BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC THƢƠNG MẠI o0o ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG Pháp luật về chế tài thƣơng mại theo quy định của luật thƣơng mại năm 2005 Thực trạng và giải pháp Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Thị Kim Thanh Hà Nội, năm 2017 https://lop2.edu.vn/
1 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………………… 3 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005………………………….. 4 1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI……………………………………………… 4 1.2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THUỘC LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 6 1.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước……………………………………….. 6 1.2.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài………………………………………. 8 1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐƯỢC XÁC LẬP VÀ TUYÊN BỐ TRONG ĐỀ TÀI…… 9 1.4. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI…………………………………….. 10 1.5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI……………………………………… 10 1.6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI……………………………… 11 1.7. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI………………………………………………………. 11 CHƯƠNG II: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI……………………………………………………………………. 12 2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005………………………………………….. 12 2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của chế tài thương mại……………………... 12 2.1.2. Chế tài thương mại theo quy định của Công ước Viên năm 1980 và Luật thương mại năm 2005 một vài điểm tương đồng và khác biệt 14 2.2. VAI TRÒ CỦA CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI 15 2.3. NỘI DUNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005…………………………….. 17 2.3.1. Quy định của pháp luật về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng….. 18 2.3.2. Quy định của pháp luật về chế tài phạt vi phạm…………………….. 20 2.3.3. Quy định của pháp luật về chế tài buộc bồi thường thiệt hại………... 22 2.3.4. Quy định của pháp luật về chế tài ngừng thực hiện hợp đồng……….. 23 2.3.5. Quy định của pháp luật về chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng……... 24 2.3.6. Quy định của pháp luật về chế tài hủy bỏ hợp đồng …………………. 24 2.3.7. Quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa các chế tài thương mại.. 26 CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI………………………………………………………… 3.1. THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI BUỘC THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG…………………………………………. 3.2. THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI 3131 https://lop2.edu.vn/
2 PHẠT VI PHẠM……………………………………………………………… 3.3. THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI BUỘC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI ………………………………………… 3.4. THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI TẠM NGỪNG THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG…………………………………… 3.5. THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI HỦY BỎ HỢP ĐỒNG……………………………………………………………. 3.6. THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ MỐI QUAN HỆ CỦA CÁC LOẠI CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI………………………………... 3.7. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI…………………… CHƯƠNG IV: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI 2005… 4.1. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI………………………………………………………………………………….. 4.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI……………………………………………………………………... 4.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng……………………………………………………………………… 4.2.2. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chế tài phạt vi phạm….. 4.2.3. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chế tài buộc bồi thường thiệt hại ……………………………………………………………………………... 4.2.4. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng………………………………………………………………………. 4.2.5. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chế tài hủy bỏ hợp đồng. 4.2.6. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về mối quan hệ giữa các chế tài thương mại …………………………………………………………………. KẾT LUẬN…………………………………………………………………………. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………. 5251484847454444424240393736343248 https://lop2.edu.vn/
3 LỜI MỞ ĐẦU
Sự phát triển của nền kinh tế theo sự phát triển của hoạt động thương mại cùng với sự gia tăng của các loại hợp đồng thương mại. Khi hợp đồng thương mại được giao kết và có hiệu lực pháp luật đòi hỏi các bên chủ thể phải tuân thủ đúng như những cam kết mà mình đã thỏa thuận. Việc thực hiện quyền và nghĩa cụ của các bên trong hợp đồng tạo ra tính chất tuân thủ của các chủ thể trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành. Hợp đồng thương mại được thực hiện dưới nhiều mục đích khác nhau nhưng kết quả cuối cùng là tạo ra mục đích sinh lời cho các bên. Do vậy việc thực hiện nghiêm chỉnh những nội dung đã được các bên thỏa thuận trước đó là một điều hết sức cần thiết. Tuy nhiên trên thực tế, không phải hợp đồng thương mại nào được giao kết cũng được các bên chủ thể nghiêm chỉnh tuân thủ. Các bên có thể viện dẫn nhiều lý do khác nhau hoặc cũng có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau mà hợp đồng thương mại không được thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ. Nếu việc thực hiện hợp đồng thương mại rơi vào các trường hợp bất khả kháng hoặc các trường hợp được miễn trách nhiệm thì các bên được loại trừ trách nhiệm. Còn nếu hợp đồng thương mại được xác định không thực hiện xuất phát từ hành vi vi phạm hợp đồng từ 1 bên chủ thể thì việc áp dụng một trong các chế tài thương mại chắc chắn sẽ được đặt ra. Trong trường hợp này, để áp dụng 1 biện pháp chế tài cụ thể phải dựa trên cơ sở các căn cứ cơ bản. Một chủ thể có thể bị áp dụng một chế tài thương mại và cũng có thể bị áp dụng nhiều chế tài thương mại. Chế tài thương mại trong hoạt động thương mại có vai trò vô cùng quan trọng, có tính răn đe, giáo dục cao góp phần đảm bảo cho hợp đồng thương mại được thực hiện trên thực tế ngay cả khi có hành vi vi phạm hợp đồng thương mại phát sinh. Vì vậy việc nghiên cứu và hoàn thiện chế tài thương mại theo quy định của Luật thương mại năm 2005 là hết sức quan trọng, hướng đến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên, cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể thứ 3 khác đảm bảo cho hoạt động thương mại được mở rộng hơn nữa và được phát triển toàn diện. https://lop2.edu.vn/
4 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005 1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Hoạt động thương mại trong giai đoạn hiện nay đang ngày càng phát triển. Các chủ thể có thể thiết lập với nhau vô số những hoạt động thương mại như mua bán hàng hóa; xúc tiến thương mại; trưng bày, giới thiệu hàng hóa; ủy thác bán hàng hóa; đại lý thương mại …Trên thực tế việc thực hiện các hoạt động thương mại nói trên được các chủ thể xác lập trên cơ sở các loại hợp đồng thương mại tương ứng. Các hợp đồng thương mại này được thiết lập trước hết là phải tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành mà trước hết là các quy định của hợp đồng nói chung trong Bộ luật Dân sự năm 2015 và một số quy định khác của Luật thương mại năm 2005. Yêu cầu trước hết được đặt ra với các bên tham gia hợp đồng thương mại là phải thực hiện hợp đồng đó một cách nghiêm chỉnh và đầy đủ, trừ trường hợp một trong các bên rơi vào các trường hợp bất khả kháng. Đôi khi việc thực hiện hợp đồng thương mại giữa các bên lại không đáp ứng được mong muốn của các chủ thể làm cho hợp đồng thương mại không được thực hiện hoặc được thực hiện nhưng không dầy đủ. Điều này có thể xuất phát từ những nguyên nhân khác nhau, có thể là từ nguyên nhân khách quan nhưng cũng có thể từ những nguyên nhân chủ quan. Thông thường việc không thực hiện hợp đồng thương mại xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan, chủ thể các bên trong hợp đồng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng với những gì mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng thương mại thì chủ thể này sẽ bị áp dụng một trong các chế tài thương mại do Luật thương mại năm 2005 đã quy định. Tùy từng trường hợp cụ thể mà chủ thế đó có thể bị áp dụng một trong các biện pháp sau: Buộc phải thực hiện đúng hợp đồng; phạt vi phạm; buộc bồi thường thiệt hại; tạm ngừng thực hiện hợp đồng; Đình chỉ thực hiện hợp đồng; hủy bỏ hợp đồng hoặc bị áp dụng các biện pháp khác mà các bên thỏa thuận nhưng không trái với quy định của pháp luật Việt Nam. Nếu vì nguyên nhân khách quan mà hợp đồng thương mại không thực hiện được thì các bên có thể tự thỏa thuận với nhau để giải quyết thỏa đáng và bản thân pháp luật cũng có những quy định để miễn thực hiện trách nhiệm cho các bên như trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết. Còn khi hợp đồng thương mại không thể thực hiện do một bên chủ thể thể hiện thái độ cố ý không thực hiện, thì dù https://lop2.edu.vn/
5 chủ thể phía bên kia có cố gắng thỏa thuận thì cũng không đạt được mục đích. Do đó, việc áp dụng chế tài thương mại trong trường hợp này được đánh giá là hết sức cần thiết, không những đảm bảo cho hợp đồng thương mại được thực hiện trên thực tế mà còn làm cho hoạt động thương mại được thông suốt. Chế tài thương mại không phải là một vấn đề mới được quy định trong Luật thương mại năm 2005, nó ra đời gắn liền với hoạt động thương mại, đảm bảo cho hoạt động thương mại phát triển. Trong thực tế đời sống xã hội, các hoạt động thương mại diễn ra thường xuyên và để đảm bảo sự xuyên suốt cho các hoạt động này sẽ có lúc phải cần đến chế tài thương mại. Vì vậy chế tài thương mại được xác định là một vấn đề gắn liền với hoạt động thương mại. Ngoài ra việc áp dụng chế tài thương mại còn có vai trò vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo được quyền và lợi ích của các các bên chủ thể khi tham gia vào quan hệ hợp đồng thương mại, đặc biệt là khi chủ thể phía bên kia của hợp đồng cố ý không tuân thủ theo đúng những gì mà họ đã thỏa thuận trước đó. Ngoài ra chế tài thương mại trong một chừng mực nào đó có tính răn đe, trừng phạt cao đối với các bên chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng. Điều này cũng góp phần đảm bảo cho quy định của pháp luật hiện hành về các biện pháp chế tài trong hoạt động thương mại được thực hiện một cách nghiêm túc. Hơn nữa, thực tiễn xử lý các hành vi vi phạm hợp đồng thương mại trong thời gian qua còn tồn tại nhiều vấn đề gây tranh cãi, gây khó khăn cho các cơ quan giải quyết tranh chấp và các bên trong việc xác định hình thức xử lý đối với các bên có vi phạm hợp đồng. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này được xác định có thể xuất phát từ những bất cập của quy định của pháp luật hiện hành về chế tài trong thương mại. Vì vậy việc nghiên cứu một cách toàn diện các biện pháp chế tài thương mại là một điều hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Cho đến nay các công trình nghiên cứu khoa học về tất cả các biện pháp chế tài thương mại lại chưa nhiều, hầu hết tập trung vào việc nghiên cứu các hoạt động thương mại nói chung hoặc hợp đồng thương mại….hoặc có một số công trình nghiên cứu về chế tài thương mại nhưng lại bị bó hẹp trong phạm vi nhỏ (chỉ nghiên cứu một hoặc một vài biện pháp chế tài thương mại điển hình). Trong khi đó chế tài thương mại được quy định trong Luật Thương mại năm 2005 lại có rất nhiều các biện pháp khác nhau được quy định áp dụng trong những trường hợp cụ thể thì chưa được nghiên cứu tổng quát. Với những lý do cơ bản trên, tác giả đã lựa https://lop2.edu.vn/
6 chọn đề tài “Pháp luật chế tài thương mại theo quy định của Luật thương mại năm 2005 Thực trạng và giải pháp”. Mục tiêu mà đề tài hướng đến là nghiên cứu một cách tổng quát toàn bộ các biện pháp chế tài trong hoạt động thương mại, đánh giá thực trạng áp dụng các biện pháp chế tài này trên thực tế, trong quá trình nghiên cứu và có tiếp thu từ các học giả khác, tác giả mạnh dạn đưa ra một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các biện pháp này cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện này và trong thời gian tới. 1.2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THUỘC LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 1.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước: Kinh tế phát triển kéo theo sự phát triển của hoạt động thương mại và để đảm bảo cho việc thực hiện các hoạt động thương mại này, các bên chủ thể thường thiết lập với nhau một hợp đồng thương mại tương ứng. Các hợp đồng thương mại được hình thành một phần trên cơ sở sự tự thỏa thuận giữa các chủ thể, một phần cũng phải được hình thành trên cơ sở các quy định của pháp luật thương mại. Pháp luật tôn trọng sự tự do thỏa thuận của các bên khi những thỏa thuận này thuộc giới hạn cho phép của pháp luật. Sự tôn trọng này của pháp luật là xuyên suốt từ thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng, chấp nhận giao kết hợp đồng… cho đến thời điểm các bên chủ thể thực hiện hợp đồng. Thông thường khi hợp đồng thương mại có hiệu lực pháp luật, các bên sẽ tự mình thực hiện những cam kết đã được thỏa thuận. Song có những trường hợp vì lý do nào đó một trong các bên tham gia hợp đồng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thì lúc đó cần thiết phải có sự can thiệp của pháp luật. Chế tài tài thương mại được coi là các biện pháp khá hữu hiệu nhằm đảm bảo cho hợp đồng thương mại được thực thi trên thực tế, từ đó các hoạt động thương mại vì thế cũng được thông suốt. Thông qua các biện pháp chế tài, dù muốn hay không các chủ thể cũng phải tôn trọng hợp đồng thương mại do các bên thiết lập, đồng thời tôn trọng pháp luật hiện hành trong các hoạt động thương mại nói chung. Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị tích cực mà các biện pháp chế tài thương mại đem lại cho hoạt động thương mại, thì các biện pháp này cũng có những hạn chế nhất định cần được phân tích và hoàn thiện. Chính vì vậy đến nay, mặc dù không phải là một vấn đề mới nhưng chế tài thương mại đã được rất nhiều các tác giả quan tâm nghiên cứu. Sự nghiên cứu này tập trung vào các vấn đề lớn, đó là nó được https://lop2.edu.vn/
3) Chế tài trong thương mại Một số bất cập và phương hướng hoàn thiện, tác giả Đồng Thái Quang.
1) Một số ý kiến về phạt vi phạm do vi phạm hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, tác giả Dương Anh Sơn, Lê Thị Bích Thọ
2) Bình luận về biện pháp phạt vi phạm do vi phạm hợp đồng thương mại, tác giả Dương Anh Sơn
4) Mâu thuẫn giữa chế tài dân sự và chế tài thương mại tác giả Nguyễn Tấn, Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh 5) Một số ý kiến về phạt vi phạm do vi phạm hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt nam, tác giả Mai Phương 6) Chế tài cho việc không thực hiện đúng hợp đồng, TS. Đỗ Văn Đại https://lop2.edu.vn/
7 áp dụng cho những trường hợp nào và hiệu quả đã đạt được như các nhà lập pháp mong muốn hay không, từ đó đưa ra quan điểm hoàn thiện, sự đánh giá bản thân cá nhân về các biện pháp này. Theo quy định của Luật thương mại năm 2005, về cơ bản có 6 biện pháp chế tài thương mại, trong đó chỉ có một số ít công trình nghiên cứu khoa học nghiên cứu toàn diện về cả 6 biện pháp này. Còn lại phần lớn các công trình nghiên cứu về chế tài thương mại dưới trong một phạm vi nhỏ hẹp (thông thường các tác giả chỉ tập trung nghiên cứu vào một biện pháp chế tài nào đó hoặc hai biện pháp chế tài thương mại). Dù các công trình khoa học nghiên cứu toàn diện hay chỉ một hoặc một số chế tài thương mại thì đều thể hiện được tính khoa học trong nội dung bài viết của mình. Nhìn chung trên cơ sở lý luận cơ bản, các tác giả đều đánh giá được thực trạng thực hiện của các biện pháp chế tài thương mại, từ đó đưa ra quan điểm của cá nhân trong việc hoàn thiện các biện pháp chế tài thương mại cho phù hợp với thực tiễn xã hội. Quan điểm cá nhân được các tác giả đưa ra tương đối đa dạng, mặc dù họ cùng nghiên cứu về các biện pháp chế tài trong hoạt động thương mại. Điều này giúp cho các quy định của pháp luật hiện hành về chế tài thương mại được đánh giá, được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về chế tài thương mại trong thời gian cũng cần được xem xét cho phù hợp với sự phát triển của kinh tế xã hội và hoạt động thương mại trong thời gian tới. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu khoa học tiêu biểu về chế tài thương mại trong thời gian qua như :
7) Vấn đề thực hiện không đúng hợp đồng trong pháp luật thực định Việt Nam, tác giả Nguyễn Phương, năm 2014 8) Khóa luận tốt nghiệp «Tìm hiểu các chế tài thương mại theo quy định của Luật thương mại năm 2005 » năm 2013
13) Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam, tác giả Đỗ Văn Đại 14) Bàn về mối quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong pháp luật Việt Nam, TS. Phan Thị Thanh Thủy 1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài Không chỉ ở Việt Nam mà ở một số quốc gia khác trên thế giới như Anh, Pháp, Mỹ… hoạt động thương mại được đánh giá ngày một phát triển và các hoạt động thương mại này đều được pháp luật quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật thương mại. Những hoạt động thương mại này được thiết lập thông qua hợp đồng thương mại và được đảm bảo thực hiện trên thực tế. Trong trường hợp hợp đồng thương mại được thiết lập mà các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thì pháp luật ở các quốc gia này sẽ có những biện pháp chế tài phù hợp nhằm đảm bảo tính thực thi của hợp đồng thương mại. Như vậy, cũng có nét tương đồng với pháp luật thương mại Việt Nam, chế tài thương mại ở một số quốc gia trên thế giới cũng được đặc biệt quan tâm. Chế tài thương mại được quy định trong pháp luật thương mại ở các quốc gia này bao gồm các biện pháp buộc thực hiện hợp đồng; bồi thường thiệt hại; tạm ngừng thực hiện hợp đồng và biện pháp hủy hợp đồng. Các biện pháp chế tài này về cơ bản giống với quy định của pháp luật thương mại Việt Nam. Tuy nhiên tùy theo sự phát triển kinh https://lop2.edu.vn/
8
9) Khóa luận tốt nghiệp «Các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại», năm 2013 10) Tiểu luận « Phân tích các hình thức chế tài trong hợp đồng mua bán tài sản và các hình thức chế tài trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của Luật thương mại », năm 2013. 11) Khóa luận tốt nghiệp «Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam, tác giả Nguyễn Phương Mai, năm 2013 12) Luận văn thạc sĩ « So sánh các chế tài vi phạm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và theo Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế », Phạm Thị Ngọc Ánh, năm 2014
9 tế - xã hội của mỗi quốc gia mà các biện pháp này được quy định cho phù hợp nhằm đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động thương mại nói chung.
Đến nay với các quy định của pháp luật về vấn đề chế tài trong hoạt động thương mại, nhiều tác giả khác nhau trên thế giới cũng đã có những nghiên cứu nhất định. Sự nghiên cứu này có thể tập trung vào tất cả các biện pháp chế tài thương mại nói trên, nhưng cũng có những công trình của một số tác giả chỉ tập trung nghiên cứu một hoặc một vài biện pháp chế tài thương mại. Nhìn chung các công trình nghiên cứu đều thể hiện được quan điểm, cũng như sự đánh giá của các tác giả về các quy định của pháp luật hiện hành về các biện pháp chế tài. Thông thường định hướng mà các tác giả nghiên cứu là hướng tới dự đoán việc áp dụng các biện pháp chế tài trong hoạt động thương mại. Sau đó đưa ra quan điểm của mình xem những biện pháp này thực chất đã phù hợp hay chưa thật sự phù hợp. Trong trường hợp tác giả xác định nó chưa phù hợp thì nguyên nhân nào sẽ được xác định là nguyên nhân chủ yếu. Từ đó tác giả sẽ đưa ra giải pháp hoàn thiện dựa trên việc xác định các nguyên nhân chủ yếu này. Trong các công trình nghiên cứu của mình họ tập trung nghiên cứu về điều kiện áp dụng các biện pháp chế tài và bình luận có hay không sự phù hợp của chế tài thương mại trong hoạt động thương mại. Cuối cùng là đưa ra các giải pháp hoàn thiện cụ thể cho quy định của pháp luật về các biện pháp chế tài thương mại. Có thể thấy rằng việc nghiên cứu của các tác giả này có sự khác biệt so với các tác giả ở Việt Nam. Các tác giả Việt Nam sau khi nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành sẽ tập trung vào đánh giá thực trạng, từ đó đưa ra giải pháp phù hợp. Còn các tác giả nước ngoài khi nghiên cứu về các biện pháp chế tài thì lại đưa ra quan điểm mang tính chất dự đoán (hoàn toàn mang tính chủ quan) của con người. Đối với một số quốc gia theo hệ thống pháp luật án lệ (Common Law) thì công trình nghiên cứu của các tác giả nói trên có một vai trò đặc biệt quan trọng, có thể là một cơ sở pháp lý quan trọng, một tập quán pháp lý quan trọng để áp dụng các biện pháp chế tài thương mại trong hoạt động thương mại nói chung. Các quy định về chế tài thương mại ở các quốc gia này thường mang tính khái quát cao, vì vậy các công trình nghiên cứu về vấn đề này cũng được thể hiện, nhìn nhận và đánh giá một cách tổng quát. Có thể kể đến một số bài viết, công trình nghiên cứu điển hình như: 1) E.A Vaxilep, Luật dân sự, thương mại ở các nước tư bản 1999 https://lop2.edu.vn/
6) John Y. Gotanda, Using the UNIDROIT principles to fill gaps in the CISG, Hart Publishing, 2008
7) UNCITRAL Digest of case law on the United Nations Convention on the International Sales of Goods, accessed date 2/6/2014 1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐƯỢC XÁC LẬP VÀ TUYÊN BỐ TRONG ĐỀ TÀI Đề tài tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản sau: Những vấn đề lý luận cơ bản trong quy định của pháp luật về chế tài thương mại, việc nghiên cứu chủ yếu tập trung vào các quy định trong Luật thương mại năm 2005 Nghiên cứu mối quan hệ giữa các chế tài thương mại trong hoạt động thương mạ Nghiêni. cứu và so sánh vấn đề chế tài thương mại theo quy định của Luật thương mại với quy định về chế tài thương mại của một số quốc gia khác và Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa - Trên cơ sở lý luận, đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng trong quy định của pháp luật về chế tài thương mại theo quy định của Luật thương mại năm 2005 Tử việc tìm ra những điểm hạn chế trong quy định của pháp luật về chế tài thương mại, đề tài đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này theo quy định của Luật thương mại năm 2005 1.4. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Chế tài thương mại là một trong những quy định quan trọng trong nội dung điều chỉnh của Luật thương mại. Nó có tác động trực tiếp đến hoạt động thương mại nói chung mà cụ thể là hợp đồng thương mại giữa các chủ chể. Do vậy, để nghiên cứu một cách tổng quát, toàn diện hơn thì đề tài tập trung vào 2 hướng mục tiêu cơ bản như sau: https://lop2.edu.vn/
2) Albert H. Kritzer. CISG: table of Contracting States, accessed date 14/6/2014
5) Urich Magnus, The Remedy of Avoidance of Contract Under CISG General Remarks and Special Cases.
10
4) Alexander von Ziegler, The right of suspension and stoppage in transit, Journal of Law and Commerce
3) Avery W. Kats, Remedies for breach of contract under the CISG.
Đề tài nghiên cứu chủ yếu sử dụng các phương pháp sau: + Phương pháp thu thập tài liệu: Phương pháp này được sử dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu và đóng vai trò quan trọng khi nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật liên quan đến chế tài thương mại. Việc thu thập tài liệu bao gồm cả tài liệu trong nước và tài liệu nước ngoài về vấn đề này. https://lop2.edu.vn/
11 + So sánh được các quy định của Luật thương mại với quy định pháp luật về chế tài thương mại của một số quốc gia trên thế giới như Mỹ, Pháp, Trung Quốc, Công ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hóa... để tìm ra điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng. Ngoài ra còn nghiên cứu quy định của pháp luật về chế tài thương mại được quy định trong Luật thương mại với quy định của pháp luật hiện hành về chế tài nói chung mà cụ thể là trong quy định của pháp luật Dân sự Việt Nam trong thời gian qua. Đây chính là các mục tiêu đầu tiên mà tác giả đặt ra trước khi nghiên cứu các nội dung cụ thể trong quy định của pháp luật thương mại về chế tài thương mại. Từ đó có sự đánh giá và đưa ra cái nhìn chung nhất liên quan đến việc điều chỉnh của pháp luật về chế tài thương mại ở Việt Nam + Trên cơ sở các mục tiêu nghiên cứu đã được đề ra và trên cơ sở nghiên cứu pháp luật hiện hành về chế tài thương mại, đề tài hướng đến mục tiêu cụ thể là có thể đánh giá một cách toàn diện nhất về vấn đề này, tìm ra những điểm bất cập, hạn chế để từ đó đưa ra một số giải pháp nhất định nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về chế tài thương mại trong thời gian tới, đảm bảo cho việc áp dụng các quy định của pháp luật về chế tài thật sự được phù hợp với thực tiễn hoạt động thương mại 1.5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu các biện pháp chế tài trên cơ sở những quy định của Luật thương mại năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Ngoài ra đề tài còn nghiên cứu chế tài thương mại trên cơ sở có sự so sánh với quy định pháp luật về chế tài thương mại của một số quốc gia khác trên thế giới đặc biệt là giữa công ước Viên năm 1980 với Luật Thương mại năm 2005. Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về chế tài thương mại từ năm 2005 đến nay. 1.6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
12 Đây là cơ sở quan trọng để có thể đánh giá được những bất cập, hạn chế trong quy định của pháp luật về chế tài thương mại, dẫn chiếu các quy định của pháp luật nước ngoài, gợi mở hướng kinh nghiệm cho pháp luật Việt Nam, đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về chế tài thương mại + Phương pháp so sánh: Ngoài các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến chế tài thương mại, đề tài còn tập trung nghiên cứu pháp luật về chế tài thương mại của một số quốc gia khác như Trung quốc, Pháp, Công ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế... từ đó tìm ra điểm tương đồng và điểm khác biệt với quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Từ đó rút ra bài học cho pháp luật Việt Nam khi quy định về chế tài thương mại mà các quốc gia khác đã có quy định tiến bộ về vấn đề này. Tuy nhiên, việc rút ra bài học cho pháp luật Việt Nam về vấn đề này phải phù hợp với điều kiện kinh tế ở Việt Nam + Phương pháp phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở những vấn đề lý luận cơ bản, cần đánh giá tổng quát lại những vấn đề cần được nghiên cứu liên quan đến các quy định của pháp luật về chế tài thương mại. Từ đó đưa ra những đánh giá chung nhất, cũng như đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này 1.7. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI Đề tài có kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Những lý luận cơ bản của pháp luật về chế tài thương mại - Chương 2: Thực trạng trong quy định của pháp luật về chế tài thương mại Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về chế tài thương mại https://lop2.edu.vn/
Mỗi một loại chế tài nói trên đều được pháp luật quy định cụ thể từ việc áp với chủ thể nào, ai là người có thẩm quyền áp dụng, bao gồm những biện pháp cụ thể là gì….Chếtài thương mại là một dạng chế tài dân sự theo nghĩa rộng, nên về cơ bản nó sẽ có những nét tương đồng của chế tài nói chung và chế tài dân sự nói riêng. Tuy nhiên, khi áp dụng trong hoạt động thương mại thì chế tài thương mại sẽ có đặc thù riêng có của nó, Luật thương mại năm 2005 không đưa ra khái niệm cụ thể về chế tài thương mại mà chỉ liệt kê các loại chế tài có thể được áp dụng khi có vi phạm hợp đồng thương mại đó là buộc thực hiện đúng hợp đồng; phạt vi phạm; bồi thường thiệt hại; tạm ngừng thực hiện hợp đồng; đình chỉ thực hiện hợp đồng; hủy bỏ thực hiện hợp đồng và các biện pháp khác do các bên tự thỏa thuận không trái với nguyên tắc của pháp luật Việt Nam và Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Chế tài thương mại là một loại chế tài phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng thương mại hay nói một cách chính xác hơn chế tài thương mại được áp dụng khi một trong hai bên chủ thể vi phạm hợp đồng thương mại. Vi phạm hợp đồng thương mại được Luật thương mại năm 2005 quy định rõ “là việc một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ hoặc không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên” (Khoản 12 Điều 3). https://lop2.edu.vn/
13 CHƯƠNG II: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI 2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005 2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của chế tài thương mại 2.1.1.1. Khái niệm chế tài thương mại Để hiểu rõ khái niệm chế tài thương mại thì cần thiết phải làm rõ khái niệm chế tài nói chung. Chế tài là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những biện pháp tác động mà Nhà nước dự kiến áp dụng đối với chủ thể nhất định để đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật. Các biện pháp tác động được nêu trong bộ phận chế tài sẽ được áp dụng với các chủ thể bị coi là vi phạm pháp luật không thực hiện đúng mệnh lệnh của Nhà nước đã được đưa ra trong phần quy định của quy phạm pháp luật khi rơi vào điều kiện, hoàn cảnh được quy định trong phần giả định của quy phạm pháp luật. Các hình thức chế tài đa dạng bao gồm chế tài hình sự, chế tài hành chính, chế tài dân sự và chế tài kỷ luật.
Thứ ba là chủ thể bị xâm phạm quyền và lợi ích có quyền lựa chọn một trong các biện pháp chế tài thương mại do Luật thương mại năm 2005 quy định. https://lop2.edu.vn/
Ngoài ra tính chất tài sản của chế tài thương mại còn được thể hiện thông qua việc, bên vi phạm còn phải chịu chi phí hợp lý cho việc khắc phục những hậu quả phát sinh từ hành vi vi phạm của mình
14 Như vậy có thể thấy được Luật thương mại năm 2005 tiếp cận khái niệm chế tài thương mại là các biện pháp tác động bất lợi về tài sản của bên có quyền lợi bị vi phạm đối với chủ thể có hành vi vi phạm cam kết hợp đồng thương mại. Theo đó, chế tài thương mại được áp dụng với chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các cam kết trong hợp đồng thương mại và bên có hành vi vi phạm hợp đồng thương mại phải gánh chịu một hậu quả pháp lý bất lợi do hành vi vi phạm của mình gây ra. Việc áp dụng chế tài thương mại nào được coi là phù hợp thì nó phải tương ứng với mỗi hành vi vi phạm và tính chất của mỗi hành vi vi phạm của các chủ thể trong quá trình thực hiện hợp đồng thương mại. 2.1.1.2. Đặc điểm chế tài thương mại Chế tài thương mại có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện hợp đồng thương mại và mỗi loại chế tài thương mại được áp dụng trong những điều kiện hoàn cảnh riêng biệt. Tuy nhiên trên cơ sở chung nhất, các loại chế tài đều có những đặc trưng cơ bản như sau: - Thứ nhất là, về căn cứ áp dụng (phát sinh): Chế tài thương mại sẽ phát sinh khi có hành vi vi phạm hợp đồng thương mại. Trong khi các chế tài pháp lý khác được áp dụng khi có hành vi vi phạm pháp luật nói chung thì chế tài thương mại sẽ phát sinh đối với những hành vi vi phạm các điều khoản trong hợp đồng thương mại do các bên đã thỏa thuận. Sở dĩ có đặc trưng này cũng chính do xuất phát từ tính chất của hợp đồng thương mại là do các bên thỏa thuận thiết lập. Vậy nên khi hợp đồng thương mại có hiệu lực phát luật mà các bên không tôn trọng những gì đã thỏa thuận thì việc bị áp dụng một trong các loại chế tài thương mại là điều tất yếu sẽ xảy ra. Thứ hai là tính chất tài sản của chế tài thương mại: Yếu tố tài sản xuất hiện khi chế tài thương mại được áp dụng thể hiện rằng, bên vi phạm phải dùng tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình để thực hiện nghĩa vụ. Nghĩa vụ này phát sinh có thể do sự thỏa thuận của hai bên hoặc do pháp luật quy định.
Tuy nhiên việc áp dụng các biện pháp chế tài nào là hợp lý cần phải dựa trên quy định của pháp luật. Do vậy các bên chủ thể đặc biệt là bên bị xâm phạm quyền và lợi ích trong hợp đồng thương mại cần có sự vận dụng đúng đắn quy định của pháp luật để áp dụng các chế tài thương mại cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh. Chẳng hạn, chế tài phạt vi phạm hợp đồng chỉ được áp dụng nếu các bên có sự thỏa thuận với nhau. Do đó, vấn đề đặt ra là nếu khi một bên vi phạm một hoặc nhiều điều khoản đã được thỏa thuận trong hợp đồng thương mại chỉ có thể áp dụng chế tài phạt vi phạm hợp đồng khi trước đó cả hai bên đã có thỏa thuận về việc áp dụng biện pháp chế tài này. Thứ tư là các chế tài thương mại được áp dụng trực tiếp đối với bên có hành vi vi phạm hợp đồng thương mại. Bằng tài sản, bằng hành vi và thái độ của mình bên vi phạm các thỏa thuận trong hợp đồng phải tự mình thực hiện nhằm khắc phục những hậu quả đã xảy ra trong quan hệ hợp đồng thương mại với bên có quyền và lợi ích bị xâm hại. Đặc trưng này xuất phát từ tính chất của hợp đồng thương mại, do chính hai bên chủ thể thỏa thuận, giao kết hình thành nên hợp đồng nên nghĩa vụ này nếu không có sự thỏa thuận khác thì lẽ tất nhiên sẽ được đặt ra cho chính bản thân chủ thể vi phạm hợp đồng thương mại. Thứ năm là mục đích của chế tài thương mại là nhằm hướng đến bảo vệ quyền và lợi ích của các bên trong hợp đồng thương mại và cũng nhờ có các biện pháp chế tài thương mại này mà hoạt động thương mại được phát triển trong đời sống xã hội1 2.1.2. Chế tài thương mại theo quy định của Công ước Viên năm 1980 (CISG) và Luật thương mại năm 2005 một vài điểm tương đồng và khác biệt Chế tài thương mại là một nội dung quan trọng có trong pháp luật thương mại của bất kỳ một quốc gia nào bởi chế tài thương mại đảm bảo cho hoạt động thương mại được thực hiện nghiêm túc đặc biệt khi xảy ra tranh chấp giữa các bên chủ thể, khi phát sinh hành vi vi phạm hợp đồng thương mại. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả chỉ tập trung vào nghiên cứu các quy định của Công ước Viên năm 1980 về chế tài thương mại. Lý do mà tác giả nghiên cứu Công ước Viên về chế tài thương mại là bởi Công ước Viên năm 1980 có rất nhiều các thành viên là các quốc gia khác nhau thỏa thuận hoặc thừa nhận giá trị pháp lý của Công ước về hoạt động thương mại nói chung. Vì vậy trên cơ sở 1 https://lop2.edu.vn/
http://luatduonggia.vn
15
16 nghiên cứu Công ước Viên năm 1980 về vấn đề này, tác giả cũng thấy được tinh thần trong quy định pháp luật của các quốc gia đó về chế tài thương mại. Từ đó có sự so sánh, đối chiếu để thấy được nét tương đồng và khác biệt giữa pháp luật Việt Nam về chế tài thương mại với các quốc gia khác. Có lẽ sự khác biệt lớn nhất giữa Luật thương mại và Công ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hóa là không có quy định về chế tài phạt vi phạm hợp đồng. Sự khác biệt này xuất phát từ nhiều lý do khác nhau, xuất phát từ đặc điểm kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, do tính chất của hoạt động thương mại ở Việt Nam có đặc thù riêng so với các quốc gia khác… Tuy vậy không có nghĩa là các chế tài khác được quy định trong Luật thương mại và Công ước Viên năm 1980 có sự giống nhau hoàn toàn. Thực tế cho thấy, giữa chúng có đôi chút khác biệt: Thứ nhất về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng: Công ước Viên năm 1980 và Luật thương mại năm 2005 đều cho phép chủ thể vi phạm được thực hiện một trong hai biện pháp là sửa chữa hoặc thay thế hàng hóa. Thế nhưng Luật thương mại Việt Nam lại chưa chỉ ra được sẽ áp dụng sửa chữa và thay thế hàng hóa như thế nào, trong khi Công ước Viên năm 1980 lại quy định rõ việc áp dụng biện pháp sửa chữa khi hành vi của một bên cấu thành vi phạm cơ bản, còn các trường hợp vi phạm khác sẽ áp dụng biện pháp sửa chữa hàng hóa. Do đó vấn đề đặt ra là phải xác định được vi phạm cơ bản và vi phạm thông thường. Có thể hiểu vi phạm cơ bản là vi phạm gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho bên vi phạm, làm cho bên này không đạt được mục đích khi giao kết hợp đồng ` Thứ hai về chế tài bồi thường thiệt hại: Luật thương mại năm 2005 và Công ước Viên năm 1980 đều quy định các thiệt hại được bồi thường khi một bên chủ thể vi phạm hợp đồng bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ. Tuy nhiên việc áp dụng biện pháp này cụ thể lại có sự khác biệt một chút liên quan đến tính chất của thiệt hại. Công ước Viên năm 1980 cho phép áp dụng khi xuất hiện tính có thể dự đoán trước của thiệt hại đối với bên vi phạm, còn Luật thương mại năm 2005 thì dựa vào tính trực tiếp và tính thực tế “Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà https://lop2.edu.vn/
17 bên vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm” (Khoản 2 Điều 302) Thứ ba là về chế tài hủy hợp đồng Công ước Viên năm 1980 và Luật thương mại năm 2005 đều quy định chế tài hủy hợp đồng chỉ được áp dụng khi có sự vi phạm cơ bản hợp đồng. Khoản 3 Điều 13 Luật thương mại năm 2005 quy định “Sự vi phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng”. Điều 25 của Công ước Viên năm 1980 quy định “Một sự vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là vi phạm cơ bản nếu sự vi phạm đó làm cho bên kia bị thiệt hại mà người bị thiệt hại, trong chừng mực đáng kể bị mất cái mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp đồng, trừ phi bên vi phạm không tiên liệu được hậu quả đó và một người có lý trí minh mẫn cũng sẽ không tiên liệu được nếu họ cũng ở vào hoàn cảnh tương tự”. Sự khác biệt trong hai quy định trên được thể hiện ở chỗ, Công ước Viên năm 1980 còn xác định rõ các trường hợp bất khả kháng không được coi là vi phạm hợp đồng khi bên vi phạm không tiên liệu được hậu quả đó và một người có lý trí minh mẫn cũng sẽ không tiên liệu được khị người đó rơi vào điều kiện, hoàn cảnh tương tự. Quy định này trong Công ước Viên năm 1980 thể hiện sự cụ thể hóa hơn so với Luật thương mại năm 2005 của Việt Nam. Vì vậy việc vận dụng quy định này cho hoạt động thương mại theo Công ước Viên năm 1980 được rõ ràng, chính xác hơn. Nhìn chung giữa Công ước Viên năm 1980 và Luật thương mại năm 2005 đều có điểm tương đồng và sự khác biệt. Tuy nhiên mức độ tương đồng cũng có sự khác nhau, Công ước Viên năm 1980 quy định cụ thể và chi tiết hơn. Luật thương mại năm 2005 không đưa ra dẫn chiếu cụ thể và tỉ mỉ như các quy định của Công ước nhưng trên cơ sở các quy định của pháp luật, các bên vẫn có thể áp dụng được một cách đúng đắn theo đúng tinh thần của pháp luật. Ngoài nét tương đồng thì sự khác biệt cũng là điểm dễ nhận thấy trong quy định của hai văn bản pháp luật. Tuy nhiên cần nhấn mạnh rằng, sự khác biệt giữa Công ước Viên năm 1980 và Luật thương mại năm 2005 không tạo nên sự mâu thuẫn đối kháng trong quá trình thực thi chúng trên thực tế. Bên cạnh đó, Công ước Viên năm 1980 hỗ trợ cho việc áp dụng chế tài thương mại theo quy định của Luật thương mại năm 2005 được rõ ràng và cụ thể hơn https://lop2.edu.vn/
18
2.2. VAI TRÒ CỦA CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI Có thể nói rằng chế tài thương mại gắn liền với hoạt động thương mại nói chung và với hợp đồng thương mại nói riêng. Vì vậy vai trò to lớn của chế tài thương mại là không thể phủ nhận bởi: Chế tài thương mại góp phần đảm bảo cho hợp đồng thương mại được thực hiện trên thực tế. Thông thường khi hợp đồng thương mại có hiệu lực pháp luật, các bên phải tuân thủ theo những gì mà các bên đã thỏa thuận, nhưng trên thực tế có không ít các trường hợp một trong hai bên không thực hiện nghiêm túc các điều khoản đã được thỏa thuận, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, làm cho hợp đồng thương mại bị gián đoạn và đương nhiên hoạt động thương mại bị đình chệ. Vì vậy chế tài thương mại trong trường hợp này được coi là một trong những yếu tố đảm bảo cho hợp đồng thương mại được thực hiện nghiêm túc. - Chế tài thương mại có vai trò to lớn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của các bên trong hợp đồng thương mại. Chế tài thương mại được pháp luật quy định trước hết là để ngăn ngừa và hạn chế hành vi vi phạm hợp đồng thương mại hoặc khi đã xảy ra hành vi vi phạm hợp đồng thương mại thì chế tài thương mại yêu cầu các bên phải thực hiện các hoạt động như khôi phục tình trạng ban đầu, hay bồi hoàn lại những tổn thất đã phát sinh. Vì vậy suy cho cùng là cũng nhờ có các biện pháp chế tài thương mại mà quyền và lợi ích của các bên được đảm bảo. - Chế tài thương mại có vai trò tăng cường ý thức tuân thủ hợp đồng thương mại giữa các bên. Tính chất răn đe của chế tài thương mại có tác động đến ý thức của các bên chủ thể, vì vậy các chủ thể trong hợp đồng thương mại sẽ nhận thức được trước hết là những nghĩa vụ của mình phải thực hiện trước phía chủ thể bên kia. Do đó, nếu chủ thể bên này không thực hiện sẽ phải gánh chịu những yếu tố bất lợi và hậu quả bất lợi do hành vi vi phạm của mình đã gây ra cho chủ thể phía bên kia. Trên cơ sở đó các bên tự nhận thức để có thể đưa ra những hành vi phù hợp với những điều khoản đã được thỏa thuận xây dựng nên trong hợp đồng thương mại. Chế tài thương mại có vai trò phòng ngừa vi phạm phạm luật trong hợp đồng thương mại. Vai trò phòng ngừa của chế tài thương mại được đặt ra khi các https://lop2.edu.vn/
19 bên chưa có vi phạm hợp đồng thương mại. Luật thương mại năm 2005 cho phép các bên áp dụng một trong các chế tài thương mại khi các bên có thỏa thuận (ví dụ như chế tài phạt vi phạm hợp đồng) hoặc ngay cả khi các bên không có sự thỏa thuận thì vẫn có thể áp dụng biện pháp chế tài khác (ví dụ như bồi thường thiệt hại). Quy định này có tác động mạnh mẽ vào ý thức của các bên nhằm nâng cao tinh thần hợp tác thực hiện các nghĩa vụ trong hợp đồng qua đó ngăn ngừa vi phạm xảy ra. - Chế tài thương mại là một trong những nội dung được quy định trong Luật thương mại năm 2005 góp phần đảm bảo quyền tự do thỏa thuận của các bên trong hoạt động thương mại. Ngoài các chế tài được Luật thương mại quy định như buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng thì pháp luật còn cho phép các bên được thỏa thuận các biện pháp khác mà không trái với quy định của pháp luật. Chính điều này đã góp phần làm tăng thêm sự tự do thỏa thuận của các chủ thể giúp hoạt động thương mại ngày càng phát triển. 2.3. NỘI DUNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005 Chế tài thương mại là một nội dung được quy định cụ thể trong Luật thương mại năm 2005 với nhiều vai trò quan trọng, có tác động trực tiếp đến quá trình thực hiện hợp đồng thương mại giữa các bên chủ thể, từ đó tạo sự phát triển ổn định cho nền kinh tế của đất nước. Điều 292 quy định sáu chế tài thương mại cụ thể có thể được áp dụng khi một bên chủ thể vi phạm hợp đồng thương mại bao gồm, buộc thực hiện đúng hợp đồng; phạt vi phạm; buộc bồi thường thiệt hại; tạm ngừng thực hiện hợp đồng; đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng. Ngoài các chế tài thương mại này, các bên có thể thỏa thuận “các biện pháp khác mà không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế”. Căn cứ chung để áp dụng các chế tài thương mại nói trên là: - Một là, một trong hai bên chủ thể có hành vi vi phạm: Căn cứ này cần phải được xác định trên thực tế và phải đưa ra được trong việc áp dụng với tất cả chế tài thương mại. Nếu các bên không thể chứng minh được hành vi vi phạm của các bên thì cũng có nghĩa là không có chuyện áp dụng một trong các chế tài https://lop2.edu.vn/
20 thương mại nói chung. Do vậy vấn đề quan trọng là phải minh chứng được một bên chủ thể có hành vi vi phạm hợp đồng thương mại. Hai là, một trong hai bên chủ thể có lỗi đối với hành vi vi phạm của mình. Yếu tố lỗi phản ánh thái độ chủ quan của chủ thể đối với hành vi vi phạm của mình và đối với hậu quả do hành vi vi phạm của mình gây ra. Một trong những yếu tố để xác định một chủ thể bị coi là vi phạm pháp luật khi chủ thể đó có lỗi. Do đó để khẳng định chủ thể nào đó là vi phạm pháp luật hợp đồng thương mại thì phải chứng minh được chủ thể đó là có lỗi. - Ba là, xác định được mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế. Trong căn cứ này nếu một bên chứng minh được thì phía bên vi phạm có thể bị áp dụng thêm một hoặc nhiều chế tài thương mại kèm theo, nhanh chóng khắc phục hậu quả đã xảy ra và bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp giữa các bên2. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế thể hiện thiệt hại xảy ra là kết quả trực tiếp từ hành vi vi phạm đó của chủ thể mà không phải là kết quả của hành vi vi phạm nào khác. Tuy nhiên tùy từng trường hợp cụ thể và tùy tính chất mức độ vi phạm mà cách thức áp dụng các chế tài thương mại là khác nhau. Việc áp dụng các chế tài thương mại phù hợp phải căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành về chế tài thương mại. Từ đó thể hiện sự đúng đắn trong việc áp dụng quy định của pháp luật vào thực tiễn đời sống xã hội. 2.3.1. Quy định của pháp luật về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng Đây là một trong các biện pháp chế tài thương mại được sử dụng khá phổ biến trong đời sống xã hội. Nếu các bên thực hiện hợp đồng thương mại một cách tự nguyện thì lẽ dĩ nhiên sẽ không có việc áp dụng chế tài thương mại. Còn khi các bên vi phạm thì mục đích chính mà các bên hướng tới trong việc thiết lập quan hệ hợp đồng là không đạt được. Do vậy tất yếu phải áp dụng một trong các biện pháp chế tài cụ thể và buộc thực hiện đúng hợp đồng cũng chính là chế tài thương mại được các bên lựa chọn áp dụng để đạt được mục đích chính được đặt ra trước đó. Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng được hiểu là bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh. Chế tài này có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cho việc thực hiện hợp 2 http:// doi nghiep vu/che tai trong hoat dong thuong mai https://lop2.edu.vn/
luatsuphamtuananh.com/trao
21 đồng thương mại theo đúng thỏa thuận và mục đích đã được đặt ra ban đầu giữa các bên và được áp dụng đối với bất kỳ hành vi vi phạm hợp đồng thương mại nào. Trong nhiều trường hợp các chế tài khác (như bồi thường thiệt hại hay phạt vi phạm) không thể thay thế lợi ích từ việc thực hiện hợp đồng. Do đó khi tham gia quan hệ hợp đồng, mục đích mà các các bên hướng đến là đạt được đến mục tiêu chung mà các bên đã thỏa thuận mà không phải là đạt được lợi ích từ việc nộp phạt hay bồi thường thiệt hại, bởi trong kinh doanh thời cơ và uy tín là điều quan trọng nhất3 Căn cứ để áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trước tiên được áp dụng dựa trên căn cứ chung áp dụng các biện pháp chế tài thương mại. Do đó để buộc một chủ thể phải gánh chịu chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trước tiên phải xác định được chủ thể đó phải có hành vi vi phạm và bên vi phạm được coi là có lỗi. Điều này cũng có nghĩa là khi việc không thực hiện hợp đồng thương mại rơi vào các trường hợp bất khả kháng như thiên tai dịch bệnh…thì chủ thể này không bị coi là có lỗi nên bên bị vi phạm không có quyền buộc bên bị vi phạm phải thực hiện đúng hợp đồng. Vì vậy thay vào đó là họ có thể được kéo dài thêm thời gian thực hiện hợp đồng. Theo đó, cơ sở để phát sinh chế tài này là một trong các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng cam kết đã được thỏa thuận trong hợp đồng như không giao hàng hóa, giao thiếu hàng hóa, hàng hóa giao nhận không đúng số lượng, chất lượng…. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng các nghĩa vụ theo hợp đồng. Nội dung cụ thể của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng được thể hiện ở chỗ bên bị vi phạm phải thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng hoặc thực hiện các biện pháp khác để tự sửa chữa, khắc phục những thiếu sót… và phải chịu mọi chi phí phát sinh từ những sai sót đó. Khi áp dụng chế tài này bên bị vi phạm có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm nhưng không được áp dụng các chế tài khác. Nếu bên vi phạm không thực hiện, thì bên vi phạm mới có quyền tiếp tục áp dụng các chế tài khác. Dưới đây là một tình huống thể hiện rõ tinh thần trên của pháp luật hiện hành: Công ty sản xuất vật liệu Kim Thành ký hợp đồng số 03/HĐ để bán cho công ty TNHH hóa chất Tân Hoàng Minh (Nam Định) một số chủng loại xây dựng như thép xây dựng, gạch chống nóng theo tiêu chuẩn TCVN4710 89 với tổng giá trị hợp đồng là 1,5 tỷ VNĐ với thời 3 https://lop2.edu.vn/
http://luatduonggia.vn
22 hạn giao hàng là đến hết ngày 31/07/2007. Ngày 15/08/2007 công ty Tân Hoàng Minh đã đến nhận lô hàng thuộc chủng thép xây dựng tại kho của bên bán và đã thanh toán ½ giá trị hợp đồng như đã thỏa thuận. Đến này 20/08/2007 do không thấy công ty này đến nhận nốt số hàng hóa đã ký kết trong hợp đồng nên công ty Kim Thành đã gửi công văn yêu cầu công ty Tân Hoàng Minh tiếp tục nhận hàng và thanh toán nốt tiền hàng. Công ty Tân Hoang Minh đã từ chối thực hiện hợp đồng khi đưa ra yêu cầu giảm giá lô hàng sau mà công ty Kim Thành không chấp nhận. Ngày 15/09/2009, công ty Kim Thành khởi kiện công ty Tân Hoàng Minh tại Tòa án Kinh tế Tỉnh Nam Định với yêu cầu buộc thực hiện đúng hợp đồng đối với công ty Tân Hoàng Minh4 . Chế tài thương mại mà công ty Kim Thành mong muốn được áp dụng với công ty Tâm Hoàng Minh là chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng. Ngoài chế tài thương mại này, công ty Kim Thành không yêu cầu áp dụng chế tài thương mại khác. Điều này cho thấy, khi thiết lập hợp đồng thương mại, điều quan trọng nhất mà các bên mong muốn đạt được là phía chủ thể bên kia thực hiện đúng hợp đồng, đúng với những gì đã cam kết và thỏa thuận. Vì vậy chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là một trong các biện pháp chế tài thương mại được các bên ưu tiên lựa chọn để giải quyết các vấn đề liên quan đến vi phạm hợp đồng thương mại. 2.3.2. Quy định của pháp luật về chế tài phạt vi phạm Hiện nay phạt vi phạm là một loại chế tài thương mại được nhìn nhận dưới nhiều quan điểm khác nhau, có quan điểm cho rằng phạt vi phạm là một biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng hay nhằm khắc phục những thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra hoặc phạt vi phạm là một biện pháp nhằm “khống chế” các bên để các bên không dám vi phạm hợp đồng thương mại5. Nhưng theo quan điểm cá nhân, tác giả cho rằng phạt vi phạm nên hiểu là một biện pháp ngăn ngừa hành vi vi phạm và việc quy định cụ thể biện pháp này trong Luật thương mại năm 2005 đã trở thành một trong những quy định quan trọng trong việc bảo vệ các bên trong hoạt động thương mại, cụ thể là trong hợp đồng thương mại. Theo quy định của Luật thương mại năm 2005 “phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận”. Như vậy theo quy định này thì phạt vi phạm 4 Các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại, luận văn 5 Chế tài phạt vi phạm hợp đồng ThS Nguyễn Việt Khoa Giảng viên Khoa Luật kinh tế, Đại học TPHCM https://lop2.edu.vn/
23 chỉ có thể áp dụng trong trường hợp các bên đã có sự thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng. Nghĩa là một bên không thể yêu cầu bên kia phải chịu phạt vi phạm nếu các bên không có thỏa thuận trong hợp đồng về vấn đề này. Căn cứ để áp dụng chế tài phạt vi phạm bao gồm: Phải có hành vi vi phạm hợp đồng do chủ thể không thực hiện đầy đủ hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình. Quan điểm của một số luật gia thì phạt vi phạm hợp đồng chỉ có thể áp dụng khi đó là những vi phạm cơ bản (khi một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng)6. Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh là việc vi phạm hợp đồng cho dù đã hoặc chưa gây ra thiệt hại cho thực tế thì bên bị vi phạm vẫn có quyền yêu cầu bên vi phạm hợp đồng gánh chịu chế tài phạt vi phạm Chủ thể vi phạm phải có lỗi Phải tồn tại thỏa thuận về việc phạt vi phạm giữa các bên Về mức phạt, Luật thương mại năm 2005 quy định cũng rất cụ thể “đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm”. Nếu các bên thỏa thuận mức phạt thấp hơn mức này thì sẽ áp dụng mức phạt do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên chỉ quy định trong hợp đồng về việc phạt vi phạm mà không nêu rõ mức phạt cụ thể hoặc mức phạt vượt quá mức phạt này do pháp luật quy định thì khi xảy ra tranh chấp, mức phạt 8% giá trị của phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm sẽ được áp dụng. Việc quy định mức phạt này của Luật thương mại hiện nay còn gây nhiều tranh cãi, tuy nhiên cũng cần phải nhận thấy sự hợp lý trong quy định của pháp luật về vấn đề này vì bản chất của hợp đồng là sự tự do ý chí của các bên , các bên hoàn toàn chấp nhận sẽ chịu phạt nếu vi phạm hợp đồng. Trên thực tế nếu để các bên tự thỏa thuận một cái giá “trên trời dưới bể” thì phải nói rằng rất khó để các bên có thể thực hiện được nghĩa vu của mình khi phát sinh vi phạm. Điều này cũng đồng nghĩa với việc quy định của pháp luật về chế tài phạt vi phạm là vô tác dụng không phát huy được hiệu quả trên thực tế. Ví dụ về việc áp dụng chế tài phạt vi phạm trong hoạt động thương mại, Công ty TNHH Sông Đào (Nam Định) ký kết hợp đồng 6 Chế tài phạt vi phạm hợp đồng ThS Nguyễn Việt Khoa Khoa Luật kinh tế, Đại học TPHCM https://lop2.edu.vn/
24 mua bán hàng hóa là 50 máy bơm công nghiệp (mới 100%) cho công ty cổ phần Thanh Mai (Ninh Bình). Tổng giá trị hợp đồng là 1 tỷ VNĐ. Các bên thỏa thuận giao hàng nhiều đợt và bên nào vi phạm sẽ bị phạt 8% trên giá trị vi phạm nghĩa vụ. Đợt giao hàng thứ nhất, công ty Sông Đào giao 20 máy bơm công nghiệp có giá trị là 400 triệu VNĐ. Tuy nhiên công ty Sông Đào khi giao hàng đợt này đã không giao hàng đúng chất lượng (không có giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa từ Italia như đã cam kết) mà là hàng đã qua sử dụng. Công ty CP Thanh Mai từ chối nhận hàng. Hai bên xảy ra tranh chấp, công ty Thanh Mai kiện công ty Sông Đào ra Tòa với yêu cầu phạt công ty Sông Đào 8% giá trị nghĩa vụ như đã thỏa thuận7. Tới đây tác giả tạm thời không bình luận về việc yêu cầu của công ty Thanh Mai có phù hợp với quy định của pháp luật hay không mà chỉ khẳng định rằng, việc công ty Thanh Mai khởi kiện ra Tòa và yêu cầu công ty Sông Đào phải gánh chịu chế tài phạt vi phạm do vi phạm hợp đồng thương mại là hoàn toàn hợp lý bởi giữa các bên đã có thỏa thuận rõ ràng về phạt vi phạm trong hợp đồng nói trên. So với các chế tài thương mại khác thì việc áp dụng chế tài phạt vi phạm có những ưu điểm như, cho phép thiệt hại được bù đắp một cách nhanh chóng. Chỉ cần có sự vi phạm hợp đồng thương mại mà không rơi vào một trong các trường hợp bất khả kháng và được các bên thỏa thuận thì người bị thiệt hại có quyền yêu cầu bên vi phạm trả số tiền mà hai bên đã thỏa thuận. Ngoài ra còn tránh được các chi phí phát sinh trong quá trình chứng minh thiệt hại, mức độ thiệt hại bởi rõ ràng để chứng minh được thiệt hại xảy ra trên thực tế là điều không hề đơn giản. 2.3.3. Quy định của pháp luật về chế tài buộc bồi thường thiệt hại Theo quy định của Luật thương mại năm 2005 thì “bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm” và “giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải gánh chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Do vậy, việc áp dụng chế tài buộc bồi thường thiệt hại trong thương mại khi phát sinh các yếu tố như có hành vi vi phạm hợp đồng, có lỗi của chủ thể vi phạm và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại thực tế và yếu tố quan 7 Các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại Khóa luận tốt nghiệp, Đào Thị Ngọc Ánh, 2009 https://lop2.edu.vn/
25 trọng cho việc áp dụng chế tài này là phải có thiệt hại trên thực tế. Điều này cũng có nghĩa là để được có thể buộc bên vi phạm bồi thường thiệt hại cho mình thì bên bị vi phạm phải chứng minh được có thiệt hại thực tế xảy ra. Đến nay Luật thương mại không có một quy định nào được đưa ra để giải thích cho định nghĩa thiệt hại là gì. Tuy nhiên dưới chừng mực nào đó thì có thể hiểu thiệt hại là sự mất mát về người, về của cải vật chất hoặc tinh thần. Ngoài ra luật cũng quy định các trường hợp được miễn trừ trách nhiệm đối với hành vi vi phạm như miễn trừ trách nhiệm do các bên thỏa thuận; sự kiện bất khả kháng; hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của phía bên kia; hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩn quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Trên cơ sở quy định của pháp luật về chế tài phạt vi phạm và chế tài buộc bồi thường thiệt hại, có thể thấy giữa chúng có sự khác biệt tương đối Cần thiết phải xác định sự khác biệt giữa chúng bởi phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại có ảnh hưởng trực tiếp đến việc áp dụng chúng trong vi phạm hợp đồng thương mại. Sự khác biệt cơ bản nhất giữa chúng được thể hiện ở chỗ, sẽ áp dụng phạt vi phạm khi khi biện pháp này được hai bên thỏa thuận trong hợp đồng; còn biện pháp bồi thường thiệt hại sẽ tự phát sinh khi nó thỏa mãn các yếu tố như có vi phạm hợp đồng, có thiệt hại thực tế xảy ra và hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại mà không cần có sự thỏa thuận giữa các bên. Do vậy về bản chất, nếu có vi phạm xảy ra mà các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì các bên chỉ có thể áp dụng biện pháp bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm trong hợp đồng thì bên vi phạm có quyền áp dụng cả biện pháp phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại. Sự khác nhau giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại còn được thể hiện ở chỗ, phạt vi phạm có thể áp dụng cho dù chưa có thiệt hại hoặc thiệt hại nhỏ hơn mức phạt vi phạm. Trong khi đó, bồi thường thiệt hại được áp dụng nhằm bù đắp tổn thất chỉ bằng thiệt hại đã xảy ra hoặc thậm chí có thể nhỏ hơn thiệt hại đó.
2.3.4. Quy định của pháp luật về chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng Luật thương mại năm 1997 trước đây không quy định chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng. Luật thương mại năm 2005 ra đời, chế tài này đã được bổ sung và được quy định khá cụ thể, nội dung pháp lý về chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng được quy định tại Điều 308 và Điều 309, theo đó tạm ngừng thực https://lop2.edu.vn/
26 hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng. Khi hợp đồng thương mại bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn còn hiệu lực.Căn cứ để áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng là khi xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận hành vi vi phạm là điều kiện để tạm ngừng thực hiện hợp đồng; một bên được xác định là vi phạm cơ bản nghĩa vụ của hợp đồng. Vi phạm được coi là vi phạm cơ bản nghĩa vụ của hợp đồng khi một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức là cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng. Do vậy tùy theo tính chất, mức độ của vi phạm và mục đích của giao kết hợp đồng của các bên để xác định vi phạm đó có phải là vi phạm nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng hay không. Chằng hạn hợp đồng do các bên giao kết được xác định là hợp đồng mua bán hàng hóa thì nếu như bên giao hàng tiến hành giao hàng không đúng với chất lượng mà các bên đã cam kết hoặc giao hàng không đúng thời hạn do hai bên đã thỏa thuận thì cần phải có sự xác định rõ việc một bên thực hiện các hành vi này có làm ảnh hưởng trực tiếp đến mục đích giao kết của bên kia hay không. Nếu như phía chủ thể bên kia cần sử dụng nguồn hàng gấp để thực hiện nghĩa vụ của mình với người khác mà bên kia không giao hàng đúng thỏa thuận làm ảnh hưởng đến việc ký kết hợp đồng với bên thứ ba, gây ra thiệt hại cho họ thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng với bên vi phạm8 . Tuy nhiên cũng phải khẳng định là khi bên bị vi phạm áp dụng chế tài này thì không có nghĩa là hợp đồng giữa hai bên chấm dứt hiệu lực, hợp đồng thương mại này vẫn có hiệu lực pháp lý sau khi áp dụng xong chế tài ngừng thực hiện hợp đồng trên thực tế. 2.3.5. Quy định của pháp luật về chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng Cũng giống như chế tài ngừng thực hiện hợp đồng, chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng mới được bổ sung theo quy định của Luật thương mại năm 2005, theo đó đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Lẽ tất yếu sẽ xảy ra là khi hợp đồng thương mại bị đình chỉ thì hợp đồng chấm dứt hiệu lực từ thời điểm một bên nhận được thông báo đình chỉ, các bên không phải tiếp tục thực hiện hợp đồng thương mại. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng. 8 http://tinmoi.vn/quyen tam ngung thuc hien hop dong khi mot ben vi phạm 011266007.html https://lop2.edu.vn/
27 Theo quy định của pháp luật, căn cứ để áp dụng chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng là khi xảy ra hành vi vi phạm của các bên mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng và một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng (trừ trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm). Do vậy để có thể áp dụng quy định của pháp luật về biện pháp này thì cần thiết phải xác định được chủ thể vi phạm có thực hiện hành vi mà rơi vào các trường hợp được miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hay không. Các trường hợp được miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm bao gồm, xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm do các bên có sự thỏa thuận; xảy ra sự kiện bất khả kháng, hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia và hành vi của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. 2.3.6. Quy định của pháp luật về chế tài hủy bỏ hợp đồng Hủy bỏ hợp đồng là một trong các chế tài thương mại, theo đó một bên chấm dứt hợp đồng và làm cho hợp đồng không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết. Hủy bỏ hợp đồng bao gồm hủy bỏ toàn bộ hợp đồng và hủy bỏ một phần hợp đồng. Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là hủy bỏ toàn bộ nghĩa vụ của mình trong hợp đồng, còn hủy bỏ một phần hợp đồng là hủy bỏ một vài nghĩa vụ trong hợp đồng, phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực pháp luật. Như vậy hợp đồng bị hủy bỏ hoặc bị hủy bỏ một phần sẽ không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, các bên không phải thực hiện đối với phần nghĩa vụ đã bị hủy bỏ trong hợp đồng.Căn cứ áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng khi phát sinh các điều kiện như có vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng, không thực hiện chế tài buộc thực hiện hợp đồng, vi phạm hợp đồng trước thời hạn và theo thỏa thuận của các bên. Vi phạm cơ bản nghĩa vụ của hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng. Như vậy khi một vi phạm không là vi phạm cơ bản thì nó là vi phạm không cơ bản. Có thể hiểu, vi phạm không cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên nhưng chưa đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng. Chỉ khi nào xác định được vi phạm cơ bản thì mới có thể biết được đó có phải là vi phạm không cơ bản hay không và vì vậy, việc làm rõ nội hàm của khái niệm vi phạm cơ bản là cần thiết. Sở dĩ cần phân biệt vi phạm cơ bản và vi phạm https://lop2.edu.vn/
n cớ bên kia vi phạm hợp đồng để hủy bỏ hợp đồng của bên kia9 Không thực hiện chế tài buộc thực hiện hợp đồng là căn cứ thứ hai
28 không cơ bản để làm căn cứ hủy bỏ hợp đồng bởi khi một hợp đồng bị hủy bỏ sẽ đem lại hậu quả nghiêm trọng; thậm chí có thể gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của các bên chủ thể hợp đồng. Khi các bên tuân thủ đúng hợp đồng thì sẽ đem lại lợi ích cho chính các bên và cả xã hội. Một bên không thể vì thế mà có thể mượ để một trong các bên có thể hủy bỏ hợp đồng thương mại. Khi hợp đồng thương mại có hiệu lực pháp luật, yêu cầu các bên phải thực hiện đúng các nghĩa vụ mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Yêu cầu này xuất phát từ ý thức tự giác của các bên, vì thế nếu một trong hai bên chủ thể không tôn trọng và nghiêm túc thực hiện vấn đề này thì lẽ đương nhiên là hợp đồng không thể thực hiện trên thức tế Vì vậy đây cũng là căn cứ quan trọng để các bên đưa ra yêu cầu hủy bỏ hợp đồng thương mại đã được giao kết giữa các bên. Vi phạm hợp đồng thương mại trước thời hạn cũng là căn cứ để một trong hai bên đưa ra yêu cầu hủy bỏ hợp đồng thương mại. Đây là trường hợp mà do các bên đã cùng nhau thực hiện các nghĩa vụ đã được thỏa thuận trong hợp đồng nhưng hợp đồng chưa chấm dứt hiệu lực thì một trong hai bên vi phạm hợp đồng thì bên kia có quyền đưa ra làm căn cứ để hủy bỏ hợp đồng này trên thực tế. Vi phạm hợp đồng thương mại trước thời hạn có thể là do các bên đã thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, nhưng thực hiện không đúng theo yêu cầu của các bên về số lượng, chất lượng hàng hóa…. Hủy bỏ hợp đồng thương mại cũng được đặt ra nếu như các bên có sự thỏa thuận với nhau. Có thể trong quá trình thực hiện hợp đồng dù không có sự vi phạm hợp đồng mà các bên muốn hủy bỏ hợp đồng thì pháp luật cũng cho phép các bên áp dụng chế tài thương mại này. Việc hủy bỏ hợp đồng thương mại trong trường hợp này được đặt ra khi phía bên kia chấp nhận yêu cầu đó. Hậu quả pháp lý của việc áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng thương mại, sau khi huỷ bỏ hợp đồng, hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp. Các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ 9 http://luatsuphamtuananh.com/tu van soan thao ky ket hop dong/can cu huy bo hop dong thuong mai/vn https://lop2.edu.vn/
29 của mình theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời; trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật này. Tuy nhiên cũng cần phải nhấn mạnh thêm một vấn đề đó là khi một bên hủy bỏ hợp đồng thương mại thì phải có nghĩa vụ thông báo cho bên kia theo đúng quy định của pháp luật, nếu bên hủy bỏ không thông báo ngay cho bên kia mà gây ra thiệt hại cho bên kia thì phải bồi thường (Điều 315 Luật thương mại năm 2005) 2.3.7. Quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa các chế tài thương mại Xem xét mối quan hệ giữa các chế tài thương mại, nhận thấy trong một chừng mực nhất định chúng mối quan hệ mật thiết bổ sung cho nhau và trong một số trường hợp là không tách rời nhau: Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng và các chế tài thương mại khác, Luật thương mại năm 2005 quy định nếu không có thỏa thuận trước trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng thì “bên có quyền lợi bị vi phạm không được áp dụng chế tài phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại hoặc hủy hợp đồng” (Khoản 1, Điều 225). Điều này khẳng định rõ khi đã áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng thì các bên không được đưa ra bất kỳ lý do nào đó để bắt bên kia phải bồi thường thiệt hại hay nộp phạt vi phạm. Ngược lại, nếu bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thời hạn ấn định thì “bên có quyền lợi bị vi phạm được áp dụng các chế tài khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình” - Giữa chế tài phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại, thì “trong trường hợp các bên không có thỏa thuận khác thì bên có quyền lợi bị vi phạm được lựa chọn một trong hai chế tài là phạt vi phạm hoặc bồi thường thiệt hại đối với cùng một hành vi vi phạm” (Điều 234). Như vậy giữa phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại có nhiều điểm tương đồng với nhau hơn so với các chế tài khác, phạt vi phạm được coi là bồi thường thiệt hại ước tính, còn bồi thường thiệt hại phải dựa trên thiệt hại thực tế của bên bị vi phạm. Do đó nếu đã đòi tiền phạt (bồi thường thiệt hại ước tính) thì không được bồi thường thiệt hại thực tế nữaChế tài hủy hợp đồng và các chế tài khác. Đối với chế tài này các bên hoàn toàn có thể vừa áp dụng hủy hợp đồng vừa có thể áp dụng đồng thời các https://lop2.edu.vn/
30 chế tài thương mại khác (Điều 237). Các biện pháp này sẽ đóng vai trò hỗ trợ cho nhau để có thể bảo vệ quyền lợi cho các bên khi tham gia hợp đồng thương mại, đặc biệt là bên chủ thể bị vi phạm. Xét các mối quan hệ giữa các chế tài thương mại với nhau thì chúng được pháp luật hiện hành quy định khá cụ thể, nhưng khi tách thành các chế tài riêng biệt thì mỗi một chế tài thương mại đều có căn cứ áp dụng là khác nhau. Mối quan hệ giữa chúng chỉ là bổ sung và hỗ trợ cho nhau, vì vậy việc kết hợp đúng đắn các chế tài thương mại với nhau sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho bên bị vi phạm. https://lop2.edu.vn/
31 CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI 3.1. THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI BUỘC THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng không chỉ là mong muốn của Nhà nước khi đưa ra quy định của pháp luật về vấn đề này, mà còn là mong muốn của các bên chủ thể tham gia ký kết hợp đồng thương mại. Khi hợp đồng thương mại được các bên thực hiện thì cũng có nghĩa mục đích của các bên tham gia hợp đồng thương mại đã đạt được. Vì vậy, khi xảy ra hiện tương vi phạm pháp luật liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng thì biện pháp chế tài thương mại trước hết được ưu tiên áp dụng vẫn là chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng. Tuy nhiên quá trình áp dụng chế tài này trên thực thế đã gặp một số khó khăn và rào cản lớn nhất cho thấy hiệu quả áp dụng chế tài thương mại này trong thực tế chưa được thể hiện rõ nét, đặc biệt khi chủ thể vi phạm từ chối không thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình đã được đưa ra trong hợp đồng thươngSựmại.vướng mắc trong quy định của pháp luật về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng được thể hiện ngay trong khái niệm như thế nào là buộc thực hiện đúng hợp đồng? Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh. Từ định nghĩa này có thể thấy tính không khả thi khi pháp luật quy định rằng bên vi phạm phải “thực hiện đúng hợp đồng” đặc biệt là trong trường hợp hợp đồng thương mại bi vi phạm về mặt thời gian. Chằng hạn, trong hợp đồng thương mại do hai bên ký kết có thỏa thuận thời gian giao hàng vào lúc 9h ngày 1/2/2017. Nếu quá thời gian này trong ngày 1/2/2017 mà bên giao hàng không thực hiện nghĩa vụ thì bên bị vi phạm cũng không thể yêu cầu bên bị vi phạm “thực hiện đúng hợp đồng” được nữa bởi các bên không thể quay ngược thời gian vào thời điểm ngày 1/2/2017 để thực hiện đúng hợp đồng. Rõ ràng quy định như trên của pháp luật là không sát với thực tế hay nói đúng hơn là không thể thi hành theo đúng yêu cầu đó. Vì vậy tất yếu sẽ dẫn đến sự khó khăn và lung túng trong quá trình áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trên thực tế. https://lop2.edu.vn/
Quy định mở cho phép bên bị vi phạm đối chiếu với sự vi phạm của bên kia có thể yêu cầu áp dụng các biện pháp chế tài khác, hoặc là phạt vi phạm, hoặc là buộc bồi thường thiệt hại, hoặc là tạm ngừng thực hiện hợp đồng, hoặc là đình chỉ thực hiện hợp đồng hay hủy bỏ hợp đồng. Tuy nhiên cũng chính quy định này của pháp luật đã dẫn đến một hệ quả là chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng có thể trở thành một biện pháp chế tài thương mại vô nghĩa trên thực tế khi quy định “bên bị vi phạm được áp dụng các chế tài khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.”. Đây là kẽ hở của pháp luật cần được khắc phục vì có thể bị bên vi phạm lợi dụng để trì hoãn thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng trong khi hành vi vi phạm của người đó có thể chưa hội đủ các yếu tố làm căn cứ để áp dụng các biện pháp chế tài phạt vi phạm, buộc bồi thường thiệt hại, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ thực hiện hợp đồng. Dẫn đến một thực tế là không đảm bảo đúng lợi ích mà bên bị vi phạm mong muốn ban đầu và quyền lợi của họ cũng không được bảo vệ một cách kịp thời. 3.2. THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI PHẠT VI PHẠM HỢP ĐỒNG Nhìn một cách chung nhất, chế tài phạt vi phạm được đánh giá là một trong những chế tài có nhiều ưu điểm vượt trội so với các chế tài thương mại khác. Nó là công cụ thuận tiện để đền bù những tổn thất, mất mát của người có quyền do hành vi vi phạm hợp đồng của chủ thể phía bên kia. Ngoài ra còn cho phép các thiệt hại được đền bù một cách nhanh chóng. Chỉ cần có sự vi phạm hợp đồng và sự vi phạm này không rơi vào các trường hợp bất khả kháng, các trường hợp được miễn trừ trách nhiệm thì bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu biện pháp phạt vi phạm hợp đồng. Đặc biệt, chế tài phạt vi phạm còn giúp các bên tránh được chi phí phát sinh trong quá trình chứng minh thiệt hại, mức độ thiệt https://lop2.edu.vn/
32 Ngoài ra cũng trong nội dung của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, pháp luật quy định “trường hợp bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thời hạn mà bên bị vi phạm ấn định, bên bị vi phạm được áp dụng chế tài khác để bảo vệ quyền lợi của mình”. Quy định này của pháp luật hướng tới bảo vệ tuyệt đối lợi ích cho bên bị vi phạm, khi lợi ích của mình bị xâm phạm thì pháp luật đưa ra quy định mở này để cho các bên lựa chọn sao lợi ích của bên bị vi phạm dưới khía cạnh nào thì cũng được bảo vệ.
33 hại. Việc chứng minh thiệt hại trên thực tế là điều rất khó khăn, có thể phát sinh nhiều chi phí không cần thiết. Tuy nhiên trong quá trình áp dụng chế tài phạt vi phạm hợp đồng, đã phát sinh một số khó khăn, vướng mắc nhất định. Cụ thể là: Áp dụng phạt vi phạm nếu trong hợp đồng giữa các bên có thỏa thuận về điều khoản phạt vi phạm. Điều này là chưa thật sự được hợp lý, bởi nếu các bên chưa có thỏa thuận về phạt vi phạm trong hợp đồng thương mại thì họ vẫn có quyền đưa ra một thỏa thuận khác ngoài hợp đồng, độc lập với hợp đồng và có thể giao kết sau khi hợp đồng được ký kết thì vẫn có hiệu lực pháp luật giống với việc áp dụng phạt vi phạm đã được thỏa thuận trong hợp đồng thương mại. Về mức phạt: Luật thương mại quy định cụ thể mức phạt “…do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm”. Việc pháp luật đưa ra mức phạt 8% có bị coi là sự hạn chế quyền tự do thỏa thuận giữa các bên hay không? Và nếu giữa các bên thỏa thuận mức phạt cao hơn 8% và thậm chí là rất cao là 100%, 200% giá trị của hợp đồng thì pháp luật sẽ xử lý ra sao. Bởi thực tế chỉ ra rằng, dù áp dụng ở mức nào 8%, 100% hay 200% thì đó cũng là do xuất phát từ chính sự thỏa thuận của các bên. Hiện nay, về vấn đề này có hai luồng quan điểm khác nhau được đưa ra: + Quan điểm thứ nhất, việc các bên tự thỏa thuận với mức phạt vi phạm là 100%, 200%.. thì thỏa thuận này không được coi là có giá trị (vô hiệu), vì vậy khi giải quyết tranh chấp yêu cầu áp dụng chế tài phạt vi phạm thì coi như hai bên không có thỏa thuận + Quan điểm thứ hai, việc các bên thỏa thuận mức phạt vi phạm vượt quá 8% thì chỉ vô hiệu một phần đối với phần vượt quá, còn điều khoản phạt vi phạm hợp đồng vẫn có hiệu lực pháp luật và mức áp dụng cho việc phạt vi phạm tối đa là 8% và đương nhiên phần vượt quá sẽ không được chấp nhận. Từ thực tiễn xét xử các vụ tranh chấp kinh doanh thương mại, các Tòa án thường chấp nhận quan điểm thứ 2 này, áp dụng mức phạt 8% khi xét xử, còn phần vượt quá thì không được xem xét giải quyết 10. Quá trình nghiên cứu về vấn đề này tác giả cũng đồng nhất với quan điểm thứ hai này, cho rằng việc pháp luật quy định mức phạt không quá 8% giá trị của hợp đồng không làm mất đi sự tự do thỏa 10 Các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại Khóa luận tốt nghiệp, Đào Thị Ngọc Ánh, 2009 https://lop2.edu.vn/
THỰC
34 thuận của các bên. Các bên vẫn có sự thỏa thuận trong đó và vẫn được Nhà nước đảm bảo thực hiện. Việc pháp luật đưa ra mức trần về phạt vi phạm sẽ giúp Nhà nước kiểm soát được những thỏa thuận trá hình hay những thỏa thuận “trên trời dưới biển” giữa các bên nhằm thu lợi bất chính của một bên liên quan đến nghĩa vụ của mình trong hợp đồng thương mại. Tuy nhiên, để việc áp dụng mức phạt 8% theo quy định của Luật thương mại năm 2005 thực sự có hiệu quả thì trong thời gian tới cần có sự quy định cụ thể và sát với thực tế hơn nữa trong Điều 301. + Liên quan đến mức phạt 8% do vi phạm hợp đồng, thì có thể hiểu quy định này là mức phạt thực tế mà các bên có thể đưa ra nhưng phải là trên phần nghĩa vụ bị vi phạm. Vì vậy phải xác định được phần nghĩa vụ bị vi phạm để có thể tính toán ra số tiền phạt vi phạm thực tế. Tuy nhiên để chứng minh được “giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm” lại không hề đơn giản. Thực tế cho thấy, trong quá trình giải quyết việc áp dụng chế tài phạt vi phạm, việc xác định giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm lại dựa vào nhận thức chủ quan của Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử. Cụ thể như trường hợp sau đây, công ty Thành Công ký hợp đồng với công ty TNHH quảng cáo Sông Xanh để thực hiện chương trình quảng cáo cho dòng sản phẩm mới của công ty Thành Công với tổng giá trị hợp đồng là 1 tỷ VNĐ. Tuy nhiên khi đang thực hiện hợp đồng thì Công ty TNHH quảng cáo Sông Xanh tự ý không thực hiện tiếp. Trong hợp đồng của hai công ty này có điều khoản phạt vi phạm là 8% giá trị nghĩa vụ bị vi phạm11. Tuy nhiên để xác định được phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm trong trường hợp này lại không hề đơn giản. Từ những vụ việc phát sinh trên thực tế, pháp luật có nên chăng quy định mức phạt vi phạm trên tổng giá trị hợp đồng để đơn giản hóa vấn đề hay không? . TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI BUỘC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI Chế tài buộc bồi thường thiệt hại được quy định cụ thể tại Khoản 2 Điều 302 của Luật thương mại năm 2005 “bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm”. Bản chất của chế tài buộc bồi thường thiệt hại là hướng đến khôi phục, 11 Chế tài phạt vi phạm hợp đồng theo luật thương mại năm 2005, tác giả Nguyễn Việt Khoa, Đại học kinh tế TP HCM https://lop2.edu.vn/
3.3
35 bù đắp những lợi ích vật chất bị mất cho bên bị vi phạm . Với chức năng chính này, chế tài buộc bồi thường thiệt hại chỉ được áp dụng khi hành vi vi phạm của một bên chủ thể gây ra thiệt hại trên thực tế. Căn cứ để áp dụng chế tài này là khi có hành vi vi phạm hợp đồng của một bên, có thiệt hại thực tế xảy ra và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm với thiệt hại thực tế. Ba căn cứ này đã được thể hiện rõ trên tinh thần của Khoản 2 Điều 302 của Luật thương mại năm 2005 nói trên, trong khi đó các điều kiện này lại được tiếp tục nhắc lại tại Điều 303 của Luật thương mại năm 2005. Theo quan điểm của bản thân, tác giả thiết nghĩ việc quy định lại những căn cứ đã rõ ràng như trên là điều không cần thiết trong khi vấn đề lỗi của bên vi phạm lại không được đề cập đến. Về nguyên tắc một người chỉ phải chịu trách nhiệm pháp lý khi có hành vi vi phạm và hành vi đó cũng phải được xác định là có lỗi của chủ thể. Lỗi là trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể, thể hiện thái độ chủ quan của con người đối với hành vi của mình và với hậu quả do hành vi của mình gây ra. Vấn đề tâm lý và nhận thức chỉ đặt ra với con người cụ thể. Trong khi đó tham gia hợp đồng thương mại hiện nay còn có các tổ chức kinh doanh. Việc xác định thái độ tâm lý và nhận thức của tổ chức kinh doanh không chính xác nên lỗi khi vi phạm hợp đồng thương mại được gọi là lỗi suy đoán. Lỗi là trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể, thể hiện thái độ chủ quan của con người đối với hành vi của mình và với hậu quả do hành vi của mình gây ra. Vấn đề tâm lý và nhận thức chỉ đặt ra với con người cụ thể. Bên vi phạm hợp đồng thương mại chứng minh được mình không có lỗi thì được miễn trách nhiệm. Như vậy Điều 303 của Luật thương mại năm 2005 không quy định về yếu tố lỗi là căn cứ để áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại. Do vậy có ý kiến cho rằng khi áp dụng chế tài buộc bồi thường thiệt hại không cần xem xét bên vi phạm có lỗi hay không. Trong một số điều luật của Luật thương mại năm 2005 lại quy định rõ yếu tố lỗi của chủ thể như Điều 283 quy định giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistic, Điều 266 quy định về trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định. Việc quy định không khoa học và thống nhất này đã gây ra nhiều cách hiểu không thống nhất, đơn giả nhất là cách hiểu chỉ có Điều 283 và Điều 266 chỉ các định về lỗi của chủ thể phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý, còn các trường hợp khác thì không. Vì vậy việc xác định yếu tố lỗi của bên vi phạm nghĩa vụ trong https://lop2.edu.vn/
36 hợp đồng thương mại trong thời gian tới cần được điều chỉnh và quy định rõ ràng hơn, tránh gây ra những các hiểu thiếu thống nhất không đáng có. 3.4. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI TẠM NGỪNG THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG Chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng được được quy định tại Điều 308 của Luật thương mại năm 2005, theo đó “Tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng”. Thực tế cho thấy khi chế tài thương mại này được áp dụng đối với bên vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng thì hợp đồng thương mại được ký kết giữa các bên vẫn có hiệu lực pháp luật và bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu hành vi đó gây thiệt hại cho bên bị vi phạm. Việc áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng về cơ bản không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng thương mại và hợp đồng này sẽ tiếp tục được thực hiện trên thực tế sau khi một bên chủ thể áp dụng xong chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên đáng tiếc là trong Luật thương mại năm 2005 lại không có bất kỳ quy định nào liên quan đến chế tài thương mại này để khẳng định thời điểm nào sẽ được coi là chấm dứt việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng? Liệu có thể coi việc một bên thực hiện xong nghĩa vụ nào đó mà đã đáp ứng được mong muốn của bên bị vi phạm là thời điểm chấm dứt việc áp dụng chế tài ngừng thực hiện hợp đồng hay chưa? Hay căn cứ vào cơ sở nào để một bên yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng đã bị tạm ngừng thực hiện? Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện do bên tạm ngừng tự động thực hiện hay theo yêu cầu của bên có hành vi vi phạm? Tất cả các vấn đề này chỉ tồn tại dưới dạng câu hỏi nhất định mà chưa có lời giải đáp chính thức từ các quy định của pháp luật. Vì thế, việc gặp phải những khó khăn, vướng mắc cho việc tiếp tục thực hiện hợp đồng thương mại vẫn còn hiệu lực pháp luật là điều không thể tránh khỏi. Nói đúng hơn là khi chưa có một cơ sở pháp lý rõ ràng mà một bên tự đưa ra ý kiến nhằm giải quyết cho cả ba câu hỏi nêu trên liệu có được phía bên kia chấp nhận hay không? hoặc pháp luật có thừa nhận và đảm bảo cho sự thỏa thuận này được thực hiện trên thực tế hay không? Điều này sẽ khó thực hiện nếu chủ thể bên kia cho rằng, đây mới chỉ là việc anh đưa ra yêu cầu còn được chấp nhận hay không sẽ là câu chuyện khác. Rõ ràng thiếu vắng cơ sở pháp lý quan trọng sẽ làm cho việc tiếp https://lop2.edu.vn/
37 tục thực hiện hợp đồng thương mại sẽ gặp phải những rào cản nhất định khó có thể lường trước được nhất là khi các bên đã có sự thiếu thiện chí đối với nhau . THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI HỦY BỎ HỢP ĐỒNG Như đã đề cập trong phần lý luận, chế tài hủy bỏ hợp đồng được quy định trong Điều 312, được hiểu là việc “bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng hoặc bãi bỏ một phần nghĩa vụ của hợp đồng”. Thực tiễn áp dụng chế tài thương mại này cũng gặp phải một số khó khăn, vướng mắc như sau: - Thứ nhất là về hậu quả pháp lý, việc hủy bỏ hợp đồng toàn bộ (hay hủy bỏ một phần) hợp đồng thương mại dẫn đến hậu quả pháp lý là “hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng,…” (Khoản 1 Điều 314). Ngoài ra tại khoản 2 và khoản 3 Điều 314 cũng quy định “các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời; trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận được thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền” và “bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật này”. Quy định tại Khoản 2 và khoản 3 đã gây ra mâu thuẫn với chính Khoản 1 Điều 314 về một số khía cạnh sau: + Việc cho phép các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình là chưa hợp lý bởi khi hợp đồng thương mại bị hủy thì tất cả các phần trong hợp đồng được thực hiện sẽ phải hoàn trả cho bên kia vì Luật thương mại xác định rất rõ hợp đồng bị hủy sẽ “không có hiệu lực từ thời điểm giao kết”. Điều này cho thấy pháp luật hiện hành quan tâm đến hiệu lực của hợp đồng bị hủy toàn bộ trong khi với hợp đồng bị hủy một phần thì phần còn lại của hợp đồng không bị hủy thì không được nhắc đến sẽ được tiếp tục thực hiện ra sao. + Ngoài ra, Luật thương mại còn quy định “nếu các bên không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận được thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền”. Quy định này là chưa thật sự hợp lý, cần xác định rõ lợi ích ở đây là lợi ích gì? Lợi ích vật chất hay lợi ích tinh thần. Hơn nữa số tiền phải trả trong trường hợp này bao nhiêu là đủ? Như vậy, điều khoản này của Luật thương mại cũng chưa https://lop2.edu.vn/
3.5
38 đưa ra được nguyên tắc định giá?12 Và pháp luật cũng chưa đưa ra quy định cụ thể giải quyết vấn đề, nếu các bên thỏa thuận mức giá hoàn trả thì cần có phải nằm trong giới hạn nào hay không (giống như chế tài phạt vi phạm thì mức phạt tối đa là 8%), nếu các bên không có thỏa thuận về mức giá hoàn trả thì mức giá có được tính dựa vào mức giá thị trường tại thời điểm hoàn trả hay không? Đây vẫn là những vấn đề còn được bỏ ngỏ, điều này sẽ gây khó khăn cho các chủ thể đặc biệt là cho các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết các tranh chấp phát sinh từ việc áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng thương mại. - Thứ hai là về căn cứ áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng. Việc hủy hợp đồng thương mại được đặt ra khi một bên xác định được đã xuất hiện vi phạm nghĩa vụ cơ bản, vi phạm đó làm cho “bên kia đến mức không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng”. Nhưng trên thực tế, để hiểu thế nào là vi phạm cơ bản hay khi giao kết hợp đồng thì các bên có cần nêu rõ mục đích giao kết hợp đồng hay không và nếu có thì có bắt buộc phải ghi rõ trong hợp đồng hay không? thì cho đến nay các quy định của pháp luật hiện hành đều không đưa ra bất kỳ điều khoản nào hay yêu cầu nào buộc các bên chủ thể khi giao kết hợp đồng phải ghi rõ mục đích của giao kết trong hợp đồng. Liên quan đến khái niệm vi phạm cơ bản, chỉ có duy nhất trong Báo cáo số 350/UBTVQH11 ngày 18/5/2005 của Ủy ban thường vụ Quốc hội có giải thích “một vi phạm được xác định là vi phạm cơ bản phải dựa trên 2 tiêu chí là, phải có gây thiệt hại cho bên kia và mức độ gây thiệt hại cho bên kia không đạt được giao kết của hợp đồng”. Đến nay cũng chưa có cơ quan nhà nước có thẩm quyền nào có văn bản chính thức hướng dẫn về vấn đề này. Trong pháp luật Dân sự cũng chỉ tìm thấy khái niệm vi phạm nghiêm trọng được đề cập đến tại Khoản 1 Điều 70; Khoản 2 Điều 521; Khoản 2 Điều 550. Trong khi căn cứ áp dụng trong hai khái niệm vi phạm cơ bản và vi phạm nghiêm trọng cũng không thống nhất với nhau. Vi phạm cơ bản là căn cứ để áp dụng chế tài thương mại, còn vi phạm nghiêm trọng là căn cứ để một bên trong giao dịch dân sự đơn phương chấm dứt hợp đồng. Vì vậy các tổ chức, cá nhân khi tham gia vào các giao dịch thương mại và các cơ quan có thẩm quyền là Tòa án, là Trọng tài cũng sẽ gặp nhiều khó khăn trong quá 12 Hoàn thiện các quy định về chế tài trong thương mại theo Luật thương mại năm 2005, tác giả TS. Nguyễn Thị Tình và ThS. Đỗ Phương Thảo, Trường Đại học Thương mại https://lop2.edu.vn/
39 trình giải quyết tranh chấp, nếu như khái niệm vi phạm cơ bản không được giải thích và hướng dẫn rõ ràng cụ thể. 3.6. THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ MỐI QUAN HỆ CỦA CÁC LOẠI CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI Mối quan hệ giữa các loại chế tài thương mại được Luật thương mại quy định rải rác trong một số điều luật. Cụ thể là: Điều 307 thể hiện mối quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm với chế tài buộc bồi thường thiệt hại “trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp luật này có quy định khác” và “trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”. Điều luật này cho phép chế tài phạt vi phạm có thể áp dụng đồng thời với chế tài buộc bồi thường thiệt hại. Trong khi đó, tinh thần này của pháp luật hiện hành cũng đã được quy định tại Điều 316 “Một bên không bị mất quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tổn thất do vi phạm hợp đồng của bên kia khi đã áp dụng các chế tài khác”. Điều này cũng có nghĩa, chế tài buộc bồi thường thiệt hại có thể được áp dụng cùng một lúc với chế tài khác trong đó có chế tài phạt vi phạm. Vì vậy, việc đặt ra thêm một điều luật riêng để điều chỉnh mối quan hệ giữa hai chế tài này với nhau là điều thật sự không cần thiết. Bên cạnh đó, cũng trong Điều 307 nói trên chưa có quy định rõ ràng về căn cứ áp dụng chế tài buộc bồi thường thiệt hại. Để áp dụng chế tài thương mại này thì phải dựa vào căn cứ áp dụng chế tài thương mại nói chung, vì vậy nó đã gây ra sự hiểu nhầm trong quá trình áp dụng chế tài thương mại này trong thực tiễn. Chế tài hủy hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, tạm ngừng thực hiện hợp đồng và các loại chế tài khác được quy định tại các Điều 309, 311 và Điều 314. Các điều luật này chỉ quy định đến việc áp dụng ba chế tài này nhưng không làm mất quyền áp dụng chế tài buộc bồi thường thiệt hại. Quy định này được đánh giá là chưa hợp lý bởi nội dung này đã được đề cập tại Điều 316 và nếu chỉ dừng lại ở quy định như vậy thì sẽ không bao quát hết được việc áp dụng ba chế tài này với chế tài phạt vi phạm, nghĩa là do tồn tại nhiều điều luật quy định về mối quan hệ về các loại chế tài này mà việc áp dụng các loại chế tài thương mại nói trên luôn rơi vào một vòng luẩn quẩn của sự không rõ ràng. Nội https://lop2.edu.vn/
40 dung các điều luật đôi khi bao trùm nhau. Vì sự không rõ ràng, nên việc áp dụng sẽ gặp nhiều lúng túng và khó khăn, do đó mối quan hệ giữa ba chế tài trên cần được quy định thống nhất, giúp việc nghiên cứu vấn đề này được rõ ràng và cụ thể hơn nữa. 3.7. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI Có thể thấy rằng, thực tế tồn tại nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng chế tài thương mại theo quy định của pháp luật hiện hành còn nhiều hạn chế và bất cập. Các nguyên nhân đó có thể là: Thứ nhất, do vẫn còn chịu sự ảnh hưởng đậm nét trong quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế nên các quy định trong Luật thương mại năm 2005 còn tồn tại bất cập và hạn chế và trong đó có cả các chế tài thương mại Thứ hai, do sự chồng chéo giữa các quy định của Luật Dân sự với Luật thương mại trong đó có các quy định về chế tài nói chung và chế tài thương mại nói riêng nên cách hiểu và thực thi chúng vì thế cũng không được rõ ràng, gây ra các cách hiểu và áp dụng là khác nhau. Vì vậy không có cơ sở pháp lý thống nhất cho việc áp dụng các chế tài trong thực tế đời sống xã hội. Liên quan đến nguyên nhân này, đề tài sẽ tập trung nghiên cứu để đánh giá cụ thể về sự chồng chéo này trong tiểu mục liền kề (tiểu mục 3.2) Thứ ba, án lệ thường không được áp dụng phổ biến trong pháp luật hiện hành của Việt Nam nên việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến hợp đồng thương mại cũng vì thế mà gặp không ít khó khăn. Lý do này có lẽ được xác định dựa trên xuất phát điểm cho rằng, Việt Nam có hệ thống pháp luật thành văn (Civil Law) mà không phải là hệ thống pháp luật án lệ (common Law). Vì thế việc áp dụng án lệ trong quá trình xét xử là điều vô cùng hạn chế. Do vậy, nhiều phán quyết được xác định là đã đưa ra được tính đúng đắn trong quá trình giải quyết nhưng không được pháp luật thừa nhận nên quyền lợi của các bên cũng không được đảm bảo thực hiện - Thứ tư, trong quá trình xét xử các Thẩm phán là những người có kinh nghiệm nhưng bản thân họ lại không có thẩm quyền giải thích pháp luật, trong khi pháp luật hiện hành lại không điều chỉnh hết được các vấn đề trong đó có các chế tài thương mại. Vì vậy quá trình xét xử bị ngừng trệ và phải chờ sự hướng dẫn của cấp trên. Kể cả khi họ có quan điểm không đồng tình với sự https://lop2.edu.vn/
41 hướng dẫn đó thì cũng không có cơ sở pháp lý bảo vệ cho tính đúng đắn trong quan điểm của họ. Vì vậy việc áp dụng các nội dung của pháp luật trong đó có chế tài thương mại bị ảnh hưởng và không được hướng dẫn rõ ràng, gây khó khăn cho việc áp dụng chúng trong quá trình giải quyết tranh chấp. Thứ năm, liên quan đến việc chậm tiếp nhận các quy định tiên tiến của nước ngoài liên quan đến hoạt động thương mại trong đó có nội dung chế tài thương mại. Ngay các quy định về chế tài thương mại theo quy định của Luật thương mại năm 2005 cũng có nhiều điểm khác biệt với Công ước Viên 1980 (ngoài những điểm tương đồng) đã được đánh giá trong chương II. Nói như vậy không có nghĩa là Luật thương mại Việt Nam phải quy định giống hệt như trong trong Công ước Viên 1980, mà chỉ nên tiếp nhận những quy định hợp lý mà phù hợp với điều kiện hoản cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội ở Việt Nam. Điều này sẽ góp phần hoàn thiện hơn nữa trong các quy định của pháp luật Việt Nam về các nội dung quan trọng, trong đó có các vấn đề liên quan đến các chế tài thương mại. https://lop2.edu.vn/
42 CHƯƠNG 4: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005 4.1. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI Trong những năm gần do sự phát triển của nền kinh tế mà hoạt động thương mại vì thế cũng phát triển với tốc độ nhanh chóng và hoạt động thương mại diễn ra sôi nổi và toàn diện trên nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Việc ký kết hợp đồng thương mại của các chủ thể cũng ngày càng nhiều hơn, làm cơ sở pháp lý quan trọng trong việc thực hiện quyền, lợi ích cũng như nghĩa vụ của các bên. Hoạt động thương mại trải rộng trên nhiều lĩnh vực, kéo theo sự bao trùm của hợp đồng thương mại cũng được trải rộng. Vì thế pháp luật thương mại đã có những quy định cụ thể hơn nhằm hướng tới sự ổn định nền kinh tế, nhằm hướng tới bảo vệ quyền và lợi ích cho các chủ thể tham gia và cũng nhằm đảm bảo cho hoạt động thương mại được thông suốt. Những vấn đề được Luật thương mại năm 2005 đề cập đến không phải là những vấn đề mới lạ, các nội dung đó rất gần với đời sống xã hội của con người. Nhìn chung các quy định này trong quá trình hoàn thiện đã dần dần đáp ứng được tính hiệu quả của nó, vì thế cũng đã tạo được sự ổn định cho hoạt động thương mại ở Việt Nam. Chế tài thương mại là một trong số nội dung quan trọng được đề cập trong quy định của Luật thương mại năm 2005. Vai trò của chế tài thương mại đối với hoạt động thương mại là rất lớn và quan trọng, đảm bảo cho hoạt động thương mại được phát triển phù hợp với ý chí nhà nước, cũng như ý chí của các bên. Vì vậy hơn bao giờ hết việc hoàn thiện chế tài thương mại là một vấn đề tất yếu khách quan và cần được đảm bảo dươi một số khía cạnh cơ bản sau: Thứ nhất là, cần đề cao sự tự do thỏa thuận của các bên trong quan hệ hợp đồng cũng như sự tự định đoạt của các bên trong hợp đồng thương mại. Tòa án chỉ xem xét việc áp dụng chế tài thương mại khi được các chủ thể yêu cầu. Xuất phát từ nguyên tắc, hợp đồng thương mại do các bên thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện, thiện chí, tự do giao kết… vì vậy khi một trong hai bên chủ thể vi phạm chính hợp đồng thương mại đó thì cũng nên để các bên tự giải quyết. Các bên lựa chon các chế tài thương mại cho phù hợp với quy định của pháp luật cũng như với điều kiện hoàn cảnh của các bên. Với hướng đề cao sự tự do trong https://lop2.edu.vn/
43 việc lựa chọn giữa các bên cũng góp phần tạo nên hiệu quả nhất định khi áp dụng các chế tài thương mại bởi khi có sự tự nguyện, tự thỏa thuận thì các bên chủ thể thường ít từ chối nghĩa vụ pháp lý của mình. Do đó theo quan điểm cá nhân của tác giả, việc hoàn thiện chế tài thương mại cần được quan tâm theo hướng đề cao sự tự do thỏa thuận của các bên chủ thể trong hợp đồng thương mại. Thứ hai là, pháp luật về chế tài thương mại trong quá trình hoàn thiện cần phải được quy định chi tiết, rõ ràng hơn nữa đặc biệt là các căn cứ để áp dụng mỗi loại chế tài nhất định. Điều này cũng hết sức quan trọng cho việc áp các chế tài trong thực tiễn hoạt động thương mại bởi có cơ sở pháp lý rõ ràng, có nội dung được quy định cụ thể thì việc áp dụng chế tài thương mại mới đạt được hiệu quả cao. Thực tế cho thấy, xuất phát điểm từ sự quy định không rõ ràng và do không được chỉ dẫn cụ thể nên việc vận dụng chúng khi giải quyết tranh chấp phát sinh có thể rơi vào bế tắc và còn tồn tại những bất cập đáng kể (những bất cập này đã được tác giả đưa ra phân tích và đánh giá cụ thể trong chương III). Vì vậy để tăng hiệu quả áp dụng chế tài để giải quyết vi phạm hợp đồng thương mại thì đòi hỏi pháp luật về chế tài thương mại cần đưa ra được những quy định cụ thể, chi tiết, rõ ràng và phải phù hợp với đời sống xã hội. Thứ ba là, pháp luật về chế tài thương mại trong thời gian tới cần được hoàn thiện trên cơ sở tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia khác khi quy định về vấn đề này. Trong quá trình nghiên cứu tác giả thấy được trong hầu khắp các quy định của một số quốc gia đều có đề cập đến chế tài thương mại. Tuy nhiên tác giả chỉ lựa chọn nghiên cứu Công ước Viên năm 1980 với lý do, Công ước Viên năm 1980 là một Điều ước quốc tế đa phương có rất nhiều quốc gia thành viên tham gia. Nội dung của Công ước có thể do các bên thỏa thuận hoặc thừa nhận. Điều này đã thể hiện ý chí làm luật của các quốc gia khác trong đó có sự thể hiện ý chí liên quan đến các chế tài thương mại. Do vậy nghiên cứu Công ước Viên năm 1980 cũng đã đủ thấy được tinh thần làm luật của các quốc gia về chế tài thương mại. Tuy nhiên giữa Công ước Viên năm 1980 và Luật thương mại năm 2005 còn có nhiều khác biệt liên quan đến chế tài thương mại. Áp dụng, vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam có thể là hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh, nhưng cũng có thể là không phù hợp, cần loại bỏ. Điều này theo tác giả là rất cần thiết bởi hợp đồng thương mại không chỉ được thiết lập bởi các thương https://lop2.edu.vn/
44 nhân Việt Nam mà còn được thiết lập giữa thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài. Đánh giá sự phát triển của hoạt động thương mại không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà còn được thể hiện thông qua việc mở rộng với các quốc gia khác thông qua các thương nhân nước ngoài. Vì vậy theo quan điểm của tác giả, nếu những quy định nào được coi là phù hợp thì pháp luật thương mại ở Việt Nam cũng cần học hỏi, tiếp thu có chọn lọc để đảm bảo cho chế tài thương mại trong thời gian tới ngày càng được hoàn thiện theo hướng phù hợp với hoạt động thương mại ở Việt Nam hơn. 4.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI 4.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng Trên cơ sở sự đánh giá và phân tích thực trạng về vấn đề này trong chương 2, tác giả nhận thấy khái niệm về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng cần được xây dựng lại theo hướng “Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm tiếp tục thực hiện hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh”. Nếu được sửa đổi theo hướng này thì rõ ràng khái niệm về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng sẽ phù hợp với thực tế hơn. Trước đây là pháp luật yêu cầu các bên phải thực hiện đúng hợp đồng khi phát sinh ra hành vi vi phạm hợp đồng. Điều này là rất khó thực hiện và cho dù chủ thể vi phạm muốn thực hiện cũng không thể thực hiện được vì không thể quay ngược thời gian để thực hiện nghĩa vụ của mình. Quy định này tạo ra sự vô nghĩa trong chính câu từ của pháp luật. Vì vậy theo tác giả quy định theo định hướng mới như trên là phù hợp vì nó tạo ra được tính khả thi trong quy định của pháp luật. Chủ thể vi phạm vẫn có thể tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình bằng cách nào đó mà phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân. Hoặc theo quan điểm của tác giả pháp luật hiện hành cũng có thể quy định theo hướng là khi xảy ra hành vi vi phạm hợp đồng thương mại mà các bên không thể quay ngược lại thời gian để giải quyết thì có thể thực hiện hoạt động là sửa chữa lại những thiệt hại đã xảy ra như Công ước Viên 1980 đã quy định. Việc sửa chữa mà khôi phục lại được những thiệt hại đã xảy ra thì về cơ bản tinh thần của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng vẫn được giữ nguyên. https://lop2.edu.vn/
45 Cũng liên quan đến chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, để chế tài này không trở nên vô nghĩa giống như quy định được khẳng định trong Khoản 2 Điều 299 “trường hợp bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thời hạn mà bên bị vi phạm ấn định, bên bị vi phạm được áp dụng các chế tài khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình”. Quy định này của pháp luật có thể làm hoạt động thương mại nảy sinh thêm một thực tế là bên chủ thể vi phạm có thể lựa chọn các chế tài thương mại mà có lợi hơn cho chính bản thân mình. Chẳng hạn khi phát sinh vi phạm hợp đồng, bên vi phạm từ chối thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng mà lựa chọn chế tài phạt vi phạm khi mức phạt có giá trị nhỏ hơn với chi phí bên này phải bỏ ra khi thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng. Vì vậy chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng không thể hiện được tính chất răn đe của mình trong hoạt động thương mại. Vậy nên theo quan điểm của tác giả, nên quy định vấn đề này theo hướng cho dù “các bên lựa chọn các chế tài thương mại khác để thay thế chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng khi hết thời hạn thì cho dù là bất kỳ chế tài thương mại nào được áp dụng thì mức độ chi phí phải bồi thường cho bên kia là như nhau”.
Quy định này theo tác giả là hợp lý vì dù muốn hay không chủ thể vi phạm cũng không thể vì lợi ích của bản thân mà làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của những chủ thể khác và sự lựa chọn chế tài thương mại nào trong trường hợp này gần như bị loại trừ, vì vậy mà biện pháp buộc thực hiện đúng hợp đồng cũng không còn bị coi là vô nghĩa như trong quy định trước đây nữa. 4.2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế tài phạt vi phạm hợp đồng - Đối với điều khoản phạt vi phạm hợp đồng: Phạt vi phạm hợp đồng là một biện pháp chế tài thương mại được đặt ra khi các bên chủ thể có sự thỏa thuận về chế tài này. Vì thế chế tài phạt vi phạm hợp đồng sẽ không được đặt ra kể cả trong trường hợp hợp đồng có sự vi phạm mà các bên không thỏa thuận. Theo tinh thần của Luật thương mại năm 2005 thì điều khoản này phải được ghi nhận là một điều khoản trong hợp đồng, trong khi đó nếu sau khi hợp đồng đã có hiệu lực pháp luật, đã được các bên chủ thể thực hiện nhưng sau đó muốn có thỏa thuận về điều khoản phạm vi phạm hợp đồng thì các bên có thể thiết lập phụ lục hợp đồng độc lập với hợp đồng về điều khoản này hay không? Theo quan điểm của tác giả, khi hợp đồng thương mại đã được thực hiện và chưa phát sinh ra hành vi vi phạm hợp đồng thì việc các bên đã có một thỏa thuận nào đó https://lop2.edu.vn/
46 về phạt vi phạm hợp đồng mà độc lập với hợp đồng thì pháp luật nên quy định mở rộng thêm về trường hợp này nhằm đảm bảo tối đa được quyền và lợi ích cho các bên tham gia hợp đồng thương mại Liên quan đến mức phạt khi áp dụng chế tài phạt vi phạm (8%): Trong quá trình nghiên cứu tác giả không cho rằng, việc pháp luật quy định mức phạt 8% là nhằm hạn chế quyền tự do thỏa thuận của các bên bởi lẽ qua mức phạt trần thì Nhà nước có thể dễ dàng kiểm soát được sự thỏa thuận của hai bên đặc biệt là những thỏa thuận tự phát nhằm thu lợi bất chính trừ hợp đồng thương mại. Tuy nhiên với mức phạt 8% đến nay vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến trái chiều khác nhau. Bản thân tác cho rằng, trong thời gian tới Luật thương mại năm 2005 cần đưa ra quy định hợp lý hơn liên quan đến mức phạt vi phạm, cụ thể là: + Pháp luật có thể quy định rằng “mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ của hợp đồng”. Như vậy mức phạt vẫn được giữ nguyên là 8% nhưng được tính trên phần nghĩa vụ của hợp đồng mà không phải là trên toàn hợp đồng. Điều này theo tác giả là hợp lý bởi vi phạm đến đâu thì phải bồi thường đến đó, không phải vì vi phạm một nghĩa vụ mà phải gánh chịu toàn bộ nghĩa vụ theo hợp đồng và pháp luật cũng cần quy định rõ “trường hợp các bên thỏa thuận mức phạt vượt quá 8% phần nghĩa vụ hợp đồng vi phạm thì phần vượt quá sẽ không có giá trị pháp lý”. Các quy định này sẽ góp phần giải quyết tình trạng là các bên tùy tiện thỏa thuận mức phạt mà cao hơn giá trị bồi thường thực tế mà vẫn đảm bảo sự tự do thỏa thuận của các bên về mức phạt trong giới hạn mức trần mà Nhà nước đưa ra. Liên quan đến mức phạt 8% nói trên tác giả còn có quan điểm như sau, pháp luật nên có thêm quy định cụ thể cho phép Tòa án hạ mức tiền phạt mà các bên đã thỏa thuận theo yêu cầu của bên vi phạm nếu họ chứng minh được thiệt hại thực tế xảy ra thấp hợp nhiều so với mức phạt vi phạm mà các bên đã thỏa thuận tại thời điểm ký kết hợp đồng. Thông thường khi áp dụng mức phạt vi phạm hợp đồng Tòa án thường áp dụng mức 8%, vì vậy nếu có đủ căn cứ chứng minh do bên vi phạm cung cấp thì việc áp dụng mức phạt 8% theo tác giả nên được áp dụng bởi việc giải quyết bất kỳ tranh chấp nào thì cần được đặt trong lợi ích chung của tất cả các bên tham gia hợp đồng thương mại. https://lop2.edu.vn/
47 + Nếu không đưa ra mức phạt trần như trên, pháp luật hiện hành có thể bỏ đi quy định về mức phạt này. Việc bỏ hẳn mức phạt 8% thì sẽ góp phần loại bỏ sự hạn chế về quyền tự do thỏa thuận của các bên trong hợp đồng thương mại. Điều này cũng đồng nghĩa là các bên sẽ phải tự thỏa thuận để đưa ra một mức phạt vi phạm cụ thể. Quan điểm này trao quyền cho hai bên chủ thể, tự thỏa thuận với nhau bởi chính bản thân các chủ thể này sẽ phải biết được mức phạt thế nào là hợp lý. Còn nếu không đánh giá được mức phạt hợp lý thì tự các bên phải gánh chịu vì sự tự thỏa thuận của mình. Quy định này nhìn chung là nâng cao được ý thức thực hiện hợp đồng của các thương nhân cũng như đảm bảo được sự tự do của họ trong hợp đồng thương mại. 4.2.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế tài buộc bồi thường thiệt hại Hiện nay việc áp dụng chế tài buộc bồi thường thiệt hại không căn cứ vào yếu tố lỗi. Điều này được thể hiện rất rõ trên tinh thần của Điều 303 của Luật thương mại năm 2005. Trong khi các điều luật khác của Luật thương mại năm 2005 lại quy định rất rõ yếu tố lỗi như Điều 283 (quy định giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistic), Điều 266 (quy định về trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định). Vì vậy với quy định này đã tạo ra cách hiểu không thống nhất khi áp dụng chế tài buộc bồi thường thiệt hại là có cần xem xét bên vi phạm có lỗi hay không. Theo quan điểm của tác giả, nên hợp nhất hai nội dung của Điều 302 và Điều 303 vào một nội dung thống nhất vì thực tế các nội dung trong Điều 303 chỏ là nhắc lại nội dung của Điều 302 về căn cứ áp dụng chế tài buộc bồi thường thiệt hại. Ngoài ra, pháp luật hiện hành cũng xác định yếu tố lỗi sao cho có sự thống nhất trong tất cả các điều luật khi áp dụng chế tài buộc bồi thường thiệt hại bởi như phân tích trong phần thực trạng, tác giả cũng đã khẳng định tham gia hợp đồng thương mại không chỉ có cá nhân thương nhân mà còn có cả tổ chức kinh doanh, nên việc xác định yếu tố lỗi ở đây mang tính chất suy đoán. Vậy thì pháp luật nên quy định yếu tố lỗi một cách cụ thể đề cập và cần đưa ra một nguyên tắc nhất quán là sẽ áp dụng chế tài buộc bồi thường thiệt hại ngoài các căn cứ nói chung thì chủ thể vi phạm còn được xác định là có lỗi, kể cả với tổ chức kinh doanh cũng phải có sự suy đoán là có lỗi và cũng phải chịu chế tài buộc bồi thường thiệt hại. Quy định này theo tác giả là cần thiết vì nó sẽ loại trừ được trường hợp sẽ không phải bồi thường thiệt hại trong các trường hợp khách quan và bất khả kháng. https://lop2.edu.vn/
48 4.2.4. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng Hiện này xung quanh vấn đề áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng cũng còn tồn tại khá nhiều ý kiến khác nhau. Bản thân tác giả trong quá trình nghiên cứu về chế tài này cũng nhận thấy quy định pháp luật về chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng cần phải được hoàn thiện trong thời gian tới. Vì thế pháp luật hiện hành nên có thêm quy định về căn cứ áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, cũng như thời điểm chấm dứt áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng thương mại theo hướng “khi bên vi phạm thực hiện xong nghĩa vụ mà nghĩa vụ đó đã đáp ứng mong muốn của bên bị vi phạm thì thời điểm chấm dứt chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng là thời điểm bên vi phạm hoàn thành xong nghĩa vụ của mình”. Theo tác giả việc pháp luật nên có quy định cụ thể về thời điểm chấm dứt áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng là vô cùng quan trọng, bởi lẽ nó cũng sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để từ đó bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên bị vi phạm tiếp tục thực hiện hợp đồng thương mại vẫn có hiệu lực pháp lý giữa các bên. Ngoài ra pháp luật hiện hành cũng nên quy định thêm “quyền yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng thương mại sau khi áp dụng xong chế tài tạm ngừng hợp đồng thương mại cho bên bị vi phạm” vì trên thực tế, bên bị vi phạm thường viện dẫn vào việc chưa thực hiện xong chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng để cố tình không thực hiện nốt phần nghĩa vụ còn lại của mình trong hợp đồng. Do đó các nội dung trên theo tác giả cần sớm được quy định cụ thể liên quan đến chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng thương mại, nhằm đảm bảo tính phù hợp trong quy định này của pháp luật trong thực tiến đời sống xã hội, tạo hiệu quả cao trong quá trình áp dụng đặc biệt là trong hợp đồng thương mại được giao kết giữa các bên. 4.2.5. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về chế tài hủy bỏ hợp đồng Liên quan đến hậu quả pháp lý của chế tài hủy bỏ hợp đồng, theo tác giả pháp luật hiện hành cần phải quy định rõ đối với hợp đồng thương mại bị hủy bỏ một phần, thì các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận đối với phần hợp đồng bị hủy, còn phần không bị hủy bỏ thì các bên vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ đã được thỏa thuận từ trước đó. Quy định rõ ràng này sẽ giúp các bên https://lop2.edu.vn/
49 cơ cơ sở pháp lý rõ ràng trong việc giải quyết hậu quả pháp lý của hủy bỏ hợp đồng. Quyền lợi của các bên vì thế cũng được đảm bảo. Liên quan đến quy định “nếu các bên không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền”. Theo quan điểm của tác giả lợi ích ở đây cần phải được pháp luật quy định là lợi ích vật chất và mức giá của lợi ích vật chất ở đây cũng cần phải được định giá cụ thể. Tác giả cho rằng, mức giá hợp lý nhất ở đây cần xác định nên được xác định là mức giá thị trường tại thời điểm giao kết. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các bên có thể thực hiện một cách thống nhất khi xâm phạm đến quyền và lợi ích của chủ thể khác trong hợp đồng thương mại. Về căn cứ áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng: Khi xác định vi phạm cơ bản để áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng cần xác định rõ hai nội dung quan trọng sau: + Về thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng: nên coi thiệt hại là những gì không thuận lợi ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các bên và những vi phạm có ảnh hưởng lớn tới lợi ích hợp pháp của các bên mới là vi phạm cơ bản + Về mục đích của giao kết hợp đồng, có thể giải quyết theo 2 hướng sau: Thứ nhất là các bên có thể tự xác định rõ hoặc ngầm định mục đích của giao dịch trong hợp đồng. Chẳng hạn, khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa thì người bán và người mua có thể thỏa thuận với nhau là nguyên liệu được mua để phục vụ sản xuất sản phẩm thì mục đích của người mua xem như không đạt được nếu nguyên liệu không thể sử dụng để sản xuất thành phẩm được. Thứ hai, mục đích hợp đồng thương mại cần kết hợp chặt chẽ với hoạt động thương mại. Chẳng hạn khi người mua và người bán giao kết hợp đồng thương mại, hai bên không nói rõ về mục đích mua bán hàng hóa nhưng dưới góc độ thương mại thì cả hai bên đều hướng tới mục đích sinh lời. Vì vậy bất kỳ hành vi nào của bên mua làm cho bên bán nhận thanh toán chậm hoặc không được thanh toán đầy đủ thì đều dẫn đến mục đích sinh lời của bên bán không đạt được. Vì vậy từ vấn đề cụ thể này mà các chủ thể sẽ hoàn toàn nhận thực được mục đích của hợp đồng thương mại có đạt được trên thực tế hay không. 4.2.6. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ của các loại chế tài thương mại https://lop2.edu.vn/
50 - Mối quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và chế tài buộc bồi thường thiệt hại: Quy định của Luật thương mại về vấn đề này như đã phân tích trong phần thực trạng còn nằm rải rác trong nhiều điều luật khác nhau và nội dung của các điều luật đó nhìn chung là cũng có sự tương đồng lẫn nhau. Cụ thể là Điều 307 quy định “trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại trừ trường luật này có quy định khác. Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại”. Điều 316 quy định “Một bên không bị mất quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tổn thất do vi phạm hợp đồng của bên kia khi đã áp dụng chế tài khác”. Như vậy theo tinh thần của Điều 316 thì việc áp dụng chế tài buộc bồi thường thiệt hại đã bao hàm cả việc có thể áp dụng chế tài khác trong đó có chế tài phạt vi phạm. Hơn nữa nội dung của Điều 307 lại quá nhấn mạnh đến căn cứ áp dụng của chế tài phạt vi phạm mà không nhấn mạnh đến căn cứ áp dụng chế tài buộc bồi thường thiệt hại. Vậy pháp luật hiện hành trong thời gian tới cần loại bỏ Điều 307 vì quy định này là thừa do đã tồn tại Điều 316 Về mối quan hệ giữa chế tài hủy hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, tạm ngừng thực hiện hợp đồng và các chế tài khác được quy định tại các Điều 309, 311 và 314, tác giả tán đồng với quan điểm cho rằng, pháp luật cần loại bỏ hết các quy định về mối quan hệ của các chế tài nằm rải rác trong các điều luật khác nhau và sau đó là thiết kế lại nội dung chung về mối quan hệ giữa các chế tài theo hướng “Các chế tài trong thương mại có thể được áp dụng đồng thời nếu có đủ căn cứ áp dụng theo quy định của luật này trừ việc áp dụng đồng thời các chế tài hủy hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và tạm ngừng thực hiện hợp đồng”13 . Tác giả đồng tình với quan điểm bởi bản thân tác giả khi nghiên cứu chế tài thương mại cũng thấy được sự luẩn quẩn trong quy định của pháp luật. Nghiên cứu đến đâu cũng thấy quy định của pháp luật thể hiện mối quan hệ giữa các chế tài thương mại vì vậy việc áp dụng các chế tài này trên thực tế không tránh khỏi khó khăn vướng mắc và để thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn đó thì không có cách nào khác là phải thiết kế lại các quy định nói trên cho thật sự logic và đồng nghĩa 13 Hoàn thiện các quy định về chế tài trong thương mại theo Luật thương mại năm 2005, ThS Nguyễn Thị Tình & ThS Đỗ Phương Thảo, Trường đại học thương mại https://lop2.edu.vn/
T
51 Ế LUẬ Chế tài thương mại là một trong những nội dung rất quan trọng trong hoạt đồng thương mại. Chế tài thương mại có tính răn đe, giáo dục cao giúp nâng cao ý thức của các chủ thể trong hợp đồng thương mại đặc biệt là trong trường hợp một trong các bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng của mình. Vai trò to lớn này của chế tài thương mại là không thể phủ nhận do đó nhu cầu hoàn thiện chế tài thương mại trong thời gian tới là tất yếu khách quan. Nội dung chế tài thương mại gần như đã được pháp luật bao quát hết tuy nhiên trong chừng mực nhất định vẫn còn có những lỗ hổng nhất định cần phải được bổ sung và ghi nhận thêm. Chế tài thương mại trong Luật thương mại năm 2005 đã phần nào thể hiện được vai trò to lớn của mình góp phần thúc đẩy cho hoạt động thương mại phát triển. Ngoài ra chế tài thương mại còn góp phần điều tiết và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong hợp đồng thương mại. Các bên chủ thể khi thực hiện hành vi vi phạm (nếu không thuộc vào trường hợp bất khả kháng và các trường hợp được miễn trừ) thì sẽ không bị loại trừ việc bị áp dụng một hoặc nhiều chế tài thương mại cụ thể nào đó. Chế tài thương mại theo quy định của Luật thương mại năm 2005 nhìn chung đã tương đối phù hợp với xu thế chung trong quy định của các quốc gia khác trên thế giới và so với các Công ước quốc tế (trong đó có Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế). Điều này thể hiện sự phát triển trong trình độ lập pháp của Việt Nam liên quan đến các biện pháp chế tài thương mại. Mặc dù vẫn còn tồn tại những khác biệt nhất định, nhưng trong hoàn cảnh ở Việt Nam như hiện này xu thế này đã được coi là tương đối toàn diện. Vì vậy trong thời gian tới cần được sửa đổi, bổ sung cho thật sự phù hợp với giao lưu thương mại ở Việt Nam. https://lop2.edu.vn/
N
K
52 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO A. Văn bản pháp luật 1. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, ngày 28 tháng 11 năm 2013 2. Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015 3. Luật thương mại số 36/2005/QH 11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 4. Công ước Viên năm 1980 (Công ước của Liên hợp quốc về mua bán hàng hóa quốc tế) bản tiếng việt B. Sách tham khảo, giáo trình 5. TS. Nguyễn Hợp Toàn, Giáo trình Pháp luật kinh tế, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2015 6. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2015 7. PGS.TS. Ngô Huy Cương, Giáo trình Luật thương mại, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013 C. Tạp chí 8. Tác giả Dương Anh Sơn; Lê Thị Bích Thọ “Một số ý kiến về phạt vi phạm do vi phạm hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam”, Tạp chí khoa học pháp lý số 1/2005, Trang 26 9.Tác giả Nguyễn Thị Hằng Nga “Việc áp dụng chế tài phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại vào thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng trong hoạt động thương mại”, Tòa án nhân dân số 9/2006, Trang 25 27. 10. Tác giả Nguyễn Việt Khoa “Chế tài phạt vi phạm theo luật thương mại 2005”, Nghiên cứu lập pháp, 2011, Trang 46 51 11. ThS. Nguyễn Thị Tình, Ths. Đỗ Phương Thảo “Hoàn thiện các quy định về chế tài trong thương mại theo Luật thương mại năm 2005”, Dân chủ và pháp luật, 2012, Tr 33 37 12. Tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền “Một số vấn đề pháp lý về áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo quy định của luật thương mại 2005”, Khoa học pháp lý, số 3/2014, Trang 38 43 13. Tác giả Nguyễn Thanh Tùng “Bất cập trong việc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, tạm ngừng thực hiện hợp đồng trong thương mại Một số kiến nghị”, Tạp chí Luật học, số 7/2015, Trang 67 72 https://lop2.edu.vn/
53 14. Tác giả Trần Thị Nhật Ánh “Hoàn thiện quy định về chế tài bồi thường thiệt hại theo luật thương mại 2005”, Tòa án nhân dân số 5/2016, Trang 14 17 D. Luận án, luận văn, khóa luận 15. Hoàng Thị Hà Phương, Luận văn thạc sỹ “Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại Những vấn đề lý luận và thực tiễn, 2012 16. Đào Thị Ngọc Anh, Khóa luận tốt nghiệp “Các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại”, 2009 17. Nguyễn Thu Hương, Khóa luận tốt nghiệp “Chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng theo luật thương mại năm 2005”, 2015 18. Đặng Thị Cẩm Tú, Khóa luận tốt nghiệp “Những vấn đề pháp lý về chế tài thương mại tại Việt Nam”, 2016 19 Lê Thị Yến, Khóa luận tốt nghiệp “Tìm hiểu quy định pháp luật về chế tài trong thương mại”, 2004. E. Website 20. http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/81/459 25.24doi.aspx?ItemID=206123222454.21.http://hanam.gov.vn/vivn/stp/Pages/Article.aspx?Channelld=42&articleIDhttp://luatduonggia.vn.http://www.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghiencuutrao.http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/phap-luat-kinh-te.aspx?ItemID=19https://constructionlaws.word press.com/ 26. http://luatsuphamtuananh.com/trao doi nghiep vu/che tai trong hoat dong thuong mai 27. http://thongtinphapluatdansu.edu.vn 28. http://luatsuphamtuananh.com/tu van soan thao ky ket hop dong/can cu huy bo hop dong thuong mai/vn https://lop2.edu.vn/