Con Tôm tháng 9/2025

Page 1


san CON TÔM

Hội Thủy sản Việt Nam

CHỦ NHIỆM

TS Nguyễn Việt Thắng

PHỤ TRÁCH

PGS.TS. Nguyễn Chu Hồi

BAN BIÊN TẬP

Dương Xuân Hùng, Trưởng Ban Biên tập

Đỗ Huy Hoàn, Nhà báo Phạm Thu Hồng, Nhà báo Dương Nam Anh, Nhà báo

THƯ KÝ TÒA SOẠN Kim Tiến

CỘNG TÁC NỘI DUNG

Minh Thanh, Hải Đăng, Vũ Mưa, Anh Thư, Lê Cung, Phạm Duy Tương, Phan Thanh Cường, Nguyễn Anh, Lê Hoàng Vũ, Mai Xuân Trường

KỸ THUẬT VI TÍNH

Phạm Dương

TÒA SOẠN

Lầu 2, Nhà B, 116 Nguyễn Đình Chiểu, P. Tân Định, TP Hồ Chí Minh

Điện thoại: 028.62777616

Email: toasoan.contom@gmail.com

Văn phòng tại Hà Nội: Tầng 1, nhà A8, số 10 Nguyễn Công Hoan, P. Giảng Võ, Hà Nội Điện thoại: 0243.7713699

LIÊN HỆ QUẢNG CÁO

VIETNAMMEDIA Communication Co., Ltd.

Điện thoại: (028) 62.777.616

DĐ: 0944.663.828

Email: nghia@thuysanvietnam.com.vn

ĐẶT MUA TẠP CHÍ

Điện thoại: (024) 3.771.1756

Email: vuna@thuysanvietnam.com.vn

TÀI KHOẢN NGÂN HÀNG

Tên tài khoản: CÔNG TY TNHH TRUYỀN THÔNG

VIETNAMMEDIA

Số 8614227979

Ngân hàng Đầu tư & Phát triển

Việt Nam (BIDV) - Chi nhánh Bà Chiểu

Ấn phẩm LHNB

Thưa Quý vị bạn đọc!

Theo báo cáo của Cục Thủy sản và Kiểm ngư, 8 tháng đầu năm 2025, cả nước thả nuôi gần 711.000 ha tôm nước lợ, đạt 99,2% kế hoạch. Tổng sản lượng tôm đã thu hoạch ước đạt 801.200 tấn, tăng 6,2% so cùng kỳ. Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 2,9 tỷ USD, tăng 18,2% so cùng kỳ. Các thị trường chính như: EU, CPTPP, Trung Quốc,… đều có sự tăng trưởng mạnh, riêng thị trường Mỹ có dấu hiệu chững lại từ tháng 7 do tác động từ thuế quan. Mặc dù có những kết quả tích cực, ngành tôm vẫn đối mặt với nhiều thách thức. Đặc biệt là, sau nhiều năm tăng trưởng nóng, mô hình nuôi thâm canh ở Việt Nam nói riêng và châu Á nói chung đang bộc lộ những giới hạn: tỷ lệ thành công sụt giảm, dịch bệnh gia tăng và lợi nhuận thiếu bền vững.

Trước thực tế đó, tại Diễn đàn Thủy sản TARS lần thứ 14 diễn ra ở Thái Lan (Aquaculture Roundtable Series) các chuyên gia và doanh nghiệp đều thống nhất rằng tương lai chỉ có thể

bằng công nghệ chính xác, dữ liệu và đổi mới quản trị.

Phát biểu khai mạc, bà Thitiporn Laoprasert, Phó Tổng cục trưởng Cục Thủy sản Thái Lan, nhấn mạnh những công cụ mới như trí tuệ nhân tạo, tự động hóa và giám sát dữ liệu đang thay đổi căn bản cách quản lý chất lượng nước, phòng ngừa dịch bệnh và tối ưu sử dụng thức ăn. Theo bà, nếu biết tận dụng sức mạnh của hợp tác và đổi mới, ngành tôm hoàn toàn có thể vượt qua giai đoạn khó khăn hiện tại để vươn tới một tương lai bền vững và thịnh vượng hơn.

Đây là những nội dung chính của Đặc san Con Tôm phát hành tháng 9/2025. Như thường lệ, Con Tôm vẫn sẽ gửi đến bạn đọc những nghiên cứu mới về thức ăn, dinh dưỡng, mô hình sản xuất tôm điển hình trong và ngoài nước, các bài viết kỹ thuật tư vấn phù hợp với tình hình thời tiết, nhằm giúp bà con đạt hiệu quả cao nhất. Rất mong tiếp tục nhận được sự ủng hộ và quan tâm của quý bạn đọc.

Trân trọng! BAN BIÊN TẬP

Tòa soạn luôn hoan nghênh sự đóng góp và các bài viết đặc sắc về ngành tôm từ các CTV, bạn đọc gần xa. Thư và bài vở xin gửi về: TạpchíThủysảnViệtNam - Lầu 2, Nhà B, 116 Nguyễn Đình Chiểu, P. Tân Định, TP Hồ Chí Minh

Điện thoại: 028.62777616

Email: toasoan.contom@gmail.com Hoặc liên hệ trực tiếp theo số điện thoại: 0374 099 498 (Ms. Kim Tiến) Website: www.thuysanvietnam.com.vn  www.contom.vn

Theo dòng thời sự

T14-15: Dồn sức cho chặng “nước rút”

Vấn đề - Sự kiện

T16-17: Định hình ngành tôm châu Á

Tòa soạn - Bạn đọc

T18-19: Truy xuất nguồn gốc: “Tấm hộ chiếu” bảo vệ uy tín nông, lâm, thủy sản Việt Nam

Thị trường xuất khẩu

T24-25: Xuất khẩu tôm ổn định, sẵn sàng trước thách thức mới

Nhìn ra thế giới

T30-31: Châu Âu: Tôm đỏ Địa Trung Hải: Giữ biển xanh, nâng tầm giá trị

Thức ăn - Dinh dưỡng

T36-37: Postbiotic: Chìa khóa nâng cao đề kháng và năng suất TTCT

Khoa học - Kỹ thuật

T38: Kiểm soát bệnh phân trắng trên tôm

T39: 5 lỗi trong quản lý dinh dưỡng cho tôm mùa bão

T40: Giải pháp phục hồi đáy ao lâu năm

T41: Hướng dẫn xử lý bệnh AHPND tại cơ sở nuôi thương phẩm

Thông tin doanh nghiệp

T42-43: CPF-COMBINE HOUSE: Điểm sáng cho hướng đi bền vững

T44: Biện pháp xử lý bệnh đường ruột trên tôm

T45: Công nghệ Nano Bubbles: Nâng tầm ngành thủy sản Việt Nam

Mô hình điển hình

T50: Dễ nuôi, lãi lớn như tôm càng xanh

Đồng hành cùng nhà nông

T52-53: Biện pháp giúp tôm lột xác đều

T54-55: Phòng chống bệnh đốm trắng

Tăng cường ứng dụng công nghệ vào nuôi tôm

Những năm qua, các xã ven biển của tỉnh Hưng Yên đã tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ trong nuôi TTCT đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Đến nay diện tích nuôi TTCT trên địa bàn tỉnh đạt 314,46 ha. Các ao nuôi được thiết kế bài bản, có hệ thống ao lắng lọc, ao chứa và xử lý nước thải, chất thải. Ao ương, ao nuôi được lắp quạt và ôxy đáy,… Tôm nuôi ở mật độ cao, thời gian nuôi ngắn, sản lượng lớn; mô hình nuôi khép kín, ít phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài nên tỷ lệ thành công cao. Ông Đào Duy Tứ, hộ nuôi TTCT xã Nam Cường cho biết: “Cứ hơn 100 ngày, gia đình lại thu hoạch 1 vụ, sản lượng đạt khoảng 10 tấn. Một năm 3 vụ đều đặn, sau khi trừ các chi phí, tôi thu lãi gần 1 tỷ đồng. Để mang lại hiệu quả, bên cạnh việc đầu tư hạ tầng ao nuôi, tôi chú trọng đến nguồn con giống, sử dụng chế phẩm vi sinh, hạn chế kháng sinh,…”.

THANH HIẾU

NGHỆ AN

Hiệu quả vượt trội từ nuôi tôm công nghệ cao

Ông Nguyễn Văn Hòa, xóm Xuân Châu, xã Hải Châu là một trong những điểm sáng nuôi tôm công nghệ cao tại Nghệ An với quy mô hơn 1,2 ha. Tại đây, ông Hòa áp dụng quy trình chặt chẽ, từng công đoạn đều được đội ngũ kỹ thuật tay nghề cao giám sát khắt khe. Trong đó, điểm khác biệt của mô hình là sử dụng hệ thống sục khí nano, cách này đã rút ngắn đáng kể thời gian nuôi so với phương pháp truyền thống, nâng cao rõ rệt năng suất cuối vụ. Mỗi năm, cơ sở của ông Hòa có thể nuôi được 3 vụ, mỗi vụ thu hoạch 13 - 15 tấn tôm, sau khi trừ chi phí, lợi nhuận cả năm ước đạt khoảng 2 tỷ đồng. “Nuôi tôm công nghệ không phải muốn là làm, trước khi thực hiện phải cân đo đong đếm rất nhiều yếu tố, từ tiềm lực tài chính, thị trường đến mức độ khả thi. Đến lúc này, có thể khẳng định đây là sự lựa chọn đúng đắn, mô hình đã mang lại hiệu quả vượt trội”, ông Hòa chia sẻ.

NAM CƯỜNG

NINH BÌNH

Thành tỷ phú nhờ mạnh dạn chuyển đổi nuôi tôm

Từ một thanh niên lái xe cơ giới, anh Bùi Văn Kiên, xã Hải Tiến, tỉnh Ninh Bình đã mạnh dạn chuyển đổi sang nghề nuôi TTCT và nuôi ốc hương. Hiện, trang trại của anh có diện tích lên đến 1,5 ha. Anh chia thành 6.000 m2 nuôi TTCT công nghệ cao và 8.000 m2 nuôi ốc hương, cùng 1 ao xử lý nước thải trước khi xả thải ra môi trường. Quy trình nuôi tôm của anh Kiên được chia làm 3 giai đoạn, dễ dàng kiểm soát được dịch bệnh, nguồn thức ăn, môi trường,… từ đó giúp tôm sinh trưởng phát triển đồng đều, chất lượng tôm thương phẩm tốt. Chia sẻ kinh nghiệm nuôi tôm thành công, anh Kiên cho biết, nguồn nước nuôi tôm đặc biệt quan trọng. Do đó, người nuôi phải đặc biệt quan tâm đến môi trường nước. Nước khi cho vào ao nuôi tôm phải được kiểm tra thường xuyên để cân bằng các chỉ tiêu về độ mặn, kiềm, pH,… Hiện, mỗi năm trang trại của anh cho thu nhập gần 4 tỷ đồng, đồng thời tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động địa phương.

LÊ LOAN

HÀ TĨNH

thu hoạch tôm sớm

Trước tình hình mưa lớn kéo dài và ảnh hưởng nặng nề từ bão số 5, nhiều hộ nuôi tôm trên địa bàn Hà Tĩnh buộc phải thu hoạch sớm nhằm hạn chế thiệt hại. Gia đình anh Đặng Văn Tuệ (thôn Đại Đồng, xã Cổ Đạm) đã quyết định thu hoạch sớm 4 ao tôm với tổng diện tích 1,5 ha, dù chưa đến kỳ xuất bán. Anh Tuệ cho biết: “Mưa bão làm cây phi lao gãy đổ, lá rụng xuống ao khiến chất lượng nước bị ảnh hưởng. Khu vực nuôi còn mất điện kéo dài, phải chạy máy phát liên tục, mỗi ngày tốn hàng triệu đồng tiền dầu. Để giảm rủi ro và thu hồi vốn, gia đình tôi buộc phải bán tôm sớm”. Ngoài việc phải xuất bán sớm, người dân tại đây còn đang tập trung khắc phục thiệt hại sau bão, nhất là tình trạng bờ ao sạt lở, hệ thống cấp thoát nước tắc nghẽn. Đồng hành với người dân, ngành chức năng cũng đã cử cán bộ chuyên môn hướng dẫn người dân xử lý môi trường ao, ổn định sản xuất sau thiên tai.

NGUYỄN HẰNG

THANH HÓA

Nhiều diện tích nuôi tôm bị thiệt hại sau bão

Liên tiếp hứng chịu ảnh hưởng nặng nề từ những cơn bão lớn, các hộ nuôi trồng thủy sản (NTTS) tại 2 xã Hoằng Châu và Hoằng

Thanh đã, đang phải gánh chịu những thiệt hại nặng nề. Tại xã

Hoằng Châu, đã có 24,5 ha nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao bị ảnh hưởng. Khu nuôi tôm của gia đình anh Lường Văn Sinh, thôn Phượng Khê có 10 bể nuôi tôm bị gió bão đánh xiêu vẹo. Anh Sinh cho biết: “Đầu tư hàng tỷ đồng để nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao giống như “canh bạc”, không chỉ là rủi ro môi trường, dịch bệnh, mà sợ nhất là mưa bão. Gia đình tôi thiệt hại khoảng 300 triệu đồng”. Xã Hoằng Thanh có hơn 400 ha NTTS, trong đó có nhiều diện tích nuôi tôm thâm canh dọc theo bãi biển. Bão số 5 đi qua đã phá hủy khoảng 300 m đê bao ven biển, khiến hơn 62 ha NTTS bị ngập, hàng chục ha nuôi tôm thâm canh mất trắng hoàn toàn, không ít hệ thống bể, nhà màng nuôi tôm bị bão đánh tan.

DIỆU CHÂU

ĐÀ NẴNG

Nâng cao chất lượng nước nuôi tôm

Theo đánh giá, mô hình nuôi thủy sản trên cát (chủ yếu là TTCT) trên địa bàn Đà Nẵng có lợi thế là nuôi được quanh năm, nhưng đang gặp nhiều bất cập liên quan đến các giải pháp về nguồn nước phục vụ nuôi trồng. Cụ thể, nguồn nước cấp bị ô nhiễm hữu cơ; hạ tầng thủy lợi có quy mô nhỏ, thiếu giải pháp cấp và thoát nước quy mô vùng nuôi chưa tách biệt, nhiều hộ không có hồ xử lý nước, các giải pháp cấp nước tự phát, tạm bợ mà chưa được tính toán hay quy hoạch cụ thể và chưa có tính liên kết, đồng bộ. Do đó, để giảm thiểu dịch bệnh, hướng đến phát triển bền vững ngành thủy sản, các nhà khoa học khuyến cáo người dân cần áp dụng giải pháp khai thác nước biển ngầm xa bờ hoặc gần bờ có hệ thống lọc để cho chất lượng nước nuôi thủy sản tốt hơn so với nước mặt. Lấy nước biển bằng cửa thu đặt ngoài biển; lấy nước biển bằng ống hút nước tự chảy vào bể bút ở trong bờ, lấy nước biển ngầm xa bờ bằng hệ thống lọc đặt nằm ngang; lấy nước biển ngầm gần bờ bằng hệ thống lọc đặt thẳng đứng,… HUYỀN THƯƠNG

TP CẦN THƠ

Khuyến cáo chăm sóc tôm mùa mưa

Tôm nước lợ là nguồn thu nhập quan trọng đối với người dân và mang về khoảng 925 triệu USD ngoại tệ mỗi năm cho TP Cần Thơ. Đến hết tháng 8/2025, diện tích nuôi tôm nước lợ toàn

thành phố đạt 39.378 ha, sản lượng hơn 84.647 tấn, trong đó còn trên đồng hơn 24.700 ha.

Theo dự báo của ngành chuyên môn, khoảng thời gian từ tháng 8 đến tháng 10/2025, các nơi trên địa bàn TP Cần Thơ đang trong giai đoạn cao điểm của mùa mưa năm 2025. Do đó, ngành Nông nghiệp và Môi trường thành phố đang tăng cường khuyến cáo hộ nuôi về kỹ thuật chăm sóc, lựa chọn giống và bảo vệ tôm nuôi.

Các hộ nuôi cần phải theo dõi sát thông báo về kết quả quan trắc môi trường, nhiệt độ vùng nuôi phù hợp là từ 26 - 320C để có những điều chỉnh kịp thời cho ao nuôi tránh tôm bị ảnh hưởng. Giữ mực nước ao từ 1,4 - 1,6 m. Khi trời mưa nhiệt độ trong ao xuống thấp cần giảm lượng thức ăn, có thể giảm từ 30 - 50% (tùy

ĐỒNG NAI

Hiệu quả từ ứng dụng nuôi tôm công nghệ cao

Mô hình nuôi tôm công nghệ cao đã giúp anh Nguyễn Huy Bình, xã Phước An, đạt doanh thu hàng chục tỷ đồng mỗi năm. Điểm nổi bật trong mô hình của anh Bình là sự đầu tư bài bản và ứng dụng triệt để khoa học kỹ thuật. Hệ thống ao nuôi được thiết kế dạng tròn nổi, dễ dàng kiểm soát môi trường nước và giảm thiểu nguy

cơ dịch bệnh. Bên cạnh đó, để bảo vệ môi trường và ổn định nguồn nước, anh còn xây dựng hệ thống xử lý nước thải khép kín. Nước thải được dẫn qua ao lắng kết hợp nuôi cá rô phi, vừa tận dụng thức

ăn dư thừa, vừa giúp lọc sạch nước, giảm thiểu tác động tiêu cực

đến môi trường. Nhờ áp dụng quy trình nuôi khép kín và kiểm soát

chặt chẽ môi trường ao nuôi, mô hình của anh đạt năng suất ấn

tượng, với sản lượng 20 - 25 tấn/ha/vụ, trung bình 3 vụ mỗi năm.

Sau khi trừ chi phí, lợi nhuận ròng đạt 700 triệu đến 1 tỷ đồng/ha.

Tổng doanh thu hàng năm hiện vượt mốc 35 tỷ đồng. NGUYỄN LAM

AN GIANG

Triển vọng nuôi tôm càng xanh ở Vĩnh Bình

Vĩnh Bình từng được ví như “rốn phèn” của vùng Miệt Thứ, tỉnh

An Giang, với muôn vàn khó khăn. Ngày nay, địa phương này đã

vươn lên mạnh mẽ, trở thành một “xứ sở tôm càng xanh”. Xã Vĩnh Bình có diện tích tự nhiên gần 160 km2. Đây là vùng đất có tiềm năng về nông nghiệp, thủy sản, đặc biệt là nuôi tôm càng xanh. Lãnh đạo xã Vĩnh Bình cho biết, mỗi năm, xã thả nuôi hơn 12.000 ha tôm, sản lượng đạt trên 85.000 tấn, trong đó tôm nuôi đạt 61.000 tấn, vượt 9% kế hoạch. Các mô hình tôm - lúa, tôm xen canh gồm tôm sú, tôm càng xanh và TTCT, giúp nông dân vừa tăng thu nhập, vừa thích ứng biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, địa phương còn có thế mạnh về trồng lúa, khóm, dưa lưới, dưa hoàng kim, rau màu,… Theo chia sẻ của người dân, tôm càng xanh ở đây là tôm sạch, được nhiều người khen ngon, bởi thịt dai, chắc và ngọt. Tôm vừa bắt lên luộc có màu

đỏ rất đẹp nên thương lái và người tiêu dùng rất ưa chuộng.

DUY AN

khả năng bắt mồi của tôm). Bón vôi CaO, hay CaCO3 để trung hòa

lượng axit trong nước mưa. Cùng với đó, tăng cường quạt nước hạn chế phân tầng, tăng ôxy cho ao nuôi.

VĨNH LONG

Lợi ích kép nuôi tôm xen dừa

THẢO ANH Ảnh: Thúy Liễu

Theo ông Lâm Văn Tân, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Vĩnh Long, toàn tỉnh có hơn 120 nghìn ha dừa. Mô hình nuôi tôm xen trong vườn dừa mang lại lợi ích kép. Ngoài doanh thu từ trái dừa, người dân có thêm nguồn lợi từ con tôm. Mỗi năm người dân có thể thu hoạch 2 lần tôm càng xanh. Bình quân, 1 ha nuôi xen tôm càng xanh có thể mang lại lợi nhuận từ 70 - 80 triệu đồng/ năm, cao gấp đôi so với trồng dừa thuần. Tại Vĩnh Long diện tích vườn dừa hữu cơ đang được mở rộng, đây là lợi thế để áp dụng mô hình xen canh tôm - dừa, mang lại giá trị kinh tế cao và bền vững hơn so với sản xuất đơn canh. Để nâng cao hiệu quả, ngành nông nghiệp khuyến cáo người dân cần áp dụng quy trình nuôi an toàn sinh học, chú ý quản lý chất lượng nước và nguồn con giống. Đồng thời, cần tổ chức lại sản xuất theo hướng liên kết hợp tác xã, tổ hợp tác để người dân có thể học hỏi, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau. NGUYỄN AN

CÀ MAU

Kỳ vọng vụ tôm - lúa

Những ngày qua, nông dân xã Khánh An đang tập trung rửa mặn, cải tạo đất để chuẩn bị cho vụ tôm - lúa năm 2025. Theo ông Nguyễn Minh Nhớ, Trưởng ấp 10, do năm nay mặn xâm nhập sâu và kéo dài, bà con phải rửa mặn kỹ hơn. Khi đo thấy độ mặn nước kênh về 0%, người dân bắt đầu bơm xả liên tục nhiều lần để đảm bảo đất sạch mặn. Có vậy cây lúa mới sinh trưởng tốt. Mô hình tôm - lúa được đánh giá là hướng sản xuất bền vững, thích ứng với điều kiện xâm nhập mặn và biến đổi khí hậu. Mô hình này vừa giảm sâu bệnh, vừa tạo thêm thu nhập nhờ nguồn lợi thủy sản, giúp nông dân ổn định sinh kế. Chính quyền địa phương khuyến khích bà con sử dụng các giống lúa chịu mặn, thời gian sinh trưởng ngắn và phù hợp với điều kiện canh tác đặc thù. Người dân đang kỳ vọng vụ tôm - lúa năm nay sẽ đạt kết quả khả quan, góp phần ổn định sinh kế và phát triển kinh tế nông nghiệp bền vững.

THÁI THUẬN

Sẽ chấm dứt cắt cuống mắt tôm trong trang trại

chuẩn BAP

Liên minh Thủy sản Toàn cầu (GSA) vừa công bố lộ trình loại bỏ hoàn toàn kỹ thuật cắt cuống mắt tôm tại các cơ sở nuôi và trại giống được chứng nhận Best Aquaculture Practices (BAP) vào cuối năm 2030. Quy định này cũng áp dụng cho việc thu mua ấu trùng từ các trại giống vẫn duy trì phương pháp trên. Cắt cuống mắt, biện pháp được sử dụng gần 40 năm để kích thích tôm cái sinh sản, lâu nay vốn phổ biến trong sản xuất giống, song ngày càng vấp phải phản đối vì liên quan đến phúc lợi động vật. GSA cho biết các tiến bộ khoa học về sinh học sinh sản và các kỹ thuật thay thế khả thi đã mở đường cho thay đổi này. Ông Mike Kocsis, Giám đốc điều hành GSA, khẳng định quá trình chuyển đổi có thể khó khăn nhưng sẽ thành công trong vòng 5 năm tới nhờ nghiên cứu, hợp tác cùng các viện, tổ chức và doanh nghiệp. Hiện có gần 1.900 trại nuôi và 150 trại giống tôm trên thế giới đạt chứng nhận BAP, sản lượng gần 800.000 tấn mỗi năm.

THÁI LAN

Thành lập liên minh giảm phát thải trong chuỗi cung ứng tôm

Chicken of the Sea Frozen Foods, Thai Union Group và Whole Foods Market vừa ký thỏa thuận hợp tác triển khai chương trình thí điểm nhằm cắt giảm đến 30% khí thải carbon trong chuỗi giá trị ngành tôm nuôi. Sáng kiến tập trung vào mở rộng năng lượng tái tạo tại trại nuôi, sử dụng thức ăn không liên quan đến phá rừng, tối ưu hóa năng lượng và giảm phát thải. Whole Foods cũng cam kết nâng cao hiệu quả năng lượng tại hệ thống cửa hàng, đồng thời phối hợp với nhà cung cấp để thúc đẩy tiến trình xanh hóa ngành tôm. Trước đó, tháng 5/2025, Thai Union nhận khoản “Blue Loan” trị giá 150 triệu USD từ Ngân hàng Phát triển châu Á để mở rộng nuôi tôm bền vững. Nguồn vốn này hỗ trợ mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, nằm trong chiến lược SeaChange® 2030.

MALAYSIA

 Ecuador xuất khẩu kỷ lục 708.111 tấn tôm trong nửa đầu năm 2025, tăng 15,9% so cùng kỳ, theo UrnerBarry. Động lực chính đến từ việc Mỹ áp thuế ngày 2/4, khiến nhập khẩu gấp rút dự trữ, đẩy xuất khẩu tháng 4 - 5 tăng 31%. Xuất khẩu tôm tháng 6/2025 giảm 16,7% so tháng trước nhưng vẫn cao hơn cùng kỳ. Giá CFR sang châu Âu giảm chậm lại nhờ USD yếu, trong khi sản lượng bị hạn chế do nước lạnh khiến giá cuối quý II nhích lên. Trung Quốc chiếm 50% thị phần (giảm từ 54%), còn EU và Anh tăng lên 19,6%, đã dùng 66% hạn ngạch năm.  Đại diện Thương mại Mỹ (USTR) vừa thông báo gia hạn miễn trừ thuế trong cuộc điều tra Mục 301 đối với hàng hóa Trung Quốc đến ngày 29/11/2025, thay vì hết hạn ngày 31/8. Danh mục miễn trừ gồm nhiều mặt hàng thủy sản như cá minh thái, cá bơn và thịt cua đông lạnh (cua hoàng đế, cua tuyết, cua Dungeness). Động thái này được kỳ vọng giảm áp lực chi phí nhập khẩu, góp phần ổn định giá và nguồn cung cá tuyết chấm đen, cá bơn trong bối cảnh thị trường khan hiếm, dù giới chuyên môn nhận định mức hỗ trợ vẫn hạn chế.

Mở rộng nuôi TTCT, hướng tới sản xuất bền vững

Tỷ lệ tự cung cấp thủy sản của Malaysia hiện đã vượt 90%, trong đó nuôi trồng thủy sản đóng vai trò then chốt. Hiệp hội Nông dân quốc gia Malaysia (NEKMAT) vừa đưa nuôi TTCT vào dự án tại Badong, đánh dấu bước mở rộng quan trọng cho ngành. Theo Chủ tịch NEKMAT, ông Azrin Shah Ismail, bốn ao nuôi ban đầu đã cho sản lượng 18 tấn tôm. Trong giai đoạn tới, NEKMAT sẽ bổ sung thêm 10 ao, đặt mục tiêu đạt 120 tấn/năm, mang về khoảng 3 triệu RM (tương đương gần 700.000 USD). Bộ trưởng Nông nghiệp và An ninh lương thực Mohamad Sabu cho biết, dự án có sự phối hợp với Cơ quan Phát triển Ngư nghiệp Malaysia (LKIM) và nguồn vốn đầu tư 3 triệu RM. Ông nhấn mạnh việc ưu tiên phát triển nuôi trồng ở các địa phương ngư dân gặp khó khăn ra khơi như Perlis, Penang, Melaka và Negeri Sembilan. Đáng chú ý, hồi tháng 3/2025, Chính phủ Anh cũng công bố gói hỗ trợ 12 triệu bảng nhằm thúc đẩy hệ thống nuôi trồng thủy sản bền vững tại Malaysia và Đông Nam Á.

 Nhật Bản một lần nữa kêu gọi Hồng Kông và Macau dỡ bỏ lệnh cấm nhập khẩu thủy sản từ 10 tỉnh, áp dụng từ tháng 8/2023 sau khi nước này xả 1,34 triệu tấn nước thải xử lý từ nhà máy Fukushima. Tokyo nhấn mạnh các nghiên cứu của IAEA, TEPCO và nhiều phòng thí nghiệm quốc tế, trong đó có Trung Quốc, đều khẳng định việc xả thải an toàn và sản phẩm thực phẩm Nhật Bản đảm bảo. Trong khi đó, chính quyền Hồng Kông cho biết vẫn duy trì trao đổi với phía Nhật và sẽ công bố nếu có điều chỉnh chính sách.

 Một nghiên cứu mới cho thấy 87% món tôm phục vụ tại các nhà hàng ở Slidell (Louisiana, Mỹ) là tôm đánh bắt tự nhiên từ Vịnh Mexico, đúng như quảng cáo. Trong 24 mẫu được kiểm tra, 21 được xác nhận chuẩn xác, chỉ ba nhà hàng bị phát hiện dùng tôm nhập khẩu. Kết quả này giúp Slidell cùng New Orleans trở thành hai địa phương có tỷ lệ gian lận thủy sản thấp nhất bang, nhờ luật bắt buộc ghi rõ nguồn gốc tôm từ năm 2008. Thành công này vừa bảo vệ người tiêu dùng, vừa giúp ngư dân địa phương giữ vững uy tín trước áp lực tôm nhập giá rẻ.

ẤN ĐỘ

Ngành tôm Andhra Pradesh lao đao vì thuế mới của Mỹ

Ngành thủy sản bang Andhra Pradesh (Ấn

Độ) đang lao đao sau khi Mỹ áp thuế 25% đối với hàng hóa Ấn Độ từ ngày 7/8, nâng tổng

mức thuế với thủy sản xuất sang Mỹ lên gần

35% (gồm thuế chống trợ cấp và chống bán phá giá). Hiệp hội các nhà xuất khẩu thủy sản

Ấn Độ (SEAI) cảnh báo chính sách này đe dọa sinh kế hơn 650.000 hộ nuôi tôm, cá, cua trên 230.000 ha và gần 5 triệu người lao động trong chuỗi cung ứng tại Andhra Pradesh. Năm 2023 - 2024, Ấn Độ xuất khẩu 1,78 triệu tấn thủy sản trị giá 7,38 tỷ USD, trong đó Andhra Pradesh đóng góp hơn 194,2 tỷ rupee, tăng trưởng 9,52%/năm. Mỹ vẫn là thị trường lớn nhất, chiếm hơn 34% kim ngạch, song đòn thuế trả đũa 26% hồi đầu năm đã khiến giá tôm lao dốc, nhiều hộ bỏ nuôi. Chính quyền bang cam kết tìm giải pháp hỗ trợ, nhưng nông dân cảnh báo sản xuất sẽ khó duy trì nếu không có can thiệp từ chính phủ.

CHÂU ÂU

Công bố hướng dẫn giảm phát thải carbon trong nuôi tôm

 Bộ Thủy sản và Hàng hải Indonesia vừa tạm ngừng hợp tác nuôi tôm hùm với Việt Nam do tình trạng buôn lậu giống tôm hùm (BBL) vẫn diễn ra tràn lan. Thỏa thuận, bước sang năm thứ hai, từng được kỳ vọng giúp hồi sinh ngành nuôi tôm hùm Indonesia thông qua chuyển giao công nghệ và đầu tư hạ tầng từ Việt Nam. Tuy nhiên, kết quả đánh giá cho thấy chưa đạt kỳ vọng. Chính phủ Indonesia cho biết sẽ lập lực lượng đặc nhiệm để xử lý vấn nạn này, đồng thời tập trung phát triển công nghệ nuôi trong nước, vốn đang đạt nhiều tiến bộ đáng kể.

Ngay trước Diễn đàn Tôm Toàn cầu lần thứ tư (2 - 4/9, Utrecht), tài liệu Carbon Footprint of Farmed Shrimp: An Industry Guide đã được giới thiệu nhằm giúp ngành tôm giảm dấu chân carbon. Hướng dẫn đưa ra khái niệm, phương pháp đo lường, cùng các giải pháp thiết thực để cắt giảm phát thải dọc chuỗi giá trị vừa tiết kiệm chi phí, vừa tăng khả năng chống chịu của chuỗi cung ứng. Báo cáo cũng bác bỏ những hiểu lầm về mức độ phát thải từ phá rừng ngập mặn và nêu bật khoảng trống nghiên cứu, như khí methane từ ao nuôi. Theo ông Anton Immink, CEO ThinkAqua, lợi ích thương mại có thể song hành với trách nhiệm khí hậu. Quỹ Diễn đàn Tôm Toàn cầu, đơn vị tài trợ nghiên cứu, kỳ vọng hướng dẫn này sẽ trở thành công cụ thúc đẩy ngành tôm toàn cầu phát triển bền vững hơn.

MỸ

Siết chặt kiểm soát tôm nhập khẩu từ Indonesia

Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) đang siết chặt kiểm soát tôm nhập khẩu từ Indonesia sau cảnh báo nguy cơ nhiễm phóng xạ liên quan đến sản phẩm của PT.

Bahari Makmur Sejati (BMS Foods), nhà cung

cấp chiếm tới 1/3 lượng tôm Indonesia xuất sang Mỹ. Tính đến 12/8, FDA đã từ chối 58 lô tôm Indonesia, gấp đôi cả năm 2024 và vượt mức kỷ lục 44 lô năm 2023, chủ yếu do dư lượng thuốc thú y cấm, sulfite không khai báo và gian lận thương mại. Ngày 14/8, FDA ban hành lệnh cảnh báo nhập khẩu với toàn bộ sản phẩm BMS và khuyến cáo người tiêu dùng không sử dụng một số sản phẩm đông lạnh bán tại Walmart ở hơn 10 bang. Dù chưa phát hiện lô nào nhiễm Cesium-137 lưu thông, sự cố vẫn gây lo ngại lớn về an toàn thực phẩm và nguy cơ ảnh hưởng thương mại thủy sản Indonesia.

TUẤN MINH(Tổng hợp)

 Công ty AquaStar (Mỹ) vừa thu hồi hơn 44.000 túi tôm do lo ngại nhiễm phóng xạ cesium-137 (Cs-137). Trong đó có khoảng 18.000 túi tôm Kroger Mercado loại 2lb và hơn 26.000 khay tôm Cocktail 6oz, phân phối tại nhiều hệ thống siêu thị lớn như Kroger, Walmart ở gần 30 bang của Mỹ từ cuối tháng 7 đến giữa tháng 8. Dù chưa ghi nhận ca bệnh nào, động thái này nằm trong cuộc điều tra về nguy cơ nhiễm phóng xạ từ tôm nhập khẩu của công ty Indonesia PT. Bahari Makmur Sejati. Đây là đợt thu hồi tiếp nối loạt vụ việc tương tự trong tuần qua.

 Sự kiện SustainED lần thứ sáu vừa diễn ra tại Guayaquil (Ecuador), do Hiệp hội Tôm bền vững (SSP) và Phòng Thủy sản Quốc gia (CNA) tổ chức, thu hút hơn 130 đại biểu cùng 13 chuyên gia trong và ngoài nước. Với chủ đề “Đổi mới và công nghệ”, chương trình gồm 12 phiên thảo luận tập trung vào năng lượng sạch, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, dinh dưỡng chính xác và công cụ giảm tác động môi trường. Theo Giám đốc SSP, bà Pamela Nath, đổi mới là chìa khóa đưa Ecuador trở thành quốc gia dẫn đầu thế giới về sản xuất và xuất khẩu tôm.

 Xuất khẩu tôm Ấn Độ dự báo giảm 15 - 18% trong năm tài khóa này sau khi Mỹ tăng thuế nhập khẩu lên 58,26% từ ngày 27/8, theo Crisil Ratings. Thuế mới khiến giá bán chịu áp lực, dù các doanh nghiệp Ấn Độ đã tìm cách đa dạng hóa sản phẩm và mở rộng thị trường thay thế. Crisil ước tính biên lợi nhuận ngành sẽ thu hẹp thêm 150 - 200 điểm cơ bản, xuống còn 5 - 5,5%, mức thấp nhất trong 10 năm, do gánh nặng thuế quan, công suất khai thác suy giảm và nhu cầu tôm cao cấp xuất sang Mỹ giảm mạnh. 

Dồn

sức cho chặng “nước rút”

8 tháng đầu năm 2025, ngành tôm giữ vững ổn định sản xuất, đạt mức tăng trưởng khả quan. Để đảm bảo mục tiêu cả năm, toàn ngành đã và đang tập trung cao độ, thực hiện quyết liệt các nhiệm vụ, dốc toàn lực cho chặng “nước rút”.

8 tháng vượt khó, tăng trưởng

Theo báo cáo của Cục Thủy sản và Kiểm ngư, 8 tháng đầu năm 2025, cả nước thả nuôi gần 711.000 ha tôm nước lợ, đạt 99,2% kế hoạch; trong đó, tôm sú 604.500 ha, bằng 100,18% kế hoạch và TTCT 106.500 ha, bằng 93,9% kế hoạch. Tổng sản lượng tôm đã thu hoạch ước đạt 801.200 tấn, tăng 6,2% so cùng kỳ; trong đó, sản lượng tôm sú 184.100 tấn, bằng 66,7% kế hoạch và tăng 3,5%, TTCT 617.100 tấn, bằng 65,6% kế hoạch và tăng 7% so cùng kỳ. Các cơ sở nuôi trồng tiếp tục đẩy mạnh đầu tư theo hướng ứng dụng công nghệ cao, phát triển mô hình nuôi siêu thâm canh, thâm canh mang lại hiệu quả kinh tế.

Kim ngạch xuất khẩu tôm ước đạt 2,9 tỷ USD, tăng 18,2% so cùng kỳ. Các thị trường chính như: EU, CPTPP, Trung Quốc,… đều có sự tăng trưởng mạnh, riêng thị trường

Mỹ có dấu hiệu chững lại từ tháng 7 do tác động từ thuế quan.

Các con số tăng trưởng trên tuy chưa phải là quá lớn, nhưng nếu nhìn vào diễn biến sau 8 tháng của vụ tôm nước lợ năm 2025 với đầy rẫy những rủi ro, khó khăn chồng chất, mới thấy hết sự nỗ lực vượt khó của toàn ngành. Trong đó, khó khăn đầu tiên và cũng gần như là thường trực với mỗi mùa tôm chính là dịch bệnh.

Báo cáo của Cục Thủy sản và Kiểm ngư cho thấy, diễn biến dịch bệnh trong 8 tháng đầu năm là phức tạp và có xu hướng lan rộng. Trong đó, bệnh đốm trắng là loại phổ biến nhất, xảy ra trên 1.561,62 ha, chiếm 3,17%, kế đến là bệnh hoại tử gan tụy cấp chiếm 3,26%, bệnh hoại tử cơ quan tạo máu và mô tạo máu,… Một số bệnh khác cũng được ghi nhận như: đường ruột, EHP, phân trắng,…

Năm nay, dịch bệnh trên tôm tuy không bùng phát lớn và gây thiệt hại nặng cho người nuôi tôm, nhưng vẫn diễn ra rải rác và gần như có mặt mọi lúc, mọi nơi, mà theo cách nói của người nuôi tôm là “rất khó chịu”. Bởi dù hầu hết những loại bệnh như: đốm trắng, phân trắng, EHP, EMS,… đều rất “quen mặt” với người nuôi, nhưng cách phòng trị thì không hề dễ dàng chút nào, nên thiệt hại vẫn cứ diễn ra dù mức độ không lớn.

Nỗ lực lớn

Các chuyên gia nhận định, ngành tôm hiện tại vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ dịch bệnh, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu, môi trường nuôi ngày càng bất ổn. Điển hình như việc kiểm soát những loại bệnh, như: đốm trắng, hoại tử gan tụy cấp, phân trắng,… đến nay vẫn còn hết sức

Phan Hương Giang

khó khăn do nhiều nguyên nhân: giống

không đảm bảo chất lượng, thức ăn và chế phẩm sinh học kém hiệu lực, điều kiện môi

trường ô nhiễm, và đặc biệt là sự thiếu hụt dữ liệu dịch tễ học đáng tin cậy, nên bệnh vẫn tiếp tục gây thiệt hại đáng kể trên tôm sú và TTCT.

Theo ông Võ Văn Phục, Tổng Giám đốc

Công ty CP Thủy sản sạch Việt Nam, nuôi tôm vụ này rất khó, vì ngoài yếu tố mưa bão thất thường thì dịch bệnh rất nhiều, mà tâm điểm là bệnh do EHP và các bệnh liên quan đường ruột. “Đối với người nuôi tôm, những năm gần đây, mỗi khi nói tới EHP là họ rất sợ vì đến nay gần như chưa có giải pháp hay phác đồ đặc trị đối với loại bệnh này. Họ sợ còn vì bệnh này khiến tôm chậm lớn, làm tăng chi phí và thời gian nuôi”, ông Phục nhấn mạnh.

Bên cạnh đó, mặc dù, sản lượng tôm nước lợ tăng 6,2% sau 8 tháng, nhưng vẫn còn khoảng cách so với mục tiêu năm, đòi hỏi ngành tôm phải nỗ lực lớn trong 4 tháng cuối năm.

Đặc biệt, lĩnh vực xuất khẩu vẫn phải đối mặt với thử thách lớn về thuế quan tại

thị trường Mỹ. Đây cũng chính là tâm điểm mà ngành tôm phải cố gắng vượt qua nếu muốn về đích đúng như kế hoạch.

Tăng tốc về đích

Theo Cục Thủy sản và Kiểm ngư, những tháng cuối năm sẽ là giai đoạn tăng tốc với nhiều nhiệm vụ để đảm bảo mục tiêu cả năm. Ở lĩnh vực nuôi trồng, các địa phương cần theo dõi sát diễn biến thời tiết, nhất là xâm nhập mặn tại ĐBSCL, để chủ động ứng phó và bảo đảm sản lượng. Công tác quản lý giống, thức ăn, thuốc thú y và phòng chống dịch bệnh sẽ được siết chặt. Các địa phương cần hướng dẫn doanh nghiệp và người nuôi ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất, phát triển sản phẩm thủy sản xanh, hữu cơ, tuần hoàn, bền vững nhằm giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm. Thực hiện đồng bộ các giải pháp giảm giá thành sản xuất, áp dụng kỹ thuật nhằm tăng tỷ lệ sống, giảm hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR),…

Hiện các tỉnh ĐBSCL đang bước vào cao điểm mùa mưa bão, vì vậy, Chi cục Thủy sản các tỉnh, thành khu vực nuôi tôm ở ĐBSCL tiếp tục chủ động khuyến cáo người dân các giải pháp nhằm quản lý hiệu quả quá trình thả nuôi thủy sản; triển khai các chương trình giám sát dịch bệnh chủ động và bị động tại vùng nuôi; tăng cường kiểm

“Nâng cao tỷ lệ nuôi tôm thành công để giảm giá thành, kết hợp với năng lực chế biến sâu của các doanh nghiệp lớn là điều kiện tiên quyết giữ vững lợi thế ngành tôm nước ta”, ông Trần Đình Luân, Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư khẳng định.

tra tôm giống nhập tỉnh nhằm xác định tác nhân gây bệnh để thông tin cảnh báo kịp thời đến người nuôi chủ động trong sản xuất. Đẩy mạnh công tác quan trắc môi trường vùng nuôi, khuyến cáo giải pháp ngăn ngừa dịch bệnh trong tôm nuôi. Về phía người nuôi, cũng nên thường xuyên cập nhật bản tin thời tiết, khí tượng thủy văn, bản tin giá cả thị trường để có thông tin phục vụ sản xuất tốt nhất. Để chủ động ứng phó với điều kiện thời tiết cực đoan và hạn chế được dịch bệnh, người nuôi nên tăng cường các biện pháp về: quan tâm chất lượng con giống, quản lý môi trường ao nuôi, thức ăn, dịch bệnh,… Ở lĩnh vực xuất khẩu, để giữ đà tăng trưởng, doanh nghiệp cần chủ động đa dạng hóa thị trường, tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến, đáp ứng yêu cầu chứng nhận khắt khe và xây dựng chiến lược giá phù hợp với biến động chính sách quốc tế.

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) nhận định, trong bối cảnh xuất khẩu tôm sang Mỹ gặp khó, EU sẽ nổi lên là một điểm đến trong chuyển dịch xuất khẩu. Để thúc đẩy xuất khẩu tôm sang EU, VASEP khuyến cáo các doanh nghiệp cần đảm bảo được các yêu cầu kỹ thuật nghiêm ngặt từ EU. Các nhà nhập khẩu ngày càng quan tâm đến: Tính minh bạch và khả năng truy xuất nguồn gốc rõ ràng; Tuân thủ các chứng nhận như ASC, GlobalG.A.P, Organic. Mặt khác, EU có xu hướng ưu tiên sản phẩm chất lượng cao, đóng gói có thương hiệu, đặc biệt là các dòng TTCT bóc vỏ, tôm sú nuôi tự nhiên, chứng nhận sinh thái. Do vậy, các doanh nghiệp Việt muốn gia tăng xuất khẩu vào thị trường EU cần phải có chiến lược tiếp thị rất cụ thể, giúp xây dựng hình ảnh thương hiệu cho sản phẩm của mình. Theo đó, doanh nghiệp cần định vị lại chiến lược cạnh tranh, chuyển từ cạnh tranh giá sang tập trung vào chất lượng, bền vững, minh bạch.

XUÂN TRƯỜNG

Là số lượng con giống TTCT các cơ sở sản xuất được trong tháng 8/2025.

Là sản lượng TTCT trong tháng 8/2025, tăng 5,9% so cùng kỳ năm trước.

Là tỷ lệ diện tích nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao trên tổng diện tích nuôi tôm nước lợ của TP Cần Thơ hiện nay.

Là diện tích nuôi tôm - lúa của tỉnh An Giang hiện nay, tập trung nhiều ở vùng U Minh Thượng.

Là diện tích nuôi tôm sạch mà tỉnh

Cà Mau phấn đấu đạt được trong thời gian tới.

Định hình ngành tôm châu Á

Từ thách thức đến cơ hội

chuyển đổi

Diễn đàn Thủy sản TARS lần thứ 14 tại

Thái Lan (Aquaculture Roundtable Series)

đã khép lại sau hai ngày làm việc sôi nổi, quy tụ 284 đại biểu từ 22 quốc gia, bao gồm các chuyên gia, diễn giả, nhà quản lý, doanh nghiệp và đại diện chuỗi cung ứng tôm châu Á.

Với chủ đề nuôi tôm lần thứ bảy, TARS 2025 trở thành điểm hẹn quan trọng để ngành cùng nhìn lại chặng đường đã qua.

Sau nhiều năm tăng trưởng nóng, mô hình

nuôi thâm canh ở châu Á bộc lộ những giới

hạn: tỷ lệ thành công sụt giảm, dịch bệnh gia tăng và lợi nhuận thiếu bền vững. Trước

thực tế đó, các chuyên gia và doanh nghiệp

đều thống nhất rằng tương lai chỉ có thể

được định hình bằng công nghệ chính xác, dữ liệu và đổi mới quản trị. Phát biểu khai mạc, bà Thitiporn Laoprasert, Phó Tổng cục trưởng Cục Thủy sản Thái Lan, nhấn mạnh những công cụ mới như trí tuệ nhân tạo, tự động hóa và giám sát dữ liệu đang thay đổi căn bản cách quản lý chất lượng nước, phòng ngừa dịch bệnh và tối ưu sử dụng thức ăn. Theo bà, nếu biết tận dụng sức mạnh của hợp tác và đổi mới, ngành tôm hoàn toàn có thể vượt qua giai đoạn khó khăn hiện tại để vươn tới một tương lai bền vững và thịnh vượng hơn.

“Bất cập” của châu Á và

bài học từ Ecuador

Một trong những điểm nhấn của TARS

2025 là phiên thảo luận “Hard Talk”, nơi các lãnh đạo trong chuỗi giá trị từ giống,

thức ăn, chế biến đến tiêu thụ thẳng thắn

chỉ ra những bất cập của ngành. Châu Á

hiện vẫn sản xuất phân mảnh, với 70% sản

lượng đến từ nông hộ nhỏ, khiến sự liên

kết trong chuỗi còn hạn chế. Ngược lại, mô

hình tích hợp của Ecuador cho thấy sự phối

hợp chặt chẽ giữa nông dân và nhà máy

TARS 2025 khẳng định canh tác chính xác và dinh dưỡng bền vững là chìa khóa giúp ngành tôm châu Á vượt qua vòng xoáy giá thấp, chi phí cao và dịch bệnh, mở đường cho một tương lai bền vững và hiệu quả hơn. TARS 2025 trở thành điểm hẹn quan trọng để ngành cùng nhìn lại chặng đường đã qua Ảnh: TARS

chế biến, qua đó gia tăng giá trị và nâng cao sức cạnh tranh.

Các đại biểu thống nhất rằng nông hộ nhỏ ở châu Á vẫn là lực lượng kiên cường và linh hoạt. Tuy nhiên, để phát huy hiệu quả, cần đẩy mạnh hợp tác sâu hơn và xây dựng chuỗi giá trị phù hợp với từng thị trường, thay vì chạy theo mô hình tích hợp toàn diện. Các chuyên gia cũng nhận định chính thế hệ nông dân thứ hai đang tạo ra sự chuyển biến. Họ biết cách xây dựng mạng lưới liên kết, tiếp cận khoa học và dần dịch chuyển từ mô hình nuôi gia đình sang nuôi tôm hiện đại, dựa trên công nghệ và dữ liệu. Tại diễn đàn, nhiều ý kiến nhấn mạnh rằng sự kế thừa trong các doanh nghiệp gia đình đòi hỏi sự cân bằng giữa tôn trọng truyền thống và dám đổi mới. Thế hệ trẻ cần chứng minh năng lực để được tin tưởng trao quyền, đồng thời triển khai các dự án cải tiến một cách bài bản, dựa trên dữ liệu, nhằm tránh phá vỡ nền tảng sẵn có.

Phân tích cung - cầu thế giới cho thấy thị trường tôm đang dịch chuyển rõ rệt.

Người tiêu dùng ngày nay không chỉ tìm kiếm giá rẻ mà còn đòi hỏi sản phẩm sạch, bền vững, có truy xuất nguồn gốc, không kháng sinh, chất lượng ổn định và phù hợp với kênh thương mại điện tử. Trung Quốc vẫn được đánh giá là thị trường tiềm năng, song nhu cầu đã chuyển sang hướng ưu tiên chất lượng cao với khối lượng nhập khẩu ít hơn.

Ecuador được nhắc đến như một hình mẫu khác biệt. Nhờ tích hợp dọc toàn bộ chuỗi sản xuất và tối ưu hóa quy trình, quốc gia Nam Mỹ này đã đạt hiệu quả vượt trội, khả năng chống chịu cao và đang dần chuyển từ tư duy “bán sản phẩm” sang “đáp ứng nhu cầu”. Thông điệp gửi đến châu Á không phải xem Ecuador là đối thủ, mà là bài học quý về di truyền, quản lý giống, lập kế hoạch sản xuất và xây dựng thương hiệu. Trong khi đó, một số nhà sản xuất như Klomsuwan ở Thái Lan đã chứng minh tiềm năng cải thiện nhờ quản trị dữ liệu, giúp năng suất tăng tới 60%. Điều này cho thấy, ngay cả trong bối cảnh nhiều thách thức,

việc áp dụng công nghệ chính xác vẫn có thể mở ra cơ hội đột phá cho ngành.

Định hình tương lai bền vững

Canh tác chính xác và dinh dưỡng bền vững tiếp tục là tâm điểm của ngành tôm

toàn cầu. Các chuyên gia cho rằng di truyền chỉ quyết định khoảng một nửa thành công, trong khi quản lý trại giống và chất lượng tôm post mới là yếu tố mang tính quyết định ngoài thực tế. Mô hình ương giống tích hợp đang chứng minh hiệu quả trong kiểm soát tồn kho và nâng tỷ lệ sống, đặc biệt tại Việt Nam, song đòi hỏi logistics và an toàn sinh học khắt khe.

Trong dinh dưỡng, việc bổ sung phụ gia chức năng nhằm tăng cường miễn dịch và sức khỏe đường ruột ngày càng được chú trọng. Cảnh báo cũng được đưa ra về tác động tiêu cực của độc tố nấm mốc và endotoxin. Mục tiêu dài hạn là giảm dần phụ thuộc vào bột cá, dầu cá, thay thế bằng nguồn nguyên liệu bền vững nhưng vẫn

đảm bảo hiệu suất và giá thành hợp lý. Công nghệ mới như cho ăn theo âm thanh hay giám sát thời gian thực mở ra nhiều triển vọng, dù mức độ ứng dụng còn khác biệt giữa các quốc gia.

Phòng bệnh tiếp tục là ưu tiên hàng đầu.

Thực tế từ Việt Nam cho thấy kiểm soát bệnh

TPD cần kết hợp an toàn sinh học theo cụm

cùng phụ gia chức năng. Bên cạnh đó, quản lý đa tác nhân gây bệnh, chẩn đoán sớm và nuôi với mật độ thấp vẫn là giải pháp then chốt để giảm thiểu rủi ro.

Chiến lược thức ăn cũng có sự khác biệt: châu Á vẫn ưu tiên khẩu phần protein thô cao hơn so với Mỹ Latinh. Các chuyên gia khuyến nghị cần giảm dần tỷ lệ này, cải thiện khả năng tiêu hóa, áp dụng mô hình toán học để tối ưu công thức, hạn chế nguyên liệu biển và hướng tới nguồn protein bền vững. Đặc biệt, vai trò của các start-up trong quản lý ao nuôi, phòng bệnh và thích ứng biến đổi khí hậu ngày càng được đề cao, trở thành chìa khóa hỗ trợ nông dân vượt qua chuỗi thất bại liên tiếp.

Trong bối cảnh thị trường, áp lực ngày càng lớn đặt lên vai người nuôi. Các nhà bán lẻ được dự báo sẽ siết chặt yêu cầu, buộc sản xuất tuân thủ tiêu chuẩn khắt khe về truy xuất nguồn gốc và lợi ích sức khỏe. Việc đảm bảo chất lượng sau thu hoạch thông qua kiểm soát chặt chẽ thời gian, nhiệt độ và chuỗi cung ứng từ ao nuôi đến nhà xuất khẩu trở thành yếu tố sống còn.

TUẤN MINH (Tổng hợp)

Tái cấu trúc để

bứt phá

Ngành tôm toàn cầu đang bước vào giai đoạn bản lề, buộc phải tái cấu trúc thay vì chỉ mở rộng sản lượng.

Ngành tôm toàn cầu đang bước vào giai đoạn nhạy cảm. Báo cáo Global Aquaculture Update 2H 2025 của Rabobank cho thấy nguồn cung có dấu hiệu chững lại, trong khi những bất ổn thương mại với Mỹ và nhu cầu suy yếu từ Trung Quốc tiếp tục phủ bóng lên triển vọng. Câu hỏi đặt ra: Liệu ngành tôm sẽ tiếp tục mở rộng bằng mọi giá, hay đã đến lúc phải tái cấu trúc để phát triển bền vững? Trong sản xuất tôm, giá tại trại là yếu tố cốt lõi quyết định hành vi nuôi. Tại châu Á, nơi 70% sản lượng đến từ các hộ nuôi nhỏ lẻ, giá thấp thường khiến nông dân bỏ qua một vụ. Sau khi chạm đáy cuối năm 2023, giá tôm đã phục hồi, nhưng quý II/2025 lại chứng kiến diễn biến bất thường khi nhiều nước gấp rút xuất khẩu trước thời điểm Mỹ áp thuế ngày 9/7.

Tín hiệu tích cực là chi phí sản xuất đang hạ nhiệt: giá bột cá, ngô, đậu nành đều giảm, giúp cải thiện biên lợi nhuận cho nông hộ. Nhưng nghịch lý là điều này lại đẩy các nhà cung cấp nguyên liệu thay thế như bột côn trùng hay protein đơn bào vào thế khó. Ngành tôm rõ ràng không chỉ bị thách thức từ giá cả và thương mại, mà còn đối diện với áp lực tái định hình chuỗi giá trị. Ecuador hiện nổi bật với mô hình sản xuất liên kết chuỗi, nơi hơn 60% sản lượng đến từ các doanh nghiệp lớn có tính tổ chức cao. Nhờ đó, quốc gia Nam Mỹ này giữ vững vị thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Trong khi đó, châu Á, vốn được xem là “cái

nôi” sản lượng, vẫn chủ yếu vận hành theo mô hình phân mảnh.

Các nhà nghiên cứu quốc tế đều đồng thuận: mô hình châu Á không hề “lỗi thời”, nhưng đang gánh quá nhiều rủi ro. Từ di truyền, ương giống, nuôi thương phẩm, thức ăn, bảo quản đến chế biến - mỗi mắt xích vận hành riêng rẽ, thiếu sự gắn kết. Khi thị trường biến động, sự rạn nứt này càng dễ lộ rõ. Đó chính là ngã rẽ buộc ngành phải lựa chọn: hoặc tiếp tục tăng trưởng theo chiều rộng, hoặc bắt tay xây dựng lại một chuỗi giá trị thống nhất, khép kín hơn. Một khía cạnh ít được nhắc tới nhưng vô cùng quan trọng là chất lượng. Nếu cá hồi có hệ thống chấm điểm cảm quan rõ ràng, thì ngành tôm đến nay vẫn chưa có tiêu chuẩn tương tự. Điều này khiến sản phẩm giá trị gia tăng của tôm khó bứt phá trên thị trường quốc tế.

Tại Hội thảo TARS 2025, nhiều chuyên gia đề xuất cần khẩn trương xây dựng bộ công cụ đo lường, thử nghiệm cảm quan và tiêu chuẩn hóa chất lượng. Đây không chỉ là nền tảng để định vị sản phẩm, mà còn là “chiếc chìa khóa” giúp tôm châu Á rút ngắn khoảng cách với những ngành nuôi trồng khác.

Dù theo đuổi những mô hình khác nhau, châu Á và Mỹ Latinh đều đang chung một hành trình phát triển ngành tôm toàn cầu. Nếu biết chia sẻ kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau, ngành tôm có thể vượt qua biến động trước mắt và tiến tới một giai đoạn phát triển bền vững hơn.

Ngành tôm đang ở trước ngã rẽ quan trọng: mở rộng để chạy theo sản lượng, hay tái cấu trúc để xây nền vững chắc. Lựa chọn nào sẽ định hình diện mạo của toàn ngành trong thập kỷ tới, đó không chỉ là câu hỏi của riêng châu Á, mà của cả thế giới.

ZURIDAH MERICAN Chủ tịch TARS kiêm Tổng biên tập AquaCulture Asia Pacific

TRUY XUẤT NGUỒN GỐC

“Tấm hộ chiếu” bảo vệ uy tín nông, lâm,

thủy sản Việt Nam

Ngày 29/8/2025, Thủ tướng Chính phủ ban hành Công điện số 150/CĐ-TTg về việc tăng cường truy xuất nguồn gốc, đảm bảo chất lượng và uy tín sản phẩm nông, lâm, thủy sản xuất khẩu. Đây không chỉ là một chỉ đạo hành chính, mà còn là bước đi chiến lược nhằm bảo vệ thương hiệu quốc gia trong bối cảnh các thị trường toàn cầu siết chặt quy định an toàn, minh bạch và phát triển bền vững.

Nhiều rủi ro trong xuất khẩu

Trong gần một thập kỷ qua, nông, lâm, thủy sản luôn là nhóm hàng xuất khẩu chủ lực, đóng góp khoảng 12 - 14% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Năm 2024, kim ngạch toàn ngành đạt hơn 54 tỷ USD, trong đó thủy sản chiếm gần 10 tỷ USD, gạo trên 4 tỷ USD, cà phê hơn 4,2 tỷ USD, gỗ và lâm sản vượt 15 tỷ USD. Những con số này khẳng định vị thế của Việt Nam là một trong những trung tâm cung ứng nông sản lớn của thế giới. Tuy nhiên, đằng sau các con số tích cực là nhiều cảnh báo đáng lo ngại. Chỉ trong năm 2024, EU đã đưa ra hơn 150 cảnh báo RASFF (Hệ thống cảnh báo an toàn thực phẩm nhanh) đối với hàng hóa Việt Nam; một số lô thủy sản bị trả về từ Mỹ do vi phạm về dư lượng kháng sinh; Trung Quốc tạm dừng nhập khẩu nhiều lô hàng do sai phạm trong mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói. Những sự cố này không chỉ gây thiệt hại kinh tế trước mắt mà còn ảnh hưởng đến uy tín và khả năng cạnh tranh dài hạn của nông sản Việt.

Quyết tâm siết chặt kỷ luật

Trước tình hình đó, Công

điện 150/CĐ-TTg nhấn mạnh 4 yêu cầu then chốt:

Một là, quản lý chặt mã

số vùng trồng, cơ sở nuôi và chế biến: Trong đó, rà soát, chấn chỉnh quy trình cấp mã số, tránh tình trạng “cấp ảo”, buông lỏng quản lý. Thực hiện giám sát định kỳ và đột xuất, gắn trách nhiệm cụ thể cho từng địa phương.

Hai là, đảm bảo tiêu chuẩn an toàn thực phẩm. Trong đó, kiểm soát dư lượng hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật, kháng sinh trong thủy sản; Thúc đẩy sản xuất sạch, hữu cơ, truy xuất nguồn gốc điện tử, từng bước tiếp cận chuẩn ESG (môi trường, xã hội, quản trị).

Thứ ba, ngăn chặn gian lận thương mại. Cụ thể, xử lý nghiêm hành vi giả mạo giấy tờ, gian lận

xuất xứ. Công khai doanh nghiệp vi phạm để răn đe, tránh “con sâu làm rầu nồi canh”.

Thứ tư là nâng cao thương hiệu quốc gia. Trong đó, kết hợp quản lý chất lượng với chiến lược truyền thông, quảng bá. Đồng thời tập trung xây dựng hình ảnh nông sản Việt Nam “minh bạch - an toàn - bền vững” trên thị trường toàn cầu.

Để thực hiện được những nội dung nêu trên, Công điện phân công rõ trách nhiệm cho từng chủ thể. Trong đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường giữ vai trò chủ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc cấp mã số, quản lý an toàn thực phẩm, đồng thời đào tạo, tập huấn kỹ thuật cho nông dân và doanh nghiệp.

Bộ Công Thương tăng cường xúc tiến thương mại, cảnh báo sớm về rào cản kỹ thuật, chủ động đàm phán tháo gỡ khó khăn. Tổng cục Hải quan siết chặt khâu thông quan, ngăn chặn gian lận nguồn gốc.

Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý vùng trồng, vùng nuôi; xử lý vi phạm ngay tại cơ sở. Doanh nghiệp và các hiệp hội ngành hàng phải gắn lợi ích kinh doanh với trách nhiệm bảo vệ uy tín quốc gia, chủ động ứng dụng công nghệ số trong truy xuất nguồn gốc. Khẳng định giá trị thực Điểm cốt lõi của Công điện 150/CĐ-TTg là

quốc gia là tài sản vô giá. Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu, chất lượng và truy xuất nguồn gốc chính là “tấm hộ chiếu” giúp nông sản Việt Nam tiếp cận các thị trường giá trị cao. Nếu thực hiện đồng bộ, quyết liệt, Công điện sẽ mang lại các tác động lớn là giảm nguy cơ bị trả hàng, tránh thiệt hại trực tiếp cho doanh nghiệp và nông hộ. Nâng cao năng lực cạnh tranh, giúp hàng hóa Việt Nam chiếm lĩnh các thị trường cao cấp. Và củng cố thương hiệu quốc gia, tạo nền tảng để nông nghiệp Việt Nam chuyển đổi sang mô hình sản xuất xanh, tuần hoàn và bền vững.

Dù chỉ đạo đã rõ ràng, thực tiễn triển khai sẽ đối mặt nhiều khó khăn như quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún khiến việc áp dụng đồng bộ truy xuất nguồn gốc còn hạn chế. Nhiều địa phương thiếu nhân lực, kinh phí để giám sát chặt chẽ hàng nghìn vùng trồng, ao nuôi.

Doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa đủ nguồn lực đầu tư công nghệ số, blockchain hay hệ thống quản lý hiện đại.

Do đó, rất cần sự hỗ trợ về cơ chế hỗ trợ tài chính, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư công nghệ, đồng thời có chính sách đào tạo, nâng cao nhận thức cho nông dân.

Công điện 150/CĐ-TTg là sự khẳng định Việt Nam kiên quyết bảo vệ uy tín hàng nông, lâm, thủy sản, hướng tới xuất khẩu bền vững. Truy xuất nguồn gốc không còn là thủ tục hành chính, mà là yếu tố sống còn quyết định năng lực cạnh tranh quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Trong một thế giới ngày càng coi trọng sự minh bạch và trách nhiệm, việc thực thi nghiêm túc Công điện 150/CĐTTg sẽ là phép thử cho quyết tâm nâng tầm nông nghiệp - từ một ngành “lấy số lượng” sang một ngành lấy chất lượng và uy tín làm trọng tâm.

BẢO HÂN

 Ngày 5/8/2025, Thủ

tướng Chính phủ ban hành

Quyết định số 1671/QĐ-TTg

về việc phê duyệt phương

án cắt giảm, đơn giản hóa

các quy định, thủ tục hành

chính liên quan đến hoạt

động sản xuất, kinh doanh

thuộc phạm vi quản lý của

Bộ Nông nghiệp và Môi

trường; lộ trình thực hiện trong năm 2025 - 2026. Trong đó, thủ tục hành chính 11: Cấp, cấp lại giấy

chứng nhận cơ sở đủ điều

kiện sản xuất, ương dưỡng

giống thủy sản và thủ tục

hành chính 12: Cấp, cấp lại

giấy chứng nhận cơ sở đủ

điều kiện sản xuất, ương

dưỡng giống thủy sản (trừ

cơ sở sản xuất, ương dưỡng

giống thủy sản bố mẹ, cơ sở

sản xuất, ương dưỡng đồng

thời giống thủy sản bố mẹ và

giống thủy sản không phải

là giống thủy sản bố mẹ)

giảm thời gian thực hiện

từ 16 ngày xuống 14 ngày;

bãi bỏ đối tượng phải thực

hiện thủ tục hành chính cấp

lại trong trường hợp Giấy

chứng nhận đã được cấp bị

mất, rách nát, hư hỏng; Thủ

tục hành chính 13: Công

nhận kết quả khảo nghiệm

giống thủy sản giảm thời

gian thực hiện từ 25 ngày

xuống 16 ngày; bãi bỏ quy

định Cục Thủy sản và Kiểm

ngư tổ chức kiểm tra hoạt

động khảo nghiệm giống

thủy sản trong quá trình xử

lý thủ tục hành chính. Với

thủ tục hành chính 14: Cấp

giấy phép nhập khẩu giống

thủy sản, giảm thời gian

thực hiện từ 5 ngày xuống

4 ngày. Cùng đó, bãi bỏ các

thủ tục hành chính 15: Cấp,

cấp lại giấy phép nuôi trồng

thủy sản trên biển cho tổ

chức, cá nhân Việt Nam (đối với khu vực biển ngoài

6 hải lý, khu vực biển giáp

VĂN BẢN MỚI

ranh giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, khu vực biển nằm đồng thời trong và ngoài 6 hải lý; thủ tục hành chính 16: Cấp, cấp lại, gia hạn giấy phép nuôi trồng thủy sản trên biển đối với nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu

tư nước ngoài; Về việc cấp

giấy chứng nhận cơ sở đủ

điều kiện nuôi trồng thủy

sản (theo yêu cầu), chuyển

từ tiền kiểm sang hậu kiểm, cơ quan quản lý nhà nước về

thủy sản cấp tỉnh sẽ không

thực hiện kiểm tra thực tế

tại cơ sở trong quá trình

thực hiện cấp giấy chứng nhận; giảm thời gian từ

10 ngày làm việc xuống 7 ngày làm việc; Với thủ tục hành chính 18: Cấp, cấp lại

giấy xác nhận đăng ký nuôi

trồng thủy sản lồng bè, đối

tượng thủy sản nuôi chủ lực (theo yêu cầu), chuyển thẩm quyền cấp, cấp lại

giấy xác nhận đăng ký nuôi

trồng thủy sản lồng bè, đối

tượng thủy sản nuôi chủ lực

từ Cơ quan quản lý thủy sản

địa phương xuống Chủ tịch

UBND cấp xã; rút ngắn thời

gian xử lý từ 7 ngày làm việc

xuống 5 ngày làm việc; bãi

bỏ yêu cầu nộp: “Bản chính

giấy xác nhận đăng ký nuôi

trồng thủy sản lồng bè, đối

tượng thủy sản nuôi chủ lực

đã được cấp (trừ trường hợp

bị mất)” đối với cấp lại giấy xác nhận,…

 Ngày 7/8/2025, Cục

Xuất Nhập khẩu (Bộ Công

Thương) ban hành Văn

bản số 925/XNK-TLH về

việc cảnh báo nguy cơ tàu

hàng bị tấn công tại khu

vực Biển Đỏ. Cụ thể, Cục

Xuất nhập khẩu đề nghị các

hiệp hội ngành hàng xuất

khẩu, hiệp hội hoạt động

trong lĩnh vực logistics và

các doanh nghiệp xuất nhập

khẩu chủ động rà soát chuỗi cung ứng và lịch trình vận tải biển, đặc biệt nếu liên quan tới khu vực Biển Đỏ và các cảng biển có nguy cơ cao; Phối hợp chặt chẽ với các đối tác logistics, hãng tàu và bảo hiểm hàng hải

để đánh giá rủi ro và có các

phương án ứng phó kịp thời; Đồng thời, báo cáo kịp thời cho cơ quan chức năng nếu phát sinh sự cố ảnh hưởng

đến hoạt động xuất nhập khẩu.

 Ngày 12/8/2025, Thủ tướng Chính phủ ra Công

điện số 133/CĐ-TTg về việc

đẩy mạnh thực hiện một số

nhiệm vụ, giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025. Trong đó, Thủ tướng giao Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì, phối hợp với các cơ quan, địa phương triển khai hiệu quả các giải pháp thúc

đẩy sản xuất và cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và xây dựng chỉ dẫn địa lý, thương hiệu sản phẩm, cấp mã số vùng trồng, vùng nuôi; tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị; Phối hợp Bộ Ngoại giao, Bộ Công Thương làm tốt công tác xúc tiến thương mại, tiếp tục thúc đẩy mở của kỹ thuật, thúc đẩy xuất khẩu sang các thị trường Trung Quốc, Trung Đông, Nam Mỹ, châu Phi, ASEAN; chỉ đạo, hướng dẫn địa phương, hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp thực hiện đáp ứng quy định của các thị trường xuất khẩu; phấn đấu tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm 2025 đạt 65 tỷ USD,… 

Xuất khẩu tôm ổn định, sẵn sàng trước thách thức mới

Xuất khẩu tôm Việt Nam tiếp tục duy trì đà tăng trưởng, những con số khả quan trong 8 tháng đầu năm 2025 đã tạo động lực cho một ngành hàng vốn được xem là một trong những trụ cột xuất khẩu của đất nước. Thế nhưng, cùng với tín hiệu phục hồi mạnh mẽ là hàng loạt rào cản kỹ thuật khắt khe, thuế đối ứng từ các thị trường chủ lực.

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất

khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), tháng 8/2025, xuất khẩu tôm Việt Nam đạt 479

triệu USD, tăng gần 19% so cùng kỳ năm trước. Lũy kế 8 tháng đầu năm, kim ngạch

đạt 2,97 tỷ USD, tăng 23%, ghi nhận đà

tăng trưởng ổn định từ đầu năm.

Trong cơ cấu sản phẩm, TTCT vẫn giữ

vai trò chủ lực với hơn 64% thị phần; tôm

sú có mức tăng nhẹ, trong khi nhóm tôm

loại khác nổi bật với tốc độ tăng trưởng ba con số nhờ nhu cầu mạnh đối với tôm

hùm. Giá tôm nguyên liệu trong nước vẫn ở mức cao so với các nguồn cung cạnh tranh, dù có điều chỉnh giảm nhẹ trong tuần đầu tháng 9, phản ánh tình trạng nguồn cung chưa thật sự dồi dào.

Biến động từ thị trường lớn

Thị trường Trung Quốc và Hồng Kông tiếp tục là điểm sáng với mức tăng trưởng 62% trong tháng 8, đưa giá trị 8 tháng lên tới 836 triệu USD, tăng 75% và chiếm gần 30% tổng kim ngạch của cả nước. Nhu cầu

tập trung vào các sản phẩm tươi sống và phân khúc cao cấp như tôm hùm, tôm sú size lớn, giúp doanh nghiệp Việt tận dụng được lợi thế khác biệt so với Ecuador hay Ấn Độ. Tuy nhiên, tồn kho nhập khẩu tại

Trung Quốc đang có xu hướng tăng và giá bán tại chỗ đã giảm, cho thấy khả năng điều chỉnh trong ngắn hạn. Tại thị trường Mỹ, xuất khẩu tháng 8 đạt 92,6 triệu USD, cao hơn 1,4% so cùng kỳ năm trước, nâng tổng kim ngạch 8 tháng lên gần 500 triệu USD. Con số này

cho thấy Mỹ vẫn là thị trường quan trọng của tôm Việt, nhưng diễn biến về chính sách thương mại đang đặt ra thách thức không nhỏ.

Kết quả sơ bộ POR19 (đợt rà soát hành chính lần thứ 19 của Bộ Thương mại Mỹ đối với lệnh áp thuế chống bán phá giá tôm nước ấm đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam trong giai đoạn từ 01/02/2023 đến 31/01/2024) với mức thuế chống bán phá giá cao hơn nhiều so với trước đây, cùng với thuế chống trợ cấp và thuế đối ứng, có thể ảnh hưởng đáng kể đến lợi thế cạnh tranh.

Hiện ngành tôm, các hiệp hội và cơ quan chức năng đang tích cực làm việc để bảo vệ quyền lợi chính đáng. Trong khi chờ kết quả cuối cùng, doanh nghiệp cần thận trọng trong ký kết hợp đồng mới, đồng thời chủ động mở rộng thị trường thay thế để giảm áp lực phụ thuộc.

Thị trường EU tiếp tục duy trì đà tăng tích cực, tháng 8 đạt 66,9 triệu USD, tăng 19% so cùng kỳ; lũy kế 8 tháng đạt gần 376 triệu USD, tăng hơn 17%. Đức, Bỉ và Pháp tiếp tục đóng vai trò đầu tàu, trong khi Hà

Lan chủ yếu giữ vai trò trung chuyển. Với

nhu cầu cả năm dự báo chạm mức kỷ lục, EU vẫn là dư địa quan trọng cho tôm Việt, đặc biệt ở các sản phẩm chế biến sâu, có chứng nhận bền vững, minh bạch và truy xuất nguồn gốc.

Khối CPTPP cũng ghi nhận kết quả khả quan khi kim ngạch tháng 8 đạt hơn 130 triệu USD, tăng tới 40%. 8 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu sang khối này đạt 829 triệu USD, tăng 36%. Nhật Bản và Australia là động lực chính, với nhu cầu ổn định và tập trung vào các dòng sản phẩm tiện lợi, chất lượng cao. Ngoài ra, các thị trường Hàn Quốc, Đài Loan duy trì mức tăng trưởng hai con số trong 8 tháng đầu năm; trong khi Nga và Canada có dấu hiệu chững lại.

Với đà tăng trưởng hiện tại, những tháng cuối năm nay, Trung Quốc và EU được dự báo vẫn giữ nhịp tăng trưởng tốt, trong khi Mỹ là thị trường cần theo dõi sát sao diễn biến về thuế. Dù còn nhiều yếu tố bất định, cơ hội tăng trưởng vẫn còn nhờ nhu cầu tiêu thụ toàn cầu cải thiện, nhất là trong mùa cao điểm cuối năm.

VASEP cho rằng, trong bối cảnh thị trường phân hóa, doanh nghiệp tôm Việt cần linh hoạt hơn trong chiến lược. Thay vì tập trung quá nhiều vào một thị trường, cần chủ động khai thác đồng thời các khu vực CPTPP, EU và Trung Quốc để cân bằng rủi ro.

Bên cạnh đó, việc nâng cấp sản phẩm theo hướng giá trị gia tăng, gắn với các chứng nhận ASC, hữu cơ và bền vững, sẽ giúp tăng sức cạnh tranh ở những phân khúc ít chịu tác động từ giá. Ngoài ra, việc liên kết chặt chẽ với vùng nuôi để ổn định nguồn cung, kiểm soát chất lượng và chi phí cũng là yếu tố then chốt.

Tái cơ cấu toàn

diện

Trong bối cảnh áp lực ngày càng lớn, ngành tôm nói riêng và ngành thủy sản

Việt Nam nói chung không còn con đường nào khác ngoài việc tái cơ cấu toàn diện theo hướng xanh, minh bạch và bền vững.

Giới chuyên gia cho rằng, doanh nghiệp cần thay đổi chiến lược cạnh tranh. Thay vì chạy đua về giá, thủy sản

Việt Nam cần chinh phục khách hàng bằng chất lượng, sự minh bạch và tính bền vững. Sản phẩm tôm hữu cơ, tôm đạt chứng nhận ASC hay cá tra sinh thái đang là xu hướng được ưa chuộng tại châu Âu.

Việc ứng dụng công nghệ blockchain, QR code trong truy xuất nguồn gốc không chỉ đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế mà còn nâng cao giá trị thương hiệu Việt. Trong khi đó, các thị trường mới nổi như Trung Đông, Nam Á, châu Phi và Nam Mỹ đang mở ra dư địa tăng trưởng rộng lớn. Đây là những khu vực có nhu cầu

thủy sản cao nhưng ít bị ràng buộc bởi các tiêu chuẩn ngặt nghèo như EU hay Mỹ. Nhờ lợi thế về giá cả cạnh tranh và chất lượng ổn định, sản phẩm cá tra, tôm, cá ngừ và nhuyễn thể của Việt Nam ngày càng khẳng định được chỗ đứng tại đây. Quan trọng hơn, Việt Nam có thể tận dụng các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như EVFTA, CPTPP hay UKVFTA để mở rộng thị phần và nâng cao năng lực cạnh tranh. Những hiệp định này không chỉ mang lại lợi thế về thuế quan, mà còn tạo động lực để doanh nghiệp cải thiện quy trình sản xuất, nâng cao tiêu chuẩn và xây dựng thương hiệu quốc gia cho thủy sản Việt. Sự kiên định trong chiến lược phát triển xanh, minh bạch và bền vững sẽ là chìa khóa mở ra tương lai cho thủy sản Việt Nam. Đây không chỉ là giải pháp ngắn hạn để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu, mà còn là con đường dài hạn nhằm xây dựng uy tín thương hiệu Việt trên thị trường quốc tế. Khi các doanh nghiệp chủ động nâng cao chất lượng, ứng dụng công nghệ hiện đại và mở rộng thị trường mới, ngành thủy sản Việt Nam hoàn toàn có thể kỳ vọng đạt mốc 10 tỷ USD xuất khẩu, tiếp tục khẳng định vai trò là một trong những ngành hàng chủ lực đóng góp quan trọng cho nền kinh tế quốc gia.

THÁI BÌNH

Tôm sinh thái, tôm đạt chứng nhận ASC là xu hướng được ưa chuộn g tại nhiều thị trường Ảnh: MP

Xuất khẩu tôm sang Trung Quốc tăng mạnh

Theo số liệu của Cục Hải quan Việt Nam, tính đến 15/8, xuất khẩu tôm Việt Nam sang Trung Quốc và Hồng Kông đạt gần 767 triệu USD, tăng 76% so cùng kỳ năm trước, chiếm gần 29% tổng kim ngạch toàn ngành. Riêng nửa đầu tháng 8/2025, kim ngạch sang thị trường này đạt 57 triệu USD, tương đương 30% tổng xuất khẩu. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu có sự dịch chuyển rõ nét. Các dòng tôm hùm, tôm rảo và tôm tươi sống, đông lạnh cao cấp tăng trưởng ba con số. Tôm sú tăng hai con số, trong khi TTCT giảm ở dạng nguyên liệu nhưng lại tăng mạnh ở sản phẩm chế biến sẵn, phản ánh xu hướng tiêu dùng tiện lợi, giá trị gia tăng. Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), Trung Quốc phục hồi nhập

khẩu trong khi vẫn chịu áp lực tồn kho lớn và giá giảm ở phân khúc

phổ thông. VASEP dự báo nhu cầu sẽ tiếp tục tăng dịp Trung thu và

Tết Nguyên đán.

Giá tôm

Tại Quảng Trị, trong những ngày đầu tháng 9/2025, giá nguyên liệu tôm đất cỡ 40 - 50 con/kg tăng 20.000 đồng/kg so những ngày đầu tháng 8/2025 và đạt 400.000 đồng/kg, còn các loại tôm khác giá ổn định: Tôm bộp cỡ 45 - 50 con/kg đạt 420.000 đồng/kg; Tôm sú cỡ 20 - 30 con/kg đạt 430.000 đồng/kg; Tôm hùm cỡ 3 - 5 con/kg đạt 1.250.000 đồng/kg; TTCT cỡ 30 - 40 con/kg đạt 240.000 đồng/ kg. Còn tại Đắk Lắk, giá nguyên liệu tôm sú tiếp tục ổn định so những ngày đầu tháng 8/2025, riêng có TTCT giảm nhẹ, cụ thể: Tôm sú cỡ 50 con/kg ở mức 220.000 đồng/kg; Cỡ 40 con/kg ở mức 250.000 đồng/kg; Cỡ 30 con/kg ở mức 300.000 đồng/kg. Giá nguyên liệu TTCT cỡ 100 con/kg giảm 1.000 đồng/kg, ở mức 105.000 đồng/kg.

TÂY NINH

Tôm nuôi “được mùa, được giá”

Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Môi trường Tây Ninh, từ đầu năm đến nay, giá các loại tôm trên địa bàn tỉnh ổn định và có tăng so cùng kỳ năm trước. Cụ thể, TTCT loại 90 - 100 con/kg có giá từ 75.00085.000 đồng/kg, tăng 15.000 đồng/kg so cùng kỳ; loại 60 - 80 con/kg từ 90.000 - 100.000 đồng/kg, tăng 10.000 đồng/kg so cùng kỳ; loại 30 - 40 con/kg có giá từ 140.000 - 150.000 đồng/kg, tăng 25.000 đồng/kg so cùng kỳ. Đối với tôm sú, loại 50 con/kg có giá từ 125.000 - 155.000 đồng/kg, tăng 15.000 đồng/kg so cùng kỳ; loại 30 - 40 con/kg có giá từ 180.000 - 220.000 đồng/kg, tăng 20.000 đồng/kg so cùng kỳ.

TP HỒ CHÍ MINH

có lợi nhuận tốt nhờ giá tôm tăng cao Giá tôm tươi ở TP Hồ Chí Minh đang tăng cao, khiến người nuôi tôm phấn khởi vì lợi nhuận tốt. Nguyên nhân chủ yếu là do tình trạng cầu vượt cung sau đợt dịch bệnh làm giảm sản lượng tôm thương phẩm, kết hợp với nhu cầu tiêu thụ tôm cả trong nước và xuất khẩu tăng mạnh. Hiện giá TTCT tăng từ 10.000 - 20.000 đồng/kg so thời điểm 4 tháng trước. Cuối tháng 8/2025, hợp tác xã Chợ Bến, xã Long Điền (TP Hồ Chí Minh) thu hoạch tôm vụ thứ 2 trong năm 2025. Theo đó, sau 3 tháng nuôi, TTCT đạt trọng lượng từ 25 - 30 con/kg, giá thương lái thu mua tại ao từ 170.000 - 180.000 đồng/kg tôm tươi. Vụ tôm này, hợp tác xã thu hoạch 11 ao đạt năng suất hơn 3 tấn/ao nuôi. Với mức giá tăng như hiện nay, đảm bảo bà con nuôi tôm có lãi và nếu đàn giống tốt, môi trường thuận lợi thì thực lãi sẽ khoảng 30% so tổng doanh thu.

ĐỒNG THÁP

Nuôi tôm công nghệ cao lãi khoảng 50.000 đồng/kg

Hiện, người nuôi tôm Đồng Tháp rất phấn khởi vì giá tôm tăng cao. Đặc biệt, mô hình nuôi tôm công nghệ cao mang lại lợi nhuận lớn. Ở thời điểm này, TTCT nuôi theo mô hình công nghệ cao loại 40 con/kg có giá 130.000 đồng/kg; loại 30 con/kg giá 165.000 đồng/ kg; loại 25 con/kg giá 210.000 đồng/kg, tăng hơn 10% so tháng trước. Trong khi đó, giá thành sản xuất mỗi kg tôm khoảng 90.000 đồng, nên người nuôi có lãi trên 50.000 đồng/kg. Giá tôm tăng cao là do cuối vụ sản lượng thu hoạch giảm, trong khi thị trường tiêu thụ mạnh dẫn đến “cầu vượt cung”.

AN GIANG

 Tôm các loại duy trì mức giá cao

Từ đầu năm 2025 đến nay giá các loại tôm sú, TTCT, tôm càng xanh và cua biển ở An Giang duy trì ở mức khá cao, đặc biệt trong khoảng 1 tháng trở lại đây giá các loài thủy sản này tiếp tục tăng, giúp tăng thu nhập cho người, góp phần phát triển ổn định ngành nuôi trồng thủy sản của tỉnh. Cụ thể, giá tôm sú loại 1 (tôm đạt trọng lượng từ 20 con/kg) giá 230.000 đồng/kg, tôm sú loại 2 (từ 30 con/kg) giá 200.000 đồng/kg; giá TTCT cũng ở mức tương tự và mức giá này tăng hơn 20.000 đồng/kg so năm 2023 và 2024. Đặc biệt, giá tôm càng xanh từ giữa tháng 7/2025 đến nay được thương lái thu mua tăng từ 30.000 - 50.000 đồng/kg. Tôm càng xanh ôxy (tôm thu hoạch chạy ôxy để bán sống cho thương lái) giá 150.000160.000 đồng/kg, tôm ngộp giá 90.000 đồng/kg.

 Nông dân nuôi tôm càng xanh trúng đậm

Nông dân nuôi tôm càng xanh vùng Miệt Thứ năm nay trúng đậm khi thương lái thu mua ráo riết, giá bán tăng mạnh so cùng kỳ. Theo khảo sát tại các xã như U Minh Thượng, Vĩnh Bình và những vùng nuôi truyền thống, tôm càng xanh loại 12 - 15 con/kg đang được thu mua ở mức 145.000 - 160.000 đồng/kg; tôm cỡ 20 - 30 con/kg dao động 120.000 - 140.000 đồng/kg. Một số thương lái và trang tin địa phương còn ghi nhận tôm loại rất lớn (8 - 10 con/kg) được mua với giá cao hơn, tạo đà kéo mức giá trung bình lên rõ rệt. So cùng kỳ năm trước, mặt bằng giá hiện cao hơn khoảng 50.000 - 60.000 đồng/kg, nhiều chủ ao lãi ròng sau khi trừ chi phí. Lý do khiến giá nhích mạnh là nguồn cung giảm do ảnh hưởng thời tiết, nhiều hộ e dè không thả giống. Nhu cầu tiêu thụ, đặc biệt là các kênh xuất khẩu tiểu ngạch và thị trường nội địa tăng đột biến nên thương lái tranh mua.

CÀ MAU

Giá tôm càng xanh tăng mạnh

Hiện người dân vùng canh tác lúa tôm ở Cà Mau đang bước vào thu hoạch tôm càng xanh. Với năng suất cao và giá bán tăng mạnh mùa tôm năm nay đã mang lại niềm vui lớn cho bà con nông dân. Giá tôm càng xanh tăng từ 20.000 - 30.000 đồng/kg tùy theo loại, khiến bà con vùng chuyên canh tôm - lúa ở đây vui mừng khi trúng mùa, được giá. Do bán được giá (120.000 - 150.000 đồng/kg, tùy kích cỡ tôm) nên trừ hết các khoản chi phí, bà con còn lợi nhuận khoảng 40%. Mô hình “con tôm ôm cây lúa” đã mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho người nông dân. Nhiều hộ nuôi tôm đạt doanh thu hàng trăm triệu đồng, khẳng định con tôm tiếp tục là lợi thế đặc trưng của vùng, mang lại sinh kế bền vững cho nhà nông.

ANH VŨ

ARGENTINA

Đẩy mạnh xuất khẩu tôm đỏ sang Trung Quốc

Các nhà cung cấp tôm đỏ

Argentina đang đẩy mạnh xuất

khẩu sang Trung Quốc trong bối

cảnh mùa đánh bắt năm nay ngắn

hơn bình thường. Các doanh nghiệp

tập trung vào sản phẩm tôm có giá

trị gia tăng, tận dụng nhu cầu cao

từ các nhà bán lẻ Trung Quốc. Mùa

đánh bắt năm nay bắt đầu muộn và dự kiến kết thúc vào giữa tháng 9, tuy nhiên chất lượng và tỷ lệ đánh bắt vẫn ở mức tốt. Giá

tôm đông lạnh dưới biển hiện cao hơn khoảng 2 USD/kg so cùng kỳ năm trước, phản ánh nhu cầu và nguồn cung hạn chế. Trong tháng 7, Argentina xuất khẩu 1.113 tấn tôm đông lạnh sang Trung Quốc, tăng 137% so cùng kỳ năm trước. Tính từ đầu năm đến hết tháng 7, xuất khẩu đạt 12.471 tấn, tăng 37%. Trung Quốc tiếp tục là thị trường tiêu thụ tôm đỏ lớn nhất của Argentina, đồng thời ghi nhận xu hướng tăng nhập khẩu tôm không đầu để dự trữ. Ngoài Trung Quốc, các thị trường Nam Âu và Nhật Bản vẫn giữ vai trò quan trọng, góp phần ổn định đầu ra cho tôm đỏ Argentina.

ECUADOR

 Giá tôm tăng nhẹ tại Trung Quốc trong Hội chợ Thủy sản Thượng Hải 2025

Trong tuần diễn ra Triển lãm Thủy sản và Hải sản Quốc tế Thượng Hải (24 - 30/8), giá tôm Ecuador ghi nhận mức tăng nhẹ khi các nhà xuất khẩu chủ động đẩy giá cao hơn. Giá tôm IQF tăng 0,10,2 USD/kg cho nhiều cỡ, gói bán lẻ 1,4 - 1,8 kg và gói 12 kg cũng đồng loạt tăng 0,05 USD/kg. Thị trường Trung Quốc đang có dấu hiệu phục hồi, nhập khẩu tôm tăng liên tiếp trong ba tháng 5 - 7, đảo ngược xu hướng giảm trước đó. Từ đầu năm đến tháng 7, Trung Quốc nhập 519.437 tấn tôm, giảm 2% về lượng nhưng tăng 7% về giá trị lên 2,73 tỷ USD, giá trung bình đạt 5,25 USD/kg. Giá tôm Ecuador phân hóa theo cỡ, với các cỡ trung bình 50/60 và 60/70 con/kg tăng 5 - 10 cent/kg. Tuy nhiên, người mua vẫn thận trọng, khiến giao dịch chưa thực sự sôi động. Ngoài ra, thời tiết lạnh bất thường tại Ecuador làm chậm quá trình nuôi tôm, gây thiếu hụt nguồn cung cỡ lớn. Tại Phúc Kiến (Trung Quốc), giá tôm 60 con/kg tăng mạnh 13,3% do thiếu hàng, trong khi các vùng khác vẫn chịu áp lực từ nhu cầu yếu. Triển vọng thị trường phụ thuộc vào sức mua phục hồi và chính sách hỗ trợ tiêu dùng trong những tháng tới.  Sắp trở lại thị trường tôm Brazil sau gần một năm

chỉ Ecuador đang tiến gần đến việc nối lại xuất khẩu tôm sang Brazil sau gần một năm bị tạm ngừng do vướng mắc về quy định vệ sinh. Các cuộc thảo luận ngoại giao và thương mại giữa hai nước đã đạt tiến triển tích cực, với kỳ vọng thị trường sẽ mở cửa trở lại hoàn toàn vào cuối năm nay. Trước khi bị đình chỉ vào tháng 12/2024, Ecuador - quốc gia xuất khẩu tôm lớn nhất thế giớicung cấp khoảng 6 triệu USD tôm cho Brazil mỗi năm. Việc nối lại thương mại được kỳ vọng giúp đa dạng hóa đầu ra trong bối cảnh thị trường toàn cầu biến động. Bên cạnh tôm, Brazil cũng đồng ý mở cửa cho chuối Ecuador trước cuối năm 2025, đồng thời hai nước nhất trí nối lại các chuyến bay thẳng từ 2026 và tăng cường hợp tác về an ninh.

NA UY

Xuất khẩu tôm nước lạnh sang Trung Quốc tăng vọt hơn 600%

Xuất khẩu tôm nước lạnh của Na Uy sang Trung Quốc ghi nhận mức tăng trưởng bùng nổ trong 7 tháng đầu năm 2025. Theo Hội đồng Hải sản Na Uy (NSC), Na Uy đã xuất khẩu 20.660 tấn tôm nước lạnh, trị giá 1,14 tỷ NOK (112,4 triệu USD), tăng 8% về sản lượng và 27% về giá trị so

cùng kỳ năm trước. Riêng sang Trung Quốc, xuất khẩu tăng tới 603%

về khối lượng, đạt 4.952 tấn, và tăng 630% về giá trị lên 258 triệu NOK,

đưa Trung Quốc trở thành thị trường lớn nhất của tôm nước lạnh Na Uy.

Động lực tăng trưởng đến từ nhu cầu ngày càng cao đối với tôm chất

lượng cao, hương vị đặc trưng, và sự cạnh tranh gia tăng khi Trung Quốc

áp thuế 25% lên 49 sản phẩm hải sản Canada. Tôm nước lạnh Na Uy được

xuất khẩu dưới nhiều dạng - từ tôm sống đông lạnh đến tôm chín bóc vỏ - phục vụ nhà hàng cao cấp, buffet và ẩm thực Nhật Bản. NSC dự kiến

tiếp tục đẩy mạnh quảng bá tại các hội chợ quốc tế để mở rộng cơ hội hợp tác và giữ đà tăng trưởng mạnh tại thị trường Trung Quốc.

TRUNG QUỐC

Dự kiến tăng nhập khẩu tôm nửa cuối năm 2025

Nhập khẩu tôm của Trung Quốc được dự báo tăng trong nửa cuối năm 2025 nhờ kinh tế phục hồi và sức mua người tiêu dùng cải thiện. Các chính sách kích thích, đặc biệt hỗ trợ thị trường chứng khoán, đang thúc đẩy tiêu dùng. Trong 7 tháng đầu năm 2025, Trung Quốc nhập 519.437 tấn tôm, giảm 2% nhưng giá trị đạt 2,73 tỷ USD, tăng 7%; giá trung bình 5,25 USD/kg, cao hơn 9% so cùng kỳ. Kim ngạch nhập khẩu từ tháng 5 - 7 đã tăng liên tiếp, cho thấy xu hướng phục hồi rõ rệt. Nguồn cung dự kiến dịch chuyển khi tôm Ecuador được chuyển hướng sang Mỹ và châu Âu, tạo cơ hội cho tôm

Ấn Độ tăng hiện diện tại Trung Quốc. Nhu cầu tiêu thụ nhà hàng và bán lẻ cuối năm được kỳ vọng tiếp tục đẩy nhập khẩu tăng trưởng.

Diễn biến giá TTCT toàn cầu tuần 36 (1 - 7/9/2025)

Ấn Độ: Giá TTCT giảm khoảng 5 INR/kg đối với cỡ nhỏ hơn 30 con/kg do tác động từ mức thuế 50% của Mỹ. Vụ mùa thứ hai dự kiến thu hoạch vào cuối tháng 9 - tháng 10, nhưng thị trường vẫn chưa rõ liệu mức thuế cao này có được duy trì, khiến tâm lý người nuôi và các nhà chế biến thận trọng.

Việt Nam: Giá TTCT tiếp tục tăng trong hai tháng qua, dự kiến còn tăng đến hết tuần 36. Giá tôm cỡ 40 con/kg hiện ở mức khoảng 4,85 USD/kg, cao nhất trong khu vực, do nguồn cung giảm trong khi nhu cầu xuất khẩu sang EU và Mỹ tăng mạnh.

Trung Quốc: Giá TTCT giảm tại Quảng Đông, xuống khoảng 4,77 USD/kg - mức thấp nhất kể từ tháng 6. Nguyên nhân chính là nhu cầu dịch vụ ăn uống yếu trong kỳ nghỉ hè, nhưng dự kiến giá sẽ phục hồi trong tháng 9 nếu tiêu thụ cải thiện tại các tỉnh như Giang Tô.

Indonesia: Giá TTCT phục hồi nhẹ sau đợt giảm sâu của tuần trước. Mức thuế Mỹ áp dụng cho Indonesia hiện là 19%, thấp hơn dự kiến, giúp ngành duy trì lợi thế cạnh tranh, dù giá vẫn thấp hơn khoảng 7% so cùng kỳ năm trước.

Ecuador: Giá tôm tổn định trong tuần 36, nhưng người nuôi gặp khó khăn do nhiệt độ nước thấp làm tôm chậm lớn và tình hình an ninh phức tạp với sự gia tăng hoạt động băng nhóm. Tôm cỡ lớn khan hiếm, giá loại 20/30 con/kg cao hơn 1 USD/kg so loại 30/40 con/kg. Xuất khẩu sang Trung Quốc tăng nhẹ nhờ các nhà xuất khẩu đẩy giá tại Hội chợ Thủy sản Thượng Hải. OANH THẢO

CHÂU ÂU

Tôm đỏ Địa Trung Hải: Giữ biển xanh, nâng tầm giá trị

Châu Âu đang nỗ lực cân bằng giữa khai thác và bảo tồn tôm đỏ biển sâu, biến phụ phẩm thành giá trị gia tăng và phát triển sản phẩm cao cấp, hướng tới ngành thủy sản bền vững hơn.

Ngư dân đang phân loại tôm theo kích cỡ

Sức ép khai thác

Hơn 20 quốc gia ven Địa Trung Hải, trong đó có 8 thành viên EU với khoảng 150 triệu dân, phụ thuộc lớn vào nguồn thủy sản, đặc biệt trong mùa cao điểm. Riêng EU, sản lượng khai thác tại khu vực này đạt trên 30.000 tấn, trong đó 20% mang tính công nghiệp. Các tàu khai thác lớn chiếm tới 85% sản lượng và 74% giá trị, tập trung vào những loài có giá trị kinh tế cao như cá ngừ vây xanh, cá cơm, cá thu, cá đối và đặc biệt là tôm đỏ biển sâu (Parapenaeus longirostris).

Tôm đỏ thường được khai thác ở độ sâu 200 - 500 m, trong khi ở tầng sâu hơn, từ 400 - 800 m, ngư dân hướng đến hai loài tôm đỏ khác là Aristaeomorpha foliacea và Aristeus antennatus. Đây là nguồn lợi chính của nghề lưới kéo tại Địa Trung Hải. Trong EU, Italia là quốc gia dẫn đầu, chiếm tới 3/4 sản lượng, với cảng Mazara del Vallo sở hữu đội tàu lưới kéo lớn nhất.

Hoạt động khai thác tôm đỏ tại Mazara del Vallo bắt đầu từ thập niên 1970 ở eo biển

Ảnh: Eddi Fiegel

Sicily, giữa Sicily và Tunisia. Theo nghiên cứu của Fabio Fiorentino và cộng sự, sản lượng ban đầu được đánh giá là bền vững, nhưng từ giữa những năm 1980 đã suy giảm rõ rệt. Số liệu của CNR IRBIM cho thấy, sản lượng trung bình tại đây giảm từ 8 kg/giờ vào giữa thập niên 1970 xuống còn 3 kg/giờ vào những năm 1990, và chỉ còn 0,3 - 0,5 kg/giờ vào đầu thập niên 2020.

Trước nguy cơ cạn kiệt, các nhà khoa học giai đoạn 2000 - 2010 đã nhiều lần cảnh báo cần giảm cường lực khai thác và áp dụng ngư cụ chọn lọc. Trong khi đó, để tìm ngư trường mới, các tàu Italia từ cuối thập niên 19801990 đã mở rộng sang vùng biển Libya. Sau khi Libya mở rộng vùng bảo vệ thủy sản năm 2005 và cấm tàu Italia hoạt động, đội tàu tiếp tục vươn xa hơn sang ngoài khơi Crete, Ai Cập, Rhodes, Cyprus và Thổ Nhĩ Kỳ.

Toàn bộ tôm khai thác được cấp đông ngay trên tàu, đưa vào bờ tại các cảng Hy Lạp hoặc Cyprus, rồi vận chuyển bằng xe lạnh về Mazara del Vallo trước khi phân phối ra khắp nước Italia.

Biến phụ phẩm thành giá

trị

cao cấp

“Muốn tồn tại trong ngành này, chúng ta phải đổi mới”, doanh nghiệp khai thác tôm đỏ Rosso di Mazara tại Italia khẳng định. Từ định hướng đó, công ty đã hợp tác với Khoa Sinh học, Hóa học và Dược phẩm, Đại học Palermo để nghiên cứu và phát triển các sản phẩm giá trị gia tăng từ tôm đỏ.

Dự án Innovittica tập trung khai thác tối đa phụ phẩm tôm, chiết xuất những thành phần có thể ứng dụng trong dược phẩm, thực phẩm chức năng và mỹ phẩm. Mục tiêu là tận dụng toàn bộ con tôm, hạn chế tối đa lãng phí.

Một sản phẩm tiêu biểu là nước tinh chất tôm, chiết xuất từ đầu tôm và được cấp đông sâu ở -50°C ngay sau khi đánh bắt, giúp giữ trọn vẹn dưỡng chất và độ tươi. Sản phẩm được đóng gói sang trọng, có thể dùng kèm với risotto, mì ống, pizza hay nhiều món ăn khác.

Công ty còn phát triển món súp bisque cao cấp từ đầu tôm, đóng lọ thủy tinh 100 mL, bán với giá 40 euro/lọ trên website như một sản phẩm ẩm thực hạng sang. Bên cạnh tôm nguyên con cấp đông, Rosso di Mazara còn tung ra tôm bóc vỏ cấp đông, bột tôm sấy thăng hoa kết hợp thảo mộc, carpaccio tôm; đồng thời hợp tác với đối tác Đức để chiết xuất sắc tố astaxanthin từ vỏ tôm phục vụ ngành thực phẩm và dược phẩm.

Bảo vệ nguồn lợi bền vững

Nguồn lợi tôm đỏ tầng sâu hiện không còn được khai thác theo hướng bền vững. Trước thực trạng này, năm 2022, Ủy ban Nghề cá Địa Trung Hải (GFCM) đã thông qua ba kế hoạch quản lý nhiều năm cho hoạt động khai thác tại eo biển Sicily, biển Ionian và biển Levant.

Giai đoạn chuyển tiếp 2023 - 2025 áp dụng chế độ đánh bắt tạm thời, cho phép

giới khoa học thu thập dữ liệu nhằm xây

dựng khung quản lý dài hạn cho giai đoạn 2026 - 2030. Mục tiêu đặt ra là đưa sản

lượng khai thác về mức bền vững tối đa (MSY) vào cuối năm 2030. Các biện pháp chính bao gồm: giữ nguyên công suất đội

tàu ở mức năm 2019, giảm hạn ngạch 3% mỗi năm trong giai đoạn 2023 - 2025, đồng thời cấm đánh bắt liên tục 30 ngày trong khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 9.

Năm 2025, Italia được phân bổ hạn ngạch tôm đỏ khổng lồ 818 tấn ở eo biển Sicily, 294 tấn tại biển Ionian và 45 tấn tại biển Levant. Với loài tôm xanh đỏ, hạn ngạch lần lượt là 95, 236 và 9 tấn cho ba khu vực trên.

Trước sức ép nguồn lợi và hạn ngạch, nhiều ngư dân đã chuyển hướng sang mô hình tích hợp dọc nhằm tối ưu giá trị từ mỗi mẻ tôm, thông qua xây dựng thương hiệu, phát triển sản phẩm giá trị gia tăng và mở rộng thị trường quốc tế.

Một trong những điển hình là Rosso di Mazara, công ty gia đình tại Mazara del Vallo, hình thành từ đầu thế kỷ 20 và hiện do hai anh em Nicola và Paolo Giacalone

điều hành. Kế thừa nghề từ cha, họ phát triển đội tàu lên 6 chiếc chuyên khai thác tại eo biển Sicily và vùng biển Malta. Tôm

được cấp đông, đóng gói và đưa ra thị trường dưới thương hiệu Rosso di Mazara.

Để thích ứng với nhu cầu ngày càng khắt khe, công ty đã áp dụng nhiều quy trình mới và đạt chứng nhận “Friend of the Sea”. Camera được lắp trên lưới để đảm bảo không chạm đáy biển, trong khi thiết bị loại trừ rùa biển giúp hạn chế đánh bắt ngoài ý muốn. “Chúng tôi cũng tham gia dự án TartaLife nhằm giảm tỷ lệ tử vong của rùa biển do khai thác thương mại”, ông Nicola Giacalone cho biết.

Hiện sản lượng khai thác hàng năm của công ty duy trì ổn định ở mức khoảng 100 tấn, từ năm 2023 gắn liền với hạn ngạch phân bổ theo vùng của GFCM. Sản phẩm Rosso di Mazara đã có mặt tại châu Âu, châu Á và Mỹ, trong đó mạng xã hội là kênh tiếp thị và bán hàng chủ lực.

Tại thị trường nội địa, công ty vẫn phân phối sản phẩm, song ưu tiên xuất khẩu do giá bán cao hơn và ít biến động. “Khách hàng quốc tế đánh giá cao chất lượng và giá trị gia tăng mà chúng tôi mang lại, sẵn sàng trả giá cao cho điều đó”, ông Giacalone nhấn mạnh.

VŨ ĐỨC (Theo Eurofish)

ECUADOR

Hành trình trở thành

cường quốc tôm thế giới

Trong hơn một thập kỷ, Ecuador đã vươn lên thành cường quốc tôm với tốc độ tăng trưởng kỷ lục. Từ vị thế dẫn đầu Mỹ Latinh, quốc gia này đặt mục tiêu chinh phục ngôi số 1 toàn cầu.

Lợi thế tự nhiên

Ngành tôm Ecuador chủ yếu phát triển tại ba vùng trọng điểm với tổng diện tích hơn 200.000 ha, trong đó tỉnh Guayas chiếm tới 60% diện tích và hơn 80% sản lượng. Nhờ khí hậu nhiệt đới ổn định, các trang trại có thể nuôi từ 3 đến 4 vụ mỗi năm, đảm bảo nguồn cung liên tục quanh năm. Vị trí địa lý chiến lược cũng mang lại lợi thế vượt trội: chỉ trong vòng ba giờ di chuyển, tôm từ trại nuôi có thể đến các cảng lớn để xuất khẩu. Thời gian từ thu hoạch đến khi lên tàu chỉ mất 3 - 4 ngày, giúp Ecuador giữ được độ tươi, giảm chi phí và rủi ro vận chuyển.

Đổi

mới công nghệ

Động lực chính đưa Ecuador trở thành “cường quốc tôm” đến từ đổi mới công nghệ và đầu tư bài bản. Trong 5 năm qua, hàng loạt trang trại đã trang bị hệ thống quạt nước, cho ăn tự động và điện khí hóa. Hiện nay, hơn 35% trang trại sử dụng máy cho ăn tự động, 11% được điện khí hóa, giúp năng suất tăng từ 3.400 lên hơn 6.500 pound/ha. Trong lĩnh vực giống, các phòng thí nghiệm và trại ương tại chỗ ngày càng chú trọng phát triển di truyền, cải thiện chất lượng ấu trùng và triển khai theo dõi gen ở cấp độ trang trại. Song song, các công ty thức ăn đầu tư mạnh vào R&D, đưa ra sản phẩm chuyên biệt cho từng giai đoạn sinh trưởng, giảm hệ số chuyển đổi thức ăn từ

1,6 xuống chỉ còn 1,4. Điều này không chỉ giúp tiết kiệm chi phí mà còn đáp ứng xu thế toàn cầu về sản xuất bền vững. Nhờ những đổi mới này, Ecuador không chỉ gia tăng sản lượng mà còn nâng tầm giá trị sản phẩm. Tỷ lệ tôm xuất khẩu đã qua chế biến tăng từ 28% lên 56% trong vòng 6 năm, giúp mở rộng thị trường sang Mỹ và châu Âu - nơi người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cao hơn cho sản phẩm có giá trị gia tăng.

Chiến lược xuất khẩu và tham vọng ngôi vương

Mục tiêu của Ecuador trong giai đoạn 2025 - 2030 là duy trì tốc độ tăng trưởng kép (CAGR) 6 - 8%/năm, đồng thời gia tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu để tiếp cận phân khúc cao cấp. Chính phủ và doanh nghiệp cùng đặt ưu tiên vào ba trụ cột: bền vững, giá trị gia tăng và đa dạng hóa thị trường. Nếu đạt được, Ecuador có thể trở thành quốc gia dẫn đầu toàn cầu về xuất khẩu tôm.

Dù sở hữu nhiều lợi thế, ngành tôm Ecuador vẫn phải đối mặt với một số thách thức. Chi phí lao động cao do nền kinh tế đô la hóa, tình trạng bất ổn chính trị, an ninh xã hội, cùng rủi ro từ biến đổi khí hậu có thể tác động đến sản xuất. Ngoài ra, các rào cản thương mại từ những thị trường lớn như

Trung Quốc cũng là yếu tố khó lường. Tuy vậy, Ecuador đã và đang chứng minh khả năng thích ứng mạnh mẽ. Việc xây dựng một hệ sinh thái hoàn chỉnh, nơi các công ty nội địa và quốc tế cùng đầu tư vào công nghệ, di truyền, và thức ăn, tạo nên nền tảng bền vững. Nhờ đó, ngành tôm nước này không chỉ duy trì tốc độ tăng trưởng mà còn củng cố vị thế như một “hình mẫu cạnh tranh” cho toàn ngành thủy sản thế giới.

VŨ ĐỨC (Theo Pablo Montalbetti GT)

POSTBIOTIC

Chìa khóa nâng cao đề kháng và năng suất TTCT

Postbiotic không chỉ vượt trội về tính ổn định, còn mang lại hiệu quả toàn diện trong tăng cường miễn dịch, cải thiện sức khỏe đường ruột và giúp TTCT chống chọi tốt hơn với biến động môi trường cũng như mầm bệnh.

Chọn prebiotic, probiotic, hay postbiotic?

Từ thập niên 1960, các chế phẩm probiotic và prebiotic đã được sử dụng chủ yếu để cải thiện hiệu quả sản xuất. Tuy nhiên, hơn một thập kỷ trở lại đây, tiềm năng của nấm men và vi khuẩn lên men (postbiotic) mới được nhận thức đầy đủ hơn. Nếu như prebiotic và probiotic thường có tác dụng cụ thể và giới hạn, thì postbiotic mang lại lợi ích rộng hơn, góp phần cải thiện sức khỏe tổng thể, tăng cường miễn dịch và khả năng chống chịu của vật nuôi.

Theo Gibson và Roberfroid (1995), prebiotic là thành phần thực phẩm không tiêu hóa được, có lợi cho vật chủ nhờ kích thích chọn lọc sự tăng trưởng và hoạt động của một hay một số vi khuẩn ở đại tràng. Prebiotic thường là các mảnh hoặc cấu trúc hoàn chỉnh của màng tế bào vi sinh vật, điển hình như FOS, GOS, MOS, β-glucan, peptidoglycan, inulin,… Chúng chủ yếu được tạo ra bằng cách nuôi vi sinh vật với số lượng lớn, sau đó dùng enzyme cắt tách thành phần mong muốn, hầu như không qua quá trình lên men.

Probiotic là những vi sinh vật có lợi, giúp cải thiện sức khỏe đường ruột thông qua cạnh tranh với vi khuẩn gây hại, củng cố hàng rào bảo vệ ruột và tiết ra các chất kháng khuẩn. Nhờ vậy, chúng tăng cường tiêu hóa, miễn dịch, trao đổi chất, đồng thời tham gia điều hòa trục ruột - não và khử độc. Hai nhóm probiotic phổ biến ở vật nuôi

là Lactobacillus và Bacillus, nổi bật nhờ khả năng tiết axit lactic. Dưới dạng chưa phân ly, axit lactic có tính kháng khuẩn mạnh, dễ dàng khuếch tán qua màng tế bào, làm rối loạn chuyển hóa, phá vỡ cấu trúc vi khuẩn. Hiệu quả của axit lactic càng rõ trong môi trường pH thấp, lý giải lợi ích của việc bổ sung axit hữu cơ để giảm pH, hỗ trợ phòng bệnh tự nhiên.

Postbiotic là các hợp chất sinh học được tạo ra trong quá trình lên men bởi vi khuẩn có lợi như Lactobacillus farciminis, L. rhamnosus hoặc nấm men như Saccharomyces cerevisiae, L. boulardii. Khác với probiotic, postbiotic không cần vi khuẩn sống để phát huy tác dụng, do đó ổn định hơn trước nhiệt và dễ bổ sung vào thức ăn chăn nuôi. Trong dịch lên men chứa hàng trăm chất chuyển hóa từ axit béo chuỗi ngắn (SCFA), peptide, axit hữu cơ, enzyme, đến các mảnh vách tế bào vi khuẩn đều góp phần tăng cường sức khỏe đường ruột, điều hòa miễn dịch và cải thiện hiệu quả chăn nuôi.

Postbiotic

nấm

men và vi khuẩn

Các postbiotic từ nấm men có sự khác biệt rõ rệt so với từ vi khuẩn, bắt nguồn từ đặc điểm cơ chế phòng vệ riêng của từng nhóm vi sinh vật. Nấm men, điển hình là Saccharomyces cerevisiae, đã tiến hóa hàng triệu năm để chống lại sự tấn công của vi khuẩn và virus. Hàng rào phòng thủ đầu tiên là thành tế bào vững chắc giàu β-glucan, mannoprotein và chitin. Ngoài ra,

nấm men còn có thể kích hoạt quá trình tự thực bào nhằm hạn chế virus lan rộng. Để cạnh tranh với vi khuẩn, nấm men tước đi nguồn dinh dưỡng thiết yếu như đường, axit amin và điều chỉnh pH môi trường, tạo điều kiện bất lợi cho vi khuẩn phát triển. Một số cơ chế phòng vệ khác gồm: protein sốc nhiệt (HSPs) giúp tái cấu trúc protein bị tổn thương do độc tố vi khuẩn hoặc virus; enzyme chống ôxy hóa như superoxide dismutase và catalase giúp trung hòa gốc tự do. Một số chủng nấm men còn sản sinh độc tố diệt khuẩn khi bị nhiễm virus RNA sợi kép, hoặc điều tiết quá trình nhân bản virus để hạn chế tải lượng virus. Vi khuẩn lại có hệ thống phòng vệ rất khác, gồm ba nhóm chính: cấu trúc, hóa học và di truyền. Nhóm cấu trúc cạnh tranh dinh dưỡng và không gian sống, tương tự nấm men. Nhóm hóa học tiết hợp chất kháng khuẩn như bacteriocin, kháng sinh, axit hữu cơ, hydrogen peroxide, cùng enzyme như protease, lysozyme và peptidoglycan hydrolase. Nhóm di truyền với hệ thống CRISPR-Cas giúp nhận diện và tiêu diệt vật chất di truyền lạ. Ngoài ra, hệ thống Restriction-Modification với enzyme cắt DNA ngoại lai và methyl hóa DNA nội sinh cũng là tuyến phòng vệ quan trọng. Rõ ràng, nấm men và vi khuẩn sở hữu chiến lược phòng vệ khác biệt. Trong quá trình lên men, dưới tác động của thiếu ôxy, thiếu dinh dưỡng, nhiệt độ và cạnh tranh không gian, cả hai nhóm vi sinh đều giải

phóng nhiều chất chuyển hóa phòng vệ.

Những hợp chất này đã được chứng minh có

tác động tích cực đến sức khỏe đường ruột của nhiều loài vật nuôi thủy sản.

Hiệu quả với TTCT

Hiệu quả của sản phẩm

postbiotic Metalac (STI Biotechnologie) đã được kiểm chứng qua nhiều thử nghiệm

trên TTCT. Metalac được tạo ra từ quá trình lên men kép hai chủng Lactobacillus (L. farciminis và L. rhamnosus).

Trong bốn thử nghiệm trước đây (Orapint, 2012), bổ sung 1 kg Metalac/tấn thức ăn cho tôm từ giai đoạn PL5 đến PL30

đã giúp vật nuôi tăng khả năng chống chịu với các điều kiện bất lợi. Kết quả cho thấy, tỷ lệ sống tăng lần lượt 62%, 8%, 22%, 23% và 10% khi tôm bị sốc môi trường: giảm nhiệt từ 29°C xuống 15°C, tăng nhiệt lên

35°C, thay đổi độ mặn từ 25 xuống 0 ppt và từ 25 lên 40 ppt, cũng như xử lý formaline ở mức 600 ppm. Điều này chứng tỏ postbiotic từ Lactobacillus giúp tôm thích ứng tốt hơn trước biến động môi trường.

Trong một nghiên cứu mới (Sritunyalucksana, 2025), TTCT được cho ăn khẩu phần có bổ sung Metalac (0,5 kg/tấn thức ăn) trong 4 tuần. Kết quả cho thấy tôm bổ sung Metalac có trọng lượng trung bình cao hơn nhóm đối chứng (4,16 g so với 3,64 g). Các chỉ số miễn dịch bẩm sinh như hoạt tính thực bào và chỉ số thực bào của tế bào máu (hemocyte) đều tăng đáng kể, trong khi tổng số tế bào máu không thay đổi. Biểu hiện gen liên quan đến prophenoloxidase (proPO) cũng tăng rõ rệt, dù nồng độ phenoloxidase không khác biệt nhiều.

Đáng chú ý, thí nghiệm ngưng kết vi khuẩn cho thấy nhóm Metalac có hiệu giá ngưng kết vi khuẩn cao hơn hẳn (p=0,002).

Ở thử nghiệm in vitro, Metalac cũng thể hiện khả năng ngưng kết với Vibrio parahaemolyticus gây hoại tử gan tụy (VPAHPND). Trong thử nghiệm gây cảm nhiễm VP-AHPND tại phòng thí nghiệm thương mại, nhóm Metalac đạt tỷ lệ sống 55%, cao hơn đáng kể so 30% ở nhóm đối chứng.

DŨNG NGUYÊN (Theo Aquafeed)

VỎ DỨA

Chất nền probiotic bền vững

Phụ phẩm từ dứa và khoai môn hỗ trợ sự phát triển của probiotic, đồng thời kháng khuẩn mạnh mẽ, mở ra tiềm năng trở thành giải pháp tự nhiên hữu hiệu trong kiểm soát dịch bệnh thủy sản.

Một nhóm nhà khoa học tại Hawaii đã nghiên cứu vi khuẩn probiotic nuôi cấy trong dịch chiết từ phụ phẩm nông sản địa phương và đánh giá đặc tính kháng khuẩn của chúng. Trong thí nghiệm, vỏ dứa, lõi dứa và vỏ khoai môn được sấy khô, nghiền thành bột để phân tích thành phần dinh dưỡng. Kết quả cho thấy, vỏ khoai môn có hàm lượng protein cao nhất (10,7%), trong khi cả ba nguyên liệu có hàm lượng chất béo thô và độ ẩm gần như tương đồng. Về tro, vỏ khoai môn đạt 7,5%, cao hơn rõ rệt so với hai loại còn lại. Lõi dứa chứa lượng carbohydrate lớn nhất (90,24%), với sự khác biệt có ý nghĩa giữa ba nhóm mẫu. Ngoài ra, vỏ dứa và vỏ khoai môn có hàm lượng xơ thô vượt trội so với lõi dứa.

Các môi trường dịch thể chứa các nồng độ khác nhau của bột vỏ dứa, lõi dứa hoặc vỏ khoai môn được đánh giá về khả năng hỗ trợ sự phát triển của vi khuẩn probiotic Lactococcus lactis. Môi trường chuẩn Lactobacillus deMan, Rogosa, và Sharpe (MRS) được sử dụng làm đối chứng. Kết quả cho thấy, môi trường chứa 10% lõi dứa và 10% vỏ dứa cho hiệu quả sinh trưởng cao hơn rõ rệt so với 5% và 20%. Đối với vỏ khoai môn, dịch chiết 20% quá nhớt nên không thể lọc qua màng, trong khi nồng độ 10% cho mật độ vi khuẩn cao hơn 5%. Hiệu quả của môi trường MRS tương đương với ba nguyên liệu trên trong việc nuôi cấy probiotic. Vì vậy, ba môi trường gồm 10% vỏ dứa, 10% vỏ khoai môn và MRS tiếp tục được đánh giá với bốn chủng khác: Lactobacillus plantarum, Pediococcus acidilactici, Bacillus sp. và Enterococcus sp. Phân tích thống kê sau 48 giờ không có khác biệt có ý nghĩa về mật độ vi khuẩn giữa ba môi trường đối với bất kỳ chủng nào, khẳng định tất cả đều có khả năng hỗ trợ sự phát triển của probiotic.

Hoạt tính kháng khuẩn của các chủng probiotic được nuôi cấy trong môi trường MRS, bổ sung 10% bột vỏ dứa và 10% bột vỏ khoai môn, đã được thử nghiệm trên

hai tác nhân gây bệnh ở cá: Streptococcus agalactiae và Francisella orientalis (Fo). Kết quả cho thấy cả vỏ dứa và vỏ khoai môn đều có khả năng ức chế mạnh, thậm chí diệt khuẩn S. agalactiae, khi loại bỏ hoàn toàn tế bào sống chỉ sau 24 giờ ủ. Trong khi đó, môi trường MRS vẫn cho phép vi khuẩn tồn tại. Phát hiện này khẳng định tiềm năng tận dụng các phụ phẩm thực phẩm làm nguồn kháng khuẩn tự nhiên chống lại S. agalactiae. Đối với Fo, dịch nổi từ môi trường vỏ dứa cấy Lactobacillus plantarum và môi trường MRS đạt hiệu quả kháng khuẩn mạnh nhất sau 48 giờ, khi mật độ Fo giảm xuống dưới ngưỡng phát hiện. Với Lactococcus lactis, dịch nổi từ vỏ dứa thể hiện tác dụng diệt khuẩn rõ rệt, trong khi dịch nổi từ vỏ khoai môn và MRS chỉ dừng lại ở mức ức chế sự phát triển của Fo. Đối với Pediococcus acidilactici, sau 48 giờ, dịch nổi từ vỏ dứa và MRS không khác biệt đáng kể, nhưng cả hai đều có khả năng diệt khuẩn mạnh hơn rõ rệt so với dịch nổi từ vỏ khoai môn. Kết quả chứng minh vỏ dứa có thể làm chất nền hiệu quả để probiotic tạo ra các hợp chất kháng Fo, với hiệu quả tương đương môi trường MRS. Những phát hiện này mở ra hướng khai thác phụ phẩm nông nghiệp như nguồn cơ chất bền vững cho nuôi cấy probiotic, đồng thời cung cấp giải pháp kiểm soát bệnh tự nhiên trong nuôi trồng thủy sản.

MI LAN (Theo Aquafeed)

Kiểm soát bệnh phân trắng trên tôm

Bệnh phân trắng trên tôm, còn gọi là White Feces Syndrome (WFS), là một bệnh phổ biến, đặc biệt ở tôm nuôi giai đoạn 40 - 70 ngày tuổi. Bệnh này làm tôm giảm ăn, chậm lớn, và có thể dẫn đến chết rải rác hoặc hàng loạt, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng tôm nuôi.

Nguyên nhân

Không lạ khi phân trắng xuất hiện dày

đặc trong các ao nuôi thời điểm này bởi

nguyên nhân trực tiếp gây bệnh đến từ chất lượng nước xấu. Sau những cơn mưa đầu

mùa, pH tụt sâu, kiềm giảm, hàm lượng ôxy hòa tan thấp. Đặc biệt ở những ao nhiều hữu cơ, tảo tàn hoặc thức ăn dư thừa, hiện tượng bùng phát khí độc (NH₃, NO₂) thường xuyên xảy ra, làm đường ruột tôm mất ổn định. Vi khuẩn cơ hội như Vibrio spp., nấm men, ký sinh trùng tấn công đường ruột, phá vỡ hàng rào vi sinh tự nhiên.

Điều nguy hiểm là bệnh không gây chết hàng loạt ngay, mà kéo dài âm ỉ, gây suy tôm, làm bội nhiễm các bệnh gan tụy, đục cơ, thậm chí hoại tử. Nếu không xử lý sớm, năng suất cuối vụ giảm nghiêm trọng.

Dấu hiệu

Khi bị bệnh, phân tôm đứt khúc, trắng đục, nổi trên mặt nước hay bám quanh bờ ao. Tôm giảm ăn, chậm lớn, bơi yếu, có thể nổi đầu vào sáng sớm. Đường ruột tôm có thể có màu trắng, vàng nâu, hoặc không có thức ăn bên trong. Gan tụy tôm có thể chuyển sang màu trắng, xanh, hoặc teo nhỏ.

Xử lý

Giải pháp đầu tiên là giảm tải đường ruột. Cắt thức ăn 1 bữa, sau đó giảm khẩu phần 30 - 50%. Tuyệt đối không tiếp tục cho ăn lượng như cũ trong khi tôm đã yếu và ruột rối loạn. Việc “ép ăn” chỉ khiến thức ăn tồn đọng, gây ô nhiễm đáy nặng hơn.

Kế tiếp là ổn định môi trường nước. Bổ sung chế phẩm sinh học đáy có chứa Bacillus spp., vi sinh phân hủy hữu cơ. Tạt men vi sinh nước liều tăng gấp đôi bình thường để tái lập hệ vi sinh có lợi trong nước. Nếu nước

đục, nhiều bọt, có thể thay 10 - 20% nước

kết hợp bơm xả đáy nhẹ. Ôxy luôn là ưu tiên hàng đầu. Tăng

cường quạt nước, đặc biệt sau mưa hoặc thời điểm chiều tối - sáng sớm. Nếu có điều

kiện, lắp thêm sục khí đáy để duy trì hàm lượng ôxy > 4 mg/L, giúp hạn chế khí độc và hỗ trợ tôm phục hồi nhanh hơn. Thức ăn trong giai đoạn này cần phối trộn hợp lý. Trộn men tiêu hóa (enzyme amylase, protease, lipase), Vitamin C, B-Complex, chất điện giải và các sản phẩm thảo dược như chiết xuất tỏi, nghệ, hồi phục chức năng gan ruột. Dùng liên tục 57 ngày, giảm dần khi thấy phân tôm trở lại bình thường.

Tuyệt đối không sử dụng kháng sinh nếu chưa rõ nguyên nhân gây bệnh. Việc lạm dụng kháng sinh không chỉ làm mất cân bằng hệ vi sinh đường ruột mà còn làm tăng tỷ lệ kháng thuốc, ảnh hưởng tiêu cực đến cả chu kỳ nuôi sau.

Sau khi kiểm soát thành công, vẫn nên duy trì phác đồ ổn định đường ruột định kỳ 7 - 10 ngày/lần bằng cách luân phiên: 3 ngày men vi sinh - 3 ngày nghỉ - 3 ngày bổ sung vitamin, khoáng, thảo dược. Giúp đường ruột tôm luôn khỏe, tiêu hóa tốt, miễn dịch ổn định. Về lâu dài, chủ động phòng bệnh là ưu tiên cao nhất. Ngay từ đầu vụ cần cải tạo

 Phân trắng không phải bệnh lạ, nhưng luôn là thách thức, đặc biệt trong giai đoạn giữa vụ - khi tôm chuẩn bị tăng tốc sinh trưởng. Chìa khóa để kiểm soát hiệu quả nằm ở việc giữ môi trường ổn định, hỗ trợ tiêu hóa và tăng miễn dịch tự nhiên. Một hệ ruột khỏe chính là hàng rào tốt nhất giúp tôm chống lại mọi tác nhân gây bệnh từ nước.

ao đúng kỹ thuật: hút bùn đáy, phơi ao ít nhất 10 ngày, bón vôi CaO liều thấp, diệt tạp đúng liều lượng. Sau khi cấp nước cần xử lý vi sinh cấy nền, đo các chỉ số cơ bản như pH, kiềm, độ mặn, NH₃ trước khi thả giống.

Cần đảm bảo thức ăn chất lượng, đúng liều lượng, kiểm soát thức ăn thật kỹ để tránh dư thừa. Trong suốt vụ nuôi, theo dõi biểu đồ thời tiết, chủ động giảm thức ăn khi có mưa, âm u kéo dài. Không nuôi quá dày, hạn chế dùng thức ăn độ đạm cao liên tục, vì dễ làm gan tôm quá tải, phân thải ra nhiều. HOÀNG NGÂN

5 lỗi trong quản lý dinh dưỡng

Không điều chỉnh theo sức ăn

của tôm

Trong điều kiện mưa bão, nhiều hộ nuôi vẫn giữ nguyên hoặc tăng khẩu phần ăn với hi vọng tôm nhanh lớn. Điều này khiến lượng thức ăn dư thừa nhiều, làm đáy ao tích tụ chất hữu cơ, phân hủy sinh khí độc (H2S, NH3), làm giảm hàm lượng ôxy hòa tan và gây ô nhiễm nước.

Quản lý dinh dưỡng cho tôm trong mùa mưa bão đòi hỏi sự linh hoạt và chú ý đến từng chi tiết nhỏ. Dưới đây là 5 lỗi phổ biến mà nhiều người nuôi thường mắc phải khi chăm sóc tôm. nhanh chóng tháo lớp nước mưa trên mặt ra khỏi ao và chờ đến khi ngớt mưa thì cho ăn với số lượng giảm 30 - 50% lượng thức ăn bình thường. Chỉ cho ăn sau mưa ít nhất 23 giờ, khi các chỉ tiêu môi trường (pH, ôxy) đã được kiểm tra và cân bằng. Trong những ngày mưa bão liên tục, giảm số cữ ăn và tập trung vào các khung giờ có ánh nắng hoặc môi trường ổn định hơn (thường là 9 - 11 giờ sáng và 15 - 17 giờ chiều). Tránh cho ăn vào ban đêm trong những ngày mưa to vì ôxy đáy thường xuống thấp, làm tôm giảm hoạt động ăn uống.

Giải pháp: Theo dõi sức ăn thực tế của tôm thông qua nhá (sàng ăn). Nếu sau 2 giờ thức ăn vẫn còn, cần giảm lượng cho ăn trong các cữ tiếp theo. Khi mưa kéo dài, giảm 20 - 30% lượng thức ăn so với bình thường, chỉ cho ăn khi tôm thật sự bắt mồi.

Bỏ qua việc bổ sung vitamin và khoáng chất

Trong mùa bão, tôm cần nhiều dưỡng chất để duy trì sức khỏe và tăng sức đề kháng. Nhiều hộ nuôi chỉ sử dụng thức ăn công nghiệp mà không bổ sung vitamin hoặc khoáng chất, khiến tôm dễ bị mềm vỏ, chậm lột xác, hoặc dễ mắc bệnh như hoại tử gan tụy và phân trắng.

Giải pháp: Bổ sung Vitamin C 5 - 10 g/ kg thức ăn để giúp tôm tăng sức chống chịu stress và cải thiện hệ miễn dịch. Bổ sung khoáng chất tổng hợp trộn 2 - 3 g/kg thức ăn hoặc rải khoáng xuống ao định kỳ giúp tôm cứng vỏ, lột xác dễ dàng. Bổ sung

men tiêu hóa và probiotic giúp cải thiện hệ vi sinh đường ruột, tăng khả năng hấp thu dưỡng chất. Kết hợp bổ sung dinh dưỡng 2 - 3 ngày/lần trong suốt mùa mưa để duy trì sức khỏe tổng thể cho tôm.

Không sử dụng chất kết dính khi trộn thuốc hoặc phụ gia

Trong mùa mưa, độ ẩm cao khiến viên thức ăn dễ bị tan rã nhanh, làm mất đi lượng thuốc, vitamin hoặc khoáng được trộn kèm.

Giải pháp: Dùng dầu mực, dầu đậu nành hoặc chất kết dính chuyên dụng để trộn cùng vitamin, khoáng và thuốc, giúp phụ gia bám đều và lâu hơn trên viên thức ăn. Sau khi trộn, phơi khô nhẹ (dưới bóng râm) hoặc để thức ăn ráo dầu trước khi cho ăn để giảm thất thoát chất dinh dưỡng ra môi trường nước.

Cho ăn vào thời điểm không

hợp lý

Nhiều người có thói quen cho tôm ăn ngay sau khi mưa dứt, trong khi lúc này môi trường ao chưa kịp ổn định. Sự thay đổi nhanh của pH, ôxy hòa tan và nhiệt độ làm tôm giảm khả năng bắt mồi. Việc cho ăn lúc này không chỉ làm lãng phí thức ăn mà còn gây nguy cơ tồn đọng thức ăn ở đáy ao, dẫn đến ô nhiễm.

Giải pháp: Trong lúc trời mưa lớn, người nuôi nên ngừng cho tôm ăn, có giải pháp để

Không kiểm soát chất lượng thức ăn dự trữ

Mùa mưa bão có độ ẩm cao, dễ làm thức ăn bị ẩm mốc, vón cục, mất dinh dưỡng hoặc nhiễm độc tố nấm mốc (Aflatoxin), ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tôm. Tuy nhiên, nhiều hộ nuôi chủ quan, không kiểm tra hoặc bảo quản thức ăn đúng cách, dẫn đến tôm giảm tăng trưởng, dễ bị bệnh gan tụy và đường ruột.

Giải pháp: Bảo quản thức ăn trong kho khô ráo, thoáng mát, có kệ kê cao cách nền ít nhất 20 - 30 cm để tránh ẩm. Kiểm tra bao bì thường xuyên, không sử dụng thức ăn có mùi lạ, mốc hoặc đổi màu.

HOÀNG YẾN

Giải

pháp phục hồi

đáy ao lâu năm

Nguyên nhân

Sự lão hóa chủ yếu xuất phát từ quá trình thâm canh kéo dài, mật độ cao và quản lý chưa tối ưu. Thức ăn dư thừa, phân tôm, vỏ lột và xác tôm chết tích tụ thành bùn hữu cơ. Nếu việc xử lý sau mỗi vụ nuôi không triệt để, lớp bùn ngày càng dày, kết hợp với chất thải sinh ra trong quá trình nuôi, làm nền đáy suy thoái. Ngoài ra, việc sử dụng hóa chất không đúng cách cũng có thể làm

suy giảm hệ vi sinh có lợi, khiến đáy ao giảm

khả năng tự làm sạch.

Biểu hiện

Ao nuôi lâu năm thường xuất hiện lớp

bùn dày có màu đen sẫm, kèm theo mùi hôi

Sau nhiều vụ nuôi liên tiếp, nền đáy thường tích tụ bùn đen, chất hữu cơ, khí độc, dẫn đến tình trạng “lão hóa”, môi trường nước xấu đi, mầm bệnh dễ bùng phát, tôm chậm lớn và tỷ lệ hao hụt cao. Vì vậy, phục hồi đáy ao trước mỗi vụ nuôi là bước then chốt để đảm bảo hiệu quả sản xuất. Bổ sung chế phẩm sinh học phân hủy hữu cơ: Sau khi phơi đáy và xử lý vôi, việc cấy lại hệ vi sinh có lợi là rất cần thiết. Các chế phẩm chứa Bacillus spp., vi khuẩn nitrat hóa và vi khuẩn phân hủy cellulose giúp tái tạo hệ sinh thái đáy ao, thúc đẩy quá trình phân hủy bùn còn lại và ngăn ngừa tích tụ trở lại. Đây là biện pháp sinh học bền vững, thay thế cho việc lạm dụng hóa chất. Quản lý nước cấp và cải tạo ao trước thả: Trước khi lấy nước vào ao, cần lọc kỹ để loại bỏ cá tạp, mầm bệnh. Sau khi lấy đủ mực nước, tiến hành gây màu bằng mật rỉ đường, cám gạo hoặc chế phẩm tạo tảo, nhằm hình thành hệ vi sinh và vi tảo cân bằng. Giai đoạn này, cần theo dõi chặt chẽ pH, độ kiềm và độ trong của nước.

của H2S. Độ dày lớp bùn vượt quá 15 - 20 cm sẽ làm đáy ao trở thành nơi tích tụ khí độc, hạn chế ôxy, đồng thời tạo điều kiện cho vi khuẩn và ký sinh trùng phát triển. Người nuôi dễ nhận thấy khi tôm nuôi có hiện tượng bơi lờ đờ, ăn yếu, vỏ mỏng hoặc dễ nhiễm bệnh đường ruột.

Hướng xử lý phục hồi

Nạo vét bùn và vệ sinh cơ học: Sau khi thu hoạch, tiến hành tháo cạn nước và nạo vét lớp bùn đen tích tụ. Tùy độ dày, có thể loại bỏ 10 - 20 cm để lộ nền đất ban đầu. Các góc chết, mương dẫn và khu vực giữa ao cần đặc biệt chú ý vì đây là nơi dễ lắng đọng nhiều nhất. Sau đó, rửa sạch đáy ao bằng nước ngọt để loại bỏ mùi hôi và cặn bã. Phơi đáy và diệt mầm bệnh: Phơi khô đáy ao từ 10 - 15 ngày, đến khi đất nứt chân chim, giúp ôxy hóa chất hữu cơ, tiêu diệt mầm bệnh và ký sinh trùng còn sót lại. Nếu thời tiết mưa nhiều, nên kết hợp bón vôi CaO lượng 7 - 10 kg/100 m² để khử trùng, nâng pH nền đất và thúc đẩy phân hủy hữu cơ.

Điều chỉnh pH và độ kiềm: Quản lý pH nền đất là ưu tiên hàng đầu. pH đất lý tưởng nên đạt 7,5 - 8,5. Ngoài vôi CaO, có thể sử dụng Dolomite để vừa nâng pH vừa bổ sung canxi và magie. Bước này giúp ổn định hệ đệm, tạo điều kiện thuận lợi cho vụ nuôi mới.

Biện pháp quản lý lâu dài

Ngoài cải tạo định kỳ, người nuôi nên thực hiện quản lý đáy ao trong suốt vụ nuôi để giảm tốc độ lão hóa:

Cho ăn hợp lý, tránh dư thừa, sử dụng thức ăn chất lượng cao.

Định kỳ xi phông đáy, đặc biệt ở khu vực tập trung chất thải.

Bổ sung men vi sinh xử lý đáy và nước trong quá trình nuôi.

Tránh lạm dụng hóa chất diệt khuẩn, gây mất cân bằng hệ sinh thái ao nuôi.

 Đáy ao tôm lâu năm bị lão hóa là nguyên nhân tiềm ẩn gây nhiều rủi ro trong nuôi trồng thủy sản. Phục hồi đáy ao cần được xem là công việc bắt buộc trước mỗi vụ nuôi. Nạo vét, phơi đáy, điều chỉnh pH, sử dụng vôi và chế phẩm sinh học đúng cách sẽ giúp tái tạo lại nền đáy khỏe mạnh, từ đó nâng cao năng suất, ổn định chất lượng tôm và đảm bảo hiệu quả lâu dài.

BÍCH HÒA

Hướng dẫn xử

lý bệnh AHPND

tại cơ sở nuôi thương phẩm

Bệnh hoại tử gan tụy cấp (AHPND) do vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus gây ra. Bệnh có tốc độ lây lan nhanh, tỷ lệ chết có thể lên đến 90% sau 3 - 5 ngày phát hiện bệnh. Dưới đây là một số biện pháp xử lý khi dịch bệnh xảy ra tại cơ sở nuôi thương phẩm.

Chống dịch

- Thực hiện khai báo theo điểm a khoản 1 Điều 5 của văn bản hợp nhất số 30/VBHNBNNPTNT ngày 18/11/2024.

- Thông báo cho các cơ sở nuôi xung quanh để có các biện pháp phòng bệnh kịp thời tránh lây lan trên diện rộng.

- Nếu kiểm tra mẫu nước hoặc bùn ao nuôi phát hiện vi khuẩn Vibrio tổng số vượt quá giới hạn cho phép (≥ 103 CFU/ml), cần thực hiện các biện pháp điều chỉnh, làm giảm số lượng vi khuẩn Vibrio trong ao như sử dụng các chế phẩm sinh học, các loại hóa chất diệt khuẩn trong Danh mục thuốc thú y dùng trong thú y thủy sản được phép lưu hành tại Việt Nam.

- Nếu phát hiện Vibrio parahaemolyticus mang gen gây bệnh

AHPND nhưng tôm không chết thì phải áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp, tăng cường sức đề kháng cho tôm, ngăn chặn sự phát tán tôm, môi trường sang các ao nuôi khác. Cần điều chỉnh các yếu tố môi trường nuôi trong ngưỡng

thích hợp, không để biến động mạnh gây ảnh hưởng đến sức khỏe, làm giảm sức đề kháng của tôm nuôi.

- Nếu phát hiện Vibrio parahaemolyticus mang gen độc lực gây bệnh AHPND và tôm chết thì phải áp dụng các biện pháp xử lý như sau:

+ Không tự chữa trị, không xả nước thải, chất thải chưa qua xử lý ra môi trường;

+ Tôm bệnh nếu đạt kích cỡ thương phẩm, có thể sử dụng làm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi hoặc các mục đích khác (trừ động vật thủy sản làm giống hoặc thức ăn tươi sống cho động vật thủy sản khác);

+ Nếu tôm bệnh không đạt kích cỡ thu hoạch: Không vứt tôm mắc bệnh, chết, có dấu hiệu mắc bệnh ra môi trường; tiêu hủy thủy sản mắc bệnh, thực hiện theo quy định tại Phụ lục VI tại văn bản hợp nhất số 30/ VBHN-BNNPTNT ngày 18/11/2024; + Chỉ được phép vận chuyển tôm ra ngoài vùng có dịch sau khi đã xử lý theo hướng dẫn của cơ quan quản lý chuyên ngành thú y thủy sản;

+ Không vứt tôm mắc bệnh, chết, có dấu hiệu mắc bệnh ra môi trường; + Xử lý nước ao nuôi, nước thải, khử trùng các dụng cụ, ao bể, nền đáy, diệt giáp xác bằng các loại hóa chất được phép sử dụng, đảm bảo không còn mầm bệnh, dư lượng hóa chất và đảm bảo vệ sinh môi trường. Căn cứ vào tình hình thực tế theo hướng dẫn của cơ quan chuyên ngành nuôi trồng thủy sản của địa phương để quyết định nuôi tiếp hay tạm dừng. Nếu nuôi tiếp, áp dụng Quy trình nuôi tôm nước lợ an toàn trong vùng dịch bệnh theo hướng dẫn của cơ quan quản lý nuôi trồng thủy sản.

Điều

trị bệnh

Ngừng cho tôm bị bệnh ăn và quan sát tình hình ao tôm nhằm hạn chế sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh, có thể điều trị bằng thuốc kháng sinh. Tuy nhiên chỉ được phép sử dụng kháng sinh trong danh mục được phê duyệt và có kiểm tra kháng sinh đồ. Không khuyến cáo sử dụng kháng sinh trong trị AHPND. Cần xét nghiệm xác định chính xác tác nhân gây bệnh và thử kháng sinh đồ để lựa chọn kháng sinh hiệu quả nhất. Tránh lạm dụng thuốc kháng sinh và các loại thuốc khác dẫn đến hiện tượng kháng thuốc và phải ngừng sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

THANH HIẾU

 Để hạn chế nguy cơ dịch bệnh, cần áp dụng các biện pháp phòng bệnh trong quá trình nuôi. Trong 6 tuần đầu tiên sau khi thả, các cơ sở nuôi thâm canh, bán thâm canh tiến hành lấy mẫu tôm, nước, bùn định kỳ 2 tuần/lần để kiểm tra Vibrio tổng số, đồng thời phát hiện Vibrio parahaemolyticus mang gen gây bệnh.

CPF-COMBINE HOUSE

Trong bối cảnh ngành tôm đang chịu nhiều tác động từ dịch bệnh và biến đổi môi trường, mô hình nuôi tôm nhà mái CPF-COMBINE HOUSE của C.P. Việt Nam đang trở thành điểm sáng cho hướng đi bền vững.

Đột phá hiệu suất

Chỉ trong 8 tháng đầu năm 2025, hệ thống mô hình CPFCOMBINE HOUSE đã ghi nhận tỷ lệ thành công 100%, sản lượng vượt 800 tấn tôm thương phẩm, kích cỡ 22 - 30 con/kg. Với khả năng kiểm soát môi trường tối

ưu, kết hợp cùng tôm giống CPFTURBO G21, thức ăn dinh dưỡng công nghệ mới và chế phẩm sinh học BIOTIC C.P. Việt Nam, mô hình CPF-COMBINE HOUSE được xem là giải pháp an toàn, hiệu quả, mang lại giá trị cao cho người nuôi.

CPF -COMBINE HOUSE: Mô hình nuôi tôm thành công - bền vững Thành công từ mô hình

CPF-COMBINE HOUSE không chỉ khẳng định hiệu quả của mô hình nuôi tôm hiện đại, mà còn mở ra hướng đi bền vững

cho ngành tôm Việt Nam. Với sự đồng hành của C.P. Việt Nam, người nuôi hoàn toàn có thể tin tưởng vào những vụ mùa ổn định, chất lượng và có giá trị thương phẩm cao. C.P. VIỆT NAM

Biện pháp xử lý bệnh đường ruột trên tôm

Bệnh đường ruột ở tôm khá phổ biến với các biểu hiện như phân trắng, đứt khúc, trống ruột, phân loãng,... kéo dài có thể dẫn đến hư gan tụy của tôm. Bệnh thường xảy ra ở tôm nuôi sau 1 tháng, nhiều nhất vào giai đoạn 60 - 90 ngày tuổi. Nếu không được điều trị kịp thời, bệnh làm giảm năng suất và chất lượng tôm nuôi.

Nguyên nhân

- Nhiễm vi khuẩn Vibrio

spp: Khi chất lượng nước kém, mật độ Vibrio tăng cao, xâm nhập vào cơ thể và gây bệnh cho tôm. Hầu hết các chủng Vibrio đều có khả năng gây bệnh, khi vào đường ruột, vi khuẩn phá hủy thành ruột gây viêm, tôm không ăn được dẫn đến trống ruột, đứt khúc. - Nhiễm ký sinh trùng

Gregarine (trùng 2 tế bào): Khi tôm ăn phải ký chủ của loài Gregarine này như nhuyễn thể 2 mảnh vỏ, giun nhiều tơ, ốc,... sẽ bị ấu trùng xâm nhập vào ruột, phát triển thành dạng trưởng thành, sống ký sinh và bám vào thành ruột.

Khi mật độ Gregarine dày đặc sẽ làm tắc nghẽn ruột, hình thành những tổn thương ở đường ruột tạo điều kiện cho tác nhân cơ hội tấn công gây bệnh cho tôm nuôi.

- Thức ăn: Tôm ăn thức ăn bị ẩm mốc, nhiễm khuẩn gây ngộ độc cho tôm; Tôm ăn phải tảo độc trong ao như tảo lam, loài

AQUAFEED/AQUAMEDICA

Men đường ruột Ức chế phân trắng, phân loãng, trống ruột, đứt khúc sau 3 ngày

BATENDO

Chế phẩm vi sinh đặc hiệu chuyên ức chế ký sinh trùng

tảo độc này sẽ tiết độc tố làm tê liệt lớp biểu bì mô ruột, làm ruột không hấp thu được thức ăn, tôm yếu và bị bệnh.

- Môi trường: Thời tiết thất thường như mưa nắng kéo dài cũng làm cho tôm yếu, bỏ ăn làm cho ruột trống; Chất lượng nước kém: nước đục, nhiều bọt dơ, tảo tàn, tảo nở hoa, khí độc,... làm cho tôm stress, ăn kém hoặc bỏ ăn.

Tác hại

Bệnh không gây chết hàng

loạt trong thời gian ngắn, nhưng sẽ làm tôm bị bệnh mãn tính, khó điều trị. Tôm bị bệnh, bỏ ăn, không bắt mồi, còi cọc, không lớn, hoạt động yếu gây ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng tôm nuôi.

Biện pháp phòng bệnh - Kiểm soát tốt chất lượng

nước: Diệt khuẩn định kỳ, xử lý chất hữu cơ dư thừa, bùn đáy ao, tảo độc, thường xuyên kiểm tra hàm lượng ôxy hòa tan (> 4 ppm), tốt nhất là 5 ppm (kích

thích tôm ăn khỏe, lớn nhanh, ít bị bệnh tấn công).

-Kiểmsoátchấtlượngthức ăn và lượng cho ăn: Đảm bảo thức ăn sạch, hạn chế lượng thức ăn dư thừa gây ô nhiễm hữu cơ.

-Tăngsứcđềkhángvàdiệt mầm bệnh trong đường ruột tôm: Bằng cách sử dụng chế phẩm sinh học:  Chế phẩm vi sinh: Ổn định hệ vi khuẩn đường ruột, tăng

mật độ vi khuẩn có lợi trong

đường ruột tôm; chủng vi sinh đặc hiệu chuyên ức chế ký sinh trùng; vi sinh xử lý nước và đáy ao nuôi để phân hủy chất hữu cơ, thức ăn dư thừa.

 Chế phẩm enzyme: Enzyme hỗ trợ tiêu hóa, enzyme cắt tảo độc, xử lý nước ao ô nhiễm hữu cơ. Đề xuất giải pháp từ

Công ty Thái Nam Việt Mặc dù việc điều trị bệnh đường ruột có thể mang lại hiệu quả nhanh chóng nhưng sẽ gây ảnh hưởng đến sự phát triển sau đó của tôm nuôi, do đó bệnh này chủ yếu phòng là chính. Sử dụng chế phẩm sinh học sẽ giải quyết được vấn đề mục tiêu và đảm bảo cho sự tăng trưởng và sức khỏe tôm, hạn chế được thiệt hại và nâng cao năng suất.

CÔNG NGHỆ NANO BUBBLES

Nâng tầm ngành thủy sản

Việt

Nam

Ngành thủy sản Việt Nam đang giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế với kim ngạch xuất khẩu hàng chục tỷ USD mỗi năm. Tuy nhiên, bên cạnh thành công, người nuôi và doanh nghiệp cũng đang đối mặt với nhiều thách thức: dịch bệnh bùng phát, môi trường nước ô nhiễm, chi phí sản xuất

leo thang và yêu cầu chất lượng

khắt khe từ các thị trường nhập khẩu. Trong bối cảnh đó, việc ứng dụng công nghệ Nano

Bubbles không chỉ mang tính

đột phá mà còn trở nên cấp thiết

để đảm bảo sự phát triển bền vững của toàn ngành.

Ôxy hòa tan là yếu tố sống còn trong nuôi trồng thủy sản.

Thiếu ôxy khiến tôm, cá chậm lớn, dễ nhiễm bệnh, thậm chí chết hàng loạt khi thời tiết biến động. Các phương pháp cấp ôxy truyền thống như quạt nước hay máy thổi khí thường tiêu tốn nhiều điện năng nhưng hiệu quả không ổn định. Nano Bubbles đáp ứng nhu cầu này bằng cách cung cấp nguồn ôxy dồi dào, ổn định, giúp thủy sản sinh trưởng nhanh, nâng cao tỷ lệ sống và rút ngắn thời gian nuôi.

Một trong những thách thức lớn nhất hiện nay là chất lượng nước suy giảm. Hàm lượng amoniac, nitrit cao cùng vi khuẩn gây bệnh khiến người nuôi phải tăng cường sử dụng hóa chất và kháng sinh. Đây là nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe

người tiêu dùng và uy tín thủy

sản Việt Nam. Công nghệ Nano

Bubbles giúp cải thiện đáng kể chất lượng nước, phân hủy chất hữu cơ, giảm mùi hôi và hỗ trợ diệt khuẩn hiệu quả. Nhờ đó, thủy sản được nuôi trong môi trường an toàn hơn, hạn chế dịch bệnh, đáp ứng tốt hơn các tiêu chuẩn quốc tế.

Bên cạnh yếu tố môi trường, chi phí sản xuất cũng là mối quan tâm hàng đầu. Nano Bubbles có khả năng tiết kiệm

điện năng so với hệ thống sục

khí truyền thống, đồng thời giúp giảm chi phí thuốc men và nhân công xử lý sự cố. Với năng suất và chất lượng thủy sản được nâng cao, lợi nhuận của người nuôi cũng được cải thiện rõ rệt. Đây là bước đi tất yếu trong xu thế phát triển nông nghiệp công nghệ cao.

Giải pháp này rất hiệu quả trong việc cải thiện chất lượng nước, giảm thiểu việc thay nước và ngăn ngừa thất thoát các khoáng chất, từ đó gia tăng lợi nhuận. Đồng thời, nó còn giúp tăng cường khả năng kháng bệnh, giảm tỷ lệ hao hụt và nâng cao lợi nhuận.

Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu, các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản ngày càng đặt ra những tiêu chuẩn khắt khe hơn về chất lượng và an toàn thực phẩm. Việc áp dụng công nghệ Nano Bubbles không chỉ giải quyết bài toán sản xuất

trước mắt mà còn là chiến lược

dài hạn giúp ngành thủy sản

Việt Nam phát triển bền vững, giữ vững thương hiệu trên thị trường quốc tế.

 Có thể khẳng định, Nano Bubbles không còn là lựa

chọn mà là yêu cầu cấp thiết, giúp ngành thủy sản vượt qua thách thức, tối ưu hiệu quả và nâng cao giá trị trên toàn cầu.

Thông tin liên hệ: CÔNG TY TNHH B.H.N Số điện thoại: 028.668.101.95~96

Website: bhnenc.com

Email: bhnenc@gmail.com

Địa chỉ: Số DP-18 Dragon Parc2, KDC Phú Long, đường Nguyễn Hữu Thọ, xã Nhà Bè, TP Hồ Chí Minh

B.H.N

MỞ RỘNG QUY MÔ - KHẲNG ĐỊNH VỊ THẾ

New Hope Vĩnh Long khởi công xây dựng giai đoạn 2

Ngày 19 tháng 08 năm 2025, tại Khu công nghiệp Bình Minh (tỉnh Vĩnh Long), Công ty TNHH New Hope Vĩnh Long đã long trọng tổ chức Lễ Động Thổ, khởi công xây dựng giai đoạn 2, đánh dấu

bước tiến quan trọng trong chiến lược phát triển của New Hope Vĩnh Long, không chỉ mở rộng quy mô nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng, mà còn là minh chứng rõ nét cho sự phát triển của New Hope Vĩnh Long trong ngành thức ăn thủy sản.

Theo kế hoạch, giai đoạn

2 bao gồm việc xây dựng kho thành phẩm có diện tích gần

20.000 m², hiện đại và đạt tiêu chuẩn. Đồng thời, New Hope

Vĩnh Long cũng đầu tư nâng cấp thiết bị phục vụ sản xuất thức ăn tôm và đưa vào vận hành 2 dây chuyền sản xuất thức ăn

cá giống với công nghệ tiên tiến hàng đầu thị trường Việt

Nam. Những hạng mục mới này sẽ giúp công ty nâng cao năng lực sản xuất, mở rộng năng lực

lưu trữ, hướng đến mục tiêu sản lượng cung ứng hàng năm

là 300.000 tấn, tối ưu hiệu quả phân phối cùng nhiều dòng sản phẩm chiến lược, hỗ trợ người nuôi đạt được hiệu quả cao hơn trong nuôi tôm, cá. Đại diện New Hope Vĩnh Long, ông Vạn Tiến – Tổng giám đốc công ty phát biểu tại buổi lễ: “Xây dựng giai đoạn 2 chính là một bước tiến chiến lược, thể hiện quyết tâm của New Hope Vĩnh Long trong việc không ngừng nâng cao năng lực phục vụ cho khách hàng, đồng thời cũng là lời khẳng định New Hope Vĩnh Long đang trên đà

phát triển, tự tin hướng đến vị thế thương hiệu số 1 về thức ăn thủy sản tại Việt Nam. Chúng tôi tin rằng với dự án này, bà con sẽ được phục vụ tốt hơn, từ nguồn cung ứng kịp thời đến giải pháp nuôi trồng hiệu quả”.

Ông Đoàn Văn Bảo Trung –Giám đốc điều hành Gocons, đại diện Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng GOCONS – đơn vị thi công, chia sẻ: “Chúng tôi cam kết đảm bảo tiến độ, chất lượng công trình, tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn xây dựng, an toàn và môi trường. GOCONS rất vinh dự được đồng hành cùng New Hope Vĩnh Long trong dự án có ý nghĩa quan trọng này”. Trong bối cảnh nhu cầu ngày càng cao về nguồn thức ăn chất lượng, ổn định và đa dạng, minh chứng là sản lượng New Hope Vĩnh Long đã tăng gấp

đôi năm trước, việc New Hope Vĩnh Long đầu tư xây dựng giai

đoạn 2 không chỉ giải quyết vấn đề năng lực dự trữ mà còn giúp rút ngắn thời gian cung ứng, hạn chế rủi ro gián đoạn nguồn hàng trong mùa cao điểm.

Không chỉ dừng lại ở năng

lực kho bãi, dự án giai đoạn 2 còn mở ra cơ hội lớn để New

Hope Vĩnh Long dẫn đầu thị

trường Việt Nam về thức ăn

thủy sản. Với công nghệ tiên

tiến và danh mục sản phẩm ngày càng đa dạng, công ty hướng

đến mục tiêu giúp người nuôi

đạt được năng suất cao hơn, chi phí hợp lý hơn và lợi nhuận

bền vững hơn

Thành lập từ năm 2017, New Hope Vĩnh Long là công ty thuộc

Tập đoàn New Hope – một trong

những tập đoàn chăn nuôi và nông nghiệp hàng đầu thế giới.

Với tổng vốn đầu tư hơn 26 triệu

USD, sản phẩm bao gồm nhiều chủng loại thức ăn cho cá, tôm.

Điểm khác biệt của New Hope

Vĩnh Long là hệ thống quản lý chất lượng nghiêm ngặt, dây chuyền sản xuất hiện đại cùng

đội ngũ kỹ thuật chuyên môn cao. Công ty không chỉ cung cấp sản phẩm mà còn đồng hành cùng người nuôi trong suốt vụ nuôi, hướng đến lợi ích cao nhất

cho khách hàng.

Lễ Động Thổ khởi công xây dựng giai đoạn 2 lần này một lần nữa khẳng định chiến lược phát triển bền vững, gắn liền lợi ích của doanh nghiệp với cộng đồng nuôi thủy sản. Đây cũng là minh

chứng cho sự tăng trưởng không ngừng của New Hope Vĩnh Long sau hơn 8 năm hoạt động. Trong bối cảnh ngành thủy sản đứng trước nhiều cơ hội và thách thức, từ biến động thị trường xuất khẩu đến yêu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm, sự đầu tư bài bản của New Hope được xem như minh chứng cho lời khẳng định “khách hàng là trọng tâm, chất lượng là sinh mệnh”, cũng là bước quan trọng thúc đẩy ngành phát triển ổn định và bền vững.

NEW HOPE VĨNH LONG

Tìm hướng mở rộng thị trường tiềm năng

Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, giá trị xuất khẩu thủy sản tháng 8/2025 ước đạt 950 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu thủy sản 8 tháng đầu năm 2025 đạt 7,03 tỷ USD, tăng 11,5% so cùng kỳ năm trước.

Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản là 3 thị trường tiêu thụ hàng thủy sản lớn nhất của Việt Nam, chiếm thị phần lần lượt là 19,8%, 17,2% và 15,1%. So cùng kỳ năm trước, giá trị xuất khẩu hàng thủy sản 7 tháng đầu năm 2025 sang thị trường Trung Quốc tăng 44,1%, thị trường Mỹ tăng 8,5%, thị trường Nhật Bản tăng 9,7%. Trong nhóm 15 thị trường xuất khẩu lớn nhất, giá trị xuất khẩu hàng thủy sản tăng mạnh nhất ở thị trường Brazil với mức tăng 63,1% và giảm mạnh nhất ở thị trường Nga với mức giảm 2,6%.

Trong bối cảnh các thị trường truyền thống ngày càng khó khăn, ông Lê Thanh Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đề xuất, doanh nghiệp cần tìm hướng mở rộng sang các thị trường

C.P. VIỆT NAM

Năm thứ ba liên tiếp đồng hành cùng dự án “Thư viện

Container”

Tiếp nối hành trình kiến tạo những giá trị bền vững cho cộng đồng, ngày 5/9/2025, Công ty CP Chăn nuôi C.P. Việt Nam (CPV) đã phân phối hợp tác trao tặng “Thư viện Container” cho Trường Tiểu học Tân Lập, phường Tân Uyên, TP Hồ Chí Minh. Sự kiện đánh dấu dấu năm thứ ba liên tiếp CPV đồng hành cùng dự án ý nghĩa này, khẳng định cam kết mạnh mẽ của doanh nghiệp không chỉ phát triển trong lĩnh vực kinh doanh mà còn chú ý đến sự phát triển giáo dục và xã hội. Thư viện container được thiết kế để trở thành một không gian đọc sách thoải mái, sáng tạo, giúp các em học sinh có thể tiếp cận nguồn tri thức dồi dào. Với hàng trăm đầu sách đa dạng về thể loại, từ khoa học, lịch sử, văn học đến truyện tranh giáo dục, thư viện hứa sẽ trở thành điểm đến yêu thích, khơi dậy niềm đam mê đọc sách cho các em, giúp các em học sinh có thêm nguồn lực để khám phá thế giới tri thức rộng lớn hơn.

NGUYỄN AN

EVNSPC

Hỗ trợ tiết kiệm điện cho các hộ nuôi tôm

Trước sự bùng nổ về nhu cầu điện trong nuôi trồng thủy sản, Tổng công ty Điện lực miền Nam (EVNSPC) đã có những bước đi chiến lược. Ngoài cung cấp điện, EVNSPC còn chủ động triển khai các giải pháp tiết kiệm năng lượng cho người dân. Một trong những điểm nhấn là Đề án “Hỗ trợ tiết kiệm điện cho các hộ nuôi tôm tại khu vực ĐBSCL và một số tỉnh Nam Bộ giai đoạn 2016 - 2018” được thí điểm tại Sóc Trăng (nay là TP Cần Thơ). Giải pháp được đưa ra là thay thế gối đỡ chữ U bằng gối đỡ con lăn, kết hợp điều chỉnh đồng trục giữa động cơ và giàn quạt ôxy. Kết quả sau một vụ nuôi cho thấy, lượng điện tiêu thụ giảm hơn 30%. Giai đoạn 2017 - 2018, EVNSPC tiếp tục mở rộng mô hình này ra các tỉnh lân cận, đồng thời triển khai thêm Đề án “Nâng cao hiệu suất thiết bị điện” với mục tiêu vận động hộ nuôi thay thế động cơ cũ bằng động cơ hiệu suất cao, tiết kiệm thêm 8 - 10% điện năng tiêu thụ. LÊ LOAN

tiềm năng như: Trung Đông, châu Phi, Tây Á,... Đồng thời, cần định hướng xây dựng thương hiệu thủy sản Việt Nam một cách bài bản.

SAO TA Tập trung chuẩn bị các

HUYỀN THƯƠNG Ảnh: Trần Hiếu/VOV

Công ty CP Thực phẩm Sao Ta vừa công bố kết quả kinh doanh tháng 8/2025 với doanh số đạt 40,16 triệu USD, tăng 32% so cùng kỳ năm trước. Lũy kế 8 tháng đầu năm 2025, tổng doanh số tiêu thụ của doanh nghiệp ước đạt 214 triệu USD. Sao Ta sản xuất được 2.888 tấn tôm thành phẩm, bằng 84% so cùng kỳ năm trước; giảm nhẹ so tháng 7 đạt 3.545 tấn. Sản lượng tiêu thụ tôm thành phẩm đạt 11.452 tấn, tăng 37% so cùng kỳ. Doanh nghiệp cũng cho biết hoạt động nuôi tôm đang tiến hành cải tạo, chuẩn bị sẵn điều kiện cho vụ nuôi mới khi thời tiết thuận lợi trở lại. Hiện, Sao Ta đã có đủ đơn hàng cho đến cuối năm 2025. Với thị trường Mỹ, ban lãnh đạo chủ trương ký chọn lọc, tập trung vào khách hàng lâu năm nhằm hạn chế rủi ro thuế quan. Đồng thời, công ty đã trích lập dự phòng chi phí liên quan đến thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp và thuế đối ứng cho các lô hàng xuất khẩu sang Mỹ.

THANH HIẾU

GROBEST VIỆT NAM

Duy trì chuỗi livestream cùng chuyên gia

Hiện nay, ngày càng nhiều hộ nuôi tôm tìm đến mạng xã hội nhằm cập nhật kiến thức kỹ thuật và trao đổi kinh nghiệm nuôi nhằm tối ưu năng suất, tiết kiệm chi phí. Nắm bắt xu hướng đó, Grobest Việt Nam đã triển khai chuỗi livestream cùng chuyên gia nuôi tôm định kỳ hàng tháng trên fanpage và kênh YouTube chính thức, bắt đầu từ tháng 7/2024. Nhờ nhận được sự quan tâm và ủng hộ từ cộng đồng người nuôi, chương trình đã được duy trì đều đặn suốt hơn một năm qua. Chuỗi livestream mở ra một kênh kết nối mới, đưa thông tin kỹ thuật đến với hàng nghìn người nuôi trên cả nước nhanh chóng, dễ tiếp cận. Nội dung các buổi livestream bám sát những vấn đề đang diễn ra trong mùa vụ, giúp người nuôi có thể áp dụng ngay vào thực tế tại thời điểm phát sóng. Mỗi buổi phát sóng thường kéo dài khoảng 60 phút. Các chuyên gia lựa chọn nội dung sát với tình hình mùa vụ, để kiến thức truyền tải có thể được vận dụng ngay trong thời điểm phát sóng. DUY AN

GROWMAX

Top 10 Thương hiệu - Sản phẩm hàng đầu ASEAN 2025

Ngày 16/8/2025, trong khuôn khổ Lễ công bố ASEAN Award

2025 diễn ra tại thủ đô Singapore, Tập đoàn GrowMax đã vinh dự được xướng tên trong Top 10 Thương hiệu - Sản phẩm hàng đầu

ASEAN 2025, một trong những hạng mục cao quý nhất của giải thưởng năm nay. Giải thưởng ASEAN Award 2025 được tổ chức định kỳ nhằm tôn vinh các thương hiệu có đóng góp nổi bật cho sự phát triển kinh tế, công nghệ và cộng đồng trong khu vực Đông Nam Á. GrowMax đã xuất sắc vượt qua hàng trăm doanh nghiệp khu vực để khẳng định tên tuổi bằng chính năng lực thực tế và giá trị mà thương hiệu mang lại: từ chất lượng sản phẩm vượt trội mang lại hiệu quả kinh tế cho người nuôi, đến hệ thống hỗ trợ kỹ thuật bằng các quy trình, phương pháp nuôi tôm công nghệ cao mang lại hiệu quả cao nhất, được chuyển giao bởi các chuyên gia, kỹ sư giàu kinh nghiệm và khoa học của GrowMax. Đây cũng là lần thứ ba liên tiếp GrowMax được vinh danh trên đấu trường quốc tế.

Triển khai nuôi TTCT theo công nghệ Biofloc

Tỉnh Quảng Trị có nhiều tiềm năng để phát triển nghề nuôi tôm theo hướng bền vững. Trong bối cảnh đó, Công ty TNHH Hoàng Minh Nguyên triển khai dự án “Ứng dụng công nghệ Biofloc xây dựng mô hình nuôi TTCT (Litopenaeus vannamei) quy mô công nghiệp tại tỉnh Quảng Trị”, Trung tâm Quốc gia giống hải sản miền Bắc là đơn vị chuyển giao quy trình kỹ thuật. Dự án được kỳ vọng sẽ mở ra một hướng đi mới cho nghề nuôi tôm địa phương. Hiện, dự án hoàn thành 100% mục tiêu, ở mô hình tập trung, vượt các chỉ tiêu về sản lượng (đạt 55,12 tấn, vượt 10,2% so với mục tiêu), năng suất (từ 26,24 - 29,01 tấn/ha, vượt hơn 2,5 tấn/ha) và tỷ lệ sống (từ 79,8 - 80,2%). Công nghệ Biofloc chứng minh hiệu quả vượt trội, tăng năng suất, giảm chi phí và bảo đảm sản phẩm sạch. Mô hình mang lại lợi nhuận 1,57 tỷ đồng/ha/vụ (cao hơn từ 50 - 90% so với mô hình truyền thống), đồng thời tạo việc làm, nâng cao trình độ cho người dân và giảm ô nhiễm môi trường.

NGUYỄN HẰNG

SKRETTING VIETNAM

Đồng hành cùng Diễn đàn Tôm Toàn cầu 2025

Tại Diễn đàn Tôm Toàn cầu 2025 (Global Shrimp Forum - GSF 2025), ông Duco Onnes, Tổng Giám đốc Skretting Vietnam, đã tham gia với vai trò diễn giả trong phiên thảo luận “Xu hướng hàng hóa và tương lai của công thức thức ăn thủy sản”. Tại đây, ông Duco Onnes đã chia sẻ những góc nhìn về cách ngành thức ăn thủy sản vừa thích ứng với thực tế hiện tại, vừa thúc đẩy đổi mới và phát triển bền vững. Sự tham gia của ông thể hiện cam kết lâu dài của Skretting trong việc tìm ra các giải pháp cân bằng giữa hiệu quả, chi phí hợp lý và trách nhiệm với môi trường. Diễn đàn Tôm Toàn cầu là hội nghị quốc tế thường niên quy tụ các chuyên gia, nhà sản xuất, nhà chế biến, nhà bán lẻ và các nhà đầu tư để thảo luận về các thách thức và cơ hội trong ngành tôm toàn cầu. Năm nay, GSF diễn ra trong bối cảnh ngành tôm có dấu hiệu phục hồi ban đầu nhưng vẫn bị phủ bóng bởi những bất ổn toàn cầu.

THÁI THUẬN

HẢI ĐẠI VĨNH LONG Nâng cao chất lượng dịch vụ kỹ thuật ngành tôm

Ngày 17/8/2025, tại xã Đôn Châu, tỉnh Trà Vinh, Công ty TNHH Hải Đại Vĩnh Long phối hợp cùng Đại lý Thái Hùng long trọng tổ chức Lễ khai trương Trung tâm phục vụ kỹ thuật HaiD Trà Vinh - Chi nhánh Đôn Châu. Trung tâm được trang bị máy móc thiết bị hiện đại, đảm bảo khả năng phân tích, kiểm tra mẫu bệnh và môi trường nuôi một cách chính xác, kịp thời. Đặc biệt, đội ngũ kỹ thuật viên phòng Lab đều là những người có trình độ chuyên môn cao, giàu kinh nghiệm, sẵn sàng hỗ trợ bà con trong việc xử lý tình huống, khắc phục khó khăn trong nuôi tôm. Sự hiện diện của chi nhánh mới tại Đôn Châu được đánh giá sẽ trở thành “mắt xích quan trọng” trong hành trình chinh phục những thách thức ngày càng lớn của ngành tôm. Đây cũng là bước tiến thể hiện quan điểm nhất quán của Hải Đại Vĩnh Long về việc đầu tư chiều sâu cho hệ thống kỹ thuật, đưa các giải pháp khoa học công nghệ đến gần hơn với thực tiễn sản xuất.

DIỆU CHÂU

VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN I

Tham gia triển lãm A80

Sáng 28/8/2025, tại Trung tâm Triển lãm Quốc gia, đã diễn ra buổi lễ khai mạc Triển lãm Thành tựu phát triển kinh tế - xã hội nhân Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 (A80). Trong không gian triển lãm của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I đã giới thiệu: Các sản phẩm thủy sản tươi sống: cá Hô (10 kg), cá chép Tatar (4 kg), cá nheo sông (7 kg); Tuyển tập 22 tiến bộ kỹ thuật trong các lĩnh vực: công nghệ nuôi biển, nuôi thủy đặc sản, nuôi cá nước ngọtnước lạnh, cùng một số sách chuyên khảo. Việc tham gia triển lãm lần này có ý nghĩa quan trọng, góp phần lan tỏa hình ảnh ngành nuôi trồng thủy sản - lĩnh vực có đóng góp thiết thực cho nông nghiệp và đời sống. Các loài cá tươi sống được trưng bày đã mang đến cho khách tham quan sự thích thú, trải nghiệm sinh động và ấn tượng rõ nét về thành tựu khoa học công nghệ của Viện.

THẢO ANH

HTX CẨM PHẢ

Áp dụng công nghệ vào nuôi tôm

Hợp tác xã nuôi tôm công nghệ cao Cẩm Phả (HTX Cẩm Phả), xã Hải Hòa (tỉnh Quảng Ninh) đã ứng dụng thành công khoa học công nghệ vào sản xuất, cho sản lượng cao hơn gấp 20 lần so với nuôi thông thường. Việc nuôi TTCT công nghệ cao tại HTX chia thành 3 giai đoạn. Giai đoạn 1 (khoảng 25 ngày đầu tiên) tôm giống được ương nuôi trực tiếp trong nhà màng theo quy trình chăm sóc chặt chẽ để tôm phát triển; giai đoạn 2 (25 ngày tiếp theo), tôm được kích thích thức ăn phát triển trưởng thành; còn giai đoạn 3 là giai đoạn thu hoạch, ở giai đoạn này được duy trì lượng thức ăn, kiểm soát số lượng tôm trên diện tích nước. Khi tôm đạt tiêu chuẩn từ 25 - 30 con/kg HTX sẽ thu hoạch đưa ra thị trường. Hàng năm, HTX Cẩm Phả cung cấp từ 450 - 500 tấn TTCT ra thị trường. Thời gian tới, HTX sẽ mở rộng quy mô lên 120 ha nuôi TTCT, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.

DUY MẠNH

NAM CƯỜNG

Dễ nuôi, lãi lớn như tôm càng xanh

Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii de Man, 1879) có thể nuôi được ở nhiều mô hình khác nhau như: mương vườn, bán thâm canh, thâm canh trong ao hoặc ruộng lúa,... Vì vậy, đây là đối tượng đang được nhiều địa phương lựa chọn để phát triển kinh tế, tăng thu nhập cho các hộ dân.

Mô hình nuôi tôm càng xanh xen dừa mang lại hiệu quả bền vững c ho nông dân khu vực ĐBSCL Ảnh: ST

VietGAP cho tôm

Hải Phòng là thành phố thuộc khu vực phía Bắc có điều kiện thuận lợi phát triển nuôi thủy sản nước lợ, mặn và ngọt với tổng diện tích ước hơn 11.000 ha; với loài nuôi khá đa dạng, như: cá trắm cỏ, cá chép, cá rô phi, cá lăng, tôm càng xanh,... Riêng với tôm càng xanh, có thời gian phát triển khá mạnh, tuy nhiên, do trình độ kỹ thuật của người nuôi chưa cao, trong ao nuôi tỷ lệ tôm cái nhiều hơn tôm đực nên việc phát triển, mở rộng diễn ra chậm.

Trước thực trạng này, những năm qua, Trung tâm Khuyến nông Hải Phòng triển khai thí điểm mô hình nuôi tôm càng xanh tại một số địa phương, bước đầu mang lại

hiệu quả kinh tế, tạo thu nhập ổn định cho người nuôi. Điển hình, năm 2024, Trung tâm đã triển khai mô hình nuôi tôm càng xanh toàn đực hai giai đoạn gắn với liên

kết, tiêu thụ sản phẩm (nuôi tôm VietGAP) tại hộ ông Phạm Văn Nhiêu (xã Tiên Minh) với quy mô 0,7 ha.

Theo bà Nguyễn Thị Thanh, Trưởng phòng Chuyển giao Kỹ thuật thủy sản (Trung tâm Khuyến nông Hải Phòng), nuôi tôm hai giai đoạn có nhiều ưu điểm như ao ương có diện tích nhỏ nên dễ quản lý, con giống đạt kích cỡ lớn trước khi thả nuôi, rút ngắn thời gian nuôi, giảm sức tải môi trường, đáy ao, nâng cao mật độ, năng suất, sản lượng, giảm thiểu dịch bệnh, giảm chi phí và rủi ro. Mô hình này cũng giúp rút ngắn thời gian nuôi, từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích. Bên cạnh đó, mô hình đã tạo hướng đi, cách làm mới, thân thiện với môi trường, gia tăng lựa chọn cho nông dân trong hoạt động sản xuất. Người dân hoàn toàn có thể áp dụng để đưa vào sản xuất đại trà.

Tôm xen dừa

Tỉnh Vĩnh Long - địa phương có diện tích trồng dừa lớn nhất cả nước, hiện nhiều hộ nông dân đã mạnh dạn áp dụng mô hình nuôi tôm càng xanh xen trong vườn dừa, mang lại hiệu quả kinh tế cao 2 - 3 lần so với vườn chuyên canh cây dừa.

Ông Nguyễn Văn Tài, xã Giồng Trôm, tỉnh Vĩnh Long cho biết, gia đình có 5.000 m2 đất trồng dừa; trong đó diện tích mặt nước (mương vườn) chiếm hơn 1/3. Nhiều năm qua, mương vườn dừa chủ yếu dùng để giữ nước tưới, thoát phèn mặn không mang lại lợi ích kinh tế. Qua tìm hiểu nhiều nơi về kỹ thuật nuôi tôm càng xanh trong mương vườn nên ông Tài mạnh dạn cải tạo mương, rồi giăng lưới đặt hom để dụ nguồn tôm giống tự nhiên vào trong mương vườn để nuôi. Bên cạnh đó, ông Tài thả thêm 2.000 con tôm càng xanh giống toàn đực. Nguồn thức ăn cho tôm chủ yếu là cơm dừa từ những quả dừa không đạt chất lượng không bán được cho thương lái và cám gạo sẵn có. Theo ông Tài, nuôi tôm càng xanh chi phí thấp, nếu khai thác được nguồn con giống tự nhiên thì lợi nhuận càng cao hơn. Lợi thế tôm giống từ thiên nhiên sức đề kháng tốt, ít bệnh. Thời gian nuôi tôm khoảng hơn 10 tháng là thu hoạch. Tuy nhiên, ông Tài chọn cách thu hoạch tỉa thưa chọn tôm lớn đạt trọng lượng 150 - 200 g/ con (loại I) thu hoạch bán cho thương lái với giá cao.

Ông Nguyễn Văn Ngôi, một chủ vườn dừa nuôi xen canh tôm càng xanh ở xã Giồng Trôm cho biết, bình quân, 1 ha nuôi xen tôm càng xanh có thể mang lại lợi nhuận từ 7080 triệu đồng/năm, cao gấp đôi so với trồng dừa thuần. Mặt khác, tán dừa che mát giúp giảm nhiệt độ nước, phát triển vi sinh vật tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm, giảm chi phí xử lý môi trường. Đồng thời, phần lá dừa rụng tạo nguồn hữu cơ tự nhiên, hỗ trợ hệ sinh thái ao nuôi, giúp nông dân giảm chi phí thức ăn cho tôm.

VÂN ANH

NUÔI TÔM TRONG NHÀ

Cơ hội và thách thức từ

RAS, BFT

Hai công nghệ nuôi tôm hiện đại gồm hệ thống tuần hoàn nước (RAS) và công nghệ Biofloc (BFT)

đều có tiềm năng lớn nhưng đi kèm những thách thức riêng, đòi hỏi cân nhắc kỹ lưỡng về mục

tiêu sản xuất và nguồn lực.

Một nghiên cứu toàn diện vừa được công

bố trên tạp chí Aquacultural Engineering đã phân tích hiệu quả của hai công nghệ nuôi trồng thủy sản tiên tiến: Hệ thống tuần hoàn

nước (RAS) và công nghệ Biofloc (BFT) nuôi TTCT (Litopenaeus vannamei) trong nhà.

Nghiên cứu so sánh chi tiết hai mô hình về

hiệu quả, tính bền vững, khả năng kinh tế, đồng thời nêu rõ những thách thức hiện tại và định hướng cho nghiên cứu tương lai.

Áp lực phát triển bền vững

Ngành nuôi trồng thủy sản hiện là lĩnh

vực sản xuất thực phẩm phát triển nhanh

nhất thế giới. Trong đó, TTCT đóng vai trò

chủ lực nhờ nhu cầu tiêu thụ cao, khả năng

thích nghi tốt, giá trị kinh tế lớn và chịu được dải độ mặn rộng.

Tuy nhiên, việc nuôi TTCT cũng đối mặt với nhiều thách thức. Quản lý dịch bệnh vẫn là trở ngại lớn, từng gây sụp đổ sản xuất tại Đài Loan, Ecuador bởi các mầm bệnh nguy hiểm. Việc lạm dụng kháng sinh không những kém hiệu quả mà còn làm gia tăng tình trạng kháng kháng sinh, đe dọa sức khỏe cộng đồng. Bên cạnh đó, xử lý nước thải, thiếu nguyên liệu thức ăn, hạn chế nguồn giống chất lượng cao và khủng hoảng thiếu nước toàn cầu đặt ra yêu cầu cấp bách về các hệ thống nuôi tiết kiệm nước, thân thiện môi trường.

Lối đi mới cho nuôi tôm trong nhà

Nghiên cứu chỉ ra RAS và BFT là những hướng đi đầy hứa hẹn. RAS hoạt động bằng cách tái sử dụng nước qua hệ thống lọc sinh học, lọc chất rắn và khử trùng bằng tia UV. Mô hình này duy trì môi trường nuôi ổn định, giảm tiêu thụ nước và tác động môi trường, cho phép sản xuất quanh năm với khả năng kiểm soát dinh dưỡng và dịch bệnh tốt hơn.

BFT lại tận dụng vi sinh vật có lợi để chuyển hóa chất thải thành các “biofloc” giàu protein, vừa là nguồn thức ăn bổ sung, vừa kích thích miễn dịch, tăng hoạt tính enzyme tiêu hóa và cải thiện sức khỏe tổng thể của tôm. Đây được đánh giá là giải pháp tiết kiệm chi phí, thân thiện môi trường.

Nghiên cứu được thực hiện thông qua phương pháp tổng quan hệ thống, tuân thủ khung PRISMA, với nguồn dữ liệu từ Scopus và PubMed nhằm đảm bảo độ minh bạch và tính khoa học.

Về lịch sử, nghiên cứu cơ bản về RAS đã bắt đầu từ Nhật Bản những năm 1950, trong khi BFT mới nổi lên gần đây như một công nghệ cải tiến hiệu quả nuôi trồng, nâng cao an toàn sinh học và tái chế nước thải.

Triển vọng tương lai

Phân tích chỉ ra RAS là hệ thống trên cạn, dễ kiểm soát, phù hợp các khu vực thiếu nước hoặc có quy định xả thải nghiêm ngặt, hỗ trợ nuôi mật độ cao. Tuy nhiên, nhược điểm lớn là vốn đầu tư và chi phí vận hành cao, phụ thuộc thiết bị hiện đại và tiêu tốn nhiều năng lượng, hạn chế

Ngược lại, BFT được đánh giá cao nhờ cải thiện miễn dịch, tăng trưởng, hiệu quả chuyển đổi thức ăn, giảm chi phí và thân thiện môi trường. Song, việc duy trì cân bằng hệ vi sinh rất phức tạp, nước thường có độ trong thấp, đòi hỏi trình độ quản lý cao. Nghiên cứu cũng nhấn mạnh: chi phí thiết bị, lắp đặt và vận hành RAS cao, cần kỹ thuật viên chuyên môn nên chủ yếu phát triển ở các nước giàu. Với BFT, việc kiểm soát cộng đồng vi sinh bị chi phối bởi nguồn carbon, tỷ lệ C/N,... khiến quản lý trở nên phức tạp.

Trong tương lai, các nhà khoa học đề xuất tích hợp công nghệ hiện đại như Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn, điện toán đám mây, 5G, robot, cảm biến tại chỗ và hình ảnh vệ tinh để nâng cao mức độ tự động hóa, giảm chi phí vận hành và gia tăng hiệu quả cũng như tính bền vững của RAS và BFT.

Phân tích hệ thống cho thấy cả RAS và BFT đều là lựa chọn khả thi nhưng khác biệt cho nuôi tôm trong nhà. Việc lựa chọn tối ưu phụ thuộc vào kinh nghiệm quản lý, mục tiêu sản xuất và nguồn lực sẵn có.

DŨNG NGUYÊN (Theo Seafoodmedia)

Biện pháp giúp tôm lột xác đều

Lột xác là hiện tượng diễn ra trong suốt quá trình nuôi, đóng vai trò quan trọng cho một mùa vụ thành công. Điều mong muốn của người nuôi tôm là sau mỗi lần lột xác, tôm tăng trưởng về cả kích thước và trọng lượng. Để làm được điều đó, người nuôi cần nắm vững các kiến thức về dinh dưỡng, môi trường, cũng như các yếu tố có thể ảnh hưởng đến chu kỳ lột xác của tôm nuôi.

Quản lý thức ăn

Chế độ dinh dưỡng là một trong những

nguyên nhân chủ yếu làm tôm khó lột xác.

Tôm thiếu dinh dưỡng sẽ không đủ chất để làm đầy vỏ nên vỏ không bị nứt ra để lột xác.

Để tôm lột xác tốt cần cho tôm ăn đủ lượng thức ăn có hàm lượng đạm tổng số 32 - 45%.

Cho tôm ăn khẩu phần phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Cùng đó, điều chỉnh thức ăn trong ngày qua theo dõi lượng thức ăn thừa trên sàng ăn. Chuyển đổi thức ăn phù hợp theo giai đoạn phát triển, cỡ miệng tôm và nhu cầu dinh dưỡng theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Khi chuyển đổi thức ăn, nên trộn lẫn 2 loại thức ăn cũ và mới cho ăn ít nhất 3 ngày. Ngoài ra, sau khi tôm lột xác, chúng sẽ bắt đầu một quá trình tích lũy dinh dưỡng cho một chu kỳ lột xác mới. Vì vậy, trong khẩu phần ăn của tôm cần bổ sung các vitamin, protein đậm đặc, sử dụng thức ăn chất lượng sẽ giúp cơ thể tôm trở lại với

điều kiện tối ưu và ngăn cản các tác động xấu đến tôm khi có sự thay đổi đột ngột của các điều kiện môi trường.

Bổ sung khoáng chất

Vỏ tôm với hai thành phần chính: 55% khoáng vô cơ và 45% còn lại gồm chitin.

Do đó, khoáng chất rất cần cho tôm trong suốt quá trình sống và phát triển. Đặc biệt, đối với tôm nuôi trong ao lượng khoáng chất không dồi dào như trong môi trường tự nhiên thì hàm lượng chất khoáng hòa tan có trong ao là yếu tố quan trọng giúp tôm lột xác đồng đều và tái tạo nhanh lớp vỏ mới.

Vì vậy, để tôm lột xác đều, cần cung cấp đầy đủ chất khoáng cần thiết, đặc biệt với TTCT. Khoáng sử dụng trong nuôi tôm có hai dạng: khoáng đa lượng bao gồm các khoáng chất đươc cung cấp dưới dạng hợp chất như MgSO4, CaCl2, MgCl2 hoặc vôi, muối ăn,... Loại này được sử dụng để đánh trực tiếp vào nước. Loại thứ hai là khoáng vi lượng bao gồm: Fe, Mn, Cu, Zn,… phối trộn ở dạng bột hoặc nước dùng để trộn với thức ăn. Tôm nuôi thường lột xác vào ban đêm vì vậy nên bổ sung chất khoáng vào bữa ăn chiều cho tôm.

Ngoài ra, đối với ao nuôi mật độ cao khi tôm lột xác đồng loạt, khoáng chất trong môi trường giảm đột ngột. Nhưng khoáng chất lại là yếu tố cũng không thể thiếu cho tảo. Do đó, nếu ao nuôi có tảo dày, nguy cơ tảo tàn đột ngột từ 1 - 3 ngày sau khi lột đồng loạt sẽ làm môi trường

nuôi trở nên xấu đi nhanh chóng và có thể làm tôm nhiễm bệnh nguy hiểm do vi khuẩn và khí độc. Vì vậy, tùy thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng ao để bổ sung khoáng một cách phù hợp trước, trong và sau khi lột xác.

Ổn định môi trường

Môi trường nuôi không tốt sẽ ức chế quá trình lột xác của tôm. Vì vậy, người nuôi cần chú ý đến chỉ số môi trường, đảm bảo nằm trong ngưỡng thích hợp cho tôm. pH: Là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến quá trình lột xác của tôm. Độ pH trong ao thích hợp để tôm lột xác tốt nhất pH 7,5 - 8. Để ổn định pH cần duy trì độ trong của nước ao nuôi từ 30 - 40 cm. Nếu pH < 7,5 cần bón vôi (CaCO 3, Dolomite) với liều 10 - 20 kg/1.000 m 3; pH > 8,5 thì sử dụng mật rỉ đường với lượng 3 kg/1.000 m 3, kết hợp sử dụng vi sinh, liều lượng và cách sử dụng theo hướng dẫn nhà sản xuất.

Hàm lượng ôxy hòa tan: Trong quá trình lột xác, nhu cầu ôxy của tôm cao gấp đôi nên khi thấy tôm có dấu hiệu chuẩn bị lột xác cần tăng cường quạt nước, sục khí để bổ sung hàm lượng ôxy hòa tan. Duy trì

 Lớp vỏ tôm là phần cứng bao bọc cơ thể và bảo vệ thân tôm. Là loài giáp xác, để phát triển và tăng trưởng về

kích thước, trọng lượng, tôm cần diễn ra quá trình lột vỏ thường xuyên.

Thông thường sẽ mất 1 - 2 ngày để lớp vỏ mới trở nên cứng cáp hơn.

hàm lượng ôxy trong ao khoảng 4 - 6 mg/L trong suốt quá trình lột xác của tôm.

Độ mặn: Độ mặn trong ao nuôi cũng

ảnh hưởng đến quá trình lột xác của tôm.

Độ mặn cao, lượng khoáng chất lớn giúp

tôm lột xác dễ dàng và nhanh cứng vỏ. Ao nuôi thiếu khoáng sẽ làm tôm khó lột vỏ, mềm vỏ. Vì vậy, đối với những ao nuôi tôm

có độ mặn thấp thì phải tăng cường việc

bổ sung khoáng cho tôm. Tuy nhiên, nếu

độ mặn tăng cao hơn 25‰, vỏ tôm thường dày và cứng, kéo dài thời gian lột xác của tôm. Người nuôi cần lưu ý để nuôi tôm theo đúng thời vụ và vùng quy hoạch theo khuyến cáo.

Độ kiềm: Kiềm trong nước quá thấp làm

tôm khó lột vỏ, lâu cứng vỏ. Trong quá trình sinh trưởng, tôm cần rất nhiều khoáng nên phải duy trì độ kiềm từ 120 mg CaCO3/L trở lên. Bằng cách sử dụng vôi và bổ sung khoáng 3 - 5 ngày/lần vào ban đêm, giúp tôm nhanh cứng vỏ và lột xác đồng loạt.

Thực hiện lấy mẫu thường xuyên

Tiến hành lấy mẫu định kỳ để theo dõi quá trình lột xác của tôm sẽ giúp người nuôi có thể quan sát xem những con tôm nào đã bắt đầu mềm hoặc lột bỏ lớp vỏ cũ, cũng như những con đã phát triển lớp vỏ mới. Việc lấy mẫu thường xuyên sẽ giúp ước lượng giai đoạn lột xác của tôm và thực hiện các điều chỉnh cần thiết, từ đó đảm bảo quá trình lột xác diễn ra một cách suôn sẻ và hiệu quả.

Hạn chế dịch bệnh trên tôm

Tôm bị mắc một số bệnh như: nấm, đóng rong, tôm còi,… cũng khiến cho quá trình

lột xác diễn ra chậm, thậm chí tôm không

thể lột vỏ. Để hạn chế vi khuẩn gây bệnh tấn công, người nuôi cần bổ sung chế phẩm sinh học thường xuyên trong ao vào thời

điểm lột xác và cho ăn men tiêu hóa ngay sau khi lột. Cùng đó, thường xuyên theo dõi

sức khỏe của tôm, nếu phát hiện dấu hiệu

bất thường cần thực hiện các biện pháp xử lý kịp thời.

THANH HIẾU

Vai trò của tỏi trong nuôi tôm

Sử dụng tỏi trong nuôi tôm giúp kích thích hệ miễn dịch, tăng sức đề kháng, cải thiện tiêu hóa và phòng ngừa các bệnh đường ruột như bệnh phân trắng nhờ hoạt chất Allicin kháng khuẩn, kháng virus, kháng nấm.

Kháng sinh tự nhiên

Tỏi có tên gọi khoa học là Allium sativum, ngoài công dụng là một loại gia vị không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày thì tỏi còn được biết đến là một chất kháng sinh tự nhiên cho tôm. Tỏi có chứa Allin, một axit hữu cơ; khi bị đập dập sẽ kết hợp với Allicinase có trong tỏi để tạo thành Allicin. Allicin có khả năng kháng khuẩn và nấm. Chất Allicin có khả năng kháng khuẩn bằng 1/5 thuốc Peniciline và bằng 1/10 thuốc Oxytetracycline. Tỏi cũng có công hiệu để trị bệnh sán, giun kim, các bệnh nấm,… Trong tỏi còn chứa diallyl disulfide; chất này không những mạnh hơn hai dòng kháng sinh thường đang dùng trong nuôi trồng thủy sản là Erythromycin, Ciprofloxacin mà còn có tác dụng nhanh hơn.

Sử dụng tỏi trong điều trị bệnh không những hạn chế sử dụng thuốc kháng sinh, nó còn hạn chế hiện tượng kháng thuốc của vi khuẩn. Một lợi thế lớn nhất của việc sử dụng tỏi đó là chi phí thấp, tạo ra sản phẩm đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm. Ưu điểm nữa của việc sử dụng tỏi đó là dễ tìm kiếm ngoài tự nhiên hoặc người dân có thể tự trồng được. Đối với tôm, tỏi có tác dụng trong việc phòng trị bệnh đường ruột. Tỏi kích thích quá trình thực bào, đại thực bào. Bổ sung tinh dầu tỏi cho tôm có thể giúp tăng chỉ số hồng cầu, lượng hemoglobin, bạch cầu và tiểu cầu. Như vậy tỏi có thể dùng trong nuôi tôm như một chất thay thế kháng sinh và các yếu tố trị liệu hóa học. Tỏi có khả năng ức chế, thậm chí kháng vi khuẩn gây bệnh, ký sinh trùng và cả virus, hỗ trợ tăng cường hệ miễn dịch cho động vật thủy sản.

Sử dụng

Người nuôi có thể sử dụng tỏi giã trực tiếp cho ăn định kỳ để phòng bệnh. Giã nhuyễn 10 - 15 g tỏi sau đó trộn với 1 kg thức ăn, ngâm 5 - 10 phút rồi cho tôm ăn. Tần suất mỗi tháng 1 đợt ăn, mỗi đợt từ 3 - 5 ngày. Hoặc cũng có thể sử dụng rượu tỏi bằng cách giã nhuyễn 1 kg tỏi tươi, sau 15 phút cho vào bình chứa 1 L rượu 450, đậy kín nắp bình. Sau 5 - 7 ngày lọc lấy nước, trộn cho tôm ăn sẽ giúp tôm có đường ruột khỏe, hạn chế mắc bệnh phân trắng nguy hiểm. Liều lượng được khuyến cáo là 10 mL trộn với 1 kg thức ăn, ngày cho ăn 3 cữ, tôm 10 ngày tuổi trở đi là có thể dùng được. Nên sử dụng rượu tỏi đủ thời gian ngâm, không nên ngâm quá lâu.

Tuy nhiên, cần lưu ý, không nên cho tôm ăn quá nhiều tỏi trong một lúc, chúng sẽ làm hệ tiêu hóa của tôm có thể bị rối loạn nhất là cho ăn lúc đói.

Không nên nấu chín tỏi vì ở nhiệt độ cao hoạt chất Allicin sẽ phân hủy và giảm tác dụng (Allicin kém bền, không tồn tại lâu trong điều kiện môi trường bên ngoài).

Tỏi có khả năng diệt khuẩn vì vậy các lợi khuẩn cũng có thể bị tiêu diệt, nên bổ sung thêm men vi sinh đường ruột để các lợi khuẩn có nhiều hơn, bảo đảm hệ miễn dịch tôm tốt.

Nếu dùng tỏi trộn với các loại thuốc, men nên tìm hiểu và tham khảo trước tránh các tác dụng đối ngược nhau ảnh hưởng lên tôm.

LÊ LOAN

Tỏi có thể dùng trong nuôi tôm như một chất thay thế kháng sinh Ảnh: Biogency

Bệnh

Phòng chống bệnh đốm trắng

Bệnh đốm trắng (White Spot Disease - WSD) là mối đe dọa nghiêm trọng cho ngành nuôi tôm toàn cầu do tỷ lệ chết cao và không có thuốc đặc trị. Vì vậy, thực hiện tốt các biện pháp phòng bệnh là cực kỳ quan trọng.

Kiểm tra con giống

Việc xét nghiệm con giống trước khi thả nuôi là cực kỳ quan trọng và có thể thực hiện được ở các trang trại nhỏ nhằm kiểm soát bệnh đốm trắng trên tôm. Theo kết quả của một số nghiên cứu trên thế giới, kiểm tra con giống trước khi thả nuôi giúp giảm thiểu các tổn thất liên quan đến bệnh đốm trắng trên tôm. Cụ thể, tỷ lệ sống của tôm giống đã được xét nghiệm cao hơn đáng kể so với tôm chưa được xét nghiệm, đồng thời, tỷ lệ mắc bệnh cũng thấp hơn và sản lượng tôm cao hơn so với tôm chưa được xét nghiệm.

Vì vậy, người nuôi cần lựa chọn nguồn giống sạch bệnh. Nguồn giống phải không mang virus khi thả vào ao nuôi và cũng không phải là nguồn chứa virus. Để chọn tôm giống sạch bệnh, cần lựa chọn tôm từ các cơ sở uy tín, tôm bố mẹ có nguồn gốc rõ ràng và đã được xét nghiệm bệnh. Khi nhận

tôm, quan sát tôm, nếu tôm khỏe mạnh sẽ bơi nhanh nhẹn, phản ứng nhanh khi có tác động (gõ nhẹ vào thành dụng cụ chứa), và có xu hướng bơi ngược dòng. Tôm có màu sắc tươi sáng, vỏ không có các đốm lạ hay dị hình, gan tụy to và có màu sắc đồng nhất. Ngoài ra, có thể kiểm tra sức khỏe tôm bằng cách gây sốc môi trường hoặc thử nghiệm tỷ lệ sống sau khi sốc độ mặn để đảm bảo tôm khỏe mạnh và thích nghi tốt với môi trường ao nuôi, giảm thiểu rủi ro dịch bệnh và tăng năng suất.

Tuân thủ quy trình xử lý nước

Trong các yếu tố đầu vào, nguồn nước dành cho nuôi tôm là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến quy trình nuôi, trong nguồn nước thường có những mối nguy như: Chứa các vi sinh vật gây hại, trứng của các loại sinh vật biển khác; Ký chủ trung gian ngoài môi

trường; Các thông số của nguồn nước không nằm trong khoảng thích hợp cho tôm sinh trường và phát triển.

Do đó, nên có ao lắng để xử lý nước trước khi đưa nước vào ao nuôi, nước cấp vào ao nuôi phải được lọc qua lưới dày để không cho cá tạp và những vật mang mầm bệnh vào ao. Thông thường, diện tích ao lắng chiếm khoảng 1/3 diện tích ao nuôi và có độ sâu hơn ao nuôi từ 0,5 - 1 m. Trước khi đưa vào nuôi tôm nguồn nước phải được đảm bảo các thông số kỹ thuật: pH 7,5 - 8,5; ôxy hòa tan > 5 mg/L; độ kiềm > 80 mg/L; độ mặn 15 - 25‰. Để đảm bảo các thông số trên, người nuôi cần có quy trình xử lý nước đầu vào hiệu quả. Hiện nay, có nhiều phương pháp xử lý nước đầu vào như: lọc cơ học, lọc sinh học, xử lý bằng hóa học. Trong đó, lọc sinh học đang là giải pháp được nhiều người nuôi lựa chọn.

Ngăn chặn virus xâm nhập

Sự lây nhiễm thông qua các vật mang mầm bệnh như cua hoặc chim có thể mang các vật nhiễm bệnh giữa các ao như ăn tôm chết vào bụng và nhả ra khi chuyển qua ao khác. Vì vậy, cần có lưới để ngăn chim, hàng rào ngăn động vật sẽ giúp hạn chế lây lan dịch bệnh từ vùng này đến vùng kia hoặc từ ao nuôi này sang ao nuôi khác.

Bên cạnh đó, trong giai đoạn nuôi thương phẩm các loại thức ăn công nghiệp, chế phẩm sinh học, thuốc trị bệnh cũng là những yếu tố đầu vào cần được quản lý chặt chẽ, vì chúng cũng tồn tại nhiều mối nguy về an toàn sinh học như hết hạn sử dụng, ẩm mốc, nhiễm bệnh từ các loài trung gian như chuột, gián, thậm chí có thể có virus.

Để quản lý các mối nguy có thể phát sinh từ những vật tư nông nghiệp đầu vào, người nuôi cần lưu ý: Bảo quản vật tư, đặc biệt là thuốc, hóa chất và thức ăn theo hướng dẫn của nhà cung cấp. Các điều kiện cần chú ý nhất là nhiệt độ và độ ẩm, nếu để trong điều

kiện nhiệt độ quá cao, độ ẩm cao thì ảnh hưởng lớn đến chất lượng của sản phẩm. Trong khu vực nuôi, phải đảm bảo thuốc, thức ăn, có kho chứa và để ở vị trí phù hợp.

Vệ sinh khử trùng các phương tiện ra vào trại nuôi để hạn chế tối đa lây lan mầm bệnh từ môi trường ngoài. Sử dụng các dụng cụ

như lưới, xô chứa thức ăn, dụng cụ lấy mẫu riêng cho từng ao để tránh rủi ro lây nhiễm mầm bệnh giữa các ao nuôi.

Áp dụng công nghệ nuôi trong nhà lưới sẽ hạn chế việc tiếp xúc trực tiếp giữa ao nuôi với các vật chủ trung gian mang mầm bệnh. Ngoài ra, các lớp lưới sẽ hạn chế ánh sáng trực tiếp xuống ao nuôi giúp giảm việc phát sinh tảo độc trong ao nuôi tôm.

Lựa chọn mô hình nuôi

thích hợp

Việc áp dụng các quy trình nuôi tôm tiên tiến - trong đó có quy trình nuôi tôm dùng chế phẩm sinh học và quy trình nuôi tôm theo công nghệ biofloc đã được chứng minh là có tác dụng rất lớn nhằm phòng, chống bệnh đốm trắng cho tôm nuôi. Hoặc người nuôi có thể lựa chọn mô hình nuôi ghép vừa đảm bảo phù hợp kinh tế và quản lý cũng mang lại hiệu quả cao như: mô hình nuôi ghép tôm sú với cá đối, cá trắm cỏ; tôm ghép cá rô phi; tôm ghép cá đối mục hay tôm ghép cá măng,…

Xử lý ao có tôm bị bệnh

Đối với ao nuôi bị bệnh đốm trắng có tôm chết ít, tiến hành thu tôm trong vòng 1 - 2 ngày nếu tôm đạt kích cỡ thu hoạch. Sau đó, cần thực hiện biện pháp cách ly ngay (đóng chặt cống; không cho nước vào và ra ngoài).

VietGAP trong nuôi trồng thủy sản

Việt Nam

 Người nuôi cần chú trọng khâu nâng cao sức đề kháng cho tôm, sử dụng thức ăn chất lượng cao, cho tôm ăn bổ sung các loại enzyme, vitamin, chất khoáng vi lượng,…

Sau khi thu tôm, khử trùng nước và dụng cụ bằng Chlorine nồng độ 40 ppm. Giữ nước sau khi xử lý Chlorine ít nhất 7 ngày trước khi xả ra môi trường. Dụng cụ và quạt

nước dùng trong ao phải được phun xịt bằng nước hòa Chlorine với nồng độ 1.600 ppm hoặc nếu có thể thì ngâm trong nước hòa tan 40 ppm Chlorine trong ít nhất 3 ngày. Nếu tôm chưa đạt cỡ thu hoạch, tôm

chết nhiều (80 - 100%) thì nên vớt hết tôm

chết đem tiêu hủy, sử dụng Chlorine nồng

độ 40 ppm. Trong trường hợp tôm chưa chết hết thì tái xử lý Chlorine nồng độ 100 ppm. Ao tôm bị bệnh đốm trắng, người nuôi không nên vội vàng cải tạo để thả nuôi ngay, mà nên cho ao nghỉ khoảng 1,5 - 2 tháng để

cắt đứt nguồn bệnh và tái tạo lại môi trường nền đáy. Thời gian ao nghỉ nên thả cá rô phi để chúng tiêu diệt hết những loài ký chủ trung gian mang mầm bệnh còn sót lại.

NGUYỄN HẰNG

Tép Ong

Bộ NN&PTNT (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) ban hành “Quy phạm thực hành nuôi trồng thủy sản tốt tại Việt Nam - gọi tắt là VietGAP”, với mục tiêu là: An toàn sức khỏe người sử dụng; An toàn sức khỏe thủy sản nuôi; An toàn môi trường bên ngoài (do hoạt động nuôi, trồng gây ra); An sinh xã hội; và Thực hành truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Nhằm góp phần đẩy nhanh tiến độ và hiệu quả của VietGAP trong nuôi trồng thủy sản, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia tổ chức xây dựng và xuất bản cuốn sách “VietGAP trong nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam” làm tài liệu để tập huấn cho cán bộ khuyến nông; đào tạo giảng viên VietGAP trong nuôi trồng thủy sản; Cuốn sách cũng là tài liệu tham khảo cho cán bộ quản lý nhà nước về nuôi, trồng thủy sản; Giảng viên các trường có chuyên ngành thủy sản; và người nuôi trồng thủy sản.

Sách do Nhà xuất bản Nông nghiệp phát hành!

NGUYỄN AN

Tép Ong (Caridina cantonensis) là một loài tép cảnh nhỏ thuộc chi Caridina, có nguồn gốc từ miền Nam Trung Quốc, được phân bố rộng rãi ở nhiều nước châu Á. Đây là loài

được ưa chuộng làm thú cưng thủy sinh vì vẻ đẹp độc đáo và màu sắc đa dạng. Loài tép này có nhiều biến thể được lai tạo như Crystal Red (ong đỏ) hay Crystal Black (ong đen) với các sọc trắng, đen, đỏ hoặc vàng. Tép Ong có kích thước khoảng 2 - 3 cm, có thể sống được khoảng 1 - 2 năm nếu nuôi trong môi trường lý tưởng. Chúng yêu cầu môi trường nước sạch, nhiệt độ mát mẻ (21 - 26°C), pH ổn định và tránh thay nước quá nhiều cùng lúc. Tép Ong ăn các loại tảo mục nát và mảnh thực vật nhỏ. Đây là loài hiền lành, thích sống theo đàn và khá nhút nhát, thường ẩn mình trong cây thủy sinh hoặc các vật trang trí. Nên chọn bể có không gian đủ rộng để tép di chuyển và có các vật trang trí, cây thủy sinh để làm nơi ẩn nấp. NAM CƯỜNG

 BÁCH KHOA THƯ
 SÁCH KỸ THUẬT

HỎI

- ĐÁP

 Hỏi: Tôm nuôi được hai tháng có dấu hiệu lờ đờ, bỏ ăn, thân xuất hiện các đốm đen nhỏ, tôm bị mòn đuôi, cụt râu. Hỏi nguyên nhân và biện pháp khắc phục?

(Nguyễn Đoàn, xã Giao Ninh, tỉnh Ninh Bình)

Trả lời:

Theo mô tả có thể tôm đã mắc bệnh đốm đen. Bệnh do các loài vi khuẩn có hại trong ao nuôi gây ra. Những loài vi khuẩn này có khả năng tiết ra các chất có khả năng ăn mòn lớp vỏ chitin của tôm. Chúng thường phát triển mạnh ở các ao có tình trạng giàu dinh dưỡng (ô nhiễm) và tích tụ nhiều loại khí độc như NH3, NO2 và H2S, hàm lượng ôxy hòa tan trong nước thường thấp. Ngoài vi khuẩn, nhiều nhóm sinh vật khác như động vật nguyên sinh, nấm cũng có thể xâm nhập và gây tổn thương vỏ tôm. Khi phát hiện tôm có dấu hiệu bị bệnh, cách điều trị tôm bị đốm đen như sau: Nâng pH trong ao lên trên 8 và dưới 9; Tăng cường quạt khí; Giảm 10 - 30% lượng thức ăn cho tôm ăn; Diệt khuẩn ao nuôi bằng các sản phẩm phù hợp như: Virkon A, BKC, IODINE,…; Sử dụng lại 2 - 3 lần tùy theo diễn biến bệnh của tôm. Sau 36 - 48 giờ diệt khuẩn, tiến hành cấy vi sinh bằng các chế phẩm sinh học có chứa:

Bacillus spp, Lactobacillus spp, Nitrosomonas spp, Nitrobacter spp, hoặc trong thành phần có chứa các enzyme (men vi sinh)

như: Protease, Lipase, Amylase; Bổ sung Vitamin C, khoáng chất, Vitamin tổng hợp và hoạt chất tăng cường hệ miễn dịch cho tôm. Để phòng bệnh, cần làm tốt các biện pháp như cải tạo ao, khử trùng ao đúng kỹ thuật. Nguồn nước lấy vào ao phải đảm bảo yêu cầu về các thông số: pH, độ mặn, hàm lượng kim loại nặng,… Chọn tôm giống chất lượng tốt, không bị bệnh nấm, ký sinh trùng, vi khuẩn, virus. Thả nuôi với mật độ vừa phải. Luôn đảm bảo mực nước trong ao (1,2 - 1,5 m); hệ thống cung cấp ôxy cho ao luôn hoạt động tốt. Quản lý tốt thức ăn, bổ sung canxi, khoáng giúp tôm lột vỏ và tăng cường sức khỏe cho tôm.

 Hỏi: Những yếu tố nào ảnh hưởng đến quá trình lột xác của tôm?

(Nguyễn Văn Bình, xã Diễn An, tỉnh Nghệ An)

Trả lời:

Có 3 yếu tố chính quyết định đến quá trình lột xác của tôm:

Thức ăn: Dinh dưỡng là yếu tố hàng đầu ảnh hưởng đến quá trình lột xác của tôm. Nếu tôm bị thiếu chất dinh dưỡng sẽ không đủ chất làm đầy vỏ nên vỏ sẽ không thể đứt ra để lột xác. Để tôm lột xác thành công, thức ăn phải cung cấp đầy đủ hàm lượng đạm trong khoảng 30 - 45%. Ngoài ra, nên cung cấp thêm các khoáng chất cần thiết giúp tôm thay vỏ tốt hơn, đặc biệt là đối với TTCT nuôi thâm canh mật độ cao. Nên bổ sung thêm canxi, vitamin, men tiêu hóa,… để tôm tái tạo lớp vỏ mới nhanh hơn.

Môi trường ao nuôi: Các chỉ tiêu về ôxy hòa tan, độ mặn, độ pH, độ kiềm không tốt có thể ảnh hưởng đến quá trình tôm lột xác, thậm chí có thể khiến tôm không thể lột xác được.

Dịch bệnh: Trong quá trình nuôi tôm bị mắc một số bệnh như

nấm, đóng rong, ký sinh trùng,... sẽ làm cho quá trình lột xác của tôm bị chậm hoặc không thể lột vỏ.

 Hỏi: Tôm bị bệnh vi bào tử trùng thì cần xử lý như thế nào?

(Trần Văn Hải, xã Xuân An, tỉnh Gia Lai)

Trả lời:

Bệnh vi bào tử trùng, là một bệnh nguy hiểm trên tôm, gây ra bởi ký sinh trùng Enterocytozoon hepatopenaei (EHP). Bệnh này không gây chết hàng loạt nhưng làm tôm chậm lớn, còi cọc, giảm

sức đề kháng và ảnh hưởng đến năng suất nuôi.

Vi bào tử trùng lây lan chủ yếu qua đường miệng - tôm ăn phải bào tử có trong xác tôm bệnh, phân tôm, động vật phù du nhiễm mầm

bệnh hoặc trong bùn đáy ao. Một số yếu tố thúc đẩy EHP phát triển bao gồm: Mật độ nuôi quá cao; Đáy ao bẩn, tích tụ nhiều hữu cơ, phân thải; Gan tụy yếu do chất lượng thức ăn kém, thiếu khoáng - vitamin; Không sử dụng biện pháp diệt mầm bệnh trước khi thả giống. Khi tôm đã bị nhiễm EHP, việc xử lý rất khó khăn vì hiện nay chưa có thuốc đặc trị hiệu quả. Tuy nhiên, người nuôi có thể áp dụng các biện pháp sau để giảm thiểu thiệt hại:

Giảm mật độ bằng cách sang tôm hoặc thu sớm bớt nếu cần.

Giảm thức ăn 20 - 30%, chỉ cho ăn vào sáng sớm hoặc chiều mát, tránh dư thừa.

Bổ sung silymarin (2 - 3 g/kg), curcumin (3 - 5 g/kg), Vitamin C - E (2 g/kg) liên tục 7 - 10 ngày để phục hồi gan tụy.

Dùng thảo dược kháng khuẩn như tỏi, gừng, nghệ (mỗi loại 3 - 5 g/kg thức ăn) hỗ trợ đường ruột.

Tăng cường men tiêu hóa và vi sinh đường ruột để cạnh tranh với EHP.

Nếu nặng, tạm ngừng cho ăn 1 - 2 ngày, cấy vi sinh đáy, sau đó phục hồi dần.

Để phòng bệnh, cần quản lý môi trường - đáy ao: Vệ sinh ao kỹ trước vụ nuôi: diệt tạp, sát trùng đáy bằng Chlorine, vôi nung, KMnO4,... Hạn chế tích tụ chất thải: định kỳ xi phông đáy, sử dụng chế phẩm sinh học chứa Bacillus subtilis, Bacillus licheniformis Quản lý tảo hợp lý, tránh tảo tàn gây suy giảm chất lượng nướctạo điều kiện EHP phát triển.

Quản lý thức ăn và hệ tiêu hóa: Sử dụng thức ăn chất lượng cao, dễ tiêu, tránh dư thừa gây ô nhiễm. Bổ sung men vi sinh tiêu hóa (gồm Bacillus spp., Lactobacillus spp.) liều 1 - 2 g/kg thức ăn/ ngày. Bổ sung Vitamin C, E, silymarin, beta-glucan (mỗi loại 1 - 2 g/kg) giúp gan khỏe, tăng miễn dịch. Dùng chitosan (500 mg/kg thức ăn) như một chất hỗ trợ kích thích miễn dịch và kháng khuẩn đường ruột.

Quản lý con giống và phòng mầm bệnh: Tuyệt đối không thả giống từ trại chưa xét nghiệm EHP bằng PCR. Chỉ sử dụng giống sạch bệnh, kiểm dịch rõ ràng. Trước khi thả, ngâm tôm giống với

Iodine hoặc Chlorine liều nhẹ (2 - 5 ppm) giúp giảm nguy cơ mang mầm bệnh từ trại giống.

Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.