế tràn vào thị trường Thái Lan đang xuất khẩu 10.000 tấn cá ngừ sang thị trường châu Âu với mức thuế suất 24%. Việc miễn thuế nhờ vào Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) giữa Liên minh châu Âu (EU) và Thái Lan, có thể khiến nhập khẩu cá ngừ gia tăng mạnh mẽ, đe dọa sự tồn tại của đội tàu cá ngừ châu Âu. Ông Xavier Leduc, Chủ tịch Hiệp hội cá ngừ Europêche cảnh báo: “Lườn cá ngừ và cá ngừ đóng hộp chế biến tại Thái Lan, từ các ngư trường châu Á với tiêu chuẩn thấp, đang đe dọa trực tiếp đội tàu bền vững của chúng ta”. Ông cũng nhấn mạnh, việc loại bỏ thuế quan sẽ làm trầm trọng thêm sự mất cân bằng này và làm suy yếu khả năng cạnh tranh công bằng. Europêche kêu gọi Ủy ban châu Âu (EC) loại bỏ cá ngừ khỏi Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) và duy trì các quy định nghiêm ngặt về xuất xứ, vì đây là cách duy nhất để bảo vệ ngành công nghiệp cá ngừ châu Âu và đảm bảo sự công bằng trong thị trường chung.

Nhật Bản

Giá cá hồi Coho Chile cao kỷ lục

Theo Bộ Tài chính Nhật Bản, tổng kim ngạch nhập khẩu cá hồi và cá trout trong năm 2024 đạt 296,923 triệu yên (1,99 tỷ USD), tăng 7% so với năm trước. Dù nhập khẩu các sản phẩm chế biến như cá hồi muối, hun khói và chế phẩm khác giảm, nhưng lượng cá tươi và đông lạnh lại tăng, đạt 230.879 tấn, tăng 8% so với năm trước. Sản lượng cá hồi Coho đông lạnh (thịt xẻ) dùng để chế biến fillet tăng 18%, đạt 99.127 tấn. Ngược lại, sản lượng cá hồi Coho Chile – mặt hàng chủ lực – dự kiến giảm trong mùa thu hoạch từ hè đến thu. Trong khi đó, giá bán trong nước tiếp tục xu hướng tăng. Đến đầu tháng 3, giá loại 4/6 pound đạt 1.280 yên/kg (8,57 USD/kg), còn loại 6/9 pound dao động 1.2501.260 yên/kg (8,37-8,43 USD/kg) – mức cao nhất từ trước đến nay. Do biên lợi nhuận giữa nguyên liệu thô và sản phẩm hoàn chỉnh không còn hấp dẫn, giá bán dự kiến sẽ tăng tiếp từ tháng 4.

Việc Mỹ xem xét nới lỏng một phần các lệnh trừng phạt đối với Nga trong khuôn khổ các cuộc đàm phán hòa bình sẽ tạo điều kiện để Nga nối lại việc cung cấp cua cho thị trường Mỹ. Một số thượng nghị sĩ Nga, trong đó có Alexander Shenderyuk-Zhidkov từ khu vực Kaliningrad, đã xác nhận thông tin này. Theo họ, một trong những điều kiện quan trọng để đạt được thỏa thuận về Biển Đen giữa Nga và Mỹ là dỡ bỏ các lệnh trừng phạt đối với ngân hàng nông nghiệp Rosselkhozbank và các ngân hàng khác có liên quan đến thương mại nông sản của Nga. Các thượng nghị sĩ Nga cho rằng mặc dù cá, cua và các sản phẩm hải sản khác không bị trừng phạt trực tiếp từ Mỹ và phần lớn các quốc gia phương Tây, các quốc gia này đã đơn phương cấm mua sản phẩm cá của Nga. Theo báo cáo từ hãng thông tấn TASS, Nga hy vọng các cuộc đàm phán hòa bình sẽ giúp dỡ bỏ hạn chế công nghệ đối với đội tàu đánh cá, đặc biệt là các lệnh trừng phạt phương Tây.

Scotland

Cá hồi tiêu thụ tốt tại Mỹ, bất chấp thuế 10%

Nông dân nuôi cá hồi ở Scotland tin tưởng cá hồi vẫn bán chạy tại Mỹ bất chấp mức thuế nhập khẩu 10% mà Tổng thống Donald Trump công bố ngày 2/4/2025. Ông Tavish Scott, Giám đốc điều hành tổ chức thương mại Salmon Scotland, cho biết: “Khoảng một phần tư lượng cá hồi xuất khẩu từ Scotland được tiêu thụ tại Mỹ. Chúng tôi tự tin rằng người Mỹ sẽ vẫn tiếp tục mua cá hồi Scotland, nhất là khi quốc gia này phụ thuộc vào nhập khẩu.” Các nhà sản xuất cá hồi Scotland mong muốn duy trì mối quan hệ thương mại ổn định và chuyên nghiệp với Mỹ, vì vậy họ ủng hộ nỗ lực của Chính phủ Anh trong việc đạt mục tiêu này. Năm 2024, giá trị xuất khẩu cá hồi sang Mỹ đạt 225 triệu bảng, tăng 61% so với năm 2023. Mỹ hiện là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của cá hồi Scotland, chỉ sau Pháp. Mỹ áp dụng thuế 15% đối với cá hồi từ Norway, trong khi cá hồi từ Chile và Iceland chịu thuế 10%. Điều này giúp cá hồi Scotland không bị ảnh hưởng về giá so với các quốc gia khác.

Khoa Học Xanh

VỚI CÁC SẢN PHẨM BỀN VỮNG

CHO NGÀNH NÔNG NGHIỆP THUẬN THIÊN

Tham gia Hội chợ Triển lãm Quốc tế Công

nghệ ngành tôm Việt Nam lần thứ 6 năm 2025 (VietShrimp 2025), Công ty TNHH Kỹ Thuật Công

Nghệ Khoa Học Xanh hân hạnh là nhà tài trợ vàng, mang đến hội chợ gian hàng với thiết kế độc đáo và nhiều sản phẩm nổi trội, đáp ứng nhu cầu thực tế của người nuôi, cùng đội ngũ nhân viên năng động, nhiệt tình. Nhân dịp này, ông Trương Đình Ty - Giám đốc Khoa Học Xanh đã có những chia sẻ cùng độc giả của Tạp chí Thủy sản Việt Nam.

Phóng viên: Thưa ông, trải qua rất nhiều lần tham dự VietShrimp, hẳn là sự kiện năm nay đã mang

tới cho ông cũng như Khoa Học

Xanh những trải nghiệm cũng

như cảm nhận rất khác?

Ông Trương Đình Ty: Như mọi lần, năm nay Khoa Học Xanh đến với VietShrimp với một tâm trạng rất hưng phấn, hân hoan. Bởi có mặt tại sự kiện lớn của ngành

tôm Việt Nam là cơ hội để Khoa

Học Xanh có thể ngồi lại thật

lâu với những vị khách đã đồng

hành cùng mình trong suốt thời gian qua, là dịp để chúng tôi trao đổi kiến thức, kinh nghiệm, trải nghiệm với những đối tác trong và ngoài nước. Chúng tôi đã cùng nhau thảo luận về những tiềm năng và thách thức của ngành thủy sản hiện tại, đề ra các giải pháp, các chương trình để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển của con tôm Việt Nam.

Phóng viên: Không chỉ tôi mà rất nhiều khách tham quan rất ấn tượng với các sản phẩm mà Khoa Học Xanh trưng bày tại VietShrimp 2025. Ông có thể bật mí thêm về các sản phẩm này cũng như thông điệp mà Khoa Học Xanh muốn gửi gắm với quý khách hàng?

Ông Trương Đình Ty: Năm nay, Khoa Học Xanh có những sản phẩm mẫu gửi tặng khách hàng như dịch cao tỏi đen và nấm men. Chúng tôi luôn tự hào là vua nấm men với kho sản phẩm nấm men đa dạng, Khoa Học Xanh muốn giới thiệu đến người nuôi những sản phẩm nấm men chất lượng, đáp ứng được vấn đề về đường ruột cho tôm và hỗ trợ xử lý nước, giải quyết tình trạng nấm đồng tiền trong ao nuôi. Ngoài ra, khách hàng đến tham quan còn được tham gia các hoạt động trải nghiệm quay số

trúng thưởng để mang về những phần quà lưu niệm ý nghĩa.

Giống như tên gọi của Công ty, chúng tôi luôn nhất quán với tôn chỉ mang đến sự nghiệp xanh cho ngành nuôi tôm bền vững. Những sản phẩm vượt trội được đem đến cho hội chợ năm nay là những sản phẩm thảo dược gần gũi với thiên nhiên.

Phóng viên: Các sản phẩm của Khoa Học Xanh có sự gắn kết như thế nào với chủ đề của Hội chợ năm nay đó là “Xanh hóa vùng nuôi”, thưa ông?

Ông Trương Đình Ty: Như các bạn đã biết, hiện nay, tại Việt Nam đã xuất hiện nhiều mô hình nuôi tôm theo hướng tuần hoàn

để tối ưu hóa đầu vào và đầu ra. Xanh hóa chuỗi sản xuất, chuẩn hóa lại sản xuất là mục tiêu mà ngành tôm Việt Nam hướng đến và cũng là giải pháp mà thế giới lựa chọn trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang ngày một trầm trọng. Chúng tôi nhận thấy, việc trở lại của VietShrimp lần thứ 6 năm 2025 phù hợp với tình hình nuôi hiện nay, cung cấp góc nhìn mới, góp phần định hình chiến lược giúp ngành tôm thích ứng tốt hơn trước những thách thức về môi trường.

Vẫn là thông điệp xanh, sản phẩm mà Khoa Học Xanh tâm đắc nhất đó là dòng probiotics, bacillus có lợi cho nền nông nghiệp xanh, giúp duy trì sức khỏe cho con tôm.

Bởi vì là xu hướng mới, cho nên các sản phẩm của chúng tôi có sự kết hợp hài hòa của những sản phẩm probiotics và công nghệ thảo dược cũng như là tinh dầu. Các sản phẩm này đã được sự đón nhận của đông đảo bà con và quan trọng hơn hết đó là nó mang tính bền vững trong tương lai.

Phóng viên: Trong bối cảnh thị trường các sản phẩm phục vụ ngành thủy sản nói chung và

Công ty TNHH Kỹ Thuật Công Nghệ Khoa Học Xanh là nhà nhập khẩu và phân phối chuyên nghiệp các mặt hàng nguyên liệu như vi sinh – chế phẩm sinh học, yucca, dinh dưỡng, khoáng, phụ gia, hóa chất… dùng trong lĩnh vực chăn nuôi thú y – thủy sản và hóa chất công nghiệp. Khoa Học Xanh xác định sứ mệnh của mình là mang đến những nguồn nguyên liệu chất lượng nhất cho ngành côngnông nghiệp nói chung và ngành thủy sản nói riêng. Với phương châm uy tín, chất lượng, hợp tác lâu dài, công ty mong muốn được đồng hành với khách hàng, cùng nhau phát triển, cùng nhau hướng đến sự bền vững, thịnh vượng.

nuôi tôm nói riêng rất nhiều như

hiện nay, thì Khoa Học Xanh đã làm gì để tạo ra dấu ấn riêng, thưa ông?

Ông Trương Đình Ty: Cái mà

Khoa Học Xanh mang đến cho

người nuôi cũng như cho những

nhà sản xuất và bà con đó là

một giá thành tốt. Điều này sẽ

góp phần tạo ra sự cạnh tranh

tốt cho ngành tôm của Việt Nam so với ngành tôm của các nước

khác như Ecuador, Indonesia,...

Qua đó, giúp giảm giá thành

sản xuất cho con tôm, tạo sức

bật vươn ra thị trường thế giới,

đủ sức cạnh tranh với con tôm

của những nước phát triển.

Đặc biệt, trước khi tham gia VietShrimp 2025, Khoa Học

Xanh cũng đã tham gia VIV Asia 2025 - Triển lãm thương mại Quốc tế hàng đầu dành

cho ngành sản xuất chăn nuôi

ở Châu Á diễn ra tại Thái Lan

từ 12 - 14/3. Qua đây chúng tôi cũng muốn đem thương hiệu của

Việt Nam ra thị trường thế giới, giới thiệu những sản phẩm phục vụ nuôi trồng thủy sản do chính

người Việt làm ra.

Phóng viên: Với hành trình 20 năm gắn bó cùng người nuôi tôm, Khoa Học Xanh đã trải qua những khó khăn, thử thách gì? Động lực nào đã giúp ông đưa tên tuổi của Công ty đến gần hơn với bà con nông dân?

Ông Trương Đình Ty: Tôi thấy khó khăn nhất chính là khi giá tôm giảm, thị trường xuất khẩu gặp sự cạnh tranh từ nhiều quốc gia có nền nuôi tôm phát triển. Chỉ khi giá tôm thực sự có lợi thì người nuôi mới mạnh dạn mở rộng sản xuất, còn nếu người nuôi vẫn bị giới hạn về công nghệ, cạnh tranh về giá thì rất khó để phát triển.

Trong suốt chặng đường 20 năm phát triển, công ty đã trải qua nhiều thăng trầm, song chúng tôi luôn vững niềm tin vào con tôm Việt. Đây chính là động lực để mọi người cùng quyết tâm vượt qua khó khăn, bởi “niềm tin vào con tôm Việt luôn vững vàng”.

Bản thân tôi là người con được sinh ra, lớn lên ở vùng nuôi tôm, nên tôi thấu hiểu được sự vất vả, thăng trầm, lam lũ của người nông dân. Sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Thủy sản Nha Trang, từ sâu trong tiềm thức tôi luôn kiên định và cố gắng hết mình cho mục tiêu “mang tới những sản phẩm nông nghiệp bền vững, thuận thiên”.

(Thực hiện)

Đ

ó là chia sẻ của ông

Hugonin MaximeTổng Giám đốc Công ty TNHH MiXscience Asia với Tạp

chí Thủy sản Việt Nam bên lề sự kiện VietShrimp 2025.

Phóng viên: Trong lần trở

lại tham dự VietShrimp 2025

tổ chức tại Cần Thơ, ông cảm

nhận như thế nào về không khí

của hội chợ năm nay?

Ông Hugonin Maxime: Chúng

tôi đã tham gia VietShrimp gần

như hàng năm và trong 3 năm

trở lại đây, chúng tôi tham gia

với tư cách là nhà đồng tài trợ.

Như mọi năm, việc có mặt tại VietShrimp luôn tạo cho tôi

những cảm xúc đặc biệt, một

niềm vui lớn và thực sự quan

trọng đối với chúng tôi.

Năm nay, gian hàng của

MiXscience Asia nằm ở một vị trí tuyệt vời. Trải qua các lần

tham dự, chúng tôi nhận thấy sự

phát triển, chuyên nghiệp hơn từ

Ban tổ chức, góp phần tạo nên

sức hút mạnh mẽ cho sự kiện

hàng đầu của ngành tôm trong

khu vực.

Phóng viên: VietShrimp 2025 đã giúp MiXscience Asia

quảng bá thương hiệu ra sao, thưa ông?

Ông Hugonin Maxime: Đây là sự kiện không thể bỏ lỡ nếu

chúng tôi muốn trở thành một

mắt xích đóng góp vào sự phát

triển của ngành thủy sản Việt

Nam. Việc tham gia hội chợ này

là một bước đệm hiệu quả để

chúng tôi có thể cải thiện hình

ảnh, thương hiệu và tiếp tục

truyền tải thông điệp của chúng

vọng nhiều đột phá trong năm 2025

“Sự kiện VietShrimp 2025 đã mang lại cơ hội

tuyệt vời để MiXscience Asia có thể kết nối với khách hàng và đối tác trong ngành. Đội ngũ của công ty tự hào khi giới thiệu những phát triển mới nhất từ MiXscience Asia, nhằm nâng cao hiệu quả và tính bền vững trong dinh dưỡng động vật”.

đó là “tính bền vững” - rất phù hợp với chủ đề của hội chợ năm nay là “xanh hóa vùng nuôi”.

Trong vài năm qua, chúng tôi đã và đang cung cấp các sản phẩm thay thế hóa chất, kháng sinh. Tuy nhiên, công việc chính của chúng tôi là hỗ trợ và hướng dẫn người nuôi thay đổi thói quen và chuyển sang các thực hành nuôi trồng bền vững hơn. Điều

này là bắt buộc để ngành nông nghiệp Việt Nam có thể tồn tại và cạnh tranh với các quốc gia khác.

Phóng viên: Để đáp ứng “tính

bền vững” trong nuôi trồng

thủy sản như ông vừa nói, MiXscience Asia đã mang đến những sản phẩm nổi bật nào giới thiệu tại triển lãm năm nay?

Ông Hugonin Maxime: Các dòng sản phẩm của chúng tôi

đã được bà con nông dân biết đến rộng rãi, nổi bật là 04 sản phẩm chính.

Sản phẩm Mix-Amune giúp vật nuôi vượt qua căng thẳng trong quá trình sinh trưởng và phát triển; Noliflore Aqua giúp cái thiện môi trường và chất lượng nước, đây cũng là yếu tố quan trọng nhất mà người nuôi cần kiểm soát.

Đặc biệt, MiXscience Asia mang tới VietShrimp 2025 hai sản phẩm bán chạy nhất, nhắm trực tiếp vào các mầm bệnh là: A.Live chống lại vi khuẩn và virus như một giải pháp thay thế cho hóa chất, đặc biệt là kháng sinh và A.coverost giúp ngăn ngừa EHP, đây là những bệnh phổ biến trong nuôi trồng thủy sản hiện nay. Tất cả các sản phẩm mà tôi vừa giới thiệu đều là công cụ

an toàn sinh học, cũng là cách duy nhất để người nuôi tránh sử dụng hóa chất, vốn tác động lớn đến sức khỏe và mối quan tâm của người tiêu dùng. Điều này sẽ góp phần thúc đẩy nuôi trồng thủy sản một cách bền vững.

Phóng viên: Những sản phẩm mang thương hiệu của

MiXscience Asia dường như cũng khẳng định cam kết mạnh mẽ của công ty đối với khách hàng?

Ông Hugonin Maxime: Tại

MiXscience Asia, chúng tôi luôn cam kết mang đến những sản phẩm và dịch vụ tốt nhất trong lĩnh vực dinh dưỡng và sức khỏe vật nuôi. Chúng tôi tự hào về những bước tiến mà công ty đã đạt được, từ việc phát triển các công thức thức ăn chăn nuôi tiên tiến cho

đến việc áp dụng công nghệ hiện

đại trong sản xuất và kiểm soát chất lượng. Sự tin tưởng và hợp tác của quý khách hàng chính là

động lực lớn giúp MiXscience Asia

không ngừng cải tiến và phát triển.

Phóng viên: Thưa ông, năm 2025 hứa hẹn sẽ là một năm

đầy triển vọng với nhiều cơ hội mới nhưng cũng không ít thách thức với các doanh nghiệp. MiXscience Asia đã có những kế hoạch và hành động như thế nào

để tạo ra những đột phá thực sự trong năm nay cho công ty?

Ông Hugonin Maxime: Các

bạn biết đấy, những thách thức vẫn còn lớn đối với ngành nông

nghiệp. Kế hoạch của chúng

tôi vẫn được triển khai như đã

định hướng. Chúng tôi sẽ thực

hiện các chương trình tập huấn,

hướng dẫn, giúp đỡ và hỗ trợ

người nuôi cũng như các bên liên quan khác trong ngành.

MiXscience Asia sẵn sàng

đối diện với các thách thức của

nuôi trồng thuỷ sản trong nước

cũng như quốc tế để tạo ra các

sản phẩm cạnh tranh về giá cả và chất lượng. Để làm được điều

này, chúng tôi sẽ tiếp tục thúc

đẩy các sản phẩm của mình với

đội ngũ nhân sự đang mở rộng,

nhiều kinh nghiệm hơn và sử

dụng chính những kinh nghiệm

của chúng tôi ở khu vực châu Á

để mang đến Việt Nam.

Năm 2025 hứa hẹn sẽ là một

năm đầy triển vọng với nhiều cơ

hội mới. MiXscience Asia sẽ nỗ

lực không ngừng để mang đến

cho quý khách hàng những giải

pháp tối ưu nhất, đồng thời mở

rộng hợp tác và phát triển bền vững. Chúng tôi tin rằng, với sự

đồng lòng và quyết tâm, chúng

ta sẽ đạt được những thành công

rực rỡ hơn nữa.

Trân trọng cảm ơn ông!

Thùy Khánh (Thực hiện)

MiXscience Asia là công ty con của MiXscience

Pháp - một nhánh của tập đoàn Avril, là đơn vị

tiên phong trong lĩnh vực dinh dưỡng vật nuôi tại

Việt Nam. Với hơn 100 năm kinh nghiệm và đội

ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm, MiXscience

Asia cung cấp các giải pháp dinh dưỡng tối ưu,

bền vững cho ngành chăn nuôi và nuôi trồng

thủy sản tại Việt Nam. Từ premix, phụ gia thức

Công nghệ sinh học mở

ra tương lai bền vững

Công nghệ sinh học không chỉ là giải pháp kỹ thuật, mà còn là chìa khóa để mở ra tương lai bền vững cho ngành tôm, nơi người nuôi có thể yên tâm sản xuất còn người tiêu dùng được thưởng thức những sản phẩm sạch và an toàn.

Trong khuôn khổ VietShrimp 2025, phóng viên Tạp chí Thủy sản Việt Nam đã trao đổi với ông Huỳnh Kim Long - Phó Giám đốc điều hành Bio Global Holdings về vấn đề ứng dụng công nghệ sinh học trong nuôi tôm bền vững.

Phóng viên: Thưa ông, VietShrimp 2025 mở ra những cơ hội nào cho Bio Global Holdings?

Ông Huỳnh Kim Long: Tới với hội chợ, chúng tôi rất vinh hạnh khi được cùng với các đối tác và các chuyên gia trong ngành gặp mặt, trao đổi và tìm hiểu ứng dụng công nghệ cũng như các sản phẩm đặc thù cho ngành tôm.

Trong suốt ba ngày tham gia VietShrimp 2025, Bio Global Holdings đã có cơ hội tiếp đón hàng ngàn lượt khách tham quan, từ các doanh nghiệp, chuyên gia thủy sản đến người nuôi tôm và đại lý phân phối… Tại đây, đội ngũ của Bio Holdings đã trực tiếp được lắng nghe những trăn trở, khó khăn của người nuôi tôm, đặc biệt là vấn đề kiểm soát dịch bệnh, giảm hao hụt và duy trì chất lượng nguồn nước ao nuôi.

Ngoài ra, nhiều đại lý phân phối cũng quan tâm đến khả năng hợp tác với Bio Global Holdings để đưa những sản phẩm chất lượng đến gần hơn với người nuôi tôm. Sự kết nối thông qua Hội chợ năm nay mở ra nhiều cơ hội hợp tác tiềm năng cho Bio Global Holdings. Không chỉ trưng bày sản phẩm, Bio Global Holdings còn tích cực tham gia các buổi hội thảo chuyên đề tại VietShrimp 2025. Tại đây, chúng tôi đã có cơ hội lắng nghe những vấn đề liên quan đến công nghệ sinh học của ngành tôm cùng giải pháp nuôi trồng bền vững do các chuyên gia hàng đầu trong ngành chia sẻ. Những kiến thức thu thập được không chỉ là nền tảng để Bio Global Holdings hoàn thiện sản phẩm, mà còn là nguồn lực quý giá để chúng tôi cùng khách hàng và đối tác kiến tạo nên giá trị cho ngành nuôi trồng thủy sản.

Thông qua VietShrimp 2025, Bio Global Holdings xin gửi lời cảm ơn chân thành đến tất cả quý khách, đối tác đã ghé thăm gian hàng. Sự ủng hộ và tin tưởng của quý vị là nguồn động viên rất lớn để chúng tôi tiếp tục hành trình nâng cao chất lượng ngành thủy sản Việt.

Phóng viên: Ông có thể phân tích một chút về ưu điểm của vi sinh tươi so với các dòng sản phẩm khác?

Ông Huỳnh Kim Long: Như các bạn đã biết, thời gian vừa qua, trong ngành thủy sản đặc biệt là nuôi tôm có rất nhiều vấn đề mà bà con thường gặp và mắc phải như dịch bệnh, trong đó có bệnh EHP (bệnh do ký sinh trùng nội bào), bệnh đốm trắng,... Những bệnh này đã ảnh hưởng không nhỏ tới người nuôi.

Phương pháp sử dụng vi sinh tươi sẽ mang tính ổn định lâu dài, đưa tới giá trị bền vững, giúp nâng cao sức khỏe của con tôm, xử lý môi trường nước. Cùng với đó, chúng tôi còn sử dụng nền tảng Aquanets hỗ trợ chuyên biệt để giúp người nuôi truy xuất nguồn gốc và đánh giá được tình hình sức khỏe của con tôm.

Phóng viên: Mới đây, Bio Global Holdings đã chính thức khai trương Trung tâm vi sinh tươi thứ hai tại huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Ông đánh giá ra sao về hiệu quả hoạt động của trung tâm này?

Ông Huỳnh Kim Long: Trung tâm vi sinh tươi Đầm Dơi được chính thức vận hành từ năm 2024. Đây cũng là một thành tựu quan trọng của Bio Global Holdings trong quá trình mở rộng trung tâm vi sinh tươi trên khắp cả nước và trước mắt là tập trung tại các vùng nuôi của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.   Rất đông bà con đã biết đến mô hình nuôi tôm vi sinh, nhưng chưa có đơn vị nào tiên phong để đưa sản phẩm này gần với bà con hơn hoặc các sản phẩm chất lượng cao mà giá thành lại hợp lý. Tại trung tâm này, chúng tôi có đội ngũ kỹ sư chuyên biệt có thể tới từng hộ nuôi để kiểm tra, đánh giá chất lượng nước, tư vấn giúp họ cải thiện môi trường nuôi.

Ngoài ra, Bio Global Holdings còn có đội ngũ đưa thông tin lên phần mềm Aquanets để bà con có thể truy xuất nguồn gốc kỹ càng hơn, dự báo tình hình dịch bệnh, tỷ lệ vi sinh, vi khuẩn trong nguồn nước, từ đó giúp tìm ra công thức tối ưu hơn cho bà con. Bằng công nghệ 4.0, chúng ta sẽ cắt giảm được thời gian và cải thiện chi phí sản xuất.

Phóng viên: Góp phần kiến tạo ngành thủy sản xanh, Bio Global Holdings mang tới sự kiện lần này sản phẩm đặc biệt nào, thưa ông?

Ông Huỳnh Kim Long: Lần đầu tiên chúng tôi mang tới hội chợ nhiều dòng sản phẩm chuyên biệt phục vụ nuôi trồng thủy sản, trong đó đáng chú ý nhất là sản phẩm vi sinh tươi để có thể đem tới giải pháp bền vững cho ngành nông, thủy sản Việt Nam nói chung và ngành nuôi tôm nói riêng.

Thông điệp mà chúng tôi muốn gửi đến mọi người đó là “Bio Global Holdings tạo hệ sinh thái bền vững - Vì một Việt Nam đầy tự hào trên bản đồ nông nghiệp thế giới”. Chúng tôi mong muốn xây dựng một chuỗi quy trình khép kín từ con giống, thức ăn cho tới quy trình nuôi sử dụng hoàn toàn các sản phẩm vi sinh tươi để tối ưu hóa chi phí cũng như giúp tiết kiệm chi phí hơn cho người dùng.

Chủ đề “Xanh hóa vùng nuôi” của VietShrimp 2025 cũng chính là thông điệp chúng tôi muốn gửi gắm khi công ty mang tới những sản phẩm có giá trị bền vững, lâu dài, để phát triển ngành thủy sản xanh, sạch, đẹp hơn và bền vững hơn cho bà con nông dân.

Phóng viên: Với sứ mệnh “Vì một Việt Nam đầy tự hào trên bản đồ nông nghiệp thế giới”, Bio Global Holdings đặt mục tiêu trở thành tập đoàn tiên phong tại Việt Nam trong lĩnh vực cung cấp giải pháp và quản lý trong toàn bộ quy trình nuôi. Xin ông chia sẻ kế hoạch trong tương lai của công ty để hướng tới điều này?

Ông Huỳnh Kim Long: Hiện nay, người nuôi tôm đang phải đối mặt với rất nhiều

thách thức như biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, biến động giá cả... Để giải quyết các vấn đề đó từ gốc rễ thì chúng ta cần phương án lâu dài như quan trắc chất lượng môi trường nuôi, nguồn nước. Đó là lý do vì sao chúng tôi phát triển hệ thống vi sinh tươi.   Trong năm 2025, Bio Global Holdings dự kiến xây dựng 50 trung tâm vi sinh tươi trên cả nước, và năm 2026 là 100 trung tâm vi sinh tươi. Điều này sẽ giúp chúng tôi đưa sản phẩm tới gần hơn với bà con, đặt các trung tâm này tại các vùng nuôi, tại các hộ nuôi. Cùng với đó là đưa các giải pháp tối ưu hơn, các mô hình nuôi tôm xanh, sạch, bền vững tới người nông dân, giúp nâng cao sức khỏe con tôm trong thời gian dài chứ không phải là 1 - 2 vụ nuôi, qua đó góp phần nâng cao giá trị nuôi tôm bền vững trong nhiều năm.

“Vì một Việt Nam đầy tự hào”, Bio Global Holdings không chỉ dừng ở con tôm mà sẽ mở rộng ra ngành thủy sản và nông nghiệp. Công nghệ sinh học không chỉ là giải pháp kỹ thuật, mà còn là chìa khóa để mở ra tương lai bền vững cho ngành tôm, nơi người nuôi có thể yên tâm sản xuất còn người tiêu dùng được thưởng thức những sản phẩm sạch và an toàn.

Chúng tôi hy vọng với những nỗ lực không ngừng nghỉ của mình, thời gian tới có thể lan tỏa, đưa những sản phẩm chất lượng nhất tới người nuôi trên cả nước.

Trân trọng cảm ơn ông!

Behn Meyer

Đồng hành tạo giá trị cho ngành Thủy sản và phát triển bền vững

Là một công ty đa quốc gia với bề dày lịch sử, Behn

Meyer đến Việt nam với 3 sứ mệnh lớn: Tạo giá trị thiết thực và nâng cao đời sống cho người nông dân; Thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành Thủy sản; Đóng góp vào sự phát triển tịnh vương chung của đất nước.

hóng viên Tạp chí Thủy

sản Việt Nam đã có cuộc trao đổi với ông

Nguyễn Văn Tiên – Giám đốc

điều hành Behn Meyer Việt Nam bên lề sự kiện VietShrimp 2025.

Phóng viên: Thưa ông, là

một công ty với bề dày lịch sử gần 200 năm, điều gì đã thôi

thúc Behn Meyer phát triển thị trường tại Việt Nam?

Ông Nguyễn Văn Tiên: Việt

Nam là một thị trường đông dân

với gần 100 triệu người, sở hữu

cơ cấu dân số trẻ, tạo nên nguồn

lao động dồi dào và năng động.

Đây chính là những yếu tố then chốt giúp thị trường Việt Nam trở nên hấp dẫn và giàu tiềm năng

phát triển trong khu vực. Nhận thấy những lợi thế này, Ban lãnh

đạo Behn Meyer, với gần hai thế kỷ kinh nghiệm toàn cầu và hơn

30 năm hiện diện tại Việt Nam, đã xác định Việt Nam là một trong những thị trường trọng điểm trong chiến lược phát triển lâu dài của

đoàn tại khu vực Đông Nam Á.

lực lớn nhất thôi thúc Behn Meyer phát triển tại Việt Nam chính là khát vọng đồng hành cùng sự phát triển của ngành nông nghiệp, góp phần xây dựng chuỗi cung ứng thực phẩm xanh, sạch, an toàn, tạo thêm nhiều cơ

hội việc làm và đóng góp tích cực vào sự thịnh vượng chung của đất nước. Đây cũng là sứ mệnh mà chúng tôi kiên định theo đuổi trong suốt quá trình hoạt động tại thị trường Việt Nam.

Phóng viên: Trong suốt hơn 30 năm phát triển tại thị trường Việt Nam, điều khiến Behn Meyer tự hào nhất là gì?

Ông Nguyễn Văn Tiên: Trong suốt 30 năm phát triển ở thị trường Việt Nam, điều khiến Behn Meyer cảm thấy tự hào đó là, luôn kiên định đi theo triết lý kinh doanh bền vững, kiến tạo giá trị lâu dài, tập trung vào mục tiêu xây dựng nên chuỗi cung ứng thực phẩm xanh, sạch cho người dân.

Phóng viên: Đến với

VietShrimp 2025, Behn Meyer mang đến những giải pháp và sản phẩm tiêu biểu nào? Điều gì tạo nên sự khác biệt của những giải pháp và sản phẩm này?

Ông Nguyễn Văn Tiên: Behn Meyer là một trong số rất ít doanh nghiệp trên thế giới đạt được chứng chỉ Platinum của tổ chức EcoVadis – cấp độ cao nhất, khi chỉ 1% trong tổng số hơn 130.000 doanh nghiệp tham gia đánh giá toàn cầu vinh dự nhận được chứng chỉ này. Đây là minh chứng rõ nét cho cam kết mạnh mẽ của Behn Meyer đối với phát triển bền vững và trách nhiệm xã

hội. Tại Việt Nam, chúng tôi luôn sẵn sàng mang đến các giải pháp nuôi trồng thủy sản an toàn, bền vững, góp phần thúc đẩy ngành thủy sản phát triển hiện đại và thân thiện với môi trường.

Phóng viên: Thưa ông, định

hướng, chiến lược của Behn

Meyer về lĩnh vực nông nghiệp nói chung và thủy sản nói riêng trong thời gian tới là gì?

Ông Nguyễn Văn Tiên: Behn

Meyer luôn hướng tới 3 mục tiêu chính là: Bền vững, phúc lợi thủy sản và bảo vệ môi trường. Đây cũng là tôn chỉ mà công ty đặt lên

hàng đầu trong suốt bề dày lịch sử.

Phóng viên: Ông đánh giá như

thế nào về VietShrimp 2025?

Theo ông, “Xanh hóa vùng nuôi” đối với ngành tôm sẽ có những thuận lợi và khó khăn gì?

Ông Nguyễn Văn Tiên: Xanh hóa vùng nuôi và phát triển bền vững là thách thức lớn đối với cả cơ quan ban ngành, doanh nghiệp và người dân Việt Nam. Tuy nhiên, tại VietShrimp 2025, chúng tôi nhận thấy sự quan tâm và cam kết mạnh mẽ từ các cơ quan quản lý cũng như cộng đồng doanh nghiệp đối với các giải pháp phát triển ngành tôm bền vững. Đây là một tín hiệu hết sức tích cực, chứng tỏ ngành

thủy sản Việt Nam đã sẵn sàng cho công cuộc chuyển đổi xanh. Tôi tin tưởng rằng, khi tất cả các

bên cùng chung sức, quyết tâm và hành động, mục tiêu “xanh hóa vùng nuôi” hoàn toàn có thể đạt

được, góp phần đưa ngành thủy

sản Việt Nam phát triển hiện đại, bền vững và thân thiện với môi trường.

Trân trọng cảm ơn ông!

Phileo by Lesaffre

Vì mục tiêu không kháng sinh

trong tương lai

Đến với VietShrimp 2025, Phileo by Lesaffre mang tới những giải pháp dinh dưỡng mới, góp phần hiện thực hóa tầm nhìn về một ngành thủy sản phát triển xanh và bền vững.

Nhân dịp này, phóng viên Tạp chí Thủy sản Việt Nam đã có cuộc trao đổi với bà Trần Thị Bích Phương, Giám đốc Thương mại Phileo by Lesaffre Việt Nam.

Phóng viên: Thưa bà, lần thứ ba tham gia VietShrimp, Phileo by Lesaffre Việt Nam

mang tới những sản phẩm chiến lược nào?

Bà Trần Thị Bích Phương: Sự kiện VietShrimp là cơ hội tuyệt vời để chúng tôi gặp gỡ, kết nối với doanh nghiệp và khách hàng. Do vậy, trong dịp này chúng tôi mang tới những sản phẩm chiến lược do Tập đoàn Phileo by Lesaffre nghiên cứu và phát triển, trong đó nổi bật là Actisaf và Safmannan.

Phileo by Lesaffre là đơn vị đến từ Pháp với hơn 170 năm kinh nghiệm trong nghiên cứu và ứng dụng vi sinh vào nông nghiệp và thủy sản. Với nền tảng khoa học vững chắc, Phileo by Lesaffre cung cấp các giải pháp vi sinh tiên tiến, giúp cải thiện sức khỏe vật nuôi và tối ưu hóa hiệu suất chăn nuôi.

Đây đều là những sản phẩm đi theo xu hướng không kháng sinh trong tương lai.

Phóng viên: Các sản phẩm từ nấm men của Phileo by Lesaffre sẽ giúp bổ trợ cho người chăn nuôi ra sao, thưa bà?

Bà Trần Thị Bích Phương: Các sản phẩm probiotic và prebiotic do Phileo by Lesaffre nghiên cứu, sản xuất sẽ giúp người nuôi giảm phụ thuộc kháng sinh. Đây là những giải pháp sinh học tiên tiến để cải thiện sức khỏe đường ruột, tăng sức đề kháng cho vật nuôi, từ đó sẽ góp phần tăng phần lợi nhuận cho các trang trại. Đó cũng là cách để chúng tôi tham gia vào mắt xích an toàn vệ sinh thực phẩm cũng như

bảo vệ môi trường trong chuỗi nuôi trồng thủy sản, góp phần hòa cùng chiến lược xanh hóa vùng nuôi của ngành.

Phóng viên: Trong bối cảnh hiện nay, người nuôi trồng thủy sản cần vượt qua những khó khăn, thách thức gì và đâu là giải pháp mà Phileo by Lesaffre hướng tới?

Bà Trần Thị Bích Phương: Trong những năm gần đây, ngành nuôi trồng thủy sản toàn cầu đã vượt qua nhiều trở ngại, đặc biệt là những khó khăn liên quan đến dịch bệnh bùng phát, quy định về môi trường và biến động thị trường. Tuy nhiên, trong tương lai, dự kiến sẽ có nhiều áp lực và thách thức hơn do tình trạng khan hiếm nước, việc đánh bắt quá mức nguồn lợi tự nhiên, tình trạng kháng kháng sinh gia tăng và biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp.

Thực tế cho thấy, cuộc cách mạng xanh đang làm gia tăng nhu cầu về các giải pháp tiên tiến, đồng thời phải bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Điều này sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp, tập đoàn tìm đến các công nghệ bền vững hơn, chẳng hạn như hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn.

Tại Phileo by Lesaffre, chúng tôi cung cấp đầy đủ các giải pháp dựa trên nấm men và vi khuẩn probiotic, các thành phần men tinh khiết và các sản phẩm lên men chuyên dụng khác,…Các sản phẩm này được thành lập dựa trên quá trình nghiên cứu, phát triển sản phẩm khoa học chặt chẽ và thử nghiệm thực

địa. Chúng tôi luôn nỗ lực tạo ra các giải pháp sáng tạo để nâng cao hiệu suất của vật nuôi và cải thiện sức khỏe của chúng thông qua dinh dưỡng.

Phóng viên: Bên cạnh việc tạo ra các sản phẩm chất lượng cao cho ngành thủy sản, Phileo by Lesaffre đã làm gì để hỗ trợ người nuôi, thưa bà?

Bà Trần Thị Bích Phương: Hiện Phileo by Lesaffre đã nghiên cứu ứng dụng của nấm men ở trang trại nhằm không phụ thuộc vào kháng sinh. Bên cạnh đó chúng tôi cũng kết hợp với những trung tâm nghiên cứu, các trường, viện để có những ứng dụng thực tiễn của sản phầm, góp phần nhằm nâng cao hiệu quả cho người chăn nuôi.

Để hỗ trợ người nuôi sử dụng sản phẩm hiệu quả hơn, Phileo by Lesaffre sẽ đi theo hướng nghiên cứu ở các trại thực nghiệm trước, sau đó sẽ cho ứng dụng ở ngoài thực địa. Đặc biệt, chúng tôi cũng có đội ngũ kỹ thuật có chuyên môn cao ngay tại Việt Nam để trực tiếp hỗ trợ tư vấn cho người chăn nuôi với mục tiêu “Ngoài có sản phẩm tốt thì người nuôi cần biết sử dụng đúng cách để nâng cao hiệu quả”.

Không chỉ vậy, Phileo by Lesaffre còn kết hợp với các nhà phân phối như Trường Hải Tiến để cùng hỗ trợ kỹ thuật cho người nuôi một cách thuận lợi hơn.

Phóng viên: Bà nhận định như thế nào về tiềm năng của các sản phẩm này tại thị trường thế giới và Việt Nam? Phileo by Lesaffre Việt Nam có kế hoạch mở nhà máy sản xuất tại Việt Nam không?

Bà Trần Thị Bích Phương: Ngoài Việt Nam, Phileo by Lesaffre có 80 nhà máy trên toàn cầu, riêng những sản phẩm mà áp dụng cho ngành nông nghiệp thì công ty có trên 27 nhà máy phủ khắp các quốc gia lớn như nhà máy

ở Mỹ, Tây Ban Nha, Nga, Trung Quốc,…Trong

Ông Manuel Maire - Tổng Giám đốc

Tại Phileo by Lesaffre, chúng tôi tin rằng nấm men và vi khuẩn với công nghệ lên men tiên tiến là tương lai của sức khỏe vật nuôi thông qua dinh dưỡng. Chúng là câu trả lời cho những thách thức về nhu cầu toàn cầu đối với đạm động vật có tính bền vững cao trong tương lai. Việc lưu trữ đa dạng và phong phú các chủng nấm men độc quyền cho phép chúng tôi tư vấn giải quyết các thách thức xảy ra trong thực tế. Với việc nghiên cứu chuyên sâu và tập trung sản xuất vào một nhóm ngành duy nhất hơn 170 năm, chúng tôi tạo ra lợi ích bằng cách ứng dụng các vi sinh vật có lợi để cải thiện việc chăm sóc vật nuôi. Chúng tôi cung cấp các giải pháp đem lại lợi ích cho ngành nông nghiệp như giải pháp thay thế kháng sinh, phòng bệnh, quản lý stress, kiểm soát độc tố nấm mốc và các nhóm dinh dưỡng chức năng. đó, các sản phẩm phân phối tại Việt Nam được nhập khẩu trực tiếp từ Mỹ, Nga, Trung Quốc. Hiện tại, chúng tôi chưa có thông tin chính thức về việc mở rộng hoặc xây dựng nhà máy mới tại Việt Nam. Tuy nhiên, công ty luôn theo dõi và đánh giá thị trường để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng. Phileo by Lesaffre cam kết tiếp tục cung cấp các sản phẩm và giải pháp chất lượng cao, đồng thời hỗ trợ khách hàng trong việc phát triển và đổi mới.

Trân trọng cảm ơn bà!

Thùy Khánh (Thực hiện)

Phileo by Lesaffre

GenoMar Genetics Việt Nam

Tiên phong cung cấp nguồn giống cá

rô phi

chất lượng cao

Là đơn vị phân phối và cung cấp cá giống uy tín, được nhiều đại lý và người nuôi trồng thủy sản tin chọn, GenoMar Genetics Việt Nam

tự hào mang đến triển lãm VietShrimp 2025 giống cá rô phi hơn 30 năm lai tạo, đảm bảo khỏe mạnh và đạt lợi nhuận cao.

Nhân dịp này, ông Nguyễn

Văn Trung, Tổng Giám đốc

GenoMar Genetics Việt Nam và Malaysia đã có những chia sẻ cùng độc giả của Tạp chí Thủy sản Việt Nam.

Phóng viên: Thưa ông, mặc dù có mặt tại Việt Nam khoảng 5 năm nhưng

GenoMar Genetics Việt Nam đã sớm khẳng định được uy tín trong lĩnh vực giống cá rô phi. Xin ông có thể chia sẻ một chút về hành trình này?

Ông Nguyễn Văn Trung: GenoMar Genetics Việt Nam là công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, thuộc Tập đoàn GenoMar Genetics AS của Na Uy chuyên phát triển cá rô phi đơn tính.

Năm 2022, GenoMar Genetics

Việt Nam chính thức cung cấp cá rô phi giống ưu việt cho thị trường thủy sản Việt Nam. Đơn hàng đầu tiên được vận chuyển đến khách hàng ở tỉnh Hải Dương. Những con cá giống rô phi trong lần giao hàng đó được sản xuất từ thế hệ bố mẹ thứ 30 của GenoMar, khu vực Châu Á. Giống cá này khỏe mạnh, nhanh phát triển, sạch bệnh và được sản xuất tại trang trại giống ở tỉnh Tây Ninh. Trong bối cảnh tình hình kinh doanh thủy sản còn gặp khó khăn, chi phí nuôi cá diêu hồng tăng cao,

giá bán lại thấp thì chúng tôi nhận thấy người nuôi khu vực miền Nam đang từng bước chuyển sang nuôi cá rô phi để cung cấp cho thị trường này - nơi đang có nhu cầu tiêu thụ cá rô phi ngày càng nhiều.

VietShrimp 2025 có sự tham gia của nhiều “ông lớn” trong ngành thủy sản. Đây chính là cơ hội tốt để các doanh nghiệp khẳng định vị thế, định vị thương hiệu, mở rộng kết nối với khách hàng, đối tác. Tôi cho rằng đây là hướng đi rất quan trọng và cần thiết để phát triển và tiến xa hơn trong tương lai.

Phóng viên: Với mục tiêu cung cấp cho người nuôi cá rô phi Việt Nam nguồn giống chất lượng cao cũng như mở rộng cơ hội phát triển trong lĩnh vực giống nuôi trồng thủy sản, GenoMar Genetics Việt Nam đã có những bước chuyển mình như thế nào để phù hợp tình hình thực tế, thưa ông?

Ông Nguyễn Văn Trung: GenoMar Genetics Việt Nam đang không ngừng nâng cao công nghệ của quy trình sản xuất cá giống. Công ty không chỉ chú trọng vào nguồn giống ban đầu mà còn đặc biệt chú trọng vào quy trình sản xuất, đóng gói để nguồn cá giống đến tay người nuôi đạt chất lượng cao nhất. Đầu tiên, chúng tôi nhập đàn giống bố mẹ từ trung tâm lai tạo giống ở Philippines hoặc Brazil, sau đó nuôi cá bố mẹ đến khi trưởng thành. Tiếp theo là chọn lọc và tiến hành giao phối, sinh sản.

Trong giai đoạn thu trứng và khử trùng trứng, trứng sẽ được thu trực tiếp từ miệng của con cái sau đó nhanh chóng được vận chuyển đến phòng ấp trứng, nơi đầu tiên chúng được vệ sinh, khử trùng và đếm. Sau 4 -5 ngày ấp ở nhiệt độ 28 độ C, trứng sẽ dần nở thành cá bột nhỏ với túi noãn hoàng và sau

3 - 4 ngày nữa GenoMar có đàn cá bột sẵn sàng để được cho ăn thức ăn công thức.

Trong quá trình ương, chúng tôi nuôi cá đến kích cỡ thương mại dự định khoảng 0.20,5 gram. Quá trình này mất khoảng 1 tháng, theo đó con giống được cho ăn 8 lần 1 ngày với chế độ ăn chất lượng cao. Sau đó, chúng sẽ được đóng gói và vận chuyển đến đại lý. Đây là khâu quan trọng để đảm bảo những con giống chất lượng đến tay khách hàng. Con giống của GenoMar Genetics Việt Nam khỏe mạnh, có khả năng chịu đựng những căng thẳng trong quá

Phóng viên: Giống cá rô phi của GenoMar Genetics Việt Nam có những ưu điểm nào vượt trội, ông có thể giới thiệu cụ thể hơn?

Ông Nguyễn Văn Trung: Cá giống GenoMar

đạt tốc độ tăng trưởng tốt, tỉ lệ sống và cá nuôi

đạt kích cỡ đồng đều cao, trong đó sản phẩm nổi bật nhất của chúng tôi là GenoMar Strong, thích hợp thả giống trong giai đoạn thời tiết nắng nóng, tăng tỷ lệ sống 30%. Với khả năng chống chịu và kháng bệnh Streptococcus cao hơn 30% so với giống rô phi thông thường. Ngoài ra, giống rô phi này thích nghi tốt với đa dạng môi trường sống, đạt tỷ lệ philet cao. Thế hệ giống của GenoMar hiện nay là thế hệ thứ 34. Công ty chúng tôi chuyên phát triển cá rô phi nên hàng năm đều cải tiến về di truyền, kháng bệnh, qua đó giúp người nuôi hạn chế sử dụng vaccine đúng với tiêu chí “xanh hóa vùng nuôi”, giảm chi phí và tăng hiệu suất tối ưu hóa sản lượng trên một hecta, tập trung cho việc xuất khẩu.

Phóng viên: Ông đánh giá như thế nào về khả năng thích ứng của giống cá rô phi GenoMar Strong trong môi trường nuôi tại Việt Nam?

Ông Nguyễn Văn Trung: Trước đây khi miền Nam chưa có cơ hội xuất khẩu cá rô phi thì chúng tôi tập trung ở miền Bắc, thực tế người nuôi đã có lợi nhuận tốt. Còn tại miền Nam, chủ yếu nuôi ở ĐBSCL như Đồng Tháp, An Giang Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh, Bến Tre những khu vực khó nuôi tôm hoặc cá tra thì người ta sẽ chuyển dần sang nuôi cá rô phi để xuất khẩu.

Theo các số liệu mà chúng tôi ghi nhận được tại các hộ nuôi, hiện tỷ lệ lợi nhuận khi nuôi rất tốt, tương đương khoảng 25% tổng lợi nhuận, đặc biệt chi phí nuôi cá rô phi lại rất thấp và các mô hình nuôi đang có xu hướng mở rộng trong tương lai.

Thực tế cho thấy, giống cá này thích ứng tốt với điều kiện khí hậu tại Việt Nam. Đặc biệt, nuôi trồng thủy sản thì khu vực ĐBSCL là thế mạnh nên người nuôi không gặp khó.

Phóng viên: Ông có thể chia sẻ một chút về kế hoạch mở rộng quy mô sản xuất con giống tại Việt Nam trong thời gian tới đây?

Ông Nguyễn Văn Trung: Hiện nay, GenoMar Genetics Việt Nam luôn nỗ lực mở rộng thị trường, tại Việt Nam chúng tôi định hướng mở rộng quy mô trại và trung tâm cá giống. Phương châm của GenoMar là luôn luôn cải thiện được

VỀ TẬP ĐOÀN GEN DI TRUYỀN GENOMAR

Tập đoàn GenoMar chuyên phân phối giống và nuôi trồng thủy sản quốc tế, cung cấp cá rô phi được cải thiện di truyền cho người nuôi trên toàn cầu. Từ các trung tâm ươm nuôi tại Na Uy, Châu Á và Châu Mỹ Latinh, Tập đoàn đã tiến hành các chương trình đổi mới công nghệ nhằm tạo ra một số thương hiệu độc lập được công nhận trong ngành như GenoMar, Aquabel và AquaAmerica. Thông qua những thương hiệu này, GenoMar phân phối hơn 500 triệu con cá cho khách hàng ở Châu Á và Châu Mỹ Latinh hàng năm và con số này đang tăng nhanh chóng qua từng năm. Tập đoàn GenoMar cam kết phát triển bền vững công việc nhân giống, lai tạo chuyên nghiệp và

GENOMAR GENETICS TẠI

VIỆT NAM

GenoMar Genetics Việt Nam là công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, thuộc Tập đoàn GenoMar Genetics AS của Na Uy. Công ty hướng đến mục tiêu cung cấp cho người nuôi cá rô phi Việt Nam nguồn giống chất lượng cao cũng như mở rộng cơ hội phát triển trong lĩnh vực giống nuôi trồng thủy sản.

nguồn gen trước tình trạng biến đổi khí hậu, cùng với đó giúp người nuôi cải thiện chi phí, điều kiện nuôi để họ yên tâm phát triển.

Tôi nghĩ rằng, tại Việt Nam cá tra là thế mạnh, tiếp đó là con tôm, và để phát triển ngành thủy sản thì cá rô phi là con cá được thị trường thế giới ưa chuộng. Đây chính là cơ sở để chúng tôi tiếp tục khai thác và mở rộng trong tương lai.

Theo chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, thủy sản sẽ trở thành ngành kinh tế quan trọng của quốc gia. Trong đó, cá rô phi được xác định là một trong bốn sản phẩm thủy sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.

Việc phát triển thủy sản phải gắn liền công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phát triển bền vững và chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, quản lý rủi ro và giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất mang lại lợi nhuận cao. Do đó, khâu chọn con giống chất lượng đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Đây chính là

cải tiến trong ngành nuôi cá rô phi. Dòng cá rô phi của GenoMar được chọn lọc từ quần thể cá rô phi có nguồn gốc từ Châu Phi và Châu Á năm 1988, được quản lý bởi chương trình hợp tác quốc tế về nhân giống chọn lọc - Cá rô phi nuôi được cải thiện di truyền (GIFT). Các phương pháp nhân giống khoa học với đầy đủ thông tin phả hệ đã được sử dụng ngay

hóa nguồn gen.

Việc đầu tư trang trại sản xuất cá rô phi của GenoMar Genetics Việt Nam được nhiều khách hàng mong đợi và tin tưởng với nguồn gen và chất lượng con giống được kiểm soát nghiêm ngặt, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, sạch bệnh, chất lượng cao và kỳ vọng sẽ tạo một cú huých lớn cũng như mở ra hướng đi bền vững cho ngành hàng cá rô phi của Việt Nam.

Công ty TNHH GENOMAR GENETICS

VIỆT NAM

Địa chỉ: Serapork Tower, 56 Nguyễn Đình

Chiểu, P. Đa Kao, Q. 1, TP Hồ Chí Minh

Ông Nguyễn Văn Trung, TGĐ Công ty Email: vincent.nguyen@genomar.com

Công ty TNHH Genomar Gentics Việt Nam - Chi nhánh Tây Ninh

Địa chỉ: Ấp An Lộc, xã An Cơ, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, Việt Nam

Điện thoại: 081 5707179

yếu tố then chốt quyết định năng suất, hiệu quả chăn nuôi.

Trân trọng cảm ơn ông!

Thùy Khánh (Thực hiện)

Công ty TNHH B.H.N tham gia gian hàng VietShrimp

ôxy Nanobubble

hiện đại

Từ ngày 26 – 28/3/2025, tại Trung tâm Hội chợ Triển

lãm Quốc tế Cần Thơ, Công ty TNHH B.H.N hân

hạnh tham gia Hội chợ Triển lãm Công nghệ ngành

Tôm Việt Nam – VietShrimp 2025, sự kiện hàng đầu trong lĩnh vực thủy sản.

Sự kiện quy tụ sự tham gia của nhiều doanh nghiệp trong nước và quốc tế

hoạt động trong các lĩnh vực như con giống, thức ăn, thiết bị - công nghệ, giải pháp môi trường, dịch vụ hậu cần… cùng hàng ngàn khách tham quan chuyên ngành, bao gồm nông dân, chủ trại, nhà phân phối, chuyên gia và nhà đầu tư. Bên cạnh đó là chuỗi hội thảo kỹ thuật chuyên sâu, cập nhật xu hướng, công nghệ mới và định hướng phát triển ngành tôm Việt Nam.

Hòa vào không khí sôi động của hội chợ, tại gian hàng số D23, chúng tôi trưng bày và giới thiệu đến khách tham quan sản phẩm máy tạo ôxy Nanobubble –giải pháp tiên tiến giúp nâng cao chất lượng nước, cải thiện môi trường nuôi và tối ưu hóa hiệu quả sản xuất trong ngành nuôi tôm công nghệ cao.

Tại sự kiện, chúng tôi trực tiếp giới thiệu sản phẩm đến các khách hàng tiềm năng, khẳng định vị thế và năng lực công nghệ

Nanobubble trong lĩnh vực xử lý nước và nuôi trồng thủy sản hiện đại. Đồng thời, chúng tôi mong muốn mở rộng mạng lưới đối tác - đại lý, tìm kiếm cơ hội hợp tác chiến lược dài hạn, cũng như lắng nghe nhu cầu thực tế từ thị trường nhằm không ngừng nâng

cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ hỗ trợ khách hàng.

Công nghệ Nanobubble (bọt khí nano) là một trong những bước đột phá trong xử lý và cải thiện chất lượng nước duy trì lượng ôxy ổn định 6 - 8 ppm. Với

khả năng tạo ra các bọt khí siêu nhỏ có đường kính chỉ từ 100 nm trở xuống, máy Nanobubble mang lại nhiều lợi ích vượt trội:

Tăng cường lượng ôxy hòa tan trong nước, cải thiện sức khỏe và tốc độ tăng trưởng của tôm.

Giảm lượng khí độc như NH3, H2 S, từ đó nâng cao chất lượng nước và giảm rủi ro dịch bệnh.

Tối ưu chi phí vận hành, tiết kiệm năng lượng và hóa chất xử lý.

Hỗ trợ nuôi trồng tuần hoàn và bền vững, hướng đến mô hình nuôi tôm xanh - sạch - hiệu quả.

Tham gia VietShrimp 2025, Công ty TNHH B.H.N mong muốn

được kết nối, chia sẻ và hợp tác

cùng các đối tác, chuyên gia và bà con nông dân trong ngành tôm.

Chúng tôi đã tổ chức các buổi trình diễn công nghệ thực tế tại gian hàng, giải đáp thắc mắc trực

tiếp và chia sẻ những kinh nghiệm

ứng dụng Nanobubble hiệu quả trong nuôi tôm thương phẩm và nuôi tôm công nghệ cao.

Gian hàng tại VietShrimp 2025 được nhiều khách hàng quan tâm

Khách hàng trực tiếp xem máy tạo Nanobubble vận hành

Website: bhnenc.com

Email: bhnenc@gmail.com

Nền tảng cho nuôi trồng

thủy sản hiệu quả và bền vững

Thành công trong nuôi trồng thủy sản bắt

đầu từ những bước đi

vững chắc. Giai đoạn

trại giống và ương vèo

đóng vai trò then chốt, quyết định sức khỏe,

khả năng phục hồi và

hiệu suất sinh trưởng

của vật nuôi ở giai đoạn

thương phẩm.

Việc sử dụng các yếu tố đầu vào chất lượng cao, từ Artemia cao cấp, thức ăn chuyên biệt đến các giải pháp sức khỏe và quy trình nuôi khoa học, sẽ tạo nên nền tảng ổn định và hiệu quả cho

toàn bộ chu kỳ nuôi.

Các giải pháp của INVE được thiết kế nhằm khai thác tối đa tiềm năng từng giai đoạn sản xuất, giúp người nuôi dễ dàng dự đoán kết quả và nâng cao hiệu quả. Lợi ích của phương pháp

tiếp cận toàn diện này rất rõ ràng: Chăm sóc giai đoạn đầu

Ảnh biểu đồ: Biểu đồ thể hiện tầm quan trọng của việc chăm sóc giai đoạn

sản, đặc biệt nhấn mạnh đến yếu tố tăng trưởng và sức khỏe của vật nuôi.

Ba đường trong biểu đồ đại diện cho ba quy trình khác nhau:

Đường A: Áp dụng các quy trình chuyên biệt trong tất cả các giai đoạn;

trong

Đường B: Áp dụng các quy trình chuyên biệt trong giai đoạn trại giống và ương vèo; Đường C: Không áp dụng bất kỳ quy trình chuyên biệt nào.

Biểu đồ cho thấy việc áp dụng các quy trình chuyên biệt giúp cải thiện đáng kể tốc độ tăng trưởng và sức khỏe vật nuôi. Ngược lại, nếu không áp dụng các quy trình này, hiệu suất sẽ suy giảm rõ rệt.

càng áp dụng sớm các sản phẩm

và quy trình chuyên biệt, tiềm năng tăng trưởng và năng suất

càng cao. Ngược lại, nếu thiếu hỗ

trợ ngay từ đầu, hiệu suất sẽ giảm

và rủi ro biến động gia tăng.

Với hơn 40 năm kinh nghiệm, INVE Aquaculture đã đồng hành

cùng người nuôi đưa ra các

quyết định hiệu quả, vừa tăng

năng suất vừa đảm bảo tính bền

vững lâu dài, góp phần xây dựng

một ngành nuôi trồng thủy sản

có trách nhiệm và sẵn sàng cho

tương lai.

Vì sao chăm sóc giai đoạn đầu lại quan trọng?

Quản lý giai đoạn đầu giữ vai trò

quyết định trong việc hình thành những đàn vật nuôi khỏe mạnh và có sức đề kháng cao. Ở giai đoạn

trại giống và ương vèo, ấu trùng và con giống ở trạng thái dễ bị tổn thương nhất: hệ miễn dịch chưa hoàn thiện, khả năng tiêu hóa còn yếu, dễ bị tác động bởi các biến

động môi trường hoặc mầm bệnh. Bất kỳ căng thẳng hoặc mất cân bằng nào trong giai đoạn này đều có thể ảnh hưởng đến

tỷ lệ sống, thậm chí làm thay đổi toàn bộ quỹ đạo tăng trưởng và hiệu suất trong suốt chu kỳ nuôi. Vì vậy, cân bằng dinh dưỡng, ổn định vi sinh và đảm bảo an toàn sinh học là những yếu tố then chốt. Một khởi đầu vững chắc giúp vật nuôi lớn nhanh, sử dụng thức ăn hiệu quả và đạt kích thước thương phẩm với tỷ lệ sống cao hơn. Các yếu tố chính trong chăm sóc giai đoạn đầu Thức ăn sống: Artemia chất lượng cao và công nghệ tiên tiến

Artemia là nguồn dinh dưỡng sống chủ lực trong giai đoạn ấu trùng, đặc biệt tại các trại giống cá biển và tôm. Nhờ tính linh hoạt, dễ tiêu hóa và giàu dưỡng chất, Artemia trở thành lựa chọn lý tưởng cho giai đoạn đầu đời.

INVE cung cấp Artemia chất lượng cao từ các vùng thu hoạch được quản lý bền vững, đảm bảo dinh dưỡng ổn định và thân thiện với môi trường. Công nghệ SEPArt® độc quyền giúp tách hiệu quả ấu trùng sống khỏi trứng chưa nở, mang đến quy trình ấp

Artemia an toàn, sạch và hiệu quả hơn cho trại giống.

Để nâng cao độ chính xác và hiệu quả, INVE còn phát triển

SnappArt360 - một công cụ

AI hỗ trợ đếm nhanh, xử lý dữ liệu tự động, truy cập di động và báo cáo chất lượng thức ăn sống theo thời gian thực.

SnappArt360 không chỉ là hệ thống giám sát mà còn là nền tảng quản lý toàn diện, mang lại truy xuất rõ ràng và tốc độ trong sản xuất thức ăn sống. Đây mới chỉ là khởi đầu, nhiều tính năng mới sẽ sớm được bổ sung để nâng cao tính kết nối và thông minh cho trại giống.

Khi được làm giàu đúng cách và quản lý chặt chẽ, Artemia giúp cải thiện chất lượng ấu trùng, tăng sức chống chịu với stress và đồng đều tăng trưởng - tạo nền vững chắc cho các giai đoạn tiếp theo.

Thức ăn giai đoạn đầu: Dinh dưỡng phù hợp với hệ tiêu hóa non yếu

Chuyển đổi từ thức ăn sống sang thức ăn công nghiệp là bước chuyển nhạy cảm. Thức ăn không phù hợp có thể gây tiêu hóa kém, tổn thương đường ruột và chậm tăng trưởng.

Thức ăn giai đoạn đầu của INVE được thiết kế với thành phần dễ tiêu, phụ gia chức năng và chất dẫn dụ giúp vật nuôi hấp

thụ tốt, tiêu hóa hiệu quả và giảm

lãng phí. Vi thực phẩm này đáp

ứng nhu cầu sinh lý của con non, hỗ trợ phát triển cơ quan, hệ tiêu hóa và miễn dịch ngay từ đầu.

Giải pháp sức khỏe: Ứng dụng probiotics và quản lý vi sinh

Một trong những bước tiến

lớn trong chăm sóc giai đoạn đầu là áp dụng chiến lược quản lý vi sinh, đặc biệt thông qua probiotics.

Giải pháp sức khỏe của INVE giúp ổn định hệ vi sinh trong trại giống, giảm áp lực mầm bệnh và tăng sinh hệ vi sinh có lợi.

Hỗn hợp probiotics góp phần

cải thiện chất lượng nước, sức

khỏe tiêu hóa và cạnh tranh với vi khuẩn gây hại trong môi trường và đường ruột.

Đây là phương pháp “quản lý

sức khỏe chủ động”, chuyển từ

đối phó sang phòng ngừa. Kết

quả là giảm sử dụng kháng sinh, tăng sức đề kháng và ổn định sản xuất.

An toàn sinh học và quy trình:

Chính xác và nhất quán

Dù sản phẩm có tốt đến đâu, hiệu quả vẫn phụ thuộc vào quy

trình sử dụng. Do đó, INVE đặc biệt chú trọng hướng dẫn quy

trình, đào tạo kỹ thuật và chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn.

Các quy trình chuẩn cho khử trùng, quản lý nước, lịch cho ăn và kiểm soát vi sinh đảm bảo tối

đa hóa hiệu quả của các yếu tố

đầu vào.

Tiếp cận tích hợp: Từ trại giống đến thu hoạch

Dù trọng tâm là giai đoạn đầu, nhưng các quyết định ở giai đoạn

này ảnh hưởng đến toàn bộ vòng

đời nuôi. Vật nuôi được khởi đầu

tốt sẽ lớn nhanh, tiêu hóa thức ăn hiệu quả và chống chịu bệnh

tốt hơn cho đến thu hoạch.

INVE hiểu rõ tầm quan trọng

của sự đồng bộ giữa các giai

đoạn - từ trại giống, ương vèo

đến thương phẩm - nên đã phát

triển danh mục giải pháp toàn

diện, hỗ trợ chuyển tiếp suôn sẻ

từ giai đoạn này sang giai đoạn

tiếp theo.

Phát triển bền vững thông qua

chăm sóc giai đoạn đầu

Ngành nuôi trồng thủy sản

hiện đại không chỉ cần năng suất mà còn đòi hỏi tính hiệu quả, ổn

định và trách nhiệm. Trong bối cảnh nguồn tài nguyên hạn chế, biến đổi khí hậu và quy định ngày càng siết chặt, người nuôi phải tìm kiếm chiến lược canh tác thông minh hơn.

Chăm sóc giai đoạn đầu chính là đòn bẩy chiến lược:

- Giảm tỷ lệ chết, giảm biến động giúp tối ưu hóa sử dụng tài nguyên (thức ăn, nước, năng lượng);

- Tăng cường sức khỏe giúp giảm nhu cầu điều trị, giảm thiểu rủi ro;

- Ổn định hệ vi sinh giúp hệ thống nuôi bền vững hơn, ít tác động xấu đến môi trường.

Kết luận: Xây dựng tương lai thủy sản từ hôm nay

Chăm sóc giai đoạn đầu không còn là tùy chọn - mà là yếu tố cốt lõi cho một ngành thủy sản hiệu suất cao và bền vững.

INVE Aquaculture mang đến danh mục sản phẩm toàn diện gồm thức ăn sống, thức ăn chức năng, probiotics và quy trình chăm sóc sức khỏe đã được kiểm chứng, giúp người nuôi phát huy tối đa tiềm năng ở các giai đoạn đầu.

Với hơn 40 năm kinh nghiệm, INVE cam kết kết hợp khoa học, thực tiễn và đổi mới, hướng đến ngành thủy sản ổn định hơn, hiệu quả hơn và sẵn sàng hơn cho tương lai.

“Thành công bắt đầu từ nơi sự sống khởi nguồn - và đó cũng chính là nơi tạo nên tác động lâu dài”.

“Chúng tôi không chỉ cung cấp sản phẩm, mà còn mang lại giá trị ở những giai đoạn then chốt. Từng giải pháp của INVE là một phần trong bức tranh tổng thể, nhằm giúp người nuôi đạt được vật nuôi khỏe mạnh, sản xuất ổn định và bền vững hơn. Từ con giống đến thương phẩm, chúng tôi tập trung giải quyết các thách thức cốt lõi trong toàn bộ vòng đời nuôi - để khách hàng có thể phát triển với sự tự tin, nhất quán và khả năng kiểm soát tối ưu”.

Đỗ Đăng Hải Tổng Giám đốc INVE Aquaculture Vietnam

Phòng bệnh cong thân

đục cơ

trong nuôi tôm công nghiệp

Hiện tượng tôm bị cong thân, đục cơ thường xảy ra trong nuôi mô hình

công nghiệp. Bệnh không gây chết hàng loạt nhưng ảnh hưởng nghiêm

trọng đến hiệu quả kinh tế của người nuôi.

Hiện nay mô hình nuôi tôm công nghiệp, nuôi 2 hoặc 3 giai đoạn, mô hình nuôi tôm trên bể tròn,… với mật độ 300 đến 500 con/m3 đang phát triển khá mạnh và thành công nhờ mang lại năng suất rất cao.

Ưu điểm mô hình trên là hệ thống ao nuôi

được đầu tư bài bản, cùng với đó là áp dụng công nghệ nuôi với máy móc trang thiết bị đầy đủ,… nên không cần diện tích lớn nhưng vẫn nuôi được sản lượng cao, nuôi tôm về size lớn. Tuy nhiên, trong nuôi tôm công nghiệp thường xảy ra hiện tượng tôm bị cong thân, đục cơ. Bệnh không gây chết hàng loạt nhưng ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả kinh tế của người nuôi.

Nguyên nhân

Có hai nguyên nhân chính gây ra bệnh: Tôm bị stress do môi trường như: Nuôi mật độ dày, môi trường biến động do thời tiết, nhiệt độ thay đổi, ôxy hòa tan giảm hoặc ảnh

hưởng của quá trình sang ao tôm hay thường xuyên thay nước ao nuôi,…

Thiếu khoáng chất: Tôm thuộc loài giáp xác, để lớn lên tôm phải lột vỏ theo chu kỳ (lột vỏ cũ tạo vỏ mới) mỗi lần như thế tôm cần nhu cầu ôxy hòa tan và khoáng chất rất cao. Chúng có thể hấp thụ các chất khoáng này qua thức ăn và môi trường nước ao nuôi.

Dấu hiệu

Khi bị bệnh, tôm có các biểu hiện như: Tôm bị cong thân, tròn lại, tôm không tự duỗi ra như tự nhiên được, trên cơ thịt tôm có màu trắng

đục thường ở cơ thịt đốt cuối (gần đuôi), nếu bị nặng phần trắng đục lan dần các đốt thịt kế trên.

Tôm bị bệnh không bắt mồi được, sức đề kháng giảm, tôm hoạt động kém, bệnh nặng tôm sẽ suy kiệt cơ thể, mềm vỏ, dễ bị cảm nhiễm các bệnh khác và chết. Bệnh này nếu không phòng trị kịp thời có thể ảnh hưởng tỷ lệ sống của tôm.

Phòng trị bệnh Áp dụng nuôi tôm trong nhà vòm, hoặc che lưới lan giảm nắng cho ao tôm,… giúp ổn định nhiệt độ nguồn nước ao nuôi. Ao tôm phải trang bị đủ quạt và máy sục khí để đảm bảo cung cấp ôxy hòa tan cho nước ao nuôi tôm (ôxy hòa tan > 5 mg/lít).

Người nuôi cần kiểm soát môi trường tốt, ít biến động. Cung cấp dinh dưỡng cho tôm phải đủ chất và lượng, đặc biệt khoáng đa và vi lượng thiết yếu cho tôm phải đủ cho nhu cầu lột xác và tạo vỏ mới thì tôm sẽ không bị cong thân, đục cơ, tăng trưởng nhanh. Tôm nuôi sẽ đạt sản lượng và cho năng suất cao.

Tôm bị đục cơ ở đốt cuối

Ngoài ra, để hạn chế tôm bị stress cần trộn thường xuyên mỗi cữ ăn BIO-VITAMIN C 10% FOR SHRIMP liều 1 - 2 g/kg thức ăn và BIO ANTI-SHOCK FOR SHRIMP hoặc BIO ANTISTRESS FOR SHRIMP cho tôm ăn liều 3 - 5 g/kg thức ăn giúp tăng sức kháng bệnh. Trong thành phần các sản phẩm này có Vitamin C (Acid Ascorbic), Vitamin A.D.E.K, nhóm B, ngoài ra còn có Pantonate, Niacin, Inositol, Folic Acid, Biotin, Taurine giúp tăng sức khỏe cho tôm, hỗ trợ tôm hấp thu thức ăn tốt. Đặc biệt là giúp giảm stress ở tôm khi môi trường biến động. Bổ sung khoáng chất cho nước ao tôm mỗi ngày bằng cách tạt BIO-PREMIX FOR SHRIMP NEW 1,5 kg đến 3 kg/1.000 m3 (tùy mật độ thả tôm). BIO-PREMIX FOR SHRIMP NEW là tổ hợp khoáng chất (đa lượng và vi lượng), dạng bột hòa tan. Giúp làm giàu khoáng chất trong nước ao tôm, tôm có thể hấp thu khoáng qua mang, phòng hiện tượng thiếu khoáng,… Trong trường hợp phát hiện tôm cong thân, đục cơ nhiều thì ngoài áp dụng những giải pháp trên, tiến hành trộn cho tôm ăn khoáng nước BIO-CALPHOS FOR SHRIMP liều 3 - 5 ml/ kg thức ăn, cho ăn liên tục để bù đắp sự thiếu hụt các thành phần khoáng trong cơ thể tôm. Bio Calphos là khoáng chất dạng nước, được cân đối các thành phần Calcum, Magnesium, Phosphorus hữu dụng cho tôm. Ngoài ra còn có thêm Zinc, Iron, Cobait, manganese và Copper giúp bù đắp sự thiếu hụt khoáng ở tôm nuôi mật độ cao, ngăn chặn bệnh đục cơ, cong thân.  Đặng Hồng Đức Cố vấn kỹ thuật Công ty Bio-Pharmachemie

Máy đóng gói tôm giống

Hướng đi tất yếu trong phát triển nuôi trồng thủy sản “xanh”

Trong nỗ lực hiện đại hóa ngành giống thủy sản, nhiều doanh nghiệp đang từng bước chuyển đổi từ

đóng gói thủ công sang tự động hóa bằng máy đóng gói. Giải pháp này không chỉ giúp tối ưu quy trình sản xuất mà còn phù hợp với xu thế “Greening Farming” – nông nghiệp xanh và bền vững.

Tự động hóa – Lời giải cho bài toán hiệu quả và bền vững

Máy đóng gói tôm giống đang là một trong những công nghệ được Hạo Phương – doanh nghiệp chuyên giải pháp công nghệ tự động hóa – tích cực giới thiệu đến các trang trại và nhà máy giống quy mô vừa và lớn.

Một khách hàng của Hạo Phương đã chia sẻ: “Trước đây, mỗi lần đóng gói hàng trăm ngàn con tôm giống để vận chuyển, trại tôm của chúng tôi cần đến 7 - 10 nhân công và mất gần cả ngày. Từ khi chuyển sang dùng máy đóng gói tự động, toàn bộ quy trình chỉ còn cần 2 - 4 người và rút ngắn thời gian xuống còn vài giờ, mà chất lượng tôm khi giao cho khách vẫn đảm bảo khỏe mạnh, ít hao hụt”.

Không chỉ dừng lại ở hiệu

suất, Hạo Phương cung cấp máy

đóng gói tôm giống với quy trình tự động và định dạng bao bì độc

quyền, giúp doanh nghiệp kiểm

soát chất lượng và bảo vệ thương

hiệu tối đa:

Tự động hóa - Tối ưu quy trình:

Máy được tự động hóa hoàn toàn

các quy trình đóng vào nước, bơm

ôxy và đóng gói, giúp doanh nghiệp

giảm lượng nhân công, tăng hiệu suất và chất lượng tôm giống.

Định dạng chuẩn – Không thể giả mạo: Máy kiểm soát chặt chẽ kích thước và kiểu dáng túi đóng gói, tạo ra các bao bì đồng nhất, đạt tiêu chuẩn cao. Điều này giúp ngăn chặn hành vi làm giả, làm nhái bao bì tôm giống trên thị trường.

Bảo vệ thương hiệu: Máy tích hợp các tùy chọn kỹ thuật như in logo, hoặc tem nhận diện thương hiệu ngay trong quy trình đóng gói, gia tăng độ nhận diện và tính nhận diện cho sản phẩm.

Hòa trộn Ôxy tiêu chuẩn: Hệ thống hòa trộn Ôxy khép kín và chính xác giúp khỏe mạnh trong quá trình vận chuyển, giảm thất thoát lượng lớn Ôxy, tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp.

Hướng tới “Greening Farming” – Sản xuất giống bền vững

Máy đóng gói tôm giống cũng là một phần quan trọng trong chiến lược phát triển xanh và thân thiện với môi trường của ngành thủy sản hiện đại. Khi quy trình đóng gói được tự động hóa và tối ưu hóa, lượng túi nhựa sử dụng sẽ được giảm thiểu rõ rệt, lượng nước cấp cho mỗi túi được kiểm soát chính xác theo định mức, giúp tiết kiệm tài nguyên và hạn chế phát sinh chất thải trong quá trình sản xuất.

Bên cạnh đó, việc giảm tỷ lệ hao hụt tôm giống trong vận chuyển không chỉ nâng cao hiệu quả kinh tế mà còn góp phần giảm phát thải khí nhà kính gián tiếp thông qua việc tối ưu khâu hậu cần và rút ngắn thời gian bảo quản. Hệ thống vận hành khép kín, sạch sẽ và chính xác còn giúp ngăn ngừa phát sinh mầm bệnh, từ đó góp phần ổn định hệ sinh thái trong và ngoài trại giống. Những yếu tố trên không chỉ mang lại giá trị thiết thực cho doanh nghiệp mà còn phù hợp với các chính sách, tiêu chuẩn quốc tế ngày càng khắt khe về truy xuất nguồn gốc, bảo vệ môi

Trong xu thế toàn cầu hóa, những doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ xanh, tiết kiệm tài nguyên và giảm tác động môi trường sẽ có lợi thế cạnh tranh dài hạn trên thị trường nội địa lẫn quốc tế. Cam kết đồng hành cùng khách hàng trong từng chiến lược Là đơn vị chuyên cung cấp giải pháp công nghiệp - nông nghiệp - thủy sản, Hạo Phương cam kết phát triển và nâng cấp hệ thống đóng gói dựa trên thực tiễn vận hành và mục tiêu phát triển riêng của từng đối tác. Mỗi khách hàng sẽ được tư vấn giải pháp phù hợp với quy mô và chiến lược, đảm bảo tính linh hoạt, hiệu quả và dễ mở rộng trong tương lai. Với định hướng đồng hành lâu dài, Hạo Phương sẽ không ngừng cải tiến sản phẩm, nâng cao dịch vụ hậu mãi và hỗ trợ kỹ thuật, nhằm tạo ra giá trị bền vững cho khách hàng và toàn ngành thủy sản.

Hội nghị khách hàng toàn quốc 2025

“Công nghệ tiên phong - Thành công vững bền”

Với chủ đề “Công nghệ tiên phong – Thành công vững bền”, Hội nghị

khách hàng toàn quốc 2025 của C.P. Việt Nam đã diễn ra thành công

tại thành phố biển Vũng Tàu vào ngày 19/02/2025.

ến tham dự hội nghị có

Phó Tổng giám đốc điều

hành ngành kinh doanh

thủy sản C.P. Việt Nam - Ông

Boonlap Watcharawanitchakul;

Tiến sĩ Robins McIntosh - Giám

đốc điều hành trung tâm nghiên

cứu di truyền tôm, nhà khoa học

Việt Nam từ Quảng Ninh đến Cà

Mau.

Tại hội nghị, đích thân tiến sĩ

Robins McIntosh, nhà nghiên

cứu khoa học thủy sản đồng

thời là giám đốc điều hành trung tâm di truyền tôm của

thủy sản hàng đầu thế. Đặc biệt là sự góp mặt đông đảo của hơn 500 đại lý, khách hàng C.P.

tập đoàn C.P. Group Thái Lan, người được xem là cha đẻ của thương hiệu tôm giống C.P. danh tiếng toàn cầu đã trực tiếp tham dự và giới thiệu đến hơn 500 khách hàng của công ty về quá trình chọn lọc, gia hóa để cho ra đời thế hệ tôm vô cùng ưu việt CPF TURBO G21.

Trong không khí mong chờ của toàn hội trường, ban lãnh đạo công ty đã cùng bấm nút ra mắt Tôm giống CPF TURBO G21. Đây là giống tôm với các ưu điểm như: Tốc độ lớn nhanh vượt trội, sức chống chịu vô cùng xuất sắc và nuôi về kích cỡ lớn tới 10-12 con/kg.

Tiến sĩ Robins McIntosh thuyết trình về Giống tôm CPF TURBO

Việt Nam chụp ảnh lưu niệm tại hội nghị Ban lãnh đạo C.P. Việt Nam đã cùng bấm nút

Tham gia hội nghị, khách hàng và đại lý của C.P. Việt Nam còn được nghe chia sẻ từ ông Nguyễn Vĩnh Phú - Phó tổng giám đốc kinh doanh tôm toàn quốc với các công nghệ chủ đạo được ứng dụng trong các sản phẩm dịch vụ của công ty và mô

hình kỹ thuật mới CPF COMBINE 2025 đến từ Phó TGĐ cấp cao bộ phận kỹ thuật và trang trại nuôi tôm thương phẩm- Ông

Banchong Buahung. Bên cạnh đó, công ty cũng vinh danh các

đại lý, khách hàng tiêu biểu đã có thành tích xuất sắc trong năm

qua, ghi nhận những đóng góp quan trọng vào sự phát triển bền vững.

Hội nghị Khách hàng Toàn

quốc 2025 không chỉ là dịp để

kết nối, tri ân mà còn là bước

tiến quan trọng trong chiến lược mở rộng và phát triển bền vững

của C.P. Việt Nam. Đây là minh

chứng cho cam kết đồng hành cùng Quý khách hàng, hướng

tới thành công vững chắc trong

tương lai.

G21
Khách hàng C.P.
G21

TNV CLARITY PLUS

Chế phẩm vi sinh chuyên xử lý tảo, chất hữu cơ dư thừa trong ao nuôi, với các loài vi khuẩn như Bacillus subtilis, Bacillus amyloliquefaciens… PROCOZOLL

Một dạng tổng hợp của 5 loại enzyme: Protease, Amylase, Cellulase, Lipase, Urease, giúp khống chế tảo độc và bùn bã hữu cơ

Nuôi tôm ao trải bạt là phương thức đang được nhiều người nuôi lựa chọn. Màng bạt phủ khi lót sẽ ngăn chặn được sự xâm nhập của ô nhiễm hữu cơ, phèn, vi khuẩn dưới lớp bùn đáy ao… từ đó duy trì được chất lượng nước tốt. Việc trải bạt sẽ giúp đáy ao sạch, lượng thức ăn dư thừa sẽ không bị lẫn vào lớp bùn đáy nên sẽ tăng khả năng chuyển đổi thức ăn, tăng khả năng ăn ở đáy của tôm. Tuy nhiên, hiện tượng nhớt bạt hay xảy ra lại khiến người nuôi rất vất vả.

Nguyên nhân

- Thức ăn dư thừa quá nhiều và chất thải tôm lắng xuống đáy làm cho lớp bùn bã đáy ao ngày càng nhiều.

- Nguồn nước cấp bị ô nhiễm hữu cơ.

- Nước ao nuôi quá trong, ánh sáng xuyên xuống đáy ao làm cho tảo, rong nhớt phát triển.

- Nước bị nhiễm phèn, kim loại nặng lắng tụ xuống làm xuất hiện nhớt đáy.

- Sụp floc (hạt floc chết) kết hợp với vi khuẩn yếm khí sẽ hình thành nhớt bạt.

Tác hại

- Khi xảy ra hiện tượng nhớt bạt, tôm sẽ rất khó nuôi, tăng chi phí và giảm hiệu quả kinh tế.

- Nhớt bạt đáy là nơi cư trú của vi khuẩn, nấm và các động vật nguyên sinh.

- Là tác nhân gây bệnh đường ruột và gan cho tôm nuôi.

- Cạnh tranh dinh dưỡng và hạn chế sự phát triển của tảo.

- Xác rong nhớt khi phân hủy sẽ sinh ra khi độc.

- Thức ăn lẫn trong nhớt sẽ làm giảm khả năng bắt mồi của tôm.

Cách xử lý

Chà bạt thủ công, sử dụng HCl vệ sinh bạt sau khi thu hoạch, biện pháp này rất tốn công và chi phí.

Quản lý chặt chẽ việc cho ăn, giảm lượng thức ăn dư thừa là nguồn dinh dưỡng cho rong nhớt phát triển.

Duy trì mực nước thích hợp, gây màu nước, tạo độ trong ổn đinh 30 - 40 cm để tránh ánh sáng xuống đáy ao.

Sử dụng chế phẩm sinh học:

- Chế phẩm Enzyme: Protease, Amylase, Cellulase… phân hủy tảo, chất hữu cơ dư thừa.

- Chế phẩm vi sinh: chủng vi khuẩn có lợi Bacillus spp. có khả năng phân hủy chất hữu cơ dư thừa, tiết enzyme để cắt tảo.

Đề xuất giải pháp Bên cạnh các biện pháp thông thường, Công ty THÁI NAM VIỆT đã nghiên cứu và phát triển biện pháp kết hợp Enzyme và vi sinh để xử lý nhớt bạt, đem lại hiệu quả nhanh chóng, an toàn nhưng lại ít tốn chi phí và nhân công. Chỉ cần đánh 1 - 2 nhịp kết hợp “Enzyme-Vi sinh-Enzyme” sẽ xử lý sạch nhớt bạt trong 12-24h, giảm thiểu công sức và chi phí chà bạt. Ngoài ra, việc sử dụng định kỳ “Enzyme-Vi sinh-Enzyme” có thể hạn chế nhớt bạt, duy trì chất lượng nước tốt, giúp cho động vật thủy sản phát triển khỏe mạnh.

ĐT: 0888 59 63 66

Email: info@thainamviet.com

Website: thainamviet.com

Thông báo tuyển dụng

Công ty TNHH Long Sinh tự hào là doanh nghiệp tiên phong trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản và cung cấp nguyên liệu thức ăn chăn nuôi tại Việt Nam và khu vực châu Á. Với hơn 28 năm kinh nghiệm, chúng tôi cam kết cung cấp các sản phẩm chất lượng cao và giải pháp tối ưu, góp phần thúc đẩy sự

phát triển bền vững của ngành thủy sản.

Nhằm mở rộng thị trường và phát triển hệ thống phân phối trong lĩnh vực thuốc thú y thủy sản, Long

Sinh hiện đang tuyển dụng

đường phát triển.

Số lượng: 05 nhân sự

 Khu vực tuyển dụng:

Huế – Quảng Trị

Phú Yên – Bình Định

Ninh Thuận – Bình Thuận

Sóc Trăng – Bạc Liêu

Cà Mau

 Mô tả công việc:

- Phát triển hệ thống khách hàng, đại lý tại khu vực được phân công.

- Tư vấn sản phẩm, hỗ trợ kỹ thuật cho khách hàng.

- Chăm sóc khách hàng hiện có, mở rộng thị trường.

- Báo cáo kết quả kinh doanh và đề xuất giải pháp phát triển.

 Yêu cầu:

- Nam, có sức khỏe tốt, yêu thích kinh doanh và sẵn sàng đi công tác.

- Kỹ năng giao tiếp, đàm phán tốt, chủ động trong công việc.

 Quyền lợi:

- Thu nhập hấp dẫn: Lương, Phụ cấp --> 14 triệu + thưởng doanh số.

- Được đào tạo chuyên sâu về sản phẩm, kỹ năng bán hàng.

- Cơ hội thăng tiến trong môi trường chuyên nghiệp, ổn định.

- Hưởng đầy đủ chế độ BHXH, BHYT, BHTN và các quyền lợi khác.

- Du lịch trong, ngoài nước.

THẢO DƯỢC MỚI

PHÒNG TRỊ BỆNH

TRÊN CÁ RÔ PHI

Nghiên cứu dưới đây được thực hiện nhằm chọn ra loại thảo dược có hiệu quả cao, làm tiền đề cho việc tạo chế phẩm thảo dược phòng, trị bệnh do vi khuẩn

Streptococus agalactiae gây ra trên cá rô phi.

Bệnh nguy hiểm

Cá rô phi ăn tạp, dễ nuôi, tốc độ sinh trưởng nhanh, thịt thơm ngon, có giá trị kinh tế, được thị trường ưa chuộng. Đặc biệt, đây cũng là đối tượng có khả năng thích ứng môi trường cao, sống tốt được ở cả môi trường nước ngọt và nước lợ.

Nghề nuôi cá rô phi ngày càng mở rộng và phát triển trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Cùng với xu hướng phát triển của nghề nuôi cá rô phi trên thế giới (dự báo đến năm 2030, sản lượng cá rô phi trên toàn cầu sẽ tăng gần gấp đôi so với năm 2010, từ 4,3 triệu tấn/năm lên 7,3 triệu tấn/năm), Bộ NN&PTNT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) xác định đây là sản phẩm thủy sản chủ lực của nước ta sau tôm nước mặn, lợ và cá tra. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, dịch bệnh trên cá rô phi do vi khuẩn Streptococus agalactiae ngày càng tăng và trở thành một thách thức lớn cho nghề nuôi cá rô phi. Bùng phát bệnh do S. agalactiae trên cá rô phi đã được báo cáo ở hầy hết các nước nuôi cá rô phi thế giới, đặc biệt những nước nuôi cá rô phi chủ lực như Trung Quốc, Israel, Thái Lan, Indonesia, Brazil (Mian và cộng sự, 2009; Suanyuk và cộng sự, 2008; Zhang và cộng sự, 2008). Tỷ lệ chết ghi nhận đã lên đến 70% sau thời gian ngắn nhiễm bệnh, bệnh bùng phát mạnh khi nhiệt độ môi trường cao trên 30 0 C (Najiah và cộng sự, 2012).

Ở nước ta, vi khuẩn S. agalactiae đã được phát hiện gây bệnh trên cá rô phi nuôi ở một số tỉnh miền Bắc vào năm 2009. Các công bố chính thức về tác nhân gây bệnh này sau đó đã được thực hiện bởi các nhóm tác giả Đặng Thị Hoàng Oanh và Nguyễn Thanh Phương (2021) ở Tiền Giang; Trương Đình Hoài và cộng sự (2014) ở một số khu vực nuôi miền Bắc; Nguyễn Ngọc Phước và cộng sự ở một số vùng nuôi tại Thừa Thiên - Huế. Cá rô phi bị bệnh có biểu hiện mắt bị lồi đục, có hiện tượng bơi xoắn ốc hoặc bơi vòng tròn, xuất huyết và viêm màng não, và tỷ lệ chết cao lên đến 60 - 70% trong vòng 5 - 7 ngày, do đó gây nhiều thiệt hại kinh tế cho người nuôi (Nguyễn Ngọc Phước và cộng sự, 2019). Xu hướng bền vững Sử dụng kháng sinh là giải pháp phổ biến được nhiều hộ nuôi lựa chọn để phòng trị bệnh do vi khuẩn S. agalactiae trên cá rô phi. Tuy nhiên, việc sử dụng kháng sinh rất

dễ dẫn đến hiện tượng kháng kháng sinh các loài vi khuẩn gây bệnh trên động vật thủy sản, và truyền các gen kháng kháng sinh cho các loài vi khuẩn trong môi trường và vi khuẩn gây bệnh trên người. Ngoài ra, việc tích lũy kháng sinh trong động vật thủy sản có thể gây hại cho môi trường và cho người tiêu dùng. Vì vậy, các nhà khoa học đang tìm kiếm các giải pháp thay thế trong việc kiểm soát bệnh nhiễm khuẩn trong nuôi trồng thủy sản. Những năm gần đây, việc sử dụng thảo dược trong phòng trị bệnh nhiễm khuẩn đang ngày càng trở nên phổ biến do những ưu điểm: dễ tìm kiếm, giá thành thấp, hoạt tính kháng khuẩn cao, có khả năng kích thích hệ miễn dịch tự nhiên của vật chủ, thân thiện với môi trường, không gây nên hiện tượng kháng thuốc và đặc biệt đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm đối với con người.

Hiện nay, đã có một số nghiên cứu cho thấy rằng nhiều loại thảo dược có khả năng kháng vi khuẩn Gram dương gây bệnh như tía tô, xuyên tâm liên, kinh giới, cỏ mực và một số loại thảo dược khác. Một số loại thảo dược đã được thử nghiệm trong phòng và trị bệnh cho các đối tượng thủy sản như: Cây xoan (Melia azedarach L), sài đất (Wedelia chinensis), tỏi (Allium sativum L.), cây xuyên tâm liên (Andrographus panicullata), cỏ nhọ nồi (Eclipta alba Hassk), cây trâm bầu (Combretum quadrangulare).

Trong nghiên cứu này, 8 loại cao chiết thảo dược được sử dụng để đánh giá khả năng kháng S. agalactiae trong điều kiện in vitro và thử độc tính trên cá rô phi nhằm chọn ra loại thảo dược có hiệu quả cao để làm tiền đề cho việc tạo chế phẩm thảo dược phòng trị bệnh trên cá rô phi.

Tóm tắt nghiên cứu

Các loại thảo dược gồm: Tía tô (Perilla frutescens), kinh giới (Elsholtzia ciliata), bạch chỉ (Angelica dahurica), xuyên tâm liên (Andrographis paniculata), cỏ mực (Eclipta prostrata), cỏ gà (Cynodon dactylon), sài đất (Wedelia chinensis), mướp đắng (Momordica charantia) được đem về phòng thí nghiệm, sau đó đưa đi rửa sạch với nước và thu lá cắt nhỏ; riêng bạch chỉ thu phần rễ củ. Các loại thảo dược được cho vào tủ sấy ở nhiệt độ 60 - 700 C trong 6 giờ trước khi chiết xuất cao chiết. Nghiền nhỏ riêng từng loại thảo dược khô và bảo quản thảo dược ở 40 C. Các loại cao chiết

Xuyên tâm liên có khả năng bảo vệ cao cho cá rô phi với vi khuẩn S. agalactiae

Ảnh: Bioecoactual

cất, ethanol 96% và methanol 99,8%, được xử lý nhiệt và cô quay để loại bỏ dung môi.

Vi khuẩn thí nghiệm: 12 chủng vi khuẩn gây bệnh được phân lập từ mẫu cá rô phi bị bệnh lồi mắt xuất huyết, trong đó có 6 chủng thuộc Sequence Type (ST) 283 (kiểu huyết thanh III) và 6 chủng ST 1395 (kiểu huyết thanh Ib).

Cá rô phi (Oreochromis sp.), trọng lượng cơ thể trung bình 20 g được nuôi cách ly trong bể nhựa với nhiệt độ duy trì khoảng 28 - 30 0 C trong 14 ngày. Cá thí nghiệm được cho ăn hai lần/ngày ở mức 3% trọng lượng thân vào lúc 8 giờ sáng và 2 giờ chiều. Sục khí liên tục 24 giờ/ngày. Trước khi bố trí thí nghiệm, đàn cá được kiểm tra không bị nhiễm vi khuẩn Streptococcus agalactiae bằng cách cấy trực tiếp mẫu não của 5 cá ngẫu nhiên trong bể lên môi trường TSA và ủ ở nhiệt độ 28 0 C trong 24 giờ.

Kết luận

Vi khuẩn Streptococcus agalatiae là tác nhân gây bệnh chính trên cá rô phi nuôi trên thế giới và Việt Nam, trong đó các chủng thuộc ST 283 thuộc kiểu huyết thanh III là nhóm có độc lực rất mạnh và vừa gây bệnh cho cá vừa gây bệnh cho người (Phuoc và cộng sự, 2021; FAO, 2021), chính vì vậy chủng S. agalactiae ST 283 được ưu tiên lựa chọn trong thử nghiệm khả năng kháng khuẩn của các loại cao chiết trong điều kiện in vivo.

Kết quả cho thấy, trong 8 loại thảo dược thì tía tô, kinh giới, xuyên tâm liên và cỏ mực trong dung môi nước cất cho khả năng kháng khuẩn cao nhất với các chủng S. agalactiae ST283 kiểu huyết thanh III và S. agalactiae ST1395 kiểu huyết thanh Ib.

Nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) và nồng độ tiêu diệt tối thiểu (MBC) của 4 loại cao chiết thảo dược này dao động từ 312 mg/L đến 2.500 mg/L trên các chủng S. agalactiae ở cả hai kiểu huyết thanh. Xuyên tâm liên cho khả năng kháng khuẩn tốt nhất với MIC và MBC là 312 mg/L, thấp hơn các loại thảo dược còn lại. Kết quả khảo sát độc tính của các loại thảo dược trên cá rô phi cho thấy tỷ lệ sống 100% của cá rô phi khi được cho ăn thức ăn trộn với các nồng độ MBC của dung dịch chiết thảo dược tía tô, kinh giới, xuyên tâm liên, cỏ mực và dung dịch đối chứng nước sau 14 ngày theo dõi. Điều này cho thấy, các loại cao chiết xuyên tâm liên, kinh giới, tía tô, và cỏ mực trong dung môi nước được xác định an toàn cho cá rô phi và có thể sử dụng trong nghiên cứu phòng trị bệnh trên cá.

Cả 4 loại cao chiết thảo dược xuyên tâm liên, kinh giới, tía tô, và cỏ mực trong dung môi nước đều có khả năng bảo vệ cao cho cá rô phi với vi khuẩn S. agalactiae.

Ngành thủy sản lách khe cửa hẹp

Quyết định hoãn áp dụng mức thuế đối ứng

46% trong thời gian 90 ngày mới đây của Tổng

thống Mỹ Donald Trump giúp ngành thủy sản có

thêm khoảng thời gian “vàng” để giải quyết các

hợp đồng.

Cuối cùng, Tổng thống

Mỹ Donald Trump đã hạ nhiệt cơn sốt thuế

đối ứng bằng quyết định hoãn áp dụng mức thuế này trong 90 ngày với hầu hết các nước (trừ Trung Quốc). Đây thật sự là tin vui, là khoảng thời gian “vàng” để các doanh nghiệp chuẩn bị các kịch bản cho những bước đi tiếp theo. Tuy nhiên, điều tất cả mọi người đặt nhiều kỳ vọng hơn chính là một kết quả thật sự có lợi cho xuất khẩu của Việt Nam sau phiên đàm phán thương mại đối ứng tới đây giữa 2 nước; trong đó có vấn đề thuế.

Doanh nghiệp sốc và choáng

Dù đã có sự chuẩn bị từ

trước, nhưng khi Tổng thống Mỹ

Donald Trump công bố mức thuế

đối ứng 46% đối với hàng hóa từ

Việt Nam nhập khẩu vào Mỹ, các doanh nghiệp thủy sản không chỉ sốc, mà còn cảm thấy choáng với

mức thuế này, do trước đó, hầu hết đều dự đoán mức thuế này cao nhất cũng chỉ quanh quẩn

ở mức trên dưới 10%. Với dự

đoán trên, đã có doanh nghiệp tôm không những lên kế hoạch

doanh thu và lợi nhuận khá cao so với năm 2024, mà còn có kế hoạch xây dựng vùng nuôi cá rô

phi để chế biến, xuất khẩu sang thị trường Mỹ khi thương chiến

Mỹ - Trung nổ ra.

Doanh nghiệp “choáng” còn

bởi, nếu cộng thêm thuế chống

bán phá giá (AD) và thuế chống

trợ cấp (CVD) nữa thì con tôm

Việt Nam sẽ không thể nào trụ

được ở thị trường Mỹ. Một doanh nghiệp tôm ở Sóc Trăng chia sẻ:

“Con tôm Việt Nam vốn đã rất vất

vả trong cạnh tranh với tôm giá rẻ

Ecuador và Ấn Độ tại thị trường

Mỹ, nay phải gánh thêm mức

thuế rất cao so với 2 đối thủ này

(Ấn Độ 26% và Ecuador chỉ 10%)

thì làm sao trụ được ở thị trường này”. Trong những năm qua, Mỹ luôn là thị trường xuất khẩu tôm

truyền thống lớn nhất của Việt Nam, khi chiếm khoảng 20%

tổng kim ngạch xuất khẩu tôm, với giá trị kim ngạch dao động từ

800 triệu USD đến 1 tỷ USD. Theo các doanh nghiệp, nếu mức thuế

46% không được điều chỉnh giảm

như kỳ vọng sau đàm phán, thì câu chuyện rút khỏi thị trường Mỹ không còn là viễn cảnh.

Mỹ là thị trường lớn, truyền thống và có tính dẫn dắt đối với thủy sản thế giới, trong đó có Việt Nam. Hiện nay có hơn 400 doanh nghiệp Việt Nam đang xuất khẩu và có kế hoạch xuất thủy sản sang thị trường Hoa Kỳ với những đơn hàng lớn, giá trị cao. Trong bối cảnh cạnh tranh cao và thuế chống bán phá giá, phương thức vận chuyển hàng thủy sản chủ yếu là DDP (giao hàng tận kho) khi xuất khẩu sang Mỹ, nghĩa là doanh nghiệp Việt Nam phải trả toàn bộ chi phí (vận chuyển, bảo hiểm, thuế) trước khi giao hàng và chờ thanh toán từ đối tác Mỹ. Do vậy, mức thuế mới khiến cho doanh nghiệp thủy sản Việt Nam hoang mang lo ngại về khả năng mất thị trường lớn này.

Phản ứng từ thị trường Sau khi mức thuế đối ứng 46% được công bố, ngay ngày

hôm sau, giá tôm nguyên liệu tại khu vực ĐBSCL - vùng sản xuất tôm lớn nhất cả nước – đã bắt đầu giảm mạnh, với mức giảm 10.000 – 20.000 đồng/kg ở một vài phân khúc tôm kích cỡ lớn. Đây là điều dễ lý giải, do đây là phân khúc được tiêu thụ nhiều nhất tại thị trường Mỹ. Liên tiếp trong các ngày tiếp theo, phóng viên Tạp chí Thủy sản Việt Nam nhận được rất nhiều cuộc gọi đến từ các hợp tác xã, trang trại và cả một vài cán bộ kỹ thuật của doanh nghiệp cung ứng đầu vào phục vụ nuôi tôm với tâm trạng hết sức lo lắng do giá tôm giảm mạnh và sự vắng bóng của thương lái mua tôm. Càng lo lắng hơn khi một số doanh nghiệp cho biết, các khách hàng ở Mỹ đã đề nghị doanh nghiệp tạm ngưng giao hàng chờ kết quả đàm phán giữa Chính phủ 2 nước. Không chỉ có người nuôi mà cả doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu nói chung và tôm nói riêng đều trong trạng thái căng thẳng, lo lắng tột độ. Sự lo lắng này là có lý do. Theo thống kê nhanh, sơ bộ

và chưa đầy đủ của Hiệp hội Chế

biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), trong buổi sáng ngày 03/04 ngay khi có thông tin Mỹ áp mức thuế cao 46%, có khoảng 37.500 tấn thủy sản các loại đang trên đường vận chuyển tới Mỹ và khoảng 31.500 tấn hàng đang dự kiến xuất khẩu trong tháng 4-5/2025. Cùng với đó, là các đơn hàng đã được ký kết cho năm 2025, với tổng sản lượng vào khoảng 38.500 tấn. Trong số này, đáng lo ngại nhất là 37.500 tấn thủy sản đang trên đường tới Mỹ và 31.500 tấn dự kiến xuất khẩu trong tháng 4 và tháng 5. Bởi lẽ, nếu không có gì thay đổi, 37.500 tấn thủy sản khi đến Mỹ, doanh nghiệp sẽ phải chịu mức thuế đối ứng 46%, còn 31.500 tấn dự kiến xuất khẩu trong tháng 4 và

tháng 5 chắc chắn bị tồn đọng lại

không biết bán cho ai do mỗi thị

trường đều có yêu cầu khác nhau

về: mẫu mã, kích cỡ, phương thức

chế biến…

Tranh thủ thời gian vàng

Với quyết định hoãn áp dụng

mức thuế đối ứng 46% trong thời

gian 90 ngày mới đây của Tổng

thống Trump đã giúp 37.500 tấn

thủy sản đang trên đường tới Mỹ và 38.500 tấn dự kiến giao trong

tháng 4 và tháng 5 thoát được

mức thuế cao này, dù vẫn phải

chịu mức thuế 10% như hầu hết

các quốc gia khác. Nút thắt đầu

tiên đã được tháo gỡ, nỗi lo của

doanh nghiệp cũng được vơi đi

phần nào, nhưng sự tất bật thì

như được nhân lên do phải tranh thủ khoảng thời gian “vàng” này

để giải quyết các hợp đồng. Đây

cũng là lý do khiến các cuộc gọi

của phóng viên Tạp chí Thủy sản

Việt Nam cho giám đốc một số doanh nghiệp ngành tôm phải

rất khó khăn mới có thể kết nối

được, song thời gian trao đổi

cũng vô cùng chóng vánh, cho dù đây là mối quan hệ thân thiết.

Quyết định hoãn áp dụng thuế

đối ứng của Tổng thống Mỹ thật

sự đã giúp doanh nghiệp và người nuôi tôm có thêm cơ hội và niềm tin ở vụ tôm này. Điều đó được thể

hiện qua giá tôm những ngày gần

đây đã tăng trở lại, chuyện tiêu

thụ thuận lợi hơn và người nuôi tôm cũng quay lại thả giống nhiều

hơn. Mục tiêu đầu tiên mà Chính

phủ và doanh nghiệp kỳ vọng đã

đạt được. Vấn đề tiếp theo là làm sao đưa thuế đối ứng về mức đủ

để hàng hóa Việt Nam nói chung và thủy sản nói riêng có thể cạnh tranh sòng phẳng với các đối thủ mới là mục tiêu chính, là sự kỳ vọng lớn hơn mà cả Chính phủ và doanh nghiệp mong muốn đạt được. Các cuộc đàm phán tới đây về thỏa thuận thương mại đối ứng và xa hơn là Hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam và Mỹ chắc chắn sẽ còn gay go, phức tạp, nhưng chúng ta có quyền tin tưởng vào một kết quả tốt đẹp hơn sẽ đến sau các cuộc đàm phán này. Bên cạnh sự kỳ vọng vào các cuộc đàm phán giữa Chính phủ hai 2 nước sẽ đạt được kết quả tích cực, các doanh nghiệp cũng chủ động xây dựng các phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh để phù hợp với tình hình mới. Ông Võ Văn Phục - Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Thủy sản sạch Việt Nam (VinaCleanfood), cho biết, công ty đang nỗ lực tìm kiếm, mở rộng các thị trường tiềm năng có nhu cầu tiêu thụ tôm lớn, như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Canada, châu Âu để bù đắp cho các đơn hàng ở thị trường Mỹ nếu mức thuế đối ứng không được thay đổi theo hướng mà doanh nghiệp có thể chấp nhận được. Hầu hết các doanh nghiệp thủy sản cho biết, việc điều chỉnh kế hoạch doanh số, lợi nhuận năm 2025 gần như là điều phải làm, nhưng quan trọng hơn là việc tìm hướng đi mới, thị trường mới, trong đó tập trung khai thác tốt lợi thế từ những thị trường đã có FTA với Việt Nam và cả thị trường Halal đầy tiềm năng.

Xuân Trường

CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA

Protein đơn bào

từ khí lên men

Giải pháp dinh

dưỡng thủy sản

bền vững

Protein đơn bào (SCP) từ khí lên men

Uniprotein của Unibio

đang giúp ngành nuôi

trồng thủy sản giảm phụ

thuộc vào bột cá, bước

tiến quan trọng hướng

đến đích bền vững và thân thiện môi trường.

Công nghệ cách mạng

Protein đơn bào (SCP) được sản xuất thông qua quá trình lên men khí được đánh giá là công nghệ đột phá, cung cấp nguồn protein bền vững cho ngành nuôi trồng thủy sản. Công nghệ do Unibio tiên phong phát triển, tận dụng sức mạnh của vi sinh vật

để chuyển hóa methane thành protein chất lượng cao.

Công nghệ này giúp sản xuất protein chất lượng cao theo nhu

cầu, đảm bảo nguồn cung ổn

định, không bị ảnh hưởng bởi

thời tiết, năng suất cây trồng hay bất ổn địa chính trị. Nhờ đó, các hãng sản xuất thức ăn chăn nuôi

có thể yên tâm lập kế hoạch và

sản xuất hiệu quả.

Quy trình sản xuất 1kg

Uniprotein của Unibio tiêu tốn

ít nước và đất hơn đáng kể so với các nguồn protein đậu nành

truyền thống, qua đó giảm dấu chân sinh thái của ngành. Điều

này hoàn toàn phù hợp với nhu

cầu ngày càng tăng đối với các

phương pháp nuôi trồng thủy

sản bền vững và có trách nhiệm

với môi trường.

Ngoài ra, Uniprotein cung cấp nguồn protein tiêu chuẩn và ổn

định, loại bỏ sự biến động về

chất lượng thường gặp ở các lựa

chọn thay thế từ thực vật.

Vượt xa dinh dưỡng cơ bản

Uniprotein đóng vai trò như

một thành phần chức năng giúp

nâng cao sức khỏe và phúc lợi

của vật nuôi. Nghiên cứu sơ bộ do Unibio A/S và Matis cho thấy

việc bổ sung Uniprotein® vào

chế độ ăn của cá hồi Đại Tây

Dương có thể rút ngắn thời gian

cần thiết để cá phát triển phản

ứng miễn dịch hiệu quả sau khi

tiêm vaccine chống lại Vibrio salmonicida

Điều này cho thấy protein lên men từ khí có thể đóng vai trò như một thành phần chức năng, kích thích hệ miễn dịch của cá theo cách có kiểm soát, tương tự như một mầm bệnh nhưng không gây hại. Nhờ đó, quá trình tiêm vaccine có thể diễn ra nhanh hơn và hiệu quả hơn, giúp tăng cường hệ miễn dịch, giảm nguy cơ mắc bệnh và hạn chế sử dụng kháng sinh.

Tương lai bền vững

Tương lai của ngành nuôi trồng thủy sản phụ thuộc vào việc đón nhận đổi mới và áp dụng các giải pháp bền vững.

Bằng cách tận dụng công nghệ chuyển hóa khí thành protein, ngành có thể thoát khỏi sự phụ thuộc vào các nguyên liệu thức ăn truyền thống, giảm áp lực lên nguồn tài nguyên hữu hạn và xây dựng một nền tảng vững chắc, bền vững hơn.

Đáng chú ý, protein khí lên men chứa hàm lượng protein tương đương bột cá, với tổng lượng

axit amin lớn hơn 5% và đặc biệt là nhiều hơn 9% axit amin thiết yếu so với bột cá. Dù giá trị dinh dưỡng của protein đơn bào (SCP) không thể đứng độc lập, nhưng khả năng tiêu hóa protein Uniprotein® ở các loài thủy sản lại nổi bật với mức dao động 8188%, tùy thuộc vào từng loài. Bà Nana Wentzel Thorringer, Quản lý Phát triển Kỹ thuật về Dinh dưỡng Động vật tại Unibio, chia sẻ: “Đối với các nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi, biến động giá nguyên liệu đầu vào vẫn là một mối lo ngại lớn. Do đó, nguồn cung khí metan ổn định mang lại lợi thế đáng kể cho Unibio A/S với vai trò là nhà sản xuất SCP. Nguồn tài nguyên này cho phép Unibio tách rời quy trình sản xuất khỏi các chu kỳ biến động giá nguyên liệu hàng năm, từ đó mang lại sự ổn định và khả năng dự báo giá cao hơn. Uniprotein® mở rộng danh mục nguyên liệu giàu protein cho các nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi mà không ảnh hưởng đến sức khỏe vật nuôi, khả năng tiêu hóa hay tốc độ tăng trưởng, đáp ứng nhu cầu protein của tương lai”. Giám đốc Thương mại của Unibio, ông Olivier Hartz, nhấn mạnh: “Unibio là một trong những đơn vị tiên phong trong công nghệ lên men khí thành protein và đang sẵn sàng mở ra một kỷ nguyên mới cho ngành sản xuất protein bền vững. Công nghệ đột phá tạo ra SCP chất lượng cao với nhiều lợi thế vượt trội, không chỉ đơn thuần thay thế bột cá, mà còn là khai mở tiềm năng bền vững của ngành nuôi trồng thủy sản”.

Trước thách thức dịch bệnh và tác động môi trường,

các chiến lược dinh dưỡng mới được xem là giải pháp

hữu hiệu để cải thiện sức khỏe tôm, thúc đẩy hiệu suất tăng trưởng và nâng cao khả năng kháng bệnh.

Giải pháp tự nhiên

Để ứng phó với EHP, ngành dinh dưỡng đang tích cực tìm kiếm các giải pháp tự nhiên và đột phá, giúp giảm thiểu rủi ro dịch bệnh, tăng cường miễn dịch, đồng thời cải thiện tốc độ tăng trưởng và năng suất. Mới đây, hãng Catalyst đã phát triển sản phẩm VIUSID DETOX Vet và ASBRIP Vet kết hợp probiotic và các phân tử hoạt tính sinh học để chống lại mầm bệnh, cải thiện sức khỏe đường ruột và tăng cường khả năng chống chịu cho tôm trước các thách thức môi trường và dịch bệnh. Các thử nghiệm cho thấy sản phẩm thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao hiệu quả chuyển đổi thức ăn, cải thiện tỷ lệ sống và góp phần duy trì chất lượng nước.

Ngoài ra, ASBRIP Vet sử dụng tinh dầu thiên nhiên như cỏ xạ hương và khuynh diệp để hỗ trợ tiêu hóa, tăng cường sức khỏe

đường ruột và cải thiện hiệu suất sử dụng thức ăn. Đồng thời, sản phẩm giúp tăng cường hệ miễn dịch của tôm, bảo vệ vật nuôi

chống lại các mầm bệnh như

EHP và Vibrio. Khi được sử dụng

kết hợp, hai sản phẩm này mang

lại giải pháp toàn diện để phòng

chống EHP, Vibrio và virus, đảm

bảo một hệ thống nuôi trồng

thủy sản bền vững và hiệu quả.

Cải thiện miễn dịch

Catalysis vừa phối hợp với

ShrimpVet thực hiện một nghiên

cứu in vivo mới nhằm đánh giá

hiệu quả của VIUSID DETOX Vet và ASBRIP Vet về cải thiện chức

năng miễn dịch của tôm thẻ chân trắng giống gây nhiễm EHP. Thí

nghiệm được tiến hành trong các

bể nuôi dung tích 350 lít, mật độ

40 con/bể. Tôm có khối lượng

trung bình 1,78 gram và được cho

ăn khẩu phần bổ sung VIUSID

DETOX Vet và ASBRIP Vet liều

lượng 5 mL, 10 mL và 15 mL trên

mỗi kilogram thức ăn. Các nhóm

đối chứng (bao gồm nhóm thử thách và không thử thách dịch

bệnh) được thiết lập để so sánh

với các nhóm thử nghiệm (Hình 1). Các nhóm đối chứng âm tính không bị gây nhiễm dịch bệnh.

Phân từ tôm nhiễm EHP được

trộn thêm 5% nước biển và 0,3% oxytetracycline để tạo thành hỗn

hợp EHP gốc. Dung dịch này được

pha loãng 100 lần và phủ lên bề

mặt viên thức ăn. Trong suốt 7 ngày thử thách, thức ăn nhiễm EHP

được chuẩn bị và thay mới hàng ngày. Các bể đối chứng âm tính

được cho ăn thức ăn phủ TSB+.

Sau 14 ngày cho ăn bằng các

chế độ dinh dưỡng thử nghiệm, tôm bước vào giai đoạn thử thách

với EHP kéo dài bảy ngày bằng

phương pháp cho ăn trực tiếp.

Trong 21 ngày sau thử thách, các chỉ số về tỷ lệ sống, tăng

trưởng và tiêu thụ thức ăn của

tôm được đo lường, đồng thời

tiến hành phân tích miễn dịch tại

các thời điểm lấy mẫu khác nhau:

ngày thứ 7 và ngày thứ 21 của

giai đoạn sau thử thách. Tổng

số lượng tế bào máu (THC), tỷ

lệ phân bố tế bào máu (DHC) và

hoạt tính phenoloxidase (PO) của

tôm là những chỉ tiêu chính được quan tâm trong nghiên cứu này.

Tỷ lệ sống và tăng trưởng

Vào cuối thử nghiệm, tỷ lệ sống của tôm được bổ sung VIUSID

DETOX Vet và ASBRIP Vet liều

10 ml và 15 ml/kg cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng dương tính và nhóm dùng liều thấp nhất (P < 0,05). Tỷ lệ sống của tôm

trong hai nhóm này đã tăng lần

lượt 18% và 11%.

Trọng lượng trung bình cuối

cùng (FMW), tăng trọng trung

bình (MWG) và tốc độ tăng trưởng

riêng (SGR) của tất cả các nhóm

thử nghiệm đều cải thiện đáng kể so với nhóm đối chứng dương (P < 0,05). Tốc độ tăng trưởng trung

bình hằng ngày (ADG) của nhóm

G4 và G5 cao hơn đáng kể so với

G2, tuy nhiên không khác biệt so với G3. Sinh khối cuối cùng của nhóm G4 cao nhất, tiếp theo là G5 và khác biệt đáng kể so với nhóm G2, G3, do tôm đạt tỷ lệ sống cao

nhất sau khi nhiễm EHP. Tương tự, hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) ở G4 thấp nhất với 1,65, khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nhóm đối chứng dương tính (P < 0,05), cho thấy sự cải thiện đáng kể về FCR. Kết quả THC và DHC cho thấy các nhóm tôm sử dụng phụ gia duy trì số lượng huyết bào ổn định và kiểm soát EHP hiệu quả, đặc biệt là ở nhóm sử dụng liều 10 mL/kg. Dữ liệu về hoạt tính phenoloxidase (PO) cho thấy tất cả các liều đều có tác động tích cực đến điều hòa và phản ứng của hệ miễn dịch dịch thể của tôm. Hoạt tính PO ban đầu tăng cao ở tất cả các nhóm điều

so với nhóm đối

thấy các liều

dương,

nghiệm đã kích hoạt hiệu quả hệ miễn dịch dịch thể của tôm. Sự giảm dần hoạt tính PO trong các nhóm điều trị theo thời gian cho thấy sản phẩm thử nghiệm có khả năng kiểm soát hiệu quả tình trạng nhiễm EHP nghiêm trọng. Những kết quả này đã chứng minh VIUSID DETOX Vet & ASBRIP Vet ảnh hưởng đáng kể đến hệ miễn dịch của tôm trong trường hợp nhiễm EHP. Bộ đôi sản phẩm này giúp tăng đáng kể tỷ lệ sống của tôm, cải thiện hiệu suất tăng trưởng và tác động tích cực đến hệ miễn dịch của vật nuôi. Liều lượng 10 mL/kg được xác định là phương pháp điều trị hiệu quả nhất trong điều kiện thử nghiệm. Do đó, VIUSID DETOX Vet & ASBRIP Vet có thể được cân nhắc như giải pháp nâng cao tỷ lệ sống và cải thiện sức khỏe cho tôm nuôi trước thách thức EHP. Tuy nhiên, cần có thêm nghiên cứu, bao gồm các thử nghiệm thực địa và nghiên cứu cơ chế, để đánh giá đầy đủ tiềm năng của sản phẩm và tối ưu hóa việc ứng dụng trong nuôi tôm thương mại.

Dũng Nguyên

nguồn tài nguyên tái tạo

Tại Diễn đàn “Sử dụng hiệu quả phế phụ phẩm trong sản xuất nông

nghiệp” do Trung tâm Khuyến nông quốc gia tổ chức, các chuyên gia cho rằng, phụ phẩm ngành thủy sản cần được xem là nguồn tài

nguyên tái tạo, kéo dài chuỗi giá trị gia tăng, gắn với tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.

Tiềm năng lớn

Theo số liệu được công bố tại diễn đàn, đối với ngành chế biến thủy sản, nguồn phụ phẩm mới đạt khoảng 275 triệu USD vào năm 2020, trong khi đó nếu khai thác hết nguồn phụ phẩm bằng công nghệ cao thì có thể thu về 4 - 5 tỷ USD làm nguyên liệu cho ngành mỹ phẩm, dược phẩm, y tế, nông nghiệp, nhất là tiềm năng lớn trong sản xuất nguyên liệu thức ăn cho chăn nuôi, đặt nền móng cho kinh tế tuần hoàn trong ngành thủy sản.

TS. Trần Công Thắng, Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT dẫn báo cáo của FAO nêu rõ, năm 2018, đã có khoảng 88% (hơn 156 triệu tấn) trong tổng số 179 triệu tấn cá

được sử dụng cho tiêu dùng trực tiếp của con người, trong khi 12% còn lại (khoảng 22 triệu tấn)

rất lớn và đa dạng, mỗi năm có khoảng 160 triệu tấn phụ phẩm nông nghiệp, trong đó gần 1 triệu tấn từ ngành thủy sản (0,6%).

Theo bà Hà, hiện 90% phụ phẩm chế biến thủy sản đã được thu gom, chế biến thành các sản phẩm hữu ích, có giá trị phục vụ cho sản xuất thức ăn, chế biến thành các sản phẩm có giá trị cao hơn như dầu cá, bột cá, collagen... Tuy nhiên, trong sản xuất thủy sản còn phát sinh lượng lớn nước thải và bùn thải theo ước tỉnh khoảng 1 triệu tấn và mới chỉ có khoảng 20% được thu gom, xử lý.

Tích cực chuyển đổi

Thực tế cho thấy, mặc dù mang lại giá trị cao, nhưng việc xử lý và chiết xuất phụ phẩm thủy sản đòi hỏi thời gian và chi phí đầu tư rất lớn. Ngoài nguồn nhân lực chất lượng cao, công nghệ và trang thiết bị máy móc xử lý, chiết xuất phụ phẩm cũng phải tiên tiến, hiện Đưa phụ phẩm ngành thủy sản thành

đại. Trong bối cảnh nguồn lợi thủy sản ngày càng suy giảm, chi phí sản xuất tăng, thì việc tận dụng phế phẩm được xem là giải pháp căn cơ, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất. Đây cũng là cơ sở để chuyển tư duy sản xuất từ “chế biến thô” sang “chế biến sâu”, nhằm giảm chi phí, tăng giá trị cạnh tranh. Tuy nhiên, để hiện thực hóa mục tiêu này, ngoài sự nỗ lực của doanh nghiệp trong việc đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ, trang thiết bị máy móc, thì cần sự trợ sức từ cộng đồng xã hội, trong đó có việc nhà nước ban hành những cơ chế hỗ trợ ưu đãi và đặc thù, nhằm thu hút, khuyến khích đầu tư. Hàng năm, lượng phụ phẩm, chất thải nông nghiệp ở nước ta là rất lớn, trong khi đó, hiện số lượng phụ phẩm, chất thải được xử lý vẫn còn thấp so với yêu cầu. Vì thế, yêu cầu đặt ra trong thời gian tới là cần xây dựng nền kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp mà ở đó phụ phẩm trong nông, lâm, thủy sản cần được xem là nguồn tài nguyên tái tạo, chứ không phải là chất thải, là đầu vào quan trọng, kéo dài chuỗi giá trị gia tăng, góp phần bảo vệ môi trường, thúc đẩy xây dựng nền nông nghiệp nước nhà theo hướng hiện đại, gắn với tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.

được sử dụng cho các mục đích phi thực phẩm. Trong số đó, 80% (khoảng 18 triệu tấn)

được chế biến thành bột cá và dầu cá.

Ông Thắng cho biết, trước đây, sản phẩm phụ

được xem như một chất thải, nhưng ngày nay

được sử dụng trong sản xuất thức ăn chăn nuôi (không chỉ ở dạng bột cá và dầu cá), nhiên liệu sinh học, khí sinh học, các sản phẩm dinh dưỡng (chitosan), dược phẩm (dầu omega-3), chất màu tự nhiên, mỹ phẩm, các chất thay thế cho nhựa,…Hiện nay, ước tính phụ phẩm thủy sản được sử dụng 25 - 35% làm bột cá và dầu cá, nhưng có sự khác biệt giữa Châu Âu (54%) với các khu vực khác. 75% dầu cá được sử dụng làm thức ăn nuôi trồng thủy sản. Đồng quan điểm, ThS. Bùi Thị Hồng Hà, Trưởng phòng Vi sinh Nông nghiệp - Trung tâm Nông nghiệp hữu cơ - Học viện Nông nghiệp Việt Nam nhận định, tiềm năng và giá trị của phế phụ phẩm nông nghiệp nước ta là

Thùy Khánh

Nông dân Vĩnh Long làm giàu nhờ

không bùn

Thời gian qua, mô hình nuôi lươn không bùn đã giúp nhiều nông dân tại TP. Vĩnh Long có thêm thu nhập, đời sống được nâng lên. Trong đó, các hộ tham gia đã hoàn vốn đầu tư và mở rộng quy mô nuôi.

Ông Lâm Ngọc Sơn (62 tuổi, ngụ khóm 3, phường 8, TP Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long) bắt đầu nuôi lươn không bùn từ năm 2018. Khi đó, ông được Trạm Khuyến nông thành phố hỗ trợ 2.000 con lươn giống. Sau một thời gian nuôi, nhận thấy lươn phát triển tốt, lợi nhuận cao, ông đã đầu tư thêm 50 m2 chuồng, nuôi hơn 13.000 con lươn mỗi đợt.

Ông Sơn chia sẻ, khi mới bắt đầu thả nuôi, ông cũng gặp nhiều khó khăn do chưa am hiểu về đặc tính của lươn như mực nước, thời gian cho lươn ăn, thời gian thay nước… Tuy nhiên, nhờ sự hỗ trợ từ Hội Nông dân phường, Trạm Khuyến nông thành phố nên tỷ lệ hao

hụt thấp. Hiện nay, cứ sau 8 tháng thả nuôi, gia đình ông có thể thu lợi nhuận từ 70 - 80 triệu đồng.

Theo ông Sơn, chăn nuôi tại khu vực đô thị, đa số sử dụng nước máy. Do vậy, người nuôi phải tính toán hợp lý để hạn chế sử dụng nước, điều này không chỉ tiết kiệm chi phí mà còn đảm bảo an toàn cho vật nuôi.

“Trong thời gian thả nuôi, tôi đã nghiên cứu và áp dụng thành công nuôi lươn bằng nước máy và không bông tua (dây nilon) để tiết kiệm chi phí hơn 40% so với trước đây”, ông Sơn cho biết.

Giống như ông Sơn, ông Đặng Văn Hớn (70 tuổi, khóm 1, phường 8, TP. Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long) là một trong những nông dân tham gia nuôi lươn từ năm 2018. Hiện nay, giá lươn loại 1 đang được thu mua từ 110.000 - 120.000 đồng/kg, giảm hơn một nửa so với những năm

bắt đầu nuôi. Với giá bán này, tuy gia đình ông Hơn có lãi không nhiều, nhưng mỗi ngày chỉ cần bỏ ra khoảng 2 tiếng để chăm sóc lươn, không mất nhiều thời gian và công sức như nuôi các đối tượng thủy sản khác. Ông Huỳnh Trần Tấn Vinh - Chủ tịch Hội Nông dân phường 8 (TP. Vĩnh Long) cho biết, mô hình nuôi lươn đã giúp nhiều nông dân tại đây có thêm thu nhập,

tốt, đã hoàn vốn đầu tư và mở rộng quy mô nuôi lươn. Riêng ở phường 8, TP. Vĩnh Long đã có hơn 20 nông dân lớn tuổi tham gia Chi hội nghề nghiệp nuôi lươn không bùn. Theo ông Vinh, thời gian qua, Hội Nông dân phường đã liên kết với các nhà khoa học để hỗ trợ thông tin giúp người nuôi lươn đạt năng suất cao trong từng đợt nuôi. Bên cạnh đó, Hội cùng tìm kiếm, giới thiệu đầu ra cho các hộ nuôi để lươn được tiêu thụ hết, với mức giá của thị trường đồng thời không bị thương lái chèn ép.

Sau 5 năm triển khai thực hiện nuôi lươn không bùn, Hội Nông dân phường 8, TP. Vĩnh Long đã thành lập Chi hội nghề nghiệp với hơn 20 hộ tham gia nuôi, giúp người dân chuyển dần mô hình sản xuất chăn nuôi riêng lẻ sang liên kết sản xuất, các thành viên có thể tương trợ cho nhau về kỹ thuật, kinh nghiệm trong sản xuất chăn nuôi.

“Để áp dụng mô hình nuôi lươn không bùn có hiệu quả, người nuôi cần quan tâm nhiều hơn đến việc xử lý nước trước khi xả thải, tránh dẫn đến ô nhiễm môi trường làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển đô thị văn minh của địa phương”, ông Vinh cho hay.

CHUYÊN TRANG CÓ SỰ TÀI TRỢ CỦA TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA

Quảng Trị

Nuôi

ốc nhồi cho lợi nhuận cao

Nhờ mạnh dạn tiếp cận công nghệ nuôi

mới, chị Võ Thị Trang (thị trấn Hồ Xá, huyện

Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị) đã thành công

với mô hình nuôi ốc nhồi tuần hoàn khép

kín, thu lãi hàng trăm triệu đồng mỗi năm.

Thành công với đối tượng mới

Trao đổi về cơ duyên đến với nghề nuôi ốc nhồi, chị Trang cho biết, trước đây chị tốt nghiệp cử nhân ngành tài chính ngân hàng, sau đó làm việc cho một ngân hàng trên địa bàn tỉnh. Trong một lần ra miền Bắc, chị đã ghé thăm một số trang trại nuôi ốc nhồi và thấy được hiệu quả kinh tế từ đối tượng này. Trở về nhà, chị Trang quyết định bỏ công việc hiện tại và khởi nghiệp từ nuôi ốc nhồi.

Theo đó, năm 2022, chị bắt đầu xây dựng ao nuôi lót bạt có diện tích 800 m2 và thả 20.000 con ốc giống. Kết quả sau 5 tháng, thu hoạch được 2,5 tấn ốc thịt thương phẩm. Với giá bán 70.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí, chị Trang lãi 80 triệu đồng.

“Mặc dù vụ đầu đã thành công, tuy nhiên, nuôi ốc nhồi theo phương thức truyền thống,

trong ao hồ tự nhiên gặp nhiều hạn chế. Mùa mưa lạnh nhiệt độ xuống thấp, ốc không thể sinh trưởng. Vì vậy người dân chỉ có thể nuôi ốc một vụ vào mùa hè, tuy nhiên, thời điểm này sẽ có nhiệt độ cao, nắng gắt, cùng với đó là mưa dông kèm lượng axit lớn, khiến ốc sinh trưởng kém, thậm chí bị chết”, chị Trang chia sẻ thêm.

Đầu tư công nghệ

Để tìm cách khắc phục những

nhược điểm của mô hình nuôi ốc nhồi truyền thống, chị Trang đã dành nhiều thời gian tham quan, tìm hiểu các trang trại nuôi ốc nhồi ứng dụng công nghệ cao và học tập kinh nghiệm để áp dụng. Đến đầu năm 2024, chị Trang quyết định chuyển hướng sang nuôi ốc nhồi trong nhà màng, áp dụng công nghệ tuần hoàn khép kín.

Để thực hiện mô hình này, chị

đầu tư lắp đặt đường điện, xây dựng 4 ao nuôi ốc có lót bạt với tổng diện tích 1.000 m2 . Cùng với đó là lắp đặt nhà màng, hệ thống lọc nước tuần hoàn khép kín. Tổng số vốn đầu tư 2,2 tỷ đồng, trong đó chi phí đầu tư hệ thống lọc nước tuần hoàn khép kín trên 641 triệu đồng.

Khi cơ sở hạ tầng đã được hoàn thiện, tháng 8/2024, chị

Trang quyết định thả 350.000 con ốc giống. Sau 4 tháng, chị thu hoạch được trên 7 tấn ốc thương phẩm, lợi nhuận đạt 290 triệu đồng.

Nhờ nuôi ốc nhồi theo hướng công nghệ cao, có hệ thống nhà màng ngăn mưa, che nắng nên pH và nhiệt độ nước trong ao được đảm bảo, ốc phát triển tốt. Đồng thời, ao nuôi ốc nhồi được lót bạt giúp giảm tỷ lệ hao hụt nước. Cùng đó, hệ thống lọc,

xử lý nước công nghệ cao giúp nâng cao chất lượng nước ao, cung cấp nhiều ôxy, tạo điều kiện thuận lợi cho ốc sinh trưởng và phát triển tốt. Đặc biệt, hệ thống lọc, xử lý nước công nghệ cao này được chị Trang tích hợp vào điện thoại thông minh, có thể điều khiển từ xa, từ đó giúp theo dõi, kiểm soát hiệu quả các yếu tố môi trường nước dù đang ở bất kỳ nơi đâu. Đặc biệt, để chủ động nguồn thức ăn, vừa đảm bảo chất lượng, vừa giảm chi phí, chị Trang đã đầu tư dây chuyền công nghệ sản xuất thức ăn công nghiệp dạng viên nổi cho cá và ốc. Nhờ đó, có thể chủ động nguồn thức ăn cho ốc, đồng thời dễ kiểm soát lượng thức ăn theo từng thời kỳ sinh trưởng của ốc, tránh bị dư thừa, lãng phí. Ngoài ra, chị Trang còn đầu tư hệ thống ấp trứng ốc cho ra con giống nhằm tiết kiệm chi phí đầu tư và đảm bảo chất lượng đầu vào.

Hiện, sản phẩm ốc nhồi của chị Trang đã được công nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP. Ngay sau khi thu hoạch, ốc nhồi được các đầu mối từ Hà Tĩnh đến các tỉnh thành phía Bắc thu mua tại chỗ. Thanh Hiếu

Nuôi ốc theo công nghệ tuần hoàn khép kín giúp giảm thời gian nuôi từ 6 tháng xuống còn khoảng

4 - 5 tháng, ốc lớn nhanh và có kích thước to hơn, tỷ lệ con giống hao hụt chỉ

5 - 10%. Năng suất cũng tăng từ 3 tấn/1.000 m2 lên 7 tấn/1.000 m2 .

Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.