TRUNG TÂM THẦN HỌC SEDES SAPIENTIAE Ban Triết học TẬP TỤC ĐỐT VÀNG MÃ TẠI VIỆT NAM, LỢI VÀ HẠI Sinh viên: Phạm Trọng Giáo sư: TS. Lý Tùng Hiếu Niên khóa 2017-2018 https://lop1.net/
NHẬN XÉT CỦA GIÁO SƯ …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………… XIN KHOANH TRÒN SỐ ĐIỂM Thang điểm UST Xếp hạng Thang điểm 10 1.00 Xuất sắc 9.75 10.00 1.10 9.50 1.15 9.25 1.20 9.00 1.30 Giỏi 8.75 1.35 8.50 1.40 8.25 1.45 8.00 1.55 khá 7.75 1.65 7.50 1.75 7.25 1.85 7.00 1.95 Trungkhábình 6.75 2.10 6.50 2.25 6.25 2.40 6.00 2.55 Trung bình 5.75 2.70 5.50 2.85 5.25 3.00 5.00 3.01 5.00 Rớt 4.99 1.00 Ngày…….. Tháng……. Năm……. TS. Lý Tùng Hiếu https://lop1.net/
1 MỤC LỤC 1. Dẫn nhập........................................................................................................................................2 1.1. Lý do chon đề tài.....................................................................................................................2 1.2. Mục đích nghiên cứu 3 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3 1.4. Phương pháp và nguồn tư liệu 3 2. Khái niệm và thuật ngữ dùng trong tiểu luận 3 Vàng mã..............................................................................................................................................3 3. Nguồn gốc và đặc điểm của tập tục đốt vàng mã tại việt nam..................................................3 3.1. Nguồn gốc tập tục đốt vàng mã 3 3.2. Du nhập và phát triển tại Việt Nam 6 4. Cách cử hành việc đốt vàng mã hiện nay ở Việt Nam 6 4.1. Thời điểm và sự kiện cần sử dụng vàng mã 7 4.2. Các lễ vật trong nghi thức hóa vàng........................................................................................7 4.3. Nghi thức hóa vàng...............................................................................................................10 5. Lợi ích và tác hại của tập quán dùng vàng mã.........................................................................10 5.1. Lợi ích của việc đốt vàng mã 10 5.2. Tác hại của việc đốt vàng mã 11 5.3. Các ý kiến trái chiều liên quan đến việc sử dụng vàng mã 13 6. Kết luận........................................................................................................................................14 Phụ lục ..................................................................................................... Error! Bookmark not defined. Thư mục.................................................................................................................................................1 https://lop1.net/
2 Quyết định số 308/2005/QĐ TTg ngày 25 11 2005 của Thủ tướng Chính phủ
3 Công văn 031 /CV HĐTS ngày 12 tháng 02 năm 2018 Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam. 4 Nguyễn Văn Phải, Chuỗi cung ứng và tiêu thụ hàng mã (Nghiên cứu trường hợp một số hộ gia đình ở thôn Yên Cốc, xã Hồng Phong, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội), Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Nhân Học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội 2016, tr. 2. https://lop1.net/
2 1. Dẫn nhập 1.1. Lý do chon đề tài Những năm gần đây việc sản xuất, kinh doanh và sử dụng vàng mã ở nước ta phát triển mạnh mẽ, kèm theo đó là những biến tướng, cũng như những tác động tiêu cực của nó đối với xã hội. Vàng mã hiện nay đang là đề tài “nóng” trên các trang mạng, các trang báo, trong quần chúng nhân dân. Đây cũng là vấn đề đang làm băn khoăn những nhà quản lý trong việc xác định một thái độ ứng xử đúng đắn đối với vàng mã. Từ năm 1998 đến nay, nhiều văn bản pháp luật liên quan đến việc sử dụng vàng mã được đưa ra Quan sát cho thấy, mức độ quy định của các văn bản pháp luật về việc sử dụng vàng mã ngày càng chặt. Từ việc “vận động nhân dân bỏ dần tục đội mũ rơm, chống gậy, rắc vàng mã dọc đường ”1 , kế đến là “hạn chế tối đa việc rắc vàng mã, tiền âm phủ trên đường”,2 đến việc đưa ra những mức hình phạt cụ thể như trong nghị định Nghị định 158/2013/NĐ CP năm 2013: “Phạt tiền từ 400.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi đốt vàng mã không đúng nơi quy định tại nơi tổ chức lễ hội, di tích lịch sử văn hóa”. Bên cạnh đó, Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng đã ra công văn kêu gọi các tăng, ni và phật tử trong cả nước “loại bỏ mê tín dị đoan, đốt vàng mã tại các cơ sở thờ tự Phật giáo.”3 Có thể nói đây là một sự cố gắng của Phật giáo trong vấn đề bài trừ những tập tục sai lạc với giáo lý của nhà Phật đặt biệt là việc sử dụng vàng mã trong giới tăng, ni và phật tử Hiện nay có hai luồng quan điểm chính về vấn đề sử dụng vàng mã. Luồng quan điểm thứ nhất cho rằng, việc sử dụng hàng mã là lãng phí, một hủ tục cần phải loại bỏ. Trong khi đó, luồng quan điểm thứ hai cho rằng, nó là một nét tín ngưỡng thể hiện những giá trị nhân văn của người đang sống đối với người đã khuất, đối với thần thánh nên hạn chế và đưa nó về bản chất ban đầu vốn có của nó, chứ không nên loại bỏ 4 Mặc dù hiện tại có khá nhiều bài viết liên quan đến tập tục đốt vàng mã trên các trang mạng, cũng như báo giấy. Tuy nhiên, đa phần các bài viết chỉ nêu lên một vài khía cạnh của vàng mã; hoặc chỉ nêu lên nguồn gốc, hoặc chỉ nêu lên những ý nghĩa của vàng mã, hay đa số là các bài viết bài xích, lên án tập tục này. Hiện vẫn chưa thấy có bài viết nào đưa ra một cái nhìn bao quát, khách quan về việc sử dụng vàng mã, mặt tích cực, tiêu cực của nó trong xã hội Việt Nam hiện nay. 1 Thông tư số 04/1998/TT BVHTT ngày 11 7 1998.
3 Vì vậy, em chọn đề tài “TẬP TỤC ĐỐT VÀNG MÃ TẠI VIỆT NAM, LỢI VÀ HẠI” làm đề tài tiểu luận kết thúc môn. 1.2. Mục đích nghiên cứu Nhằm cung cấp một cái nhìn tổng quát và khách quan về việc sử dụng vàng mã hiện nay tại Việt1.3.Nam.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng và phạm vi nghiên cứu là hoạt động đốt vàng mã tại Việt Nam hiện nay. 1.4. Phương pháp và nguồn tư liệu Phương pháp nghiên cứu trong tiểu luận này là phương pháp phân tích các nguồn tài liệu thứ cấp, tức, nghiên cứu các tài liệu thành văn có nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu. Sử dụng lý thuyết cơ cấu chức năng của Xã hội học trong việc đánh giá một hoạt động văn hóa, cụ thể ở đây là tập tục đốt vàng mã, nhằm đưa ra những nhận định khách quan về hệ quả chức năng của nó đối với sự vận hành của xã hội. Nguồn tư liệu là các tài liệu thứ cấp liên quan đến đề tài nghiên cứu như: sách, luận văn, tạp chí, các trang mạng internet… 2. Khái niệm và thuật ngữ dùng trong tiểu luận Vàng mã Vàng mã (đồ mã, hàng mã) là đồ vật được làm bằng giấy và các vật liệu dễ cháy khác để đốt (còn gọi là hóa) sau khi cúng cho người chết sử dụng ở âm phủ. Các hàng mã có thể là quần áo, tiền bạc, các loại gia súc hay các đồ dùng khác trong đời sống thường ngày của con người.5 Ngày nay, các sản phẩm vàng mã trên thị trường rất đa dạng. Ngoài những mẫu mã truyền thống như tiền giấy, trang phục hay vật dụng lao động, người ta còn “cập nhật” những sản phẩm “thời thượng” trên thị trường như điện thoại thông minh, máy tính, xe hơi, máy bay, v.v. Theo Nguyễn Văn Phải,6 người buôn bán và người sử dụng đều chia vàng mã thành: tiền vàng và đồ mã. Trong đó, tiền vàng là phương tiện trao đổi, đồ mã là đồ dùng sinh hoạt. Trong tiểu luận này, khái niệm vàng mã được dùng chung cho cả tiền vàng và đồ mã. 3. Nguồn gốc và đặc điểm của tập tục đốt vàng mã tại việt nam 3.1. Nguồn gốc tập tục đốt vàng mã 5 Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam, Từ điển bách khoa Việt Nam (tập 1), Nxb Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam, 1995, tr. 839. 6 Nguyễn Văn Phải, Chuỗi cung ứng và tiêu thụ hàng mã (Nghiên cứu trường hợp một số hộ gia đình ở thôn Yên Cốc, xã Hồng Phong, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội), Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Nhân Học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội 2016, tr. 10. https://lop1.net/
4 Có ý kiến cho rằng, tục hoá vàng hay đốt vàng mã là một hiện tượng văn hoá nội sinh có truyền thống lâu đời và gắn liền với truyền thống thờ cúng tổ tiên ông bà của người Việt cổ. Nhưng tới nay vẫn chưa có bất cứ tài liệu nào cho thấy vàng mã được tạo ra bởi người Việt. Phần lớn các nhà nghiên cứu đồng tình quan điểm rằng, tập tục đốt vàng mã không phải là sáng kiến của một tộc người Việt Nam nào, mà nó xuất phát từ Trung Hoa. Một trong những tác phẩm đề cập đến vàng mã sớm nhất là tác phẩm Vân đài loại ngữ (1773)7 của Lê Quý Đôn. Nội dung liên quan đến vàng mã trong tác phẩm này được nhiều nhà nghiên cứu hiên nay sử dụng. Trong tác phẩm Vân đài loại ngữ, Lê Quý Đôn đã đề cập về sự xuất hiện của vàng mã ở Trung Hoa như sau: “Đến đời Đường Huyền Tông8, việc quỷ thần phiền nhiễu quá, lấy tiền đâu cho đủ. Vương Dư làm tiền giấy thay cho ngọc và lụa.” Như vậy, dưới thời Đường Huyền Tông, Vương Dư đã chế ra tiền giấy thay cho tiền thật và các vật dụng sinh hoạt khác để đốt cho các vong linh, quỷ và thần. Đến đời Túc Tông (756 761) Vương Dư được đặt làm từ tế sứ (quan coi tế lễ ở các đền), tiếp tục dùng vàng mã để phục vụ cho các lễ tế. Cũng theo Lê Quý Đôn, người Trung Hoa vào thời vua Ngũ Đại (907 959) đã bắt đầu chế ra mũ áo mã (tức đồ mã) để đốt trong các dịp tang ma, lễ tế Kế đến là bài viết của hòa thượng Thích Tố Liên được đăng trên báo Đuốc Tuệ, số ra năm 1952, tựa đề "Nguyên nhân tục lệ đốt vàng mã". Bài viết là một nổ lực của vị hòa thượng trong việc chấn hưng Phật giáo, bài trừ mê tín, dị đoan trong Phật giáo Việt Nam, trong đó có tập tục đốt vàng mã. Trong bài viết, hòa thượng Thích Tố Liên đã nêu lên một cách khá chi tiết về nguồn gốc phát xuất của tập tục đốt vàng mã cũng như sự phát triển của vàng mã qua các thời kỳ ở Trung Hoa. Sau đây là trích đoạn của bài viết về nguồn gốc và sự phát triển của tập tục đốt vàng mã ở Trung Hoa: Đọc kinh Dịch nhà Nho, chúng ta thấy rằng: tục chôn người chết của người Trung Hoa về đời thượng cổ, một khi có người chết cứ để thế đem chôn, không quan không ván, lại cũng không khanh phần mộ gì cả. Đến đời vua Hoàng đế (267 TCN) cho rằng: con cháu đối với ông bà, cha mẹ trong việc mai táng cẩu thả như thế là thiếu bổn phận, mới sai ông Xích Xương sáng chế ra quan, quách để chôn cất. Trải qua đời Hoàng đế, đến đời Đường Ngu, tục lệ chôn cất người chết chỉ có thế Đời Hán Hoa đến năm Nguyên Hưng nguyên niên (năm 105), ông Thái Luân bắt đầu lấy vỏ cây dó và vải rách, lưới rách đem chế ra giấy, vì đã có giấy, ông VươngDũ liền chế ra vàng bạc, quần áo,... đều bằngđồ giấy để cúngrồi đốt đi để thaythế cho vàng bạc và đồ dùngthật trong khi tang ma, tế lễ. Sách Thông Giám cương mục có chép: vì vua Huyền Tông9 7 Vân đài loại ngữ (1773), Lê Quý Đôn, biên dịch Trần Văn Giáp, hiệu đính Cao Xuân Huy, nxb Văn hóa Thông tin, 1962. Phần nói về vàng mã nằm từ trang 192 đến trang 193 . 8 Đường Huyền Tông, trị vì từ 712 756, vị Hoàng đế thứ 7 của Triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng_Huy%E1%BB%81n_T%C3%B4ng. 9 Huyền Tông hay còn gọi là Đường Huyền Tông. https://lop1.net/
5 mê thuật quỷ thần mới dùng ông Vương Dũ làm quan Thái thường bác sỹ để coi việc chế vàng mã dùng khi nhà vua có tế lễ Về tục đốt vàng mã vào ngày rằm tháng 7 là do xuất phát từ câu chuyện: Vào thời vua Đại Tông nhà Đường (762 779), nhằm lúc Phật giáo cực thịnh, một vị sư tên là Đạo Tăng muốn cho dân chúng theo Phật giáo, bèn lợi dụng tục đốt vàng mã của người dân, vào tâu với nhà vua rằng: “Rằm tháng Bảy là ngày của Diêm Vương ở âm phủ xét tội phúc thăng trầm, nhà vua nên thông sức cho thiên hạ, trong việc lễ cúng gia tiên vào ngày rằm tháng Bảynên đốt nhiều vàng mã để cúng biếu các vong nhân dùng”. Vua Đại Tông đương muốn được lòng dân nên rất hợp ý với lời tâu của Đạo Tăng, liền hạ chiếu cho thiên hạ, từ đó nhân dân lại thi nhau đốt vàng mã vào ngày rằm tháng Bảy để kính biếu gia tiên. Nhưng chẳng bao lâu lại bị giới Tăng sĩ Phật giáo công kích bài trừ, vì cho rằng việc đốt vàng mã vào ngày lễ trọng của Phật giáo đã làm cho cái lệ ngày 15/7 không còn có chính nghĩa nữa. Phần lớn dân chúng Trung Hoa hồi đó đã tỉnh ngộ, cùng nhau bỏ tục đốt vàng mã, làm cho cácnhàchuyênsinhsốngvềnghềnghiệpvàngmãgầnnhưbịthấtnghiệp, nhất là người Vương Luân, dòng dõi của Vương Dũ, đã bịa đặt chế ra đồ vàng mã. Thất nghiệp, Vương Luân mới bàn cùng với các bạn đồng nghiệp âm mưu phục hưng lại nghề nghiệp hàng mã. Một người giả cách ốm mấy hôm, rồi tin chết được loan ra, còn cái xác giả chết kia lập tức được khâm liệm vào quan tài, đã có lỗ hổng và sẵn sàng thức ăn, nước uống. Đương khi xóm làng đến thăm viếng đông đúc, Vương Luân với gia nhân và họ hàng của ông, đem cả hàng ngàn loại đồ mã trong đó có cả hình nhân thế mệnh ra cúng người chết. Họ bày đàn cúng các quan thiên phủ, địa phủ và nhân phủ, khi mọi người đương suýt xoa khấn khứa, bỗngtrăm nghìn mắt như một, trông thấy hai năm rõ mười, cỗ quan tài rung động lên. Bấy giờ, Vương Luân đã đứng sẵn bên quan tài, người giả chết kia cũng lò dò ngồi dậy, giả vờ lù dù, trông trước, trông sau, mới bước từ quan tài ra, với một điệu bộ như người chết đi sống lại, rồi thuật lại chuyện với côngchúng rằng: “Các thần thánh trong tam, tứ phủ vừa nhận được hình nhân thế mệnh cho tôi, với tiền bạc và đồ mã, nên mới tha cho ba hồn bảy vía của tôi được phục sinh về nhân thế”. Công chúng lúc đó ai cũng tưởng thật, cho rằng hình nhân có thể thế mạng được và thánh thần trong tam, tứ phủ cùng ăn lễ đồ mã, tăng phúc, giảm tội và cho tăng thêm tuổi thọ. Từ đấy các nghề hàng mã lại được phục hưng một cách nhanh chóngvì không nhữnglinh hồn các gia tiên dùngvàngmã, mà đến cả thiên, địa, quỷ, thần trong tam, tứ phủ cũng tiêu dùng đồ vàng mã. Chuyện này còn chép rõ ràng ở sách Trực ngôn cảnh giáo. 10 Như chúng ta thấy, ở hai tác phẩm này có sự đồng nhất về thời gian xuất hiện vàng mã là vào thời vua Huyền Tông (712 756). Tuy nhiên, tên vị quan đã chế ra vàng mã lại không trùng khớp (có thể do cách dịch, hoặc lỗi trong khi ghi chép). Lê Quý Đôn 10 Hòa Thượng Thích Tố Liên, Nguyên Nhân Tục Đốt Vàng Mã, http://chimviet.free.fr/quehuong/thichtolien/ThichToLien_TucDotVangMa.htm, truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2018. https://lop1.net/
11 X. Tín ngưỡng Việt Nam (quyển hạ), Toan Ánh, nxb Văn nghệ, TP. HCM, 2000, tr. 368.
12 X. Nguyễn Văn Phải, Chuỗi cung ứng và tiêu thụ hàng mã (Nghiên cứu trường hợp một số hộ gia đình ở thôn Yên Cốc, xã Hồng Phong, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội), Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Nhân Học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội 2016, tr. 59. https://lop1.net/
6 cho rằng, người chế ra vàng mã là Vương Dư, còn hòa thượng Thích Tố Liên, theo sách Trực ngôn cảnh giáo, cho rằng do Vương Dũ. Tuy nhiên, cả hai đều cho rằng vàng mã được tạo ra bởi người Trung Hoa vào thời vua Huyền Tông, nhà Đường. Đây cũng là quan điểm của Toan Ánh trong tác phẩm Tín ngưỡng Việt Nam11 , và đó cũng là quan điểm được nhiều nhà nghiên cứu hiện nay sử dụng. 3.2. Du nhập và phát triển tại Việt Nam Cho đến hiện nay, chưa có bất cứ tài liệu nào cho ta biết nghề làm hàng mã, tục đốt vàng mã du nhập, xuất hiện ở nước ta chính xác từ bao giờ. Theo các nhà nghiên cứu có lẽ vàng mã được du nhập vào nước ta trong thời kỳ Bắc thuộc (111 TCN 938 SCN). Ở nước ta, trước Đổi mới, dưới sự ảnh hưởng của mạnh mẽ của hệ tư tưởng vô thần, nhiều loại hình tôn giáo, tín ngưỡng và hoạt động thờ cúng bị hạn chế . Các hoạt động như bói toán, hầu đồng, gọi hồn cũng như đốt vàng mã bị coi là mê tín dị đoan và bị nghiêm cấm hoạt động. Việc sản xuất, tiêu thụ vàng mã tạm thời lắng xuống. Bước vào công cuộc đổi mới đất nước, được đánh dấu từ năm 1986, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có những đổi mới tư duy, đường lối và chính sách về tôn giáo, tín ngưỡng. Điều này được Đảng và Nhà nước Việt Nam cụ thể hóa bằng hàng loạt các văn bản như: Nghị quyết số 24, ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới Tiếp theo đó là một loạt các văn kiện, quy định mới về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng được đưa ra từ năm 1990 đến nay.12 Có thể nói, các văn bản trên đều đề cập đến vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng trên tinh thần đổi mới. Một trong những điểm quan trọng của tinh thần đổi mới là “tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân”. Từ đó, nhiều vấn đề cơ bản, quan trọng của các tôn giáo đã cơ bản được giải quyết. Cùngvới đó, nhiều tôn giáo, tín ngưỡng dân gian đã “trở lại” và “hồi sinh”. Một trong những biểu hiện của sự hồi sinh tôn giáo là sự trỗi dậy của nhiều hoạt động tôn giáo mà trước đây quan niệm là mê tín: bói quẻ, xin sớ, bấm độn, xóc thẻ, xem tử vi, xem phong thủy, hầu đồng, gọi hồn, chạy đàn, cúng sao giải hạn Theo đó, vàng mã cũng có điều kiện thuận lợi để phát triển. Trong những năm gần đây, việc sản xuất, kinh doanh, sử dụng vàng mã đã phát triển mạnh mẽ trong xã hội Việt Nam, song song với nó là những biến tướng cũng như những ảnh hưởng tiêu cực đối với xã hội 4. Cách cử hành việc đốt vàng mã hiện nay ở Việt Nam
7 4.1. Thời điểm và sự kiện cần sử dụng vàng mã Thông thường, các nghi lễ thờ cúng và đốt vàng mã vào các dịp lễ trong năm như: cúng ông Công, ông Táo; cúng Tất niên, cúng Giao thừa và 3 ngày tết; cúng các ngày rằm, mồng một trong tháng. Phạm vi cúng lễ diễn ra ở từng cá nhân, từng hộ gia đình, trong phạm vi làng và cả những nơi sinh hoạt tín ngưỡng khác trong phạm vi cả nước (đình, chùa, miếu, phủ). Ngoài các dịp lễ như đã kể trên, người dân còn cúng và đốt vàng mã vào các dịp đặc biệt khác như: cúng thôi nôi đầy tháng, trước ngày đi xa (có thể là đi học, đi làm ăn), lễ động thổ xây nhà, lễ tân gia, mở cửa hàng, học hành thi cử; thăng quan tiến chức hay các dịp tang ma, cúng giỗ của gia đình, cúng dâng sao giải hạn, trừ tà, cắt tiền duyên, gia đình có bất ổn (bản thân hoặc con cái ốm đau, bệnh tật), v.v..13 4.2. Các lễ vật trong nghi thức hóa vàng Đồ vàng mã sử dụng trong các nghi lễ tại Việt Nam hết sức đa dạng. Chủng loại và số lượng cũng rất khác nhau trong các ngày lễ, các sự kiện. Hơn nữa, tùythuộc vào điều kiện kinh tế của người sử dụng mà các lễ vật bằng vàng mã sẽ có sự khác. Sau đây xin được nêu lên các lễ vật bằng vàng mã trong một số ngày lễ quan trọng trong năm. Thờ Mẫu Vàng mã là một lễ vật đặc biệt quan trọng trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Nó dường như không thể thiếu trong các buổi lễ. Cũng vậy, số lượng và các loại vàng mã theo quy định cũng rất đa dạng. Đầu tiên là những đồ mã trong lễ “Phát Tấu” lễ này được tiến hành ngày hôm trước của ngày ra hầu đồng với ý nghĩa thỉnh Thánh, thỉnh Phật về chứng giám đàn tràng cho gia chủ để trở thành một tân đồng. Ngoài các đồ vật, lễ vật cần thiết theo quy định ra đồng, đồ mã bao gồm: bộ mũ gồm 5 mũ quan 5 màu, 5 ngựa nhỏ, 5 bộ quần áo và hia, nghìn vàng. Các đồ mã này được dâng lên các quan sứ giả, thỉnh nhờ các ngài hay thanh đồng đi mời chư vị trong tứ phủ. Tiếp đến là các đồ mã chuẩn bị trong ngày Mở phủ: trong lễ này đồ mã được sử dụng rất nhiều với nhiều kiểu loại khác nhau và được quy định hết sức chặt chẽ: Bộ mũ: bao gồm 4 mũ bình thiên 4 màu (đỏ, xanh, trắng, vàng) của 4 vị vua cha; 2 mũ cánh chuồn (màu đỏ, màu tím) cho Nam Tào, Bắc Đẩu; mũ chúa đàn (vị quan giám sát đàn lễ) màu vàng hoặc trắng, đây là loại mũ kiểu đuôi trĩ; 5 mũ cánh chuồn 5 màu (đỏ, xanh, trắng, vàng, tím) cho 5 vị quan (đệ 13 Nguyễn Tiến Hưng, Thực hành đốt vàng mã ở Hà Nội hiện nay (Qua khảo sát ở Đình Thôn, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội), Luận văn Thạc sỹ Văn hóa học, 2016, tr. 25. https://lop1.net/
Ngoài ra, đi cùng với các đồ mã để cúng các quan, thần linh còn có một mâm đồ mã cúng cho chúng sinh (những cô hồn, linh hồn chết không cha mẹ, không anh em, không có người thân chăm nom, thờ phụng), đồ mã này gồm: quần áo (áo ngắn tay, quần dài), giấy tiền xu, giấy vàng (vàng lá). Các đồ mã được sắp đặt theo một quy định bắt buộc và sau khi làm lễ xong được đem đi đốt tại các điểm hóa vàng.14 Thờ cúng thành hoàng Vào các ngày đầu tháng và ngày rằm hàng tháng người dân thường dành chút thời gian để đến các cơ sở thực hành tín ngưỡng tại địa phương: Đình, chùa Đình Thôn và Miếu thờ đức thánh Cả. Lễ vật và đồ mã tương đối đơn giản có thể chỉ là bánh kẹo, hoa quả, thẻ hương và một lễ vàng mã (gồm một sấp gồm khoảng 10 lá tiền vàng các loại) được sửa soạn và dâng lên các ban thờ ở đình, chùa, miếu. Đồ mã sau khi dâng cúng được hóa ở lò hóa vàng tại nơi thờ tự 15 Cúng ông Công, ông Táo (23 tháng Chạp) Lễ cúng Táo quân được chuẩn bị hết sức cẩn thận, ngoài mâm cúng mặn ra thì thứ không thể thiếu trong các gia đình là bộ đồ mã gồm: Bộ thần linh và bộ ông Công ông Táo. Bộ thần linh gồm một bộ quần, áo, mũ, hia; bộ ông Công ông Táo gồm ba bộ quần áo, hia, mũ (hai mũ đàn ông và một mũ đàn bà). Mũ dành cho các ông Táo thì có hai cánh chuồn, 14 Nguyễn Tiến Hưng, Thực hành đốt vàng mã ở Hà Nội hiện nay (Qua khảo sát ở Đình Thôn, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội), Luận văn Thạc sỹ Văn hóa học, 2016, tr. 25 28. 15 Nt., tr. 28. https://lop1.net/
8 nhất, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ và đệ ngũ); mũ đương niên, đương cảnh; mũ rồng của cửu tinh đại diện, cửu cung bát quái;Tiếp đến là thuyền rồng, voi, ngựa. Thuyền rồng có màu trắng biểu hiện cho thủy phủ; voi có kích thước tương đối to được làm bằng giấy màu vàng để dâng cho các quan ở miền sơn trang; ngựa có kích thước lớn, màu đỏ biểu hiện cho đồng bằng; ngoài ra còn có các đồ mã là các bè, mảng có người chèo màu xanh, màu trắng dành cho các cô các cậu; Một trong các đồ mã tứ phủ phải kể đến là hình ông Lốt rắn (biểu hiện các quan bảo vệ cho mẫu về đường dưới nước), thường được làm theo 4 màu: đỏ, xanh, vàng, trắng (đối với Lốt tiến về thoải phủ có màu trắng với hình thức 3 đầu 9 đuôi hoặc 3 đầu 1 đuôi). Đối với đồ mã gắn với chúa núi rừng là hình chúa sơn trang cùng với hai chầu hầu cận: chầu Quỳnh, chầu Quế và 12 cô sơn trang theo hầu hai chúa. Đặc biệt, trong dàn mã tứ phủ còn có 5 hình nhân nam hoặc nữ có đai chéo (tùy theo giới tính của chủ lễ).
9 mũ Táo bà thì không có cánh chuồn. Màu sắc của mũ, áo hay hia ông Công thay đổi hàng năm theo ngũ hành: năm hành kim thì mũ màu vàng, năm hành mộc thì dùng mũ màu trắng, năm hành thủy thì mũ màu xanh, năm hành hỏa thì dùng màu đỏ, năm hành thổ thì dùng màu đen. Ngoài ra còn có 3 đinh tiền vàng các quan kèm theo, cá chép bằng giấy hoặc cá chép sống.16 Cúng Giao thừa và những ngày Tết năm mới Lễ cúng Giao thừa đặc biệt quan trọng đối với các gia đình với ý nghĩa bỏ đi những điềm xấu và đón chờ những điềm tốt, điềm lành cho gia đình vào dịp năm mới. Có thể nói, đây là thời khắc quan trọng của tất cả các gia đình nên vì thế việc thực hiện các nghi lễ được chuẩn bị cẩn thận và thực hiện chu đáo. Đồ mã bao gồm rất nhiều loại: Đối với mâm cúng ngoài sân gồm bộ quần áo của quan Hành khiển (hai bộ: một bộ cho quan Hành khiển cũ, một cho quan Hành khiển mới), 1 ngựa, nghìn vàng. Đối với mâm cúng trong nhà đồ mã gồm: một bộ ông bà thần trụ đất và tiền vàng. Các đồ mã để cúng trong ngày Tết gồm: nghìn vàng; 3 đến 5 đinh tiền vàng (tiền gia tiên); vàng lộc; ngoài ra tùy thuộc vào từng gia đình mà có thêm rất nhiều đồ mã khác: quần áo, nhà cửa, xe cộ, các vật dụng gia đình và vật dụng giải trí khác…17 Cúng các ngày đầu tháng, rằm số lượng đồ mã ở các gia đình là khác nhau tùy thuộc vào gia chủ nhưng nhìn chung đều đơn giản, không quá cầu kỳ, chỉ gồm mấy xấp tiền giấy, một vài thếp tiền vàng,… 18 Lễ cúng rằm tháng Giêng (Lễ Thượng nguyên)
Nhiều người dân Việt rất coi trọng cúng rằm tháng Giêng:“Lễ Phật quanh năm không bằng rằm tháng giêng”. Vào ngày này, với mục đích cầu mong tài lộc, dâng sao giải hạn đầu năm nên người dân sắm sửa lễ cúng rất trang trọng, ngoài mâm cỗ (cỗ chay hoặc cỗ mặn tùy từng gia đình) thì phải có đầy đủ hương hoa trà rượu, đặc biệt là đồ mã. Đồ mã cúng rằm tháng giêng bao gồm: 1 bộ bà chúa đất gồm đầy đủ quần áo, mũ, hia; 1 ông ngựa đỏ gồm cả quần áo, roi, cờ lệnh; nghìn vàng và nhiều đồ mã khác cho người thân của gia đình.19 Lễ cúng rằm tháng Bảy (lễ Xá tội vong nhân hay Vu Lan): 16 Nguyễn Tiến Hưng, Thực hành đốt vàng mã ở Hà Nội hiện nay (Qua khảo sát ở Đình Thôn, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội), Luận văn Thạc sỹ Văn hóa học, 2016, tr. 30 32. 17 Nt., tr.32 34. 18 Nt., tr. 26 27. 19 Nt., tr. 37. https://lop1.net/
10 Trong ngày này người dân thường sửa soạn 3 mâm lễ để cúng Phật; cúng thần linh, gia tiên và cúng chúng sinh. Đồ mã dành cho gia tiên như: quần áo, giày dép, ngựa, các vật dụng trang sức, người giúp việc đến những vật hiện đại: nhà cao tầng, xe ô tô, xe máy, điện thoại,...Trên mâm cúng chúng sinh lễ vật gồm có: Tiền vàng từ 15 lễ trở lên, tiền chúng sinh (tiền chinh/xu), hoa, quả 5 loại 5 mầu (ngũ sắc); quần áo chúng sinh từ 20 đến 50 bộ với nhiều màu sắc (xanh lam, xanh lá mạ, vàng, hồng,...).20 Ngoài ra còn có nhiều dịp lễ, sự kiện quan trọng khác trong năm như cúng thôi nôi đầy tháng, trước ngày đi xa (có thể là đi học, đi làm ăn), lễ động thổ xây nhà, lễ tân gia, mở cửa hàng, học hành thi cử; thăng quan tiến chức hay các dịp tang ma, cúng giỗ của gia đình, cúng dâng sao giải hạn, trừ tà, cắt tiền duyên, gia đình có bất ổn (bản thân hoặc con cái ốm đau, bệnh tật), v.v.. Đồ vàng mã cho các dịp nàythường có phần đơn giản hơn và cũng tùythuộc vào điều kiện kinh tế của từng cá nhân. 4.3. Nghi thức hóa vàng Nghi thứchóavàngmã thườngđi kèm với lễ cúng, vàthườngđược cử hànhsau lễ cúng. Nghi thức hóa vàng chính là hành động đốt các loại vàng mã được chuẩn bị. Trong buổi lễ, nếu vàng mã được hóa cả cho thần và cho gia tiên thì phần tiền vàng của thần phải được hóa trước rồi mới đến phần của gia tiên để tránh nhầm lẫn.21 5. Lợi ích và tác hại của tập quán dùng vàng mã 5.1. Lợi ích của việc đốt vàng mã Là một cách để tỏ lòng hiếu thảo, quan tâm đến những người đã khuất Đây là quan niệm rất sâu sắc của người Việt mà cũng không ai giải thích được đúng sai. Chết không phải là hết mà là chuyển từ thế giới bên nàysang thế giới bên kia và người mất cần những vật dụng thiết yếu đó để tiếp tục duy trì cuộc sống ở một thế giới khác. Đây không phải là một phong tục vu vơ, nó được hình thành từ quan niệm lâu đời, quan niệm của tình cảm là sợi dâytình cảm nối giữa người sống và người chết. Khi người sống “hóa” những vật dụng, tiền bạc bằng vàng mã cho người đã khuất, bản thân họ sẽ thấy ấm lòng.22 Khỏi phải chôn các đồ vật thật gây tốn kém 20 Nguyễn Tiến Hưng, Thực hành đốt vàng mã ở Hà Nội hiện nay (Qua khảo sát ở Đình Thôn, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội), Luận văn Thạc sỹ Văn hóa học, 2016, tr. 37 39. 21 X. GS. Ngô Đức Thịnh, Thời gian và cách chuẩn bị mâm cỗ cúng hóa vàng Tết Mậu Tuất, https://laodong.vn/xa hoi/thoi gian va cach chuan bi mam co cung hoa vang tet mau tuat 591891.ldo, truy cập ngày 27 05 2018. 22 GS. Ngô Đức Thịnh, Đốt vàng mã thế nào mới là điều đáng nói, https://baomoi.com/gs ngo duc thinh dot vang ma the nao moi la dieu dang noi/c/18517576.epi, truy cập ngày 25 05 2018. https://lop1.net/
11 Việc đốt vàng mã thể hiện sự biết ơn, sự tôn kính không chỉ người sống đối với người chết và thần thánh mà còn giữa người sống đối với người sống. Điều đó bắt nguồn từ truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của người Việt Nam.23 Dù không biết đích thực sự tồn tại của thế giới bên kia, sự sống của người cõi âm nhưng khi thắp nén hương, đốt vàng mã xong, chắc hẳn ai ai trong chúng ta cũng thấy ấm lòng và có sự tưởng nhớ tới tổ tiên.24 Là một phần trong các nghi lễ tôn giáo, tín ngưỡng Vàng mã là một trong những vật phẩm tôn giáo không thể thiếu trong các nghi lễ tôn giáo, nhất là trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Vàng mã không chỉ là một trong nhưng vật phẩm trong nghi lễ, mà còn là vật trang trí tạo nên tính thẩm mỹ và sự thành kính tại một không gian linh thiêng. Quan trọng hơn, vàng mã giúp tạo dựng “một thế giới thực” cho những người dự lễ theo cách tưởng tượng của họ. Nói cách khác, nó giúp cho nghi lễ thêm trang trọng, thành kính và thật hơn. Niềm tin về sự che chở của thần thánh và tổ tiên Thông qua hành vi “gửi” hàng mã, người sống mong muốn nhận lại sự che chở, phù hộ từ tổ tiên và thần thánh.25 Đây có lẽ là một giá trị quan trọng của hàng mã. Phát xuất từ quan niệm “có qua, có lại”, người ta tin rằng nếu những người còn sống “chăm lo” một cách chu đáo cho vong linh những người đã khuất hay thần thánh, thì đổi lại họ sẽ nhận được sự phù hộ, độ trì từ các những người đã khuất, các bậc thần thánh mà họ tin thờ Đối với những người chế tác, kinh doanh vàng mã. Hiện nay, việc sản xuất, kinh doanh hàng mã đã giải quyết nhu cầu công ăn việc làm cho rất nhiều người dân. Nó cũng mang lại cho các gia đình nguồn thu nhập ổn định. Theo giấy đăng ký kinh doanh các doanh nghiệp trên cả nước có khoảng trên 40 cơ sở, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh vàng mã.26 Nhiều làng nghề sản xuất vàng mã được mọc lên. Có những cơ sở sản xuất, kinh doanh vàng mã thu về hàng trăm tỉ đồng mỗi năm.27 Như vậy nguồn lợi về kinh tế từ việc sản xuất và kinh doanh vàng mã là rất lớn. 5.2. Tác hại của việc đốt vàng mã 23 Nguyễn Văn Phải, Chuỗi cung ứng và tiêu thụ hàng mã (Nghiên cứu trường hợp một số hộ gia đình ở thôn Yên Cốc, xã Hồng Phong, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội), Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Nhân Học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội 2016. 24 GS. Ngô Đức Thịnh, Đốt vàng mã thế nào mới là điều đáng nói, https://baomoi.com/gs ngo duc thinh dot vang ma the nao moi la dieu dang noi/c/18517576.epi, truy cập ngày 25 05 2018. 25 Nt., tr. 84. 26 Quang Thắng, Những công ty nào đang 'hái ra tiền' nhờ vàng mã?, https://news.zing.vn/nhung cong ty nao dang hai ra tien nho vang ma post821971.html, truy cập ngày 27 05 2018. 27 Nt. https://lop1.net/
Trong những năm gần đây, việc sữ dụng vàng mã bị lạm dụng quá đà, gây phản cảm, sai lệch bản chất, giá trị, gây lãng phí, ô nhiễm môi trường và nhất là nguy cơ mất an toàn do cháy nổ Theo PGS. Lê Quý Đức, “Vốn ý nghĩa của tập tục này là mong người chết cũng có được cuộc sống đủ đầy, điều đó cũng thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Nhưng hiện nay, nhiều người lại mua vàng mã về cúng, đốt với mục đích để nhận lại sự phù hộ của tổ tiên cho mình. Vì vậy họ nghĩ, đốt càng nhiều, càng được tổ tiên phù hộ nhiều. Đó là quan điểm sai lầm!”28 Lệch lạc trong niềm tin và cách thể hiện lòng tôn kính đối với người đã khuất cũng như thần thánh Cũng từ quan niệm, người vong linh người đã khuất ở “thế giới bên kia” cũng có những những nhu cầu vật chất như khi họ còn sống. nhiều người có điều kiện kinh tế cố gắng gửi cho vong linh những người thân của mình những đồ mã “sang trọng” như nhà lầu, xe hơi, máy bay, người giúp việc, thậm chí có cả “em út” phục vụ29 Rõ ràng đây là những biến tướng, lệch lạc của hàng mã. Nó tạo nên sự “bất bình đẳng” trong thế giới giới bên kia. Quan niệm “ở hiền, gặp lành” hay luật nhân quả rõ ràng bị giảm giá trị khi người ta cho rằng hễ cứ có tiền là có tất cả lẫn ở đời này lẫn đời sau. Bởi vì, rõ ràng là cuộc sống của những vong linh hoàn toàn phụ thuộc vào những người đang sống. Tốn kém Hiện tại vẫn chưa thấy có những thống kê chính thức về sức tiêu thụ hàng mã trong cả nước. Tuynhiên theo một thống kê không chính thức của giới truyền thông, mỗi năm nhân dân đốt tới 5000 tỷ đồng vàng mã.30 Theo thống kê sơ bộ có khoảng 50.000 tấn vàng mã được sử dụng trong mỗi năm và riêng tại Hà Nội đã tiêu thụ gần 400 trăm tỷ đồng/năm cho việc đốt vàng mã.31 Gây ô nhiễm môi trường, gây hỏa hoạn Do nhà ở chật hẹp nên người dân mang ra ngoài để đốt, tàn lửa bay khắp nơi mỗi khi có cơn gió thổi qua. Ngoài ra, tại các đền, chùa, cứ đến dịp lễ, Tết lại bị “quá tải” về việc đốt vàng mã, thắp hương, tiềm ẩn nguy cơ cháy, nổ rất cao. Mới đây nhất, một bằng chứng rõ nét 28 Hương Lan, Bỏ đốt vàng mã: Tránh lãng phí, xóa nạn 'đút lót' thánh thần?, https://baomoi.com/bo dot vang ma tranh lang phi xoa nan dut lot thanh than/c/25045369.epi 29 X. Vân Thiêng, Mỗi năm dân ta đốt 5.000 tỷ đồng vàng mã, https://baomoi.com/moi nam dan ta dot 5 000 ty dong vang ma/c/25042397.epi.
31 X. BT, Đốt vàng mã: Từ lãng phí đến thảm họa cháy nổ, http://www.antv.gov.vn/tin tuc/kinh te/dot vang ma tu lang phi den tham hoa chay no 225480.html, truy cập ngày 27 05 2018. https://lop1.net/
30 Vân Thiêng, Mỗi năm dân ta đốt 5.000 tỷ đồng vàng mã?, https://baomoi.com/moi nam dan ta dot 5 000 ty dong vang ma/c/25042397.epi, truy cập ngày 27 05 2018.
12
13 cho sự việc trên, đó là vụ hỏa hoạn lớn xảy ra tại Đền Mẫu Đồng Đăng ở tỉnh Lạng Sơn vào hôm mùng 5 Tết vừa qua. Lửa bốc cao kèm theo khói lớn và bụi mù mịt, khiến người dân đi lễ hoảng sợ và bỏ chạy. Theo người dân ở đây, ngọn lửa đã lan nhanh sang gần 10 gian nhà khác, khói bụi bốc nghi ngút, thiêu rụi toàn bộ đồ đạc do tất cả các kios bán hàng đều chứa rất nhiều đồ mã vật liệu dễ cháy.32 5.3. Các ý kiến trái chiều liên quan đến việc sử dụng vàng mã Các ý kiến ủng hộ Đa số những người ủng hộ cho rằng, tập tục đốt vàng mã là một phần trong văn hóa, tín ngưỡng dân gian lâu đời. Nó mang một ý nghĩa nhân văn, cụ thể là tinh thần uống nước nhớ nguồn của dân tộc. Vàng mã là “phương tiện nối kết” giữa người sống và người đã khuất, giúp con cháu có dịp nhớ đến ông bà tổ tiên. Còn đối với tín ngưỡng thờ Mẫu, vàng mã là một vật phẩm tôn giáo không thể thiếu trong các dịp lễ trong tín ngưỡng này. Một yếu tố không kém phần quan trọng là, nhiều làng nghề, cơ sở, gia đình sản xuất vàng mã đã hình thành và phát triển trong một khoảng thời gian dài, nên không thể cấm việc sử dụng vàng mã vì như vậy sẽ ảnh hưởng rất lớn cho một lượng lớn nhân công sản xuất vàng mã củng như người kinh doanh. Các ý kiến phản đối Các ý kiến phản đối thường đưa ra các quan điểm như, đây là một tập tục ngoại lai từ Trung Quốc, và rằng đây là tập tục mê tín, mù quáng. Hơn nữa việc dùng tiền thật mua tiền giả hay những đồ mã khác để đốt là một sự lãng phí rất lớn cho xã hội. không những việc đốt vàng mã đã góp phần làm cho sự ô nhiểm môi trường ở nước ta càng trầm trọng, nguy cơ gây hỏa hoạn từ việc đốt vàng mã là rất lớn. Ý kiến của Giáo hội Phật giáo “Đề nghị chư Tôn đức Tăng Ni nêu cao tinh thần Bồ tát đạo, hướng dẫn đồng bào Phật tử và bà con loại bỏ mê tín dị đoan, đốt vàng mã tại các cơ sở thờ tự Phật giáo và các hình thức khác trái với thuần phong mỹ tục, văn hóa dân tộc và văn hóa Phật giáo Việt Nam.”33 Ý kiến của các cơ quan nhà nước Từ năm 1998 đến nay, nhiều văn bản pháp luật liên quan đến việc sử dụng vàng mã được đưa ra. Quan sát cho thấy, mức độ quy định của các văn bản pháp luật về việc sử dụng vàng mã ngày càng chặt. Từ việc “vận động nhân dân bỏ dần tục đội mũ rơm, chống gậy, rắc vàng mã dọc đường ”34, kế đến là “hạn chế tối đa việc rắc vàng mã, tiền âm phủ trên đường”,35 đến việc 32 Nt. 33 Công văn 031 /CV HĐTS ngày 12 tháng 02 năm 2018 Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam 34 Thông tư số 04/1998/TT BVHTT ngày 11 7 1998. 35 Quyết định số 308/2005/QĐ TTg ngày 25 11 2005 của Thủ tướng Chính phủ https://lop1.net/
https://lop1.net/
14 đưa ra những mức hình phạt cụ thể như trongnghị định Nghị định 158/2013/NĐ CP năm 2013: “Phạt tiền từ 400.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi đốt vàng mã không đúng nơi quy định tại nơi tổ chức lễ hội, di tích lịch sử văn hóa”. 6. Kết luận Tập tục đốt vàng mã ở Việt Nam là tập tục xuất phát từ Trung Quốc. Nó được du nhập vào Việt Nam vào thời Bắc Thuộc. Cùng với những thăng trầm của lịch sử, nó vẫn tồn tại và trở thành một phần trong văn hóa tín ngưỡng của một bộ phận người Việt. Những năm gần đây, tập tục này có chiều hướng phát triển mạnh mẽ, kèm theo đó là những biến tướng và những tác động xấu đến xã hội Việt Nam. Đã có nhiều văn bản pháp luật hướng dẫn việc cử hành tập tục này, tuy nhiên nó vẫn chưa đạt hiệu quả Bên cạnh những tác động tiêu cực, vàng mã cũng diễn tả những niềm tin, quan niệm củng như truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta như “uống nước nhớ nguồn”, “kính nhớ tổ tiên”. Hơn nữa đây cũng là một ngành nghề tạo công ăn việc làm cho một lượng lớn lao động trong nước. Vì thế chúng ta cần có cái nhìn đúng đắn về những mặt lượi và hại của tập tục này. Đồng thời tránh những hành vi lạm dụng, làm méo mó ý nghĩa của nó so với ý nghĩa ban sơ.
4. GS. Ngô Đức Thịnh, Đốt vàng mã thế nào mới là điều đáng nói, https://baomoi.com/gs ngo duc thinh dot vang ma the nao moi la dieu dang noi/c/18517576.epi, truy cập ngày 25 05 2018.
6. Thông tư số 04/1998/TT BVHTT ngày 11 7 1998. 7. Quyết định số 308/2005/QĐ TTg ngày 25 11 2005 của Thủ tướng Chính phủ. 8. Công văn 031 /CV HĐTS ngày 12 tháng 02 năm 2018 Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Tài liệu trên internet 1. Đường Huyền
5. Hương Lan, Bỏ đốt vàng mã: Tránh lãng phí, xóa nạn 'đút lót' thánh thần?, https://baomoi.com/bo dot vang ma tranh lang phi xoa nan dut lot thanh than/c/25045369.epi, truy cập ngày 25 05 2018. https://lop1.net/
5. Lê Quý Đôn, Vân đài loại ngữ (1773), biên dịch Trần Văn Giáp, hiệu đính Cao Xuân Huy, nxb Văn hóa Thông tin, 1962, từ trang 192 đến trang 193.
1n_T%C3%B4ng.https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng_Huy%E1%BB%8Tông, 2. Hòa Thượng Thích Tố Liên, Nguyên Nhân Tục Đốt Vàng Mã, http://chimviet.free.fr/quehuong/thichtolien/ThichToLien_TucDotVangMa.htm, truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2018.
1 Thư mục Sách, Luận văn 1. Toan Ánh, Tín ngưỡng Việt Nam (quyển hạ), nxb Văn nghệ, TP. HCM, 2000 2. Nguyễn Văn Phải, Chuỗi cung ứng và tiêu thụ hàng mã (Nghiên cứu trường hợp một số hộ gia đình ở thôn Yên Cốc, xã Hồng Phong, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội), Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Nhân Học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội 2016. 3. Nguyễn Tiến Hưng, Thực hành đốt vàng mã ở Hà Nội hiện nay (Qua khảo sát ở Đình Thôn, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội), Luận văn Thạc sỹ Văn hóa học, 2016 4. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam, Từ điển bách khoa Việt Nam (tập 1), Nxb Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam, 1995.
3. GS. Ngô Đức Thịnh, Thời gian và cách chuẩn bị mâm cỗ cúng hóa vàng Tết Mậu Tuất, https://laodong.vn/xa hoi/thoi gian va cach chuan bi mam co cung hoa vang tet mau tuat 591891.ldo, truy cập ngày 27 05 2018.
6. Vân Thiêng, Mỗi năm dân ta đốt 5.000 tỷ đồng vàng mã, https://baomoi.com/moi nam dan ta dot 5 000 ty dong vang ma/c/25042397.epi, truy cập ngày 25 05 2018.
2
7. BT, Đốt vàng mã: Từ lãng phí đến thảm họa cháy nổ, http://www.antv.gov.vn/tintuc/kinh te/dot vang ma tu lang phi den tham hoa chay no 225480.html, truy cập ngày 27 05 2018. https://lop1.net/