ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM
Nhìn lại lịch sử vẻ vang
Hướng tới tương lai ‘rực rỡ’
ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM
CONTENT
70 NĂM ĐIỆN ẢNH CÁCH MẠNG VIỆT NAM
ĐỒNG HÀNH CÙNG ĐẤT NƯỚC
THỊ TRƯỜNG ĐIỆN ẢNH VIỆT BÙNG NỔ NHANH NỔI BẬT CHÂU Á
SAU BỐ GIÀ, PHIM VIỆT SANG MỸ NHIỀU HƠN
TOP 10 PHIM ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM CÓ DOANH THU CAO NHẤT5 TRIỆU LƯỢT VÉ TRÊN 100 TRIỆU DÂN
CŨNG CHƯA CAO
KỸ XẢO ĐIỆN ẢNH VỚI PHIM TRONG NƯỚC BỊ “CHÊ” VÌ ĐÂU?
ĐIỂM SÁNG PHIM NGHỆ THUẬT VIỆT
NĂM 2023
GIẤC MƠ PHIM NHÀ NƯỚC
XÁC LẬP VỊ THẾ PHÒNG VÉ
THƯƠNG MẠI HÓA PHIM TÀI LIỆU: NỖ LỰC “THOÁT KÉN”
GIẤC MƠ OSCAR XA VỜI
CỦA PHIM VIỆT
70 NĂM ĐIỆN ẢNH CÁCH ĐỒNG HÀNH CÙNG
1960 - 1975
Chủ yếu sản xuất phim tài liệu, phim truyện về đề tài chiến tranh, sản xuất và lao động ở miền Bắc.
• Lửa trung tuyến (1961)
• Chim vành khuyên (1962)
• Chị Tư Hậu (1963)
• Vĩ tuyến 17 ngày và đêm (1972)
• Đến hẹn lại lên (1974)
15/3/1953
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 147/SL thành lập Doanh nghiệp quốc gia chiếu bóng và chụp ảnh Việt Nam. Ngày 15/3 trở thành Ngày truyền thống của ngành điện ảnh Việt Nam.
Điện ảnh Khu 8, Khu 7 thành lập ở Nam Bộ, cho ra đời những thước phim tài liệu chiến trường đầu tiên:
• Chiến dịch Bến Tre
• Chiến dịch Trà Vinh
• Chiến dịch La Ban - Cầu Kè
• Chiến dịch Bến Cát
• Trận Mộc Hóa
• Trận Bùng Binh
• Trận Trảng Bàng
• Trận Trảng Bom
• Em bé Hà Nội (1974)
Giai đoạn này, có gần 300 cán bộ, nghệ sĩ điện ảnh đã hy sinh trong khi làm phim phục vụ đồng bào, chiến sĩ cả nước.
Phim truyện đầu tiên ra đời Chung một dòng sông (1959).
Phim hoạt hình đầu tiên ra đời Đáng đời thằng cáo (1960).
1959 - 1960
Đề tài sáng tác xoay quanh công cuộc lao động sản xuất, xây dựng cuộc sống mới ở cả hai miền:
• Thành phố lúc rạng đông (1975)
• Sài Gòn tháng 5/1975
• Sao tháng Tám (1976)
• Mối tình đầu (1977)
• Mùa gió chướng (1978)
• Mẹ vắng nhà (1979)
• Cánh đồng hoang (1979)...
SAU 1975
CÁCH MẠNG VIỆT NAM CÙNG ĐẤT NƯỚC
1980 - 1990
Điện ảnh rơi vào khủng hoảng do không được bao cấp. Những cái mới có tính đột phá bắt đầu được manh nha hình thành.
2000 - 2010
Phim thương mại phát triển, Phim Việt đã tham dự nhiều kỳ liên hoan phim quốc tế và bước đầu giành được một số giải thưởng. Hệ thống rạp chiếu hiện đại được xây dựng ở nhiều nơi. Phim nhập khẩu thúc đẩy sự cạnh tranh mạnh mẽ của các nhà làm phim trong nước với phim nước ngoài.
Thoát dần khỏi khủng hoảng, đánh dấu sự trở lại của dòng phim nghệ thuật. Năm 1994, Giải thưởng đầu tiên của Hội Điện ảnh ra đời, là tiền thân của giải Cánh diều vàng ngày nay.
CUỐI THẬP NIÊN 90
Chiến lược phát triển điện ảnh Việt Nam tầm nhìn đến năm 2030 đã mở ra nhiều cơ hội phát triển. Các nhà làm phim trong nước và nước ngoài cùng hợp tác sản xuất góp thêm những màu sắc mới mẻ cho điện ảnh Việt Nam.
Hợp tác quốc tế được mở rộng với nhiều dự án “bom tấn” của nước ngoài thực hiện tại Việt Nam, tiêu biểu là Pan, Kong - The island of skulls… góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới.
2010 ĐẾN NAY
THỊ TRƯỜNG ĐIỆN ẢNH VIỆT BÙNG NỔ NHANH NỔI BẬT CHÂU Á
Trang tin Deadline (Mỹ) nhận định Việt Nam đang là một trong những
thị trường điện ảnh phát triển nhanh nhất châu Á.
“Cách để Việt Nam trở thành một trong những thị trường điện ảnh phát triển nhanh nhất châu Á với các cụm rạp chiếu phim mới, lượng khán giả khát khao phim ảnh và ngành điện ảnh trong nước năng động” là tên bài viết gây chú ý của tác giả Liz Shackleton trên Deadline hôm 23 - 2.
TĂNG TRƯỞNG ỔN ĐỊNH, PHIM VIỆT DẪN ĐẦU
Truyền thông của Mỹ tờ Deadline đã có bài viết dựa trên phân tích của chuyên gia Liz Shackleton nói về thị trường điện ảnh Việt Nam. Theo chuyên gia này đánh giá, năm 2023, trong Top 10 phim ăn khách tại phòng vé Việt chỉ có 4 phim ngoại và đều xếp sau 6 phim Việt. Doanh thu phim Việt lần đầu tiên chiếm 41% thị trường dù chỉ có 25 phim ra rạp (so với năm 2019 có 54 phim ra rạp).
Trong năm 2024, phong độ của các bộ phim Việt còn cho thấy sự vượt trội hơn khi chỉ với 2 dự án chiếu Tết năm nay là “Mai” và “Gặp lại chị bầu” chiếu Tết đã thu về hơn 600 tỉ đồng, trong khi 4 phim ngoại chiếu cùng thời điểm có doanh thu cộng lại chỉ bằng 1/10 con số này. Ngoài ra, về kỷ lục và tốc độ bán vé, trong năm 2023 và 2024 chứng kiến nhiều thành tích được lập ra. Trong đó, phim “Nhà bà Nữ” mất 3,5 ngày để đạt 100 tỉ đồng, phim “Mai” chỉ mất 3 ngày. Hiện phim Mai cũng là phim Việt duy nhất vượt mốc 500 tỉ đồng. Đặc biệt, sau hơn một tuần công chiếu, phim Mai đã vào top 15 phim ăn khách nhất thế giới năm 2024 (tính đến tháng 2). Chỉ với ba phim chiếu Tết đều đang có doanh thu trên 400 tỉ đồng là Bố già, Nhà bà Nữ và Mai, Trấn
“
Năm ngoái, doanh thu phòng vé Việt Nam
đạt 150 triệu USD (3.969 tỉ đồng), tương đương khoảng 90% mức trước đại dịch, từ tổng số 1.100 phòng chiếu. Thành tích này
không tệ đối với một thị trường mà năm 2010 mới chỉ có 90 phòng chiếu và doanh thu hằng năm dưới 15 triệu USD.
Thành không chỉ vượt doanh thu của chính mình mà còn từng bước đưa phim Việt ra quốc tế… Việc phim Việt áp đảo về doanh thu so với phim ngoại phần nào cho thấy, các nhà làm phim đã có sự nghiên cứu và thay đổi nội dung, tiếp cận hơn với phần đông khán giả xem phim. Ngoài các dự án phim của Trấn Thành, Victor Vũ - vốn dĩ đã có thương hiệu và tên tuổi từ các ngôi sao nổi tiếng thì không thể phủ nhận việc nhiều nhà làm phim Việt đã rất nỗ lực trong việc tìm tòi ý tưởng mới. Đơn cử ở dòng phim kinh dị đã có sự tiến bộ hơn rất nhiều so với trước đó. Còn nhớ bộ phim “Bến phà xác sống” năm 2023 bị chê bai là thảm họa phim kinh dị Việt nhưng đến cuối năm 2023 và đầu 2024, điện ảnh Việt đã có 2 phim kinh dị ăn khách là “Kẻ ăn hồn” (thu gần 70 tỉ đồng) và “Quỷ cẩu” (hơn 108 tỉ đồng). Ngoài ra, ngoài các phim tư nhân, phim Nhà nước cũng dần dà được khán giả chú ý. Điều này thể hiện qua hiện tượng “Đào, phở và piano”. Phim liên tục cháy vé và tạo cơn sốt “săn vé” xem phim Việt ngoài rạp thời gian dài.
TOP 10 PHIM ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM CÓ DOANH THU CAO NHẤT
MAI (2024)
Đạo diễn: Trấn Thành Doanh thu: 520 tỷ VNĐ
BỐ GIÀ (2021)
Đạo diễn: Trấn Thành, Vũ Ngọc Đãng
02
NHÀ BÀ NỮ (2023)
Đạo diễn: Trấn Thành
Doanh thu: 475 tỷ VNĐ
Doanh thu: 427 tỷ VNĐ
04
LẬT MẶT 6: TẤM VÉ
ĐỊNH MỆNH (2023)
Đạo diễn: Lý Hải
Doanh thu: 273 tỷ VNĐ 01
HAI PHƯỢNG (2019)
Đạo diễn: Lê Văn Kiệt
Doanh thu: 200 tỷ VNĐ
08 07 05 06
MẮT BIẾC (2019)
Đạo diễn: Victor Vũ
Doanh thu: 180 tỷ VNĐ
CUA LẠI VỢ BẦU (2019)
Đạo diễn: Nhất Trung
Doanh thu: 191,8 tỷ VNĐ
TIỆC TRĂNG MÁU (2020)
Đạo diễn: Nguyễn Quang Dũng
Doanh thu: 175 tỷ VNĐ
09 10
EM CHƯA 18 (2017)
Đạo diễn: Lê Thanh Sơn
Doanh thu: 171 tỷ VNĐ
GÁI GIÀ LẮM CHIÊU 3 (2020)
Đạo diễn: Bảo Nhân, Nam Kito
Doanh thu: 165 tỷ VNĐ
SAU BỐ GIÀ, PHIM VIỆT SANG MỸ NHIỀU HƠN
Bên cạnh thị trường trong nước, điện ảnh Việt cần có những phim được chiếu và gây tiếng vang ở nước ngoài, đặc biệt các thị trường lớn. Điều này đang có những bước tiến trong 3 năm qua. Theo Deadline, từ khi Bố già (Dad, I’m Sorry) của Trấn Thành chiếu ở một vài rạp tại Mỹ năm 2021, quy mô phát hành phim Việt tại Mỹ đã tăng đáng kể. Năm 2023, có ít nhất 6 phim Việt chiếu ở Bắc Mỹ, một số phim chiếu ở 40-70 địa điểm, theo Thien A.Pham - người sáng lập hãng phân phối 3388 Films. Ban đầu, các phim Việt nhắm đến cộng đồng người Việt ở Mỹ, sau đó mở rộng sang Kansas, Ohio và North Carolina - những nơi chưa từng chiếu phim Việt trước đây.
Công ty Skyline của nhà phát hành Hằng Trịnh cũng đang thực hiện nhiều phim hợp tác sản xuất. Cùng với Vietnam Media Corp của BHD, Skyline thường xuyên mang phim Việt đến các chợ phim quốc tế.
5 TRIỆU LƯỢT VÉ TRÊN 100 TRIỆU DÂN CŨNG CHƯA CAO
Những năm trước, khi trả lời về hướng đi để thị trường phát triển và có những phim doanh thu nghìn tỉ, các nhà phát hành đưa ra nhiều giải pháp nhưng thường chung một yếu tố: Việt Nam cần nhiều rạp phim hơn và lượng khán giả thường xuyên cần tăng lên. Tết này, khi phim Mai công bố con số 5 triệu lượt vé bán ra (ngày 24-2), trên mạng có tranh luận con số đó có thực tế. Nhưng trong mắt người làm phim, 5 triệu vé xem phim trên khoảng 100 triệu dân - với một phim sắp là top 1 phim Việt ăn khách nhất từ trước đến nay - hoàn toàn không phải là một tỉ lệ cao. Để so sánh, những bộ phim top 3 phòng vé Hàn Quốc từ trước đến nay như The Admiral: Roaring Currents, Extreme Job và Along With the Gods: The Two Worlds đều có số vé bán ra lần lượt trên 17 triệu, 16 triệu và 14 triệu vé. Trong khi đó, Hàn Quốc chỉ hơn 50 triệu dân.
Hàn Quốc lâu nay là một thị trường mà Việt Nam có nhiều hoạt động giao lưu, học hỏi kinh nghiệm, liên kết sản xuất - phát hành... Các doanh nghiệp Hàn Quốc cũng đóng góp khá nhiều trong việc xây dựng rạp phim ở Việt Nam như hệ thống rạp multiplex do CJ CGV và Lotte Cinema điều hành. Ngoài ra, hệ thống rạp Galaxy Cinema, BHD Star Cineplex hay các hãng nhỏ hơn như Mega GS, Cinestar, Beta Cinemas... với giá vé thấp hơn cũng thu hút nhiều phân khúc khán giả. Thị trường Việt Nam vẫn được đánh giá là khá trẻ khi 80% khán giả là người dưới 29 tuổi - ông Nguyễn Tuấn Linh, giám sát phát hành của CJ HK, nói với Deadline. Nhóm tuổi đó về cơ bản đang dẫn dắt thị hiếu: lãng mạn, hài, kinh dị. Họ cũng rất năng động trên Facebook và TikTok.
KỸ XẢO ĐIỆN ẢNH
VỚI PHIM TRONG NƯỚC BỊ “CHÊ” VÌ ĐÂU?
Kỹ xảo điện ảnh có mặt ở Việt Nam từ khoảng hai thập niên qua, nhưng chỉ được biết đến là làm gia công cho thế giới chứ chưa thật sự ghi điểm với người xem qua các dự án trong nước. Thực tế cho thấy, ngành kỹ xảo điện
ảnh (Visual Effects – VFX) vẫn đang dò dẫm, tìm cơ hội trong nước với những dự án bị phụ thuộc vào quy mô thị trường, vốn sản xuất phim, cùng những nỗi niềm về nhân lực.
Tính từ năm 2020 đến nay, Việt Nam “mọc lên” khá nhiều studio mới, đa phần có vốn đầu tư từ các doanh nghiệp nước ngoài. Các thành phố lớn là nơi tập trung chính các studio làm hậu kỳ, kỹ xảo, bởi các địa phương này có nhiều tiềm năng. Tại đây, hoạt động giải trí đang được đẩy mạnh, các ứng dụng xem phim trả tiền phát triển. Bên cạnh đó còn có lực lượng nhân công giá rẻ, đội ngũ trẻ chịu khó học hỏi.
Tuy vậy, ứng dụng kỹ xảo ở không ít dự án phim Việt đã bị khán giả “chê”. Các cảnh quay cần dùng hiệu ứng, kỹ xảo hậu kỳ như cảnh zombie (xác sống), khoa học viễn tưởng, hành động giật gân… chưa để lại ấn tượng.
Tất nhiên, kịch bản phim hay vẫn là mấu chốt quyết định sức sống của một bộ phim, nội dung không tốt thì làm cách mấy cũng không cứu được. Song, có phim đã thành công trong thể loại “kén khách” nhờ kịch bản tốt, nhưng vẫn khó “tròn trịa” cảnh phim dùng kỹ xảo đạt tính thẩm mỹ cao, chân thật, thuyết phục khán giả.
Theo nghiên cứu của trang Research and Markets, 90% phim hoạt hình, chương trình truyền hình của Mỹ được sản xuất tại châu Á. Trong khu vực này, đội ngũ nghệ sĩ VFX (VFX Artist) Việt Nam cũng ghi dấu ấn không ít ở các dự án bom tấn Hollywood, gần đây nhất là nhiều phim trên Netflix, Disney+… như Chicken Nugget, The Glory (Vinh quang trong thù hận), Moving, Đại hải chiến Noryang: Biển chết, Biên Niên Sử Arthdal…
KỸ XẢO ĐIỆN ẢNH
VỚI PHIM TRONG NƯỚC BỊ “CHÊ” VÌ ĐÂU?
Vậy thì đến khi làm kỹ xảo cho các bộ phim trong
nước lại bị không ít khán giả chê kém là do đâu?
Một số studio tiết lộ, chiếm hơn 50% những bộ phim gia công “ăn tiền” do công ty thực hiện đều đến từ nước ngoài. Các dự án phim trong nước ít hơn, một vài nhà sản xuất giải quyết chuyện tài chính eo hẹp bằng cách kêu gọi các studio đầu tư cho phần hậu kỳ phim.
Chi phí sản xuất kỹ xảo điện ảnh không thấp, trung bình từ vài trăm triệu đến vài tỉ đồng tùy vào quy mô, mức độ yêu cầu từ phía đạo diễn, giám đốc hình ảnh. Song, kinh phí làm phim ở Việt Nam thường không quá lớn bởi quy mô thị trường chưa rộng, khả năng hoàn vốn cho các dự án còn phụ thuộc vào nhiều thứ. Theo đại diện CGV, cả nước hiện có 1.115 phòng chiếu phim, với 218 cụm rạp cho 100 triệu dân, khách hàng trên thị trường xem phim khoảng 50 triệu lượt/năm với số lượng thực tế người ra rạp 5-8 triệu người/năm.
Số lượng phim nội địa đạt doanh thu trên trăm tỉ đồng còn ít ở Việt Nam, lượng phim ra rạp mỗi năm cũng chỉ trên dưới 30-40 phim, sau dịch số phim ít hơn, tỷ lệ phim “thắng” (về doanh thu) khởi sắc qua từng năm nhưng vẫn ở dạng “đếm trên đầu ngón tay”…
Nhiều người trong lĩnh vực này cho rằng chính các lý do trên khiến các nhà sản xuất đôi khi chưa mạnh tay “xuống tiền” cho các dự án cần kỹ xảo hoành tráng, mãn nhãn, đặc biệt với những thể loại chưa phổ biến ở Việt Nam.
Như vậy, có thể thấy đội ngũ nghệ sĩ làm VFX giỏi luôn có sẵn, nhưng không có nhiều cơ hội đồng hành cùng dự án trong nước bởi vấn đề chi phí sản xuất hạn chế.
Mặt khác, việc đào tạo và giữ chân nhân sự trong ngành công nghiệp giải trí “tỉ đô” này cũng là vấn đề lớn, bởi lẽ trong nước chưa có đơn vị chính quy đào tạo bài bản ngành học. Hệ thống giáo trình, tài liệu, đa số được kế thừa từ kho nước ngoài hoặc theo kiểu tiền bối đời đầu (tu nghiệp tại nước ngoài, ở các nước phát triển ngành công nghiệp kỹ xảo điện ảnh như Úc, Canada, Mỹ…) cầm tay chỉ việc hay người học tự tìm tòi, đăng ký khóa học. Việc hướng nghiệp cho người trẻ ở ngành nghề này vẫn chưa phổ biến ở các cơ sở đào tạo.
Điều đó khiến thị trường lao động rơi vào tình trạng thiếu người giỏi, thừa người không chuyên. Người giỏi tìm kiếm cơ hội ở các thị trường nước ngoài sôi động hơn vì dự án, hợp đồng đổ về liên tục, môi trường phát triển.
Có lẽ, ngành kỹ xảo điện ảnh Việt Nam muốn vươn lên mạnh mẽ trong tương lai thì cần nhận sự hỗ trợ, nhìn nhận lại chính sách thuế, có sự quan tâm, ưu ái đầu tư đúng mức của Nhà nước, để nguồn nhân lực trong nghề này phát triển đông hơn, trình độ chuyên môn đồng đều hơn, không chỉ làm gia công nghệ thuật cho các dự án nước ngoài mà còn cho các dự án trong nước.
Dòng phim nghệ thuật Việt Nam đã có một năm
đầy tự hào với các giải thưởng quốc tế uy tín.
Một điểm đặc biệt là các nhà làm phim đạt giải quốc tế trong năm qua đều ghi dấu ấn bằng các tác phẩm mang đậm bản sắc Việt Nam, phản ánh tâm tưởng của người Việt. Các đạo diễn đã tái hiện những câu chuyện, con người mang đậm hồn cốt người Việt, bằng ngôn ngữ điện ảnh đương đại, với kỹ thuật làm phim tiệm cận với quốc tế.
Sau khi giành các giải thưởng quốc tế, một số bộ phim nghệ thuật đã có cơ hội đến với khán giả đại chúng. Vì mang tính nghệ thuật cao nên việc tiếp cận khán giả khó khăn hơn rất nhiều so với dòng phim thị trường. Dòng phim nghệ thuật khi ra rạp vẫn bị lép vế về doanh thu so với dòng phim giải trí thương mại, như Tro tàn rực rỡ khi ra rạp chỉ thu về hơn 4 tỷ đồng, còn Bên trong vỏ kén vàng chỉ khiêm tốn thu về 1,4 tỷ đồng.
Hiện tại, các dòng phim thương mại, hướng đến thị hiếu của đại đa số công chúng thường chiếm 90% số phim sản xuất mỗi năm. Còn phim nghệ thuật chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ 10%. Tuy nhiên, theo một số nhà nghiên cứu lý luận phê bình điện ảnh, đã đến lúc không nên phân biệt quá rạch ròi phim thương mại và phim nghệ thuật. Bởi nhiều bộ phim thương mại được đầu tư kỹ lưỡng đã chạm đến tiêu chuẩn của phim nghệ thuật, có những bộ phim nghệ thuật được đại đa số công chúng đón chào như trường hợp Ký sinh trùng của điện ảnh Hàn Quốc. Do đó, điều quan trọng vẫn là tìm ra thông điệp mang tính thời đại, phổ quát với người xem, có cách kể chuyện thực sự thu hút. Để làm được điều này, cần có một lớp đạo diễn biên kịch trẻ có năng lực chuyên môn giỏi, tiếp cận với quốc tế và được hỗ trợ về cơ chế một cách hiệu quả, từ quá trình làm phim đến khâu phát hành.
Dù có nhiều khó khăn và vướng mắc nhưng xu hướng làm phim nghệ thuật được các chuyên gia trong giới nhận định sẽ tiếp tục thu hút các nhà làm phim độc lập, đặc biệt là người trẻ. Ngày nay, lớp các nhà làm phim trẻ người Việt đang ấp ủ những hướng đi mới, tìm kiếm lối làm phim hiện đại, với góc nhìn mới mẻ cho các tác phẩm của mình. Những bộ phim kinh điển như Chung một dòng sông, Cánh đồng hoang… đã trở thành mẫu mực cho nền điện ảnh nước nhà. Có thể thấy, việc hài hòa giữa yếu tố nghệ thuật và yếu tố thành công về thương mại là bài toán khó với các nhà làm phim sản xuất. Nhưng nếu giải quyết tốt bài toán này, các nhà làm phim sẽ thực sự tạo nên tác phẩm có giá trị, qua đó thúc đẩy nền điện ảnh Việt Nam phát triển, đồng thời góp phần định hướng thị yếu của khán giả nước nhà.
THƯƠNG MẠI HÓA PHIM TÀI NỖ LỰC “THOÁT KÉN”
Năm 2023 có thể coi là năm có nhiều dấu ấn đối với phim tài liệu nói chung tại thị trường Việt Nam, đặc biệt ở mảng phim chiếu rạp. Phim tài liệu Việt cũng có những điểm sáng nhất định, nhưng thị trường vẫn còn nhiều bỏ ngỏ.
Phim Những đứa trẻ trong sương
THÊM NHIỀU CƠ HỘI
Một dấu ấn không thể không nhắc đến của phim tài liệu Việt là trường hợp của Những đứa trẻ trong sương. Dù quy mô phát hành khá hạn chế, nhưng tác phẩm lọt danh sách đề cử rút gọn tại Oscar 2023 đã thu về doanh số hơn 2 tỷ đồng. Đây cũng là điểm sáng lớn nhất của phim tài liệu Việt trong năm 2023. Sau khi chiếu rạp, phim được tiếp tục phát hành qua mạng và tìm thêm các cơ hội khác để vào thị trường toàn cầu. Theo đạo diễn Lan Nguyên (phim Những vết thương lành), trong vài năm vừa qua, nhiều phim tài liệu nổi bật đã được ra rạp. Đó là những bộ phim có chủ đề, cách thể hiện mang theo nhiều cảm xúc và đã chạm đến khán giả đại chúng không thua gì các bộ phim điện ảnh. Trên Netflix có rất nhiều phim tài liệu chất lượng cao về những đề tài khó và táo bạo. Một dòng phim tài liệu quen thuộc với khán giả Việt là phim về người nổi tiếng, về những show diễn, nơi khán giả có thể nhìn thấy cảm xúc thật của người nghệ sĩ. “Tôi nghĩ đó chính là tín hiệu tích cực vô cùng lớn. Khán giả không còn lạ lẫm hay dửng dưng, thờ ơ với 3 chữ phim tài liệu, bởi sự thật luôn là điều ai cũng khao khát”, đạo diễn Lan Nguyên nhấn mạnh.
TÀI LIỆU:
ĐẠO DIỄN ĐOÀN HỒNG
Phim tài liệu Việt có một lịch sử phát triển tương đối khác so với các nước. Trong một giai đoạn dài, phim tài liệu được làm theo đơn đặt hàng của Nhà nước hoặc của các đài truyền hình, điều này đã làm phim tài liệu thường bị khô cứng, sáo mòn trong lối thể hiện. Đó chính là lý do phim tài liệu dần mất đi khán giả của mình.
Tuy nhiên, mọi việc đang dần thay đổi, phim tài liệu bắt đầu được quan tâm đầu tư hơn và đã xuất hiện nhiều tác phẩm có cách thể hiện mới lạ - dù không phải lúc nào cũng thành công, như: Chuyến đi cuối cùng của chị Phụng, Lửa Thiện Nhân, Đi tìm Phong, Sơn Tùng M-TP: Sky Tour Movie, Chuyện ngày hôm qua, Những cánh én đầu tiên, Đáng sống, Đoạn trường vinh hoa, Màu cỏ úa…
Để phim tài liệu Việt đạt được thành tựu lớn hơn thì cần quá trình dài. Trước hết, phim tài liệu Việt cần tăng về số lượng để tạo độ nhận diện rộng, giống như con đường phim truyện điện ảnh đã đi. Thực tế hiện nay, đội ngũ làm phim tài liệu còn khá mỏng, trong khi không phải ai cũng xác định và xây dựng kế hoạch ngay từ đầu là làm phim tài liệu chiếu rạp hay phát trên các nền tảng trực tuyến.
VƯỢT KHÓ
Thương mại hóa phim tài liệu đã giúp người làm phim có thể sống được, phim tài liệu bán được và được đông đảo khán giả tiếp cận. Để đạt điều đó, có hai điều cần thiết. Thứ nhất, tập trung phát triển về mặt hình ảnh, để những góc máy phim tài liệu hấp dẫn và chất lượng hơn. Trên thế giới có nhiều phim tài liệu mà khung hình đẹp như tranh vẽ và nội dung truyền tải rộng lớn. Tôi nghĩ một bộ phim đẹp về phần nhìn, sâu sắc về nội dung
ĐẠO DIỄN LAN NGUYỄN
luôn là điều nhà làm phim nào cũng hướng tới. Nhưng theo tôi, Điều quan trọng nhất chính là cảm xúc. Bởi phim tài liệu là một thể loại đặc biệt mà nếu không có sự đồng cảm, niềm yêu mến nhân vật hay câu chuyện thì rất khó để theo đuổi đến cùng. Vì đôi khi, trong vô vàn thước phim quay được lại chẳng tìm thấy lối ra để khán giả đồng cảm. Phim tài liệu có lợi thế là sự thật, những câu chuyện thật không lấp liếm được, nên muốn làm phim tài liệu có cảm xúc không thể cố, không thể dàn dựng mà cần xuất phát từ những điều sâu trong tim mỗi người đạo diễn. Hãy làm phim về những điều thực sự chạm tới bạn, điều đó sẽ chạm tới khán giả đại chúng.
GIẤC MƠ
PHIM NHÀ NƯỚC XÁC LẬP VỊ THẾ PHÒNG VÉ
Với câu chuyện hấp dẫn, “Đào, Phở và Piano” như một làn gió mới về đề tài phim chiến tranh và là minh chứng cho thấy sự nỗ lực thay đổi của các dự án điện ảnh do Nhà nước đầu tư đã khiến nhiều khán giả phải “săn” vé suốt những ngày qua.
Mặc dù không phải một tác phẩm thương mại được quảng bá rầm rộ, “Đào, phở và piano” bất ngờ “hot” nhờ một TikToker đi xem phim và đánh giá, sau đó có sự “tiếp sức” của nhiều hội nhóm về phim ảnh lẫn showbiz trên mạng Facebook. “Đào, phở và piano” trở thành hiện tượng điện ảnh, là phim Nhà nước duy nhất “sốt” vé ở thời điểm vừa đón Tết Giáp Thìn dù có suất chiếu hạn chế.
Thậm chí, với lượng truy cập lớn, trang web của Trung tâm Chiếu phim quốc gia đã bị “sập”, các suất chiếu cũng liên tục kín chỗ tới mức đơn vị phải mở thêm suất chiếu để đáp ứng nhu cầu của khán giả. Theo số liệu từ Box Office Việt Nam, doanh thu “Đào, phở và piano” tính đến tối 19/2 là hơn 505 triệu đồng - một con số khá ấn tượng đối với một phim Nhà nước chiếu có bán vé tại một rạp duy nhất (Trung tâm Chiếu phim quốc gia (Hà Nội). Tính riêng trong dịp cuối tuần qua, bộ phim bán được 2.234 vé với doanh thu 3 ngày là 134 triệu đồng. Có lẽ lâu lắm rồi, phim đặt hàng của Nhà nước như “Đào, phở và piano” mới có doanh thu hơn 500 triệu đồng và những ngày tới sẽ còn tăng hơn nữa. Đây là một tin vui cho phim đặt hàng khi được khán giả ủng hộ do chất lượng phim hay. “Đào, phở và piano” vượt ra khỏi ấn tượng về một bộ phim chậm, an toàn mà các phim làm từ ngân sách thường thấy. Phim dù nhẹ nhàng nhưng có những tình tiết không thể
đoán trước được nên khán giả bị cuốn theo. Đặc biệt hơn nữa, “Đào, phở và piano” là một bộ phim về đề tài lịch sử. Như vậy, không phải giới trẻ không quan tâm đến lịch sử như nhiều người ca thán mà vấn đề là lịch sử được truyền tải như thế nào mà thôi. Khi phim “Đào, phở và piano” trở nên “hot” như hiện nay thì khán giả lại khó tiếp cận phim vì “do cơ chế” mà phim không thể phát hành, mua bán như phim tư nhân vẫn làm. Trước nhu cầu thưởng thức phim ngày càng tăng, Cục Điện ảnh cũng đã có đề xuất về việc phát hành “Đào, phở và piano” trên toàn quốc. Nhưng theo chia sẻ của Cục trưởng Cục Điện ảnh Vi Kiến Thành, “Đào, phở và piano” là phim do Nhà nước đặt hàng, cấp kinh phí sản xuất. Phim không có kinh phí phát hành phổ biến. Cục trưởng Cục Điện ảnh cũng cho biết, muốn phát hành phổ biến bộ phim đến các cụm rạp trên toàn quốc cần có phải quy định về tỷ lệ % doanh thu cho các đơn vị phát hành. Trong khi đó, chưa có quy định nào về tỷ lệ % doanh thu cho nhà phát hành khi phổ biến phim do Nhà nước đặt hàng. Vẫn còn quá sớm để nói về việc phim Nhà nước cạnh tranh với phim thương mại và xác lập vị thế ở phòng vé, nhưng hiện tượng “Đào, phở và piano” là tín hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, có lẽ vẫn cần một sự thay đổi toàn diện, không chỉ tư duy làm phim mà cả cách truyền thông sản phẩm.
GIẤC MƠ OSCAR XA VỜI
Một mùa Oscar nữa khép lại với chiến thắng rực rỡ dành cho “Oppenheimer”. Siêu phẩm của đạo diễn Christopher Nolan không chỉ được lòng giới chuyên môn với 7 giải Oscar mà còn là tác phẩm ăn khách với doanh thu hơn 1 tỉ USD. Một lần nữa phim Việt hoàn toàn mờ nhạt khi gửi dự thi ở hạng mục Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất.
ĐIỆN ẢNH VIỆT VÀ
NHỮNG LẦN GỬI PHIM DỰ THI OSCAR
“Tro tàn rực rỡ” của đạo diễn Bùi Thạc Chuyên là đại diện chính thức của điện ảnh Việt Nam gửi dự tranh hạng mục Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất tại Oscar năm nay, nhưng không được đề cử và lặng lẽ rời giải, dù trước đó phim cũng đã giành một số giải thưởng quốc tế tại Liên hoan phim ba châu lục (Pháp) và Liên hoan phim quốc tế Tokyo (Nhật Bản).
“Tro tàn rực rỡ” cùng chung số phận với 18 phim Việt trước đó gửi dự Oscar, đều không được đề cử, nói theo ngôn ngữ dân gian là “loại từ vòng gửi xe”. Việt Nam lần đầu tiên gửi phim điện ảnh dự tranh hạng mục Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất tại giải Oscar từ năm 1993, với đại diện đầu tiên là “Mùi đu đủ xanh” của đạo diễn Trần Anh Hùng. Mặc dù phim được đầu tư kinh phí và sản xuất tại Pháp, nhưng đạo diễn Trần Anh Hùng đã xin phép để tác phẩm đại diện cho Việt Nam do bộ phim chủ yếu sử dụng tiếng Việt và các nhân vật đều do các diễn viên
Việt Nam thể hiện. Cho đến nay, đây vẫn là phim Việt Nam duy nhất giành được đề cử ở hạng mục Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất tại giải Oscar. Trước năm 2003, các phim Việt dự Oscar hầu hết là do mối quan hệ cá nhân của đạo diễn và đoàn phim với đối tác nước ngoài. Tháng 9.2003, lần đầu tiên một phim Việt được chọn bởi hội đồng nghệ thuật trong nước là “Vua bãi rác” của đạo diễn Đỗ Minh Tuấn được gửi đi dự tranh hạng mục Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất. Từ năm 2006, Việt Nam chính thức được Viện Hàn lâm Khoa học và Điện ảnh Mỹ gửi lời mời tham dự Oscar. Nhìn lại 20 năm qua, phim Việt gửi đến Oscar có sự thay đổi đáng kể về thể loại và cách thức dự giải, từ cách chọn phim do Nhà nước đặt hàng đến phim tư nhân, nhưng điểm chung là, không lần nào vượt qua được vòng đề cử, tái lập thành tích của “Mùi đu đủ xanh”.
CỦA PHIM VIỆT
PHIM VIỆT ĐANG Ở ĐÂU?
Phải chăng phim điện ảnh Việt Nam đang có sự lệch pha so với tiêu chuẩn nghệ thuật của thế giới? Nếu không thì tại sao, sau 20 năm dường như khoảng cách giữa những bộ phim thành công ở Việt Nam với phim thành công ở thế giới vẫn còn quá xa vời? Nhà phê bình Nguyên Lê - người từng có thời gian hoạt động ở Hollywood - nhận định rằng, bất chấp việc phim Việt đã giành được một số giải thưởng quốc tế gần đây như “Bên trong vỏ kén vàng” (Camera D’Or tại Cannes 2023) hay “Những đứa trẻ trong sương” (vòng đề cử cuối cùng hạng mục Phim tài liệu Oscar 2023), phim Việt vẫn còn nhiều thiếu sót dẫn đến hạn chế khả năng cạnh tranh khi tham dự những giải thưởng hàng đầu thế giới. Chúng ta nên nhớ trong “điện ảnh” có chữ “ảnh”, đây là yếu tố quan trọng hàng đầu. Nếu một bộ phim làm xuất sắc phần hình ảnh thì những câu chuyện dù xa xôi lạ lẫm cách mấy cũng tìm được chỗ đứng trong lòng một nền văn
hóa khác. Phim Việt đáng tiếc chưa làm tốt điều này. Các nhà làm phim Việt đang áp dụng lối kể chuyện dựa vào những yếu tố khác chứ không phải hình ảnh (lời thoại, âm nhạc...), chưa kể là nhiều khi dùng những yếu tố này một cách thiếu duyên (thoại lặp lại, nhạc sai chỗ, không đúng cảm xúc...). Phim Việt còn làm chưa tốt cả yếu tố phụ đề. Hãy đặt trường hợp là những giám tuyển quốc tế chưa có hiểu biết gì về văn hóa Việt Nam, cầu nối duy nhất để họ hiểu phim Việt là phụ đề nhưng khâu này lại chưa được đầu tư đúng mức, phụ đề mới chỉ ở mức “đúng chứ chưa hay”, đấy là còn chưa nói đến nhiều chỗ bị sai. Mặt khác, từ câu chuyện phát hành phim “Đào, phở và piano”, chúng ta cũng lại phải nhìn lại câu chuyện quảng bá phim. Một bộ phim dù cho có xuất sắc đến đâu nhưng nếu không đến được với đông đảo khán giả, được người hâm mộ đại chúng biết đến thì khả năng cạnh tranh “là con số 0”.
Dienanhvietnam.vn là trang tin điện tử của Công ty, cung cấp thông tin về chức năng, quyền, hạn, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, dịch vụ, sản phẩm, ngành nghề và thông tin khác phục vụ cho hoạt động của Công ty truyền thông.
ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM
dienanhvietnam.vn