




Thời gian trôi qua, vạn vật theo quy luật vận hành mà chìm vào quên lãng như một quy luật bất biến. Thế nhưng, vẫn có những điều được lưu giữ lại, bất chấp dòng chảy của thời đại đó là giá trị văn hóa. Không chỉ là nét văn hoá, phong tục tập quán, những cổ vật ngày xưa vẫn khiến người ra rung động khi được nhìn thấy, khi được chạm vào... Nơi này là chốn dừng chân cho những con người yêu thích lịch sử, nét văn hoá Việt và lưu giữ những điều còn lại theo thời gian, là Vàng son một thuở mãi không phai..















Kĩ thuật chế tác:
Gỗ mít sau khi đem xử lí và phơi sẽ được đẽo gọt rồi ghép lại tạo thành hình đỉnh, chân đế như ý muốn rồi làm vóc. Kế đến người thợ áo lên gỗ lớp sơn then, lớp lớp sơn son rồi lại chà bóng nằm lại trên mặt gỗ nhẵn nhụi.


Điểm thú vị là người nghệ nhân sẽ phơi cho sơn khô ở nơi có độ ẩm cao chứ không phải nơi khô ráo như chúng ta thường nghĩ, lại thêm một lớp sơn cầm và lớp sơn keo mỏng vừa đủ trước khi bắt đầu thếp cho đỉnh bằng vàng quỳ.
Điểm tinh xảo ở đây là điểm nhãn cho kỳ lân và hổ phù bằng bạc và sơn then. Vàng quỳ sẽ thếp lên khi lớp keo vừa khô tới, cần chú ý không để sơn quá khô sẽ làm keo không bám vàng quỳ, hoặc nếu sơn quá ướt sẽ làm nhăn vàng quỳ.
Và ở công đoạn cuối quyết định cho tính bền vững của bề mặt vàng, người thợ sẽ phủ lên một lớp sơn mỏng nữa nhằm bảo vệ vàng quỳ cũng như màu son quý giá bên trong, nếu không có lớp phủ này thì theo thời gian màu đỏ của chu sa sẽ dần trầm lại khi tiếp xúc nhiều với không khí và ánh sáng.
Việc phủ sơn này cũng không kém phần tinh tế, tỉ mỉ.
Đại ý: Đỉnh này vốn không phải để đốt trầm hay xông hương, mà mục đích chính là để trưng bày trong gian nhà, hay cung điện, phủ đệ…
Khác với những đồ sơn son thếp vàng là sơn son sẽ làm chủ đạo và vàng để điểm tô làm trung tâm, còn đỉnh này lại được thếp vàng toàn bộ. Duy chỉ mặt đế là được sơn son, để chứng minh đây là một món đồ quý hiếm. Hình tượng lân hí cầu chễm chệ trên nắp đỉnh được tạo hình sống động với đôi mắt truyền thần kết hợp cùng mây hóa rồng ở quai đỉnh, các mặt bợm xuất hiện trên dưới như để thể hiện ra khí chất và uy quyền của chủ nhân sở hữu vật này.
Cung đình Huế, chúng ta sẽ nhìn thấy được quả cầu ‘Cửu Long sơn thếp’, một món đồ nội thất độc đáo từng được bày trung cung vua nhà Nguyễn với lối tạo tác tương tự như đỉnh thếp vàng trên.
Khi trải nghiệm trực tiếp, phần sơn ta lâu năm sờ vào rất mát và mịn tay, còn phần vàng xưa thì lại đầm màu ôn nhuận khác với vàng mới sẽ rất sáng và gắt ánh nhìn.

“Đối với tôi “Vàng Son Một Thuở “ là nơi trao đổi kiến thức, thông tin về hiện vật cũng như tư liệu các triều đại Việt Nam trong lịch sử và chủ yếu là triều Nguyễn gần nhất, đối tượng nhắm đến bao gồm kiến trúc, trang phục, đồ ngự dụng cung đình, đồ dùng sinh hoạt hằng ngày... hay bất cứ vật gì được cho là liên quan đến lịch sử mà chúng ta may mắn được thấy hay được nghe kể đến.

Chủ đề chính của trang chủ yếu là thông tin về “đồ vật” có gắn liền với phong tục tập quán, gắn với lịch sử chứ không phải là nhóm trao đổi kiến thức về phong tục hay lịch sử, đây là điểm khác biệt so với những nhóm cổ phong khác nhằm lưu giữ những giá trị cổ xưa mà cha ông để lại thông qua những hiện vật cụ thể.
Giúp con cháu chúng ta có cái nhìn rõ nét, tường tận hơn về kỹ thuật, vật liệu tạo ra các sản phẩm tinh tế qua bàn tay lành nghề của các cụ. Qua đó chính con cháu chúng ta sẽ phỏng dựng, phục dựng lại để trực tiếp cảm nhận được sự tinh tế, công phu trong từng món đồ”.






Từ trước đến nay chúng ta thường thấy hình tượng Long-Phụng, Lân hí cầu trên đỉnh xông trầm nhưng lại rất hiếm khi thấy được dáng tượng của Nghê trên đỉnh xông.
Nghê là linh vật thuần Việt mang ý nghĩa điềm lành và bảo vệ, xua đuổi tà ma, ác ôn. Được nâng hàng lên ngang với tứ linh và được người dân Việt Nam tôn thần ở một số vùng. Trước cửa Hiển Nhơn và trước Miếu Môn Thế Tổ Miếu trong Hoàng Thành Huế cũng có những đôi Nghê đá đứng chầu. Và có một điểm riêng biệt vào thời Nguyễn, Nghê được “lân hóa” hình dáng nên đầu tròn và ngắn hơn các Nghê triều trước, đây cũng là một nét điểm xuy ết mang tính thời đại mà cổ nhân đã tạo ra.

Lại nói về đôi Nghê đồng xông trầm được tạo tác bằng kĩ thuật đúc đồng rồi chạm, các nét ở bờm đầu chạy dọc xuống lưng cuộn xoắn pha lẫn những nét rẽ nếp khá nhuyễn. Đây được xem là những họa tiết mang đậm chất Việt nhất nếu so với những hoạ tiết cùng thời kì.
Nghê được tạo tác dáng ngồi ung dung trên quả cầu là lò đốt trầm, bên ngoài được đúc nổi hình các đoá sen nét nhuyễn cách điệu. Nếu điểm đặc biệt nhất của đôi Nghê này là kĩ thuật đúc liền, đúc nắp nhả khói thì điểm thú vị kế đến chính là đôi Nghê này vốn dĩ là một cặp đực-cái rõ rệt, được phân biệt rõ trên phần yếm đeo ở trước ngực. Chi tiết độc đáo này cho chúng ta thấy rõ hơn về sự tồn tại giữa âm và
dương trong văn


hoá Việt Nam cũng như thể hiện được tính cân bằng trong vũ trụ về đựccái, trống-mái là chiếc nôi của sự sinh sản, là mấu chốt cho sự sống nguyên thuỷ.
Kiểu thức xông trầm này vốn được kế thừa từ các triều đại trước, qua đến Nguyễn triều thì lại ảnh hưởng Trung Hoa nhiều hơn nên rất ít thấy dáng hình thuần Việt như thế này.


