Nguồn tham khảo: http://lophoctiengnhat.edu.vn Về mặt lịch sử, sự khác biệt trong ngôn ngữ của nam giới và phụ nữ bắt đầu được nhận thấy vào khoảng thế kỷ 14 – 15. Những phụ nữ thuộc tầng lớp xã hội cao tự tạo cho mình một cách nói lịch sự, lễ phép với những đặc trưng ngôn ngữ riêng để phân biệt với ngôn ngữ của nam giới và những phụ nữ dân dã, thuộc tầng lớp xã hội thấp, qua đó để tự khẳng định địa vị xã hội của mình. Sau đó dần dần thứ “biệt ngữ” vốn chỉ được sử dụng trong các gia đình quý tộc này được xã hội thừa nhận với tên gọi “nyoobo kotoba”, có nghĩa là ngôn ngữ của các bà vợ, rồi lan truyền rộng ra ngoài tới các tầng lớp dưới như gia đình các võ sĩ, thương nhân và tới cả các gia đình thường dân. Trải qua nhiều thế kỷ, cùng với những phát triển và biến động của ngôn ngữ nói chung, thứ “ngôn ngữ đặc trưng của phụ nữ” này vẫn được duy trì cho tới tận ngày nay, mặc dù có những thay đổi và biến động nhất định.
Theo các nhà nghiên cứu, trước thế kỷ 20, sự khác biệt giữa ngôn ngữ nam giới và phụ nữ khá lớn, đồng thời tồn tại những quy định nghiêm ngặt dành riêng cho ngôn ngữ của phụ nữ, không những trong ngôn ngữ nói mà cả trong ngôn ngữ viết. Tuy vậy, từ đầu thế kỷ 20 trở lại đây, “ngôn ngữ phụ nữ” đã thay đổi theo chiều hướng đơn giản hóa dần, tiến lại gần với ngôn ngữ chung hơn. Mặc dù vậy, hiện nay, hiện tượng giới tính của người sử dụng để lại dấu ấn trong cấu trúc ngôn ngữ này vẫn là một vấn đề được không ít nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Nhật Bản và nước ngoài để tâm đến như một trong những hiện tượng ngôn ngữ phản ánh đặc trưng xã hội điển hình. Dấu ấn này không chỉ được thể hiện trong cấp độ từ vựng mà cả ở các cấp độ khác như ngữ âm, ngữ pháp, hoạt động ngôn ngữ. Tham khảo thêm cách học tiếng Nhật nhanh nhất: http://lophoctiengnhat.edu.vn/cach-hoc-tieng-nhat-nhanhnhat.html Người ta nói rằng ngôn ngữ của phụ nữ Nhật “mềm mại” hơn, “chuẩn” hơn ngôn ngữ của đàn ông. Tính mềm mại, tính chuẩn mực – cái đặc trưng cho giới tính của phụ nữ – là đặc điểm quan trọng nhất để phân biệt ngôn ngữ của phụ nữ với ngôn ngữ của đàn ông. Các tính chất này có thể được miêu tả cụ thể qua những tiêu chí sau: 1. Các tiêu chí về từ vựng là các tiêu chí dễ nhận diện nhất. Khi nói đến sự khác biệt về cách sử dụng từ vựng giữa nam và nữ, trước tiên người ta thường nhắc đến các từ nhân xưng. Việc sử dụng từ nhân xưng của nam và nữ có những khác biệt đáng kể. Đối với ngôi thứ nhất, ngoài hai từ わたし (watashi) và わたくし (watakushi) (tôi – dùng khi nói lễ phép) mà cả nam giới và phụ nữ đều có thể sử dụng, còn có những từ chỉ phụ nữ dùng như あたし (atashi), hay chỉ nam giới dùng và hầu như không bao giờ xuất hiện trong lời nói của những phụ nữ có học như ぼ く (boku) hay おれ (ore). Đối với ngôi thứ hai cũng như vậy. Bên cạnh từ あなた (anata) là từ chung mà cả hai giới đều dùng được, phụ nữ có thể sử dụng một từ nữa là あんた (anta) như là một biến thể ngắn của từ chuẩn chung. Nhưng nam giới còn “đặc quyền” được phép dùng thêm một số từ nữa như おまえ (omae) (mày), きみ (kimi) (em)... Trong khi đó, nếu những từ này xuất hiện trong lời nói của phụ nữ thì sẽ bị coi là cách nói bất lịch sự. Có lẽ đó là vì theo quan điểm cũ của xã hội Nhật, những đối tượng thấp kém hơn cả phụ nữ để có thể bị gọi là おまえ (omae) hay きみ (kimi)... hầu như không có. Cách xưng hô này được trẻ em nghe người lớn dùng rồi bắt chước một cách rất tự nhiên ngay từ khi còn nhỏ. Trong gia đình, người chồng có thể gọi trực tiếp tên vợ, ví dụ: 京子 (Kyooko), gọi thay vai con お母さん (okaasan) (mẹ), hoặc cũng có thể gọi vợ là おまえ (mình) một cách thân mật, suồng sã. Còn người vợ, ngoài cách gọi thay con お父さん (otoosan) (bố), chỉ có thể gọi chồng một cách lễ phép あなた (anata) mà thôi. Ngoài xã hội, khi cần gọi tên đối tượng giao tiếp trực tiếp (ngôi thứ hai), hoặc người thuộc ngôi thứ ba, người Nhật thường thêm một số từ vào sau bộ phận tên để biểu thị các mức độ kính trọng. Thành phần thường được thêm, có tính trung hòa nhất là từ さん (san: 佐藤 (Satoo) → 佐藤さん (Satoo san), 山田 (Yamada) → 山田さん (Yamda san)... Từ さま (sama) thường được ghép sau tên những đối tượng thuộc bậc cao trong xã hội, rất đáng kính trọng, tương