Con Tôm T4/2025

Page 1


Đặc

san CON TÔM

Hội Thủy sản Việt Nam

CHỦ NHIỆM TS Nguyễn Việt Thắng

PHỤ TRÁCH

PGS.TS. Nguyễn Chu Hồi

BAN BIÊN TẬP

Dương Xuân Hùng, Trưởng Ban Biên tập Đỗ Huy Hoàn, Nhà báo

Phạm Thu Hồng, Nhà báo

Dương Nam Anh, Nhà báo

THƯ KÝ TÒA SOẠN Kim Tiến

CỘNG TÁC NỘI DUNG

Minh Thanh, Hải Đăng, Vũ Mưa, Lê Cung, Phạm Duy Tương, Phan Thanh Cường, Nguyễn Anh, Lê Hoàng Vũ, Mai Xuân Trường

KỸ THUẬT VI TÍNH

Phạm Dương

TÒA SOẠN

Lầu 2, Nhà B, 116 Nguyễn Đình Chiểu, P. Đa Kao, Q.1, TP Hồ Chí Minh

Điện thoại: 028.62777616

Email: toasoan.contom@gmail.com

Văn phòng tại Hà Nội: Tầng 3, nhà A7, số 10 Nguyễn Công Hoan, Ba Đình, Hà Nội

Điện thoại: 0243.7713699

LIÊN HỆ QUẢNG CÁO

VIETNAMMEDIA Communication Co., Ltd.

Điện thoại: (028) 62.777.616

DĐ: 0944.663.828

Email: nghia@thuysanvietnam.com.vn

ĐẶT MUA TẠP CHÍ

Điện thoại: (024) 3.771.1756

Email: vunathuysan@gmail.com

TÀI KHOẢN NGÂN HÀNG

Tên tài khoản: CÔNG TY TNHH TRUYỀN THÔNG

VIETNAMMEDIA

Số 8614227979

Ngân hàng Đầu tư & Phát triển

Việt Nam (BIDV) - Chi nhánh Bà Chiểu

Giấy phép xuất bản

Số 70/GP-XBĐS ngày 11/06/2024

In tại Công ty TNHH MTV Lê Quang Lộc (TP Hồ Chí Minh)

Thưa Quý vị bạn đọc!

Quý I/2025, mặt hàng tôm tiếp tục dẫn đầu trong nhóm thủy sản xuất khẩu với giá trị kim ngạch đạt 931,6 triệu USD, tăng 35,7% so cùng kỳ năm trước. Sự tăng trưởng vượt bậc này đến từ nhu cầu mạnh mẽ tại các thị trường lớn như Trung Quốc, Mỹ và EU. Tuy nhiên, tôm Việt Nam dù giữ được đà tăng, vẫn phải đối mặt với thách thức nghiêm trọng sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố áp thuế đối ứng 46% vào ngày 5/4/2025. Mặc dù hiện Mỹ đã tạm hoãn việc áp thuế 46% trong 90 ngày, thế nhưng, các doanh nghiệp cũng cần chủ động xây dựng các phương án, kế hoạch sản xuất, kinh doanh để phù hợp với tình hình mới.

Trong đó, chuyển dịch theo hướng xanh, sản xuất tuần hoàn là xu thế của nhiều doanh nghiệp nhằm đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi từ quy định, luật lệ, tiêu chuẩn về môi trường. Và “Xanh hóa vùng nuôi” cũng chính là trọng tâm mà Hội chợ Triển lãm Quốc tế Công nghệ ngành tôm Việt Nam lần thứ 6 năm 2025 (VietShrimp 2025) lựa chọn. VietShrimp 2025 diễn ra từ ngày 26 - 28/3 tại TP Cần Thơ đã tiếp tục chứng minh sức hút của một diễn đàn lớn ngành thủy sản, quy tụ gần 150 doanh nghiệp tham gia triển lãm, với hơn 200 gian hàng trưng bày và tiếp đón gần 20.000 lượt khách tham quan. Trong khuôn khổ Hội chợ, chuỗi hội thảo với 4 phiên diễn ra trong hai ngày 26 - 27/3 đã gây ấn tượng mạnh mẽ, có sự tham gia của hơn 40 diễn giả và trên 1.000 đại biểu trong và ngoài nước.

Giữa bộn bề khó khăn trong sản xuất và xuất khẩu, VietShrimp 2025 trở thành điểm hội tụ lý tưởng để các bên cùng tìm giải pháp cho một ngành tôm hiệu quả hơn, bền vững hơn và “Xanh” hơn.

Đây là những nội dung chính của Đặc san Con Tôm phát hành tháng 4/2025. Như thường lệ, Con Tôm vẫn sẽ gửi đến bạn đọc những nghiên cứu mới về thức ăn, dinh dưỡng, các bài viết kỹ thuật, mô hình sản xuất tôm điển hình trong và ngoài nước. Rất mong tiếp tục nhận được sự ủng hộ và quan tâm của quý bạn đọc.

Trân trọng! BAN BIÊN TẬP

Tòa soạn luôn hoan nghênh sự đóng góp và các bài viết đặc sắc về ngành tôm từ các CTV, bạn đọc gần xa. Thư và bài vở xin gửi về: TạpchíThủysảnViệtNam - Lầu 2, Nhà B, 116 Nguyễn Đình Chiểu, P. Đa Kao, Q.1, TP Hồ Chí Minh

Điện thoại: 028.62777616

Email: toasoan.contom@gmail.com

Hoặc liên hệ trực tiếp theo số điện thoại: 0374 099 498 (Ms. Kim Tiến) Website: www.thuysanvietnam.com.vn  www.contom.vn

Theo dòng thời sự

T14-15: Tôm Việt oằn mình “cõng” thuế

Vấn đề - Sự kiện

T16-17: VietShrimp 2025: Định vị lại ngành tôm

Tòa soạn - Bạn đọc

T18-19: “Động lực” chuyển hướng thị trường

Thị trường xuất khẩu

T24-25: Giữ vững tâm lý, nắm bắt cơ hội

Nhìn ra thế giới

T30-31: Ecuador: Phía sau thành công của ngành tôm

Thức ăn - Dinh dưỡng

T36-37: Đánh giá khả năng tiêu hóa bằng enzyme của ấu trùng TTCT

Khoa học - Kỹ thuật

T38: Kiểm tra con giống bằng cảm quan

T39: Sự kết hợp giữa enzyme và vi sinh trong xử lý nhớt bạt

Thông tin doanh nghiệp

T40-41: Nuôi tôm kiểm soát tảo: Giải pháp kỹ thuật đột phá 2025

T42-45: “Với Cargill, chúng tôi lựa chọn đồng hành cùng người nuôi!”

T46-47: Bạt Gia Lợi: Giải pháp hoàn hảo cho ao nuôi tôm

T48-49: SHRIMPL: Số hóa ngành nuôi trồng thủy sản vì một tương lai thông minh và bền vững

T50-51: Bio Global Holdings: Công nghệ sinh học mở ra tương lai bền vững

Mô hình điển hình

T52: Nuôi tôm sạch theo tiêu chuẩn ASC

Đồng hành cùng nhà nông

T54-55: Sử dụng hiệu quả máy sục khí

Khuyến cáo một số giải pháp nuôi vụ Xuân - Hè

BÌNH THUẬN

Sản lượng tôm giống đạt 5,57 tỷ con

Hiện đang vào thời điểm thả giống vụ tôm Xuân - Hè, vụ nuôi đầu tiên và quan trọng nhất năm 2025 của tỉnh Hà Tĩnh. Do đó, để đạt mục tiêu, ngành chuyên môn đang tập trung vào các giải pháp nâng cao năng suất, đặc biệt về kỹ thuật. Người nuôi cần áp dụng quy trình nuôi tiên tiến và chuyển đổi các vùng nuôi tôm kém hiệu quả sang công nghệ cao. Đối với những vùng chưa đủ hạ tầng, nuôi xen ghép tại các ao, hồ lớn là giải pháp phù hợp để nâng cấp thành vùng nuôi công nghệ cao. Người dân cần tuân thủ lịch thời vụ nuôi trồng năm 2025 để chủ động sản xuất và giảm thiểu tác động tiêu cực từ thiên tai, dịch bệnh. Đặc biệt, các chủ ao, hồ và cơ sở nuôi cần chọn giống chất lượng, tuân thủ quy trình kỹ thuật và chăm sóc tốt để đạt hiệu quả kinh tế cao.

HUYỀN THƯƠNG

Với lợi thế về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, môi trường nước biển trong sạch và ổn định, Bình Thuận có nhiều tiềm năng cho sản xuất giống thủy sản, đặc biệt là tôm giống. Theo Cục Thống kê Bình Thuận, việc sản xuất giống thủy sản của tỉnh trong thời gian qua tương đối thuận lợi. Trong tháng 3/2025, các cơ sở sản xuất được 1,98 tỷ con tôm giống, tăng 9,01% so cùng kỳ năm trước. Quý I/2025 số lượng tôm giống sản xuất được ước đạt 5,57 tỷ con, tăng 3,58% so cùng kỳ năm trước. Nhiều cơ sở sản xuất giống đủ điều kiện phục vụ con giống cho các địa phương trong tỉnh, ngoài tỉnh và xuất khẩu. Hoạt động sản xuất tôm giống tại địa phương gắn với công tác kiểm dịch, phân tích xét nghiệm mẫu được duy trì thường xuyên; ngành chức năng đã tăng cường quản lý chất lượng tôm giống, giữ vững chất lượng và thương hiệu tôm giống Bình Thuận trên thị trường.

PHÚ YÊN

ĐÀ NẴNG

mạnh đầu tư công nghệ nuôi tôm

Thời gian qua, người nuôi tôm tại thôn Trường Định, xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang (Đà Nẵng) mạnh dạn đầu tư hạ tầng, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất. Điển hình như ông Đỗ Trực đã đầu tư hàng trăm triệu đồng lắp đặt hệ thống quan trắc, cảnh báo môi trường và xử lý ao bằng men vi sinh thay vì hóa chất như trước đây. “Biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, tình hình dịch bệnh thường xuyên xảy ra khiến nhiều hộ nuôi tôm đã phải bỏ ao nhưng tôi vẫn thắng lớn

nhờ đầu tư, ứng dụng công nghệ cao”, ông Trực chia sẻ. Hay như anh

Đỗ Trọng Đức cũng đã đầu tư hệ thống tuabin sục khí để bảo đảm

cho tôm sinh trưởng, phát triển tốt. Ông Võ Văn Thành, Trưởng thôn

Trường Định cho biết, với 2 vụ nuôi mỗi năm, sản lượng xuất bán tôm

bình quân của thôn đạt khoảng 40 tấn/năm. Doanh thu bình quân từ

200 - 300 triệu đồng/năm/hộ, lãi ròng từ 100 - 150 triệu đồng/năm.

DUY MẠNH

tôm sú giống tái tạo nguồn lợi

BÌNH ĐỊNH

Thu tiền tỷ từ nuôi tôm công nghệ cao Đó là mô hình của anh Nguyễn Huỳnh Đức Dũng, xã Nhơn Hội, TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Nhờ mạnh dạn đầu tư, áp dụng công nghệ hiện đại để nâng cao năng suất và thu nhập, từ một hộ sản xuất nhỏ, hiện anh Dũng đang sở hữu trang trại nuôi tôm với quy mô lớn, lợi nhuận hơn 1 tỷ đồng/năm. Anh Dũng cho biết: “Để nâng cao năng suất, tôi đầu tư hệ thống máy móc hiện đại tạo ôxy cho tôm phát triển tốt, kiểm soát lượng thức ăn, tránh lãng phí và ô nhiễm nước. Công nghệ nuôi tôm siêu thâm canh 2 giai đoạn, giúp rút ngắn thời gian nuôi, giảm rủi ro và tăng năng suất. Ngoài ra, tôi cũng áp dụng công nghệ mới cải thiện chất lượng nước nhằm hạn chế dịch bệnh, giúp tôm phát triển khỏe mạnh, không sử dụng kháng sinh”. Hiện, các cơ sở nuôi tôm của anh Dũng đang tạo việc làm ổn định cho 5 lao động thường xuyên, với mức lương trung bình 7,5 triệu đồng/tháng.

NGUYỄN AN

Sáng 1/4, tại cảng cá Đông Tác (TP Tuy Hòa), Sở NN&MT Phú Yên phối hợp với UBND TP Tuy Hòa, Hội Nghề cá tỉnh Phú Yên, Giáo hội Phật giáo tỉnh Phú Yên tổ chức lễ phát động thả giống phóng sinh tái tạo nguồn lợi thủy sản. Tại lễ phát động, có hơn 1 triệu con tôm sú giống post 15 đã được thả tại khu vực cửa biển Đà Diễn (TP Tuy Hòa). Nhân dịp này, lãnh đạo Sở NN&MT Phú Yên và UBND TP Tuy Hòa kêu gọi mọi tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư ven biển nâng cao ý thức trách nhiệm hơn nữa trong việc tham gia bảo vệ môi trường biển, tái tạo nguồn lợi thủy sản, tăng cường bảo vệ ngư trường; đồng thời, mong muốn ngư dân tham gia khai thác đúng thời vụ, đúng kích thước mắt lưới và hướng đến khai thác xa bờ mang tính bền vững, không khai thác đánh bắt thủy sản mang tính hủy diệt, hủy hoại môi trường.

KIÊN GIANG

NGUYỄN HẰNG

An Biên có 10,95 ha diện tích nuôi tôm nhiễm bệnh

UBND huyện An Biên cho biết quý I/2025, trên địa bàn huyện phát hiện 7 ổ dịch trên tôm nuôi với diện tích nhiễm bệnh 10,95 ha, chủ yếu tập trung tại hai xã Nam Thái A và Nam Yên. Trước tình hình trên, ngành chức năng đã kịp thời hỗ trợ 580 kg hóa chất

Chlorine cho các hộ dân để tiêu hủy tôm bệnh và xử lý môi trường, nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh, bảo vệ vùng nuôi lân cận. Mặc dù bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, hoạt động nuôi thủy sản trên địa bàn huyện vẫn đạt kết quả khả quan. Sản lượng nuôi trồng thủy sản quý I/2025 hơn 7.200 tấn, đạt 15,11% kế hoạch năm, tăng 10,97% so cùng kỳ; trong đó, tôm nuôi đạt 1.300 tấn, sò huyết 5.000 tấn, cá các loại 531 tấn, cua 335 tấn và vẹm xanh 39 tấn. Đến nay, toàn huyện đã thả nuôi tôm được hơn 25.700 ha, đạt 97,26% kế hoạch năm.

NAM CƯỜNG

BẾN TRE

Diện tích nuôi công nghệ cao đạt 3.633 ha

Ngày 28/3/2025, Sở NN&MT Bến Tre tổ chức hội nghị “Sơ kết kế hoạch số 3004/KH-UBND ngày 1/6/2021 về phát triển 4.000 ha nuôi tôm nước lợ ứng dụng công nghệ cao đến năm 2025”.

Phó Giám đốc Sở NN&MT Bến Tre Nguyễn Văn Buội cho biết, qua 4 năm triển khai Kế hoạch số 3004 của UBND tỉnh, đến nay diện tích nuôi tôm công nghệ cao của tỉnh đạt 3.633 ha. Sản lượng công nghệ cao hàng năm đạt 90.000 tấn, giá trị mang lại cho ngành tôm hàng năm đạt hơn 18.030 tỷ đồng (trong đó giá trị sản xuất tôm ứng dụng công nghệ cao đạt 10.830 tỷ đồng). Năng suất bình quân nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao đạt 40

- 60 tấn. Lợi nhuận bình quân đạt 600 - 700 triệu đồng.

Tại Hội nghị, các đại biểu đã được nghe một số báo cáo tham luận về giải pháp phòng trị bệnh mới; cải tiến kỹ thuật nuôi tôm

nước lợ,…

UBND tỉnh Bến Tre chỉ đạo, đến quý II/2025 toàn tỉnh phải hoàn thành 4.000 ha nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao theo

Dịch bệnh gây thiệt hại 125,24 ha tôm

Hiện, nuôi tôm của tỉnh Trà Vinh đã và đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do tác động từ biến đổi khí hậu, chất lượng môi trường nước ngày càng xấu, tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp. Ngay những tháng đầu năm 2025, dịch bệnh trên tôm đã gây thiệt hại khoảng 125,34 ha, chiếm 7,7% diện tích thả nuôi. Các loại dịch bệnh chủ yếu là đốm trắng, hoại tử gan tụy cấp, bệnh đường ruột, phân trắng,… Để hạn chế thiệt hại, ngành chức năng Trà Vinh khuyến cáo các địa phương cần chú trọng công tác kiểm soát các yếu tố môi trường và quản lý tốt mầm bệnh. Thực hiện có hiệu quả công tác quan trắc, cảnh báo môi trường. Kịp thời khuyến cáo, cảnh báo, hướng dẫn cho người nuôi biện pháp phòng chống dịch bệnh.

Tuyên truyền nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, phòng ngừa dịch bệnh, hạn chế sử dụng kháng sinh, thuốc, hóa chất, quản lý vùng nuôi an toàn, bền vững.

DIỆU

Mô hình nuôi tôm công nghệ cao ở huyện Thạnh Phú Ảnh: MM

Kế hoạch số 3004 của UBND tỉnh. Mục tiêu đến năm 2030 hình thành 5 vùng nuôi tôm công nghệ cao do doanh nghiệp đầu tư tại 3 huyện biển.

LÊ LOAN

BẠC LIÊU Thả gần 5 triệu con giống xuống cửa biển Nhà Mát Kỷ niệm 66 năm Ngày truyền thống ngành thủy sản Việt Nam (1/4/1959 - 1/4/2025), chiều 1/4, Chi cục Thủy sản Bạc Liêu tổ chức lễ thả tôm giống về biển nhằm tái tạo nguồn lợi thủy sản. Tại cửa biển Nhà Mát (TP Bạc Liêu), các đại biểu đã thả khoảng 4,7 triệu con tôm post giống ra biển. Được biết, nguồn tôm giống thả về môi trường thiên nhiên lần này do Sở NN&MT Bạc Liêu, Chi cục Thủy sản Bạc Liêu vận động hơn 35 cơ sở sản xuất tôm giống, các công ty, doanh nghiệp, các hộ nuôi thủy sản tài trợ. Việc thả tôm giống về biển nhằm tái tạo nguồn lợi thủy sản, bảo vệ môi trường biển và duy trì sự bền vững của ngành thủy sản. Đây là một hoạt động thường niên, góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng về việc bảo vệ các hệ sinh thái biển trong bối cảnh các nguồn lợi thủy sản đang đứng trước nguy cơ suy giảm,…

THANH HIẾU

SÓC TRĂNG

Diện tích thả tôm nước lợ ước đạt 5.100 ha

Ông Đồ Văn Thừa, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Sóc Trăng cho biết, tính đến hết quý I/2025, diện tích thả tôm nước lợ toàn tỉnh ước đạt 5.100 ha, cao hơn 18% so cùng kỳ năm trước, tôm thiệt hại chiếm 0,8% diện tích thả. Ước sản lượng thu hoạch đạt 10.157 tấn. Kế hoạch trong quý II/2025, địa phương phấn đấu diện tích nuôi tôm nước lợ đạt 30.000 ha, sản lượng đạt 52.200 tấn. Để đạt

được mục tiêu kế hoạch nuôi tôm trong quý II/2025, ngành NN&MT sẽ thực hiện các cuộc hội nghị chuyên đề tại các vùng nuôi tôm trọng điểm của tỉnh. Kịp thời thông tin những diễn biến về giá cả, môi trường, thời tiết và dịch bệnh trên tôm đến người nuôi. Triển khai thực hiện các mô hình nuôi theo hướng VietGAP; tiếp tục nhân rộng và chuyển đổi các mô hình nuôi tôm kém hiệu quả sang mô hình nuôi cá rô phi luân canh nhằm đa dạng hóa đối tượng nuôi. THÁI THUẬN

CÀ MAU

Nhân rộng mô hình nuôi siêu thâm canh

Vừa qua, UBND tỉnh Cà Mau đã thống nhất chủ trương triển khai dự án “Huy động nguồn lực nhân rộng quy trình công nghệ nuôi TTCT siêu thâm canh tuần hoàn, ít thay nước, an toàn sinh học trên địa bàn tỉnh Cà Mau”. Theo đó, Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau yêu cầu

Sở Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp các đơn vị liên quan nghiên cứu xác định lựa chọn loại hình dự án phù hợp; Sở NN&MT chủ trì, phối hợp các đơn vị liên quan xây dựng kế hoạch kiểm soát xả thải, môi trường nuôi tôm siêu thâm canh trên địa bàn tỉnh và dự án nêu trên. Tỉnh Cà Mau sẽ thành lập Tổ điều phối dự án để hỗ trợ trong quá trình triển khai có phát sinh vướng mắc. Dự án được thí điểm thực hiện trong năm 2025 - 2026. Tỉnh Cà Mau hiện có khoảng 6.500 ha nuôi tôm thâm canh và siêu thâm canh với ưu điểm là tỷ lệ thành công và năng suất cao.

DUY AN

TRÀ VINH

MỸ

Vụ tôm chì Oregon 2025 nhiều triển vọng tích cực

 Theo các chuyên gia, thuế quan đối

Sở Ngư nghiệp và Động vật hoang dã Oregon (ODFW) vừa công bố Báo cáo đánh giá vụ khai thác tôm chì 2025, cung cấp cái nhìn tổng quan về mùa vụ 2024 và dự báo cho vụ 2025 bắt đầu từ ngày 1/4. Ngành tôm chì Oregon năm qua ghi nhận kết quả khả quan, với sản lượng cao và hiệu suất đánh bắt tốt, mặc dù nhu cầu thị trường thấp. Trong mùa vụ 2024, ngư dân đã thu hoạch 49,4 triệu pound tôm, đứng thứ tư trong lịch sử ngành, đạt giá trị xuất bến 26,6 triệu USD. Mặc dù giá tôm nguyên liệu tại tàu giảm, hiệu suất đánh bắt tăng mạnh, với tỷ lệ đạt 1.050 pound mỗi giờ, cao nhất từ trước đến nay. Điều kiện hải dương học năm nay cho thấy tín hiệu tích cực báo hiệu nguồn lợi dồi dào. Các nghiên cứu hiện tập trung vào động thái quần thể tôm và tác động đến hệ sinh thái. Báo cáo dự báo mùa vụ 2025 có triển vọng sáng.

ẤN ĐỘ

 Xuất khẩu tôm sang Mỹ lao đao vì thuế

Dù mức thuế mới do chính quyền Mỹ áp

đặt gây bất lợi, nhưng so với nhiều đối thủ

cạnh tranh, Ấn Độ vẫn có lợi thế nhất định.

Trong năm tài chính 2023 - 24 (FY24), Ấn Độ

xuất khẩu khoảng 1,9 tỷ USD thủy sản sang

Mỹ, chủ yếu là TTCT. Mỹ chiếm gần 41% tổng lượng tôm xuất khẩu của Ấn Độ, là một trong những thị trường lớn nhất. Trước đây, thuế nhập khẩu tôm Ấn Độ vào Mỹ dao động 8%.

cao

Tuy nhiên, với mức thuế mới lên tới 27%, cộng thêm thuế chống trợ cấp và các loại thuế khác, tổng thuế có thể chạm 45%. Thủy sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu nông sản lớn nhất của Ấn Độ, sau gạo basmati và thịt trâu. Các chuyên gia cho rằng Ấn Độ có thể bắt đầu tìm kiếm các thị trường như Trung Quốc, châu Âu và Tây Á để xuất khẩu tôm. “Việc áp thuế cao như vậy có thể tác động đáng kể đến thị trường tôm tại Mỹ, khiến các siêu thị rơi vào tình trạng khan hiếm nguồn cung. Tuy nhiên, khi các cửa hàng tạp hóa ở Mỹ cạn kiệt, giá tôm sẽ tự điều chỉnh”, ông Nitin Awasthi từ InCred Equities chia sẻ với Business Standard.

 Cổ phiếu Avanti Feeds, Apex Frozen Foods giảm 17% sau thuế 26% của Trump

Ngày 3/4, cổ phiếu của Avanti Feeds, Apex Frozen Foods và Coastal Corp giảm mạnh sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố mức thuế đối ứng 26% lên hàng hóa Ấn Độ. Cổ phiếu của Avanti Feeds giảm 17%, giao dịch

ở mức 733 Rs/cổ phiếu. Tính đến quý 3 năm

tài chính 2025, công ty thu 69% doanh thu

từ Bắc Mỹ, 17% từ châu Âu và 14% từ châu Á.

Doanh thu từ Bắc Mỹ đã giảm so mức 82% của cùng kỳ năm trước. Cổ phiếu của Apex Frozen Foods giảm hơn 3%, giao dịch ở mức 209 Rs/ cổ phiếu, mức thấp nhất trong gần một tháng. Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của công ty, chiếm 64% tổng xuất khẩu trong năm tài chính 2024. Cổ phiếu của Coastal Corp giảm hơn 3%, giao dịch ở mức 38,16 Rs/cổ phiếu, chấm dứt chuỗi tăng trưởng 3 ngày.

Mỹ là thị trường lớn nhất của tôm Ấn Độ, chiếm 2,4 tỷ USD trong tổng số 5,6 tỷ USD giá trị xuất khẩu tôm.

ứng mà Trump công bố ngày 2/4/2025 có thể làm thay đổi căn bản ngành tôm. Na Uy và các đối tác thương mại khác của Mỹ đang yêu cầu làm rõ, trong khi Trung Quốc tuyên bố sẽ trả đũa. Mức thuế này có thể ảnh hưởng đến các nhà nhập khẩu thủy sản từ tất cả quốc gia, nhưng thủy sản từ một số quốc gia sẽ đắt đỏ hơn so với những quốc gia khác.

 Theo Undercurrentnews, thị trường bán buôn tôm hùm ở Mỹ hiện đang có chút lạc quan, nhưng sẽ có đợt giảm giá lớn trước mùa vụ mới. Trong khi đó, Canada đã tránh được thuế quan, tuy nhiên giá tôm hùm nước lạnh giảm do lo ngại về tồn kho. Tồn kho tôm hùm sống có thể tăng khi tình hình trở nên rõ ràng hơn.

 Ngành tôm Ecuador đang chuẩn bị cho một sự tăng trưởng mạnh mẽ hơn sau khởi đầu ấn tượng trong năm 2025. Xuất khẩu của quốc gia này trong tháng 1 và tháng 2 đã vượt qua các cột mốc trước đó, đưa ngành tôm Ecuador vào vị thế sẵn sàng phát triển trong năm nay. Các nhà đóng gói tôm ở Ecuador đang tìm cách đa dạng hóa thị trường EU và Mỹ để giảm bớt sự phụ thuộc vào Trung Quốc, do sức ép giá cả.

 Trong tháng 1/2025, châu Âu đã nhập khẩu 30.604 tấn TTCT tươi sống và tôm chế biến, tăng 8% so năm trước và lập kỷ lục mới cho tháng 1, vượt qua mức trước đó vào năm 2022. Sự tăng trưởng này chủ yếu do nhập khẩu tôm chế biến từ Ấn Độ và Việt Nam vào khu vực Tây Bắc EU, trong khi nhập khẩu tại các khu vực Nam và Đông EU giảm. Nguồn cung từ Ecuador và Venezuela cũng giảm so năm trước. Giá trị trung bình mỗi kg đạt 6,47 Euro, cao hơn so 5,99 Euro năm 2024 và 6,87 Euro năm 2023, nhưng thấp hơn so 7,86 Euro năm 2022.

 Mùa đánh bắt cá cơm Peru ( Engraulis ringens ) và cá cơm trắng ( Anchoa nasus ) ở khu vực Bắc - Central Peru đã kết thúc vào tháng 1/2025, đạt sản lượng cao nhất trong ba năm qua, với 4.637.000 tấn phục vụ tiêu thụ gián tiếp. Chính phủ Peru đã phê duyệt mùa đánh bắt đầu tiên của cá cơm Peru và cá cơm trắng tại khu vực Nam Peru trong năm 2025, bắt đầu từ ngày 2/1, với sản lượng tối đa được phép là 251.000 tấn.

ARGENTINA

Dự báo ngành tôm gặp thách thức trong năm 2025

Xuất khẩu tôm Argentina tăng 9,2% từ năm

2023 đến 2024, nhưng hai tháng đầu năm nay (tháng 1 và tháng 2) lại chứng kiến sự sụt giảm

7,9% so cùng kỳ năm trước, chỉ đạt 20.212 tấn. Giá trị xuất khẩu giảm sâu hơn, tới 10,8%. Xu hướng suy giảm này đã bắt đầu từ năm ngoái, khi sản lượng xuất khẩu trong hai tháng đầu năm 2024 giảm 8,4%. Nguyên nhân chính là nhu cầu tiêu thụ yếu. Đầu tháng 2/2025, lượng tồn kho tại châu Âu vẫn cao, cho thấy thị trường chưa tiêu thụ hết nguồn cung. Tây Ban Nha - thị trường lớn nhất của tôm đỏ Argentina chịu ảnh hưởng nặng nhất với mức nhập khẩu giảm 42,9%. Tại Trung Quốc, kinh tế suy yếu khiến nhu cầu tiêu thụ đi xuống, kéo theo xuất khẩu sang nước này giảm 15,7%. Ngược lại, xuất khẩu sang các quốc gia và vùng lãnh thổ chưa xác định (NSP) tăng mạnh 65,9%. Trong tháng 2/2025, tôm khai thác chủ yếu có kích thước nhỏ, làm giảm nhu cầu từ Trung Quốc.

TRUNG QUỐC

Nhập

khẩu tôm tăng chậm sau Tết

Từ tháng 12/2024 đến tháng 2/2025, Trung

Quốc nhập khẩu khoảng 222.000 tấn, trị giá 1,24 tỷ USD, giảm 2% về khối lượng nhưng tăng 12% giá

trị do giá tôm trên thị trường toàn cầu tăng 18% lên

5,6 USD/kg. Số liệu nhập khẩu tôm trong tháng 2

cho thấy sự phục hồi nhẹ với khối lượng tăng 3%

lên 62.000 tấn, trong khi giá trị đạt 340 triệu USD,

tăng 21% so cùng kỳ năm trước. Ecuador tiếp tục

dẫn đầu thị trường Trung Quốc, chiếm 76% tổng

lượng tôm nhập khẩu trong hai tháng qua, đạt

100.000 tấn, trị giá 523 triệu USD. Dù khối lượng nhập khẩu giảm 13% so cùng kỳ năm

trước, giá trị vẫn tăng 2%. Riêng tháng 2/2025, xuất khẩu tôm từ Ecuador sang Trung

Quốc đạt 49.000 tấn, tăng 16% về sản lượng và 34% về giá trị, lên 251 triệu USD, so tháng 2/2024. Lượng tôm từ Argentina tăng vọt 476% trong tháng 2/2025, đạt 2.964 tấn cùng giá trị tăng 459%, tương đương 24 triệu USD. Trái lại, nhập khẩu tôm từ Ấn Độ giảm 28% còn 16.015 tấn trong hai tháng đầu năm, mặc dù vậy giá tôm tăng cao đã bù đắp phần nào sự sụt giảm này.

THÁI LAN

Giá TTCT nguyên liệu lao dốc

 Trung Quốc tuyên bố vào 3/4 sẽ trả đũa các mức thuế nhập khẩu của Mỹ, bác bỏ các biện pháp thương mại toàn cầu của Tổng thống Donald Trump, coi đó là “hành vi bắt nạt đơn phương điển hình”. Bộ Thương mại Trung Quốc khẳng định “kiên quyết phản đối” các mức thuế mà Mỹ áp đặt và sẽ “thực hiện các biện pháp đối phó” để bảo vệ quyền lợi của mình. Mỹ đã áp dụng mức thuế 34% đối với hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc, ảnh hưởng lớn đến nguồn cung thủy sản.  Ủy ban Cố vấn Nuôi trồng Thủy sản (AAC) của Ấn Độ nộp báo cáo sơ bộ vào ngày 16/4 về tác động của mức thuế 26% do Mỹ công bố và các thách thức khác trong ngành thủy sản tại bang Andhra Pradesh. AAC được thành lập vào ngày 7/4 với chức năng tham vấn nuôi thủy sản, chế biến, xuất khẩu và đề xuất giải pháp phát triển bền vững cho ngành. Hiện, AAC đã xuất hỗ trợ giá điện, đơn giản hóa thủ tục cấp phép ao nuôi, tăng tiêu dùng nội địa, quảng bá sản phẩm thủy sản chế biến sẵn và mở rộng thị trường xuất khẩu mới như Trung Quốc và châu Âu.

 Năm 2025, các doanh nghiệp tôm Ecuador sẽ tiếp tục mở rộng sản phẩm chế biến như tôm nấu chín và tôm lột vỏ để giảm phụ thuộc vào Trung Quốc. Năm 2024, xuất khẩu tôm sang Trung Quốc giảm 8% về khối lượng và 16% về giá trị, trong khi xuất sang Mỹ và EU lần lượt tăng 5 - 13% về khối lượng. Omarsa, một trong những doanh nghiệp tôm lớn nhất Ecuador cho biết sẽ tập trung hơn vào thị trường Mỹ và châu Âu.

Theo dữ liệu từ Talay Thai, giá tôm loại 60 con/ kg đã giảm 5 THB so với tuần trước, xuống còn 155 THB/kg (tương đương 4,52 USD/kg) - mức thấp nhất từ đầu năm đến nay. Đồng baht suy yếu nhanh do tác động của chính sách thuế quan đã khiến giá trị quy đổi sang USD giảm thêm khoảng 0,2 USD/kg. Giá các sản phẩm tôm cỡ nhỏ hơn ghi nhận mức giảm mạnh hơn: loại 70 con/kg giảm 10 THB xuống còn 150 THB/kg, và loại 80 con/kg còn 142 THB/kg. Ngày 9/4, ngay sau khi mức thuế 36% chính thức có hiệu lực, Tổng thống Trump tuyên bố sẽ giảm thuế nhập khẩu đối với tất cả các quốc gia (ngoài Trung Quốc) xuống mức mới 10%. Tuy nhiên, tôm Thái Lan loại 60 con/kg được giao dịch ở mức 4,52 USD/kg, cao hơn so với các loại tôm từ các nguồn khác, ngoại trừ tôm Trung Quốc có giá đắt hơn nhưng lại ít xuất khẩu sang thị trường Mỹ. TUẤN MINH

 Tháng 2/2025, Mỹ nhập khẩu 64.145 tấn tôm, trị giá 530,9 triệu USD, tăng 8% về khối lượng và 16% về giá trị so cùng kỳ năm trước, theo NOAA. Đây là tháng thứ tư liên tiếp ghi nhận mức tăng trưởng so năm trước, sau giai đoạn sụt giảm trong phần lớn năm 2024. Giá trung bình tôm nhập khẩu đạt 3,93 USD/pound, giảm nhẹ 2% so tháng 1/2025 nhưng cao hơn gần 10% so tháng 2/2024.

 Ecuador tạm thời giảm thuế nhập khẩu tôm Mỹ từ 30% xuống 0%, theo tuyên bố của Ủy ban Thương mại nước ngoài (COMEX). Động thái nhằm điều chỉnh chính sách thương mại theo “Kế hoạch công bằng và có đi có lại” của Mỹ. Giới chức Ecuador kỳ vọng quyết định này sẽ giúp ngành tôm duy trì khả năng cạnh tranh tại thị trường Mỹ và tránh các rào cản kinh tế. Ngành tôm hoan nghênh chính sách mới, đánh giá đây là cơ hội thúc đẩy ổn định xuất khẩu và tăng sức cạnh tranh toàn cầu. 

Tôm Việt oằn mình “cõng” thuế

Việc Mỹ lùi thời gian áp thuế đối ứng 46% đối với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam khiến các doanh nghiệp tạm thời “thở phào”. Tuy nhiên, các rủi ro, thách thức vẫn tiềm ẩn bởi nếu mức thuế này không được điều chỉnh giảm như kỳ vọng thì sau thuế chống bán phá giá (AD), thuế chống trợ cấp (CVD), con tôm Việt Nam tiếp tục chịu thêm mức thuế rất nặng từ chính sách thuế nhập khẩu.

Khó chồng khó

Năm 2024, thủy sản Việt Nam đã được xuất khẩu đến hơn 170 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó Mỹ là một trong những thị trường tiêu thụ hàng thủy sản lớn của Việt Nam, chiếm thị phần lên tới 15,1% trong kim ngạch xuất khẩu trên 10 tỷ USD.

Ông Trần Đình Luân, Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm Ngư cho biết: “Khi Mỹ áp thuế 46% với hàng hóa Việt Nam thì đáng lo nhất ngành thủy sản là tôm - sản phẩm chủ lực có kim ngạch xuất khẩu nhiều nhất sang Mỹ; tiếp theo là cá ngừ, cá tra, cá biển,...”.

Trở lại với câu chuyện “cõng” thuế của con tôm Việt Nam tại thị trường Mỹ để thấy áp lực đang đè nặng lên ngành tôm. Theo ông Hồ Quốc Lực, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Thực phẩm Sao Ta, từ cuối năm 2003,

con tôm Việt Nam chính thức bị khởi kiện chống bán phá giá và mãi đến năm 2015, thuế AD dành cho con tôm Việt Nam mới chính thức về 0%.

Sau thuế AD, năm 2023, con tôm Việt Nam tiếp tục bị kiện CVD tại thị trường này, với mức thuế sơ bộ được áp dụng là 2,84%. Trong khi 2 loại thuế trên vẫn đang ít nhiều làm khó con tôm Việt Nam tại thị trường Mỹ thì ngày 2/4 (theo giờ Mỹ), Tổng thống Mỹ Donald Trump tiếp tục công bố mức thuế mới dành cho hàng hóa Việt Nam, trong đó có con tôm lên đến 46%.

“Mức thuế mới này, cùng với thuế AD và CVD khiến con tôm Việt Nam oằn vai, nguy cơ mất thị trường truyền thống lớn này là rất cao, nếu các cuộc đàm phán cấp Chính phủ tới đây không mang lại kết quả như mong đợi”, ông Lực chia sẻ thêm.

Cú sốc ngành chủ lực

Với mức thuế 46%, các doanh nghiệp xuất khẩu tôm cảm thấy choáng váng bởi hầu hết đều dự đoán mức thuế này cao nhất cũng chỉ ở mức trên dưới 10%. Với dự đoán trên, đã có doanh nghiệp tôm lên kế hoạch doanh thu và lợi nhuận khá cao so năm 2024 và cùng với đó là phát triển sản phẩm mới như cá rô phi để xuất khẩu sang thị trường Mỹ khi thương chiến Mỹ - Trung nổ ra. Theo các doanh nghiệp, nếu mức thuế 46% không được điều chỉnh giảm như kỳ vọng sau đàm phán, thì câu chuyện rút khỏi thị trường Mỹ không còn là viễn cảnh. Một doanh nghiệp chế biến xuất khẩu tôm ở Sóc Trăng chia sẻ: “Con tôm Việt Nam vốn đã rất vất vả trong cạnh tranh với tôm giá rẻ Ecuador và Ấn Độ tại thị trường Mỹ, nay phải gánh thêm mức

Doanh nghiệp cần xây dựng thương hiệu “Tôm Việt” gắn với chất lượng, bền vững và minh bạch
Ảnh: Phan Hưng

thuế rất cao so với 2 đối thủ này (Ấn Độ

26% và Ecuador chỉ 10%) thì làm sao trụ

được ở thị trường này”.

Chia sẻ về tác động của thuế nhập khẩu

đối ứng mới này, ông Đặng Ngọc Sơn, Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Chế biến thủy

sản và Xuất nhập khẩu Cà Mau (Camimex), cho biết vấn đề này còn quá mới và doanh nghiệp cũng chưa có đầy đủ thông tin nên chưa thể đánh giá hết tác động của mức thuế này. Tuy nhiên, nếu nhìn ở góc độ tầm vĩ mô mà nói, mức thuế nhập khẩu đối ứng này sẽ tác động rất lớn đến hàng hóa Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ, trong đó có con tôm. Riêng đối với Camimex, do lượng tôm xuất khẩu chủ yếu vào thị trường châu Âu, Nhật,… còn thị trường Mỹ không nhiều nên tác động nhìn chung là không lớn. “Một khi việc xuất khẩu tôm vào thị trường Mỹ gặp

khó khăn, chắc chắn các doanh nghiệp sẽ chuyển hướng sang những thị trường thuận lợi hơn. Khi đó, sự cạnh tranh sẽ trở nên gay gắt hơn và các nhà nhập khẩu cũng sẽ không bỏ qua cơ hội ép giá”, ông Sơn cho biết thêm. Nhiều doanh nghiệp chế biến tôm xuất khẩu vào thị trường Mỹ cho biết, hiện tại không dám chào giá, ký bán cho các khách hàng Mỹ. Một số container rời cảng, còn đang trên tàu biển vận chuyển, chưa biết hướng xử lý (đang chờ chốt mức thuế). Các khách hàng tại thị trường Mỹ yêu cầu công ty chế biến thủy sản tại Việt Nam tạm ngưng xuất hàng. Hiện các doanh nghiệp đang theo dõi tình hình đàm phán về thuế giữa nước ta và Mỹ để có những động thái tiếp theo.

Xây dựng kịch bản thích ứng

Trước những phản ứng của các quốc gia về thuế quan mới, chỉ sau đó it ngày, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã bất ngờ thông báo tạm hoãn việc áp đặt mức thuế quan đối ứng 46% trong vòng 90 ngày tới. Quyết định đã mang đến một “khoảng thở” quý giá cho các doanh nghiệp xuất khẩu tôm của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, thời gian này không đồng nghĩa với sự an toàn tuyệt đối, mà là gian đoạn để tái cơ cấu chiến lược.

Để vượt qua thách thức, cộng đồng doanh nghiệp mong chờ kết quả tích cực từ cuộc đàm phán của Chính phủ Việt Nam với Mỹ. Đồng thời mong muốn nhận được sự hỗ trợ kịp thời từ Chính phủ, các bộ ngành về các chính sách cụ thể hỗ trợ về quy định, tài chính, thuế, logistics.

Bên cạnh sự kỳ vọng vào các cuộc đàm phán giữa chính phủ hai nước sẽ đạt được kết quả tích cực, các doanh nghiệp cũng chủ động xây dựng các phương án, kế hoạch

sản xuất, kinh doanh để phù hợp với tình hình mới.

Ông Võ Văn Phục, Tổng Giám đốc Công ty CP Thủy sản sạch Việt Nam (VinaCleanfood), cho biết tỷ lệ đơn hàng ở thị trường Mỹ của VinaCleanfood chiếm hơn 35%, nên nếu mức thuế trên vẫn được giữ nguyên công ty buộc phải giảm quy mô sản xuất; đồng thời nỗ lực tìm kiếm, mở rộng các thị trường tiềm năng có nhu cầu tiêu thụ tôm lớn như: Nhật Bản, Canada, châu Âu.

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), các doanh nghiệp cần chú ý tăng cường kiểm soát xuất xứ và phối hợp chặt chẽ với cơ quan Mỹ để ngăn chặn hành vi gian lận thương mại; chủ động giảm giá thành sản phẩm, rà soát toàn bộ chi phí đầu vào; tận dụng cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp trong nước để phát triển nguồn vật tư nội địa. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, đẩy mạnh khai thác các FTA như EVFTA, CPTPP, RCEP để giảm phụ thuộc vào thị trường Mỹ; tăng sự hiện diện tại châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Đông.

Đồng thời, tăng năng lực dự trữ bằng việc đầu tư mở rộng hệ thống kho lạnh và kho bãi, giúp linh hoạt trong điều phối xuất khẩu khi thị trường biến động; chuẩn hóa sản phẩm - kỹ thuật nhằm đảm bảo tuân thủ chặt chẽ các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế, tránh nguy cơ bị kiện phòng vệ thương mại.

Không chỉ “chống đỡ” trước rủi ro ngắn hạn, doanh nghiệp cần chuẩn bị dài hơi để thích ứng với một trật tự thương mại mới, mà chủ nghĩa bảo hộ đang được nhiều nước áp dụng; đầu tư chế biến sâu và xây dựng thương hiệu “Tôm Việt” gắn với chất lượng, bền vững và minh bạch.

AN XUYÊN

 Từ một quốc gia nhập khẩu thủy sản, Việt Nam đã vươn lên thành một trong những cường quốc xuất khẩu tôm trên thế giới, với sản phẩm có mặt tại hơn 160 quốc gia. Tuy nhiên, để duy trì vị thế và vượt qua “cơn sóng lớn” thuế quan lần này, ngành tôm cần đến sự phối hợp đồng bộ từ Nhà nước, hiệp hội ngành nghề và từng doanh nghiệp.

CON SỐ

Là ước giá trị kim ngạch xuất khẩu tôm tháng 3/2025, tăng 20,4% so cùng kỳ năm trước.

Là sản lượng TTCT thu hoạch trong tháng 3/2025, tăng 6,8% so cùng kỳ năm trước.

Là sản lượng tôm nuôi nước lợ của tỉnh Bình Thuận trong quý I/2025, tăng 5,88% so cùng kỳ năm trước.

Là số tôm sú giống được ngành chức năng Sóc Trăng thả xuống cửa biển Trần Đề nhân Ngày truyền thống ngành thủy sản. Là số lượng tôm giống mà tỉnh Cà Mau sản

được hàng năm, góp phần phát triển ngành kinh tế mũi nhọn của địa

2025 tiếp tục thu hút sự quan tâm của nhà quản lý, các chuyên gia, doanh nghiệp và người nuôi

VIETSHRIMP 2025

Định vị lại ngành tôm

Hội chợ VietShrimp năm nay với chủ đề “Xanh hóa vùng nuôi” diễn ra từ ngày 26 - 28/3 tại TP Cần Thơ đã tiếp tục chứng minh sức hút của một diễn đàn lớn ngành thủy sản. Giữa bộn bề khó khăn trong sản xuất và xuất khẩu, VietShrimp 2025 trở thành điểm hội tụ lý tưởng để các bên cùng tìm giải pháp cho một ngành tôm hiệu quả hơn, bền vững hơn và “Xanh” hơn.

Nơi ngành tôm hội tụ

Lần thứ 3 trở lại TP Cần Thơ - trung tâm kinh tế, văn hóa của vùng đất chín rồng trù phú, Hội chợ Triển lãm Quốc tế Công nghệ ngành tôm Việt Nam lần thứ 6 năm 2025 (VietShrimp 2025) vẫn tiếp đón những doanh nghiệp, tập đoàn thủy sản lớn trong nước và quốc tế. Hơn 200 gian hàng của gần 150 doanh nghiệp thuộc

đủ các lĩnh vực từ con giống, thức ăn, máy móc trang thiết bị, chế phẩm sinh học, thú y thủy sản,… cùng hội tụ. Đây là thành công trong sự nỗ lực của Ban Tổ

chức giữa bối cảnh sản xuất tôm

gặp nhiều khó khăn do áp lực từ

giá cả, dịch bệnh và xuất khẩu.

Một thành công nữa được

ghi nhận tại Hội chợ năm nay

là số lượng khách tham quan

đông đảo từ sáng khai mạc cho

đến chiều ngày cuối cùng của

Hội chợ. Theo thống kê sơ bộ, VietShrimp năm nay đã tiếp đón

gần 20.000 lượt khách tham

quan triển lãm và đông đảo đại

biểu tham dự bốn phiên hội

thảo chính.

Đại diện Ban Tổ chức cho

biết, sức hấp dẫn của mỗi kỳ

Hội chợ không chỉ là sự ra mắt của các công nghệ mới, mô hình hiệu quả trong nuôi tôm, còn là từ chủ đề mà Hội chợ hướng

đến. Mà năm nay, “Xanh hóa vùng nuôi” là trọng tâm mà VietShrimp 2025 lựa chọn.

Chuyển dịch theo hướng xanh, sản xuất tuần hoàn cũng

là xu thế của nhiều doanh nghiệp ngành thủy sản nhằm đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi từ quy định, luật lệ, tiêu chuẩn về môi trường. Tại Việt Nam hiện đã xuất hiện nhiều mô hình nuôi tôm theo hướng

tuần hoàn để tối ưu hóa đầu vào và đầu ra. Xanh hóa chuỗi sản xuất, chuẩn hóa lại sản xuất là mục tiêu mà ngành tôm Việt Nam hướng đến và cũng là giải pháp mà thế giới lựa chọn trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang ngày một trầm trọng. Đó còn là chiến lược của ngành thủy sản nói chung và con tôm nói riêng.

Lan tỏa thông điệp lớn Theo các chuyên gia, phát triển xanh là mục tiêu của kinh tế tuần hoàn, hướng tới phát

VietShrimp
Ảnh: VietShrimp

triển bền vững bằng cách tận dụng các nguồn chất thải và giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), các doanh nghiệp áp dụng mô hình nuôi tôm bền vững đã ghi nhận mức tăng trưởng doanh thu từ 15 - 20%, cho thấy tiềm năng kinh tế lớn từ việc chuyển đổi này.

VietShrimp 2025 mong muốn thông qua sự kiện này, ngành tôm sẽ tìm được giải pháp hữu hiệu nhất để phát triển hiệu quả và bền vững, vừa đảm bảo duy trì

đà tăng trưởng của ngành thủy sản, vừa đảm bảo sinh kế lâu bền của người nông dân, đồng thời giúp con tôm Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường tôm toàn cầu.

Ông Nguyễn Việt Thắng, Chủ tịch Hội Thủy sản Việt Nam, Trưởng Ban Tổ chức, chia sẻ: “Cả nước hiện có hơn 750.000 ha nuôi tôm thì đã có trên 200.000 ha nuôi tôm theo hướng hữu cơ, sinh thái, nuôi kết hợp, như tôm - rừng, tôm - lúa, trong đó, có hàng chục nghìn ha tôm nuôi theo hướng này được các tổ chức quốc tế chứng nhận và sản phẩm xuất khẩu đã tỏ rõ những ưu thế tại nhiều thị trường lớn và khó tính”.

Còn theo khẳng định của Thứ trưởng Bộ NN&MT Phùng Đức Tiến, việc triển khai các giải pháp đồng bộ, định hướng lại sản xuất theo hướng xanh, có trách nhiệm và bền vững để tạo động lực phát triển cho ngành tôm được coi là nhiệm vụ quan trọng trước mắt và lâu dài, đặc biệt phù hợp với chủ trương của Đảng, cam kết của Chính phủ về Net Zero đến năm 2050 và hành động quyết liệt của ngành nông nghiệp về phát nền kinh tế xanh.

Thúc đẩy cách mạng “xanh”

Theo nhận định của các chuyên gia, việc chuyển đổi sang phương thức sản xuất bền vững không còn là lựa chọn mà đã trở thành xu hướng tất yếu, “cuộc

cách mạng xanh” với ngành tôm

lại càng cấp thiết hơn.

Tại buổi Hội thảo chuyên

đề về tăng trưởng xanh trong

ngành tôm, ông Trần Đình Luân, Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư, cho biết, phát triển xanh trong chuỗi sản xuất tôm nước

lợ là việc áp dụng mô hình nuôi tôm thân thiện với môi trường không chỉ giúp nâng cao giá trị xuất khẩu mà còn góp phần bảo vệ hệ sinh thái, đảm bảo sinh kế lâu dài cho người nuôi.

“Phát triển xanh không chỉ là xu hướng mà còn là điều kiện

tiên quyết để ngành tôm Việt

Nam duy trì vị thế trên thị trường

thế giới. Bằng việc ứng dụng

công nghệ tiên tiến, kiểm soát

tốt dịch bệnh và đẩy mạnh kinh

tế tuần hoàn, ngành tôm nước lợ

Việt Nam không chỉ tăng trưởng

về sản lượng mà còn hướng đến

một nền sản xuất an toàn, hiệu quả và bền vững”, Cục trưởng

Trần Đình Luân chia sẻ thêm.

Còn về vấn đề thị trường,

ông Ngô Xuân Nam, Phó Giám

đốc Văn phòng SPS Việt Nam, cho rằng ngành tôm Việt Nam sẽ

phải đối mặt với nhiều khó khăn

trong năm 2025. Các thị trường

lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản và

Trung Quốc ngày càng siết chặt quy định về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và kiểm soát

dư lượng kháng sinh. Điều này

đòi hỏi các doanh nghiệp xuất

khẩu tôm phải đầu tư mạnh vào quy trình nuôi trồng, chế biến và kiểm soát chất lượng. Nếu không

đáp ứng được các tiêu chuẩn đó, nguy cơ bị cấm nhập khẩu hoặc

áp thuế cao là rất lớn.

Thông qua các gian hàng triển lãm và chuỗi Hội thảo trong

khuôn khổ Hội chợ năm nay cho

thấy rõ xu hướng ứng dụng công

nghệ cao, tối ưu hóa chi phí và

phát triển bền vững trong nuôi trồng thủy sản, nhất là nuôi

tôm nước lợ. Đặc biệt, nhiều giải

pháp mới về vi sinh, dinh dưỡng

và quản lý môi trường ao nuôi

đã được giới thiệu, mở ra những

cơ hội phát triển mới cho ngành

tôm nước ta.

ÔNG PHÙNG ĐỨC TIẾN, THỨ TRƯỞNG BỘ NN&MT

Đây là dịp để ngành tôm

bắt kịp sự phát triển công nghệ

Hội chợ đã trở thành sự kiện thường niên của ngành thủy sản, thu hút ngày càng đông đảo các gian hàng giới thiệu sản phẩm, công nghệ mới, sáng tạo; là nơi bà con nuôi tôm có cơ hội học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm để mang lại những vụ nuôi thành công và mở rộng quan hệ hợp tác, phát triển thị trường. Đồng thời là dịp để cộng đồng ngành tôm nhanh chóng bắt kịp sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số với trang thiết bị hiện đại, cập nhật thay đổi của ngành tôm toàn cầu, tiếp cận với những ứng dụng khoa học công nghệ, kỹ thuật mới theo quy chuẩn quốc tế, đáp ứng yêu cầu của các thị trường và đối thoại với các cơ quan quản lý, các nhà khoa học, các chuyên gia, các doanh nghiệp, tìm ra các giải pháp vượt qua khó khăn, khắc phục những điểm yếu để nâng tầm chuỗi giá trị tôm Việt.

ÔNG NGUYỄN NGỌC HÈ, PHÓ CHỦ TỊCH UBND TP CẦN THƠ

Hội chợ mở ra nhiều cơ hội

tác

TP Cần Thơ và các tỉnh ĐBSCL là nơi có rất nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu thủy sản. Hội chợ là cơ hội để ngành thủy sản vùng ĐBSCL và cả nước nói chung, giới thiệu những tiến bộ khoa học, công nghệ về khai thác, nuôi trồng, chế biến thủy sản và quảng bá thương hiệu, giới thiệu sản phẩm, dịch vụ, công nghệ,… phục vụ sản xuất, phát triển nghề nuôi tôm, nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm và khẳng định vị thế sản phẩm chất lượng cao trên thị trường thế giới. Hội chợ sẽ giúp mở ra nhiều cơ hội hợp tác với các đối tác trong và ngoài nước.

ÔNG NGUYỄN VIỆT THẮNG, TRƯỞNG BAN TỔ CHỨC VIETSHRIMP 2025

VietShrimp vẫn là diễn đàn lớn của ngành tôm Việt Nam

Với chủ đề “Xanh hóa vùng nuôi”, VietShrimp 2025 đã trở thành diễn đàn lớn để 4 nhà là: Nhà quản lýnhà khoa học - nhà kinh doanh - nhà nông cùng ngồi lại nhằm tìm giải pháp hữu hiệu nhất đưa ngành tôm Việt Nam phát triển hiệu quả và bền vững, vừa đảm bảo duy trì đà tăng trưởng của ngành thủy sản, vừa đảm bảo sinh kế lâu bền của người nông dân, đồng thời giúp con tôm Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường tôm toàn cầu. Bởi các mô hình sản xuất xanh đã, đang và sẽ là một lợi thế lớn của ngành tôm nước ta.

PHAN THẢO

“Động lực” chuyển hướng thị trường

Với quy định 46% thuế đối ứng, và trước đó là quy định khắt khe cùng sự lấn lướt của nhiều mặt hàng thủy sản từ các quốc gia khác, hàng thủy sản nước ta có nguy cơ dừng chân trước thị trường này nếu các cuộc đàm phán thương mại không thành công.

Thị trường lớn, quy định nhiều

Trong hơn nửa thập kỷ qua, Mỹ luôn là thị trường trọng điểm của thủy sản Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu dao động từ 1,5 tỷ USD đến 2,1 tỷ USD mỗi năm.

Hai tháng đầu năm 2025, xuất khẩu thủy sản sang thị trường Mỹ tăng 14,44% so cùng kỳ năm 2024, đạt 215,82 triệu

USD, chiếm 15,1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước.

Mặc dù vậy, đây cũng là thị trường có nhiều áp lực đối với

sản phẩm thủy sản Việt Nam.

Theo đại diện Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), sản phẩm thủy sản Việt

Nam xuất khẩu sang Mỹ phải đối

mặt với các biện pháp phòng vệ

thương mại như thuế chống bán

phá giá, thuế chống trợ cấp và các yêu cầu nghiêm ngặt về chất

lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, chính sách bảo hộ và hàng rào thuế quan của Mỹ cũng khiến thủy sản Việt Nam và các quốc gia khác cạnh tranh ngày càng gay gắt.

Chưa kể, các sản phẩm thủy sản xuất khẩu phải tuân thủ đầy

đủ các quy định của Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm

Mỹ, bao gồm các tiêu chuẩn về vệ sinh, an toàn thực phẩm và phòng chống dịch bệnh.

Chừng ấy quy định đã khiến cho doanh nghiệp thủy sản nước ta vất vả trong quá trình thâm nhập và giữ vị thế tại thị

trường Mỹ.

Mạnh tay thay đổi

chiến lược

Trong các mặt hàng thủy sản

Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ, tôm chiếm thị phần khá lớn. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm này

sang Mỹ vẫn tăng, tuy nhiên, sức cạnh tranh đang ngày càng khốc liệt.

Đại diện một doanh nghiệp cho rằng, thời gian qua, tôm

Việt Nam không những khó bì với tôm giá rẻ của Ecuador, Ấn Độ mà còn đối mặt giá cước vận tải tăng mạnh (khoảng 40%) vì

Trung Quốc gom container rỗng để dự phòng xuất khẩu trước kỳ hạn bị Mỹ áp thuế mới. Các doanh nghiệp thủy sản nước ta đã đưa ra nhiều giải pháp thích ứng với tình hình. Trong lĩnh vực xuất khẩu tôm, nhiều doanh nghiệp đã giảm tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường Mỹ, tăng cường xuất khẩu cho thị trường gần như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc,… Hoặc với những mô hình liên kết, cả doanh nghiệp và người nuôi sẽ tính toán mô hình nuôi và thời điểm thu hoạch để chủ động được thị trường với giá bán tốt.

Sự chuẩn bị này có lẽ giúp được nhiều doanh nghiệp giảm tổn thất trước tình hình thị trường Mỹ khó khăn như hiện nay. Bởi với mức thuế 46%, thủy sản Việt Nam nói chung và con tôm nói riêng đang đứng trước nguy cơ mất thị trường quan trọng này, vì các nước cạnh tranh trực tiếp với tôm Việt Nam đang chịu mức thuế thấp hơn nhiều, chẳng hạn: tôm Ấn Độ là 26%, Ecuador 10%, Indonesia 32%, Thái Lan 36%,... VASEP cũng khuyến nghị doanh nghiệp cân nhắc thời gian và kế hoạch xuất hàng để

 Theo ông Lê Bá Anh, Phó Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường, để giữ vững thị trường Mỹ, bên cạnh tôm và cá tra, ngành thủy sản cần đa dạng hóa sản phẩm, phát triển các đối tượng nuôi mới như rong biển, tảo, bào ngư, nhuyễn thể hai mảnh vỏ,… nhằm giảm phụ thuộc vào một số mặt hàng chủ lực và gia tăng giá trị xuất khẩu.

tránh bị áp mức thuế không mong muốn. Các doanh nghiệp chờ hướng dẫn của Chính phủ và các bộ, ngành (nếu có) để quyết định các phương án và kế hoạch tiếp theo.

Cùng đó, theo ý kiến của chuyên gia, Việt Nam cần nhanh chóng triển khai chiến lược đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tránh lệ thuộc quá nhiều vào một thị trường duy nhất. Các Hiệp định thương mại tự do đã ký kết sẽ là nền tảng để Việt Nam tiếp cận nhiều thị trường mới, từ đó giảm thiểu rủi ro.

Trước việc quyết định áp mức thuế đối ứng lên các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng cho biết: “Việt Nam sẽ tiếp tục phối hợp và trao đổi với phía Mỹ trên tinh thần xây dựng và hợp tác để tìm ra các giải pháp thiết thực, góp phần đưa quan hệ kinh tế song phương phát triển ổn định, bền vững, đáp ứng lợi ích của người dân và doanh nghiệp hai nước”.

Chúng ta sẽ chờ đợi kết quả đàm phán của Chính phủ trong việc cân bằng cán cân thương mại với nền kinh tế lớn nhất thế giới. Giảm sức ép bị áp thuế từ Mỹ cũng đang là mong muốn của đa số doanh nghiệp.

PHAN THẢO

VĂN BẢN MỚI

 Ngày 17/01/2025, Bộ NN&PTNT (nay là Bộ NN&MT) ban hành Quyết định số 373/ QĐ-BNN-KHCN phê duyệt Chương trình khuyến nông trung ương giai đoạn 20262030. Trong đó, lĩnh vực thủy sản bao gồm 5 chương trình gồm: Phát triển nuôi tôm nước lợ bền vững (triển khai tại các tỉnh, thành phố ven biển); Phát triển nuôi trồng thủy sản nước mặn, nước lợ; Phát triển nuôi trồng thủy sản nước ngọt bền vững; Phát triển khai thác và bảo quản sản phẩm hải sản; Phát triển chế biến, bảo quản nâng cao giá trị sản phẩm thủy sản. Riêng với chương trình Phát triển nuôi tôm nước lợ bền vững bao gồm 6 dự án, nhiệm vụ gồm: Phát triển nuôi tôm sú, TTCT thâm canh, bán thâm canh, nuôi sinh thái, công nghệ cao đảm bảo an toàn thực phẩm; Phát triển nuôi TTCT, tôm sú 2, 3 giai đoạn, nuôi tôm ứng dụng công nghệ số; Phát triển nuôi TTCT, tôm sú theo công nghệ biofloc, nano, công nghệ vi sinh, chế phẩm sinh học,…; Phát triển nuôi tôm sú - lúa, tôm càng xanh - lúa trong rừng ngập mặn; Ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật thu gom và xử lý chất thải trong nuôi tôm nước lợ; Phát triển nuôi tôm gắn với chứng nhận trong nước, chứng nhận quốc tế, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi số, du lịch trải nghiệm, tổ hợp tác/hợp tác xã/tổ Khuyến nông cộng đồng, liên kết tiêu thụ sản phẩm. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký ban hành.

 Ngày 20/02/2025, Thủ tướng Chính phủ ra Công điện số 17/CĐ-TTg về việc tích cực, chủ động triển khai các giải pháp thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, sản xuất và tiêu dùng bền vững, thương mại bền vững đáp ứng các chính sách xanh của Liên minh châu Âu. Trong đó, Thủ tướng yêu cầu Bộ trưởng Bộ Công Thương: Tập trung hỗ trợ kỹ thuật về chuyển đổi xanh nhằm thúc đẩy doanh nghiệp chuyển đổi sang mô hình sản xuất, kinh doanh bền vững; áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn và sử dụng hiệu quả tài nguyên, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, khuyến khích sử dụng nguyên vật liệu tái chế, năng lượng tái tạo; hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng các giải pháp thiết kế đổi mới sản phẩm để có thể nâng cấp, sửa chữa, bảo trì, tái sử dụng và tái chế, kéo dài vòng đời sản phẩm; đẩy mạnh hỗ trợ áp dụng các công cụ đánh giá vòng đời sản phẩm, kiểm kê phát thải khí nhà kính nhằm đáp ứng các yêu cầu, tiêu chuẩn, quy định xanh của Liên minh châu Âu; Xây dựng, hỗ trợ các hoạt động chứng nhận, dán nhãn sinh thái đối với các sản phẩm bền vững đáp ứng yêu cầu thị trường và các quy

định quốc tế; thúc đẩy xúc tiến thương mại, tổ chức các hội chợ xanh nhằm kết nối cung cầu các sản phẩm bền vững, các sản phẩm được dán nhãn sinh thái; thúc đẩy liên kết bền vững giữa các bên trong chuỗi, hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước tham gia các chuỗi bền vững trong nước và toàn cầu,…

 Ngày 21/3/2025, Chủ tịch Quốc hội

Trần Thanh Mẫn ký Nghị quyết số 1567/ NQ-UBTVQH về việc ban hành Nghị định

của Chính phủ quy định việc giảm tiền thuê đất năm 2024. Trong đó, Quốc hội đồng ý việc Chính phủ ban hành Nghị định quy định việc giảm tiền thuê đất năm 2024 cho các đối tượng như tại Tờ trình số 122/TTr-CP ngày 25/02/2025 của Chính phủ. Cùng đó, đề nghị Chính phủ khẩn trương ban hành Nghị định quy định việc giảm tiền thuê đất năm 2024 nhằm đảm bảo kịp thời; chỉ đạo xử lý các khó khăn, vướng mắc trong việc thu, nộp, hoàn trả tiền thuê đất hoặc tiền chậm nộp tiền thuê đất trong năm 2024 (nếu có); chịu trách nhiệm về nội dung đề xuất, tính chính xác thông tin, số liệu báo cáo, sự cần thiết trong việc xây dựng, ban hành Nghị định của Chính phủ quy định việc giảm tiền thuê đất năm 2024 theo đúng quy định của pháp luật. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày ký.

 Ngày 25/3/2025, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 10/CT-TTg về thúc đẩy phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trong đó, Thủ tướng giao Bộ NN&MT: Khẩn trương chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao trao đổi với Mỹ gia hạn thời gian hoàn thiện hồ sơ và đánh giá tương đương, đồng thời hoàn thiện hồ sơ đầy đủ theo Đạo luật Bảo vệ động vật có vú ở biển của Mỹ (MMPA) đảm bảo không ảnh hưởng đến khai thác, sản xuất, chế biến và xuất khẩu thủy sản sang Mỹ, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 15/4/2025; Chủ động rà soát, hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến quản lý khai thác, sản xuất, xuất khẩu thủy sản phù hợp các sản phẩm xuất khẩu sang châu Âu; triển khai các phương án ngoại giao và hỗ trợ ngư dân khai thác hợp pháp để xử lý dứt điểm cảnh báo thẻ vàng khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo và không được quản lý (IUU) đối với thủy sản khai thác của Việt Nam; Nghiên cứu xây dựng Chiến lược phát triển ngành công nghiệp nguyên liệu phụ phẩm nhằm gia tăng giá trị nông sản, xây dựng ngành công nghiệp nguyên liệu mới, tạo lợi thế cạnh tranh mới cho kinh tế nông nghiệp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong quý II/2025. 

Xuất khẩu tôm có sự tăng trưởng vượt bậc trong quý I/2025 Ảnh: An Minh

Giữ vững tâm lý, nắm bắt cơ hội

Ngành tôm Việt Nam đang đứng trước những áp lực không nhỏ, nhưng đồng thời cũng là cơ hội lớn để chuyển đổi theo hướng phát triển xanh, bền vững.

Phục hồi ấn tượng

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), quý I/2025, xuất khẩu thủy sản đã ghi nhận mức tăng trưởng cao so cùng kỳ năm trước. Mỹ, EU và

Trung Quốc là 3 thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và đều có xu hướng tăng nhập khẩu trở lại, nhất là đối với mặt hàng cá tra, tôm sú, TTCT và mực, bạch tuộc,... Xuất khẩu thủy sản phục hồi ấn tượng trong quý I/2025, với kim ngạch đạt 2,45 tỷ

USD, tăng 26% so cùng kỳ năm trước. Trong tháng 3/2025, giá trị xuất khẩu đạt gần 889 triệu USD, tăng gần 20%, cho thấy đà tăng trưởng vẫn được duy trì dù có dấu hiệu chững lại so hai tháng đầu năm.

Đối với riêng ngành tôm, giá tôm Việt

Nam xuất khẩu sang thị trường Trung

Quốc tăng 9,1% lên 7,2 USD/kg, mức cao nhất kể từ tháng 3/2023. Tuy nhiên, khối

lượng xuất khẩu lại giảm xuống 1.637 tấn, thấp nhất kể từ tháng 2/2023.

Tại Nhật Bản, giá tôm xuất khẩu của Việt

Nam tăng 5,6% lên 9,5 USD/kg. Giá xuất khẩu sang Hàn Quốc cũng ghi nhận mức tăng 5,3% lên 8 USD/kg.

Tương tự, tôm Việt Nam xuất khẩu sang Liên minh châu Âu (EU) ghi nhận mức tăng 3% lên 10,2 USD/kg. Đây cũng là mức tăng đầu tiên kể từ tháng 10/2024. Tuy nhiên, khối lượng xuất khẩu sang thị trường này giảm hơn một nửa xuống 103 tấn.

Giới chuyên gia kinh tế nhận định, việc nhiều nước dỡ bỏ các biện pháp siết chặt nhập khẩu sau đại dịch và tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu là cơ hội để thủy sản Việt Nam nói chung và ngành tôm nói riêng lấy lại thị phần.

Xanh hóa để nắm bắt cơ hội Nằm trong top 3 quốc gia xuất khẩu tôm hàng đầu thế giới, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và các yêu cầu ngày càng khắt khe về phát triển bền vững, ngành hàng tôm Việt Nam đang đứng trước những áp lực không nhỏ, nhưng đồng thời cũng là cơ hội lớn để chuyển đổi theo hướng phát triển xanh, bền vững. Đây được xem là con

đường tất yếu để nâng vị thế và giá trị trong chuỗi cung ứng thủy sản toàn cầu.

Tuy nhiên, để tăng tốc bền vững, ngành tôm không thể chỉ dựa vào thuận lợi bên ngoài. Những thách thức về tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và chứng chỉ xuất xứ vẫn

là bài toán nội tại cần giải quyết. Các thị trường khó tính như EU hay Nhật Bản ngày càng khắt khe trong vấn đề môi trường, kháng sinh và truy xuất nguồn gốc. Điểm sáng là nhiều doanh nghiệp đã chủ động nâng cấp quy trình nuôi trồng, áp dụng công nghệ cao và đầu tư hệ thống truy xuất điện tử. Việc đạt được các chứng chỉ như ASC, BAP, GlobalGAP,… giúp mở rộng cánh cửa vào những thị trường cao cấp và giữ vững vị thế cạnh tranh.

Một trong những xu hướng nổi bật của năm 2025 là chuyển đổi số trong quản lý và sản xuất thủy sản. Từ việc sử dụng cảm biến, AI trong kiểm soát môi trường ao nuôi, đến ứng dụng blockchain trong minh bạch hóa chuỗi cung ứng đang được các doanh nghiệp đầu ngành đẩy mạnh.

Bên cạnh đó, yếu tố “xanh” cũng trở thành lợi thế cạnh tranh. Các đơn hàng từ châu Âu hiện nay không chỉ yêu cầu chất lượng, mà còn đánh giá mức độ phát thải carbon trong quá trình sản xuất và vận chuyển. Việc đầu tư vào năng lượng tái tạo, tái sử dụng nước nuôi, giảm hóa chất độc hại,... đang dần trở thành tiêu chuẩn bắt buộc.

Để khai thác tối đa tiềm năng xuất khẩu trong năm 2025, sự đồng hành từ chính sách là rất quan trọng. Bộ NN&MT

đã công bố kế hoạch hỗ trợ tín dụng, đào tạo nhân lực và xúc tiến thương mại cho ngành thủy sản. Đồng thời, nhiều địa phương cũng đang triển khai quy hoạch lại vùng nuôi để tăng hiệu quả và giảm thiểu rủi ro môi trường.

Ngoài ra, liên kết giữa các khâu trong chuỗi giá trị cũng là yếu tố quyết định. Doanh nghiệp chế biến cần hợp tác chặt chẽ với người nuôi, tổ chức hợp tác xã, đơn vị logistics và cơ quan kiểm định để đảm bảo dòng sản phẩm ổn định, đạt chuẩn và đúng tiến độ xuất khẩu.

Tránh tâm lý lo sợ

Trước những biến động về thuế quan, mới đây Cục Thủy sản và Kiểm ngư đã có văn bản chỉ đạo gửi các Sở NN&MT các tỉnh, thành phố ven biển và các tỉnh, thành phố nội đồng vùng ĐBSCL về tăng cường chỉ đạo sản xuất nuôi trồng thủy sản.

Trong đó, người dân, doanh nghiệp thủy sản cần tránh tâm lý lo sợ dẫn đến tình trạng thu hoạch ồ ạt thủy sản nuôi hoặc hạn chế sản xuất, xuống giống,... làm ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất và mục tiêu tăng trưởng của ngành. Để chuẩn bị phương án chuyển hướng tích cực, các địa phương thường xuyên cập nhật, nắm chắc tình hình, cung cấp thông tin thị trường đến người dân và doanh nghiệp yên tâm, ổn định sản xuất trong thời gian các Bộ, ban, ngành chức năng đàm phán với Mỹ.

“Tối ưu hóa chuỗi sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, áp dụng

 Nhờ sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp và người nuôi, con tôm đã trở thành một trong những mặt hàng chủ lực, đưa Việt Nam vươn lên nhóm các quốc gia xuất khẩu tôm hàng đầu thế giới, chiếm khoảng 1314% giá trị xuất khẩu toàn cầu.

triệt để các biện pháp giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, quan tâm xây dựng thương hiệu, đảm bảo kiểm soát và truy xuất nguồn gốc xuất xứ để tránh bị Mỹ áp gian lận nguồn gốc hàng hóa và tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm. Sẵn sàng cho kịch bản không thể đàm phán, nỗ lực chuyển hướng xuất khẩu sang các thị trường Trung Quốc, Hàn Quốc, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, đồng thời tìm kiếm thị trường mới”, văn bản Cục Thủy sản và Kiểm ngư nêu rõ. Ông Trần Đình Luân, Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư nhấn mạnh, mục tiêu tăng trưởng ngành thủy sản năm nay với 4,35% sẽ là thách thức lớn trong bối cảnh thị trường quốc tế còn nhiều bất định. Tuy nhiên, những tín hiệu tích cực từ hai sản phẩm chủ lực là tôm và cá tra - đặc biệt tôm tăng trưởng trên 37,8% trong quý I đã tạo nền tảng lạc quan cho kế hoạch cả năm.

ĐÔNG PHONG

Quý I/2025, xuất khẩu tôm đạt 931,6 triệu USD

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), giá nguyên liệu ổn định cùng chiến lược đẩy mạnh sản phẩm giá trị gia tăng đã giúp tôm và cá tra duy trì vị thế dẫn đầu trong nhóm thủy sản xuất khẩu. Cụ thể, tháng 3/2025, kim ngạch xuất tôm đạt 326,8 triệu USD, tăng 20% so cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2025, kim ngạch xuất khẩu tôm đạt 931,6 triệu USD, tăng 35,7% so cùng kỳ năm trước. Sự tăng trưởng vượt bậc này đến từ nhu cầu mạnh mẽ tại các thị trường lớn như Trung Quốc, Mỹ và EU. Tuy nhiên, tôm Việt Nam dù giữ được đà tăng, vẫn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ Ecuador và Ấn Độ - những quốc gia có lợi thế về giá cả và quy mô sản xuất.

Xuất

tôm hùm sang Trung Quốc tăng gấp 9 lần Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), ngành công nghiệp tôm hùm của Canada đang phải đối mặt với những thách thức đáng kể do thuế quan tăng, dẫn đến mất thị phần tại Trung Quốc. Sự suy giảm này dự kiến sẽ được bù đắp bởi các quốc gia như Mỹ, Việt Nam, Australia và New Zealand. Trong đó, tôm hùm Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc có sự tăng trưởng đáng kể gấp 9 lần, chủ yếu nhờ giá thấp, các hiệp định thương mại và lợi thế về địa lý. Việc Trung Quốc dỡ bỏ lệnh cấm nhập khẩu tôm hùm Australia đánh dấu sự hồi sinh trong hoạt động xuất khẩu tôm hùm sang

Trung Quốc, có khả năng cho phép nước này cạnh tranh với tôm hùm

Việt Nam trên thị trường cao cấp. Tương lai của thị trường tôm hùm

Trung Quốc nghiêng về các nhà cung cấp ở Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Việt Nam và Australia nổi lên là những nhà cung cấp chính trừ khi các nước Bắc Mỹ tìm ra giải pháp cho chính sách thuế quan.

QUẢNG TRỊ

Vào mùa đánh bắt tôm hùm nhí

Từ tháng 2 đến tháng 4 âm lịch hằng năm, cánh thợ lặn ở thị trấn

Cửa Tùng, huyện Vĩnh Linh sửa soạn đồ nghề chuẩn bị cho một mùa lặn bắt tôm hùm giống. Những thợ lặn gần bờ bình quân mỗi ngày bắt được khoảng 30 - 40 con tôm hùm giống, bán cho thương lái với giá

36.000 đồng/con. Đối với các thợ lặn “chuyên nghiệp”, thường các chuyến đánh bắt cách bờ biển khoảng từ 0,3 - 0,5 hải lý. Mỗi lần lặn xuống, thợ lặn có thể đánh bắt khoảng 3 - 4 giờ đồng hồ dưới rạn đá. Cứ tay rọi đèn, mắt dán vào các vách đá nằm sâu hơn 3 - 4 m nước để bắt tôm hùm giống. Bình quân mỗi ngày, thợ lặn biển giỏi có thể bắt được khoảng 100 - 200 con tôm hùm giống, cho thu nhập từ 3 - 6 triệu đồng. Tôm hùm giống tự nhiên đề kháng tốt, dễ nuôi, nhanh lớn nên các chủ trang trại nuôi tôm sẵn sàng bỏ ra số tiền lớn để mua hàng từ các thương lái.

PHÚ YÊN

Giá tôm nguyên liệu không biến động nhiều

Theo Bộ Công thương, tại Phú Yên, trong những ngày cuối tháng 3/2025 giá nguyên liệu tôm sú đều ổn định so những ngày cuối tháng 2/2025, cụ thể: Đối với cỡ 50 con/kg ở mức 220.000 đồng/kg; cỡ 40 con/kg ở mức 250.000 đồng/kg; cỡ 30 con/kg ở mức 300.000 đồng/ kg; trái lại giá nguyên liệu TTCT cỡ 100 con/kg tăng 2.000 đồng/kg và đạt mức 120.000 đồng/kg. Trước thực trạng thuế nhập khẩu Mỹ vừa qua, lãnh đạo Sở NN&MT Phú Yên khuyến cáo người nuôi tôm và doanh nghiệp bình tĩnh để có những phương án phù hợp với tình hình, tránh thu tôm ồ ạt khiến giá giảm, nguồn cung đứt gãy.

Phát hiện gần 250.000 con tôm hùm giống không rõ nguồn gốc

Sáng 31/3, Phòng Cảnh sát kinh tế phối hợp với Chi cục Chăn nuôi và Thú y Khánh Hòa và lực lượng công an cơ sở kiểm tra hai cơ sở ương, dưỡng tôm hùm giống của ông Trần Thanh H (phường Cam Phúc Bắc, TP Cam Ranh) và ông Nguyễn Hoàng H (phường Cam Linh, TP Cam Ranh). Tại hai cơ sở này, cơ quan chức năng phát hiện gần 250.000 con tôm hùm giống có dấu hiệu không rõ nguồn gốc. Tại thời điểm kiểm tra, hai chủ cơ sở trên không xuất trình được giấy tờ chứng minh nguồn gốc xuất xứ của số tôm hùm giống trên. Hai chủ cơ sở cũng khai sắp đưa số tôm hùm giống này ra thị

trường tiêu thụ. Ngày 1/4, Phòng Cảnh sát Kinh tế, Công an Khánh

Hòa đã lập biên bản, đồng thời củng cố hồ sơ để xử lý vụ việc theo quy định.

TIỀN GIANG

Giá tôm nguyên liệu dự báo sẽ tiếp tục giảm

Những ngày gần đây, giá TTCT trên địa bàn tỉnh Tiền Giang bắt

đầu giảm. Cụ thể, những ngày trước, loại 20 con/kg có giá 220.000 - 230.000 đồng/kg, loại 30 con/kg khoảng 200.000 đồng/kg. Tuy nhiên, trong 2 ngày qua, giá TTCT đã giảm khoảng 20.000 - 30.000

đồng/kg. Hiện 2 loại tôm cỡ 20, 30 con/kg đang giảm giá nhiều. Riêng cỡ nhỏ hơn chưa giảm giá nhiều. Nguyên nhân khiến giá tôm quay đầu giảm có thể là do thông tin từ việc Mỹ sẽ áp thuế đối ứng

46% đối với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam. Các doanh nghiệp thủy sản của Việt Nam đang giảm giá, thận trọng trong việc thu mua.

KIÊN GIANG

Giá tôm có xu hướng sụt giảm mạnh

Theo nhiều hộ nuôi tôm tại vùng U Minh Thượng (Kiên Giang), giá tôm nguyên liệu có xu hướng sụt giảm mạnh từ đầu tháng 4 đến nay. Theo đó, giá TTCT giảm khoảng 10.000 đồng/kg so tháng 3/2025; cụ thể TTCT loại 100 con/kg thương lái thu mua từ 75.000 - 80.000 đồng/kg; TTCT loại 30 con/kg còn 145.000 đồng/kg. Giá tôm sú cũng giảm từ 10.000 - 20.000 đồng/kg tùy kích cỡ so với cách đây 1 tháng. Tôm sú loại 20 con/kg hiện thương lái mua 220.000 đồng/kg, tôm sú loại từ 30 - 40 con/kg giá khoảng 140.000 - 160.000 đồng/kg; tôm sú loại 10 con/kg giá 340.000 đồng/kg.

CÀ MAU

Lo tôm rớt giá, người dân thu hoạch ồ ạt

UBND tỉnh Cà Mau vừa có báo cáo rà soát, đánh giá tác động đối với ngành hàng thủy sản của tỉnh từ việc Mỹ áp dụng mức thuế nhập khẩu hàng hóa đối với Việt Nam. Ngay sau khi Mỹ công bố mức thuế đối với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam, các doanh nghiệp Việt không dám chào giá, đồng thời dừng xuất hàng hóa theo hợp đồng cho các khách hàng của Mỹ. Do vậy, giá tôm nguyên liệu lập tức bị giảm mạnh. TTCT bị giảm từ 4.000 - 15.000 đồng/kg, tùy loại. Tôm sú cỡ 20 con/kg đạt 290.000 đồng/kg; cỡ 30 con/kg đạt 190.000 đồng/kg; TTCT cỡ 20 con/kg đạt 270.000 đồng/kg. Khi doanh nghiệp giảm giá mua, người nuôi càng lo lắng và thu hoạch ồ ạt, dẫn đến giá giảm nhanh.

Thị trường thức ăn thủy sản dự báo đạt 171,53 tỷ USD vào năm 2030

Thị trường thức ăn thủy sản toàn cầu dự kiến sẽ đạt 171,53 tỷ

USD vào năm 2030, tăng trưởng với tỷ lệ CAGR 4,1% từ 129,48 tỷ USD trong năm 2023. Sự tăng trưởng này chủ yếu đến từ nhu cầu tăng cao đối với nuôi trồng thủy sản và tiêu thụ hải sản, cùng với các tiến bộ trong công thức thức ăn để cải thiện dinh dưỡng và tính bền vững. Nhu cầu về hải sản chất lượng cao và sự phụ thuộc vào nuôi trồng thủy sản để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ đang thúc đẩy thị trường. Các công nghệ mới như hệ thống cho ăn tự động và nuôi trồng thủy sản chính xác giúp tối ưu hóa hiệu quả sử dụng thức ăn và nâng cao sức khỏe thủy sản. Tuy nhiên, thị trường cũng đối mặt với thách thức về sự phụ thuộc vào nguyên liệu thô như bột cá và bột đậu nành. Việc chuyển hướng sang protein thay thế từ thực vật và côn trùng, cùng với công nghệ chuỗi khối, đang tạo cơ hội mới để nâng cao tính bền vững của ngành.

ARGENTINA

Ngành tôm đỏ của Argentina đã ghi nhận một mùa bội thu với sản lượng đánh bắt chất lượng cao, mặc dù khối lượng có giảm nhẹ gần đây do điều kiện thời tiết bất lợi. Tuy nhiên, ngành tôm của Argentina đang đối mặt với những thách thức lớn từ sự cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng. Giá tôm đỏ Argentina chịu áp lực, đặc biệt là từ thị trường châu Âu và châu Á, nơi nhu cầu yếu và các yếu tố kinh tế như đồng đô la biến động mạnh làm giảm khả năng cam kết các đơn hàng lớn. Tôm L1 hiện được giao dịch ở mức khoảng 6 USD/kg FOB, trong khi giá của các kích cỡ lớn hơn như L2 đã giảm dưới mức 7 USD/kg. Tại châu Âu, giá tôm dao động từ 7,3 EUR/kg đến 7,8 EUR/kg cho các kích cỡ lớn hơn. Tuy nhiên, trên thị trường bán buôn tại Mỹ, giá tôm đỏ Argentina vẫn ổn định do lượng hàng tồn kho hạn chế và mùa vụ mới bắt đầu. Giá tôm đông lạnh biển loại 10 - 20 con dao động từ 4,15 đến 4,25 USD/ pound, trong khi tôm không đầu còn vỏ giữ mức giá từ 5,35 đến 5,7 USD/pound.

CHÂU ÂU

Thị trường biến động trong tháng 3/2025

Thị trường tôm châu Âu trong tháng 3/2025 ghi nhận nhu cầu tiêu thụ khá chậm, tuy nhiên, xu hướng này dự báo sẽ cải thiện khi kỳ nghỉ lễ Phục Sinh đến gần và thời tiết mùa Xuân có sự thay đổi tích cực. Trong bối cảnh đó, giá các loại tôm trên thị trường chủ yếu ổn định hoặc có sự biến động nhẹ. Giá TTCT ổn định đối với một số sản phẩm. Cụ thể, tôm PD (peeled and deveined) xử lý hóa chất, kích cỡ 31 - 40 con/lb vẫn duy trì ở mức 8,1 EUR/ kg. Tôm còn đuôi, kích cỡ 21 - 25 con/kg từ Ecuador có giá tăng lên 8,7 EUR/kg, trong khi tôm nguyên con kích cỡ 41 - 50 con/kg giảm xuống còn 5,7 EUR/kg. Tôm nguyên con kích cỡ 16 - 20 con/ kg FOB được giao dịch ở mức 6,65 EUR/kg, còn giá tôm đông lạnh bán buôn tại Tây Ban Nha vẫn ổn định ở mức 5,8 EUR/kg. Tôm đỏ Argentina cũng có mức giá ổn định, với tôm nguyên con kích cỡ 10 - 20 con/kg EXW Argentina vẫn ở mức 8 EUR/kg. Tôm đông lạnh trên tàu cùng kích cỡ FOB có giá 7,5 EUR/kg. Giá tôm còn đuôi dễ bóc vỏ, 20% mạ băng, kích cỡ 13 - 15 con/kg CIF Trung Quốc đạt mức 11,3 EUR/kg.

Thị trường tôm giảm giá do nguồn cung phục hồi

Giá tôm Ấn Độ tiếp tục giảm do nguồn cung dự kiến tăng từ vụ thu hoạch chính đầu tiên (giữa tháng 3 - tháng 4). Giá tôm đông lạnh Platts (đã lột vỏ, bỏ đầu, giữ đuôi) FCA Ấn Độ giảm 420 USD/ tấn trong tháng, xuống còn 7.274 USD/tấn vào ngày 3/3. Giá chào xuất khẩu tôm giá trị gia tăng cũng giảm liên tục trong tháng 2 do nhu cầu yếu từ Mỹ và EU. Trong khi giá tại trại vẫn ổn định đầu tháng, đến nửa cuối tháng, giá đã giảm khi các nhà chế biến tạm dừng thu mua do mức giá không còn hấp dẫn. Giá tôm nguyên con có đầu và vỏ tại Andhra Pradesh giảm ít nhất 50 Rupee/kg (573 USD/tấn) so tháng trước. Dù giá thức ăn vẫn cao, nông dân lo ngại lợi nhuận bị ảnh hưởng nếu giá tôm tiếp tục giảm trước vụ thu hoạch mới.

TRUNG QUỐC

Giá tôm giảm, nông dân thận trọng

Sau đợt phục hồi mạnh từ tháng 1/2025, giá TTCT Nam Mỹ tại Trung Quốc bắt đầu giảm trong tuần thứ 11. Tại tỉnh Giang Tô, giá tôm cỡ 60 con/kg giảm từ 56 CNY/kg xuống 53 CNY/kg, tương tự tại Quảng Tây, trong khi tại Quảng Đông, giá tăng nhẹ từ 40 lên 41 CNY/kg. Nguyên nhân chính của sự giảm giá là nhu cầu tiêu thụ sau kỳ nghỉ thấp, giá tôm nhập khẩu ở mức thấp và nông dân trì hoãn thu hoạch. Thêm vào đó, việc giá thức ăn tăng thêm 200 - 300 CNY/ tấn cũng làm gia tăng chi phí nuôi tôm. Giá tôm giảm khiến nông dân Trung Quốc thận trọng trong việc mở rộng sản xuất. Không có kỳ nghỉ lễ vào cuối tháng 3 càng khiến nhu cầu tiêu thụ không được thúc đẩy, cộng thêm việc giá tôm nhập khẩu vẫn ở mức thấp, tạo thêm khó khăn cho thị trường.

NHẬT BẢN

Dự báo tăng nhập khẩu tôm đỏ Canada

Nhật Bản dự kiến sẽ tăng nhập khẩu tôm đỏ Canada sau khi Trung Quốc áp thuế bổ sung 25% đối với hải sản Canada. Điều này tạo cơ hội cho Nhật Bản tăng cường nhập khẩu tôm đỏ và tôm hùm

từ Canada. Một công ty thương mại Nhật Bản nhận định, dù xuất

khẩu tôm đỏ Canada sang Nhật giảm trong những năm gần đây do

Trung Quốc mở rộng thị trường, nhưng hiện nay, thị trường Nhật Bản sẽ được tái cấu trúc. Xuất khẩu tôm đỏ đông lạnh nguyên vỏ từ

British Columbia sang Nhật Bản đã giảm mạnh từ 160 tấn năm 2021 xuống 32 tấn năm 2022, và không có lô hàng nào trong năm 2023. Tuy nhiên, con số này đã phục hồi lên 101 tấn trong năm 2024.

Giá tôm nguyên liệu thế giới tuần 12 (17 - 23/3/2025)

Ecuador: Tôm Ecuador duy trì ổn định trong tuần 11, với các mức giá không thay đổi so tuần trước. Tôm loại 20 - 30 con/kg giữ mức 4,6 USD/kg, trong khi tôm 40 - 50 con/kg và 50 - 60 con/kg vẫn ở mức 3,75 USD/kg và 3,4 USD/kg. Dù giá ổn định, mức giá hiện tại cao hơn so cùng kỳ năm trước, với tôm cỡ 20 - 30 con/kg cao cấp tăng 0,6 USD/kg.

Indonesia: Giá tôm Indonesia có sự điều chỉnh giảm nhẹ trong tuần 12. Tôm 40 con giảm xuống còn 69.000 IDR/kg (3,42 USD/kg), trong khi tôm 70 con/kg giảm xuống 61.000 IDR/kg. Tuy nhiên, nhiều loại tôm khác không có sự thay đổi lớn.

OANH THẢO

ECUADOR

Phía sau thành công của ngành tôm

Ecuador là nhà sản xuất tôm lớn nhất thế giới, với sản lượng khoảng 1,3 triệu tấn mỗi năm. Thành tựu này không đạt được trong một sớm một chiều mà là kết quả của hơn hai thập kỷ nỗ lực bền bỉ.

Sức mạnh di truyền gen

Thành công của ngành tôm Ecuador

phần lớn nhờ vào việc sử dụng nguồn gen

địa phương. Trước năm 2000, nước này liên

tục đối mặt với dịch bệnh do sử dụng tôm

giống tự nhiên và nhập khẩu. Để khắc phục, Ecuador chuyển sang phát triển tôm bản

địa, tập trung tạo đàn bố mẹ có khả năng thích nghi tự nhiên với mầm bệnh, thay vì sử dụng giống tôm sạch bệnh (SPF).

Họ bắt đầu chọn lọc những con tôm

khỏe mạnh nhất đã thích nghi và phát triển tốt trong môi trường địa phương. Để duy trì

chất lượng, họ áp dụng các tiêu chí nghiêm

ngặt nhằm loại bỏ mầm bệnh và kiểm soát

mức độ mầm bệnh thấp khi chọn giống.

Bên cạnh đó, họ cũng áp dụng phương pháp không cắt mắt tôm, giúp giảm căng thẳng, cải thiện sức khỏe tổng thể và khả năng chịu đựng của chúng.

Suốt 25 năm qua, mỗi thế hệ tôm mới

đều được chọn lọc di truyền để cải thiện khả năng kháng bệnh và sức chống chịu tốt hơn. Hiện tại, Ecuador có 9 công ty đang triển khai chương trình cải tiến di truyền, trong khi 20 công ty khác quản lý các cơ sở tôm giống và cung cấp tôm giống cho ngành công nghiệp. Các chương trình này sử dụng

dấu hiệu di truyền tiên tiến và công nghệ sinh học, hoàn toàn dựa vào nguồn tôm địa phương.

Thực hành bền vững

Ecuador có tổng diện tích nuôi tôm lên tới 232.071 ha, với sản lượng trung bình 5 tấn/ha mỗi năm, mật độ nuôi dao động 15 - 25 PL/m². Tuy nhiên, trại tôm thường có quy mô lớn, với đa số ao nuôi rộng 10 - 20 ha gây khó khăn trong việc thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp an toàn sinh học. Thay vào đó, nông dân sử dụng chế phẩm sinh học để tăng cường lợi khuẩn và kiểm soát vi khuẩn có hại, coi đây là giải pháp tự nhiên thay thế cho biện pháp an toàn sinh học.

Do không thể áp dụng các biện pháp an toàn sinh học, cũng như khử trùng hay lọc toàn bộ nước, Ecuador phải áp dụng phương pháp tự nhiên hơn trong hệ thống nuôi, với mật độ thấp và cách quản lý khác biệt so với các hệ thống nuôi tôm công nghiệp. Tuy nhiên, họ vẫn sử dụng một số công nghệ, và hệ thống truy xuất nguồn gốc chính xác.

Theo Yahira Piedrahita, Giám đốc điều hành Phòng Nuôi trồng Thủy sản Quốc gia Ecuador (CNA), mỗi trang trại có tiêu chuẩn sản xuất riêng và duy trì chất lượng nước là

yếu tố hàng đầu. Một yếu tố quan trọng là sử dụng thức ăn chức năng được điều chỉnh phù hợp với đặc thù của điều kiện nuôi trồng địa phương về độ mặn, mật độ nuôi và nguy cơ dịch bệnh. Hiện, các trại tôm Ecuador đã áp dụng công nghệ mới như máy cho ăn tự động, sục khí cơ học, trí tuệ nhân tạo và kỹ thuật giám sát tiên tiến để nâng cao năng suất.

Liên kết dọc

Ngành tôm ở Ecuador chủ yếu do các công ty tích hợp theo chiều dọc chi phối. Nhiều công ty sở hữu trại giống, trang trại và nhà máy chế biến, trong khi một số khác chỉ tập trung vào các phân khúc cụ thể. Toàn bộ chuỗi sản xuất hoạt động trong nước, ngoại trừ các công ty thức ăn gia súc đa quốc gia cung cấp nguyên liệu. Mô hình kinh doanh này tạo ra một ngành công nghiệp tập trung, với ít nhà đầu tư chủ chốt ra quyết định, giúp quá trình ra quyết định nhanh chóng và chiến lược.

Ecuador có khả năng điều chỉnh sản phẩm linh hoạt và nhanh chóng đáp ứng thay đổi thị trường, nhất là khi có biến động lớn như COVID-19. Trong đại dịch, thay vì tiếp tục xuất khẩu tôm nguyên con

sang Trung Quốc, Ecuador chuyển sang sản

phẩm giá trị gia tăng, giúp gia tăng thị phần

tại Mỹ. Vị trí địa lý thuận lợi cũng mang lại

lợi thế, giúp Ecuador tối ưu hóa chuỗi cung

ứng và nhanh chóng đáp ứng nhu cầu thị

trường Mỹ.

Hợp tác vì mục tiêu chung

Một yếu tố quan trọng góp phần vào sự thành công của ngành tôm ở Ecuador là tầm nhìn chung về tương lai. Các ngành hợp tác

chặt chẽ để đạt mục tiêu chung, đặc biệt trong việc thúc đẩy phương pháp nuôi bền vững. Những năm 2012 - 2013, Ecuador khởi xướng sáng kiến “Tôm tốt nhất thế giới”, ban đầu nhắm đến thị trường địa phương.

Sau đó, Ecuador nâng cao tiêu chuẩn chất

lượng, áp dụng các phương pháp tốt nhất

và hợp tác với châu Âu để tuân thủ các quy

định nghiêm ngặt của họ. Nông dân đã thích ứng với các tiêu chuẩn này, đồng thời giảm

sử dụng kháng sinh để tránh bị từ chối xuất

khẩu. Các trang trại phối hợp thúc đẩy tiêu

thụ tôm trong nước và toàn cầu, định vị tôm

Ecuador là sản phẩm chất lượng cao, lấy chất lượng làm thông điệp marketing chủ chốt.

Chính phủ không trợ cấp tài chính trực

tiếp, chỉ hỗ trợ quy định, giám sát, tiếp cận

thị trường và chứng nhận. Ngành tôm phải

tự tìm giải pháp và hợp tác với chính phủ để

đề xuất các thay đổi về quy định hoặc sáng

kiến giúp giải quyết các thách thức.

“Bên cạnh đó, các hiệp hội ngành có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy các mục tiêu chung. CNA là tổ chức duy nhất tại Ecuador, kết nối các thành viên trong chuỗi sản xuất tôm - từ công ty thức ăn, trại giống, trang trại, nhà máy chế biến, nhà xuất khẩu cho đến các công ty quốc tế tại Ecuador. Cấu trúc này giúp các nhà hoạch định chính sách làm việc với một đại diện duy nhất thay vì phải xử lý nhiều quan điểm khác nhau”, Piedrahita chia sẻ.

Mô hình sản xuất của Ecuador phù hợp hơn với các trang trại truyền thống và bán thâm canh có năng suất thấp (khoảng 0,5 - 2 tấn/ha/năm). Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp của Ecuador không thể thực hiện độc lập mà cần một hệ sinh thái phát triển đồng bộ, gồm tôm bố mẹ chất lượng cao, phụ gia thức ăn hiệu quả, các phương pháp bền vững, chuỗi cung ứng hiệu quả và sự hỗ trợ mạnh mẽ từ Chính phủ. Ngoài ra, các yếu tố phi kỹ thuật - như khả năng hợp nhất toàn bộ chuỗi giá trị tôm - cung cấp những bài học quý giá cho các quốc gia sản xuất tôm khác học hỏi. TUẤN MINH

(Theo Thefishsite)

MỸ

Chính sách thuế thay đổi cục diện thương mại tôm

toàn cầu?

Trong khi ngành tôm Mỹ hoan nghênh thuế quan 10 - 46% với tôm nhập khẩu như chiếc phao cứu sinh, thì các quốc gia sản xuất tôm châu Á lo ngại cạnh tranh khốc liệt hơn và nguy cơ mất thị phần.

Tôm Mỹ

lợi

Nhằm bảo vệ việc làm cho

người Mỹ và đảm bảo an ninh

lương thực, chính quyền

Trump đã áp thuế mới đối với

các quốc gia xuất khẩu tôm

chủ chốt, một quyết định

được Liên minh Tôm miền

Nam (SSA) hoan nghênh.

Các mức thuế này được

áp dụng vào thời điểm

quan trọng, khi 94% lượng tôm và toàn bộ thủy sản tiêu thụ tại Mỹ đều đến từ nhập khẩu. Sự phụ thuộc này hoàn toàn trái ngược với tổng thể nhập khẩu thực phẩm của Mỹ, vốn chỉ chiếm 15% tổng lượng tiêu thụ, theo Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA). Các mức thuế mới được kỳ vọng sẽ hạn chế nhập khẩu, ngăn chặn sự phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn cung nước ngoài, đồng thời tạo điều kiện để chính quyền giải quyết những bất cập trong chính sách thương mại và thực thi pháp luật.

Ấn Độ sẽ có lợi thế tương đối trong khu vực châu Á, so với các nhà cung cấp lớn như Indonesia, Thái Lan và Việt Nam. Ấn Độ có thể nhắm đến các phân khúc mà các nhà sản xuất Mỹ Latinh chưa thể cung cấp. Trong khi đó, Indonesia, Việt Nam và Thái Lan sẽ gặp khó khăn trong việc duy trì thị phần tại Mỹ. Các nhà cung cấp nhỏ hơn ở châu Á như Bangladesh và Sri Lanka sẽ bị ảnh hưởng nặng nề và có thể gặp khó khăn trong việc duy trì hoạt

Biến động thị trường toàn cầu

Theo ông Willem van der Pijl, chuyên gia phân tích ngành tôm tại Shrimpinsight, chính sách thương mại mới của Trump chắc chắn sẽ tác động mạnh mẽ trong ngắn hạn và có thể tạo ra những thay đổi căn bản trong trung và dài hạn đối với ngành tôm. Nếu thuế quan giữ nguyên, Ecuador, Argentina, Honduras, Mexico, Guatemala, Peru và Saudi Arabia sẽ có lợi thế cạnh tranh lớn hơn so với các quốc gia châu Á, đồng thời tận dụng cơ hội này để giành thị phần. Ecuador có thể tăng cường sản xuất các sản phẩm đã bóc vỏ và có giá trị gia tăng, hiện đang được ưa chuộng tại thị trường Mỹ.

động tại thị trường Mỹ. Các nhà sản xuất tôm trong nước tại Mỹ có thể gia tăng sản lượng và thị phần, nhưng họ sẽ khó có thể thay thế được lượng tôm tiêu thụ tổng thể, do hạn chế trong khả năng sản xuất và cạnh tranh về giá. Các nhà sản xuất tại Indonesia và Việt Nam đang gặp khó khăn lớn do chi phí sản xuất cao, thuế quan cao từ Mỹ và sự cạnh tranh mạnh mẽ từ Ecuador và Ấn Độ ở các thị trường khác. Phát triển thị trường nội địa sẽ tốn thời gian, trong khi cạnh tranh ở các thị trường quốc tế cũng rất khốc liệt. VŨ ĐỨC

Ảnh: ST

Đánh

giá khả năng tiêu hóa bằng enzyme của ấu trùng TTCT

Nhận diện và can thiệp hiệu quả vào tình trạng suy giảm hoạt tính enzyme trong giai đoạn hậu ấu trùng (PL) qua lựa chọn nguyên liệu và tối ưu hóa công thức dinh dưỡng là yếu tố then chốt cải thiện hiệu suất và sức khỏe tổng thể của vật nuôi.

Mỗi

Khủng hoảng enzyme

Ở cấp độ sinh lý, hệ enzyme tiêu hóa nội sinh giữ vai trò quan trọng trong phân giải và hấp thu protein - thành phần dinh dưỡng chính trong khẩu phần ăn của ấu trùng tôm.

Protein cung cấp các axit amin thiết yếu, hỗ trợ tăng trưởng và nâng cao tỷ lệ sống của ấu trùng. Đảm bảo nguồn cung protein đầy đủ là nền tảng để tối ưu hóa sức khỏe và phát triển của ấu trùng.

Trong giai đoạn ấu trùng sớm (zoeamysis), hệ tiêu hóa của tôm còn đơn giản và chưa hoàn thiện. Khi chuyển sang giai đoạn hậu ấu trùng sớm, tôm trải qua hiện tượng “khủng hoảng enzyme” - sụt giảm rõ rệt trong sản xuất các enzyme tiêu hóa như trypsin và chymotrypsin.

Nghiên cứu cho thấy hoạt tính trypsin giảm mạnh ở giai đoạn này và tiếp tục suy giảm theo sự phát triển của tôm. Chymotrypsin tăng trong giai đoạn zoea nhưng lại giảm đáng kể khi tôm bước vào giai đoạn hậu ấu trùng sớm. Sự suy giảm enzyme này ảnh hưởng đến

khả năng tiêu hóa và hấp thụ protein - yếu tố

quan trọng đối với sự tăng trưởng. Do đó, hiểu rõ “khủng hoảng enzyme” là chìa khóa để xây

dựng khẩu phần ăn phù hợp, góp phần nâng cao hiệu quả nuôi tôm trong giai đoạn phát triển quan trọng này.

Mới đây, các chuyên gia dinh dưỡng tại

INVE đã thực hiện nghiên cứu phối hợp với Đại học Sao Paulo (Brazil), tập trung tối ưu hóa phương pháp đánh giá khả năng tiêu hóa in vitro ở giai đoạn ấu trùng và hậu ấu trùng của TTCT Thái Bình Dương. INVE cũng tiến hành sàng lọc nhiều nguyên liệu khác nhau để phân tích khả năng tiêu hóa, đánh giá tác động của khủng hoảng enzyme và tìm giải pháp hỗ trợ tăng trưởng tối ưu trong các giai đoạn phát triển này.

Khả năng tiêu hóa

INVE đã sử dụng phương pháp pH-stat in vitro để đánh giá khả năng tiêu hóa protein từ các nguồn thực vật và động vật biển, đất liền. Phương pháp này được chuẩn hóa với các chiết xuất enzyme từ các giai đoạn zoea (Z), mysis (M) và post-larval (PL) của TTCT. Tỷ lệ enzyme - chất nền (E:S) tối ưu được xác định qua việc đánh giá các nồng độ khác nhau để đạt được sự phân giải protein đáng kể và giá trị lặp lại.

Phương pháp này giám sát quá trình thủy phân protein qua sự thay đổi pH. Trong quá trình phân giải protein, proton được giải phóng làm giảm pH. Để duy trì pH ổn định, natri hydroxide (NaOH) được thêm vào liên tục, và lượng NaOH tiêu thụ sẽ tương quan với mức độ thủy phân, từ đó phản ánh khả năng tiêu hóa protein. Phương pháp pHstat được đánh giá là đơn giản, chính xác và đáng tin cậy khi xác định khả năng tiêu hóa của các thành phần thức ăn. Khả năng tiêu hóa theo giai đoạn Kết quả thử nghiệm cho thấy sự thay đổi rõ rệt trong khả năng tiêu hóa protein ở các giai đoạn phát triển khác nhau của TTCT, nhấn mạnh sự quan trọng của việc xây dựng công thức chế độ ăn phù hợp với từng giai đoạn để tối ưu hóa sự phát triển và sức khỏe của tôm. Cụ thể, giai đoạn mysis II (MII) có khả năng tiêu hóa protein tốt nhất. Dữ liệu chỉ ra sự tăng trưởng của khả năng enzyme tiêu hóa protein từ giai đoạn zoea ZII sang MII, sau đó giảm dần từ MII đến PL3, và tiếp tục giảm từ PL3 đến PL7 (Hình 1).

Khả năng tiêu hóa của các nguyên liệu thức ăn

Lựa chọn nguyên liệu là yếu tố quan trọng trong xây dựng chế độ ăn cho ấu trùng. Nghiên cứu của INVE đánh giá khả năng tiêu hóa của các nguyên liệu qua các giai đoạn phát triển khác nhau. INVE sử dụng hai nhóm đối chứng (casein và gelatin), năm nguồn protein động vật biển, hai nguồn thực vật và một nguồn men (Hình 2). Mức độ thủy phân cao nhất được ghi nhận ở cá, sau đó là bột mực và gelatin.

Các nguồn protein từ biển thường có khả năng tiêu hóa tốt hơn so với các nguồn thực vật. Sự khác biệt này do sự hiện diện của chất ức chế enzyme trong thực vật và thiếu hụt protease cần thiết cho việc tiêu hóa vật liệu thực vật ở ấu trùng tôm. Ví dụ, khô đậu, một nguồn protein thực vật phổ biến, có khả năng tiêu hóa thấp hơn ở tất cả các giai đoạn nghiên cứu.

Cá sấy khô đông lạnh là thành phần dễ tiêu hóa nhất trong các giai đoạn chế biến, thể hiện giá trị dinh dưỡng vượt trội của thức ăn từ biển. Bột cá có mức độ thủy phân thấp hơn so với cá sấy khô đông lạnh, cho thấy cách chế biến nguyên liệu ảnh hưởng đến khả năng tiêu hóa. Protein từ hải sản tươi cấp đông được đánh giá cao nhờ khả năng tiêu hóa tốt và hàm lượng dinh dưỡng phong phú. Những nguyên liệu biển này cung cấp dưỡng chất dễ hấp thụ cho ấu trùng, hỗ trợ phát triển và tăng trưởng hiệu quả hơn so với nguyên liệu khô đã qua chế biến.

“Khủng hoảng enzyme” chủ yếu xảy ra ở giai đoạn ấu trùng PL3 và ít hơn ở PL7, là một thách thức lớn đối với quá trình tiêu hóa protein và hấp thu dưỡng chất. Hiểu và giải quyết vấn đề này bằng cách lựa chọn nguyên liệu phù hợp và xây dựng chế độ ăn hợp lý có thể cải thiện hiệu suất nuôi trồng và sức khỏe tổng thể.

DŨNG NGUYÊN (Theo Globalseafood)

Cải thiện sắc tố ấu trùng tôm

bằng dinh dưỡng

Cách đạt được ruột và gan tụy

màu

Thử nghiệm được thực hiện tại Trung tâm

Thử nghiệm Trại giống Tôm Growel (GSHFTC) để đánh giá hiệu quả của thức ăn có sắc tố Origin® 300D đối với sắc tố ruột và gan tụy của ấu trùng TTCT. Mục tiêu là xác định cách đạt được sắc tố

đậm màu cho ruột và gan tụy thông qua việc sử dụng thức ăn này đơn lẻ hoặc kết hợp với các loại thức ăn khác. Thí nghiệm gồm năm chế độ ăn, mỗi chế độ được lặp lại năm lần. Trong thí nghiệm, ấu trùng tôm được cho ăn chế độ ăn tổng hợp, gồm thức ăn không sắc tố, thức ăn Growel Origin và một loại thức ăn khác từ trại giống khác, từ giai đoạn PL4 đến PL7. Sau đó, thức ăn chuyển sang Origin® 300D (sắc tố đậm) và tiếp tục sử dụng đến hết chu kỳ, hoặc kết hợp với các loại thức ăn khác trong suốt giai đoạn phát triển hoặc chỉ trong một đến hai ngày. Nguồn tôm giống sạch bệnh (SPF) dòng tăng trưởng được lấy từ các bể ương ấu trùng thương mại trong nhà. Ấu trùng (PL3) được thả vào 25 bể nuôi (mật độ 60 con/L, khoảng 8.400 con/bể dung tích 140L) và nuôi trong 10 ngày theo quy trình phổ biến tại các trại giống thương mại ở Ấn Độ.

Ấu trùng được cho ăn từ sáu đến tám lần mỗi ngày. Trước giai đoạn PL7, khẩu phần gồm bốn bữa Artemia nauplii sống và sáu bữa thức ăn thương mại. Từ PL7, số bữa ăn bằng thức ăn thương mại tăng lên tám, trong khi Artemia giảm xuống còn hai bữa. Khi đạt giai đoạn PL9, việc cho ăn Artemia dừng hoàn toàn và chế độ ăn thử nghiệm được áp dụng.

Thức ăn Origin 300D không ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của ấu trùng, bất kể

thời gian sử dụng. Nhóm ấu trùng được cho ăn thức ăn này đạt tăng trưởng và tỷ lệ sống cao hơn, cho thấy khả năng hấp thụ dinh dưỡng tốt hơn, tốc độ tăng trưởng nhanh hơn và khả năng chống stress, mầm bệnh cao hơn.

Quan sát sắc tố

Giai đoạn 1 (PL3 - PL7): Sắc tố ở ruột và gan tụy của ấu trùng có màu nhạt và hiện tượng này đồng đều ở tất cả các nghiệm thức.

Giai đoạn 2 (PL8 - PL10): Ấu trùng ăn thức ăn có sắc tố đậm (T2) đạt màu ruột và gan tụy đậm nhất, tiếp theo là nhóm ăn thức ăn phối hợp (T3). Màu sắc nhạt nhất xuất hiện ở các nghiệm thức 1, 4 và 5, khi chỉ cho ăn Origin 300. Màu ruột mong muốn đạt được khi ấu trùng ăn thức ăn có sắc tố đậm liên tục ít nhất hai ngày, kết hợp với thức ăn không sắc tố trong hai ngày sẽ tạo màu sắc gan tụy trung bình.

Giai đoạn 3 (PL11 - PL12): Cuối quá trình nuôi, màu đậm ở ruột và gan tụy bắt đầu xuất hiện ở nhóm chỉ ăn thức ăn Origin 300D, và nhóm ăn thức ăn phối hợp nhưng chưa từng được cho ăn thức ăn có sắc tố đậm trước đó. Tuy nhiên, màu sắc đậm nhất xuất hiện ở các nghiệm thức T2 và T4 khi tôm được cho ăn thức ăn có sắc tố đậm từ giai đoạn PL8. Kết quả cho thấy thức ăn có sắc tố đậm nên được sử dụng trong giai đoạn cuối của quá trình nuôi để đạt màu sắc mong muốn. Nếu không thể sử dụng suốt giai đoạn này, trại giống nên cung cấp ít nhất 3 - 4 bữa ăn có sắc đậm tối trước khi thu hoạch.

MI LAN (Theo Asia Aquaculture)

Hình 1
Hình 2a
Hình 2b

Kiểm tra con giống bằng cảm quan

Chất lượng của tôm giống quyết định đến 50% sự thành bại của vụ nuôi. Bên cạnh việc thực hiện truy xuất nguồn gốc con giống, người nuôi có thể kiểm tra, đánh giá chất lượng tôm giống bằng cảm quan.

Có thể quan sát bằng mắt

Lợi ích khi chọn tôm giống chất lượng

Tiết kiệm chi phí: Khi tôm giống khỏe mạnh, người nuôi sẽ giảm được chi phí cho việc xử lý bệnh, sử dụng thuốc, hóa chất, và các biện pháp chăm sóc đặc biệt.

Đảm bảo chất lượng thành phẩm: Tôm giống chất lượng giúp tạo ra sản phẩm tôm thương phẩm có chất lượng cao, đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu hoặc thị trường trong nước, nâng cao thu nhập của người nuôi.

Tăng hiệu quả kinh tế: Con giống tốt thường có tỷ lệ sống cao, sẽ tiêu hóa thức

ăn tốt và tăng trưởng nhanh hơn, ít rủi ro dịch bệnh, nâng cao hiệu suất vụ nuôi.

Tôm giống chất lượng

Kích thước: Một trong những dấu hiệu quan trọng để nhận biết tôm giống chất

lượng cao là sự đồng đều về kích thước.

Điều này cho thấy tôm phát triển ổn định và

được cung cấp dinh dưỡng đầy đủ. Bên cạnh

đó, sự đồng đều về kích thước còn giúp hạn

chế tình trạng cạnh tranh thức ăn và hiện

tượng ăn lẫn nhau. Đối với tôm sú giống nên

đạt giai đoạn PL15 ( 12 mm), TTCT tối thiểu ở giai đoạn PL12 (9 - 11 mm).

Hình dáng, sức khỏe: TTCT giống khỏe mạnh phải có các chi hoàn chỉnh và phát triển tốt, đuôi thẳng, mắt và cuống mắt cân đối, chân bơi nguyên vẹn. Khi quan sát bằng mắt thường, tôm giống tốt thường có màu sắc tươi sáng, đồng đều, sắc tố rõ ràng, đầu và thân cân đối, râu khép gọn, đốt bụng thon dài, cơ bụng căng đầy, thịt đầy vỏ, phụ bộ nguyên vẹn, đuôi xòe. Khi quan sát trong bóng tối, tôm không bị nhiễm vi khuẩn phát sáng. Vỏ tôm bóng sạch.

Gan tụy: Khối gan tụy có màu nâu sẫm hoặc màu đen (tùy thuộc vào loại thức ăn), màu sắc gan đồng đều. Khối gan tụy to, rõ, đều và phải gom gọn trên giáp đầu ngực của tôm PL.

Ruột tôm: Bên cạnh việc kiểm tra thể trạng bên ngoài, cần đánh giá cả tình trạng bên trong cơ thể tôm giống, đặc biệt là đường ruột. Tôm giống khỏe mạnh thường có ruột đầy thức ăn, cho thấy khả năng bắt mồi tốt và hệ tiêu hóa hoạt động bình thường.

Hoạt động: Biểu hiện của một con giống tốt, khỏe mạnh là khả năng phân tán nhanh trong bọc tôm hoặc khi thả vào dụng cụ chứa tôm. Người nuôi có thể tiến hành kiểm tra sức khỏe tôm giống bằng cách gõ nhẹ vào thành dụng cụ, nếu tôm phản ứng nhanh chứng tỏ đàn tôm khỏe mạnh. Một cách khác là thả tôm vào thau nước và khuấy đều; tôm khỏe sẽ bơi ngược dòng hoặc bám vào thành thau, trong khi tôm yếu có xu hướng tập trung ở giữa. Khi dòng nước xoáy giảm xuống, tôm khỏe thường bám vào thành chậu thay vì bị cuốn vào giữa. Sốc độ mặn: Tôm PL vẫn khỏe sau khi sốc độ mặn, tỷ lệ tôm chết < 10%.

Tôm giống kém chất lượng

Hình thái bên ngoài: Tôm giống kém chất lượng thường có hình thái bên ngoài không đều, kích thước to, nhỏ khác nhau. Vỏ tôm sần sùi, không bóng bẩy, mang nhiều dấu hiệu của bệnh tật.

Màu sắc của tôm: Tôm giống kém chất lượng thường có màu sắc không đồng đều, thường bị nhạt màu, có các vết đen hoặc nâu trên thân tôm - dấu hiệu của bệnh do vi khuẩn hoặc nấm gây ra.

Đường ruột: Khi quan sát tôm giống kém chất lượng thường thấy đường ruột nhỏ và cong, ruột không đầy đặn hoặc rỗng ruột. Gan tụy: Gan của tôm giống kém chất lượng thường có màu trắng, vàng nhạt hoặc trắng đục (trong khi tôm giống chất lượng gan có màu nâu sẫm hoặc màu đen). Khối gan của tôm nhỏ, không đồng đều, nhìn không rõ ràng, không gom gọn trên giáp đầu ngực.

Hoạt động: Tôm giống kém chất lượng thường bơi lờ đờ, cuộn theo dòng nước và có xu hướng bị xoáy vào giữa chậu. Khi gõ vào thành chậu tôm ít phản ứng hoặc phản ứng chậm. Hoặc khi bỏ tôm vào trong túi nước, chúng thường gom tụ vào một chỗ. Sốc độ mặn: Tỷ lệ tôm PL chết cao sau khi sốc độ mặn (>10%). LÊ LOAN

Sự kết hợp giữa enzyme và vi sinh trong xử lý nhớt bạt

Nuôi tôm ao trải bạt là phương thức đang được nhiều người nuôi lựa chọn. Màng bạt phủ khi lót

sẽ ngăn chặn được sự xâm nhập của ô nhiễm hữu cơ, phèn, vi khuẩn dưới lớp bùn đáy ao,… từ đó duy trì được chất lượng nước tốt. Trải bạt sẽ giúp đáy ao sạch, lượng thức ăn dư thừa không bị lẫn

vào lớp bùn đáy nên tăng khả năng ăn ở đáy của tôm. Tuy nhiên, hiện tượng nhớt bạt hay xảy ra lại khiến người nuôi rất vất vả.

PROCOZOLL

Một dạng tổng hợp của 5 loại

enzyme: Protease, Amylase, Cellulase, Lipase, Urease, giúp khống chế tảo độc và mùn bã hữu cơ

Nguyên nhân

- Thức ăn dư thừa quá nhiều và chất thải tôm lắng xuống đáy làm cho lớp bùn bã đáy ao ngày càng nhiều.

- Nguồn nước cấp bị ô nhiễm hữu cơ.

- Nước ao nuôi quá trong, ánh sáng xuyên xuống đáy ao làm cho tảo, rong nhớt phát triển.

- Nước bị nhiễm phèn, kim loại nặng lắng tụ xuống làm xuất hiện nhớt đáy.

- Sụp floc (hạt floc chết) kết hợp với vi khuẩn yếm khí sẽ hình thành nhớt bạt.

Tác hại

- Khi xảy ra hiện tượng nhớt bạt, tôm sẽ rất khó nuôi, tăng chi phí và giảm hiệu quả kinh tế.

- Nhớt bạt đáy là nơi cư trú của vi khuẩn, nấm và các động vật nguyên sinh.

- Là tác nhân gây bệnh đường ruột và gan cho tôm nuôi.

- Cạnh tranh dinh dưỡng và hạn chế sự phát triển của tảo.

- Xác rong nhớt khi phân hủy sẽ sinh ra khi độc.

TNV CLARITY PLUS

Chế phẩm vi sinh chuyên xử lý tảo, chất hữu cơ dư thừa trong ao nuôi, với các loài vi khuẩn như Bacillus subtilis, Bacillus amyloliquefacien,...

- Thức ăn lẫn trong nhớt sẽ làm giảm khả năng bắt mồi của tôm.

Cách xử lý

- Chà bạt thủ công, sử dụng HCl vệ sinh bạt sau khi thu hoạch, biện pháp này rất tốn công và chi phí.

- Quản lý chặt chẽ việc cho ăn, giảm lượng thức ăn dư thừa là nguồn dinh dưỡng cho rong nhớt phát triển.

- Duy trì mực nước thích hợp, gây màu nước, tạo độ trong ổn định 30 - 40 cm để tránh ánh sáng xuống đáy ao.

Sử dụng chế phẩm sinh học:

Chế phẩm enzyme: Protease, Amylase, Cellulase,… phân hủy tảo, chất hữu cơ dư thừa.

Chế phẩm vi sinh: Chủng vi khuẩn có lợi Bacillus spp. có khả năng phân hủy chất hữu cơ dư thừa, tiết enzyme để cắt tảo.

xuất giải pháp

Bên cạnh các biện pháp thông thường, Công ty Thái Nam Việt đã nghiên cứu và

phát triển biện pháp kết hợp enzyme và vi sinh để xử lý nhớt bạt, đem lại hiệu quả nhanh chóng, an toàn nhưng lại ít tốn chi phí và nhân công. Chỉ cần đánh 1 - 2 lần kết hợp “Enzyme - Vi sinh - Enzyme” sẽ xử lý sạch nhớt bạt trong 12 - 24h, giảm thiểu công sức và chi phí chà bạt. Ngoài ra, việc sử dụng định kỳ “Enzyme - Vi sinh - Enzyme” có thể hạn chế nhớt bạt, duy trì chất lượng nước tốt, giúp cho động vật thủy sản phát triển khỏe mạnh.

Thông tin liên hệ: Công ty TNHH Công nghệ - Kỹ thuật -

Sinh hóa Thái Nam Việt

Địa chỉ: 126 Lã Xuân Oai, phường Tăng

Nhơn Phú A, TP Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh

ĐT: 0888 59 63 66

Email: info@thainamviet.com

Website: thainamviet.com

NUÔI TÔM KIỂM SOÁT TẢO

Giải pháp kỹ thuật đột phá 2025

Trong nội dung bài viết dưới đây, kính mời Quý khách hàng sẽ cùng đến với câu chuyện của Công ty TNHH Bảo Ý (huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận) về giải pháp quản lý màu nước tối ưu.

Trong nuôi tôm, người nuôi thường quản lý màu nước ao nuôi thông qua việc kiểm soát tảo. Tuy nhiên, việc quản lý tảo ngày càng trở nên khó khăn và đây không còn là giải pháp tối ưu, đặc biệt trong ao nuôi công nghệ cao, khi lợi ích của tảo ít hơn nhiều so với những tác hại mà chúng gây ra. Tảo phát triển quá mức làm cho hệ sinh thái ao nuôi bị phá vỡ, pH dao động và tôm chịu nhiều căng thẳng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và năng suất. Vậy làm thế nào để quản lý và ổn định màu nước mà không phụ thuộc vào tảo?

Giải pháp tối ưu

Có dịp gặp gỡ anh Bùi Thiên Bảo, Giám đốc điều hành Công ty TNHH Bảo Ý vào tháng 3/2025, dưới cái nắng oi ả của miền biển mặn Bình Thuận, chúng tôi được anh cho biết: “Trước đây công ty quản lý tảo bằng việc thay nước hằng ngày, tuy nhiên việc quản lý tảo không còn hiệu quả khi lợi ích của tảo ít hơn so với tác hại gây ra”. Vào mùa nắng nóng, thời gian và cường độ chiếu sáng mạnh thường kích thích hệ tảo trong ao nuôi phát triển nhanh. Khi tảo phát triển quá mức làm cho hệ sinh thái ao

nuôi bị phá vỡ, pH dao động và tôm chịu nhiều căng thẳng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và năng suất nuôi. Sản phẩm BT-COLOUR đến từ C.P. Việt Nam là giải pháp hàng đầu giúp kiểm soát tảo vô cùng hữu hiệu, BT-COLOUR được Quý khách hàng trên khắp cả nước đánh giá cao, tin chọn sử dụng trong mỗi vụ nuôi. BT-COLOUR giúp người nuôi chủ động quản lý màu nước ao nuôi một cách hiệu quả, giảm thiểu rủi ro trong suốt quá trình sản xuất với chi phí hợp lý. Từ đó, tăng cường khả năng ứng phó với những thách

Trang trại gần 100 ao nuôi CPF-COMBINE HOUSE của Công ty TNHH Bảo Ý Sản phẩm BT-Colour giúp làm sạch và duy trì màu nâu của nước ổn định tại các ao nuôi Công ty TNHH Bảo Ý Quý đại lý, Quý khách hàng nuôi tôm trên cả nước đến tham quan, giao lưu chia sẻ kinh nghiệm nuôi tôm tại trang trại của Công ty TNHH Bảo Ý C.P. Việt Nam tổ chức Lễ vinh danh giải thưởng “Ứng dụng sáng tạo giải pháp quản lý tảo xuất sắc” dành cho Công ty TNHH Bảo Ý tại tỉnh Bình Thuận.

thức, kiến tạo nên những giá trị bền vững cho ngành tôm.

Công ty TNHH Bảo Ý là đơn vị tiên phong trong đầu tư xây dựng và áp dụng kỹ thuật CPF-Combine House, đã gặt hái nhiều thành công. Khi được C.P. Việt Nam giới thiệu kỹ thuật mới nuôi tôm kiểm soát tảo bằng sản phẩm BT-Colour trong chuyến tham quan Farm C.P. tại Huế và thấy được hiệu quả thiết thực mà sản phẩm mang lại, anh Bảo đã về triển khai áp dụng ngay cho hơn 100 ao nuôi của công ty và mang lại hiệu quả rõ rệt. Dẫn chúng tôi đi tham quan “cánh đồng” tôm của mình, anh Bảo chia sẻ: “Hiện, Công ty TNHH Bảo Ý áp dụng quy trình kiểm soát tảo bằng BT-Colour ngay từ khâu chuẩn bị nước để thả tôm, san tôm đến trong quá trình nuôi, luôn sử dụng BT-Colour để duy trì màu nước ao nuôi hằng ngày. Công ty TNHH Bảo Ý đánh giá rất cao hiệu quả mà sản phẩm BT-Colour mang lại. BT-Colour không chỉ giúp kiểm soát tảo trong ao nuôi dễ dàng mà còn giúp màu nâu của nước ao

ổn định trong thời gian dài. Đồng thời BTColour còn bổ sung vi sinh có lợi giúp phân hủy mùn bã hữu cơ, làm sạch nước, hỗ trợ quản lý tảo, cân bằng hệ sinh thái trong ao nuôi, từ đó tiết kiệm chi phí thay nước, tôm ăn khỏe, lớn nhanh và đạt năng suất cao. Hiện, công ty đang có gần 200 tấn tôm thịt ở size 27 - 24 con/kg về lớn”.

Hướng đi bền vững

Bên cạnh gặt hái được nhiều thành tựu trong đầu tư nuôi tôm, Công ty TNHH Bảo Ý cũng là đại lý phân phối rất có uy tín trong khu vực. Nền tảng vững chắc từ kinh nghiệm sản xuất thành công chính là thế mạnh của Đại lý trong việc hỗ trợ dịch vụ kỹ thuật cho khách hàng của mình.

Thời gian qua, được sự đồng ý của Công ty TNHH Bảo Ý, C.P. Việt Nam đã tổ chức các chuyến tham quan để Quý khách hàng trên khắp cả nước trực tiếp đến giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm nuôi tôm tại trang trại của Bảo Ý, Quý khách hàng đánh giá rất cao về giải

pháp kiểm soát màu nước bằng sản phẩm BT-Colour.

Đồng thời, để tôn vinh những sáng kiến, vận dụng sáng tạo mang tính đột phá trong lĩnh vực nuôi tôm. C.P. Việt Nam đã tổ chức Lễ vinh danh “Ứng dụng sáng tạo giải pháp quản lý tảo xuất sắc” dành cho Công ty TNHH Bảo Ý. Đây là một ý tưởng ứng dụng sáng tạo không chỉ giúp nâng cao chất lượng nguồn nước trong mô hình nuôi tôm, giúp kiểm soát tảo vô cùng hữu hiệu, mà còn mang lại hiệu quả kinh tế và môi trường cao. Mặc dù trong thời điểm ngành tôm còn nhiều biến động, nhưng với việc tin tưởng sử dụng 100% sản phẩm tôm giống, thức ăn C.P. Việt Nam cùng các sản phẩm chế phẩm sinh học chất lượng cao, Công ty TNHH Bảo Ý luôn có những vụ mùa thành công, thắng lợi. Xin cảm ơn những chia sẻ đến từ anh Bảo, kính chúc Công ty TNHH Bảo Ý sẽ ngày càng phát triển, thành công và thịnh vượng. C.P. VIỆT NAM

 TS. Nguyễn Duy Hòa

Giám đốc kỹ thuật toàn cầu ngành hàng

Empyreal, Cargill Inc.

“Với Cargill, chúng tôi

lựa chọn ĐỒNG HÀNH CÙNG NGƯỜI NUÔI!”

Trong cuộc phỏng vấn với TS.

Nguyễn Duy Hòa - Giám đốc

kỹ thuật toàn cầu ngành hàng

Empyreal, Cargill Inc., Đặc

san Con Tôm đã có cơ hội trao đổi với ông về các chiến lược

tối ưu hóa chi phí sản xuất tôm tại Việt Nam, cùng những

thách thức và cơ hội mà ngành tôm nước ta đang đối mặt.

Phóng viên: Với nhiều năm kinh nghiệm và hoạt động tại 70 quốc gia, Tập đoàn Cargill đã đạt được những thành công đáng kể trong việc cung cấp dinh dưỡng vật nuôi. Ông có thể chia sẻ về những thành tựu nổi bật mà Tập đoàn đã đạt được?

TS. Nguyễn Duy Hòa: “Chúng tôi thành công khi khách hàng và nông dân thành công”, đó chính là triết lý cốt lõi của Cargill trong suốt 120 năm phát triển trong ngành dinh dưỡng vật nuôi. Từ một cơ sở sản xuất thức ăn nhỏ tại Trung Tây, Mỹ, Cargill đã vươn lên trở thành một doanh nghiệp toàn cầu, cung cấp các sản phẩm và dịch vụ cho các trang trại, nhà sản xuất thức ăn chăn nuôi, nhà phân phối, cũng như các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ.

Với đội ngũ hơn 20.000 nhân viên tại 280 cơ sở ở 40 quốc gia, Cargill sản xuất gần 18 triệu tấn thức ăn chăn nuôi mỗi năm, góp phần gián tiếp hoặc trực tiếp đáp ứng bữa ăn cho hơn 1 tỷ người

mỗi ngày. Thành tựu này không chỉ là minh chứng cho năng lực sản xuất mà còn

khẳng định tầm nhìn dài hạn về phát triển bền vững của Cargill.

Riêng với ngành thủy sản, Cargill đã đạt được nhiều cột mốc đáng chú ý. Hướng đến mục tiêu giảm ít nhất 30% lượng phát thải carbon từ sản phẩm cá hồi nuôi vào năm 2030, công ty đang hợp tác chặt chẽ với các nhà nuôi cá hồi và nhà cung cấp để tối ưu hóa chuỗi giá trị. Năm 2023, Cargill mở rộng thực hành nông nghiệp tái sinh, giảm phát thải CO 2 tới 15.000 tấn, tăng gấp 15 lần so với năm trước.

Cam kết bền vững của Cargill còn thể hiện qua việc hỗ trợ Quỹ Cải thiện Nghề Cá (FIP) do Finance Earth và WWF sáng lập. Hiện nay, 84% nguyên liệu biển mà Cargill

sử dụng có nguồn gốc từ chuỗi cung ứng

được chứng nhận hoặc FIP. Để đa dạng hóa nguồn nguyên liệu và giảm phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, Cargill cũng tích cực sử dụng bột côn trùng, dầu tảo và phát triển các giải pháp bao bì giảm thiểu rác thải nhựa.

Chúng tôi còn áp dụng công nghệ

FLOW giúp tối ưu hóa dinh dưỡng trong viên thức ăn, giảm thất thoát dưỡng chất vào nguồn nước tới 50%, mang lại hiệu quả vượt trội trong nuôi trồng thủy sản.

Không chỉ đóng góp vào ngành thủy sản toàn cầu, Cargill cam kết hợp tác chặt chẽ với các bên liên quan để thúc đẩy sự phát triển bền vững tại những thị trường mà công ty có mặt, trong đó có Việt Nam. Với tư duy đổi mới và trách nhiệm xã hội, Cargill không chỉ mang lại giải pháp dinh dưỡng tốt hơn mà còn góp phần nâng cao năng suất, lợi nhuận và chất lượng cuộc sống cho người nuôi.

Cargill tiếp tục khẳng định vai trò tiên phong trong ngành dinh dưỡng vật nuôi, lấy sự thành công của khách hàng làm động lực phát triển bền vững.

Phóng viên: Theo ông, những yếu tố nào đang cản trở sự phát triển bền vững của ngành thức ăn thủy sản tại Việt Nam? Chúng ta cần tập trung cải thiện điều gì để vượt qua những rào cản này?

TS. Nguyễn Duy Hòa: Ngành thức ăn thủy sản ở Việt Nam hiện nay đang phát triển mạnh mẽ, tuy nhiên, dẫn đầu thị trường lại là các doanh nghiệp FDI từ

Trung Quốc và Đài Loan, chiếm trên 80% thị phần. Trong khi đó, các doanh nghiệp FDI từ các quốc gia khác, bao gồm Cargill, lại dẫn đầu trong ngành thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm.

Mặc dù không có nhiều yếu tố cản trở sự phát triển của ngành thức ăn thủy sản tại Việt Nam, tôi cho rằng việc đảm bảo sự phát triển bền vững và thân thiện với môi trường, đồng thời đáp ứng các tiêu chuẩn xuất khẩu ngày càng khắt khe, là điều cần đặc biệt lưu ý. Chúng ta cần tập trung vào một số vấn đề quan trọng sau: Nghiên cứu công nghệ để phát triển nguồn nguyên liệu trong nước: Cần chủ động phát triển các nguyên liệu từ chính phụ phẩm của ngành thủy sản như dịch tôm, dịch cá, bột cá tra, cùng các sản phẩm từ nông nghiệp khác như cám gạo, ngô, phụ phẩm từ trái cây, bột côn trùng và thảo dược.

Tính toán giá trị Carbon Dioxide cho nguyên liệu đầu vào: Việc xây dựng các giá trị CO 2 cho nguyên liệu sản xuất thức ăn thủy sản sẽ giúp đưa tín chỉ carbon vào công thức sản xuất, qua đó góp phần vào mục tiêu phát triển bền vững.

Xây dựng tiêu chuẩn quốc gia cho thức ăn thủy sản: Để đảm bảo an toàn sức khỏe vật nuôi và hỗ trợ chiến lược quản lý dịch bệnh, cần xây dựng tiêu chuẩn quốc gia về tỷ lệ sử dụng nguyên liệu dễ gây tác động tiêu cực đến sức khỏe vật nuôi. Cải tiến chuỗi cung ứng: Xây dựng và hoàn thiện chuỗi cung ứng thức ăn thủy sản, bao gồm việc giảm bớt các khâu trung gian, giúp người nuôi tiếp cận nguồn thức ăn và vật tư trực tiếp từ nhà sản xuất. Bên cạnh đó, hỗ trợ hệ thống và chính sách tín dụng sẽ giúp giảm chi phí, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm thủy sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Việc tập trung vào các vấn đề trên sẽ giúp ngành thức ăn thủy sản không chỉ phát triển bền vững mà còn gia tăng khả năng cạnh tranh, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao từ thị trường xuất khẩu.

“Chúng tôi thành công khi khách hàng và nông dân thành công”

- TS. Nguyễn Duy Hòa

Phóng viên: So với các quốc gia như Ecuador, Ấn Độ,... chi phí sản xuất tôm

tại Việt Nam cao hơn đáng kể, một phần lớn do chi phí thức ăn. Vậy các nhà sản xuất thức ăn có thể đóng góp như thế nào trong việc giảm chi phí sản xuất và nâng cao khả năng cạnh tranh cho ngành tôm Việt Nam trên thị trường quốc tế, thưa ông?

TS. Nguyễn Duy Hòa: Cơ cấu giá thành thức ăn trong chi phí sản xuất ở các quốc gia đều có sự tương đồng, chiếm khoảng 50% - 60% trong giá thành sản xuất. Tuy nhiên, giá thành sản xuất tôm ở Ecuador và Ấn Độ lại thấp hơn so với Việt Nam khi tính đến cùng kích cỡ tôm, nhờ vào các yếu tố sau: Mật độ nuôi tôm thấp: Tại Ecuador và Ấn Độ, mật độ nuôi tôm thấp hơn, cho phép họ sử dụng thức ăn với hàm lượng

đạm thấp hơn và giá rẻ hơn. Tuy nhiên, hệ số thức ăn của họ lại cao, nghĩa là chi phí thức ăn (lượng thức ăn x giá thức ăn) thực tế không thấp hơn so với Việt Nam.

Mặc dù vậy, các quốc gia này có lợi thế về diện tích trại nuôi rộng lớn, giúp tận dụng

một phần thức ăn tự nhiên trong ao.

Nuôi mật độ thấp giúp giảm chi phí

khác: Việc nuôi mật độ thấp làm giảm

stress cho tôm, từ đó giảm thiểu chi phí thuốc và hóa chất. Đồng thời, chi phí

nhân công và điện nước cũng thấp hơn ở Ecuador và Ấn Độ, nơi diện tích trại nuôi lớn và mật độ nuôi thấp.

Chi phí tín dụng làm giá thành cao: Một yếu tố quan trọng làm giá thành sản xuất tôm ở Việt Nam cao hơn so với Ấn Độ và Ecuador là việc nhiều người nuôi tôm phải mua vật tư và thức ăn qua tín dụng từ đại lý. Điều này khiến giá mua vật tư và thức ăn cao hơn nhiều so với việc thanh toán tiền mặt, góp phần làm tăng giá thành sản xuất tôm ở Việt Nam. Tuy nhiên, nếu tính đúng lượng thức ăn x hệ số thức ăn x giá thức ăn, chi phí thức ăn không phải yếu tố chủ yếu làm tăng giá thành sản xuất.

Để giảm giá thành sản xuất tôm một cách bền vững, người nuôi tôm và các nhà sản xuất thức ăn tại Việt Nam cần chấp nhận sử dụng thức ăn chất lượng cao và thức ăn chức năng phòng bệnh. Điều này giúp giảm hệ số thức ăn, rút ngắn thời gian nuôi và tăng tỷ lệ thành công. Bên cạnh đó, việc hợp tác giữa các nông dân nuôi tôm để thành lập hợp tác xã và phối hợp với các nhà máy sản xuất thức ăn nhằm xây dựng chuỗi cung ứng trực tiếp tới các hợp tác xã nuôi tôm sẽ giúp giảm chi phí và tạo ra sức cạnh tranh mạnh mẽ hơn với các quốc gia như Ecuador và Ấn Độ.

Phóng viên: Cargill có những chiến lược cụ thể nào để tối ưu hóa chi phí sản xuất mà vẫn đảm bảo chất lượng dinh dưỡng và sức khỏe cho tôm nuôi, đồng thời giảm thiểu tác động đến môi trường?

TS. Nguyễn Duy Hòa: Tại Cargill, chúng tôi đang nỗ lực giải quyết vấn đề này bằng cách tiên phong áp dụng phương thức tiếp cận toàn diện cho nghề nuôi tôm thông qua ba trụ cột: Dinh dưỡng Tối ưu, Tăng cường Sức khỏe, và Trại nuôi Bền vững. Cùng với đó, chúng tôi cung cấp các giải pháp khoa học và kỹ thuật số nhằm hỗ trợ người nuôi tôm tại Việt Nam, với mục tiêu khuyến khích việc sử dụng thức ăn nuôi tôm ép đùn.

Mặc dù chi phí sản xuất thức ăn với quy trình ép đùn có thể cao hơn, nhưng phương pháp này lại mang lại khả năng cạnh tranh vượt trội nhờ vào các lợi ích rõ ràng như: giảm bụi, cấu trúc viên có độ bền nước cao, giúp hạn chế thất thoát dinh dưỡng ra môi trường nuôi, duy trì sự sạch sẽ của nước trong ao và giảm gánh nặng xử lý nước cho người nuôi, đặc biệt là trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Chúng tôi không ngừng tìm kiếm các giải pháp tối ưu nhằm tăng lợi nhuận cho người nuôi tôm. Sản phẩm thức ăn viên

Nhà máy thức ăn thuỷ sản Cargill tại Đồng Tháp

chìm chậm với công nghệ ép đùn mang lại

hiệu quả rõ rệt, với tỷ lệ tăng trưởng tôm (ADG) cải thiện lên đến 10%, hệ số chuyển

đổi thức ăn (FCR) giảm 3 - 5%, giúp người nuôi rút ngắn thời gian nuôi tôm khoảng một tuần. Tôm thành phẩm đạt chất lượng tốt, thịt chắc, trọng lượng cao và tỷ lệ cơ thịt cao, phù hợp với yêu cầu chế biến xuất khẩu. Công nghệ ép đùn cũng cho phép sử dụng một loạt nguyên liệu đa dạng, mang lại nhiều lựa chọn cho người nuôi nhờ vào khả năng điều chỉnh dinh dưỡng chính xác về tỷ lệ protein, năng lượng và chất lượng thức ăn.

Phóng viên: Trong khi các nhà cung

cấp thức ăn chăn nuôi lớn khác đang

tích cực tạo tính liên kết chuỗi, từ cung

cấp thức ăn tới mở rộng trại nuôi, cung

ứng ra thị trường, tại sao Cargill vẫn

kiên định với chiến lược tập trung vào

người nông dân? Liệu việc duy trì chiến

lược này có khiến Cargill bỏ lỡ cơ hội

tăng trưởng nhanh hơn so với các đối

thủ không, thưa ông?

TS. Nguyễn Duy Hòa: Chúng tôi hiểu rằng mô hình liên kết chuỗi hay 3F là quan trọng, nhưng không phải là con đường duy nhất dẫn đến thành công. Tại Việt

Nam, chúng tôi áp dụng một mô hình kinh doanh khác, với khả năng tiếp cận rộng rãi người nuôi, trở thành đối tác đáng tin cậy và mang lại những giá trị thiết thực để họ có thể thành công. Triết lý của chúng tôi rất đơn giản: Chúng tôi lựa chọn đồng hành với người nuôi thay vì cạnh tranh trực tiếp với họ trong lĩnh vực chăn nuôi và nuôi trồng.

Để thực hiện điều này, chúng tôi đầu tư vào nâng cao năng lực cho đội ngũ bán hàng, kỹ thuật viên và các chuyên gia tư vấn dinh dưỡng trên toàn quốc, để họ có thể tổ chức huấn luyện tại trại nuôi, chuyển giao công nghệ về dinh dưỡng và sức khỏe vật nuôi, cũng như chia sẻ những bí quyết nuôi trồng hiệu quả. Nhờ đó, chúng tôi giúp người nuôi tổ chức sản xuất một cách an toàn, có trách nhiệm và bền vững.

Việt Nam là một thị trường quan trọng đối với Cargill. Chúng tôi đã có nhiều năm đóng góp tích cực cho ngành nông nghiệp và cộng đồng Việt Nam. Vào năm 2025, chúng tôi sẽ kỷ niệm 30 năm thành lập tại Việt Nam. Chúng tôi rất tự tin và lạc quan về những cơ hội phát triển trong tương

lai và cam kết tiếp tục đầu tư, phát triển công việc kinh doanh tại đây, từ năng lực sản xuất, đội ngũ nhân viên đến những đóng góp tích cực cho cộng đồng, như

Tại Việt Nam, Cargill áp dụng

một mô hình kinh doanh khác, với khả năng tiếp cận rộng rãi người nuôi, trở thành đối tác đáng tin cậy và mang lại những giá trị thiết thực để họ có thể thành công. Triết lý của chúng tôi rất đơn giản: Chúng tôi lựa chọn đồng hành với người nuôi thay vì cạnh tranh trực tiếp với họ trong lĩnh vực chăn nuôi và nuôi trồng.

một phần không thể thiếu trong mục tiêu chung là nuôi dưỡng thế giới.

Phóng viên: Việc sử dụng protein thay thế như đạm côn trùng, vi tảo,… có những lợi thế và hạn chế gì so với bột cá truyền thống? Theo ông, đâu là thách thức lớn nhất khi áp dụng rộng rãi các nguồn protein này trong tương lai?

TS. Nguyễn Duy Hòa: Bột cá hiện vẫn là nguồn nguyên liệu lợi thế nhất về mặt dinh dưỡng, khả năng dẫn dụ và hương vị, mà rất ít nguồn đạm sáng tạo có thể thay

thế được. Đặc biệt, các yếu tố dinh dưỡng như Cholesterol; Phospholipids; Peptides; Nucleotides; EPA/DHA/ARA rất khó để có được đầy đủ từ những nguồn đạm khác như đạm côn trùng, vi tảo, hay đạm đơn bào. Tuy nhiên, các nguồn đạm sáng tạo lại có ưu điểm lớn trong việc cung cấp các giải pháp bền vững và thân thiện với môi trường, đồng thời giảm bớt sự phụ thuộc vào bột cá. Điều này trở nên đặc biệt quan trọng khi bột cá đang ngày càng thiếu hụt, cùng với mối lo ngại về tính bền vững của nguồn nguyên liệu này do việc đánh bắt cá làm suy giảm nguồn lợi tự nhiên và giảm sự đa dạng sinh học. Tuy vậy, một trong những hạn chế lớn của các nguồn đạm sáng tạo là công nghệ sản xuất đắt đỏ, khiến giá thành cao và tạo ra thách thức lớn trong việc áp dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp thức ăn thủy sản. Mặc dù vậy, với sự gia tăng yêu cầu về tiêu chuẩn bền vững và tín chỉ carbon, cũng như áp lực thay thế bột cá, tôi hy vọng rằng trong tương lai không xa, việc ứng dụng rộng rãi các nguồn đạm sáng tạo sẽ trở nên khả thi hơn, góp phần phát triển ngành thức ăn thủy sản theo hướng bền vững và thân thiện với môi trường.

Trân trọng cảm ơn ông! OANH THẢO

hoàn

Chính thức đi vào hoạt động từ năm 1998, đến nay, Công ty Cổ phần Gia Lợi trở thành một trong những doanh nghiệp hàng đầu trong nước chuyên sản xuất vải bạt chất lượng cao phục vụ cho dân dụng, xây dựng cơ bản, giao thông,… và Gia Lợi cũng rất thành công khi “lấn sân” sang lĩnh vực nuôi trồng thủy sản.

Tại Việt Nam, nuôi trồng thủy sản ngày càng phát triển mạnh mẽ, kéo theo nhu cầu sử dụng các vật liệu hỗ trợ giúp tăng năng suất và đảm bảo chất lượng môi trường nước. Trong đó, bạt lót hồ Mega UV là một trong những giải pháp hàng đầu giúp nâng cao hiệu quả nuôi trồng. Với đặc tính bền bỉ, chống tia UV và chống thấm vượt trội, bạt Gia Lợi đang trở thành lựa chọn tối ưu cho các hộ nuôi cá, tôm và các loại thủy sản khác.

Bạt Mega UV của Gia Lợi có cấu trúc đặc biệt giúp giữ nước hiệu quả, hạn chế rò rỉ và giảm hao hụt nước, từ đó giúp người nuôi tiết kiệm đáng kể chi phí vận hành. Đặc biệt, bạt nuôi tôm giúp duy trì độ sạch của nước, dễ dàng kiểm soát các thông số pH, ôxy hòa tan và giảm rủi ro dịch bệnh. Trong đó, dòng bạt UV9, UV10 trở thành giải pháp hoàn hảo giúp bảo vệ bờ ao nuôi tôm.

Với khả năng chống tia UV vượt trội, bạt UV9, UV10 có độ bền cao, chịu được các điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Sản phẩm giúp gia cố kết cấu bờ ao và giảm chi phí bảo trì, là sự lựa chọn tối ưu để bà con nuôi tôm an tâm sản xuất và tăng hiệu quả kinh tế.

Bạt UV9, UV10 thể hiện rõ 4 ưu điểm vượt trội, bao gồm:

- Bảo vệ tôm nuôi: Bạt giúp hạn chế sự phát triển của các loại vi khuẩn gây hại cho tôm, bảo vệ bờ ao khỏi hiện tượng sạt lở. Từ đó, tạo môi trường ổn định thuận lợi để tôm phát triển khỏe mạnh. - Chất lượng vượt trội : Sản phẩm bạt UV9, UV10 được sản xuất từ nguyên liệu PE có độ bền cao, khả năng chịu lực

Hồ nuôi tôm hộ sử dụng bạt UV10 Gia Lợi tại Mộc Hóa, Long An

- Kháng tia UV cao : Khả năng chống

chịu tác động của tia UV dưới ánh nắng mặt trời giúp kéo dài tuổi thọ sản phẩm

tránh tình trạng co rút và hư hỏng.

- Tiết kiệm chi phí : Với chất liệu bạt

PE nhẹ nhưng b ề n v à ch ị u l ự c t ố t, Gia Lợi giúp người nuôi tôm tiết kiệm chi phí đầu tư ban đ ầ u, đồng thời mang lại sự tiện lợi trong quá trình s ử d ụ ng.

Bạt UV9, UV10 của Gia Lợi đã và đang được sử dụng rộng rãi tại các khu vực nuôi tôm, cá và nhiều loài thủy sản khác trên toàn quốc. Đặc biệt, sản phẩm được bà con tin dùng tại các vùng trọng điểm như Long An, Bến Tre, Tiền Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu,... Với cam kết mang đến các giải pháp bền vững cho ngành nuôi trồng thủy sản, Gia Lợi đã góp mặt tại triển lãm VietShrimp 2025 với chủ đề “Xanh hóa vùng nuôi”. Tại Hội chợ, Gia Lợi giới thiệu đến bà con những sản phẩm bạt UV chất lượng cao, giúp tối ưu chi ph í , nâng cao hiệu quả năng su ấ t và bảo vệ môi trường. Đồng thời, mang đến các sản phẩm tiên tiến cũng như cung cấp những tư vấn chuyên sâu về cách sử dụng bạt hiệu quả, giúp bà con tiết kiệm chi phí và nâng cao năng suất nuôi tôm.

Gia Lợi tại VietShrimp 2025 - Xanh hóa vùng nuôi

Nếu quý khách hàng cần tư vấn về bạt UV9, UV10 hoặc các sản phẩm bạt nuôi trồng thủy sản khác, hãy liên hệ ngay với đ ộ i ng ũ nhân viên kinh doanh chuyên nghiệp c ủ a Gia Lợi để được hỗ trợ tốt nhất. Chúng tôi cam kết mang đến sản phẩm chất lượng, giá thành hợp lý và dịch vụ tận tâm.

GIA LỢI

Công ty Cổ phần Gia Lợi hiện có hai nhà máy được đặt tại tỉnh Bình Dương với quy trình sản xuất hiện đại. Gia Lợi tự hào là nhà máy đầu tiên tại châu Á tích hợp phòng thí nghiệm GSI và NTPEP của Bộ Giao thông vận tải Mỹ, đạt chứng nhận ISO 9001:2015.

CÔNG TY CỔ PHẦN GIA LỢI

- Nhà máy 1: Thửa đất số 285, Tờ bản

đồ số 8, Tổ 2, Khu phố Phước Hải, phường Thái Hòa, TP Tân Uyên, tỉnh

Bình Dương

Điện thoại: 0274 3625 825

- Nhà máy 2: Lô C-3E-CN KCN Mỹ

Phước 3, phường Thới Hòa, TP Bến

Cát, tỉnh Bình Dương

Điện thoại: 0274 3803 723

Email: sales@gialoi.com.vn

SHRIMPL

Số hóa ngành nuôi trồng thủy sản

vì một tương lai thông minh và

bền vững

Với tham vọng số hóa toàn diện chuỗi giá trị nuôi trồng thủy sản, SHRIMPL đang xây dựng một nền tảng tích hợp dữ liệu và dịch vụ, nhằm hỗ trợ người nuôi, nhà máy thức ăn, doanh nghiệp chế biến và cơ quan quản lý tối ưu hóa hoạt động sản xuất một cách hiệu quả và bền vững.

Trong cuộc trao đổi cùng

Đặc san Con Tôm, ông Steve Dang – Giám đốc điều hành (COO) và ông Ciaron McKinley –

Đồng sáng lập kiêm Tổng Giám đốc (CEO) của SHRIMPL, đã chia sẻ tầm nhìn chiến lược của doanh nghiệp, những thách thức lớn hiện nay của ngành nuôi trồng thủy sản, cùng vai trò của dữ liệu và công nghệ trong việc hướng tới một tương lai bền vững hơn cho ngành thủy sản toàn cầu.

Phóng viên: Theo ông, những thách thức lớn nhất mà ngành nuôi trồng thủy sản hiện nay đang đối mặt là gì?

Ông Steve Dang: Dịch

bệnh thường được xem là rào cản lớn nhất, nhưng theo tôi, thách thức cốt lõi của ngành nuôi trồng thủy sản hiện nay

chính là việc thiếu một “hệ

điều hành” tổng thể – một nền

tảng chung để kết nối người nuôi, nhà máy thức ăn và cơ quan quản lý. Việc thiếu hụt hạ tầng kỹ thuật số khiến các mắt xích trong chuỗi giá trị vận hành rời rạc, thiếu liên kết, dẫn đến hiệu quả sản xuất khó được tối ưu.

Một trở ngại lớn khác là khả năng tiếp cận nguồn vốn tài chính vẫn còn rất hạn chế. Khi không có vốn, việc hiện đại hóa hay chuyển đổi chuỗi giá trị nuôi trồng thủy sản dù ở bất kỳ quốc gia nào cũng sẽ gặp nhiều khó khăn và dễ rơi vào bế tắc.

Phóng viên: Theo ông, đâu là những rào cản lớn nhất khiến công nghệ khó được áp dụng trong ngành nuôi trồng thủy sản? Và làm thế nào chúng ta có thể từng bước vượt qua những rào cản đó?

Ông Steve Dang: Có ba yếu tố chính cản trở việc áp dụng công nghệ trong ngành nuôi trồng thủy sản. Thứ nhất là quy mô sản xuất. Việt Nam hiện là một trong những quốc gia dẫn đầu thế giới về nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là tôm, với kim ngạch xuất khẩu hàng tỷ USD mỗi năm. Tuy nhiên, phần lớn sản lượng vẫn đến từ hàng nghìn trang trại nhỏ lẻ, vận hành theo cách truyền thống, thậm chí thủ công như vài thập kỷ trước. Chính mô hình phân tán và quy mô nhỏ này khiến việc tiếp cận và ứng dụng công nghệ trở nên khó khăn. Trong khi đó, các quốc gia như Ecuador, Brazil hay Mexico đã phát triển mạnh các mô hình trang trại quy mô lớn với mức độ tự động hóa cao. Nhờ vậy, họ có thể thu thập dữ liệu hiệu quả hơn, đưa ra quyết định chính xác hơn và dễ dàng tiếp cận các dịch vụ tài chính.

Thứ hai là rào cản tài chính.

Như tôi đã đề cập, thiếu nguồn vốn là một thách thức lớn. Không có tài chính, người nuôi khó có thể đầu tư vào công nghệ mới hay mở rộng quy mô sản xuất. Không chỉ nông hộ, ngay cả các cơ quan quản lý nhà nước cũng gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn để đổi mới toàn diện ngành.

Thứ ba, và có lẽ ít được nhắc đến là tầm nhìn.

Hiện nay, nhiều doanh nghiệp từ các công ty truyền thống đến các startup vẫn chưa hình dung rõ ngành nuôi trồng thủy sản hiện đại sẽ vận hành ra sao. Tại SHRIMPL, chúng tôi tin rằng tương lai của ngành nằm ở sự kết nối: Tích hợp tất cả mắt xích trong chuỗi giá trị, từ người nuôi, nhà máy thức ăn, doanh nghiệp chế biến đến cơ quan quản lý trên cùng một nền tảng số hóa. Khi dữ liệu, kiến thức và công nghệ được chia sẻ đồng bộ, tất cả các bên đều có cơ hội phát triển bền vững và cùng nhau hưởng lợi.

Phóng viên: SHRIMPL

đang sử dụng dữ liệu và trí tuệ nhân tạo (AI) như thế nào để vừa hỗ trợ người nuôi vượt qua các thách thức hiện nay, vừa thúc đẩy phát triển bền vững trong ngành tôm, thưa ông?

Ông Steve Dang & ông

Ciaron McKinley: Dữ liệu là nền tảng trong toàn bộ hoạt động của SHRIMPL. Khi công nghệ phát triển, ngành nuôi trồng thủy sản cũng chứng kiến sự bùng nổ về cả khối lượng lẫn chất lượng dữ liệu – với tần suất cập nhật nhanh hơn, ổn định và chi tiết hơn bao giờ hết. Để xử lý hiệu quả nguồn dữ liệu ngày càng phức tạp này, chúng tôi ứng dụng mạnh mẽ trí tuệ nhân tạo (AI).

AI giúp giảm thiểu sai số, phân tích nhanh chóng và đưa ra các khuyến nghị hành động kịp thời – từ đó hỗ trợ người

nuôi đưa ra quyết định chính xác và kịp thời hơn. Một trong những ứng dụng nổi bật là mô hình “song sinh số” (digital twins) – bản sao ảo của ao nuôi, vùng nuôi hoặc toàn bộ

hệ thống sản xuất, cho phép mô phỏng, giám sát và tối ưu hóa quy trình vận hành. Tính

đến nay, SHRIMPL đã số hóa

hơn 1 triệu hecta ao nuôi – và con số này vẫn đang tăng lên từng ngày.

Chúng tôi cũng tích hợp

ảnh vệ tinh vào nền tảng để xác minh điều kiện thực tế

tại trang trại – như đánh giá

chất lượng nước, xác định tình

trạng thả giống hay phát hiện

những dữ liệu bất thường, đặc

biệt hữu ích ở những khu vực thiếu dữ liệu thực địa. Ngoài

ra, AI còn được đưa vào các

công cụ quản lý tồn kho, điều

phối nhân sự và vận hành trang trại – tất cả gói gọn trong một

nền tảng di động, hỗ trợ các

trại quy mô lớn vận hành hiệu

quả và tiết kiệm nguồn lực.

Khi làm việc với các tổ chức tài chính, bảo hiểm hay ngân hàng, chúng tôi còn kết hợp

AI với các mô hình thống kê và

kinh tế sinh học để đưa ra bức

tranh toàn diện và đáng tin cậy hơn về hiệu quả sản xuất.

SHRIMPL không chỉ dừng lại

ở phân tích kỹ thuật, mà còn chuyển hóa dữ liệu thành các mô hình rủi ro và công cụ tài chính – từ đó kết nối dòng vốn quay trở lại ngành, thúc

đẩy tái đầu tư, đổi mới và tăng trưởng bền vững.

Tóm lại, AI không chỉ giúp tối ưu hóa vận hành, giảm lãng phí và nâng cao hiệu suất, mà còn đóng vai trò then chốt trong việc xây dựng một ngành tôm minh bạch, linh hoạt và thích ứng tốt với những biến động trong tương lai.

Phóng viên: Với tốc độ phát triển chóng mặt của công nghệ số, ông dự đoán ngành nuôi trồng thủy sản sẽ thay đổi ra sao trong 5 - 10 năm tới?

Ông Steve Dang & ông

Ciaron McKinley: Ngành nuôi trồng thủy sản đang tiến gần

đến một bước ngoặt quan trọng – tương tự như những cuộc cách mạng công nghệ từng diễn ra trong lĩnh vực tài chính, thương mại điện tử hay

sản xuất công nghiệp.

Tất cả những ngành này

đều chuyển mình mạnh mẽ nhờ

tích hợp dữ liệu và công nghệ vào trung tâm hoạt động và nuôi trồng thủy sản cũng đang

bước vào giai đoạn chuyển đổi tương tự.

Dù nông nghiệp – thủy sản vốn được xem là lĩnh vực tiếp

cận công nghệ chậm, nhưng hiện nay tốc độ chuyển đổi đang diễn ra nhanh hơn bao giờ hết. Các nhà máy thức ăn

đã bắt đầu xây dựng chiến lược dài hạn 12, 24, thậm chí 36 tháng hướng tới một tương lai số hóa, kết nối toàn diện.

SHRIMPL hiện đang đồng hành cùng họ, đồng thời hợp tác với các tổ chức tài chính phát triển như ADB, IFC và nhiều ngân hàng thương mại để huy động nguồn lực cho hành trình này.

Chúng tôi tin rằng, trong 5 - 10 năm tới, ngành sẽ vận hành như một chuỗi giá trị kết nối – nơi dữ liệu được chia sẻ an toàn, hiệu quả, tạo ra giá trị cho tất cả các bên tham gia. Khi đó, nhà máy thức ăn không chỉ đơn thuần bán sản phẩm, mà trở thành đơn vị cung cấp giải pháp toàn diện: Từ tư vấn kỹ thuật, kiểm soát dịch bệnh đến hiện đại hóa trang trại.

Sự cộng hưởng này sẽ giúp trại nuôi vận hành hiệu quả hơn, nhà máy tối ưu chi phí, còn người tiêu dùng thì yên tâm với chuỗi cung ứng minh

bạch hơn.

Thực tế, mô hình tương

lai này đã bắt đầu hình thành

ở một số quốc gia Nam Mỹ –nơi công nghệ tự động hóa và phân tích dữ liệu đã được ứng dụng mạnh mẽ trong nuôi trồng thủy sản. Đây là lời cảnh tỉnh cho các thị trường như

Việt Nam. Là một cường quốc về nuôi tôm, Việt Nam cần đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa nếu muốn duy trì và nâng cao vị thế trên thị trường toàn cầu.

Tại SHRIMPL, chúng tôi định hướng trở thành nền tảng hạ tầng số phục vụ chính phủ trong việc hỗ trợ hoạch định chính sách, nâng cao năng lực quản lý ngành và hiện đại hóa hạ tầng bằng sức mạnh dữ liệu. Đó cũng là lý do chúng tôi có mặt tại VIETSHRIMP 2025 để kết nối với các địa phương, lắng nghe thực tiễn và cùng chia sẻ tầm nhìn về một tương lai nuôi trồng thủy sản thông minh, hiệu quả và bền vững hơn.

Phóng viên: Ông đánh giá thế nào về VietShrimp 2025?

Ông Steve Dang & ông Ciaron McKinley: Đây thực sự là một sự kiện ấn tượng. Chúng tôi đánh giá cao nỗ lực của ban tổ chức trong việc quy tụ đầy đủ các mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị thủy sản. Trong suốt hai ngày tham dự, chúng tôi đã có cơ hội gặp gỡ nhiều khách hàng tiềm năng, kết nối với các đối tác mới và mở ra những cơ hội hợp tác đầy triển vọng. SHRIMPL chắc chắn sẽ quay trở lại vào năm sau!

Điều khiến chúng tôi đặc biệt ấn tượng là tính quốc tế ngày càng rõ nét của VietShrimp. Chúng tôi đã gặp gỡ đại diện đến từ Nam Mỹ, Philippines, Indonesia, Thái Lan, Pháp và Đức – tạo nên một nguồn năng lượng toàn cầu vô cùng tích cực. Chính sự đa dạng, cởi mở và tinh thần hợp tác ấy đã giúp VietShrimp trở thành một điểm đến hấp dẫn, có giá trị thực sự đối với những doanh nghiệp công nghệ như SHRIMPL.

Trân trọng cảm ơn ông!

BIO GLOBAL HOLDINGS

Công nghệ sinh học mở ra

tương lai bền vững

Công nghệ sinh học không chỉ là giải pháp kỹ thuật, mà còn là chìa khóa để mở ra tương lai bền vững cho ngành tôm, nơi người nuôi có thể yên tâm sản xuất còn người tiêu dùng được thưởng thức những sản phẩm sạch và an toàn.

Trong khuôn khổ VietShrimp 2025, phóng viên Đặc san Con Tôm đã trao đổi với ông Huỳnh Kim Long - Phó Giám đốc điều hành Bio Global Holdings về vấn đề ứng dụng công nghệ sinh học trong nuôi tôm bền vững.

Phóng viên: Thưa ông, VietShrimp 2025 mở ra những cơ hội nào cho Bio Global Holdings?

Ông Huỳnh Kim Long: Tới với Hội chợ, chúng tôi rất vinh hạnh khi được cùng với các đối tác và các chuyên gia trong ngành gặp mặt, trao đổi và tìm hiểu ứng dụng công nghệ cũng như các sản phẩm đặc thù cho ngành tôm.

Trong suốt ba ngày tham gia VietShrimp 2025, Bio Global Holdings đã có cơ hội tiếp đón hàng nghìn lượt khách tham quan, từ các doanh nghiệp, chuyên gia thủy sản

đến người nuôi tôm, đại lý phân phối,… Tại đây, đội ngũ của Bio Holdings đã trực tiếp được lắng nghe những trăn trở, khó khăn của người nuôi tôm, đặc biệt là vấn đề kiểm soát dịch bệnh, giảm hao hụt và duy trì chất lượng nguồn nước ao nuôi.

Ngoài ra, nhiều đại lý phân phối cũng quan tâm đến khả năng hợp tác với Bio

Global Holdings để đưa những sản phẩm chất lượng đến gần hơn với người nuôi tôm. Sự kết nối thông qua Hội chợ năm nay mở ra nhiều cơ hội hợp tác tiềm năng cho Bio Global Holdings.

Không chỉ trưng bày sản phẩm, Bio Global Holdings còn tích cực tham gia các buổi hội thảo chuyên đề tại VietShrimp 2025. Tại đây, chúng tôi đã có cơ hội lắng nghe những vấn đề liên quan đến công nghệ sinh học của ngành tôm cùng giải pháp nuôi trồng bền vững do các chuyên gia hàng đầu

trong ngành chia sẻ. Những kiến thức thu thập được không chỉ là nền tảng để Bio Global Holdings hoàn thiện sản phẩm, mà còn là nguồn lực quý giá để chúng tôi cùng khách hàng và đối tác kiến tạo nên giá trị cho ngành nuôi trồng thủy sản.

Thông qua VietShrimp 2025, Bio Global Holdings xin gửi lời cảm ơn chân thành đến tất cả quý khách, đối tác đã ghé thăm gian hàng. Sự ủng hộ và tin tưởng của quý vị là nguồn động viên rất lớn để chúng tôi tiếp tục hành trình nâng cao chất lượng ngành thủy sản Việt.

Phóng viên: Ông có thể phân tích một chút về ưu điểm của vi sinh tươi so với các dòng sản phẩm khác?

Ông Huỳnh Kim Long: Như các bạn đã biết, thời gian vừa qua, trong ngành thủy sản đặc biệt là nuôi tôm có rất nhiều vấn

đề mà bà con thường gặp và mắc phải như dịch bệnh, trong đó có bệnh EHP (bệnh do ký sinh trùng nội bào), bệnh đốm trắng,... Những bệnh này đã ảnh hưởng không nhỏ tới người nuôi.

Phương pháp sử dụng vi sinh tươi sẽ mang tính ổn định lâu dài, đưa tới giá trị bền vững, giúp nâng cao sức khỏe của con tôm, xử lý môi trường nước. Cùng với đó, chúng tôi còn sử dụng nền tảng Aquanets hỗ trợ chuyên biệt để giúp người nuôi truy xuất nguồn gốc và đánh giá được tình hình sức khỏe của con tôm.

Phóng viên: Mới đây, Bio Global Holdings đã chính thức khai trương Trung tâm vi sinh tươi thứ hai tại huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Ông đánh giá ra sao về hiệu quả hoạt động của trung tâm này?

Ông Huỳnh Kim Long: Trung tâm vi sinh tươi Đầm Dơi được chính thức vận hành từ năm 2024. Đây cũng là một thành tựu quan trọng của Bio Global Holdings trong quá trình mở rộng trung tâm vi sinh tươi trên khắp cả nước và trước mắt là tập trung tại các vùng nuôi của khu vực ĐBSCL.

Rất đông bà con đã biết đến mô hình nuôi tôm vi sinh, nhưng chưa có đơn vị nào tiên phong để đưa sản phẩm này gần với bà con hơn hoặc các sản phẩm chất lượng cao mà giá thành lại hợp lý. Tại trung tâm này, chúng tôi có đội ngũ kỹ sư chuyên biệt có thể tới từng hộ nuôi để kiểm tra, đánh giá chất lượng nước, tư vấn giúp họ cải thiện môi trường nuôi.

Ngoài ra, Bio Global Holdings còn có đội ngũ đưa thông tin lên phần mềm Aquanets để bà con có thể truy xuất nguồn gốc kỹ càng hơn, dự báo tình hình dịch bệnh, tỷ lệ vi sinh, vi khuẩn trong nguồn nước, từ đó giúp tìm ra công thức tối ưu hơn cho bà

con. Bằng công nghệ 4.0, chúng ta sẽ cắt giảm được thời gian và cải thiện chi phí sản xuất.

Phóng viên: Góp phần kiến tạo ngành thủy sản xanh, Bio Global Holdings mang tới sự kiện lần này sản phẩm đặc biệt nào, thưa ông?

Ông Huỳnh Kim Long: Lần đầu tiên chúng tôi mang tới hội chợ nhiều dòng sản phẩm chuyên biệt phục vụ nuôi trồng thủy sản, trong đó đáng chú ý nhất là sản phẩm vi sinh tươi để có thể đem tới giải pháp bền vững cho ngành nông, thủy sản Việt Nam nói chung và ngành nuôi tôm nói riêng. Thông điệp mà chúng tôi muốn gửi đến mọi người đó là “Bio Global Holdings tạo hệ sinh thái bền vững - Vì một Việt Nam đầy tự hào trên bản đồ nông nghiệp thế giới”. Chúng tôi mong muốn xây dựng một chuỗi quy trình khép kín từ con giống, thức ăn cho tới quy trình nuôi sử dụng hoàn toàn các sản phẩm vi sinh tươi để tối ưu hóa chi phí cũng như giúp tiết kiệm chi phí hơn cho người dùng.

Chủ đề “Xanh hóa vùng nuôi” của VietShrimp 2025 cũng chính là thông điệp chúng tôi muốn gửi gắm khi công ty mang tới những sản phẩm có giá trị bền vững, lâu dài, để phát triển ngành thủy sản xanh, sạch, đẹp hơn và bền vững hơn cho bà con nông dân.

Phóng viên: Với sứ mệnh “Vì một Việt Nam đầy tự hào trên bản đồ nông nghiệp thế giới”, Bio Global Holdings đặt mục tiêu trở thành tập đoàn tiên phong tại Việt Nam trong lĩnh vực cung cấp giải pháp và quản lý trong toàn bộ quy trình nuôi. Xin ông chia sẻ kế hoạch trong tương lai của công ty để hướng tới điều này?

Ông Huỳnh Kim Long: Hiện nay, người nuôi tôm đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức như biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, biến động giá cả,... Để giải quyết các vấn đề đó từ gốc rễ thì chúng ta cần phương án lâu dài như quan trắc chất lượng môi trường nuôi, nguồn nước. Đó là lý do vì sao chúng tôi phát triển hệ thống vi sinh tươi.

Trong năm 2025, Bio Global Holdings dự kiến xây dựng 50 trung tâm vi sinh tươi trên cả nước, và năm 2026 là 100 trung tâm vi sinh tươi. Điều này sẽ giúp chúng tôi đưa sản phẩm tới gần hơn với bà con, đặt các trung tâm này tại các vùng nuôi, tại các hộ nuôi.

Cùng với đó là đưa các giải pháp tối ưu hơn, các mô hình nuôi tôm xanh, sạch, bền vững tới người nông dân, giúp nâng cao sức khỏe con tôm trong thời gian dài chứ không phải là 1 - 2 vụ nuôi, qua đó góp phần nâng cao giá trị nuôi tôm bền vững trong nhiều năm.

“Vì một Việt Nam đầy tự hào”, Bio Global Holdings không chỉ dừng ở con tôm mà sẽ mở rộng ra ngành thủy sản và nông nghiệp. Công nghệ sinh học không chỉ là giải pháp kỹ thuật, mà còn là chìa khóa để mở ra tương lai bền vững cho ngành tôm, nơi người nuôi có thể yên tâm sản xuất còn người tiêu dùng được thưởng thức những sản phẩm sạch và an toàn.

Chúng tôi hy vọng với những nỗ lực không ngừng nghỉ của mình, thời gian tới có thể lan tỏa, đưa những sản phẩm chất lượng nhất tới người nuôi trên cả nước.

Trân trọng cảm ơn ông!

THÙY KHÁNH (Thực hiện)

Nuôi tôm sạch theo tiêu chuẩn ASC

Một điểm sáng trong phát triển ngành tôm Cà Mau là sự chủ động của các hợp tác xã về xây dựng vùng nuôi theo tiêu chuẩn quốc tế. Hợp tác xã Chế biến Thương mại Dịch vụ Nuôi trồng thủy sản

Cái Bát (ấp Cái Bát, xã Hòa Mỹ, huyện Cái Nước) là điển hình khi được cấp chứng nhận ASC - một trong những tiêu chuẩn quốc tế nuôi thủy sản nghiêm ngặt nhất hiện nay.

Các sản phẩm của HTX Cái Bát có chất lượng tốt, đáp ứng được

Thành lập năm 2014 với 12 thành viên và 47 ha đất nuôi tôm, đến nay, Hợp tác xã Chế biến Thương mại Dịch vụ Nuôi trồng thủy sản Cái Bát (HTX Cái Bát) đã mở rộng quy mô lên 26 thành viên chính thức và 104 thành viên liên kết, quản lý tổng diện tích nuôi trồng thủy sản 178 ha. Nhờ sản xuất theo quy trình hiện đại, HTX trở thành đơn vị đầu tiên trong cả nước đạt chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế ASC cho nuôi tôm sú và cua biển.

Ông Nguyễn Hoàng Ân, Chủ tịch HĐQT

HTX Cái Bát, cho biết: “HTX Cái Bát ban đầu chuyên về nuôi trồng thủy sản sạch, đến năm 2016 HTX xây dựng được vùng nuôi tôm sạch theo tiêu chuẩn quốc tế ASC (Hội đồng quản lý nuôi trồng thủy sản) là tiêu chuẩn quốc tế nghiêm ngặt nhất áp dụng cho nuôi trồng thủy sản. Sau khi xây dựng

Ảnh:

thương hiệu con tôm, tạo uy tín nhất định, năm 2019, HTX tiếp tục mở rộng hoạt động sản xuất, nâng cao năng lực từ quản lý đến chế biến để đáp ứng yêu cầu khách hàng”. HTX Cái Bát được cấp chứng nhận ISO 9001:2015 (ngày 26/12/2023) cho nhà xưởng sơ chế và chế biến, sản xuất. Đặc biệt, HTX có vùng nuôi theo tiêu chuẩn quốc tế ASC và chứng nhận hữu cơ; được đánh giá vùng nuôi tôm, cua an toàn thực phẩm, các ao nuôi truy xuất được nguồn gốc nguyên liệu. Hiện, HTX Cái Bát có 5 sản phẩm: chả cá rô phi (OCOP 3 sao); cua sống (OCOP 3 sao); bánh phồng tôm (nâng OCOP 4 sao); tôm khô (nâng OCOP 4 sao). Riêng tôm sú đông (OCOP 4 sao) được chứng nhận sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu ĐBSCL năm 2023, sản phẩm đang được ưa chuộng trên thị trường trong và ngoài tỉnh.

Ông Nguyễn Văn Kiệt, thành viên HTX

Cái Bát cho biết, khi tham gia vào HTX, các thành viên còn được hưởng lợi ích chung từ các chương trình của Nhà nước hỗ trợ cho kinh tế tập thể; thường xuyên được tập huấn nâng cao trình độ bảo đảm được năng suất ổn định. Sản phẩm sản xuất ra được gắn liền với thương hiệu HTX Cái Bát, được phân chia lợi nhuận theo quy chế của HTX và được hỗ trợ vốn sản xuất kinh doanh từ nguồn vốn điều lệ đóng góp vào HTX. Ông Nguyễn Hoàng Ân khẳng định: “Để đạt được những thành quả như ngày hôm nay, các thành viên của HTX xã luôn kiên định việc lấy vùng nuôi an toàn là điều kiện quan trọng nhất để tạo ra nguyên liệu làm nên sản phẩm có chất lượng tốt, đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước”. Hiện, HTX Cái Bát có quy mô sản xuất với tổng diện tích nuôi trồng thủy sản 178 ha; chế biến các mặt hàng thủy sản các loại, đạt 50 - 60 tấn/năm. Đồng thời, phấn đấu cuối năm 2025, HTX đưa ra chỉ tiêu về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh cụ thể như: lĩnh vực nuôi trồng thủy sản tôm sú giống chỉ tiêu đạt 1.200 tấn (năm 2022 đã đạt 400 tấn); cua biển đạt 400 tấn (năm 2022 đã đạt 180 tấn),… Với những thành công đạt được và hướng tới mục tiêu đưa con tôm Cà Mau phát triển hơn nữa, HTX Cái Bát đang tiếp tục phối hợp với Sở NN&MT Cà Mau tìm kiếm, xây dựng mô hình liên kết mới với sự tham gia tích cực và gắn trách nhiệm từ các bên trong chuỗi giá trị.

VÂN ANH

 Đến nay, qua 11 năm, HTX đã có 26 thành

Chiến lược nuôi tôm chinh phục thị trường toàn cầu

Nhu cầu đối với thủy sản sạch và an toàn ngày càng tăng trên toàn cầu, thúc đẩy nông dân Ấn Độ mở rộng sản xuất để đáp ứng yêu cầu của các thị trường lớn như Mỹ và châu Âu.

Siết kiểm soát trại giống

Cơ quan Nuôi trồng Thủy sản ven biển (CAA) đã phê duyệt 525 cơ sở sản xuất ấu trùng tôm, bao gồm trại giống và trại ương (NRHs), chuyên sản xuất TTCT và tôm sú. Hiện, công suất đạt 98,39 tỷ ấu trùng/ năm, với các cơ sở phân bố tại bảy bang ven biển: Andhra Pradesh, Tamil Nadu, Odisha, Gujarat, Karnataka, Kerala và Tây Bengal. Nông dân chỉ đạt năng suất cao khi có ấu trùng tôm khỏe mạnh và hiệu suất tốt. Vì vậy, CAA cấp phép và quản lý các trại giống theo hướng dẫn quy định. Ủy ban chuyên gia của cơ quan này lập danh sách các nhà cung cấp tôm bố mẹ nước ngoài. Tất cả tôm bố mẹ nhập khẩu phải qua kiểm dịch tại Cơ sở Kiểm dịch Thủy sản Karaimedu, Tamil Nadu, thuộc Trung tâm Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản Rajiv Gandhi (RGCA), cơ quan R&D của MPEDA.

Thúc đẩy xuất khẩu TTCT

Nuôi tôm thành công tại các bang Andhra Pradesh, Gujarat và Tây Bengal đã giúp Ấn Độ trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu tôm lớn sang EU và Trung Đông. Chính phủ Ấn Độ cũng đã thúc đẩy xuất khẩu tôm thông qua Chương trình Khuyến khích liên kết sản xuất (PLI) trong lĩnh vực chế biến thực phẩm, bao gồm sản phẩm tôm giá trị gia tăng.

Andhra Pradesh và Tây Bengal chiếm khoảng 78% diện tích nuôi tôm của cả nước. Vùng Sundarbans ở Tây Bengal và Kutch ở Gujarat là những khu vực nuôi tôm quan trọng. Tây Bengal, nằm dọc vịnh Bengal, có nguồn nước lợ thuận lợi, trong khi Gujarat với hạ tầng tốt và chính sách hỗ trợ từ Chính phủ. TTCT chiếm 95% tổng sản lượng tôm của Ấn Độ, trong khi tỷ lệ tôm sú giảm dần.

Đáng chú ý, sự tăng trưởng của ngành xuất khẩu tôm đông lạnh cho thấy khả

Ngành tôm Ấn Độ chú trọng phương thức nuôi trồng bền vững Ảnh: Asia Pacific Aquaculture

năng cạnh tranh của Ấn Độ trên thị trường quốc tế.

Cải tiến công nghệ

Ngành tôm Ấn Độ đang gia tăng cải tiến công nghệ nuôi, lai tạo giống, quản lý dịch bệnh, kiểm soát chất lượng nước, an toàn sinh học và công thức thức ăn. Ngành cũng chú trọng phương thức nuôi trồng bền vững, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thân thiện với môi trường.

cơ sở hạ tầng. Căng thẳng địa chính trị có thể làm gián đoạn tuyến xuất khẩu, tăng rào cản thương mại, nhu cầu biến động, quy định nhập khẩu chặt chẽ hơn và chi phí vận chuyển cao, gây khó khăn cho tăng trưởng thị trường và biến cố khó lường cho các nhà sản xuất tôm ở Ấn Độ. VŨ ĐỨC

(Theo Asia Pacific Aquaculture)

Chính phủ Ấn Độ đang thúc đẩy ngành nuôi trồng thủy sản thông qua các chương trình ưu đãi, trợ cấp và hỗ trợ công nghệ, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và phát triển bền vững, bao gồm việc đăng ký trang trại với CAA. Trong khi đó, ngành tôm đối mặt với nhiều thách thức như hạn chế thương mại quốc tế, biện pháp bảo vệ thị trường của các quốc gia lớn, thị trường Mỹ suy yếu, cạnh tranh gia tăng và sự tập trung địa lý. Giá tôm thấp và biến động tạo bất ổn tài chính cho người nuôi, hạn chế đầu tư vào  Ấn Độ xuất khẩu 697.141 tấn tôm, trị giá 5,2 tỷ USD vào năm 2023. Trong đó, 82,5% trị giá (4,3 tỷ USD) là tôm đông lạnh. Tôm chế biến chiếm 9,1% tổng doanh thu, khuyến khích nhiều doanh nghiệp vừa và lớn tham gia vào các chuỗi kho lạnh. Hiện, Ấn Độ có 621 đơn vị chế biến với công suất 36.572 tấn/ngày. Nhiều trong số này đã được châu Âu phê duyệt.

Sử dụng hiệu quả máy sục khí

Trong nuôi tôm, duy trì mức ôxy hòa tan (DO) ổn định là yếu tố quan trọng giúp tăng trưởng nhanh và hạn chế dịch bệnh. Một trong những giải pháp hiệu quả nhất là sử dụng máy sục khí, nhưng nếu không được quản lý tốt, hệ thống này có thể tiêu tốn nhiều điện năng, làm tăng chi phí sản xuất. Việc tối ưu hóa máy sục khí không chỉ giúp tiết kiệm năng lượng mà còn cải thiện chất lượng nước, nâng cao tỷ lệ sống và hiệu suất nuôi.

Lựa chọn máy phù hợp

Lựa chọn máy sục khí là bước đầu tiên

để đảm bảo hiệu quả sử dụng năng lượng.

Máy sục khí cánh quạt (Paddlewheel aerator) thường được dùng trong các ao lớn

vì có khả năng tạo dòng chảy mạnh, thúc

đẩy tuần hoàn nước và giảm thiểu bùn đáy.

Đây cũng là loại sục khí được dùng tương

đối rộng rãi ở các ao nuôi. Nó làm việc theo nguyên lý cánh guồng quay hất nước lên

thành những hạt nhỏ, tiếp xúc và thẩm thấu không khí (có ôxy) làm giàu hàm

lượng ôxy hòa tan trong nước. Loại máy này có ưu điểm dễ khuếch tán ôxy vào nước và

giải phóng khí độc (H2S, NH3,…) ra ngoài nhanh chóng, tạo dòng chảy nhẹ, đều và luân chuyển thường xuyên trong ao. Trong khi đó, máy sục khí nano hoặc bọt mịn lại phù hợp cho các ao có mật độ nuôi cao, do khả năng tạo bọt khí siêu nhỏ giúp ôxy hòa tan nhanh hơn và hiệu quả hơn so với công nghệ sục khí truyền thống. Ngoài ra, máy sục khí Venturi hoạt động bằng cách tận dụng dòng nước chảy để hút không khí, không cần dùng điện mà vẫn tăng cường ôxy hòa tan.

Đối với những ao nuôi lót bạt, việc sử dụng máy sục khí đáy với hệ thống khuếch

tán khí giúp phân bổ ôxy đều từ đáy ao lên mặt nước, giảm thiểu sự phân tầng ôxy trong ao nuôi.

Vị trí

Sau khi lựa chọn đúng loại máy, vị trí lắp đặt cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tối ưu hóa hiệu suất. Các máy sục khí cánh quạt nên được đặt dọc theo hướng gió để tận dụng lực tự nhiên, giúp ôxy lan tỏa đều khắp ao và hạn chế hiện tượng nước bị phân tầng. Với máy sục khí đáy, việc đặt chúng ở trung tâm ao sẽ giúp khí ôxy được phân bố đồng đều

cục bộ, đặc biệt là vào ban đêm. Các máy sục

khí nano nên được lắp đặt gần khu vực có mật độ tôm cao, nơi nhu cầu ôxy lớn hơn so với các vùng nước khác.

Điều chỉnh thời gian hợp lý

Việc điều chỉnh thời gian vận hành giúp

giảm đáng kể lượng điện tiêu thụ mà vẫn đảm bảo đủ ôxy cho tôm. Ban ngày, do tảo trong ao có khả năng quang hợp tạo ôxy, máy sục khí có thể chạy với tần suất thấp hơn, thường chỉ cần hoạt động khoảng

3 - 4 giờ vào buổi sáng để hỗ trợ quá trình khuếch tán ôxy. Tuy nhiên, vào ban đêm, tảo không còn sản sinh ôxy, do đó cần tăng cường sục khí để duy trì mức ôxy hòa tan tối ưu, tránh hiện tượng tôm nổi đầu do thiếu ôxy vào sáng sớm. Ngoài ra, khi tôm phát triển đến giai đoạn trưởng thành (từ 40 ngày tuổi trở đi), nhu cầu ôxy tăng lên đáng kể, vì vậy cần điều chỉnh tăng thời gian sục khí vào các giai đoạn này.

Kết hợp năng lượng tái tạo

Một trong những cách hiệu quả để tiết kiệm điện khi vận hành máy sục khí là kết

hợp với năng lượng tái tạo. Các mô hình

nuôi tôm sử dụng hệ thống pin mặt trời

đang ngày càng phổ biến, giúp giảm đáng

kể chi phí vận hành, đặc biệt ở những vùng

xa lưới điện. Máy sục khí hybrid, kết hợp giữa điện lưới và năng lượng mặt trời, cũng

đang được ứng dụng rộng rãi, mang lại hiệu quả tiết kiệm chi phí mà vẫn đảm bảo hoạt

 SÁCH KỸ THUẬT

Một số bệnh thường gặp trên tôm sú (Penaeus monodon) Các phương pháp chẩn đoán & biện pháp phòng trị

động ổn định. Việc sử dụng năng lượng tái tạo không chỉ giúp giảm chi phí điện mà còn góp phần bảo vệ môi trường, hướng tới mô hình nuôi tôm bền vững.

Bảo trì và kiểm tra định

kỳ

Bên cạnh việc lựa chọn máy phù hợp và tối ưu hóa thời gian hoạt động, bảo trì và kiểm tra định kỳ là yếu tố quan trọng để duy trì hiệu suất máy sục khí. Động cơ và cánh quạt của máy cần được kiểm tra thường xuyên để phát hiện sớm các dấu hiệu hao mòn, giúp ngăn ngừa sự cố bất ngờ. Các bộ phận khuếch tán khí trong máy sục khí đáy hoặc nano có thể bị tắc nghẽn do cặn bẩn, vì vậy cần vệ sinh định kỳ để đảm bảo khả năng tạo bọt khí hiệu quả. Việc theo dõi mức tiêu thụ điện và đánh giá hiệu suất sục khí cũng giúp người nuôi điều chỉnh vận hành phù hợp, tránh lãng phí năng lượng mà vẫn đạt được kết quả tối ưu.

Ứng dụng công nghệ giám sát tự động Ứng dụng công nghệ giám sát tự động trong quản lý sục khí ngày càng được áp dụng rộng rãi. Các hệ thống cảm biến đo nồng độ ôxy hòa tan (DO), pH, nhiệt độ có thể gửi dữ liệu trực tiếp đến điện thoại hoặc máy tính, giúp người nuôi theo dõi và điều chỉnh máy sục khí theo thời gian thực. Khi mức ôxy hòa tan đạt yêu cầu, hệ thống sẽ tự động giảm công suất hoặc tắt bớt máy sục khí, giúp tiết kiệm điện năng mà không

Tôm sú là loài tôm biển có giá trị kinh tế cao, được ưa chuộng trên thị trường nhờ vào thịt chắc, ngọt và giàu dinh dưỡng. Việc nuôi tôm sú đang trở thành một trong những xu hướng phát triển kinh tế quan trọng ở nhiều quốc gia, đặc biệt là ở Việt Nam. Tuy nhiên, nuôi tôm sú cũng đòi hỏi nhiều kỹ thuật, kinh nghiệm và đầu tư. Cuốn sách “Một số bệnh thường gặp trên tôm sú: Các phương pháp chẩn đoán & biện pháp phòng trị” cung cấp cho bạn đọc những triệu chứng, biện pháp chẩn đoán và phòng trị một số bệnh thường gặp trong nuôi tôm sú. Sách do Nhà xuất bản Nông nghiệp phát hành!

THANH HIẾU

 Nuôi tôm mật độ cao cần nhiều ôxy hơn so với nuôi tôm mật độ thấp như mô hình nuôi quảng canh. Sục khí là yêu cầu bắt buộc để duy trì mức ôxy mong muốn trong ao nuôi tôm.

ảnh hưởng đến chất lượng nước. Một số mô hình tiên tiến còn AI để phân tích dữ liệu môi trường nước, dự đoán nhu cầu ôxy theo từng thời điểm trong ngày, từ đó đưa ra khuyến nghị vận hành máy sục khí một cách tối ưu nhất.

Dự trữ máy phát điện Để tránh trường hợp trại nuôi tôm bị mất điện đột ngột nhất là vào ban đêm, người nuôi cần chuẩn bị máy phát điện dự phòng khi sự cố mất điện xảy ra. Đảm bảo thiết bị sục khí, quạt nước vẫn hoạt động ổn định, cung cấp đủ lượng ôxy hòa tan trong ao nuôi tôm, đảm bảo hoạt động nuôi tôm luôn trong tình trạng ổn định. Tránh tình trạng mất điện trong thời gian dài làm ao nuôi tôm không đủ ôxy gây ra những thiệt hại đáng tiếc về kinh tế cho người nuôi. Để chủ động được nguồn điện khi mạng điện lưới gặp sự cố hoặc bị cắt, thì việc sử dụng máy phát điện là giải pháp tối ưu nhất.

HOÀNG NGÂN

Tép Blue Dream

Là dòng tép có màu xanh dương đẹp mắt, tạo cảm giác tươi mát cho bể thủy sinh. Dòng tép được ưa chuộng nhất tại thị trường Việt Nam. Tép Blue Dream có thể sống tốt trong môi trường nước có pH từ 6,5 - 7,5 và nhiệt độ khoảng 22 - 260C. Chúng cũng rất dễ nuôi, chỉ cần một bể ổn định và thức ăn phù hợp. Chúng lớn nhanh và sinh sản cực kỳ tốt. Tép Blue Dream là động vật ăn mùn bã hữu cơ và tảo. Chế độ ăn bao gồm các loại viên tép chất lượng cao, bánh tảo, rau hấp (như rau bina hoặc bí xanh), và thỉnh thoảng bổ sung thức ăn tươi hoặc đông lạnh như trấu trùng nước mặn (Artemia) hoặc giáp xác chân chèo (Daphnia). Việc thêm lá bàng khô vào bể giúp tạo môi trường tự nhiên và giúp tép phát triển tốt hơn.

LÊ LOAN

 BÁCH KHOA THƯ

HỎI - ĐÁP

 Hỏi: Xin tư vấn biện pháp ổn định nhiệt độ trong ao nuôi vào mùa nắng nóng để tôm phát triển tốt?

(Nguyễn Tuấn Hải, xã Võ Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình)

Trả lời:

Vào mùa nắng nóng, để hạn chế nhiệt độ trong ao quá cao làm ảnh hưởng đến tôm người nuôi cần duy trì màu nước ở

dạng màu trà và giữ độ trong không quá 35 cm. Ở nhiệt độ 26 - 32 0 C, nên cho tôm ăn đúng khẩu phần phù hợp với quy trình, tránh cho ăn dư thừa; khi trời nắng nóng nhiệt độ tăng tôm sẽ giảm ăn, do vậy chỉ cho tôm ăn lượng thức ăn bằng 70 - 80% lượng thức ăn so với bình thường và tăng lượng thức ăn vào cữ ăn trời mát. Sử dụng màn lưới đen chống nắng căng phía trên mặt ao để hạn chế bức xạ của ánh sáng mặt trời, giảm tăng nhiệt nước ao, tránh gây sốc cho tôm. Cần bổ sung nước mát

(ở tầng đáy) của ao lắng vào ao nuôi để duy trì độ sâu và giảm

độ mặn nước ao. Tăng cường sục khí trong ao để hàm lượng

ôxy được cung cấp đủ ở mọi tầng nước. Hạn chế dùng chài, vó

đánh bắt kiểm tra tôm vào ngày nắng nóng để hạn chế hiện

tượng đục cơ trên tôm. Định kỳ xi phông nền đáy ao nhằm giảm lượng mùn bã hữu cơ trong ao, hạn chế sự phát sinh các khí độc ảnh hưởng đến tôm. Dùng chế phẩm sinh học EM gốc xử lý môi trường nước ao nuôi để hạn chế chất hữu cơ và khí độc ở đáy ao. Đồng thời EM kết hợp với vitamin làm tăng vi sinh vật phù du trong nước làm tăng thức ăn cho tôm ức chế sự phát triển vi khuẩn có hại. Ngoài ra, việc chế biến và sử dụng EM tỏi, chuối bổ sung vào thức ăn cho tôm hàng ngày giúp tăng cường khả năng tiêu hóa và hấp thụ thức ăn, kích thích tăng trưởng.

 Hỏi: Ao nuôi tôm 45 ngày tuổi có hàm lượng NO2 vượt ngưỡng. Hỏi biện pháp khắc phục?

(Phạm Trọng Trường, xã Cẩm Hòa, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh)

Trả lời: NO 2 trong ao nuôi bắt nguồn từ NH 4 + /NH 3 qua giai đoạn 1 của quá trình Nitrat hóa chuyển sang NO 2 hoặc do NO 2 đã tồn tại sẵn trong nguồn nước cấp. Bên cạnh đó, quá trình bài tiết của tôm cũng góp phần làm tăng hàm lượng NO 2 trong nước. Khi ao xuất hiện NO 2 chứng tỏ điều kiện môi trường nuôi đã xấu đi, đáy ao bị bẩn,… Bản thân NO 2 ở mức thấp có thể không gây ảnh hưởng lớn cho tôm, nhưng khi hàm lượng NO 2 cao hơn sẽ gây nguy hiểm cho tôm. Cụ thể, NO 2 kết hợp với Hemocyanin trong máu tôm làm mất khả năng vận chuyển ôxy trong máu từ đó khiến tôm nuôi bị ngạt. Khi tôm bị ngạt mãn tính sẽ yếu, dễ mắc bệnh hoặc chết khi sốc môi trường. Để khắc phục, có thể xử lý như sau: Sử dụng chế phẩm sinh học: Có thể sử dụng vi sinh xử lý khí độc NO 2 trong ao nuôi tôm. Đây là giải pháp hiệu quả, an

toàn với tôm nuôi và con người được các chuyên gia khuyên dùng. Cách sử dụng như sau: Trộn 1 gói (100 g) + 2 kg mật rỉ đường + 20 lít nước sạch, sau đó đem sục khí 2 giờ để vi sinh vật sinh trưởng tốt. Cuối cùng đem tạt đều lên khắp bề mặt ao nuôi. Đánh vào lúc trời nắng khi có nhiều ôxy để phát huy tối đa hiệu quả xử lý.

Tuần hoàn nước ao nuôi ra ao lắng: Khi đưa nước từ ao nuôi sang ao lắng sẽ xử lý NO2 trước khi tái cấp vào ao nuôi. Tại ao lắng, xử lý nước bằng ôxy già với nồng độ 5 - 10 ppm. Ôxy già sẽ cung cấp ôxy cho quá trình Nitrat hóa đồng thời ôxy hóa chất hữu cơ. Điểm yếu của phương pháp này là không thể áp dụng cho ao nuôi tôm có thể tích lớn bởi giá thành rất cao.

Xử lý ao nuôi: Có thể xử lý CaCl 2 lượng 20 - 30 kg/1.000 m3 định kỳ 2 - 3 ngày nhằm tăng cường khả năng chống chịu cho tôm. Khi thấy tôm có dấu hiệu ngộ độc NO 2 dùng ôxy viên 1 - 2 kg/1.000 m3 đánh xuống đáy ao vào ban ngày, liên tục vài ngày.

 Hỏi: Để tôm sinh trưởng tốt, thức ăn công nghiệp cần đáp ứng những yêu cầu gì?

(Phạm Công Hòa, xã Hòa Điền, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang)

Trả lời: Khi lựa chọn thức ăn tôm, yếu tố đầu tiên cần quan tâm là màu sắc, mùi đặc trưng của chúng. Màu sắc yêu cầu từ vàng nâu đến nâu. Có mùi đặc trưng của nguyên liệu phối chế, không có mùi mốc và mùi lạ khác. Thức ăn không bị vón cục, và có độ đồng đều cao. Thức ăn viên công nghiệp gồm 6 loại được sử dụng cho các giai đoạn phát triển của tôm. Trong giai đoạn tôm cỡ 0,1 - 8 g có thể sử dụng thức ăn dạng mảnh hoặc dạng viên, khi tôm > 8 g, chỉ sử dụng thức ăn dạng viên. Thức ăn viên có hình trụ, bề mặt mịn, kích thước đáp ứng được đối với cỡ miệng tôm. Với thức ăn dạng mảnh, yêu cầu các hạt đều nhau, bề mặt mịn, kích cỡ phù hợp. Ngoài ra, thức ăn đạt chất lượng có tỷ lệ vụn, nát nhỏ hơn 1%. Để xác định tỷ lệ vụn, nát, lấy 100 - 200 g thức ăn, cho qua rây lưới với kích cỡ lỗ rây bằng 40% so kích cỡ đồng đều. Cân toàn bộ phần đã lọt qua rây và tính phần trăm.

Độ bền là một trong những yếu tố quan trọng trong chế biến thức ăn cho tôm. Người nuôi có thể thử độ bền bằng cách lấy khoảng 5 g thức ăn cho vào cốc thủy tinh có chứa nước trong để yên trong vài phút. Sau đó, cứ khoảng 15 phút dùng đũa khuấy nhẹ một vòng rồi quan sát. Nếu hầu hết các viên thức ăn vẫn còn giữ nguyên hình dạng và có thể cầm nhẹ lên mà không bị vỡ nát là thức ăn chưa bị rã. Độ bền của viên thức ăn được tính bằng số giờ quan sát kể từ khi thả thức ăn vào cốc thủy tinh chứa nước cho đến khi hầu hết các viên thức ăn vẫn còn giữ nguyên hình dạng ban đầu. Độ bền theo tiêu chuẩn quy định không nhỏ hơn 2 giờ.

 Hỏi: Tôm hùm giảm ăn, chậm lớn, nổi đầu, bơi lờ đờ trên mặt nước, dạt vào bờ, mang, đuôi bị đen. Hỏi đây là bệnh gì và biện pháp xử lý ra sao?

(Trần Thanh An, xã Tân Hải, huyện La Gi, tỉnh Bình Thuận)

Trả lời:

Theo mô tả, tôm hùm có thể đã bị bệnh đen mang. Nguyên nhân là do các ký sinh trùng sán lá đơn chủ (xuất hiện nhiều sau các cơn mưa), nấm Fusarium, vi khuẩn dạng sợi Vibrio, nồng độ khí độc Amoniac (NH3) và Hydro Sulfur (H2S) trong môi trường cao. Khi bị bệnh, mang tôm bị đen do sắc tố Melanin phát triển tại các mô của mang bị ký sinh trùng phá hủy. Mang tôm có những điểm đen, các tơ mang chuyển màu đen, mang thối rữa toàn bộ. Quan sát bằng mắt thường thấy những búi sán lá đơn chủ trắng nhỏ như sợi tóc. Sán lá sẽ đục thủng mang gây hoại tử tế bào. Thân tôm cũng xuất

hiện những đốm đen, mắt tôm cũng có thể chuyển sang màu đen.

Bệnh xuất hiện ở cả tôm con và tôm trưởng thành. Tôm bỏ ăn, hô

hấp kém, nằm dưới đáy lồng và chết hàng loạt.

Để trị bệnh, cần thực hiện các biện pháp sau:

- Tắm cho tôm bằng Formaline với nồng độ 15 - 25 ml/m3 nước trong 10 - 15 phút, có sục khí. Thời gian chữa trị từ 5 - 7 ngày.

- Tắm cho tôm bằng Đồng Sulfat, nồng độ 0,5 g/m3 nước trong 5 - 7 phút, có sục khí. Thời gian điều trị từ 5 - 7 ngày. Lưu ý tôm bệnh sau khi xử lý thuốc cần được thả nuôi ở một lồng khác.

- Treo những túi vải có chứa vôi ở giữa lồng tôm hoặc đặt ở những vùng đáy lồng nuôi bị ô nhiễm. Vôi có tác dụng diệt ký sinh trùng, nấm, vi khuẩn tốt.

- Có thể sử dụng một số kháng sinh như Norfloxacin, Nalidixic acid, Ciprofloxacin để phòng trị bệnh bằng cách trộn

vào thức ăn với lượng 30 - 50 mg/kg thức ăn. Thời gian điều trị từ 5 - 7 ngày.

 Hỏi: Các phương pháp xử lý nước trong trại sản xuất giống?

(Trần Trường Sơn, xã Gia Hòa 2, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng)

Trả lời:

Môi trường sản xuất giống cần đảm bảo tính tiêu chuẩn cao, do đó xử lý nước trước khi lấy vào bể nuôi là yêu cầu rất cơ bản trong quy trình sản xuất. Nguồn nước được xử lý tốt sẽ không bị ô nhiễm, loại bỏ được tạp chất, kim loại nặng và hạn chế tối đa các tác nhân gây bệnh trong nước. Một số biện pháp cơ bản xử lý nước phục vụ cho trại sản xuất tôm giống như sau:

Phương pháp cơ học: Đưa nước vào bể chứa để lắng lọc hay cho nước chảy qua các bể lọc xuôi hoặc ngược, bể lọc có thể sử dụng

đường cát và đá. Đây là hình thức lọc thô nên không thể tiêu diệt

triệt để các loại tác nhân gây bệnh,…

Phương pháp vật lý: Thực chất của phương pháp vật lý là dùng

đèn cực tím để khử trùng nước. Đèn cực tím ở bước sóng khoảng

240 - 280 nm, có thể tiệt trùng nước biển dùng trong nuôi trồng thủy sản nhưng không làm cho nước hoàn toàn vô trùng, tia cực tím có tác dụng kìm hãm khả năng sinh sản của vi khuẩn và nấm. Do đó, dùng đèn cực tím để kìm hãm vi khuẩn và nấm tốt hơn so với dùng các loại hóa chất diệt khuẩn và diệt nấm.

Phương pháp hóa học: Đây là phương pháp dùng các loại thuốc sát trùng khác nhau cho vào nguồn nước để tiêu diệt mầm bệnh thông qua các phản ứng ôxy hóa - khử, như dùng Iodine, Chlorine, thuốc tím, xanh methylen, Formaline,…

Turn static files into dynamic content formats.

Create a flipbook
Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.