Kỷ Yếu 5 Năm hình thành và phát triển Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng

Page 1

Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

ngân hàng nhà nước việt nam

CƠ QUAN THANH TRA, GIÁM SÁT NGÂN HÀNG

Hà Nội, tháng 8 năm 2014

3


4


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

ngân hàng nhà nước việt nam

CƠ QUAN THANH TRA, GIÁM SÁT NGÂN HÀNG

Hà Nội, tháng 8 năm 2014

5


6


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

Mục Lục Lời nói đầu ............................................................................................................................... 03 Thư của Thống đốc NHNN gửi tập thể cán bộ Cơ quan TTGSNH ...............04 Phần I: Hành trình 05 năm...............................................................................................07 Phần II: Các phần thưởng, danh hiệu đã đạt được................................................77 Phần I: Hành trình 5 năm (tiếp)......................................................................................89 Phần Iii: Sơ đồ tổ chức Cơ quan TTGSNH...............................................................115 Ban Lãnh đạo Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng................................119 Một số hình ảnh hoạt động của Cơ quan ttgsnh..........................................129

01


02


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

N

LỜI NÓI ĐẦU

gày 27/5/2009, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Theo đó, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng được thành lập trên cơ sở hợp nhất 4 đơn vị của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là Thanh tra Ngân hàng, Vụ Các ngân hàng và tổ chức tín dụng phi ngân hàng, Vụ Các tổ chức tín dụng hợp tác và Trung tâm Thông tin phòng, chống rửa tiền. Đây là một sự kiện quan trọng đối với ngành Ngân hàng. Những kết quả đạt được đến nay đã khẳng định tính đúng đắn của định hướng đổi mới và mô hình Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng. 5 năm hình thành và phát triển, một khoảng thời gian chưa dài nhưng Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã thể hiện vai trò, vị trí quan trọng góp phần đảm bảo sự an toàn, ổn định của hệ thống ngân hàng. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thực sự là một bộ phận không thể tách rời của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và là công cụ quản lý quan trọng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng thông qua thực hiện các nhiệm vụ: thanh tra, giám sát, xây dựng chính sách an toàn, quản lý cấp phép, phòng, chống rửa tiền và tội phạm, tái cơ cấu các tổ chức tín dụng, xử lý nợ xấu. Nhân dịp kỷ niệm 5 năm ngày thành lập (01/8/2009 - 01/8/2014), Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc trước sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Ban Cán sự Đảng, Ban Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, sự hợp tác quý báu của các đơn vị, Vụ, Cục thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành, các tổ chức và cá nhân trong suốt thời gian qua. Để nhìn lại chặng đường 5 năm thành lập và phát triển, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng xuất bản ấn phẩm: CƠ QUAN THANH TRA, GIÁM SÁT NGÂN HÀNG - 05 NĂM THÀNH LẬP VÀ PHÁT TRIỂN. Do hạn chế về thời gian, nội dung ấn phẩm này chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, Ban Biên soạn rất mong nhận được sự ủng hộ, thông cảm và góp ý chân thành của bạn đọc. Trân trọng. CƠ QUAN THANH TRA, GIÁM SÁT NGÂN HÀNG

03


THƯ CỦA THỐNG ĐỐC NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM Gửi tập thể cán bộ, công chức Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng nhân dịp kỷ niệm 05 năm thành lập (tháng 8/2009 - 8/2014)

N

hân dịp kỷ niệm 05 năm thành lập Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng (tháng 8/2009 - 8/2014), thay mặt Ban Cán sự Đảng, Ban Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước, tôi xin gửi lời chúc mừng tốt đẹp nhất tới toàn thể cán bộ, công chức đã và đang công tác tại Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng được thành lập theo Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg ngày 27/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ là kết quả của sự nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn của Việt Nam trong một thời gian khá dài. Sự ra đời của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng khẳng định quyết tâm của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng phù hợp hơn với thông lệ, chuẩn mực quốc tế. 05 năm qua là giai đoạn hết sức khó khăn đối với nền kinh tế và hệ thống ngân hàng. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, khởi nguồn từ cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu tác động bất lợi đến nền kinh tế nước ta gây ra nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô, lạm phát 2 chữ số, kinh tế tăng trưởng chậm, sản xuất kinh doanh trì trệ, số lượng doanh nghiệp giải

04

thể, ngừng hoạt động liên tục gia tăng, thị trường chứng khoán sụt giảm và thị trường bất động sản giảm giá mạnh, đóng băng kéo dài. Theo đó, rủi ro hệ thống gia tăng và an toàn hệ thống ngân hàng bị đe dọa bởi các vấn đề nợ xấu, thanh khoản yếu kém, quản trị thiếu lành mạnh, vi phạm pháp luật. Ra đời trong hoàn cảnh có nhiều yếu tố không thuận lợi, nhưng Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã làm tốt nhiệm vụ tham mưu, giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về công tác thanh tra, giám sát; cấp phép; ban hành các chính sách an toàn; giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng, chống rửa tiền; phòng, chống tham nhũng và tội phạm theo quy định của pháp luật. Thực hiện Kết luận số 10-KL/TW ngày 18/10/2011 của Hội nghị lần thứ III Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã và đang tích cực tham mưu, giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước triển khai thực hiện tốt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015” và Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng” đã được Bộ Chính trị và Chính phủ phê duyệt. Trong 05 năm qua, các thế hệ cán bộ, công chức Cơ quan Thanh tra, giám sát


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

ngân hàng đã không ngừng nỗ lực vượt qua khó khăn, thách thức, lao động cống hiến để hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị được giao, góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới, phát triển ngành Ngân hàng, bảo đảm sự an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng và sự ổn định của thị trường tiền tệ, đồng thời góp phần nâng cao trật tự, kỷ cương và hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng. Với những thành tích quan trọng đạt được trong 05 năm qua, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã không ngừng phát triển, từng bước khẳng định vai trò, vị thế ngày càng quan trọng trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước và khẳng định việc thành lập Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là sự lựa chọn chiến lược đúng đắn, phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã nhận được nhiều phần thưởng của Ngân hàng Nhà nước và Thanh tra Chính phủ. Thay mặt Ban Cán sự Đảng, Ban Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước, tôi nhiệt liệt biểu dương những nỗ lực, cố gắng và kết quả đã đạt được của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng. Hiện nay, nền kinh tế nước ta trong đó có hệ thống ngân hàng đang bước vào giai đoạn phát triển mới, với nhiều cơ hội song cũng không ít khó khăn, thách thức, đặc biệt là những nguy cơ gây bất ổn và rủi ro dẫn đến mất an toàn hoạt động ngân hàng luôn tiềm ẩn. Ngân hàng Nhà nước kiên trì và kiên định mục tiêu đổi mới và phát triển để hướng tới tạo lập một hệ thống các tổ chức tín dụng hoạt động an toàn, lành mạnh, hiệu quả hơn, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Theo đó, nhiệm vụ của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng hết sức nặng nề trong việc tham mưu, giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về thanh tra, giám sát ngân hàng, hoàn thiện thể chế, đặc biệt là thực hiện tái cơ cấu và xử lý nợ xấu theo mục tiêu, định hướng đã được Bộ Chính trị và Chính phủ phê duyệt. Để Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thực hiện tốt các nhiệm vụ nêu trên, đồng thời tiếp tục đổi mới, hoàn thiện và phát triển mô hình thanh tra, giám sát ngân hàng phù hợp hơn với thực tiễn, ngày 07/4/2014 Chính phủ ban

hành Nghị định số 26/2014/NĐ-CP quy định tổ chức và hoạt động của Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng, đồng thời ngày 12/6/2014 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 35/2014/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng. Theo đó, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là tổ chức tương đương tổng cục, trong đó có 02 Cục Thanh tra, giám sát ngân hàng ở Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Với mô hình tổ chức mới và chức năng, nhiệm vụ được tăng cường, Ban Cán sự Đảng và Ban Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước tin tưởng và chúc Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thực hiện được mục tiêu góp phần bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng và hệ thống tài chính; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và khách hàng của tổ chức tín dụng; duy trì và nâng cao lòng tin của công chúng đối với các hệ thống tổ chức tín dụng; bảo đảm việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng. Nhân dịp 05 năm thành lập Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, thay mặt Ban Cán sự Đảng và Ban Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước tôi xin chúc toàn thể cán bộ, công chức Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng tăng cường đoàn kết, nhiều nghị lực, giữ vững bản lĩnh chính trị, không ngừng rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và luôn chủ động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ. Chúc Cơ quan Thanh tra, giám sát không ngừng đổi mới, phát triển và thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị được giao. Chúc các đồng chí sức khỏe, hạnh phúc và thành công! Thân ái!

Nguyễn Văn Bình Ủy viên BCH Trung ương Đảng Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 05


Trụ sở 25 Lý Thường Kiệt 06


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

PHẦN I: HÀNH TRÌNH 05 NĂM

07


VAI TRÒ CỦA CƠ QUAN THANH TRA, GIÁM SÁT NGÂN HÀNG TRONG VIỆC TRIỂN KHAI NHIỆM VỤ CƠ CẤU LẠI HỆ THỐNG CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG Đặng Thanh Bình Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

N

gày 07/11/2006, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và đến ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức bắt đầu thực hiện nghĩa vụ thành viên và các cam kết gia nhập của mình. Đây là một dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp Đổi mới của đất nước, là bước ngoặt trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, vì kể từ thời điểm này Việt Nam mới thực sự tham gia vào một sân chơi lớn có quy mô toàn cầu. Việt Nam đã có những cam kết cụ thể với WTO nhằm thúc đẩy tự do hóa lĩnh vực dịch vụ, trong đó, cùng với một số lĩnh vực dịch vụ như dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ xây dựng..., dịch vụ ngân hàng được đánh giá là một trong những lĩnh vực có cam kết mở cửa nhanh nhất. Điều đó đã và đang thực sự tạo nên một sức ép, dẫn đến cuộc đua tranh quyết liệt của các TCTD, đặc biệt là cuộc chạy đua nâng cao chất lượng, đa dạng hóa các dịch vụ ngân hàng mở rộng địa bàn, quy mô hoạt động để 08

có thể cạnh tranh được với các ngân hàng nước ngoài tại thị trường trong nước. Chính điều này đã góp phần tạo nên một thị trường tiền tệ sôi động, nhưng cũng đặt ra những yêu cầu mới đối với công tác quản lý hệ thống các TCTD mà trước hết là trên các mặt hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác thanh tra, giám sát, quản lý cấp phép thành lập và mở rộng mạng lưới, phòng chống rửa tiền… Đứng trước yêu cầu đó và trong khuôn khổ các biện pháp nhằm thực hiện Đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/5/2006, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 83/2009/ QĐ-TTg ngày 27/5/2009 về việc thành lập Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc NHNN Việt Nam trên cơ sở hợp nhất 04 đơn vị cấp Vụ thuộc NHNN là: Thanh tra Ngân hàng; Vụ Các ngân hàng và TCTD phi ngân hàng; Vụ Các TCTD hợp tác; Trung tâm Thông tin phòng, chống rửa tiền. Cơ quan TTGSNH được giao nhiệm vụ tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện đồng thời 4 khâu của quá trình quản lý, thanh tra, giám sát đối với các TCTD (cấp, thu hồi giấy phép; xây dựng các chính sách, quy định về tổ chức, hoạt động và an toàn hoạt động ngân hàng; giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ; xử lý vi phạm) và thực hiện các nhiệm vụ của một đơn vị thanh tra trong một cơ quan quản lý nhà nước, cụ thể là nhiệm vụ


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

thanh tra hành chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng và phòng, chống rửa tiền trong phạm vi quản lý nhà nước của NHNN. Việc thành lập Cơ quan TTGSNH với những nhiệm vụ nêu trên là một bước tiến quan trọng, tạo ra được cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng trong công tác quản lý, giám sát, thanh tra các TCTD trên cơ sở tiếp thu những thông lệ, kinh nghiệm tốt nhất trên thế giới vào điều kiện phát triển của nền kinh tế Việt Nam nói chung, trình độ và xu hướng phát triển của ngành Ngân hàng Việt Nam nói riêng.

tham mưu trình Thống đốc ban hành chương trình công tác và kế hoạch thanh tra đối với các TCTD theo hướng thanh tra tuân thủ kết hợp thanh tra rủi ro, tập trung vào các lĩnh vực rủi ro trọng yếu, nhiều tồn tại, sai phạm. Dưới sự chỉ đạo của Thống đốc NHNN, Cơ quan TTGSNH đã tập trung thanh tra toàn diện và yêu cầu thực hiện kiểm toán độc lập để đánh giá đúng thực trạng, xác định các TCTD yếu kém, trên cơ sở đó, đã có biện pháp kiểm soát, xử lý có hiệu quả, giúp các TCTD giải quyết được khó khăn để có điều kiện triển khai cơ cấu lại theo Đề án 254.

Sau 5 năm hoạt động, Cơ quan TTGSNH không những đã chứng minh được sự đúng đắn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Thanh tra, giám sát ngân hàng mà còn khẳng định vai trò quan trọng của đơn vị này trong việc triển khai nhiệm vụ cơ cấu lại hệ thống các TCTD trong thời gian qua.

Trên cơ sở kết quả thanh tra, giám sát thường xuyên và kiểm toán độc lập, NHNN đã đánh giá, xác định rõ các yêu cầu cần cơ cấu lại tại từng TCTD và chỉ đạo TCTD phải xây dựng phương án cơ cấu lại cụ thể để củng cố, chấn chỉnh những tồn tại, yếu kém, giải quyết dứt điểm các vi phạm nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh. Nhờ cách thức triển khai cơ cấu lại các TCTD theo hướng có chọn lọc, với ưu tiên tập trung xử lý các TCTD yếu kém nhất của hệ thống để đảm bảo có trọng tâm, trọng điểm trong từng thời kỳ, phù hợp với nguồn lực và quan trọng hơn là bảo đảm mục tiêu xử lý dứt điểm những tổ chức yếu kém nhất trong hệ thống, quá trình cơ cấu lại đã được triển khai mạnh mẽ nhưng vẫn giữ vững sự ổn định, an toàn của hệ thống như đã nêu tại Đề án 254 và không làm gián đoạn đầu tư, hỗ trợ phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế.

Vào cuối năm 2011, khi thị trường tài chính - ngân hàng xuất hiện những biến động lớn, những khó khăn, yếu kém về thanh khoản của hệ thống ngân hàng, nợ xấu bộc lộ, một số ngân hàng yếu kém có nguy đổ vỡ, an toàn hệ thống bị đe dọa. Trong bối cảnh đó, thực hiện Nghị quyết số 11/2011/QH13 ngày 09/11/2011 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012, Cơ quan TTGSNH đã làm đầu mối tham mưu cho Ban Lãnh đạo NHNN xây dựng, trình Bộ Chính trị, Chính phủ thông qua Đề án Cơ cấu lại hệ thống TCTD giai đoạn 2011-2015 và Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 phê duyệt Đề án (Đề án 254). Để thực hiện hiệu quả Đề án 254, nhiệm vụ đầu tiên đối với ngành Ngân hàng là đánh giá đúng thực trạng, tìm ra đúng căn nguyên tình trạng yếu kém của từng TCTD để từ đó đưa ra các giải pháp cơ cấu lại phù hợp. Do đó ngay từ cuối năm 2011, Cơ quan TTGSNH đã chủ động xây dựng,

Có thể nói, chưa có một chương trình tái cơ cấu ngân hàng nào mà số lượng các TCTD yếu kém lại giảm nhanh như chương trình tái cơ cấu lần này. Qua hơn 2 năm triển khai Đề án 254, đã có 02 TCTD được sáp nhập, 04 TCTD được hợp nhất và 01 TCTD được mua lại. Nhiều vấn đề lớn tồn tại từ nhiều năm đã được nhận diện và từng bước xử lý như đầu tư tài 09


chính, sở hữu chéo, vi phạm sở hữu vốn điều lệ, cho vay cổ đông lớn và người có liên quan trái quy định của pháp luật, ủy thác... Đến nay, hoạt động của nhiều TCTD được cơ cấu lại theo hướng lành mạnh, an toàn, ví dụ như giảm đầu tư vào các lĩnh vực rủi ro, kém hiệu quả, xử lý các khoản đầu tư tài chính, ủy thác, phải thu tiềm ẩn rủi ro; củng cố hệ thống quản trị điều hành, hệ thống quản trị rủi ro, các chính sách, quy trình nội bộ, hệ thống kiểm toán, kiểm soát nội bộ; nợ xấu từng bước được xử lý, tăng vốn điều lệ. Nằm trong tổng thể các giải pháp theo lộ trình nêu tại Đề án 254, trong thời gian qua, việc cấp phép thành lập mới và cấp phép mở rộng mạng lưới các TCTD đã được Cơ quan TTGSNH thực hiện chặt chẽ, thận trọng, hỗ trợ tái cơ cấu và đúng pháp luật. Chính sách này vừa giúp các TCTD Việt Nam tăng quy mô, cải thiện chất lượng, vừa giúp NHNN nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý. So với năm 2009, việc thực hiện chủ trương tạm ngừng cấp phép kết hợp với việc thực hiện cơ cấu lại hệ thống TCTD, số lượng NHTM cổ phần đã giảm từ 37 NHTM cổ phần trong năm 2009 xuống còn 35 ngân hàng vào năm 2011, 34 ngân hàng vào năm 2012 và đến nay còn 33 ngân hàng. Việc cấp phép mở rộng mạng lưới đã được xem xét, thực hiện theo nguyên tắc ưu tiên mở rộng mạng lưới tại các vùng sâu, vùng xa; các địa bàn nông nghiệp, nông thôn; ưu tiên việc mở rộng mạng lưới cho một số ngân hàng thương mại tham gia cơ cấu lại các TCTD yếu kém để hỗ trợ các ngân hàng này thực hiện thành công Phương án tái cơ cấu (sáp nhập, hợp nhất). Điều này vừa góp phần phát triển kinh tế - xã hội tại những vùng, miền khó khăn, vừa đảm bảo hỗ trợ tăng trưởng ổn định cho các TCTD có đủ điều kiện, năng lực quản trị tốt, tài chính lành mạnh. Xây dựng và không ngừng hoàn thiện thể chế, khuôn 10

khổ pháp lý là một trong những nhiệm vụ trọng tâm đối với công tác thanh tra, giám sát và cơ cấu lại hệ thống TCTD. Trong 5 năm qua, với sự chỉ đạo sát sao của NHNN, Cơ quan TTGSNH đã tập trung xây dựng, hoàn thiện và trình cấp có thẩm quyền ban hành một khối lượng rất lớn các văn bản QPPL, bao gồm 01 Luật, 07 Nghị định, 03 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 31 Thông tư. Việc ban hành văn bản QPPL trong giai đoạn này là để góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng và tạo lập cơ sở pháp lý hỗ trợ quá trình cơ cấu lại, xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD, đặc biệt là các quy định về kiểm soát đặc biệt TCTD, góp vốn, mua cổ phần bắt buộc đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại TCTD Việt Nam, thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu, triển khai các chuẩn mực an toàn theo các nguyên tắc của Basel II trong hệ thống các TCTD đang được Ban Lãnh đạo NHNN giao Cơ quan TTGNH gấp rút thực hiện với mục tiêu là đến năm 2018, toàn bộ các NHTM Việt Nam đều áp dụng chuẩn mực Basel II. Đây là bước đi đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển chung của lĩnh vực ngân hàng trên thế giới. Song hành với các nhiệm vụ nêu trên, xử lý nợ xấu là một trong những nhiệm vụ quan trọng, không thể tách rời của quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD. Ý thức được tầm quan trọng của nhiệm vụ này, Cơ quan TTGSNH đã tham mưu, giúp Thống đốc nghiên cứu, xây dựng và trình Bộ Chính trị, Chính phủ thông qua Đề án Xử lý nợ xấu của các TCTD và Đề án thành lập Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC), đồng thời Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt 02 Đề án nêu trên theo Quyết định số 843/QĐ-TTg. Trong


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

thời gian qua, chúng ta đã chứng kiến nỗ lực to lớn của toàn ngành Ngân hàng trong việc kiềm chế và xử lý nợ xấu. Việc thành lập VAMC và xây dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động mua, bán, xử lý nợ xấu cho VAMC trong thời gian ngắn thể hiện cố gắng rất lớn của Cơ quan TTGSNH. Đến nay, kết quả hoạt động ban đầu của VAMC cho thấy nếu được sự hỗ trợ bằng các cơ chế, quy định phù hợp, mô hình này hoàn toàn có thể góp phần vào việc xử lý một phần nợ xấu, hỗ trợ các TCTD trong quá trình cơ cấu lại, nhất là trong điều kiện xử lý nợ xấu không dùng tiền của ngân sách nhà nước. Nhờ triển khai đồng bộ các giải pháp, nợ xấu đã được kiềm chế và có xu hướng giảm. Đây là tín hiệu tích cực phản ánh nỗ lực của ngành Ngân hàng và hiệu quả của các giải pháp xử lý nợ xấu trong bối cảnh kinh tế còn nhiều khó khăn và áp lực nợ xấu còn lớn. Cũng nhờ đó, công tác cơ cấu lại trong thời gian qua đã cơ bản theo đúng mục tiêu, lộ trình đặt ra tại Đề án 254. Sau hơn 2 năm triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ các biện pháp cơ cấu lại theo Đề án 254, ngành Ngân hàng Việt Nam đã bước đầu vượt qua thời kỳ khó khăn nhất, hoàn thành cơ bản nhiệm vụ theo đúng lộ trình, kế hoạch đặt ra của Đề án. An toàn của hệ thống TCTD đã được bảo đảm, nguy cơ gây đổ vỡ, mất an toàn hệ thống đã được đẩy lùi, khả năng chi trả của các TCTD được cải thiện, tài sản của Nhà nước và tiền gửi của nhân dân được an toàn, chi trả đầy đủ, kịp thời, kể cả ở một số NHTM cổ phần yếu kém phải cơ cấu lại. Sự thay đổi về tư duy dẫn đến thay đổi về hành động của các TCTD là một thành công quan trọng góp phần đẩy nhanh lộ trình cơ cấu lại. Tôi tin rằng với sự tham gia, hỗ trợ của toàn hệ thống chính trị, sự quyết tâm của ngành Ngân hàng, công tác cơ cấu lại hệ thống TCTD sẽ tiếp tục đạt được những kết quả tích cực, đảm bảo hoàn thành căn bản mục tiêu và lộ trình đã nêu tại Đề án 254.

Chặng đường 5 năm hoạt động đối với một tổ chức chưa phải là dài nhưng có thể nói Cơ quan TTGSNH đã khẳng định được vai trò của mình trong việc góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị của NHNN và quan trọng hơn nữa đã chứng minh tính đúng đắn và hiệu quả của mô hình Cơ quan TTGSNH. Đứng trước yêu cầu thực tiễn quản lý hệ thống TCTD trong bối cảnh nền kinh tế thế giới và trong nước có nhiều diễn biễn phức tạp, khó lường, việc tăng cường hơn nữa năng lực thanh tra, giám sát ngân hàng tiếp tục trở nên cấp thiết. Cùng với quá trình cơ cấu lại của hệ thống các TCTD, Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng nói chung và Cơ quan TTGNH nói riêng cũng luôn phải tự hoàn thiện và “tự tái cơ cấu” chính mình. Xuất phát từ yêu cầu đó, sự ra đời của Nghị định số 26/2014/NĐ-CP ngày 07/4/2014 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng và Quyết định số 35/2014/QĐ-TTg ngày 12/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã tạo nên cơ sở pháp lý giúp cho Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng nói chung và Cơ quan TTGSNH nói riêng, tiếp tục đổi mới và phát triển để góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng và bảo đảm an toàn hệ thống các TCTD. Tôi tin rằng với sự chỉ đạo sát sao của Ban Lãnh đạo NHNN, với hành trang kinh nghiệm thực tiễn trong 5 năm qua và sự quyết tâm, nỗ lực của tập thể lãnh đạo, cán bộ, công chức, Cơ quan TTGSNH sẽ tiếp tục thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị được giao, tiếp tục giữ vững sự ổn định, thúc đẩy sự phát triển an toàn, hiệu quả và bền vững của hệ thống các TCTD Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới. 11


THÀNH LẬP CƠ QUAN THANH TRA, GIÁM SÁT NGÂN HÀNG SỰ LỰA CHỌN CHIẾN LƯỢC ĐÚNG ĐẮN CỦA TƯ DUY MỚI Thạc sĩ Nguyễn Hữu Nghĩa Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng Lựa chọn hướng đi phù hợp… Trong 20 năm trở lại đây, các cuộc khủng hoảng, cú sốc tài chính đối với hệ thống tài chính thế giới ngày càng xảy ra với tần suất ngắn hơn và tạo ra tác động tiêu cực lớn hơn đến kinh tế khu vực và toàn cầu. Hệ thống tài chính đã và đang phải đối mặt với ngày càng nhiều rủi ro và trở nên mong manh, dễ bị đổ vỡ hơn trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa tài chính. Chính vì thế, từ sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, đổi mới mô hình và cơ chế thanh tra, giám sát đối với khu vực tài chính – ngân hàng trở thành vấn đề dành được sự quan tâm nhiều hơn bao giờ hết của chính phủ các nước nhằm tăng cường khả năng bảo vệ sự toàn vẹn, an toàn của các hệ thống tài chính. Trào lưu mới về cải cách hệ thống giám sát tài chính bắt đầu từ năm 1997 khi mà Cơ quan giám sát tài chính hợp nhất (FSA) của Anh được thành lập cùng với việc chuyển giao chức năng giám sát ngân hàng của NHTW Anh sang cho FSA. Theo đó, nhiều nước trên thế 12

giới đã cải cách hệ thống giám sát tài chính đi theo mô hình FSA. Tuy nhiên, sau một thời gian vận hành mô hình FSA tỏ ra có nhiều điểm bất hợp lý và chính Anh cũng là quốc gia đã phải chia tách FSA thành 2 cơ quan giám sát mới từ ngày 01/4/2013 (Cơ quan Quản lý an toàn và Cơ quan thực thi tài chính) và trao quyền giám sát nhiều hơn cho NHTW Anh. Đã có thời các chuyên gia, nhà khoa học và các nhà quản lý ở Việt Nam tranh luận sôi nổi về mô hình giám sát tài chính, ngân hàng. Nhiều người theo quan điểm cách tân của trào lưu đương đại ủng hộ mô hình cơ quan giám sát tài chính hợp nhất kiểu FSA (cơ quan giám sát tài chính tổng hợp thực hiện chức năng thanh tra, giám sát toàn bộ thị trường tài chính - ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm). Nhưng, có những người theo quan điểm ủng hộ mô hình các cơ quan giám sát tài chính phân tách giữa ngân hàng và phần còn lại của hệ thống tài chính. Những lý sự đưa ra khiến chúng ta đôi khi thực sự trở nên bối rối nếu không có sự suy tính logic, một cái nhìn nhận toàn diện, thực tiễn trong bối cảnh Việt Nam. Cuối cùng, đến nay mô hình thanh tra, giám sát tài chính phân tán (Bộ Tài chính thanh tra, giám sát khu vực chứng khoán, bảo hiểm và NHNN thanh tra, giám sát khu vực ngân hàng) nhưng có sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong quản lý, thanh tra, giám sát thị trường tài chính vẫn là mô hình phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhớ lại khi xây dựng Đề án “Phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”, nội dung


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

đổi mới và phát triển thanh tra, giám sát ngân hàng là nội dung được bàn thảo nhiều nhất trong nội bộ ngành Ngân hàng cũng như các cơ quan, tổ chức có liên quan. Đã có những ý kiến tách chức năng thanh tra, giám sát ra khỏi Bộ Tài chính và NHNN để thành lập một cơ quan giám sát tài chính hợp nhất, độc lập và duy nhất. Trên cơ sở quan điểm thận trọng, xem xét đến điều kiện thực tiễn của Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm quốc tế, NHNN đã đề xuất với Bộ Chính trị và Chính phủ chấp thuận mô hình tổ chức thanh tra, giám sát ngân hàng mới với Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng ở NHNN Trung ương và các Thanh tra, giám sát ngân hàng ở các NHNN tỉnh, thành phố. Trước đây, thanh tra, giám sát ngân hàng bao gồm 4 đơn vị độc lập với nhau là Thanh tra Ngân hàng, Vụ Các Ngân hàng, Vụ Các TCTD hợp tác và Trung tâm Thông tin phòng, chống rửa tiền. Thời gian dài trước đó, người ta đã bàn đến việc sáp nhập Thanh tra Ngân hàng với Vụ Các Ngân hàng để tăng cường sự gắn bó giữa thanh tra và xây dựng quy chế an toàn, cấp phép. Nhưng sự bàn tính cũng vẫn chỉ dừng lại ở sự bàn tính do chưa có được một chiến lược hay kế hoạch cải cách căn bản đối với khu vực thanh tra, giám sát ngân hàng nói riêng và ngành Ngân hàng nói chung. Trên cơ sở Thông báo số 191-TB/TW ngày 01/9/2005 của Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/5/2006 phê duyệt Đề án “Phát triển ngành ngân hàng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020” (Đề án 112), trong đó đã nêu: Trên cơ sở bộ máy Thanh tra Ngân hàng Nhà nước hiện có, xây dựng hệ thống giám sát ngân hàng hiện đại và hữu hiệu (về thể chế, mô hình tổ chức, con người và phương pháp) nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam và thực hiện đúng các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng. Thành lập Cơ quan giám sát an toàn hoạt động ngân hàng là một đơn vị thuộc NHNN trên cơ sở bộ máy Thanh tra Ngân hàng Nhà nước hiện nay. Ưu tiên đổi mới

mô hình tổ chức, hoạt động của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước theo hướng nâng cao tính độc lập, thống nhất về hoạt động nghiệp vụ và chỉ đạo, điều hành của Cơ quan Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng dưới sự quản lý của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Đây là định hướng quan trọng xuyên suốt tiến trình đổi mới và phát triển thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng trong thời gian qua. Đây cũng là bước ngoặt quan trọng đánh dấu sự đổi mới về mặt tư duy, quan điểm về mô hình thanh tra, giám sát ngân hàng. Nhớ lại ngày thai nghén… Xin một lần nữa trở lại ngày ấy, ngày xây dựng Đề án 112 nêu trên. Ngày ấy, tôi chỉ là Trưởng phòng Chiến lược Phát triển NHTW của Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng (nay là Viện Chiến lược Ngân hàng) được Vụ trưởng (lúc bấy giờ là Tiến sĩ Lê Xuân Nghĩa) giao nhiệm vụ xây dựng Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến 2020. Cái khó nhất đối với bản thân tôi là việc đề xuất định hướng và giải pháp đổi mới thanh tra, giám sát ngân hàng, bởi vì lúc đó tôi không phải là “dân” thanh tra, giám sát. Nhưng rất may, Chánh Thanh tra NHNN lúc bấy giờ (chính là đồng chí Nguyễn Văn Bình – Thống đốc NHNN ngày nay) rất có kinh nghiệm thực tiễn và quốc tế về thanh tra, giám sát ngân hàng, đồng thời cũng là người thực sự có nhiều ý tưởng mang tính đột phá, sáng tạo trong suốt thời gian công tác dù ở bất cứ cương vị nào. Tôi đã xin gặp Chánh Thanh tra NHNN để có được định hướng mang tính ý tưởng về cải cách khu vực này. Thật bất ngờ, ngay từ buổi trao đổi đầu tiên không một chút đắn đo Chánh Thanh tra NHNN đã đưa ngay mô hình Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng ngày nay (cũng đã được thể hiện trong Đề án 112), đồng thời quả quyết rằng đây là mô hình phù hợp nhất trong điều kiện Việt Nam và nhất định phải được thực hiện. Sau này, tôi nhận ra rằng Chánh Thanh tra NHNN đã nghiên cứu, trăn 13


trở với mô hình này từ rất lâu nhưng chưa có dịp thuận lợi để đề xuất chính thức biến thành hiện thực. Sau những tranh luận gay gắt ở cả trong và ngoài NHNN bằng những lập luận thuyết phục, cuối cùng mô hình Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã được đưa vào Đề án 112 và được Bộ Chính trị, Chính phủ chấp thuận. Sinh ra được… phải mất tới 3 năm Thành công bước đầu. Đề án 112 được phê duyệt là tin vui đối với cả ngành Ngân hàng nhưng triển khai nó không hề đơn giản. Căn cứ định hướng nêu tại Đề án 112, Chánh Thanh tra NHNN đã chỉ đạo xây dựng, trình Thống đốc NHNN phê duyệt Đề án “Cải cách tổ chức và hoạt động thanh tra ngân hàng” theo Quyết định số 1976/QĐ-NHNN ngày 24/8/2007, trong đó nêu rõ: Trên cơ sở Thanh tra Ngân hàng và một số Vụ, cục liên quan đến hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng, thành lập Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng theo mô hình Tổng cục, được tổ chức tập trung, thống nhất thuộc cơ cấu tổ chức bộ máy của Ngân hàng Nhà nước và chịu sự quản lý, chỉ đạo của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thống nhất thực hiện 04 khâu (i) Cấp, thu hồi giấy phép; (ii) Xây dựng các chính sách, quy định về an toàn hoạt động ngân hàng; (iii) Giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ; (iv) Xử lý rủi ro và vi phạm. Đồng thời, Đề án cũng đề xuất mô hình Thanh tra, giám sát NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố theo hướng: Trước mắt, các đơn vị thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc tổ chức bộ máy của NHNN chi nhánh, chịu sự hướng dẫn, chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của Cơ quan TTGSNH và chịu sự quản lý hành chính của NHNN chi nhánh. Các đơn vị thanh tra, giám sát ngân hàng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quản lý, thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng thuộc phạm vi quản lý của NHNN chi nhánh theo sự phân cấp, ủy quyền của Thống đốc NHNN và quy định của pháp luật. Tuy nhiên, về nhiệm 14

vụ, phạm vi và nội dung quản lý, thanh tra, giám sát của đơn vị thanh tra, giám sát ngân hàng phải phù hợp với yêu cầu thống nhất thực hiện các nhiệm vụ cấp, thu hồi một số loại giấy phép; giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ; xử lý rủi ro và vi phạm. Theo đó, đơn vị thanh tra, giám sát là đầu mối thống nhất thực hiện quản lý, thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng trên địa bàn. Về lâu dài, các đơn vị thanh tra, giám sát ngân hàng độc lập với NHNN chi nhánh và chịu sự quản lý, chỉ đạo và hướng dẫn về công tác tổ chức, cán bộ và chuyên môn nghiệp vụ của Cơ quan TTGSNH. Thành công thứ hai tiến gần đến đích. NHNN chủ trì xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 96/2008/ NĐ-CP ngày 26/8/2008 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Theo Nghị định số 96/2008/NĐ-CP, trong cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng. Chính phủ giao Thống đốc Ngân hàng Nhà nước trình Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức bộ máy của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng. Đây là bước thành công thứ hai trong lộ trình tiến gần hơn đến thành lập Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng. Để đạt được thành công này, Thanh tra Ngân hàng phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ đã mất rất nhiều thời gian trao đổi, thuyết phục các cơ quan chức năng rằng thành lập Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là cần thiết và là mô hình khả thi. Đạt được đích đến là thành lập Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân. Trên cơ sở Nghị định số 96/2008/NĐ-CP, NHNN đã triển khai xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg ngày 27/5/2009 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng chính thức


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

đi vào hoạt động từ ngày 01/8/2009 trên cơ sở hợp nhất 04 đơn vị cũ thuộc NHNN là Thanh tra Ngân hàng, Vụ Các ngân hàng, Vụ Các tổ chức tín dụng hợp tác và Trung tâm Thông tin phòng, chống rửa tiền, với tổ chức bộ máy theo mô hình tổng cục, có cơ cấu gồm 08 đơn vị cấp Vụ (Vụ Thanh tra các tổ chức tín dụng trong nước; Vụ Thanh tra các tổ chức tín dụng nước ngoài; Vụ Thanh tra hành chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; Vụ Giám sát ngân hàng; Vụ Chính sách an toàn hoạt động ngân hàng; Vụ Quản lý cấp phép các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng; Cục Phòng, chống rửa tiền; Văn phòng). Quá trình xây dựng Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg cũng gặp nhiều khó khăn bởi nhiều ý kiến không đồng thuận ban đầu của các Bộ, ngành có liên quan. Do mô hình Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng rất mới, chưa có tiền lệ ở Việt Nam, đặc biệt là cơ sở pháp lý chưa đầy đủ. Xét cho cùng, cái mới bao giờ cũng bắt đầu với sự khó khăn bởi để đạt được sự thống nhất về nhận thức, quan điểm giữa các cơ quan khác nhau cần phải có thời gian. Bằng sự kiên trì trao đổi, giải thích, chứng minh về sự cần thiết và tính hợp lý của mô hình Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, cuối cùng các Bộ, ngành đã ủng hộ với mô hình Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng như một trường hợp đặc thù. Như vậy, sự ra đời Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là hết sức khó khăn, tuy nhiên cũng khẳng định sự quyết tâm và kiên định mục tiêu, định hướng đổi mới thanh tra, giám sát ngân hàng. Không ngừng lớn mạnh và khẳng định vai trò Nhìn lại quãng đường 5 năm đã qua, chúng ta có thể thấy sự lớn mạnh liên tục của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng để từng bước khẳng định vị thế và vai trò của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng với tư cách là cơ quan tham mưu, công cụ quản lý nhà nước đắc lực của NHNN trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng nhằm góp phần bảo đảm

sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng và hệ thống tài chính; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và khách hàng của tổ chức tín dụng; duy trì và nâng cao lòng tin của công chúng đối với hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng. Lực lượng cán bộ liên tục phát triển về số lượng và chất lượng. Khi mới thành lập, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có 247 cán bộ và đến nay có gần 350 cán bộ (nếu cả 2 Cục Thanh tra, giám sát ngân hàng ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thì có khoảng trên 600 cán bộ). Tổ chức bộ máy không ngừng được hoàn thiện theo định hướng đổi mới hướng tới hình thành một số Cục ở địa phương. Theo Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có 8 vụ, cục và tương đương. Đúng tròn 5 năm sau, kể từ ngày 01/8/2014 Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có 11 Vụ, cục và tương đương, trong đó có Cục Thanh tra, giám sát ngân hàng thành phố Hà Nội và Cục Thanh tra, giám sát ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh. Theo Quyết định số 35/2014/QĐ-TTg ngày 12/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là cơ quan tương đương với Tổng cục. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng vừa có chức năng tham mưu vừa có chức năng thực thi thông qua thực hiện các nhiệm vụ thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành, giám sát chuyên ngành về ngân hàng; tham mưu, giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quản lý nhà nước đối với các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, xây dựng các chính sách an toàn hoạt động, quản lý cấp, thu hồi giấy phép; thực hiện giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng, chống tham nhũng; phòng, chống tội phạm và phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp luật. 15


Ra đời trong bối cảnh hệ thống ngân hàng chịu sự tác động mạnh của những khó khăn của nền kinh tế và cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008. Do đó, ngay từ năm 2009, áp lực về công việc đã như “thử sức” đối với mô hình mới của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trong những năm đầu thành lập. Rồi sau đó, bước sang năm 2012, hệ thống ngân hàng nước ta đã thật sự bộc lộ những khó khăn, nợ xấu tăng mạnh, tình hình thanh khoản của các TCTD khó khăn, nhiều rủi ro, yếu kém của TCTD tích tụ từ lâu bắt đầu bộc lộ dẫn đến nguy cơ đổ vỡ nhiều TCTD và đe dọa an toàn hệ thống ngân hàng. Hoàn cảnh đã đặt lên vai Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trách nhiệm nặng nề hơn trong việc bảo đảm an toàn hệ thống, đồng thời tham mưu, giúp Thống đốc NHNN thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng và xử lý nợ xấu theo các Đề án được Bộ Chính trị và Chính phủ phê duyệt. Trong 5 năm qua, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã tham mưu, giúp Thống đốc ban hành 42 văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm Luật Phòng, chống rửa tiền, 07 nghị định, 03 quyết định của Thủ tướng Chính phủ và 31 thông tư; trình Bộ Chính trị, Chính phủ 05 Đề án. Công tác thanh tra, giám sát ngân hàng ngày càng được đổi mới và phát triển phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn Việt Nam, đặc biệt là thanh tra, giám sát toàn diện rủi ro pháp nhân. Các mô hình giám sát định lượng và rủi ro đã được nghiên cứu xây dựng và đưa vào ứng dụng, từ đó tạo thêm công cụ đánh giá, đo lường mức độ an toàn, lành mạnh và hiệu quả hoạt động của các TCTD. Qua công tác thanh tra, kiểm tra, đã phát hiện nhiều vi phạm pháp luật và đã xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật, bao gồm cả chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra. Những rủi ro, vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động ngân hàng đã được phát hiện, xử lý như cấp tín dụng quá mức cho đầu tư, kinh doanh chứng khoán, bất động sản, 16

cho vay cổ đông lớn và người có liên quan, sở hữu vốn điều lệ quá giới hạn dẫn đến thao túng, chi phối ngân hàng, vi phạm quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, chất lượng tín dụng yếu kém, tình trạng thua lỗ, kinh doanh không phép, quản trị, điều hành yếu kém… Kết quả thanh tra, giám sát đã góp phần quan trọng trong việc đánh giá, xác định các vấn đề cần phải xử lý trong quá trình tái cơ cấu và xử lý nợ xấu của các TCTD. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã tham mưu, giúp Thống đốc NHNN thực hiện tốt nhiệm vụ cấp và thu hồi giấy phép bảo đảm các TCTD được mở các hiện diện, tiến hành các hoạt động kinh doanh mới phù hợp với quy định của pháp luật và năng lực quản trị của TCTD, đồng thời xử lý việc rút giấy phép, đóng cửa, giải thể các TCTD, chi nhánh ngân hàng diễn ra một cách suôn sẻ, không gây tác động đến an toàn hệ thống. Hàng ngàn đơn thư khiếu nại, tố cáo được xử lý kịp thời đúng quy định của pháp luật, không để phát sinh các vụ việc kéo dài để bảo đảm quyền, nghĩa vụ của các bên liên quan trong thực hiện pháp luật. Công tác tiếp công dân được tiến hành thường xuyên, đúng pháp luật để lắng nghe các ý kiến phản ánh, đề nghị của người dân, đồng thời có biện pháp xử lý phù hợp. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện tốt công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng và tội phạm trong ngành Ngân hàng nhằm góp phần phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, tiêu cực, tham nhũng. Công tác phòng, chống rửa tiền của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng ngày càng phát triển, đóng vai trò quan trọng trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thông qua thu thập, tổng hợp, phân tích thông tin về các giao dịch đáng ngờ, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã chuyển thông tin về nhiều vụ việc cho các cơ quan chức năng để xử lý theo thẩm quyền, đặc biệt là hỗ trợ cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Với sự nỗ lực của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng và sự hợp tác chặt chẽ


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

của các cơ quan chức năng, tháng 02/2014 Việt Nam chính thức được đưa ra khỏi Quy trình rà soát của ICRG thuộc Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FATF) sau gần 4 năm chịu áp dụng cơ chế này. Cho đến nay, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã xây dựng được mối quan hệ công tác tốt đẹp với các cơ quan, tổ chức ở trong nước và nước ngoài, đồng thời đã ký biên bản hợp tác với nhiều cơ quan thanh tra, giám sát và các cơ quan phòng, chống rửa tiền nước ngoài. Với vai trò là đơn vị đầu mối tham mưu giúp Thống đốc triển khai nhiệm vụ tái cơ cấu và xử lý nợ xấu của các TCTD, Cơ quan Thanh tra, giám sát đã góp phần quan trọng trong việc xử lý các TCTD yếu kém, sáp nhập, hợp nhất, mua lại các TCTD và triển khai các giải pháp xử lý những rủi ro, vi phạm pháp luật, tăng cường năng lực tài chính, cải thiện hệ thống quản trị rủi ro của TCTD; nợ xấu của các TCTD đã được kiềm chế và được xử lý một bước quan trọng bằng việc thành lập Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam. Nhờ đó, sự an toàn, lành mạnh của hệ thống các TCTD từng bước được cải thiện, số lượng các TCTD yếu kém giảm dần và các nguy cơ đổ vỡ, gây mất an toàn hệ thống từng bước được đẩy lùi. Có thể nói, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã lớn lên trong gian khó. 5 năm qua, đặc biệt kể từ năm 2012 thực sự là quãng thời gian khó khăn nhất với một tổ chức non trẻ do phải thực hiện một khối lượng công việc khổng lồ, những nhiệm vụ chính trị khó khăn, phức tạp, trong khi các điều kiện bảo đảm thực thi tốt nhiệm vụ được giao còn chưa đủ, chẳng hạn sự hạn chế về nguồn nhân lực, bộ máy lãnh đạo chậm được kiện toàn, hạ tầng công nghệ yếu kém, khuôn khổ pháp lý chưa đồng bộ. Những khó khăn nhất, áp lực lớn nhất từ công việc đã và đang đè nặng lên cán bộ, công chức Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng bởi trách nhiệm của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng với hệ thống ngân hàng trong khi các TCTD, hoạt động ngân hàng còn rất nhiều vấn đề phải xử lý để hướng đến một hệ thống ngân

hàng hoạt động an toàn, lành mạnh, hiệu quả hơn theo Đề án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015. Câu nói “Lửa thử vàng, gian nan thử sức” đã đúng khi Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã phải trải nghiệm qua rất nhiều khó khăn, nhưng vẫn phải phát triển và tiến về phía trước. Đáng quý không kém phần cho Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là sự tích luỹ cho mình những kinh nghiệm, bản lĩnh vượt khó. Cán bộ, công chức Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng luôn tự hào được làm việc trong một giai đoạn đáng nhớ nhất và có ý nghĩa nhất đối với sự phát triển của ngành Ngân hàng Việt Nam. Bằng sự nỗ lực vươn lên, sự đoàn kết nội bộ và tinh thần trách nhiệm của toàn thể cán bộ, công chức dưới sự lãnh đạo của Ban Cán sự Đảng, Ban lãnh đạo NHNN mà trực tiếp là sự chỉ đạo, điều hành của Đảng uỷ, Ban lãnh đạo Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng và sự hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong và ngoài ngành, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã từng bước vượt qua khó khăn, thách thức để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao phó, liên tục phát triển và đóng góp một cách có ý nghĩa và quan trọng hơn vào sự nghiệp đổi mới và phát triển của ngành Ngân hàng. Với những thành tích đạt được trong 5 năm qua, chúng ta có thể khẳng định rằng việc thành lập Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là hoàn toàn đúng đắn. Mô hình Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng hôm nay là kết quả của sự đổi mới về tư duy chiến lược và sự lựa chọn đúng đắn định hướng đổi mới, phát triển của Đảng, Chính phủ và NHNN đối với khu vực thanh tra, giám sát ngân hàng nhằm góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về tiền tệ, ngân hàng và bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống các TCTD. 17


XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH - BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU LỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH VỰC TIỀN TỆ, NGÂN HÀNG Thạc sĩ Nguyễn Đăng Hồng Thành viên Hội đồng thành viên Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Nguyên Phó Chánh TTGSNH

N

gày 10/12/2004, Chính phủ ban hành Nghị định

có hiệu lực như: Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005;

số 202/2004/NĐ-CP về

lực từ ngày 01/01/2014); Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

xử phạt vi phạm hành

năm 2010 (thay thế Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm

chính trong lĩnh vực tiền

1997 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng

tệ và hoạt động ngân

Nhà nước Việt Nam năm 2003); Luật các Tổ chức tín dụng năm

hàng. Qua gần 10 năm

2010 (thay thế Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997 và Luật

áp dụng, Nghị định số

sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín dụng

202/2004/NĐ-CP đã tạo cơ sở pháp lý cơ bản trong việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, góp phần tích cực tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của Ngân hàng Nhà nước, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của các tổ chức, cá nhân, đảm bảo an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng. Tuy

một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối ngày 18/3/2013 (có hiệu

năm 2004); Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012; Luật Bảo hiểm tiền gửi năm 2012… Nhiều văn bản hướng dẫn thi hành các luật trên đã được ban hành. Do đó, nhiều hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng chưa được quy định trong Nghị định số 202/2004/NĐ-CP, dẫn đến khó khăn trong việc xử lý vi phạm.

nhiên, đến nay Nghị định số 202/2004/NĐ-CP bộc lộ bất

- Về mặt thực tiễn, trong tiến trình hội nhập, hệ thống

cập, hạn chế, không còn phù hợp với thực tế, thể hiện ở

ngân hàng Việt Nam đã tiếp thu và ứng dụng nhiều sản phẩm

một số nội dung sau:

công nghệ, nghiệp vụ ngân hàng mới. Từ đó, trong thực tiễn

- Về mặt pháp lý, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về tiền tệ, ngân hàng đã có nhiều sửa đổi, bổ sung. Nhiều luật được ban hành sau ngày Nghị định số 202/2004/NĐ-CP 18

Pháp lệnh Ngoại hối năm 2005; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung

đã phát sinh các hành vi vi phạm nhưng chưa được bổ sung kịp thời vào Nghị định số 202/2004/NĐ-CP. - Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

nhanh chóng trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, các hành vi

định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ,

vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này cũng rất đa dạng, tinh

ngân hàng, thay thế Nghị định số 202/2004/NĐ-CP. Nghị định

vi và có khả năng gây hậu quả lớn về kinh tế, tài chính; nhiều

mới có những nội dung mang tính đổi mới, đột phá sau:

vụ việc vi phạm liên quan đến người quản lý, điều hành, cán bộ ngân hàng vi phạm quy định trong quản lý, điều hành tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, Nghị định số 202/2004/NĐ-CP chưa bao quát đầy đủ các hành vi vi phạm. Mặt khác, Nghị định còn thiếu chế tài xử phạt, hoặc có chế tài xử phạt nhưng chủ yếu là bằng tiền đối với một số hành vi vi phạm; mức phạt tiền tối đa theo quy định tại Nghị định số 202/2004/NĐ-CP là 70 triệu đồng, mặc dù đã được nâng lên 500 triệu đồng theo quy định tại Nghị định số 95/2011/NĐ-CP ngày 20/10/2011 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 202/2004/NĐ-CP ngày 10/12/2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, nhưng lại chỉ áp dụng xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định về hoạt động ngoại hối và kinh doanh vàng. Do đó, biện pháp này chưa đủ sức răn đe, hạn chế hành vi vi phạm.

- Với 4 Chương, 55 Điều, Nghị định đã bổ sung nhiều hành vi vi phạm thuộc các hoạt động, nghiệp vụ mới như: vi phạm quy định về cổ phần, cổ phiếu; ủy thác, nhận ủy thác và hoạt động liên ngân hàng; mua trái phiếu doanh nghiệp; hoạt động thông tin tín dụng của tổ chức hoạt động thông tin tín dụng; bảo hiểm tiền gửi; phòng, chống rửa tiền; thanh toán; cụ thể hóa thêm các hành vi vi phạm về cấp tín dụng, huy động vốn, cấp phép, quản lý tiền tệ và an toàn kho quỹ, an toàn hoạt động ngân hàng, hoạt động ngoại hối và kinh doanh vàng… - Mức phạt tiền đối với một hành vi vi phạm rất cao, tối đa là 1,2 tỷ đồng đối với tổ chức (mức phạt tiền đối với cá nhân bằng 1/2 mức phạt tiền đối với tổ chức); tách bạch mức phạt tiền đối với Quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô bằng 10% so với mức phạt tiền đối với tổ chức tín dụng khác. Mức phạt tiền tối đa áp dụng đối với một số hành vi vi phạm

- Theo quy định tại Nghị định số 202/2004/NĐ-CP, mức

quy định về quản lý và sử dụng giấy phép; cổ phần, cổ phiếu;

phạt bằng tiền áp dụng chung cho tất cả các tổ chức tín dụng.

an toàn hoạt động ngân hàng; hoạt động ngoại hối và kinh

Do đó, không phù hợp với Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở là

doanh vàng; phòng, chống rửa tiền…

loại hình tổ chức tín dụng hợp tác mang tính tương trợ, cộng đồng, vốn điều lệ có quy mô nhỏ, dẫn đến khó khăn trong việc xử lý vi phạm.

- Bổ sung thêm các chế tài áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả; trong đó có các chế tài rất mạnh như: chưa cho chia cổ tức đối với tổ chức tín dụng có vi phạm; buộc thoái vốn

Tình hình trên cho thấy việc bổ sung, sửa đổi Nghị định

tại công ty con, công ty liên kết; buộc cổ đông, thành viên góp

số 202/2004/NĐ-CP là rất cấp thiết. Qua nhiều lần chỉnh sửa,

vốn của tổ chức tín dụng chuyển nhượng cổ phần, vốn góp

bổ sung dự thảo Nghị định, đến đầu tháng 6 năm 2014, Ngân

của tổ chức tín dụng; không cho mở rộng phạm vi, quy mô và

hàng Nhà nước Việt Nam đã trình Chính phủ ban hành Nghị

địa bàn hoạt động đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân 19


hàng nước ngoài có vi phạm; đề nghị hoặc yêu cầu cấp có thẩm quyền xem xét, áp dụng biện pháp đình chỉ có thời hạn hoặc miễn nhiệm chức danh quản trị, điều hành, kiểm soát; không cho đảm nhiệm chức vụ quản trị, điều hành, kiểm soát tại các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với cá nhân vi phạm và/hoặc cá nhân chịu trách nhiệm đối với hành vi vi phạm… Cùng với quy định mức phạt bằng tiền rất cao đối với một hành vi vi phạm, việc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả trên nhằm răn đe, hạn chế hành vi vi phạm, khắc phục triệt để tình trạng cá nhân vi phạm, gây tổn thất cho tổ chức tín dụng này nhưng lại được giữ chức danh quản trị, điều hành, kiểm soát tại tổ chức tín dụng khác, tiếp tục gây tổn thất cho tổ chức tín dụng đó. - Bổ sung thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với Cục trưởng Cục thanh tra, giám sát ngân hàng tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh (được thành lập theo Quyết định số 35/2014/NĐ-CP ngày 12/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) với mức phạt tiền tối đa đối với tổ chức là 500 triệu đồng. Việc trao thẩm quyền cho Cục trưởng Cục thanh tra, giám sát ngân hàng nêu trên nhằm khắc phục bất cập của Luật Xử lý vi phạm hành chính khi quy định mức phạt tiền đối với Chánh thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tối đa là 100 triệu đồng (tương đương mức phạt bằng tiền của Chánh thanh tra Sở); trong khi đó mức phạt bằng tiền đối với Chánh thanh tra, giám sát ngân hàng là 1,2 tỷ đồng (mức phạt bằng tiền của Chánh thanh tra Bộ đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài chính, tín dụng, ngân hàng 20

theo Luật Xử lý vi phạm hành chính, tối đa đến 2 tỷ đồng) dẫn đến việc xử phạt vi phạm hành chính sẽ tập trung vào Chánh thanh tra, giám sát ngân hàng do vượt thẩm quyền xử phạt của Chánh thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Như vậy, với những đột phá trên, xử phạt vi phạm hành chính sẽ trở thành biện pháp xử lý vi phạm mạnh mẽ, tác động trực tiếp đến kết quả hoạt động của tổ chức tín dụng và cá nhân, tổ chức khác có hành vi vi phạm trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng. Qua đó góp phần tích cực nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng. Để đáp ứng mục tiêu, yêu cầu trên, tôi xin kiến nghị một số vấn đề sau: 1. Về công tác thanh tra, giám sát: Tiếp tục chuyển mạnh sang phương thức thanh tra trên cơ sở rủi ro là việc làm rất cần thiết để bắt kịp thông lệ quốc tế về thanh tra, giám sát. Nếu chỉ thanh tra chủ yếu là xem xét việc chấp hành pháp luật của tổ chức tín dụng (thường gọi là thanh tra tuân thủ) thì tác dụng không cao, vì là hậu kiểm và nếu phát hiện được sai phạm thì hậu quả đã xảy ra, thiệt hại đã có trong thực tế; sẽ không dự báo được các mức độ rủi ro của tổ chức tín dụng giữa hai kỳ thanh tra. Tuy nhiên, xét thực tiễn Việt Nam, cần lưu ý đến thực tế là ý thức chấp hành pháp luật của lãnh đạo và nhân viên của nhiều tổ chức tín dụng chưa cao, hệ thống pháp luật Việt Nam còn nhiều bất cập, chưa thực sự ổn định thì cần kết hợp hài hòa giữa phương thức thanh tra trên cơ sở rủi ro với thanh tra việc chấp hành pháp luật của tổ chức tín dụng. Về chọn đối tượng thanh tra, trong quá trình lập kế hoạch thanh tra hàng năm,


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

hướng tới mục tiêu đảm bảo cho tổ chức tín dụng hoạt động an toàn, hiệu quả. Do đó, các Đoàn thanh tra chỉ nên xem xét, lập biên bản vi phạm hành chính và ra ngay quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền đối với hành vi vi phạm đơn giản, rõ ràng, mức phạt bằng tiền thấp. Đối với hành vi vi phạm có mức phạt bằng tiền cao, tình tiết phức tạp, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của tổ chức tín dụng, Đoàn thanh tra chỉ nên lập biên bản làm việc, ghi nhận hành vi vi phạm, báo cáo người ra quyết định thanh tra để xin thêm ý kiến trước khi lập biên bản vi phạm hành chính và ra quyết định xử phạt ngay theo thẩm quyền hoặc tiếp tục nghiên cứu, làm rõ các nội dung có liên quan, củng cố chứng cứ, căn cứ pháp lý, trên cơ sở đó lập biên bản vi phạm hành chính trước thường tăng tần suất thanh tra đối với tổ chức tín dụng có nhiều yếu kém, hoạt động có rủi ro cao. Do đó, trong giai đoạn

khi kết thúc thanh tra tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

chuẩn bị thanh tra, các Đoàn thanh tra cần nắm tình hình hoạt

3. Theo dự thảo Nghị định đã trình Chính phủ ban

động của tổ chức tín dụng trong thời hiệu thanh tra để lượng

hành, có nhiều hành vi vi phạm mới so với Nghị định số

định khả năng, lĩnh vực hoạt động, nghiệp vụ có vi phạm để

202/2004/NĐ-CP. Do đó, trong quá trình xử phạt vi phạm

tính thời gian thanh tra và bố trí cán bộ có kinh nghiệm nhằm

hành chính, người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm

kịp thời phát hiện, xử lý hành vi vi phạm.

hành chính cần lưu ý lập biên bản đối với hành vi vi phạm

2. Một trong những nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính là kịp thời phát hiện và xử lý hành vi vi phạm. Do đó,

của tổ chức, cá nhân đã được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật (Luật, Pháp lệnh, Nghị định của Chính phủ, Thông tư của Ngân hàng Nhà nước và Bộ, Ngành khác). Việc

trong quá trình thanh tra, việc Đoàn thanh tra kịp thời phát

áp dụng mức phạt bằng tiền phải trên cơ sở mức phạt trung

hiện, lập biên bản vi phạm hành chính và ra quyết định xử

bình giữa mức tối đa và tối thiểu của hành vi vi phạm quy

phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền là rất cần thiết

định tại Nghị định; áp dụng mức phạt bằng tiền trên trung

để phòng ngừa, răn đe tổ chức, cá nhân vi phạm. Tuy nhiên,

bình tới mức tối đa nếu có tình tiết tăng nặng; áp dụng

thực tế xử phạt vi phạm hành chính thời gian qua cho thấy

mức phạt bằng tiền dưới trung bình tới mức tối thiểu nếu

các Đoàn Thanh tra cần hết sức lưu ý, cân nhắc khi vận dụng

có tình tiết giảm nhẹ để đảm bảo tính công bằng, nghiêm

nguyên tắc này. Quá trình quản lý, thanh tra, giám sát luôn

minh của pháp luật, tránh phát sinh khiếu kiện. 21


4. Trường hợp phát hiện hành vi vi phạm qua công tác

Đoàn thanh tra cần lưu ý xem xét tính hiệu quả khi áp dụng

giám sát hoặc qua các nguồn thông tin khác, việc xử lý hành

từng biện pháp cụ thể như: không cho mở rộng phạm vi, quy

vi vi phạm cần đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật. Cấp

mô và địa bàn hoạt động đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh

có thẩm quyền có thể ra quyết định thanh tra đột xuất hoặc

ngân hàng nước ngoài có vi phạm; đề nghị cấp có thẩm quyền

có văn bản cử Tổ hoặc Đoàn công tác đến làm việc tại tổ chức

thu hồi giấy phép hoạt động, giấy phép, giấy chứng nhận do

tín dụng (Tổ hoặc Đoàn công tác phải từ 02 người trở lên). Tổ

cơ quan có thẩm quyền cấp về một hoặc một số hoạt động

hoặc Đoàn công tác phải lập biên bản làm việc, trong đó xác

dịch vụ ngân hàng và một số hoạt động kinh doanh khác

định rõ tình tiết vụ việc dẫn đến hành vi vi phạm, ý kiến giải

thuộc lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng…; báo cáo người ra quyết

trình của tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm. Trên cơ sở đó

định thanh tra cho ý kiến.

lập biên bản vi phạm hành chính và ra quyết định xử phạt theo thẩm quyền hoặc chuyển cấp có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Tuyệt đối không lập biên bản vi phạm hành chính nếu không có căn cứ xác định có hành vi vi phạm hành chính. 5. Thực tế công tác thanh tra, giám sát thời gian qua

Thanh tra hành chính là lĩnh vực mới; đối tượng là các đơn vị tại Trụ sở chính của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Để thực hiện có hiệu quả công tác thanh tra hành chính, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng cần phối hợp

cho thấy một số tổ chức tín dụng, nhất là một số tổ chức tín

với Vụ Kiểm toán nội bộ phân định rõ phạm vi thanh tra hành

dụng nước ngoài có hoạt động nghiệp vụ liên quan đến hoạt

chính, Đoàn thanh tra cần nghiên cứu kỹ trình tự, thủ tục và

động thanh toán, ngoại hối, cấp tín dụng như hoạt động bồi

nội dung các kết luận thanh tra đã ban hành để đánh giá việc

hoàn, bồi hoàn thư tín dụng, tài trợ thương mại… nhưng chưa

thực hiện quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành

có quy phạm pháp luật điều chỉnh. Nếu gặp các trường hợp

chính; kiến nghị xử lý các trường hợp làm sai hoặc né tránh,

này, Đoàn thanh tra không nên lập biên bản vi phạm hành

không xử lý các hành vi vi phạm, nhất là các hành vi vi phạm

chính mà cần lập ngay biên bản làm việc để ghi nhận, mô tả

nghiêm trọng của tổ chức tín dụng và cá nhân thuộc tổ chức

hoạt động, nghiệp vụ này, báo cáo người ra quyết định thanh

tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

tra. Trên cơ sở đó, người ra quyết định thanh tra xem xét, có thể tham vấn các đơn vị, vụ, cục có liên quan để quyết định hình thức xử lý phù hợp; báo cáo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước giao đơn vị chức năng nghiên cứu, đề xuất cơ chế, quy chế điều chỉnh. 6. Về việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, các 22

7. Đối với thanh tra hành chính:

8. Theo quy định tại Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, một số cấp có thẩm quyền (Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Cục trưởng một số cục nghiệp vụ thuộc Bộ Công an, Hải quan) cũng có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với một số hành vi vi phạm về hoạt động ngoại hối


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

và kinh doanh vàng, về thanh toán, quản lý tiền tệ và kho quỹ.

việc triển khai thực hiện Nghị định về xử phạt vi phạm hành

Trong trường hợp này, cán bộ Ngân hàng Nhà nước được cử

chính trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng (thay thế Nghị định số

tham gia các Đoàn liên ngành cần nghiên cứu, tham mưu về

202/2004/NĐ/CP) sau khi Chính phủ ban hành, cần thiết phải

nghiệp vụ cho các Đoàn liên ngành để nâng cao tinh thần

làm tiếp các việc sau:

trách nhiệm, phối hợp công tác tốt với các cơ quan, ban ngành liên quan. 9. Đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng:

- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có văn bản thông báo trong toàn ngành Ngân hàng việc Chính phủ ban hành Nghị định. - Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng phối hợp với

Qua nghiên cứu Luật cạnh tranh và các văn bản pháp

Vụ Pháp chế tổ chức tuyên truyền, phổ biến nội dung Nghị

luật có liên quan, chúng tôi thấy việc xác định hành vi cạnh

định, do Nghị định có nhiều nội dung mới, áp dụng trực tiếp,

tranh không lành mạnh liên quan đến lĩnh vực tiền tệ, ngân

không có Thông tư hướng dẫn.

hàng rất phức tạp, có liên quan đến các tổ chức khác nhau mà việc phát hiện, xử lý ngoài thẩm quyền và khả năng của các Đoàn thanh tra. Theo quy định của Luật Cạnh tranh, việc phát hiện, xử lý hành vi vi phạm liên quan đến lĩnh vực cạnh tranh không lành mạnh thuộc thẩm quyền của Hội đồng cạnh tranh

- Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng tổ chức tập huấn trong toàn hệ thống Thanh tra, giám sát ngân hàng về nội dung và việc áp dụng Nghị định trong quá trình quản lý, thanh tra, giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng.

và Thủ trưởng Cơ quan quản lý cạnh tranh. Nghị định về xử lý vi

Nội dụng tập huấn cần nêu thêm ý thức, trách nhiệm đối với

phạm trong lĩnh vực cạnh tranh không quy định thẩm quyền

thanh tra viên và cán bộ thanh tra, tránh hành vi lạm quyền khi

xử phạt vi phạm hành chính của Thanh tra chuyên ngành. Do

xử phạt đối với tổ chức tín dụng, đồng thời tránh tư tưởng né

đó, đề nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tiếp tục giao Cơ

tránh, ngại xử phạt. Do mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm

quan Thanh tra, giám sát ngân hàng chủ trì, phối hợp với đơn

rất cao, biện pháp khắc phục hậu quả có chế tài mạnh nên sẽ

vị có liên quan nghiên cứu, xây dựng Nghị định về cạnh tranh

phát sinh đơn thư khiếu kiện. Vì vậy, cần kết hợp giới thiệu một

trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng; trong đó làm rõ hành vi cạnh

số nội dung cơ bản của pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong

tranh không lành mạnh, mức phạt bằng tiền hoặc phạt theo

quá trình tập huấn.

tỷ lệ phần trăm doanh thu của tổ chức, cá nhân vi phạm; trình tự, thủ tục, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng. 10. Cuối cùng, do tính chất đặc biệt quan trọng của

- Lập một Tổ công tác theo dõi việc các đơn vị trong ngành Ngân hàng triển khai thực hiện Nghị định để kịp thời tham mưu cho Lãnh đạo xử lý các khó khăn, vướng mắc do các đơn vị đề nghị, phản ánh; định ký 6 tháng, năm sơ kết thực hiện Nghị định. 23


Công tác thanh tra ngân hàng: 5 năm đổi mới và phát triển Thạc sĩ Đỗ Thị Nhàn Vụ trưởng - Vụ Thanh tra các tổ chức tín dụng trong nước

K

inh tế thế giới nói chung và thị trường tiền tệ - tài chính

Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã nhanh chóng triển khai hàng

thế giới nói riêng đã trải qua giai đoạn nhiều biến động

loạt giải pháp nhằm tạo lập lại ổn định trong hệ thống, từng

và đầy khó khăn. Bắt nguồn từ sự đổ vỡ của Ngân hàng

bước tăng cường năng lực tài chính và quản trị trong các

đầu tư Lehman Brothers vào cuối năm 2007 đã biến thành

ngân hàng. Đề án tái cơ cấu các TCTD đến năm 2015 ra đời và

cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới vào tháng 8/2008. Cục

theo đó 5 năm qua, công tác thanh tra ngân hàng đã không

Dự trữ liên bang Mỹ (FED) buộc phải thi hành biện pháp khẩn

ngừng đổi mới và gánh vác khối lượng công việc khổng lồ

cấp nhằm cứu vãn các ngân hàng trước nguy cơ sụp đổ do

nhằm ổn định thị trường, góp phần thực hiện đề án tái cơ

các khoản cho vay nợ thế chấp khó đòi. Khi thế giới chưa lấy

cấu, xử lý nợ xấu của ngành Ngân hàng.

lại đà cân bằng từ tác động của cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn tại Mỹ thì tiếp đó, cuộc khủng hoảng nợ công tại châu Âu đẩy kinh tế và tài chính thế giới vào vị thế khó khăn hơn. Bối cảnh kinh tế - tài chính đó đã có tác động không nhỏ tới Việt Nam và nền tài chính Việt Nam cũng dần bộc lộ những điểm yếu mặc dù có độ trễ so với thế giới. Kể từ cuối năm 2011, hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) đứng trước rủi ro lớn khi nhiều ngân hàng rơi vào tình trạng thiếu hụt thanh khoản, nợ xấu tăng cao, không đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn, nguy cơ rủi ro cao… Bên cạnh đó, các TCTD đặc biệt là khối ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) xuất hiện nhiều vụ việc phức tạp, gây tổn thất lớn cho ngân hàng, cá nhân và cả xã hội. Đối phó với khó khăn trên, Chính phủ và Ngân hàng 24

Đổi mới công tác thanh tra ngân hàng Đặc điểm công tác thanh tra ngân hàng những năm trước đây là thanh tra mang tính đơn lẻ theo kế hoạch riêng của mỗi NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố; nội dung thanh tra thu hẹp theo từng chuyên đề; phương pháp thanh tra giới hạn ở thanh tra chấp hành pháp luật; thông tin “chỉ điểm” thường không trúng và đúng. Theo đó, hiệu quả của công tác thanh tra còn nhiều hạn chế như: không phát hiện được những rủi ro mang tính hệ thống; không đánh giá chính xác thực trạng tài chính của pháp nhân TCTD; còn có hiện tượng thanh tra chồng chéo giữa trung ương và NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố… Bên cạnh đó, chất lượng thanh tra chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra do cùng một vấn đề, vi phạm nghiệp vụ của NHTM nhưng quan điểm xử lý của các NHNN chi nhánh tỉnh,


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

thành phố lại khác nhau; các vi phạm chỉ ra còn chung chung,

phát triển vượt bậc khi phương pháp thanh tra được chuyển

không quy rõ đối tượng chịu trách nhiệm nên công tác theo

từ thanh tra chấp hành pháp luật sang kết hợp với thanh tra

dõi, giám sát thực hiện chấn chỉnh sau thanh tra gặp nhiều

rủi ro. Phương pháp thanh tra dựa trên cơ sở rủi ro chủ yếu tập

khó khăn … Đồng thời, phương pháp này cũng làm cho việc

trung vào xem xét, đánh giá các rủi ro của TCTD; chất lượng và

phân bổ các nguồn lực thanh tra không hợp lý hay nói cách

hiệu quả của hệ thống quản trị rủi ro của TCTD; đánh giá hệ

khác không tập trung nguồn lực cho những lĩnh vực, TCTD

thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ của TCTD; và đánh giá các

bị đánh giá là có rủi ro cao đối với sự an toàn của hệ thống

rủi ro khác của TCTD. Phương pháp này giúp thanh tra ngân

tài chính trong bối cảnh các giao dịch ngân hàng ở Việt Nam

hàng đánh giá, đo lường và giảm thiểu rủi ro của các TCTD –

ngày càng phức tạp.

mục đích chính của hoạt động thanh tra.

Trước thực trạng trên, Ban Lãnh đạo NHNN đã có quyết

Thứ hai, hình thức triển khai thanh tra cũng được

định đúng đắn về tăng cường chức năng thanh tra, giám sát

thay đổi để phù hợp với đổi mới trong phương pháp thanh

đối với hệ thống tài chính ngân hàng. Ngày 01/8/2009, Cơ

tra. Lần đầu tiên thanh tra ngân hàng đã thực hiện được chỉ

quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã được thành lập theo

đạo mang tính hệ thống. Theo đó, các cuộc thanh tra pháp

Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg ngày 27/5/2009. Theo đó, Cơ

nhân được chỉ đạo thực hiện từ Cơ quan Thanh tra, giám sát

quan Thanh tra, giám sát ngân hàng được thành lập dựa trên

ngân hàng xuống các NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố. Cơ

cơ sở tổ chức lại 4 đơn vị trực thuộc NHNN gồm: Thanh tra

quan Thanh tra, giám sát ngân hàng giao Vụ Thanh tra các

Ngân hàng, Vụ Các ngân hàng, Vụ các TCTD hợp tác và Trung

TCTD trong nước làm đầu mối trong việc chỉ đạo, theo dõi,

tâm Thông tin phòng, chống rửa tiền. Với cơ cấu tổ chức mới, công tác thanh tra ngân hàng có thay đổi tích cực từ nội dung đến phương thức thanh tra thể hiện trên các mặt sau:

hỗ trợ Thanh tra, giám sát NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố thực hiện kế hoạch thanh tra pháp nhân, cụ thể: (i) tham mưu giúp Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng trưng tập cán

Thứ nhất, đổi mới về phương pháp thanh tra, theo

bộ thanh tra chi nhánh thực hiện các cuộc thanh tra pháp

đó, thanh tra ngân hàng được chuyển đổi từ thanh tra đơn lẻ

nhân; (ii) thông qua phần mềm giám sát theo công văn số

sang thanh tra toàn diện pháp nhân TCTD. Hay nói cách khác,

196/NHNN-TTGSNH ngày 31/3/2010 của Thống đốc NHNN,

công tác thanh tra được mở rộng cả về quy mô và phạm vi,

cung cấp những thông tin định hướng quan trọng cho các

các đoàn thanh tra sẽ triển khai thanh tra tại chỗ từ Hội sở

đoàn thanh tra pháp nhân, giúp công tác thanh tra được thực

chính đến các chi nhánh và phòng giao dịch của đối tượng

hiện nhanh và có trọng tâm, trọng điểm hơn; (iii) tham mưu

thanh tra, từ đó kết quả thanh tra có thể đánh giá tổng thể về

giúp Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng thành lập các tổ

pháp nhân TCTD. Bên cạnh đó, công tác thanh tra đã có bước

công tác xuống làm việc với thanh tra NHNN chi nhánh tỉnh, 25


thành phố để phổ biến Kế hoạch thanh tra chuyên ngành và

nội bộ, trần lãi suất, miễn, giảm lãi suất, cơ cấu lại nợ, các tỷ

tập huấn nghiệp vụ thanh tra pháp nhân nhằm đảm bảo yêu

lệ an toàn hoạt động ngân hàng… Ngoài ra, Vụ Thanh tra các

cầu và mục tiêu của Thống đốc NHNN đối với Kế hoạch thanh

TCTD trong nước đã tham mưu giúp Chánh Thanh tra, giám

tra chuyên ngành hàng năm; (iv) Từ năm 2010 đến 2014, chế

sát ngân hàng chỉ đạo các đoàn thanh tra tại chỗ có kết luận

độ báo cáo kết quả công tác thanh tra cũng dần được hoàn

rõ ràng về các vi phạm pháp luật (nếu có) và xác định rõ trách

thiện. Theo đó, Vụ Thanh tra các TCTD trong nước thiết kế,

nhiệm của tập thể, cá nhân liên quan trong từng vụ việc cụ

xây dựng các biểu mẫu tổng hợp báo cáo kết quả thanh tra

thể, đồng thời đề xuất các biện pháp xử lý, cơ cấu lại TCTD và

hướng dẫn thanh tra NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố thực

kiến nghị chỉnh sửa, bổ sung cơ chế, chính sách (nếu có). Vì

hiện định kỳ, qua đó giúp Chánh Thanh tra, giám sát ngân

vậy, kết quả thanh tra đã được nâng cao, các đoàn thanh tra

hàng theo dõi sát sao kết quả thanh tra trên toàn hệ thống để

tại chỗ đã chỉ ra các sai phạm chủ yếu, có tính hệ thống như:

báo cáo Thống đốc NHNN có chỉ đạo kịp thời, đạt yêu cầu và

nhiều NHTMCP đều báo cáo lãi và tỷ lệ nợ xấu thấp nhưng qua

mục tiêu của Kế hoạch thanh tra chuyên ngành.

kết quả thanh tra thì lỗ lớn, vốn chủ sở hữu âm, tỷ lệ nợ xấu rất

Thứ ba, nội dung thanh tra được xác định trên cơ sở rủi ro và tập trung một số vấn đề như: (i) Đánh giá được thực trạng tài chính của từng TCTD được thanh tra pháp nhân; xác định cụ thể số lãi (lỗ), nguyên nhân lỗ; trách nhiệm của tập thể, cá nhân có liên quan. Trong đó, xác định các khoản tổn thất; xác định mức trích lập dự phòng rủi ro các tài sản tài chính; xuất toán lãi phải thu quá hạn; (ii) Làm rõ được tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông, nhóm cổ đông và người liên quan; (iii) Đối với các khoản cấp tín dụng của từng TCTD được thanh tra pháp nhân cần làm rõ dư nợ cấp tín dụng của 01 khách hàng và người có liên quan; dư nợ cấp tín dụng của 01 cổ đông, nhóm cổ đông và người có liên quan; làm rõ bản

26

cao và chất lượng tài sản rất xấu; một số cá nhân lợi dụng sơ hở của pháp luật đã có nhiều thủ đoạn thao túng hoạt động ngân hàng để vay số tiền lớn của NHTMCP; vi phạm Luật các TCTD và quy định của NHNN phổ biến và nghiêm trọng đối với các vấn đề về: tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông và người có liên quan; tỷ lệ đảm bảo an toàn trong kinh doanh… Thứ tư, Vụ Thanh tra các TCTD trong nước làm đầu mối để đề xuất lên lãnh đạo các cấp triển khai công tác thanh tra trong ngành Ngân hàng theo đúng quy định tại Luật thanh tra, Nghị định hướng dẫn Luật thanh tra và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Theo đó, công tác thanh tra ngày càng đi vào nề nếp.

chất của các khoản ủy thác, các khoản phải thu, tài sản có

Thứ năm, tổ chức tốt việc thực hiện các kiến nghị sau

khác; (iv) Tình hình chấp hành các quy định pháp luật về hoạt

thanh tra nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác

động ngân hàng, đặc biệt là việc huy động vốn, hoạt động tín

thanh tra, giám sát, góp phần nâng cao trật tự, kỷ cương trên

dụng và các quy định quản trị, điều hành, kiểm tra, kiểm soát

thị trường tiền tệ - ngân hàng. Vụ Thanh tra các TCTD trong


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

nước đã xây dựng biểu mẫu theo dõi tình hình thực hiện các

các TCTD trong nước đã thực hiện khối lượng công tác thanh

kết luận, kiến nghị sau thanh tra, kiểm tra theo hệ thống pháp

tra khổng lồ. Cụ thể, từ năm 2009 đến nay, Vụ Thanh tra các

nhân TCTD và tổng hợp từ 63 NHNN chi nhánh tỉnh, thành

TCTD trong nước đã thực hiện hơn 100 cuộc thanh tra, kiểm

phố. Từ đó, Vụ Thanh tra các TCTD trong nước tham mưu cho

tra, trong đó, từ năm 2012 đến nay, Vụ Thanh tra các TCTD

Ban lãnh đạo các cấp có văn bản chỉ đạo các TCTD nghiêm

trong nước đã triển khai 27 cuộc thanh tra pháp nhân. Căn

túc thực hiện các kiến nghị sau thanh tra, chấn chỉnh các

cứ kết quả thanh tra, đánh giá thực trạng của các ngân hàng

nghiệp vụ và hoạt động vi phạm hoặc có rủi ro cao như hoạt

bước đầu xác định một số NHTMCP có hoạt động yếu kém

động vay ké, chi hoa hồng môi giới… Hơn thế nữa, Vụ Thanh

để có biện pháp giám sát, chỉ đạo và yêu cầu từng TCTD xây

tra các TCTD trong nước cũng tham mưu giúp Chánh Thanh

dựng đề án tái cơ cấu theo đúng tinh thần Quyết định 254/

tra, giám sát ngân hàng có văn bản chỉ đạo thanh tra NHNN

QĐ-TTg ngày 01/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết

chi nhánh tỉnh, thành phố theo dõi sát sao và chấn chỉnh kịp

định 734/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN. Từ cuối năm 2011,

thời việc thực hiện các kiến nghị sau thanh tra của TCTD trên

NHNN đã xác định được 09 ngân hàng thương mại cổ phần

địa bàn.

yếu kém cần phải cơ cấu lại và đã chủ động báo cáo Thủ

Thứ sáu, công tác thanh tra ngân hàng được đổi mới

tướng Chính phủ cho phép triển khai một số biện pháp xử lý đối với các ngân hàng này. Năm 2012 và 2013, NHNN tiếp tục

theo hướng minh bạch hoạt động thanh tra, tạo lòng tin đối

xác định thêm một số TCTD yếu kém và đề xuất Thủ tướng

với xã hội. Trước hết là kế hoạch thanh tra chuyên ngành hàng

Chính phủ thực hiện tái cơ cấu.

năm được công khai và công bố, trong đó nêu rõ về các đối tượng thanh tra, các nội dung thanh tra và yêu cầu của Thống đốc NHNN đối với công tác thanh tra chuyên ngành. Bên cạnh việc gửi kế hoạch thanh tra chuyên ngành cho các đối tượng thanh tra; việc công bố sớm kế hoạch thanh tra chuyên ngành hàng năm giúp tránh được sự chồng chéo trong hoạt động thanh tra các cấp. Kết quả công tác thanh tra tại chỗ 5 năm qua

Kết luận thanh tra cũng đưa ra nhiều kiến nghị yêu cầu các TCTD khắc phục tồn tại, sai phạm tập trung vào các vấn đề: quản trị, điều hành, kiểm toán nội bộ, hoạt động tín dụng, thu chi tài chính, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, đầu tư góp vốn, an toàn hệ thống các TCTD. Qua đó, từng bước chấn chỉnh, nâng cao hoạt động nói chung và công tác quản trị, điều hành nói riêng của các TCTD. Ngoài ra, kết quả thanh tra đã góp phần tích cực thực

Công tác thanh tra tại chỗ đã góp phần tích cực trong

hiện thành công Đề án xử lý nợ xấu trong ngành Ngân hàng.

việc đảm bảo sự ổn định và sự phát triển an toàn và lành

Một trong những nội dung trọng tâm của hoạt động thanh

mạnh của hệ thống TCTD. Theo đó, 5 năm qua Vụ Thanh tra

tra là đánh giá đúng chất lượng tín dụng của từng TCTD và 27


của cả hệ thống. Từ đó đưa ra các giải pháp đảm bảo thực

giám sát việc chấp hành chính sách, pháp luật với thanh tra,

hiện thành công Đề án xử lý nợ xấu hệ thống các TCTD, đưa

giám sát rủi ro trong hoạt động của đối tượng thanh tra, giám

tỷ lệ nợ xấu thực tế của từng TCTD xuống dưới 3% theo đúng

sát ngân hàng...

lộ trình Thủ tướng Chính phủ yêu cầu. Công tác thanh tra ngân hàng tiếp tục được hoàn thiện

phê duyệt kế hoạch thanh tra hàng năm cho toàn hệ thống; có thể kéo dài thời hạn thực hiện một cuộc thanh tra trên 70

Mô hình thanh tra hiện tại vẫn còn một số tồn tại, bất cập như: mô hình thanh tra, giám sát NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố bị chia cắt trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ thanh tra, giám sát; song trùng lãnh đạo giữa thanh tra cấp trên và Giám đốc NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố... Theo đó, mô hình thanh tra, giám sát ngân hàng tiếp tục đặt ra yêu cầu phải đổi mới. Ngày 7/4/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 26/2014/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng. Nghị định số 26/2014/NĐ-CP đã thể hiện đổi mới căn bản về mô hình tổ chức thanh tra trong NHNN theo hướng bảo đảm nguyên tắc tập trung, thống nhất trong chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ từ Trung ương đến địa phương, phù hợp với xu hướng tập trung hóa quản trị, điều hành về trụ sở chính của TCTD… tạo khuôn khổ pháp lý về tổ chức cơ bản phù hợp với chức năng, nhiệm vụ có tính đặc thù của thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng. Bên cạnh đó, Nghị định số 26 đã bổ sung thêm quy định làm nền tảng đổi mới phương pháp thanh tra, giám sát tiến dần đến thực hiện thông lệ, chuẩn mực quốc tế như thanh tra, giám sát toàn bộ hoạt động của TCTD, kết hợp thanh tra, 28

Mô hình mới cũng đưa ra các quy định về xây dựng,

ngày theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; giao Thống đốc NHNN hướng dẫn về nội dung báo cáo kết quả thanh tra, nội dung kết luận thanh tra và xử lý sau thanh tra đối với các cuộc thanh tra TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; bổ sung quy định về giám sát ngân hàng… đặc biệt là thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng có quyền yêu cầu thực hiện kiểm toán độc lập phục vụ yêu cầu thanh tra, giám sát ngân hàng... Tóm lại, công tác thanh tra ngân hàng trong thời gian qua đã góp phần không nhỏ trong triển khai nhiệm vụ của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị, góp phần quan trọng thực hiện tái cơ cấu, xử lý nợ xấu và bảo đảm sự an toàn của hệ thống các TCTD.


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

29


Một vài chia sẻ về sự chuyển đổi từ phương pháp thanh tra tuân thủ sang thanh tra trên cơ sở rủi ro đối với khối TCTD nước ngoài Thạc sĩ Nguyễn Thị Thu Hương Vụ trưởng - Vụ Thanh tra các TCTD nước ngoài

S

au 5 năm thành lập (2009 - 2014), Cơ quan Thanh tra,

những thăng trầm cùng khó khăn vướng mắc trong quá trình

giám sát ngân hàng (Cơ quan TTGSNH) đã khẳng định

thực hiện, những thành công vượt lên hoàn cảnh, những bài

vai trò, vị thế quan trọng trong cơ cấu tổ chức của Ngân

học kinh nghiệm được đúc kết với mong muốn góp phần

hàng Nhà nước, hoàn thành tốt nhiệm vụ quản lý, thanh tra,

tích cực hơn cho công cuộc đổi mới của hệ thống thanh tra,

giám sát và tái cơ cấu, xử lý nợ xấu đối với các tổ chức tín dụng

giám sát ngành Ngân hàng.

(TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô, đảm bảo sự an toàn của hệ thống các TCTD và an ninh tiền tệ quốc gia. Một

Năm 2009 là thời điểm Vụ II bắt đầu nghiên cứu thử

trong những thành tựu quan trọng đóng góp vào sự thành

nghiệm phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro trong hoạt

công chung trong hoạt động thanh tra là việc chuyển đổi từ

động thanh tra khối TCTD nước ngoài. Tại thời điểm này, hệ

phương pháp thanh tra tuân thủ sang thanh tra trên cơ sở rủi

thống chuẩn mực (25 nguyên tắc) về thanh tra, giám sát ngân

ro đối với khối TCTD nước ngoài. Bài viết này là những dòng

hàng do Ủy ban Basel đề xuất đã được nhiều quốc gia áp

chia sẻ tâm huyết, với mong muốn gửi lời tri ân đến những

dụng. Cùng với quá trình phát triển của Hiệp ước vốn Basel

cố gắng, nỗ lực không mệt mỏi của tập thể Vụ Thanh tra các

(Basel I, II), Ủy ban Basel còn xây dựng và công bố những tiêu

tổ chức tín dụng nước ngoài (Vụ II), cũng như sự quan tâm của Ban lãnh đạo, Đảng ủy Cơ quan TTGSNH, các đơn vị bạn, những đồng nghiệp luôn sát cánh cùng cán bộ Vụ II.

30

1. Bối cảnh chuyển đổi

chuẩn chung cho các ngân hàng thương mại; trong đó có những tiêu chuẩn về quản trị doanh nghiệp, quản lý rủi ro (rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động, rủi ro thanh

5 năm là một chặng đường của thử thách, của niềm

khoản); các yêu cầu về kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ...

tin sắt son cho công cuộc đổi mới và ghi nhận những thành

Một cách khái quát, các nguyên tắc, khuyến nghị của Ủy ban

công trong hoạt động thanh tra đối với Khối các TCTD nước

Basel đã đưa ra 2 yêu cầu cơ bản đối với Cơ quan Thanh tra,

ngoài. Xin độc giả hãy cùng Vụ II nhìn lại quá trình chuyển đổi,

giám sát ngân hàng: (i) Yêu cầu về thể chế, khung pháp lý cần


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

thiết để đảm bảo hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng

phát từ chính đòi hỏi thực tế của công tác quản lý các TCTD

hiệu quả và (ii) Yêu cầu thanh tra, giám sát ngân hàng theo

nói chung và đặc biệt là TCTD nước ngoài.

định hướng rủi ro hay dựa trên đánh giá rủi ro. Hai yêu cầu này có mối quan hệ mật thiết với nhau, là nền tảng và kết quả của nhau, tạo cơ sở cho quá trình chuyển đổi phương pháp thanh tra, giám sát. Trước xu thế hội nhập và mở cửa thị trường dịch vụ tài chính, ngân hàng hiện nay, đối với nhiều ngân hàng thương mại nói riêng và các quốc gia nói chung thì việc áp dụng những nguyên tắc và khuyến nghị của Basel là yêu cầu cấp thiết nhằm tăng cường năng lực hoạt động, giảm thiểu rủi ro, tiệm cận dần thông lệ, chuẩn mực quốc tế cũng như tăng cường tính thống nhất, tính ổn định tài chính của mỗi quốc gia và trên phạm vi toàn thế giới.

Như vậy, trước xu hướng phát triển mạnh mẽ của các TCTD cả về chiều rộng lẫn chiều sâu; trước bối cảnh quốc tế, khu vực và sự thừa nhận của quốc tế đối với những thông lệ chuẩn mực quốc tế tốt về thanh tra, giám sát ngân hàng, Vụ II nhận thức được rằng, chuyển đổi từ phương pháp thanh tra tuân thủ sang phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro đối với TCTD là một yêu cầu và xu thế tất yếu của Cơ quan TTGSNH nói chung và Vụ II nói riêng. Từ nhận thức này, Vụ II đã quyết tâm vượt khó khăn, thách thức và tập trung nguồn lực cho công cuộc đổi mới hoạt động thanh tra. 2. Khó khăn, vướng mắc

Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống các TCTD tại Việt Nam (trong đó có khối TCTD nước ngoài)

Nhận thức và hiểu rõ xu thế, tầm quan trọng của việc

ngày càng phát triển về quy mô, phạm vi, mức độ phức tạp,

chuyển đổi phương pháp thanh tra nhưng tập thể Vụ II cũng

sự đa dạng về sản phẩm dịch vụ và ngày càng tiềm ẩn nhiều

đồng thời nhận thức rõ những khó khăn, thách thức, trở ngại

rủi ro. Song song với quá trình phát triển đó, công tác thanh tra, giám sát ngân hàng đã bộc lộ nhiều bất cập do chủ yếu

trong quá trình này xuất phát từ cả yếu tố chủ quan lẫn khách quan.

dựa vào phương pháp thanh tra tuân thủ, chưa có khả năng phát hiện, cảnh báo sớm rủi ro và kiểm soát kịp thời, hiệu

Thứ nhất, về nguồn lực để thực hiện thanh tra trên cơ sở rủi ro

quả rủi ro đối với từng tổ chức tín dụng của hệ thống ngân hàng. Mặt khác, đối tượng thanh tra, giám sát trực tiếp của Vụ II là những hiện diện tại Việt Nam của các TCTD nước ngoài. Phần lớn trong số những TCTD này là ngân hàng toàn cầu của những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, đã thực hiện

Nguồn lực của Vụ II nhìn chung chưa tương xứng với sự phát triển của khối TCTD nước ngoài, còn nhiều bất cập so với yêu cầu, đòi hỏi của công tác thanh tra trên cơ sở rủi ro. Cụ thể:

theo các chuẩn mực quản trị rủi ro hiện đại (trong đó có Hiệp

- Về số lượng cán bộ: số lượng cán bộ của Vụ II khi

ước vốn Basel II và đang tiến tới Basel III). Vì vậy, việc thực hiện

thành lập có 28 người và đến nay là 35 người với tỷ lệ nữ trên

thanh tra tuân thủ kết hợp với thanh tra trên cơ sở rủi ro xuất

60% trong khi đối tượng thanh tra của Vụ II là 65 TCTD và chi 31


nhánh ngân hàng nước ngoài. - Về trình độ, tư duy của cán bộ: Cán bộ của Vụ II chủ yếu là cán bộ trẻ, ít kinh nghiệm thanh tra, trình độ ngoại ngữ còn bất cập, kiến thức về rủi ro và quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng hạn chế, chưa được đào tạo chuyên sâu về thanh tra trên cơ sở rủi ro và chưa có nhiều cơ hội tiếp cận những dịch vụ ngân hàng mới, các thông lệ, chuẩn mực kế toán quốc tế, thông lệ về giám sát ngân hàng; hạn chế về kỹ năng phân tích, giám sát và tổng hợp. Một bộ phận cán bộ có kinh nghiệm đã quen với tư duy theo phương pháp thanh tra tuân thủ nên gặp nhiều thách thức khi tiếp cận với tư duy thanh tra trên cơ sở rủi ro. Những hạn chế về tư duy và trình độ của cán bộ càng bộc lộ rõ hơn khi thanh tra, giám sát đối tượng TCTD nước ngoài. Thứ hai, khó khăn trong hoạt động thanh tra, giám sát - Về hành lang pháp lý và công cụ hỗ trợ Thanh tra theo định hướng rủi ro đã được quy định tại Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 (có hiệu lực từ 1/1/2011)

32

chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể. Do đó trong quá trình thực hiện, người ra quyết định thanh tra cũng như thanh tra viên gặp không ít trở ngại trong việc đánh giá tính tuân thủ pháp luật Việt Nam, cũng như trong quá trình kết luận, nhận xét, đánh giá về năng lực quản trị rủi ro, mức độ rủi ro đối với nội dung được thanh tra, các khuyến nghị, kiến nghị được đưa ra trên cơ sở kết quả thanh tra, đặc biệt trong điều kiện chưa có cơ chế pháp lý bảo vệ cán bộ làm công tác thanh tra. - Về công tác giám sát Công tác giám sát còn nhiều hạn chế; chưa có tiêu chí/ chỉ số giám sát phù hợp với từng loại hình TCTD; chưa thực sự là nguồn thông tin hữu hiệu cho công tác thanh tra tại chỗ; thông tin dữ liệu còn thiếu, chưa kịp thời; khả năng cảnh báo sớm và xác định trọng tâm, trọng điểm cho các cuộc thanh tra còn khiêm tốn. Phương tiện hỗ trợ cho hoạt động giám sát như hệ thống công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu còn hạn chế, chủ yếu là thủ công. - Về đối tượng thanh tra, giám sát

trong khi Luật Thanh tra năm 2010 không quy định phương

Đối tượng thanh tra, giám sát của Vụ II hầu hết là những

pháp này. Cho đến nay, các văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ

TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có nền tảng công

thanh tra chuyên ngành ngân hàng, về phương pháp thanh

nghệ hiện đại, trình độ quản trị rủi ro tiên tiến, hoạt động toàn

tra, giám sát rủi ro cũng như quy định về quản trị rủi ro tối

cầu, áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế (trong đó có một số

thiểu đối với các TCTD vẫn đang trong quá trình xây dựng. Vì

chuẩn mực mà Việt Nam chưa có quy định hoặc hướng dẫn),

vậy, việc triển khai trên thực tế còn hạn chế về phương pháp,

các sản phẩm cung ứng đa dạng và có độ phức tạp cao; một

chủ yếu dựa vào năng lực, trình độ, kinh nghiệm của thanh tra

số ngân hàng mẹ đã áp dụng Basel II và chuẩn bị áp dụng

viên và các quy định/khuyến nghị của Ủy ban Basel. Đặc biệt,

Basel III. Điều này tạo thuận lợi cho cán bộ Vụ II trong quá trình

đối với một số sản phẩm, nghiệp vụ, các TCTD nước ngoài

học hỏi, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, nhưng đã và đang

triển khai theo thông lệ quốc tế nhưng pháp luật Việt Nam

gây ra những áp lực to lớn khi năng lực, trình độ còn hạn chế.


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

Một trong những đặc thù của khối TCTD nước ngoài là phải

Sự thay đổi về tư duy nhận thức của cán bộ thanh

tuân thủ quy định pháp luật Việt Nam song song với tuân thủ

tra không chỉ dừng lại ở phương pháp thanh tra mà còn thể

quy định của ngân hàng mẹ, trong khi quy định của ngân

hiện ở thái độ nghiên cứu và học tập. Thanh tra viên ý thức

hàng mẹ và quy định của pháp luật Việt Nam có nhiều điểm

được rằng, phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro kết hợp cả

không tương thích với nhau, do đó có sự khác biệt trong việc

đánh giá khách quan và chủ quan của cán bộ thanh tra; luôn

đánh giá, phân tích cũng như thanh tra, giám sát theo pháp

khuyến khích khả năng và kinh nghiệm của thanh tra viên

luật Việt Nam.

trong việc phát hiện, đo lường và đề xuất biện pháp giảm

3. Kết quả đạt được

thiểu rủi ro. Để những phát hiện và kết luận được đối tượng

Vượt lên những khó khăn khách quan và chủ quan,

ẩn mà TCTD đang gặp phải, cán bộ thanh tra phải đáp ứng

bằng khả năng tìm tòi, vận dụng sáng tạo, sự nỗ lực bền bỉ, ý chí quyết tâm, tập thể cán bộ Vụ II đã ghi những dấu ấn đáng kể trong quá trình chuyển đổi phương pháp thanh tra. Có thể nói, thành tích của việc áp dụng phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro được tổng kết như sau: Thứ nhất, góp phần quan trọng vào việc thay đổi tư duy nhận thức cho cán bộ thanh tra Không thể phủ nhận rằng việc chuyển đổi từ thanh tra tuân thủ sang thanh tra trên cơ sở rủi ro đã làm thay đổi tư duy nhận thức của cán bộ thanh tra Vụ II về phương pháp thanh tra. Trước đây, thanh tra viên chỉ tập trung kiểm tra các thông tin, sự kiện đã xảy ra trong quá khứ của TCTD để đánh giá mức độ tuân thủ quy định pháp luật Việt Nam và xác định biện pháp xử lý đối với những vi phạm của TCTD (nếu có). Khi cụm từ “thanh tra trên cơ sở rủi ro” ngày càng ăn sâu vào nhận thức, thanh tra viên không chỉ kiểm tra sự tuân thủ pháp luật

thanh tra chấp nhận, để đánh giá chính xác những rủi ro tiềm được nhiều đòi hỏi về trình độ nghiệp vụ, hiểu về quản trị rủi ro, khả năng phân tích rủi ro gắn với các biến động của môi trường kinh doanh... Phương pháp thanh tra mới đã tạo ra áp lực buộc cán bộ Vụ II phải tích cực nâng cao trình độ của chính mình thông qua các hình thức tham gia đào tạo, tự đào tạo, chia sẻ kinh nghiệm, cập nhật, bổ sung kiến thức mới. Thứ hai, nâng cao chất lượng thanh tra, giám sát đối với khối TCTD nước ngoài Qua 5 năm thành lập và hoạt động, Vụ II luôn kiên trì theo đuổi mục đích chuyển đổi phương pháp thanh tra, bám sát vào quy định của pháp luật Việt Nam, tiếp thu những nguyên tắc, thông lệ quốc tế tốt trong lĩnh vực thanh tra, giám sát ngân hàng nhưng không trái với quy định của pháp luật Việt Nam và phù hợp với thực tế phát triển của khối TCTD nước ngoài tại Việt Nam.

Việt Nam mà còn phải đánh giá năng lực quản trị rủi ro, mức

Theo định hướng tuân thủ, kết quả thanh tra các TCTD,

độ rủi ro của TCTD, đồng thời có cái nhìn tổng thể về hoạt

chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong 05 năm qua đã phát

động của TCTD thay vì một lĩnh vực/nghiệp vụ đơn thuần.

hiện và kiến nghị xử lý nhiều sai phạm của đơn vị được thanh 33


tra trong các lĩnh vực hoạt động. Căn cứ kết quả thanh tra, Vụ

Cơ quan TTGSNH biểu dương; được đối tượng thanh tra và các

II đã kịp thời đề xuất Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng các

tổ chức quốc tế ghi nhận

biện pháp xử lý phù hợp, tùy theo mức độ sai phạm của đơn vị, gồm có: (i) xử phạt vi phạm hành chính; (ii) đưa ra các yêu cầu đơn vị cần thực hiện ngay để chấm dứt các vi phạm pháp luật; (iii) kiến nghị chủ sở hữu, Hội đồng thành viên, Ban kiểm soát, Ban điều hành thực hiện và chỉ đạo thực hiện các biện pháp quyết liệt nhằm thiết lập bộ máy tổ chức nhân sự, ban hành cơ chế, chính sách đúng quy định của pháp luật, chấn

thưởng nhiều danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng cho tập thể và cá nhân như: Thủ tướng tặng Bằng khen, Cờ thi đua của NHNN, Bằng khen của Thanh tra Chính phủ, Thống đốc NHNN, Danh hiệu Tập thể lao động xuất sắc, Chiến sỹ thi đua Ngành...

chỉnh, khắc phục các vi phạm; (iv) quy trách nhiệm cá nhân

- Kết quả thanh tra của Vụ II cũng đã được đối tượng

đối với các vi phạm đã được phát hiện (v) kiến nghị những

thanh tra ghi nhận: Chủ tịch Nhóm công tác ngân hàng nước

biện pháp xử lý liên quan đến việc tái cơ cấu đối với các ngân

ngoài, Tổng Giám đốc một số ngân hàng lớn (HSBC, Standard

hàng liên doanh và TCTD phi ngân hàng.

Chartered, Citibank...) đã có những đánh giá cao đối với Vụ II

Thanh tra trên cơ sở rủi ro đã đánh giá TCTD trên các mặt: năng lực quản trị rủi ro, mức độ, xu hướng của rủi ro và rủi ro tổng thể; hiệu quả của quy trình quản lý rủi ro và khả năng tài chính (vốn) của TCTD để chống đỡ các rủi ro có thể xảy ra đối với các loại rủi ro chính như rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản và rủi ro hoạt động.

về phương pháp làm việc, năng lực, trình độ của các thanh tra viên, sự chuyên nghiệp trong tiếp cận, đánh giá rủi ro phù hợp với thông lệ về thanh tra giám sát của Cơ quan thanh tra, giám sát nước ngoài. - Tại các báo cáo đánh giá liên quan đến việc tuân thủ của Cơ quan TTGSNH đối với 25 nguyên tắc của Ủy ban Basel về thanh tra, giám sát ngân hàng và các buổi làm việc trực

Kết quả thanh tra và những biện pháp xử lý sau thanh

tiếp, Tổ chức tài chính quốc tế (IMF, WB), Tổ chức kiểm toán

tra đã góp phần nâng cao hiệu lực của công tác thanh tra,

độc lập, Chương trình Đánh giá khu vực tài chính (FSAP) đều

tăng cường ý thức chấp hành pháp luật của đơn vị được

ghi nhận những kết quả Vụ II đạt được trong hoạt động thanh

thanh tra, phát hiện được những sơ hở, bất cập trong cơ chế,

tra, giám sát khối TCTD nước ngoài 5 năm qua.

chính sách cũng như góp phần vào việc củng cố, duy trì và ổn định hệ thống TCTD ở nước ta. Đồng thời là nguồn thông tin hữu hiệu cho quá trình giám sát liên tục đối với từng TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Thứ ba, kết quả thanh tra đã được Ban lãnh đạo NHNN, 34

- Trong 5 năm qua, Vụ II đã được lãnh đạo các cấp khen

4. Nguyên nhân thành công Tư duy nhạy bén, dám nghĩ, dám làm Cán bộ, công chức của Vụ đã rất nhạy bén trong việc tiếp cận ý tưởng mới, nắm bắt và đón đầu xu hướng mới - xu


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

hướng thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro trong hoạt động ngân hàng, với tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Cho dù tại thời điểm Vụ II bắt đầu thử nghiệm phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro năm 2009, 2010, chưa có văn bản luật quy định, chưa có đơn vị thanh tra nào trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước áp dụng phương pháp này nhưng Vụ II mạnh dạn áp dụng, trên cơ sở phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với thực tế phát triển của TCTD và không trái quy định pháp luật Việt Nam. Sự thử nghiệm có những lúc thăng trầm, thử thách nhưng tâm thế của cán bộ là luôn vững vàng, tin tưởng vào cơ hội và xu hướng tất yếu của lịch sử. Tinh thần đổi mới được thấm nhuần và thực hiện từng bước, toàn diện (từ các cấp lãnh đạo đến các đoàn thể, tất cả cán bộ, thanh tra viên) và tập trung cho từng lĩnh vực chuyên

Tinh thần đoàn kết, đồng sức, đồng lòng Một trong những yếu tố vô cùng quan trọng quyết định sự thành, bại của một tổ chức đó chính là yếu tố đoàn kết, đúng như lời Hồ Chủ tịch đã nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công”. Nền tảng cho những dấu ấn mà Vụ II đạt được trong những năm qua là tinh thần đoàn kết, đồng sức đồng lòng của toàn thể cán bộ của Vụ. Từ lãnh đạo Vụ, lãnh đạo phòng cho đến nhân viên, từ Trưởng đoàn thanh tra cho đến từng thành viên Đoàn thanh tra, tất cả đều hiểu những yêu cầu của công tác thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro, nhận thức được những việc cần làm và phải luôn luôn cố gắng, nỗ lực để hoàn thành nhiệm vụ. Vụ đã và đang xây dựng tinh thần đoàn kết trở thành một giá trị

môn sâu. Khi sự đổi mới cho kết quả tích cực, hỗ trợ đắc lực

văn hóa cốt lõi, gắn với sự phát triển đi lên, sự đổi mới trong

cho công tác thanh tra, giám sát thì niềm tin của cán bộ Vụ II

hoạt động công tác.

càng được củng cố. Trước những khó khăn, hạn chế, tập thể Vụ đã có sự điều chỉnh, ứng phó chủ động, kịp thời rút kinh nghiệm cho các Đoàn thanh tra thông qua các cuộc họp, chia

Những dấu ấn trong vai trò quản lý và điều hành của Ban lãnh đạo Vụ II

sẻ nội bộ và các cuộc kiểm tra chéo. Một trong những minh

Ban lãnh đạo Vụ luôn đi đầu trong việc nêu cao tinh

chứng cho tinh thần dám nghĩ dám làm, nhạy bén, sáng tạo

thần đổi mới, thực sự là những tấm gương về khả năng

và tinh thần vượt khó của Vụ II là việc Vụ tự xây dựng và hoàn

nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo một cách bền bỉ và hiệu quả.

thiện Bộ quy trình, thủ tục thanh tra trên cơ sở rủi ro áp dụng

Trước hết, Lãnh đạo Vụ đã xác định đúng hướng phát triển

cho loại hình TCTD nước ngoài. Bộ quy trình, thủ tục thực sự

của hoạt động thanh tra, giám sát. Suốt 5 năm qua, cho dù

là một cẩm nang, là tài sản tinh thần cho cán bộ Vụ II khi thực

gặp nhiều khó khăn, vướng mắc nhưng tư duy của Lãnh đạo

hiện thanh tra theo phương pháp mới, thể hiện tinh thần chủ

vẫn luôn kiên định với định hướng đổi mới, với niềm tin rằng

động tiếp cận, vận dụng sáng tạo thông lệ quốc tế tốt về

những gì phù hợp với xu thế phát triển, hội nhập thì nhất

thanh tra, giám sát ngân hàng vào thực tiễn hoạt động thanh

định sẽ diễn ra và được đón nhận. Dám đi trước, dám đổi mới.

tra tại Việt Nam và đã được Lãnh đạo Cơ quan TTGSNH đánh

Sẵn sàng nắm bắt cơ hội và dám chấp nhận những khó khăn,

giá cao.

thách thức. Chịu khó nghiên cứu thông lệ quốc tế, tìm cách 35


vận dụng phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Từng bước chèo lái

lãnh đạo Cơ quan TTGSNH. Chính sự ủng hộ, quan tâm đó đã

tập thể phát triển đúng hướng, rút ngắn thời gian tiếp cận,

động viên, cổ vũ tinh thần to lớn, giúp cán bộ Vụ II có điểm

nhanh chóng rút ra những bài học kinh nghiệm để thành

tựa để nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

công hơn nữa trong tương lai. Không chỉ mạnh về tư duy, bản lĩnh, tầm nhìn và áp dụng thành công nguyên lý về “quản trị sự thay đổi”, Ban lãnh đạo Vụ còn khá thành công trong việc tạo ra môi trường làm việc tốt, truyền tải tầm nhìn và cảm hứng cho cán bộ trong quá trình thực hiện thanh tra trên cơ sở rủi ro. Môi trường

Từ những kết quả nêu trên, Vụ II xin chia sẻ một số bài học kinh nghiệm đồng thời cũng là chìa khóa giúp chuyển đổi thành công phương pháp thanh tra đối với khối TCTD nước ngoài:

đó luôn khuyến khích và nuôi dưỡng sự đổi mới; nơi mà mỗi

Thứ nhất, kiên định với tư duy đổi mới và thực hiện tốt

sáng kiến đề xuất, sự chia sẻ thẳng thắn, mang tính xây dựng

việc “quản trị sự thay đổi”. Luôn giữ vững niềm tin và tìm cách

và sự nỗ lực đều đã được ghi nhận xứng đáng. Lãnh đạo Vụ

tiếp cận hiệu quả khi gặp khó khăn, thách thức. Chủ động

một mặt biết tạo ra áp lực hợp lý, giám sát tích cực tiến độ

nghiên cứu các thông lệ về thanh tra, giám sát ngân hàng

và chất lượng làm việc của anh em; mặt khác, luôn cùng anh em đối diện và vượt qua khó khăn; nắm bắt kịp thời những tâm tư, nguyện vọng, dành nhiều thời gian để đào tạo, chia sẻ nghiệp vụ với của anh em. Chính “cái tâm” và “cái tầm” của Ban lãnh đạo Vụ II là yếu tố quan trọng giúp duy trì sự đoàn kết, nhất trí trong tập thể Vụ II. Sự quan tâm chỉ đạo của Ban lãnh đạo, Đảng ủy CQTTGSH Việc đổi mới trong công tác thanh tra tại chỗ của Vụ II đã được sự ghi nhận và ủng hộ từ phía Ban lãnh đạo Cơ quan thông qua việc phê duyệt các chương trình công tác năm; hỗ trợ cho việc tự đào tạo của Vụ, đặc biệt trong quá trình chỉ đạo, hướng dẫn xây dựng báo cáo kết quả thanh tra, ban hành Kết luận thanh tra, xử lý sau thanh tra. Tập thể Vụ luôn nhận được sự chỉ đạo, quan tâm rất cao của Cấp ủy và Ban 36

5. Bài học kinh nghiệm

tiên tiến; biết vận dụng sáng tạo và phù hợp vào thực tiễn Việt Nam. Nắm bắt xu hướng/định hướng phát triển của Ngành, của hệ thống thanh tra, giám sát để xây dựng kế hoạch, biện pháp thực hiện cho đơn vị mình. Thứ hai, phát huy tính chủ động và sáng tạo trong tổ chức triển khai nhiệm vụ, từ việc lập kế hoạch, sắp xếp nhân sự phù hợp theo từng thời điểm, đến việc triển khai thực hiện nhằm bảo đảm đúng kế hoạch, lộ trình và chất lượng thanh tra. Thứ ba, xây dựng sự đoàn kết, nhất trí, tinh thần trách nhiệm và thái độ cầu thị thành văn hóa làm việc cốt lõi gắn với sự phát triển đi lên, sự đổi mới trong chỉ đạo, điều hành trong toàn bộ hoạt động của đơn vị. Có cơ chế giám sát, kiểm tra, đánh giá kết quả làm việc, chế độ khen thưởng một cách hiệu quả và minh bạch. Lời kết


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

Dựa vào kết quả đạt được trong 5 năm qua, có thể nói,

chỉ là nền móng ban đầu. Chặng đường phía trước còn dài

việc chuyển đổi phương pháp thanh tra từ thanh tra tuân thủ

với nhiều khó khăn, thách thức mới. Bên cạnh những cố gắng

sang thanh tra trên cơ sở rủi ro đã tạo cơ sở cho Vụ II quản lý

không ngừng của Lãnh đạo và cán bộ Vụ, chúng tôi mong

tốt hoạt động của khối TCTD nước ngoài, cũng như khẳng

muốn tiếp tục nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của

định một hướng đi đúng trong hoạt động công tác, phù hợp

Ban lãnh đạo Cơ quan TTGSNH và sự chia sẻ, đồng hành của

với nguyên tắc Basel về thanh tra, giám sát ngân hàng và xu

các đơn vị bạn. Với tinh thần nỗ lực, quyết tâm cùng sự quan

thế phát triển, hội nhập của đất nước. Vì vậy mà không ít ý kiến

tâm, tạo điều kiện của các cấp lãnh đạo, tập thể Vụ II tin tưởng

đã cho rằng thành tích của Vụ II đã góp phần đặt nền móng

rằng, ngày càng đóng góp nhiều hơn nữa cho tiến trình đổi

cho sự đổi mới hoạt động thanh tra của hệ thống thanh tra,

mới mạnh mẽ của NHNN nói chung và Cơ quan TTGSNH nói

giám sát ngành Ngân hàng Việt Nam. Nhìn rộng ra các nước

riêng, mà trọng tâm chính là hoàn thiện và nâng cao hiệu

trong khu vực như Thái Lan, Singapore, trong khi những quốc

quả của hoạt động thanh tra đối với hệ thống các TCTD. Như

gia này phải mất đến 10 năm để thực hiện chuyển đổi sang

nhà văn Lỗ Tấn đã từng nói “Trên đời này làm gì có đường;

phương pháp thanh tra theo định hướng rủi ro, Vụ II mới chỉ

Người ta đi mãi cũng thành đường mà thôi”, con đường mà

trải qua 5 năm để có thể áp dụng phương pháp mới một cách

Vụ II đang đi dù chưa bao giờ có sẵn, vẫn được định hình rõ

hiệu quả. Thời gian tiếp cận và ứng dụng được rút ngắn còn

ràng nhờ tập thể Vụ dám chấp nhận khó khăn, trở ngại, không

một nửa, thể hiện sự “đi tắt đón đầu” và vận dụng sáng tạo

ngừng tìm tòi, sáng tạo và đúc kết kinh nghiệm. “Thanh tra

vào thực tiễn đất nước. Thực tế sinh động trong quá trình

trên cơ sở rủi ro” thực sự là một con đường như thế, 5 năm rồi

chuyển đổi phương pháp thanh tra của Vụ II sẽ tiếp tục được

và tiếp tục mai sau.

hệ thống hóa qua việc xây dựng và thực hiện Đề tài khoa học cấp ngành với chủ đề “Định hướng và giải pháp thực hiện công tác thanh tra trên cơ sở rủi ro đối với các TCTD và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam”. Hiệu quả dự kiến của Đề tài mà Vụ II thực hiện là cung cấp những định hướng và biện pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro, qua đó góp phần giúp NHNN nói chung, Cơ quan TTGSNH nói riêng xây dựng kế hoạch phát triển công tác thanh tra, giám sát trong từng giai đoạn để đáp ứng mục tiêu mà hoạt động thanh tra đặt ra. Mặc dù quá trình chuyển đổi phương pháp thanh tra đã đạt được những kết quả đáng khích lệ nhưng tất cả mới 37


PHÒNG, CHỐNG TIÊU CỰC, THAM NHŨNG TRONG LĨNH VỰC TIỀN TỆ, TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY Thạc sĩ Dương Đình Thuần Vụ trưởng - Vụ Thanh tra hành chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng

T

rong thời gian qua, lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân

động sản với số tiền lớn hàng trăm tỷ đồng nhưng không có

hàng đã có sự phát triển về quy mô, hoạt động nghiệp

tài sản đảm bảo hoặc có nhưng tài sản đảm bảo không đủ

vụ đa dạng. Bên cạnh mặt được, nổi lên tình hình vi

thủ tục pháp lý; bỏ qua trình tự, thủ tục theo quy định của

phạm pháp luật, sai phạm, tham nhũng trong lĩnh vực ngân

Ngân hàng Nhà nước; làm giả hồ sơ vay vốn; vay ké khách

hàng xuất hiện ngày càng tinh vi, phức tạp; có nhiều vụ vi

hàng, thu nợ gốc, lãi không nộp vào ngân hàng…;

phạm có tổ chức, hành vi vi phạm đặc biệt nghiêm trọng. Chính vì vậy, việc tăng cường công tác phòng ngừa, đấu tranh với các vi phạm pháp luật và phòng, chống tham nhũng, phòng, chống tội phạm luôn được Ngân hàng Nhà nước coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm giữ an toàn, ổn định hệ thống ngân hàng. Xem xét các vụ việc vi phạm, tiêu cực, tham nhũng thời gian qua cho thấy chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực sau: */ Lĩnh vực cấp tín dụng: - Vi phạm quy định của Ngân hàng Nhà nước về cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính: cho vay sai mục đích; Hội

38

- Vi phạm quy định về tỷ lệ an toàn trong cho vay, bảo lãnh; không kiểm tra, giám sát trong và sau khi cho vay nên không phát hiện kịp thời những hành vi trục lợi, lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của ngân hàng. Khi Ngân hàng Nhà nước hạn chế cấp tín dụng thì xuất hiện hành vi lách quy định để cấp tín dụng thông qua các hình thức: ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, mua trái phiếu doanh nghiệp, thực chất là chuyển tiền đầu tư dự án, đặt cọc môi giới cho vay, repo cổ phiếu nhưng hạch toán trên tài khoản phải thu…; - Cán bộ ngân hàng câu kết với khách hàng sử dụng sổ tiết kiệm khống làm tài sản cầm cố để vay vốn;

đồng quản trị, Hội đồng thành viên đồng ý nâng quyền phán

- Trong cho thuê tài chính có các hành vi lách luật để

quyết tín dụng cho Giám đốc Chi nhánh với hạn mức quá lớn

cấp tín dụng dưới các hình thức: đầu tư cho khách hàng đóng

gây mất vốn; cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán, bất

mới tài sản cho thuê (đặc biệt là đóng tàu vận tải thủy); cho


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

thuê tài chính với số tiền lớn, vi phạm nghiêm trọng quy định

*/ Tội phạm công nghệ cao:

của pháp luật về hoạt động cho thuê tài chính.

Cán bộ ngân hàng trực tiếp thực hiện hoặc phối hợp

- Về quản trị, điều hành tại một số tổ chức tín dụng,

với người ngoài ngân hàng lợi dụng hệ thống thanh toán

nhất là tại một số ngân hàng thương mại cổ phần, các cổ

SWIFT của ngân hàng để thực hiện các giao dịch giả mạo, ăn

đông lớn đã chi phối việc cấp tín dụng thể hiện ở việc hướng

cắp thông tin, dữ liệu để làm giả thẻ tín dụng, thẻ thanh toán.

hoạt động cấp tín dụng với số tiền lớn vào các doanh nghiệp

Đặc biệt, có các khách hàng mang quốc tịch nước ngoài tới

thuộc sở hữu của cổ đông hoặc do cổ đông lớn nắm quyền

mở tài khoản cá nhân để thực hiện các giao dịch chuyển tiền

chi phối; tập trung tín dụng vào lĩnh vực có rủi ro cao như:

từ nước ngoài về bằng các giao dịch giả mạo.

cho vay các dự án bất động sản với số tiền lớn; thời hạn vay quá dài; cho vay kinh doanh chứng khoán... tiềm ẩn nguy cơ mất thanh khoản khi nguồn huy động không ổn định...; - Ngoài các vi phạm nêu trên, trong cho vay còn xuất hiện tình trạng vay của tổ chức tín dụng này góp vốn vào tổ chức tín dụng khác dẫn đến tình trạng sở hữu chéo (trường hợp khách hàng vay là những người có thẩm quyền trong tổ chức tín dụng); cho vay khách hàng là các công ty con của một số thành viên Hội đồng quản trị, những người có liên quan (thường gọi là sân sau) của tổ chức tín dụng. */ Lĩnh vực tiền gửi:

* Về quy mô, tính chất của hành vi vi phạm, tham nhũng: Thời gian gần đây, tại các tổ chức tín dụng phát sinh nhiều vụ việc vi phạm có tổ chức, nhiều vụ việc vi phạm có liên quan đến lãnh đạo đơn vị, có sự câu kết giữa cán bộ ngân hàng và khách hàng; hành vi, tính chất vi phạm tinh vi, nghiêm trọng hơn, số tiền, tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát lớn... Trước tình hình trên, để làm tốt công tác phòng, chống tham nhũng, hạn chế và làm giảm đến mức thấp nhất vụ việc tiêu cực, tham nhũng, Ngân hàng Nhà nước

Vi phạm quy định về trần lãi suất huy động bằng mọi

đã xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện Nghị quyết

hình thức: tặng quà, chi tiền thưởng cho khách hàng; chuyển

của Đảng và Chính phủ về phòng, chống tham nhũng,

tiền qua các công ty con, sau đó các công ty này gửi lại ngân

trong đó có các việc sau:

hàng lấy lãi suất cao; tham ô tiền gửi của khách hàng…; vi phạm quy định về trần lãi suất thông qua hình thức tổ chức tín dụng trích một khoản tiền vào quỹ của đơn vị trực thuộc là các chi nhánh, phòng giao dịch (Quỹ của Giám đốc) để Giám đốc chi trực tiếp cho khách hàng gửi tiền....

- Ban hành, triển khai thực hiện các Chương trình, Đề án liên quan đến công tác phòng, chống tham nhũng và tội phạm như: + Kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, 39


40

chống tham nhũng đến năm 2020 của ngành Ngân hàng

chống tội phạm trong tình hình mới (kèm theo Quyết định

(kèm theo Quyết định số 110/QĐ-NHNN ngày 21/01/2010

số 1646/QĐ-NHNN ngày 26/7/2011 của Thống đốc Ngân

của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước).

hàng Nhà nước).

+ Kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW về tăng

+ Ngày 16/03/2012, Thống đốc NHNN đã ban hành Chỉ

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng,

thị số 03/CT-NHNN về công tác thanh tra, giám sát; phòng,


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

chống tham nhũng, sai phạm trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt

phạm; xây dựng quy chế hoạt động và chương trình hành

động ngân hàng.

động cho từng thời kỳ; đề ra các giải pháp phòng, chống

+ Kế hoạch thực hiện Đề án tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng, chống tham nhũng, Công ước liên hợp quốc về chống tham nhũng trong cán bộ, công chức, viên chức ngành Ngân hàng giai đoạn từ năm 2012 – 2016 (kèm theo Quyết định số 1232/QĐ-NHNN ngày 18/6/2012 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước). Thống đốc NHNN đã ký các Quyết định: Quyết định số 807/QĐ-NHNN, ngày 09/4/2013 về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Chương trình, mục tiêu quốc gia phòng, chống tội phạm từ nay đến năm 2015 trong ngành Ngân hàng; Quyết định số 990/QĐ-NHNN, ngày 2/5/3013 về việc ban hành Chương trình hành động của ngành Ngân hàng về thực hiện Kết luận số 21/KL/TW ngày 25/2/2012 của BCHTW Đảng Khóa XI về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba, Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí” giai đoạn 2012-2016. - Ngay từ khi Pháp lệnh phòng, chống tham nhũng năm 1998 được ban hành, tại Ngân hàng Nhà nước đã thành lập và đến nay vẫn duy trì Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng và tội phạm trong ngành Ngân hàng. Tại các chi nhánh

tham nhũng và tội phạm. - Tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng ngừa như: + Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, đạo đức nghề nghiệp; + Thường xuyên rà soát, bổ sung, chỉnh sửa các văn bản quy phạm pháp luật trong hoạt động quản lý, kinh doanh ngân hàng nhằm tránh sơ hở để tội phạm lợi dụng; thường xuyên cảnh báo các hành vi, thủ đoạn vi phạm pháp luật để các đơn vị cảnh giác và tổ chức triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị trong Đảng bộ cũng như nhiệm vụ chuyên môn trong toàn Ngành; phối hợp với đơn vị chức năng của Bộ Công an và Công an thành phố Hà Nội tổ chức Tọa đàm về tình hình giấy tờ giả mạo trong giao dịch ngân hàng và giải pháp phòng ngừa + Thực hiện nghiêm túc kê khai tài sản, thu nhập; công khai, minh bạch, bản kê khai tài sản thu nhập theo quy định, tăng cường các biện pháp quản lý nghiệp vụ, quản lý cán bộ...; - Về hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm soát và tái cơ cấu tổ chức tín dụng:

Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố; ngân hàng thương

+ Thực hiện Đề án Tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín

mại; Ngân hàng Chính sách xã hội; Quỹ tín dụng nhân dân

dụng (ban hành kèm theo Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày

Trung ương (nay là Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam) đã thành

01/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ), Ngân hàng Nhà nước

lập Ban (Tiểu ban) chỉ đạo phòng, chống tham nhũng và tội

đã tích cực triển khai các nội dung đề án như: yêu cầu các tổ 41


chức tín dụng tự xây dựng phương án tái cơ cấu; tiếp tục triển

Việt Nam; vụ mua bán 3 triệu cổ phiếu để chiếm đoạt trên 80

khai hợp nhất, sáp nhập một số tổ chức tín dụng, tập trung xử

tỷ đồng tại Công ty Chứng khoán Ngân hàng thương mại cổ

lý nợ xấu.... Việc triển khai thực hiện Đề án đã có tác dụng tích

phần Công thương Việt Nam; vụ việc vi phạm pháp luật, tham

cực trong công tác phòng, chống tham nhũng và tội phạm

nhũng tại Công ty Cho thuê tài chính II, vụ việc tại Công ty

như: giúp tổ chức tín dụng rà soát lại toàn bộ hệ thống cơ

dịch vụ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt

chế, quy chế của tổ chức tín dụng, qua đó khắc phục sơ hở,

Nam... Ngoài ra còn tăng cường công tác giám sát để phát

thiếu sót trong hoạt động quản trị, điều hành, kiểm tra, kiểm

hiện kịp thời những ngân hàng có biểu hiện hoạt động yếu

soát; rà soát toàn bộ đội ngũ cán bộ, nhân viên, qua đó phát

kém, thiếu khả năng thanh khoản để xử lý kịp thời, giữ ổn định

huy nhân tố tích cực, loại bỏ nhân tố trì trệ, tiêu cực; rà soát

hệ thống ngân hàng. Tiếp tục đổi mới phương pháp thanh tra

từng khoản cấp tín dụng để đánh giá chất lượng tín dụng,

để phù hợp với điều kiện phát triển hiện nay, dần chuyển từ

phát hiện, xử lý cá nhân, tổ chức có liên quan đến việc cấp tín

phương pháp thanh tra tuân thủ sang phương pháp thanh

dụng cố ý làm sai dẫn đến nợ xấu, thất thoát tài sản từ đó có

tra trên cơ sở rủi ro nhằm xem xét, đánh giá và phát hiện các

biện pháp xử lý thích hợp để giúp tổ chức tín dụng hoạt động

nguy cơ rủi ro mà tổ chức tín dụng gặp phải.

an toàn, lành mạnh. + Về hoạt động thanh tra, kiểm tra: Ngân hàng Nhà

ngoài ngành Ngân hàng trong việc xử lý các thông tin liên

nước đã tập trung chỉ đạo Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân

quan đến tình hình vi phạm pháp luật, tham nhũng, tội phạm,

hàng kịp thời xây dựng và triển khai thực hiện chương trình,

đặc biệt là việc cung cấp thông tin cho Cơ quan Công an về

kế hoạch thanh tra hàng năm, kể cả thanh tra thường xuyên

tài khoản của các đối tượng có liên quan trong những vụ việc

và thanh tra đột xuất, trong đó có những đợt thanh tra đột

vi phạm lớn. Tiến hành tổ chức giám định khi có yêu cầu phối

xuất theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ như cho vay hỗ

hợp của cơ quan pháp luật.

trợ lãi suất... Qua công tác thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước đã làm rõ thực trạng nợ xấu của hệ thống tổ chức tín dụng, trên cơ sở đó có giải pháp xử lý phù hợp; qua công tác thanh tra và tự kiểm tra của các tổ chức tín dụng đã kịp thời phát hiện hành vi tham nhũng, tội phạm và xử lý nghiêm

42

+ Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị trong và

Nhìn chung công tác phòng, chống tham nhũng, tội phạm, vi phạm pháp luật trong ngành Ngân hàng thời gian qua đã có những mặt được như đã nêu trên. Tuy nhiên, còn có tồn tại và nguyên nhân sau:

minh; trong đó đã làm rõ và chuyển cơ quan pháp luật xử

- Mặc dù đã có nhiều biện pháp tích cực ngăn ngừa

lý một số vụ việc như: Vụ cầm cố sổ tiết kiệm khống để vay

các vi phạm pháp luật, phòng, chống tiêu cực, tham nhũng,

hàng trăm tỷ đồng tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển

nhưng tại một số đơn vị ngân hàng vẫn phát sinh vụ việc tiêu


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

cực, tham nhũng, nhất là trong lĩnh vực cấp tín dụng. Trong

thành tích nên đã nới lỏng tín dụng, bỏ qua một số trình tự,

đó có vụ việc vi phạm có tổ chức, gây thất thoát lớn, phải xem

thủ tục, quy định để cho vay; không chuyển nhóm nợ theo

xét, xử lý hình sự; quy mô các vụ việc vi phạm lớn hơn trước;

quy chế; cho vay không có tài sản đảm bảo hoặc tài sản đảm

thủ đoạn vi phạm ngày càng tinh vi, vi phạm có tổ chức có liên

bảo không đủ thủ tục pháp lý... Tại một số ngân hàng, một

quan đến lãnh đạo cấp cao như vụ việc 1 Phó Tổng giám đốc

số thành viên Hội đồng quản trị đồng thời là những cổ đông

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nhận hối lộ, cố ý làm

lớn đã chi phối việc cho vay, đầu tư tài chính phù hợp với

trái; vụ việc đầu tư Dự án Lifepro tại Ngân hàng Nông nghiệp

lợi ích của mình nhưng lại gây rủi ro cho ngân hàng; quản

và Phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh Nam Hà Nội có

trị ngân hàng thiếu chuyên nghiệp, chậm tiếp thu áp dụng

liên quan đến lãnh đạo cấp cao của Ngân hàng Nông nghiệp

công nghệ, kỹ năng quản trị ngân hàng hiện đại; chậm hoàn

và Phát triển nông thôn Việt Nam. Một số vụ việc tiêu cực,

thiện quy trình, quy chế nghiệp vụ theo quy định của Ngân

tham nhũng đã được phát hiện và xử lý nhưng chưa được các

hàng Nhà nước và pháp luật.

đơn vị ngân hàng kịp thời rút kinh nghiệm; chưa ngăn chặn triệt để nguyên nhân dẫn đến sai phạm (như hành vi cán bộ tín dụng vay ké, thu nợ, thu lãi không nộp ngân hàng...). - Việc khắc phục hậu quả một số vụ việc tiêu cực, tham nhũng tồn đọng từ những năm trước còn chậm, chưa dứt điểm. Một số đơn vị ngân hàng báo cáo công tác phòng, chống tham nhũng và phòng, chống tội phạm còn

Một số vụ việc do khách hàng cố tình lừa đảo, cố ý làm trái, giả mạo giấy tờ, con dấu... , cung cấp thông tin thiếu trung thực cho ngân hàng... Qua xem xét, đánh giá mặt được, tồn tại và nguyên nhân như đã nêu trên, để làm giảm các vi phạm pháp luật, tiêu cực, tham nhũng, giải pháp được đưa ra là:

chậm, chưa nêu cụ thể các hành vi, thủ đoạn tham nhũng

- Về dự báo: trước những biến đổi nhanh chóng của

và tội phạm; nguyên nhân và các giải pháp để phòng,

kinh tế thị trường cả trong và ngoài nước, trong thời gian tới

chống tham nhũng.

sự cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn; tình hình vi phạm pháp

Những tồn tại trên có nguyên nhân sau: Thời gian qua, do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam có sự ảnh hưởng lớn, từ đó có tác động không nhỏ đến hành vi của các tổ chức tín dụng và khách hàng, gây ra các vụ việc tiêu cực, tham nhũng. Nhiều đơn vị ngân hàng vì sức ép lợi nhuận, sức ép

luật, tham nhũng, tội phạm kinh tế nói chung và trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng sẽ tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp và khó lường; nhiều phương thức, thủ đoạn hoạt động tinh vi hơn hoặc xuất hiện mới, đặc biệt là hoạt động có tổ chức, lợi dụng công nghệ cao, lợi dụng sơ hở của cơ chế, chính sách để vi phạm. Do đó phải thường xuyên sơ kết, rút kinh nghiệm. 43


- Đối với Ngân hàng Nhà nước: + Tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi, ban hành mới các văn bản cụ thể hóa Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (Nghị định của Chính phủ, Thông tư của Ngân hàng Nhà

lệ quốc tế về thanh tra, giám sát; thường xuyên tổ chức bồi dưỡng kỹ năng thanh tra ngân hàng cho cán bộ làm công tác thanh tra.

nước), trong đó đặc biệt lưu ý các văn bản quy định về hoạt

+ Xây dựng quy chế phối hợp với các Bộ, ngành để

động cho vay, bảo lãnh, đầu tư tài chính, huy động vốn, cho

làm cơ sở thanh tra hợp nhất, thanh tra các công ty con, công

thuê tài chính, tỷ lệ an toàn ngân hàng...

ty liên kết của tổ chức tín dụng (như Công ty chứng khoán,

+ Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra ngân hàng; trong đó sớm hoàn thiện, ban hành các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thanh tra và xử lý sau thanh tra đối với các tổ chức tín dụng; thanh tra trong môi trường tin học và hoạt động công nghệ cao; hoàn thiện các văn bản quy định về an toàn ngân hàng và các quy định về mạng lưới cấp phép hoạt động ngân hàng. Đối với công tác giám sát, phải

Công ty quản lý quỹ) không thuộc thẩm quyền cấp phép của Ngân hàng Nhà nước; xây dựng cơ chế phối hợp giữa Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng với các đơn vị chức năng của Bộ Công an, Thanh tra Chính phủ, Ban Nội chính Trung ương trong việc trao đổi thông tin liên quan đến các vi phạm pháp luật tại các tổ chức tín dụng và phối hợp xử lý vụ việc phát sinh.

sớm hoàn thiện hệ thống tiêu chí giám sát mới phù hợp với

+ Xây dựng quy chế phối hợp với các Bộ, ngành, cơ

thực tiễn hiện tại và tiếp cận với thông lệ quốc tế để một

quan chức năng trong việc trao đổi thông tin liên quan đến

mặt giúp Ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước nắm được thực

các vi phạm pháp luật tại các tổ chức tín dụng và phối hợp xử

chất hoạt động của từng tổ chức tín dụng cũng như toàn hệ

lý vụ việc phát sinh; tăng cường phối hợp giữa NHNN với các

thống tổ chức tín dụng, phục vụ điều hành chính sách tiền tệ;

cơ quan chức năng trong việc phòng, chống rửa tiền; hoàn

mặt khác, chỉ ra những mặt hoạt động, nghiệp vụ của từng

thiện khuôn khổ pháp lý về phòng, chống rửa tiền và tài trợ

tổ chức tín dụng có nguy cơ rủi ro cao để làm cơ sở thanh tra

khủng bố nhằm bảo vệ các tổ chức tín dụng bị các đối tượng

trực tiếp; tăng cường các cuộc thanh tra toàn diện từng tổ

trong nước và quốc tế lạm dụng tiến hành các hoạt động phi

chức tín dụng, trong đó trọng tâm là thanh tra hoạt động cấp

pháp.

tín dụng, các khách hàng có dư nợ lớn, liên quan đến chứng khoán, các dự án bất động sản, các khoản vay liên quan đến các cổ đông lớn của tổ chức tín dụng...; kịp thời phát hiện, xử lý ngay các vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật; kể cả xử phạt hành chính và chuyển cơ quan pháp luật điều tra, xử lý; 44

hoàn thiện Sổ tay thanh tra ngân hàng phù hợp với thông

+ Các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các cấp tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát vay vốn và sử dụng vốn vay ngân hàng của các doanh nghiệp thuộc quyền quản lý để kịp thời phát hiện những khó khăn, yếu kém, vi


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

phạm pháp luật...có giải pháp giải quyết, xử lý kịp thời. - Đối với các tổ chức tín dụng:

Trong 5 năm qua, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đã thực hiện tốt nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tham nhũng,tội phạm trong ngành Ngân hàng, góp phần

Tuân thủ các quy định của Chính phủ, của các cấp,

hạn chế vi phạm pháp luật, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm

ngành trong hoạt động ngân hàng để đảm bảo sự hoạt động

pháp luật để bảo vệ tài sản của Nhà nước và của nhân dân,

lành mạnh, minh bạch về thông tin.

đồng thời đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng và hệ

Chú trọng giáo dục tư tưởng chính trị, nâng cao phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, đảng viên, công nhân viên. Bên cạnh việc dùng các hình phạt nghiêm khắc để chống tham nhũng, tội phạm cần phải tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng và tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của các tổ chức đoàn thể, cán bộ, đảng viên của ngành Ngân hàng trên mặt trận này. Đẩy mạnh công tác

thống các tổ chức tín dụng. Trong thời gian tới, tình hình tội phạm, tham nhũng trong ngành Ngân hàng có chiều hướng diễn biến phức tạp. Vì vậy, nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tội phạm càng trở nên cam go, đòi hỏi sự cố gắng của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, sự phối hợp chặt chẽ hơn của các cơ quan, tổ chức có liên quan và cả hệ thống chính trị.

quản lý cán bộ, quan tâm, nắm bắt diễn biến tư tưởng cán bộ, đánh giá đúng năng lực, trình độ và đạo đức để bố trí đúng người, đúng việc. Tăng cường đổi mới, nâng cao năng lực quản trị, điều hành, hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ, hiện đại hóa công nghệ, hoàn thiện các cơ chế, chính sách quản lý, quy trình nghiệp vụ, phân cấp, ủy quyền nhằm phòng ngừa, phát hiện sớm hành vi tham nhũng, vi phạm pháp luật, góp phần ngăn ngừa và hạn chế tổn thất cho tổ chức tín dụng. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính nhằm loại bỏ sự phiền hà trong thủ tục hành chính khi giải quyết công việc cho khách hàng. Kiên quyết xử lý vấn đề tồn tại, vi phạm, lợi ích nhóm trong các tổ chức tín dụng cổ phần theo lộ trình thích hợp. Giám sát chặt chẽ việc tuân thủ quy định giới hạn sở hữu cổ phần. 45


Một số kết quả đạt được trong công tác giám sát ngân hàng và phương hướng xây dựng, phát triển trong thời gian tới Trần Đăng Phi Vụ trưởng - Vụ Giám sát ngân hàng

Lời mở đầu Trên cơ sở Nghị định số 96/2008/NĐ-CP ngày 26/8/2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ,

trước đây về một đầu mối, trong đó có các khâu từ cấp phép, xây dựng chế độ chính sách, thanh tra, giám sát và xử lý sau thanh tra.

quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước, Thủ

Trong chặng đường 5 năm qua, cùng với sự ra đời và

tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 83/QĐ-TTg ngày

phát triển của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, công

27/5/2009 thành lập Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng,

tác giám sát ngân hàng với vai trò của Vụ Giám sát ngân hàng

theo đó Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng phải thực

(tiền thân là Phòng Phân tích, giám sát từ xa thuộc Thanh

hiện đầy đủ cả 4 khâu: (i) cấp, thu hồi giấy phép; (ii) xây dựng các chính sách, quy định về an toàn hoạt động ngân hàng; (iii) thực hiện giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ; và (iv) xử lý rủi ro và vi phạm.

tra Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) đã có nhiều chuyển biến và thay đổi tích cực về phương thức và chất lượng, góp phần tích cực trong việc ổn định hệ thống các TCTD, lập lại trật tự, kỷ cương thị trường, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Hoạt động giám sát ngân hàng được thực hiện

Việc thành lập Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng

theo nguyên tắc tập trung thống nhất từ Trung ương đến địa

có ý nghĩa đặc biệt, đánh dấu bước tiến quan trọng trong quá

phương, kết hợp chặt chẽ giữa giám sát việc chấp hành chính

trình cải cách cơ cấu tổ chức NHNN với mục tiêu nâng cao

sách pháp luật về tiền tệ, ngân hàng với giám sát trên cơ sở

năng lực, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Cơ quan Thanh

rủi ro.

tra, giám sát ngân hàng được thành lập sẽ thực hiện chức năng thanh tra, giám sát của NHNN theo hướng chuyển từ thanh tra, giám sát tuân thủ (nghĩa là thanh tra, giám sát việc chấp hành chính sách, pháp luật trong hoạt động kinh doanh của TCTD) sang thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro; đồng thời đưa tất cả các chức năng thanh tra, giám sát từ các Vụ, Cục 46

1. Một số kết quả nổi bật trong công tác giám sát ngân hàng Có thể kể tới một số kết quả nổi bật trong công tác giám sát, đặc biệt là từ năm 2012 trở lại đây như sau:


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

- Giám sát chặt chẽ chất lượng tín dụng: Nợ xấu có

kém (huy động vốn kỳ hạn ngắn, cho vay kỳ hạn dài hơn)

diễn biến tăng nhanh từ năm 2010 và đạt đỉnh điểm vào

trong điều kiện thị trường tiền tệ có nhiều bất ổn cộng với

năm 2011, chất lượng tài sản suy giảm tại nhiều TCTD, và khả

nợ xấu tăng nhanh và không thu hồi được. Đặc biệt sau sự

năng thu hồi nợ của ngân hàng gặp nhiều khó khăn do nhiều

kiện liên quan đến Ngân hàng ACB vào tháng 8/2012 đã xảy

nguyên nhân khách quan và chủ quan từ môi trường kinh

ra hiện tượng rút tiền ồ ạt tại ACB và một số ngân hàng liên

tế vĩ mô. Trước tình hình đó, công tác giám sát đã tập trung

quan. NHNN đã tăng cường công tác giám sát đối với tình

giám sát chặt chẽ chất lượng tài sản, trong đó đặc biệt là tình

hình thanh khoản của từng TCTD, thực hiện giám sát hàng

hình nợ xấu, chất lượng các khoản đầu tư như: (i) Rà soát, thực

ngày các diễn biến trên thị trường tiền tệ và có biện pháp xử

hiện đánh giá lại chất lượng và khả năng thu hồi nợ; (ii) Tăng

lý dứt điểm, hỗ trợ thanh khoản kịp thời không để lây lan ra

cường trích lập dự phòng rủi ro, xử lý nợ xấu và bán nợ cho

toàn hệ thống. Đến nay, khả năng thanh khoản của hệ thống

VAMC; và (iii) Tiết giảm chi phí hoạt động, hạn chế chia lương,

tương đối ổn định và khá dư thừa, tạo cơ sở quan trọng để

thưởng, cổ tức, giảm lãi suất cho vay để chia sẻ khó khăn với

NHNN liên tục đưa ra các quyết định giảm lãi suất huy động,

nền kinh tế. Bên cạnh đó, NHNN cũng chỉ đạo các TCTD thực

theo đó lãi suất cho vay hiện đang ở mức thấp (giảm đến một

hiện các biện pháp cơ cấu lại nợ phù hợp với điều kiện của

nửa so với giai đoạn 2008-2010), phù hợp với điều kiện thực

khách hàng, hỗ trợ sản xuất kinh doanh phát triển và góp

tế của doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh

phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhờ thực hiện tích cực

và kiềm chế lạm phát.

và đồng bộ các giải pháp trên, tình hình nợ xấu của hệ thống ngân hàng đã có những chuyển biến khả quan, nợ xấu đã được kiềm chế và bước đầu được xử lý và đến cuối năm 2013, nợ xấu bắt đầu giảm sau nhiều năm tăng liên tiếp và tỷ lệ nợ xấu giảm xuống còn 3,61%1.

- Để tiến gần hơn với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế, hoạt động giám sát đang từng bước chuyển dần sang giám sát trên cơ sở rủi ro, trước mắt tập trung vào một số rủi ro trọng yếu. Qua giám sát, đã có cảnh báo sớm đối với những rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động như rủi ro tập trung vào đầu tư

- Khả năng thanh khoản của hệ thống ổn định và

chứng khoán, tăng đầu tư vào trái phiếu của các tổ chức kinh

không để xảy ra tình trạng mất khả năng chi trả: Tình hình

tế, hoạt động ủy thác và nhận ủy thác của các TCTD, tập trung

thanh khoản của các ngân hàng luôn ở tình trạng căng thẳng

vốn vào các khách hàng lớn… Ngoài ra, từ năm 2012, công

trong giai đoạn 2009-2011 và nguyên nhân chủ yếu dẫn đến

tác giám sát đã có bước tiến nổi bật trong việc ứng dụng,

vấn đề thanh khoản mà các TCTD - đặc biệt là ngân hàng

phát triển và triển khai các công cụ giúp cảnh báo sớm rủi ro

thương mại nhỏ - gặp phải là do quản trị thanh khoản yếu

như mô hình dự báo tài chính, kiểm tra sức chịu đựng. Qua

Theo báo cáo của các TCTD.

đó, đưa ra những nhận định, cảnh báo đối với một số TCTD

1

47


48

trong trường hợp có những thay đổi về chính sách, thay đổi

thâu tóm hoạt động ngân hàng liên quan đến các cổ đông

danh mục, cơ cấu đầu tư và một số yếu tố khác.

lớn; chỉ đạo các TCTD có vốn điều lệ do doanh nghiệp là Tập

- Giám sát chặt chẽ và nhận diện rủi ro liên quan đến

đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước góp, sở hữu phải tích

tình hình cổ đông, sở hữu cổ phần, quan hệ của cổ đông tại

cực triển khai các biện pháp thoái vốn của doanh nghiệp nhà

các TCTD, đưa ra những cảnh báo về vi phạm của cổ đông

nước. Bên cạnh đó, các TCTD thực hiện tái cơ cấu gắn với việc

trong việc sở hữu cổ phần vượt tỷ lệ quy định, hạn chế việc

xử lý sở hữu cổ phần vượt giới hạn quy định và sở hữu chéo


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

lẫn nhau của TCTD. Đến nay, số lượng và mức độ sở hữu chéo

định về đảm bảo an toàn của nước sở tại và không thấp hơn

giữa các TCTD đang từng bước giảm dần trong quá trình tái

chuẩn mực an toàn trong nước.

cơ cấu.

- Thực hiện giám sát thống nhất, toàn diện từ Trung - Phối hợp với Ủy ban chứng khoán Nhà nước theo

ương đến địa phương, tăng cường chức năng quản lý nhà

dõi, giám sát chặt chẽ việc mua bán, chuyển nhượng cổ phần

nước đối với hoạt động giám sát của các chi nhánh tỉnh,

của các TCTD trên thị trường chứng khoán. Đồng thời giám

thành phố để có chỉ đạo chấn chỉnh kịp thời hoạt động của

sát chặt chẽ các khoản cho vay đối với các nhà đầu tư có giao

chi nhánh. Tổ chức thu thập thông tin về thực trạng tài chính

dịch lớn cổ phiếu để hạn chế việc TCTD cho vay, tài trợ lớn các

của hệ thống Quỹ Tín dụng Nhân dân, trên cơ sở đó, giám sát

giao dịch mua bán cổ phiếu gây tác động bất lợi tới thị trường

chặt chẽ và tiến hành thanh tra đối với các quỹ tín dụng yếu

chứng khoán và rủi ro của ngân hàng; xử lý kịp thời đối với các

kém, tình hình tài chính không minh bạch, khả năng thanh

trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm.

toán giảm sút để có biện pháp xử lý thích hợp.

Phối hợp với Bộ Tài chính thông qua các cơ quan thanh tra, giám sát chuyên ngành chứng khoán, bảo hiểm (Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Cục Quản lý giám sát Bảo hiểm) theo dõi, kiểm tra, giám sát chặt chẽ các giao dịch sở hữu chéo, đầu tư chéo giữa các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm; hạn chế rủi ro tiềm ẩn và xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh. - Thu thập thông tin và thực hiện giám sát đối với công ty con, chi nhánh của TCTD Việt Nam ở nước ngoài, cảnh báo đối với các TCTD mẹ có công ty con, chi nhánh ở nước ngoài hoạt động thua lỗ, có rủi ro tiềm ẩn lớn hoặc mức độ tập trung tín dụng lớn… Chỉ đạo các TCTD mẹ giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh của các chi nhánh, công ty con; có

2. Một số hạn chế trong công tác giám sát ngân hàng Bên cạnh một số kết quả rất tích cực đã đạt được trong thời gian qua, cũng cần phải nhận thấy công tác giám sát vẫn còn một số tồn tại nhất định cần khắc phục trong thời gian tới. Cụ thể: - Cơ sở pháp lý: Về tổng thể chưa phù hợp với yêu cầu đổi mới và hiện đại hóa hoạt động giám sát ngân hàng theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế. - Cơ sở vật chất và công nghệ phục vụ hoạt động thanh tra, giám sát

biện pháp tăng cường quản trị, hỗ trợ công ty con, chi nhánh

Chưa thiết lập được kho dữ liệu tập trung phục vụ

mở rộng hoạt động; có biện pháp cải thiện hiệu quả kinh

giám sát ngân hàng được kết nối với kho dữ liệu của TCTD,

doanh, tiết giảm chi phí và ngăn chặn lỗ, tuân thủ các quy

Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Trung tâm Thông tin tín dụng 49


Quốc gia Việt Nam và các cơ quan giám sát tài chính khác.

năng lực, hiệu quả nhằm xác định các rủi ro đối với sự ổn định

Thiếu một cơ chế phối hợp hữu hiệu giữa các cơ quan nói

của hệ thống, cảnh báo sớm, hỗ trợ các TCTD kịp thời phát

trên.

hiện và xử lý rủi ro, phát triển an toàn, bền vững. Điều này đòi Hệ thống hạ tầng công nghệ, thông tin, báo cáo chưa

hợp lý; chất lượng và độ tin cậy của thông tin chưa cao để phục vụ cho việc phân tích, đánh giá rủi ro, tình hình tổ chức, quản trị và hoạt động của TCTD.

giám sát dựa trên cơ sở rủi ro kết hợp với giám sát tuân thủ; tạo lập một cơ chế quản lý, giám sát đồng bộ phù hợp với hệ thống ngân hàng đa dạng về sở hữu và quy mô; tăng cường năng lực của NHNN trong quản lý rủi ro tích hợp với các hoạt

- Phương pháp giám sát: Mặc dù đã được cải thiện,

động trung gian tài chính tồn tại bên ngoài hệ thống ngân

nhưng giám sát ngân hàng vẫn chủ yếu tập trung vào việc

hàng (như tín dụng phi ngân hàng và các hoạt động trung

xác định tính tuân thủ với các luật/ quy định chứ không phải

gian tài chính khác).

tập trung vào việc phân tích rủi ro tiềm ẩn có khả năng xảy ra trong tương lai. - Thiếu cơ chế trao đổi thông tin và phối hợp hành động một cách có hiệu quả giữa Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng với các cơ quan thanh tra, giám sát tài chính trong nước và quốc tế - Bộ máy và cơ cấu tổ chức, nguồn nhân lực: Năng lực và trình độ nghiệp vụ của một bộ phận không nhỏ cán bộ thanh tra còn nhiều hạn chế so với yêu cầu tiếp cận và thực thi các thông lệ, chuẩn mực quốc tế về thanh tra, giám sát ngân hàng. Trình độ ngoại ngữ, tin học, kiến thức về quản trị rủi ro còn hạn chế. 3. Giải pháp Trước sự phát triển ngày càng sâu rộng của hệ thống ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung, gắn

50

hỏi tăng cường khuôn khổ pháp lý; xây dựng phương pháp

a) Nâng cao năng lực nghiệp vụ thanh tra, giám sát ngân hàng - Đổi mới căn bản phương pháp thanh tra, giám sát ngân hàng theo hướng đẩy mạnh thanh tra, giám sát rủi ro và nâng cao năng lực cảnh báo sớm trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, đặc biệt các rủi ro mang tính hệ thống; kết hợp với thanh tra, giám sát chấp hành chính sách pháp luật. - Xây dựng hệ thống giám sát an toàn vi mô (nhằm cung cấp đầy đủ thông tin về từng TCTD trong hệ thống) và giám sát an toàn vĩ mô (nhằm kiểm tra và đối phó với rủi ro hệ thống, xem xét và đánh giá tác động của các yếu tố kinh tế đến hoạt động ngân hàng). Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm (EWS) và hệ thống giám sát, xếp hạng các TCTD theo chuẩn mực CAMELS.

liền với mở cửa hội nhập tài chính khu vực và thế giới, công

- Xây dựng và phát triển các công cụ và mô hình định

tác giám sát ngân hàng cần phải được nâng cao một bước về

lượng phục vụ công tác giám sát ngân hàng trên cơ sở rủi ro


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

như mô hình dự báo tài chính (FPM), mô hình đánh giá sức chịu đựng (stress test), mô hình đánh giá hiệu quả hoạt động ngân hàng. Tiếp tục hoàn thiện cơ sở dữ liệu giám sát, tích cực triển khai đề án hiện đại hóa công nghệ thông tin trong công

quan quản lý, giám sát có liên quan ở trong nước và quốc tế. - Tăng cường số lượng và chất lượng của cán bộ thanh tra, giám sát ngân hàng.

tác thanh tra, giám sát. - Tăng cường thanh tra, giám sát hợp nhất, toàn diện các TCTD và tập đoàn tài chính, thanh tra, giám sát công ty con, công ty liên kết của các TCTD. NHNN thông qua Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thực hiện quản lý, thanh tra, giám sát các tập đoàn tài chính. Đẩy mạnh hợp tác với các cơ quan thanh tra, giám sát nước ngoài trong việc thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng nước ngoài hoạt động ở Việt Nam và các tổ chức tín dụng của Việt Nam hoạt động ở nước ngoài. - Phối hợp NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố tăng cường việc giám sát, xử lý sau thanh tra đối với TCTD trên phạm vi toàn hệ thống. - Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng trong việc quản lý, thanh tra, giám sát các TCTD và tăng cường đấu tranh, phòng ngừa ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, tội phạm trong ngành Ngân hàng. b) Phát triển hệ thống thanh tra giám sát ngân hàng hiệu quả, có cơ cấu tổ chức hợp lý, có đủ năng lực, nguồn lực để bảo đảm an toàn hệ thống các TCTD - Kiện toàn đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động thanh tra, giám sát theo hướng tập trung thống nhất từ Trung ương đến địa phương và tăng cường phối hợp với các cơ 51


CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG VIỆT NAM MÔ HÌNH XỬ LÝ NỢ XẤU ĐẶC THÙ CỦA VIỆT NAM Thạc sĩ Phạm Huyền Anh Vụ trưởng - Vụ Chính sách an toàn hoạt động ngân hàng

N

ăm 2013 là năm bản lề của ngành Ngân hàng trong việc triển khai Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015” được ban hành kèm

theo Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng năm 2013 là phải tham mưu cho Chính phủ trong việc đề ra các giải pháp cấp bách, có tính đột phá nhằm xử lý khối lượng nợ xấu lớn trong hệ thống ngân hàng. Nợ xấu ngân hàng đã được ví như “cục máu đông”, làm xói mòn sức khỏe của các tổ chức tín dụng và gây tắc nghẽn dòng vốn trong hệ thống ngân hàng, khiến việc luân chuyển vốn giữa các khu vực của nền kinh tế bị đình trệ, đặc biệt là dòng vốn chảy vào khu vực sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế.

Tại Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng, Vụ Chính sách an toàn hoạt động ngân hàng (Vụ V) đã được giao nghiên cứu, xây dựng Đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng ngân hàng dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng. Trước yêu cầu cấp bách của nhiệm vụ, Vụ V đã tập trung nghiên cứu kinh nghiệm các nước, trực tiếp tiến hành thu thập số liệu nợ xấu từ các tổ chức tín dụng để làm cơ sở phân tích, xây dựng Đề án xử lý nợ xấu. Dựa trên kết quả nghiên cứu, Vụ V đã tham mưu cho Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng trình Thống đốc Ngân hàng Nhà nước báo cáo Bộ Chính trị, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về việc thiết lập một công cụ đặc thù xử lý nợ xấu của Việt Nam - Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín

Với tầm quan trọng của vấn đề, Cơ quan Thanh tra,

dụng Việt Nam (VAMC) - nhằm góp phần xử lý nhanh nợ xấu,

giám sát ngân hàng đã được Thống đốc giao nghiên cứu, xây

lành mạnh hóa tài chính, giảm thiểu rủi ro cho các tổ chức tín

dựng Đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng

dụng, doanh nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng hợp lý

trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đây là một Đề án lớn,

cho nền kinh tế.

có tầm bao phủ rộng, cần phải đảm bảo đưa ra các giải pháp, công cụ xử lý nợ xấu vừa có tính toàn diện, vừa có tính đột phá, đảm bảo huy động mọi nguồn lực của xã hội tham gia 52

vào quá trình xử lý nợ xấu.

Sự cần thiết phải thành lập VAMC Việc thành lập VAMC xuất phát từ sự cần thiết sau đây:


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

Một là, yêu cầu xử lý nhanh, có hiệu quả và bền vững

xấu, rủi ro tín dụng như mua bán nợ, thành lập Công ty mua

nợ xấu của các TCTD nhằm thực hiện thành công mục tiêu

bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp thuộc Bộ Tài

cơ cấu lại các TCTD giai đoạn 2011-2015, đồng thời phấn đấu

chính (DATC), xử lý rủi ro tín dụng bằng dự phòng rủi ro,…

thực hiện giảm nợ xấu của hệ thống các TCTD về mức an toàn.

Tuy nhiên, thể chế và quy định xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt

Quy mô nợ xấu lớn và có chiều hướng tăng nhanh làm ảnh

động ngân hàng hiện nay chưa hoàn chỉnh và chưa có hiệu

hưởng xấu đến hiệu quả kinh doanh và an toàn hoạt động

quả cao để giúp các TCTD xử lý nhanh, kịp thời nợ xấu, đặc

của hệ thống các TCTD. Nợ xấu lớn, chậm được xử lý cũng là

biệt trong điều kiện hệ thống các TCTD gặp khó khăn do chịu

một trong những nguyên nhân chủ yếu gây khó khăn trong

sự tác động tiêu cực lớn của khủng hoảng kinh tế, môi trường

sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, thanh khoản ở một

kinh doanh dẫn đến nợ xấu và rủi ro tín dụng lớn.

số TCTD và ảnh hưởng đến hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất và quản lý thị trường tiền tệ của NHNN. Xử lý nợ xấu là yêu cầu cấp bách và nhiệm vụ trọng tâm của các TCTD nhằm thực hiện mục tiêu Đề án cơ cấu lại các TCTD giai đoạn 2011-2015 ban hành kèm theo Quyết định số 254/QĐTTg ngày 01/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ.

Ba là, góp phần thúc đẩy thị trường mua bán nợ và thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển. Thị trường mua bán nợ hiện nay có quy mô nhỏ và chưa phát triển. Trong khi đó, mua bán, xử lý nợ và tài sản là nhu cầu thực tiễn của hoạt động kinh doanh ngân hàng ngay cả trong điều kiện hoạt động bình thường. Bốn là, giảm bớt áp lực lên ngân sách

Do đó, cần phải có một tổ chức độc lập, chuyên nghiệp

nhà nước tài trợ cho chi phí xử lý nợ xấu của các TCTD. Kinh

với quy mô hoạt động lớn, có khả năng tiếp nhận và xử lý tập

nghiệm quốc tế cho thấy việc xử lý nợ xấu của hệ thống ngân

trung các khoản nợ xấu của các TCTD với quy mô lớn để tối đa

hàng cần có sự hỗ trợ tài chính của Chính phủ. Tuy nhiên, hiện

hóa giá trị thu hồi vốn, khơi thông một khối lượng lớn vốn, tài

nay ngân sách Nhà nước còn nhiều khó khăn (thâm hụt khá

sản đang bị đọng dưới dạng các khoản nợ xấu của các TCTD

lớn và kéo dài, nợ công cao và tăng nhanh) do đó không có

cũng như giảm nhẹ gánh nặng nợ nần của các doanh nghiệp.

điều kiện hỗ trợ tài chính trực tiếp cho việc xử lý nợ xấu của

Nhờ đó, hệ thống các TCTD tăng khả năng cung ứng tín dụng

hệ thống ngân hàng. Thành lập công ty quản lý tài sản với

cho nền kinh tế, góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất,

phương thức hoạt động rủi ro thấp nhất và cơ chế chia sẻ

kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

giá trị thu hồi nợ hợp lý giữa các bên liên quan sẽ hạn chế tác

Hai là, hoàn thiện và nâng cao thể chế xử lý nợ xấu, thiết chế an toàn hoạt động ngân hàng. Mặc dù khuôn khổ

động đến chi tiêu ngân sách nhà nước nhiều hơn là xử lý trực tiếp qua DATC.

thể chế và quy định an toàn hoạt động ngân hàng hiện nay

Ngày 18/5/2013 Chính phủ ban hành Nghị định số

đã cho phép TCTD có các biện pháp ghi nhận và xử lý nợ

53/2013/NĐ-CP về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của 53


Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (Nghị định số 53) và ngày 31/5/2013 Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 843/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng” và Đề án “Thành

- Về cấp vốn điều lệ, bổ nhiệm các chức danh quản lý, tuyển dụng nhân sự và bố trí trụ sở làm việc của VAMC:

lập Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam”

Thống đốc NHNN ban hành Quyết định số 1738/QĐ-

(Quyết định số 843). Trên cơ sở các quyết định trên, Vụ V đã

NHNN ngày 09/8/2013 về việc cấp vốn điều lệ cho VAMC và

khẩn trương trình Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng trình

hoàn tất thủ tục, hướng dẫn hạch toán việc cấp vốn điều lệ

Thống đốc ban hành các văn bản, quyết định để sớm thành

cho VAMC 500 tỷ đồng.

lập VAMC và đến ngày 26/7/2013 VAMC chính thức được thành lập, đi vào hoạt động. Cơ sở pháp lý thành lập, tổ chức và hoạt động của VAMC được khẩn trương hoàn thiện trong thời gian ngắn

NHNN đã hoàn thiện thủ tục theo quy định bổ nhiệm Hội đồng thành viên (03 người), Ban Điều hành (04 người), Ban Kiểm soát (02 người) và hướng dẫn VAMC thực hiện quy trình tuyển dụng, đảm bảo nghiêm túc, khách quan, đúng quy trình, quy định; bộ máy tổ chức và nhân sự khẩn trương được kiện toàn.

Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng (đầu mối là Vụ V) đã phối hợp với các đơn vị trình Thống đốc hoặc cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để VAMC hoạt động cụ thể: - Về ban hành Quyết định thành lập và phê duyệt Điều lệ của VAMC:

54

kiểm soát VAMC.

- Về ban hành các văn bản hướng dẫn hoạt động mua bán, xử lý nợ xấu của VAMC: Thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư số 19/2013/ TT-NHNN ngày 06/09/2013 quy định về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của VAMC. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để VAMC thực hiện mua, bán nợ xấu của các TCTD. Đồng thời,

Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 1459/

nhằm khuyến khích TCTD bán nợ xấu cho VAMC, NHNN đã

QĐ-NHNN ngày 27/6/2013 về việc thành lập VAMC và Quyết

ban hành Thông tư số 20/2013/TT-NHNN ngày 09/09/2013

định số 1590/QĐ-NHNN ngày 22/7/2013 về việc phê duyệt

quy định về cho vay tái cấp vốn trên cơ sở trái phiếu đặc biệt

Điều lệ tổ chức và hoạt động của VAMC. Theo đó, cơ cấu tổ

của VAMC và ngày 04/12/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban

chức của VAMC đã được thành lập gồm: Hội đồng thành viên,

hành Quyết định số 2358/QĐ-TTg về lãi suất tái cấp vốn của

Ban Điều hành, 07 Ban nghiệp vụ và Văn phòng Hội đồng

NHNN đối với các TCTD trên cơ sở trái phiếu đặc biệt của

thành viên. Ngày 11/02/2014, Thống đốc NHNN ký Quyết

VAMC. Ngày 26/02/2014, Thống đốc NHNN ban hành Thông

định số 169/QĐ-NHNN ban hành Quy chế hoạt động của Ban

tư số 04/2014/TT-NHNN quy định báo cáo thống kê và công


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

khai, minh bạch thông tin về hoạt động của VAMC. - Ngoài ra, ngày 27/12/2013 Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 209/2013/TT-BTC hướng dẫn chế độ tài chính đối với VAMC.

Đến nay, VAMC đã thu hồi được 551 tỷ đồng nợ gốc và lãi và thực hiện một số các hoạt động xử lý nợ xấu đã mua đối với các khoản nợ phù hợp đặc điểm của từng khoản nợ, cụ thể: tiếp tục cho vay để hoàn thành dự án đối với các khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm là dự án dở dang; cho vay trở lại để

Một số kết quả bước đầu của VAMC

phát triển sản xuất kinh doanh đối với một số doanh nghiệp

Kết quả mua nợ xấu:

có khoản nợ xấu do đầu tư trái ngành trong khi hoạt động kinh doanh ngành nghề chính vẫn được duy trì; ủy quyền toàn bộ

Thực hiện chiến lược hoạt động đã được NHNN phê các nội dung liên quan đến khởi kiện cho một số TCTD đang duyệt, trong giai đoạn đầu đi vào hoạt động, VAMC đã tập thực hiện khởi kiện, thi hành án đối với một số khách hàng cụ trung mua nợ xấu của các tổ chức tín dụng thông qua phát thể; tiến hành kiểm tra, rà soát các khoản nợ đã mua để lập hành trái phiếu đặc biệt của VAMC. danh mục, phân loại các khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm. Thực

Tính đến ngày 31/12/2013, VAMC đã duyệt mua và ký hiện phân nhóm, lập danh mục theo phương pháp lựa chọn hợp đồng mua 1.637 khoản nợ xấu của 35 TCTD với tổng số dư hồ sơ mua nợ với tiêu chí là các khoản nợ có giá trị lớn, tài sản nợ gốc 39.307 tỷ đồng, giá mua 32.739 tỷ đồng thông qua phát

bảo đảm là các dự án bất động sản (khu đô thị, chung cư, cao

hành trái phiếu đặc biệt (vượt mức so với kế hoạch là khoảng ốc văn phòng, quyền sử dụng đất nhà và đô thị...) hoặc các 30-35 nghìn tỷ đồng). Trong 6 tháng đầu năm 2014, VAMC tiếp khoản nợ có các nhà máy cơ sở sản xuất; bước đầu thực hiện tục duyệt mua và ký hợp đồng mua bằng trái phiếu đặc biệt

phân loại, củng cố hồ sơ pháp lý đối với các khoản nợ có tài

của 29 TCTD với tổng số dư nợ gốc là 12.535 tỷ đồng, giá mua

sản bảo đảm lớn, là các dự án có khả năng bán nợ/tài sản bảo

nợ là 10.227 tỷ đồng.

đảm để giới thiệu, cung cấp cho các nhà đầu tư quan tâm để

Như vậy, đến ngày 30/6/2014 (sau 1 năm đi vào hoạt

bán nợ/xử lý tài sản bảo đảm thu hồi nợ.

động) VAMC đã ký hợp đồng và duyệt mua được 2.684 khoản

Hiện VAMC đang tập trung xây dựng phương án xử lý

nợ xấu của 34 TCTD với tổng dư nợ 51.842 tỷ đồng cho thấy

số nợ xấu đã mua thông qua phát hành trái phiếu đặc biệt của

mô hình công ty có tính khả thi và phù hợp với hoàn cảnh của

VAMC và phương án mua nợ xấu theo giá trị thị trường nhằm

Việt Nam, góp phần kiềm chế nợ xấu gia tăng trong thời gian đẩy nhanh hơn nữa hoạt động mua, bán và xử lý nợ xấu của hệ qua và từng bước xử lý nợ xấu trong điều kiện không thuận lợi hiện nay. Kết quả thu hồi, xử lý nợ xấu đã mua:

thống các tổ chức tín dụng. Là định chế mới được thành lập và đi vào hoạt động với nhiều khó khăn, thiếu thốn về điều kiện hoạt động nhưng kết 55


quả đạt được ban đầu của VAMC là rất đáng khích lệ, tạo nền

TCTD trong việc thu giữ, xử lý tài sản bảo đảm tiền vay đi đôi

tảng cho việc đẩy nhanh việc xử lý nợ xấu trong thời gian tới,

với việc tăng cường tính minh bạch, công khai trong bán, xử

đặc biệt là tạo được niềm tin về tính khả thi của một công cụ

lý nợ xấu và tài sản bảo đảm.

xử lý nợ xấu rất đặc thù. Việc VAMC đã mua được nợ xấu và tiếp nhận đề nghị bán nợ tự nguyện từ nhiều ngân hàng bao gồm NHTM Nhà nước, NHTM cổ phần, NHTM yếu kém, NHTM có tỷ lệ nợ xấu dưới 3% chứng tỏ các TCTD đã sẵn sàng bán nợ xấu cho VAMC và tâm lý e ngại của các TCTD trong việc bán nợ xấu cho VAMC đã được xóa bỏ đáng kể khi các TCTD đã hiểu được rõ ràng hơn những lợi ích đem lại của việc tham gia xử lý nợ xấu qua VAMC. Định hướng hỗ trợ hoạt động cho VAMC Trong năm 2014, VAMC đặt kế hoạch mua nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt khoảng 70 - 100 nghìn tỷ đồng, triển khai các công việc của giai đoạn tiếp theo trong chiến lược hoạt động đã được phê duyệt là mua nợ xấu theo giá trị thị trường và tập trung đẩy mạnh bán, xử lý tài sản bảo đảm và khoản nợ xấu đã mua. Với trách nhiệm là đơn vị đầu mối của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, Vụ V tiếp tục tập trung, nỗ lực nghiên cứu, tham mưu cho lãnh đạo Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trong việc sửa đổi bổ sung các cơ chế, chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho VAMC trong hoạt động mua bán và xử lý nợ xấu, cụ thể: - Tiếp tục tạo môi trường thông thoáng, đặc biệt là cơ sở pháp lý cho việc xử lý, bán nợ, tài sản bảo đảm tiền vay theo hướng trao quyền chủ động nhiều hơn cho VAMC và các 56

- Phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan sửa đổi, bổ sung Nghị định số 53/2013/NĐ-CP về thành lập, tổ chức và hoạt động của VAMC và các văn bản hướng dẫn, trong đó có các quy định về xử lý nợ, tài sản bảo đảm của cả TCTD và VAMC nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho VAMC, TCTD bán, xử lý nợ, tài sản bảo đảm. - Nghiên cứu bổ sung nguồn lực tài chính đủ mạnh cho Công ty VAMC để thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng và triển khai các hoạt động đầu tư, hỗ trợ tài chính cho khách hàng vay hoàn thiện dự án đầu tư có tính khả thi. Tóm lại, những kết quả bước đầu đạt được của VAMC cho thấy đây là công cụ xử lý nợ đặc thù, phù hợp với điều kiện Việt Nam và từng bước phát huy hiệu quả trong xử lý nợ xấu, dần trở thành công cụ được hệ thống ngân hàng sử dụng như một giải pháp chủ yếu góp phần xử lý nợ xấu trong hệ thống các TCTD tại Việt Nam.


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC CẤP PHÉP ĐỐI VỚI HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NGÀNH NGÂN HÀNG VÀ CÔNG TÁC TÁI CƠ CẤU CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG Vụ Quản lý cấp phép các TCTD và hoạt động ngân hàng Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng

K

hông phải ngẫu nhiên mà các nguyên tắc liên quan đến

vụ này đã được cụ thể hóa tại Nghị định số 26/2014/NĐ-CP

cấp phép luôn giữ vị trí quan trọng trong các nguyên tắc về

ngày 07/4/2014 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của

thanh tra, giám sát ngân hàng hiệu quả của Ủy ban Basel.

Thanh tra, giám sát ngành ngân hàng (thay thế Nghị định số

Xét về bản chất, hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD), đặc biệt là

91/1999/NĐ-CP ngày 04/9/1999 của Chính phủ) và giao Cơ

hệ thống ngân hàng thương mại là huyết mạch, là kênh dẫn vốn

quan Thanh tra, giám sát ngân hàng (CQTTGSNH) tham mưu

quan trọng cho nền kinh tế. Trong khi đó, những rủi ro có tính hệ

giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Theo đó, công

thống của các TCTD có ảnh hưởng quyết định đến sự ổn định

tác cấp phép gắn liền với sự hình thành, phát triển và chấm

và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Điều này đã được minh

dứt sự tồn tại của một TCTD và do vậy, xét dưới góc độ quản

chứng rõ nét qua các cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới

lý ngành Ngân hàng, cấp phép là một khâu tiền kiểm quan

thời gian qua. Do đó, việc xem xét cấp phép đối với một TCTD

trọng trong quy trình quản lý, thanh tra, giám sát của NHNN

trên cơ sở các điều kiện, tiêu chí nhất định là hết sức cần thiết

đối với tổ chức và hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng

nhằm đảm bảo cho TCTD nói riêng và hệ thống các TCTD nói

nước ngoài.

chung hoạt động an toàn, lành mạnh, hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh, đảm bảo quyền và lợi ích của khách hàng, đạt được những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, hướng tới sự phát triển bền vững của quốc gia. Đây cũng chính là mục tiêu của công tác cấp phép.

Thấy được vai trò quan trọng của công tác cấp phép, ngay từ khi thành lập (tháng 8 năm 2009), trong cơ cấu tổ chức của CQTTGSNH đã có một đơn vị chuyên trách thực hiện nhiệm vụ này là Vụ Quản lý cấp phép các TCTD và hoạt động ngân hàng (Vụ VI). Đến nay, công tác cấp phép đã đạt được

Ở Việt Nam, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

một số kết quả đáng khích lệ và phát huy được tính hiệu quả,

số 46/2010/QH12 ngày 29/6/2010 đã quy định cấp phép là

hiệu lực của quản lý nhà nước, thể hiện trên một số khía cạnh

một trong những nhiệm vụ quan trọng của NHNN. Nhiệm

chủ yếu sau: 57


Trước hết, công tác cấp phép góp phần hình thành, phát triển, sắp xếp lại hệ thống các TCTD. Lịch sử hình thành và phát triển hệ thống TCTD gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển nền sản xuất hàng hóa. Nếu như nhu cầu của dân cư về dịch vụ tài chính ngân hàng và yêu cầu phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội là điều kiện cần thì việc đáp ứng các tiêu chí cấp phép là điều kiện đủ để một TCTD ra đời. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hệ thống các TCTD hiện nay rất đa dạng với nhiều loại hình TCTD, mỗi loại đều có đặc thù về đối tượng khách hàng, nội dung hoạt động, mô hình tổ chức và phải tuân theo những quy định pháp lý riêng biệt nhưng tổng hòa chung đều nhằm cung cấp các tiện ích tối đa cho khách hàng như nhận tiền gửi, cung ứng các dịch vụ thanh toán, cấp tín dụng…

vi mô và quỹ tín dụng nhân dân (QTDND). Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, hệ thống này đang bộc lộ một số bất cập: các NHTM cổ phần dù số lượng khá nhiều (chiếm 77% tổng số NHTM ở Việt Nam) nhưng quy mô còn tương đối nhỏ và tồn tại một số yếu kém trong quản trị, điều hành; mô hình tổ chức và hoạt động của các công ty tài chính chưa hiệu quả, đặc biệt đối với các công ty tài chính thuộc Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước; hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân năng lực quản trị còn yếu, tình hình tài chính, vốn còn hạn chế, chưa triển khai hiệu quả cơ chế liên kết hệ thống chặt chẽ, thường xuyên để hỗ trợ vốn, nhằm giúp các Quỹ tín dụng nhân dân phát triển an toàn, bền vững. Trong khi đó, tổ chức tài chính vi mô là loại hình TCTD được thực hiện một số hoạt động ngân

Tuy nhiên, số lượng và cơ cấu các TCTD trong hệ thống

hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ gia đình có

không phải là bất biến, có thể được gia tăng hoặc giảm đi tùy

thu nhập thấp và doanh nghiệp siêu nhỏ thì mới chỉ có 02 tổ

vào nhu cầu của thị trường và định hướng phát triển kinh tế xã

chức được cấp phép chính chức, chưa đáp ứng đủ nhu cầu

hội của từng quốc gia. Khi đó, công tác cấp phép chính là một

của phần lớn khách hàng thuộc phân khúc này... Do vậy, để

công cụ hữu hiệu của quản lý nhà nước để thực hiện sắp xếp,

sắp xếp, cơ cấu lại hệ thống các TCTD, thời gian qua NHNN

quy hoạch lại hệ thống các TCTD thông qua những biện pháp

đã chủ trương cấp phép thành lập mới các TCTD theo hướng:

hỗ trợ hoặc rào cản kỹ thuật hợp lý.

hạn chế tối đa về cấp phép mới các loại hình NHTM, chỉ cấp

Ở Việt Nam, hệ thống các TCTD được hình thành và

phép các TCTD phi ngân hàng sau khi có đầy đủ khuôn khổ

phát triển khá nhanh, đặc biệt từ sau khi nước ta chuyển đổi

pháp lý về tổ chức và hoạt động, tạm dừng cấp phép đối với

sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đến

QTDND cho đến khi hoàn thành việc tổng kết, đánh giá kết

nay đã hình thành được một hệ thống các TCTD phong phú

quả hoạt động của hệ thống QTDND; tiếp tục khuyến khích

về loại hình, đa dạng về sở hữu, bao gồm: ngân hàng (ngân

phát triển tài chính vi mô nhằm phục vụ tốt hơn cho công

hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã), TCTD phi ngân hàng (công ty tài chính, công ty cho thuê 58

tài chính và các TCTD phi ngân hàng khác), tổ chức tài chính

cuộc xóa đói giảm nghèo. Với quan điểm trên, từ năm 2009, NHNN không thực


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

hiện cấp phép đối với khối NHTM gồm NHTM Nhà nước, NHTM

hiện sau khi có sự chấp thuận của NHNN và NHNN đã quy

cổ phần, ngân hàng 100% vốn nước ngoài và ngân hàng liên

định cụ thể các điều kiện, tiêu chí cấp phép để có thể đạt được

doanh, chỉ thực hiện cấp phép thành lập mới đối với 02 công

sự chấp thuận này.

ty tài chính 100% vốn nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiêu dùng và 02 tổ chức tài chính vi mô. Bên cạnh đó, để đảm bảo cam kết gia nhập WTO, NHNN tiếp tục triển khai cấp phép thành lập đối với một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài và Văn phòng đại diện (VPĐD) nhưng đều nằm trong Kế hoạch cấp phép đã trình Thống đốc NHNN hoặc theo chỉ đạo của Chính phủ. Ngoài ra, NHNN đã cấp phép chuyển đổi Quỹ tín dụng nhân dân trung ương thành Ngân hàng Hợp tác xã, đảm bảo phù hợp với quy định tại Luật Các TCTD. Song song với công tác cấp phép thành lập mới TCTD, NHNN còn tiến hành triển khai việc rút giấy phép, đóng cửa một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động không có hiệu quả hoặc chuyển đổi hình thức tổ chức, chuyển giao tài sản, công nợ sang đơn vị trực thuộc của cùng ngân hàng mẹ hoạt động ở Việt Nam. Cùng với các biện pháp triển khai quyết liệt cơ cấu lại hệ thống các TCTD, công tác cấp phép đã và đang góp phần không nhỏ vào việc sắp xếp, quy hoạch lại hệ thống các TCTD để hoàn thiện một hệ thống hoạt động lành mạnh, an toàn, phát triển bền vững theo mục tiêu mà Đảng, Chính phủ đã đề ra. Thứ hai, yêu cầu của công tác cấp phép là động lực để các TCTD không ngừng nâng cao năng lực tài chính, khả năng quản trị điều hành và ý thức tôn trọng pháp luật

Theo đó, để được mở rộng mạng lưới các TCTD phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện về vốn, kết quả hoạt động kinh doanh, mức độ tuân thủ tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng, về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, tỷ lệ nợ xấu, đảm bảo quy định về số lượng và cơ cấu Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, về bộ máy kiểm toán nội bộ và hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ… Để bổ sung nội dung hoạt động, gia hạn thời gian hoạt động, niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán…, các TCTD cũng phải hoạt động trong trạng thái lành mạnh, an toàn, hiệu quả. Đối với những nội dung hoạt động chưa có khuôn khổ pháp lý đầy đủ như cung ứng một số sản phẩm phái sinh, ủy thác và nhận ủy thác, quản lý tài sản… để tạo điều kiện cho các TCTD có cơ hội phát triển, đa dạng nguồn thu, NHNN xem xét từng đề nghị cụ thể của các TCTD trên cơ sở thận trọng, chặt chẽ. Trường hợp này, TCTD phải xây dựng được quy trình xử lý đối với từng nghiệp vụ cụ thể, nhận diện được các rủi ro có thể xảy ra và có biện pháp hiệu quả giảm thiểu được rủi ro, chứng minh được khả năng quản lý và chịu đựng rủi ro của TCTD, đồng thời đáp ứng một số điều kiện khác về an toàn, quản trị, điều hành… Ngoài ra, công tác cấp phép còn tác động trực tiếp đến vấn đề cốt lõi nhất của TCTD là quản trị, điều hành thông qua

Ngân hàng là ngành kinh doanh có điều kiện. Luật các

chấp thuận danh sách dự kiến nhân sự làm thành viên Hội

TCTD đã quy định rất rõ những nội dung TCTD chỉ được thực

đồng quản trị, thành viên Ban Kiểm soát, Tổng Giám đốc của 59


TCTD. Theo đó, qua công tác thanh tra, giám sát và các tiêu

phát triển hệ thống TCTD nói chung.

chuẩn điều kiện về nhân sự đã được luật định, NHNN thẩm

Bên cạnh đó, NHNN cũng tiền kiểm ngay cả những vấn

định hết sức kỹ lưỡng các điều kiện về trình độ chuyên môn,

đề như thay đổi tên, địa điểm đặt trụ sở chính, tăng vốn điều

kinh nghiệm công tác, đạo đức nghề nghiệp của nhân sự dự

lệ, chuyển nhượng cổ phần… để giữ ổn định hoạt động các

kiến… trước khi TCTD tiến hành việc bầu/bổ nhiệm. Qua đó,

TCTD, bảo vệ người gửi tiền và an toàn hệ thống. Điều này đòi

NHNN có thể loại bỏ nhân sự có năng lực hạn chế, ý thức chấp

hỏi các TCTD luôn có ý thức tuân thủ pháp luật và thận trọng

hành pháp luật kém tham gia điều hành, quản trị TCTD, ngăn

trong các quyết định của mình.

ngừa được những rủi ro về đạo đức gây ảnh hưởng đến sự

Như vậy, thông qua công tác cấp phép, NHNN tạo điều

phát triển của TCTD. Công tác này buộc các TCTD phải lựa

kiện thuận lợi cho các TCTD có năng lực toàn diện về tài chính,

chọn nhân sự có đủ tài, đức để dẫn dắt, điều hành TCTD hoạt

quản trị, khả năng quản lí rủi ro, có hệ thống công nghệ thông

động theo đúng mục tiêu của TCTD nói riêng và góp phần

tin hiện đại, chấp hành đúng các quy định của pháp luật… có cơ hội phát triển. Ngược lại, những TCTD hoạt động có nhiều vi phạm, năng lực yếu sẽ bị hạn chế việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó, các TCTD phải luôn luôn tự hoàn thiện về mọi mặt để vươn lên thay vì bị tụt hậu hoặc bị đào thải ra khỏi thị trường. Thứ ba, cấp phép là công cụ hiệu quả của Nhà nước trong quản lí xã hội, đảm bảo thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Hệ thống tài chính ngân hàng là huyết mạch của nền kinh tế. Do vậy, việc hình thành một hệ thống các TCTD lành mạnh, hiệu

60


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

quả góp phần to lớn trong việc phát triển kinh tế thông qua

mại hoặc Hiệp định bảo hộ và thúc đẩy đầu tư với Việt Nam…

việc cung ứng vốn cho các doanh nghiệp hoạt động, thực hiện

Đây là một trong những biện pháp kỹ thuật để thu hút đầu tư

các mục tiêu chỉ định của Chính phủ, xóa đói giảm nghèo…

nước ngoài và gián tiếp thể hiện thái độ đối xử của Việt Nam

Trong phạm vi ngành Ngân hàng, thời gian qua, công tác cấp phép đã hỗ trợ đắc lực để thực hiện định hướng phát triển nông nghiệp nông thôn của Chính phủ. Bên cạnh việc đa dạng hóa loại hình TCTD như cấp phép thành lập tổ chức tài chính vi mô để phục vụ phân khúc khách hàng là người nghèo, người có thu nhập thấp – tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn, NHNN còn có những biện pháp khuyến khích các TCTD mở rộng mạng lưới tại các địa bàn nông nghiệp, nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Trong bối cảnh mạng lưới các TCTD, đặc biệt là các NHTM quá dày đặc ở địa bàn đô thị, việc khuyến khích TCTD mở rộng mạng lưới hoạt động tại các địa bàn trên góp phần phân bổ một cách hợp lý hơn mật độ dịch vụ tài chính ngân hàng tại các địa phương, thu hẹp trình độ phát triển giữa các vùng miền, đưa tiện ích, dịch vụ ngân hàng đến với mọi thành phần xã hội.

với các quốc gia trên phương diện ngoại giao. Thực tế cho thấy, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các quốc gia như Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản… không ngừng gia tăng trong thời gian gần đây và chi nhánh của các ngân hàng đến từ các quốc gia này được cấp phép thành lập tại Việt Nam cũng đã phát huy được hiệu quả trong việc phục vụ cho các giao dịch thương mại giữa Việt Nam và quốc gia đó. Thứ tư, công tác cấp phép góp phần thực hiện thành công sự nghiệp cơ cấu lại hệ thống các TCTD Cơ cấu lại hệ thống các TCTD là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách của ngành ngân hàng để cùng với cơ cấu lại đầu tư và cơ cấu lại doanh nghiệp thực hiện thành công chủ trương cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh. Chính vì vậy, thời gian qua, NHNN đã triển khai các bước

Ngoài ra, công tác cấp phép còn là công cụ để mở

đi khẩn trương, quyết liệt để triển khai cơ cấu lại các TCTD

rộng quan hệ ngoại giao và thu hút đầu tư nước ngoài. Theo

phù hợp với lộ trình, giải pháp tại Đề án cơ cấu lại hệ thống

đó, bên cạnh các tiêu chí cấp phép về năng lực toàn diện của

các TCTD giai đoạn 2011-2015 ban hành kèm theo Quyết định

các TCTD có nhu cầu, hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, việc

số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ (Đề

cấp phép thành lập mới các TCTD nước ngoài, chi nhánh ngân

án 254). Theo Đề án này, trong năm 2012 và 2013, NHNN tập

hàng nước ngoài luôn được xem xét trên nguyên tắc đảm bảo

trung đánh giá đúng thực trạng hoạt động, chất lượng tài sản

các cam kết quốc tế song phương và đa phương và dựa trên

của các TCTD, ưu tiên xử lý các TCTD yếu kém; đảm bảo khả

các tiêu chí như ưu tiên quốc gia có tiềm năng phát triển quan

năng chi trả của các TCTD; triển khai sáp nhập, hợp nhất, mua

hệ hợp tác đầu tư, thương mại với Việt Nam, quốc gia tham

lại TCTD trên nguyên tắc tự nguyện; tăng vốn điều lệ và xử lý

gia Hiệp định thương mại tự do hoặc ký kết Hiệp định thương

nợ xấu của các TCTD và từng bước cơ cấu lại hoạt động, quản 61


trị, điều hành. Trong phạm vi nhiệm vụ được giao, công tác cấp phép

Đối với việc chấp thuận tổ chức lại TCTD thông qua các

đã hỗ trợ tích cực trong việc triển khai cơ cấu lại các TCTD,

hình thức như sáp nhập/hợp nhất: Đây là giải pháp hiệu quả

được thể hiện trên nhiều phương diện:

để các TCTD tăng quy mô, nâng cao năng lực tài chính, nâng

Đối với công tác cấp phép thành lập mới TCTD: chủ

cao năng lực cạnh tranh đáp ứng yêu cầu của bối cảnh kinh

trương hạn chế cấp phép như đã nêu trên giúp tránh gây xáo

tế mới, đồng thời giảm bớt số lượng các TCTD yếu kém, từng

trộn thị trường tài chính, tiền tệ; giữ ổn định môi trường hoạt

bước hình thành một hệ thống TCTD đa năng, hiện đại, an

động của hệ thống và thuận lợi cho việc triển khai các biện

toàn, hiệu quả, có khả năng cạnh tranh lớn hơn nhằm đáp ứng

pháp tái cơ cấu đạt được hiệu quả.

tốt hơn nhu cầu về dịch vụ tài chính, ngân hàng của nền kinh

Đối với công tác cấp phép mở rộng mạng lưới hoạt

tế, đạt được mục tiêu cơ cấu lại các TCTD nêu tại Đề án 254.

động của TCTD: từ năm 2011, NHNN chủ trương hạn chế việc

Trên thực tế, NHNN đã chấp thuận cho 09 TCTD sáp

cấp phép thành lập mới các đơn vị mạng lưới, chỉ cho phép

nhập, hợp nhất với nhau, trong đó có sự kết hợp giữa các

mở rộng mạng lưới đối với những TCTD có khả năng quản

TCTD lành mạnh, giữa TCTD lành mạnh và TCTD yếu kém, giữa

trị tốt, hoạt động có hiệu quả, chấp hành nghiêm chỉnh các

các TCTD yếu kém có quan hệ kinh tế liên quan. Riêng đối với

quy định của pháp luật. Thực tế cho thấy, trong giai đoạn năm

các TCTD yếu kém, bên cạnh việc chấp thuận phương án cơ

2012 và 2013, số lượng các chi nhánh, phòng giao dịch được

cấu lại thông qua hình thức sáp nhập, hợp nhất, NHNN còn

mở mới rất thấp so với các năm trước. Bên cạnh đó, NHNN

yêu cầu các TCTD sau sáp nhập/hợp nhất phải có biện pháp,

cũng đã chỉ đạo các TCTD xây dựng Kế hoạch sắp xếp lại mạng

lộ trình cụ thể để khắc phục những tồn tại phát sinh từ nội bộ

lưới hoạt động đảm bảo chất lượng, hiệu quả, phù hợp với

các TCTD tham gia sáp nhập và phát sinh đối với bản thân việc

thực tế hoạt động của từng TCTD và coi đây là một cấu phần

sáp nhập (như vấn đề nhân sự, vốn hóa…). Đề nghị của các

quan trọng của phương án cơ cấu lại TCTD.

TCTD đều được NHNN xem xét một cách chặt chẽ, thận trọng

Đối với cấp phép trong quá trình hoạt động của TCTD:

và chỉ đạo xây dựng phương án cơ cấu lại phù hợp nhất trên

Ngoài việc cấp phép phát triển mạng lưới, như trên đã nêu,

quan điểm vì sự phát triển của TCTD nói riêng và vì sự ổn định,

trong quá trình hoạt động, TCTD phải được sự chấp thuận của

an toàn của hệ thống các TCTD nói chung.

NHNN trước khi thực hiện một số nội dung như bổ sung nội dung hoạt động, tăng vốn điều lệ…Việc NHNN xem xét thận trọng đề nghị này của các đơn vị dựa trên các điều kiện cấp phép chặt chẽ vừa là động lực để TCTD củng cố toàn diện về 62

mọi mặt, vừa là yêu cầu đối với phương án cơ cấu lại TCTD.

*

* *

Như vậy, với khoảng thời gian từ khi thành lập đến nay


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

dù chưa dài (5 năm), CQTTGSNH đã hoàn thành tốt chức năng,

dựng, hoàn thiện các văn bản hướng dẫn về các vấn đề liên

nhiệm vụ được giao, phát huy vai trò tích cực của công tác

quan như quy định về tổ chức và hoạt động của TCTD phi

cấp phép đối với hiệu quả quản lý nhà nước và công tác tái

ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô, QTDND, các vấn đề về

cơ cấu các TCTD. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan

nhân sự, những thay đổi phải được NHNN chấp thuận…,

thì vẫn còn một số khó khăn do chiến lược, quan điểm dài

đặc biệt là các nội dung hoạt động/nghiệp vụ ngân hàng

hạn về công tác cấp phép, về khuôn khổ pháp lý chưa đầy đủ,

(như các hoạt động ủy thác và nhận ủy thác, các sản phẩm

chất lượng tham mưu của NHNN Chi nhánh tỉnh, thành phố

phái sinh, các hoạt động kinh doanh khác của NHTM…).

còn hạn chế, nhân sự làm công tác cấp phép còn mỏng và

Điều này gây khó khăn đáng kể trong việc thực hiện công

thiếu kinh nghiệm… Do vậy, để hoàn thiện công tác cấp phép

tác cấp phép trong thời gian qua do các cán bộ làm công

trong thời gian tới, một số đề xuất, kiến nghị cụ thể như sau:

tác cấp phép phải mất nhiều thời gian trong việc tập trung

Một là, cần có quan điểm dài hạn về công tác cấp phép Công tác cấp phép liên quan đến sự sống còn của một TCTD, do đó có ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định, an toàn của hệ thống các TCTD nói riêng và sự phát triển của nền kinh tế - xã hội nói chung. Vì vậy, mục tiêu của công tác cấp phép phải gắn liền với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất

nghiên cứu, vận dụng linh hoạt các quy định có liên quan để xử lý đề nghị của đơn vị. Do vậy, NHNN cần đẩy nhanh quá trình xây dựng, nghiên cứu để sớm ban hành các văn bản hướng dẫn, tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho công tác cấp phép, giảm thiểu được những rủi ro về mặt pháp lý cho cơ quan thực hiện cấp phép cũng như TCTD.

nước, mục tiêu phát triển ngành Ngân hàng trong dài hạn.

Bên cạnh đó, để tạo cơ sở pháp lý phục vụ cho quá

Theo đó, Chính phủ và NHNN cần có định hướng cấp phép

trình tái cơ cấu các TCTD, NHNN cần nghiên cứu ban hành cơ

các TCTD trong dài hạn, đảm bảo tính nhất quán, minh bạch,

chế hỗ trợ các TCTD thực hiện tái cơ cấu hoặc tham gia tái cơ

công khai. Đây cũng chính là cơ sở để TCTD xây dựng chiến

cấu thông qua các hình thức như chia, tách, sáp nhập, hợp

lược phát triển phù hợp, đồng thời giúp tránh gây xáo trộn thị

nhất…, các cơ chế hỗ trợ sau khi TCTD tiến hành triển khai

trường tài chính tiền tệ, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước

phương án tái cơ cấu theo phương án đã được NHNN phê

đối với các TCTD.

duyệt.

Hai là, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến cấp

Ba là, nâng cao chất lượng tham mưu, phối hợp của NHNN Chi nhánh tỉnh, thành phố

phép Luật Các TCTD ra đời năm 2010 đã quy định về tổ chức

NHNN Chi nhánh tỉnh, thành phố theo ủy quyền của

và hoạt động của các loại hình TCTD. Tuy nhiên, sau 3 năm

Thống đốc NHNN là đơn vị quản lý trực tiếp các TCTD trên địa

Luật có hiệu lực đến nay NHNN vẫn đang trong quá trình xây

bàn, đặc biệt là các NHTM cổ phần và hệ thống QTDND. Đây 63


là kênh thông tin hữu hiệu đối với CQTTGSNH trong việc triển

đặc biệt với nhiệm vụ triển khai tái cơ cấu các TCTD. Bên cạnh

khai thực hiện nhiệm vụ, trong đó có công tác cấp phép. Vì

đó, những phát sinh trong thực tiễn hoạt động của các TCTD

vậy, việc nâng cao chất lượng tham mưu, phối hợp của NHNN

đòi hỏi các biện pháp quản lý của cơ quan nhà nước sát sao

Chi nhánh tỉnh, thành phố trong công tác cấp phép là hết sức

và toàn diện hơn. Do vậy, việc bổ sung số lượng cán bộ làm

cần thiết nhằm đảm bảo các quyết định chấp thuận đối với

công tác cấp phép cũng như nâng cao trình độ, kỹ năng của

TCTD là chính xác, kịp thời, đảm bảo tiến độ theo đúng quy

cán bộ thông qua tăng cường đào tạo, bồi dưỡng là yêu cầu

định của pháp luật, giảm thiểu rủi ro hệ thống. Riêng đối với

bức thiết.

hệ thống QTDND, cần nâng cao trách nhiệm của cán bộ của NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố trong việc thẩm định, quản lý, giám sát các QTDND nhằm đảm bảo các quỹ này hoạt động đúng mục tiêu tương trợ giữa các thành viên để phát triển sản xuất, kinh doanh và nâng cao kinh tế địa phương. Bốn là, tăng cường chất và lượng đội ngũ cán bộ làm công tác cấp phép Cấp phép là công việc hết sức đa dạng, phức tạp, nhạy cảm do công việc này liên quan trực tiếp đến tất cả các mặt hoạt động của TCTD như quản trị, điều hành, tác nghiệp. Với

công tác đào tạo và tự đào tạo đối với cán bộ, bản thân Vụ Quản lý cấp phép các TCTD và hoạt động ngân hàng cũng đã nỗ lực triển khai các buổi hội thảo khoa học, tọa đàm về các vấn đề liên quan đến công tác cấp phép, khuyến khích các cán bộ tự trau dồi thêm kiến thức phục vụ công việc nhưng chưa có những chương trình đào tạo riêng, chuyên sâu về kiến thức cũng như kỹ năng trong lĩnh vực này. Do vậy, các nội dung này trong thời gian tới cần sự quan tâm và đầu tư thích đáng hơn.

đặc thù này, mỗi cán bộ làm công tác cấp phép phải không

Hy vọng với kết quả đã đạt được và những đề xuất,

ngừng trau dồi phẩm chất đạo đức cũng như trình độ, kỹ

kiến nghị như trên, công tác cấp phép thời gian tới sẽ được

năng để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Theo đó, các cán

nâng cao hơn nữa về chất lượng, phát huy và góp phần thực

bộ một mặt phải nắm bắt được những kiến thức vĩ mô như

hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội mà Đảng và Nhà nước đề ra,

tình hình và xu hướng phát triển kinh tế - xã hội trong nước và

phát huy tính hiệu quả trong quản lý Nhà nước, góp phần xây

quốc tế, mặt khác phải am hiểu sâu về tổ chức và hoạt động

dựng hệ thống TCTD hoạt động an toàn, hiệu quả.

của các TCTD, đặc biệt là các nghiệp vụ cụ thể để có thể tham mưu có hiệu quả khi xử lý đề nghị của đơn vị. Tuy nhiên, hiện nay nhân sự làm công tác cấp phép của CQTTGSNH còn mỏng (gần 40 cán bộ) trong khi khối lượng công việc cấp phép ngày một nhiều và phức tạp hơn, 64

Thời gian qua, CQTTGSNH đã chú trọng nhiều hơn đến


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

Dấu ấn công tác phòng, chống rửa tiền trong hoạt động của Cơ quan TTGSNH Thạc sĩ Nguyễn Văn Ngọc Cục trưởng - Cục Phòng, chống rửa tiền

Mô hình tổ chức và chức năng của Đơn vị tình báo tài

thúc đẩy tuân thủ các chuẩn mực về phòng, chống rửa tiền,

chính (FIU1) theo chuẩn mực quốc tế

trong đó đặc biệt phải kể đến việc Lực lượng đặc nhiệm tài

Hiện nay, rửa tiền đã và đang trở thành một vấn nạn đối với nhiều quốc gia trên thế giới và là vấn đề được cả cộng đồng quốc tế quan tâm. Hoạt động rửa tiền có ảnh hưởng tiêu cực bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh... của tất cả các quốc gia và đặc biệt nghiêm trọng đối với những quốc gia đang phát triển vì các quốc gia này thường là những nền kinh tế nhỏ, có

chính (FATF2) khuyến nghị: “Các quốc gia phải thành lập Đơn vị tình báo tài chính (FIU) hoạt động như một trung tâm quốc gia để tiếp nhận (và yêu cầu, nếu được phép), phân tích và phổ biến báo cáo giao dịch đáng ngờ (STR3) và các thông tin khác về rửa tiền và tài trợ khủng bố có nguy cơ xảy ra. FIU phải được tiếp cận, trực tiếp hoặc gián tiếp, một cách kịp thời các thông tin tài chính, hành chính và hành pháp mà FIU yêu cầu

sức đề kháng yếu, dễ bị tổn thương trước những tác động của

để thực hiện chức năng của mình bao gồm cả phân tích STR”.

hoạt động rửa tiền. Hoạt động rửa tiền là loại hình tội phạm

Thực hiện khuyến nghị của FATF, hầu hết các quốc gia

gây hậu quả xấu đối với hoạt động thương mại quốc tế và thu

trên thế giới đã thành lập FIU. Hiện nay có 4 mô hình FIU được

hút vốn đầu tư nước ngoài, mà còn làm suy yếu hệ thống tài

các quốc gia lựa chọn, gồm: (i) mô hình hành chính, tức là FIU

chính và làm nền kinh tế, khu vực tư nhân bị tổn thương.

trực thuộc một cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước như

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác phòng, chống rửa tiền, cộng đồng quốc tế đã có nhiều hành động trên các mặt khác nhau nhằm thiết lập các chuẩn mực và Financial Intelligent Unit (FIU) Financial Action Task Force (FATF) là một cơ quan liên chính phủ được các nước G-7 thành lập năm 1989 với mục tiêu phát triển và thúc đẩy những biện pháp phòng, chống rửa tiền và sau này đảm nhiệm thêm nhiện vụ chống tài trợ khủng bố (10/2001), chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt (2008). 1 2

Ngân hàng Trung ương hay Bộ Tài chính; (ii) mô hình thực thi pháp luật, tức là FIU trực thuộc cơ quan công an/ cảnh sát; (iii) mô hình toà án hoặc công tố, mô hình này thường thấy ở các quốc gia áp dụng luật Châu Âu lục địa, nơi mà cơ quan công tố là một bộ phận của hệ thống tư pháp và có thẩm quyền hơn các cơ quan điều tra; (iv) mô hình lai ghép, đây là mô hình Suspicious Transaction Report (STR)

3

65


kết hợp những đặc điểm của 3 loại mô hình FIU nói trên. Do mỗi mô hình đều có những ưu điểm và hạn chế riêng nên không có mô hình nào hoàn hảo cho tất cả các quốc gia mà đòi hỏi các quốc gia phải căn cứ vào đặc điểm kinh tế, văn hóa, tập quán lập pháp, hành pháp và tố tụng của quốc gia đó để lựa chọn mô hình phù hợp, hiệu quả. Tuy

chức năng giúp Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng thực hiện nhiệm vụ phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp luật và cam kết quốc tế về phòng, chống rửa tiền mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Theo Quyết định số 1654/QĐ-NHNN nêu trên, Cục PCRT có một số nhiệm vụ chính sau:

nhiên, dù được tổ chức dưới bất cứ mô hình nào, các FIU trên

- Tham mưu, giúp Chánh Thanh tra, giám sát ngân

thế giới đều có 3 chức năng chính là thu thập, phân tích và

hàng xây dựng khuôn khổ pháp luật, chiến lược, chương

phổ biến thông tin liên quan đến rửa tiền và tài trợ cho khủng

trình, đề án, dự án liên quan đến công tác phòng, chống rửa

bố; ngoài ra, tùy theo quy định của pháp luật của từng quốc

tiền và hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền.

gia mà FIU còn có các chức năng khác như: giám sát và quản

- Thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền: (i)

lý; điều tra; cưỡng chế và phong tỏa tài khoản, kê biên tài sản;

tiếp nhận, phân tích, lưu giữ thông tin; (ii) chuyển giao, cung

đào tạo; nghiên cứu.

cấp thông tin cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền tài liệu,

Sự ra đời của Cục Phòng, chống rửa tiền Căn cứ quy định tại Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/6/2005 của Chính phủ về phòng, chống rửa tiền, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ký Quyết định số 1002/QĐ-NHNN ngày 08/7/2005, thành lập Trung tâm Thông tin phòng, chống rửa tiền trực thuộc NHNN. Sau đó, căn cứ Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg ngày 27/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền

66

Cục PCRT đảm nhiệm vai trò là FIU của Việt Nam có

hồ sơ vụ việc có liên quan tới rửa tiền để thanh tra, điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật; (iii) cảnh báo hoặc khuyến nghị tới các cá nhân, tổ chức và cơ quan nhà nước có thẩm quyền có liên quan về những vấn đề nảy sinh từ các giao dịch được báo cáo; (iv) phối hợp với các cơ quan hữu quan trong việc thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp luật; (v) hướng dẫn, thực hiện việc trao đổi thông tin quốc tế về phòng, chống rửa tiền.

hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân

- Làm đầu mối giúp việc cho NHNN thực hiện

hàng trực thuộc NHNN, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết

nhiệm vụ của Cơ quan thường trực Ban chỉ đạo phòng,

định số 1654/QĐ-NHNN ngày 14/7/2009 quy định chức năng,

chống rửa tiền được thành lập theo quyết định của Thủ

nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Phòng, chống

tướng Chính phủ.

rửa tiền (PCRT). Theo đó, Trung tâm Thông tin phòng, chống

Cơ cấu tổ chức của Cục PCRT gồm Ban lãnh đạo và 3 phòng

rửa tiền được đổi tên thành Cục PCRT và là đơn vị thuộc cơ

chuyên môn gồm: Phòng Tổng hợp và Hợp tác quốc tế, Phòng Thu

cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng.

thập và Xử lý thông tin, Phòng Kỹ thuật và Quản trị mạng.


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

67


Như vậy, với chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức

Thông tư số 41/2011/TT-NHNN ngày 15/12/2011 hướng dẫn

của Cục PCRT cho thấy Cục PCRT được tổ chức theo mô hình

nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng trên cơ sở rủi ro

hành chính, nghĩa là trực thuộc cơ quan có chức năng quản

phục vụ công tác phòng, chống rửa tiền;

lý nhà nước. Đây cũng là mô hình khá phổ biến đối với các FIU trên thế giới.

- Luật phòng, chống rửa tiền số 07/2012/QH13, ngày 18/6/2012; - Quyết định số 20/2013/QĐ-TTg ngày 18/4/2013 của

Những đóng góp của Cục PCRT thời gian qua

Thủ tướng Chính phủ quy định mức giá trị của giao dịch có

Kể từ khi được thành lập và đặc biệt là trong thời gian

giá trị lớn phải báo cáo theo Luật phòng, chống rửa tiền; theo

gần đây (từ 2010 cho đến nay), Cục PCRT đã thực hiện tốt nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố

300.000.000 đồng);

và đã đạt được một số kết quả nổi bật, nhận được sự đánh giá

- Nghị định số 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013 của

và ghi nhận của các cơ quan quản lý nhà nước, đối tượng báo

Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật

cáo và của cộng đồng quốc tế. Mới đây, Văn phòng Chính phủ

phòng, chống rửa tiền;

đã có Thông báo số 148/TB-VPCP ngày 10/4/2014 thông báo ý kiến của Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Văn Ninh – Trưởng Ban chỉ đạo phòng, chống rửa tiền ghi nhận và đánh giá cao những kết quả mà công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố đã đạt được thời gian qua, trong đó đặc biệt ghi nhận vai trò đầu mối của Cục PCRT thuộc NHNN. Kết quả này được thể hiện trên các mặt cụ thể sau: Về xây dựng khuôn khổ pháp luật

68

đó mức giá trị của giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo là

- Thông tư số 35/2013/NĐ-CP ngày 31/12/2013 của NHNN hướng dẫn thực hiện một số quy định về phòng, chống rửa tiền. Ngoài ra, Cục PCRT cũng đã phối hợp chặt chẽ với các đơn vị liên quan để triển khai xây dựng các thông tư: Thông tư 148/2010/TT-BTC ngày 24/9/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền đối với lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và trò chơi giải trí có thưởng;

Thời gian qua, Cục PCRT là đơn vị tham mưu, xây dựng

Thông tư 12/2011/TT-BXD ngày 01/9/2011 của Bộ Xây dựng

và trình các cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy

hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số

phạm pháp luật nhằm từng bước hoàn thiện khuôn khổ

74/2005/NĐ-CP ngày 07/6/2005 của Chính phủ về phòng,

pháp lý về phòng, chống rửa tiền bao gồm:

chống rửa tiền đối với hoạt động kinh doanh bất động sản.

- Thông tư số 22/2009/TT-NHNN ngày 17/11/2009

Bên cạnh đó, Cục PCRT đã phối hợp chặt chẽ với Bộ

hướng dẫn thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền và

Công an xây dựng khuôn khổ pháp lý về phòng, chống khủng


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

bố trong đó có nội dung chống tài trợ khủng bố bao gồm:

tố, xét xử tội phạm có liên quan đến rửa tiền và tài trợ khủng

Luật Phòng, chống khủng bố ngày 12/6/2013, Nghị định số

bố cũng như các tội phạm liên quan khác.

122/2013/NĐ-CP ngày 10/10/2013 quy định về tạm ngừng lưu thông, phong tỏa, niêm phong, tạm giữ và xử lý đối với tiền, tài sản liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố; xác lập danh sách tổ chức, cá nhân liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố. Trước đó, Cục PCRT đã phối hợp với Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành có liên quan sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự liên quan đến rửa tiền và tài trợ khủng bố. Kết quả, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 37/2009/QH12 đã được Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 19/6/2009 đã bổ sung Điều 230b tội tài trợ khủng bố và sửa đổi Điều 251 tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có thành tội rửa tiền.

Căn cứ kết quả phân tích, xử lý các thông tin nhận được từ đối tượng báo cáo, cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước, NHNN đã có nhiều văn bản cảnh báo tới các tổ chức tín dụng để chủ động có biện pháp phòng ngừa phù hợp; và tới các cấp, các ngành có liên quan để phối hợp phổ biến tới các đối tượng báo cáo thuộc phạm vi quản lý của Bộ, ngành Để hỗ trợ việc thu thập và phân tích thông tin, NHNN đã ký Bản ghi nhớ trao đổi thông tin về rửa tiền và tài trợ khủng bố (MOU) với một số đơn vị của Bộ Công an; đối với các tổ chức nước ngoài, tính đến thời điểm hiện nay, NHNN đã ký kết MOU với 08 FIU nước ngoài. Về hoạt động của Ban chỉ đạo phòng, chống rửa tiền

Do đó, đến thời điểm hiện nay, Việt Nam đã cơ bản

Thời gian qua, Cục PCRT đã tham mưu giúp NHNN

hoàn thiện được khuôn khổ pháp lý về phòng, chống rửa tiền

thực hiện tốt vai trò là Cơ quan thường trực của Ban chỉ đạo

và tài trợ khủng bố.

phòng, chống rửa tiền. Cục PCRT là đơn vị đầu mối tham mưu

Về thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền Thời gian qua, Cục PCRT đã được kiện toàn về cơ cấu tổ chức, trang bị cơ sở vật chất nhằm hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Theo đó, Cục PCRT đã thu thập và xử lý hàng nghìn báo cáo giao dịch đáng ngờ; căn cứ kết quả phân tích đã chuyển giao nhiều báo cáo và các thông tin liên quan đến rửa tiền, tài trợ khủng bố và tội phạm khác liên quan đến tội rửa tiền cho cơ quan điều tra có thẩm quyền; tích cực hỗ trợ cung cấp thông tin cho cơ quan điều tra, tố tụng, xét xử trong và ngoài nước trong quá trình điều tra, truy

xây dựng, chủ trì triển khai cơ chế phòng, chống rửa tiền của Việt Nam thông qua việc chủ trì xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành các Kế hoạch hành động quốc gia về phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố (Quyết định số 1451/QĐ-TTg ngày 12/8/2010, Quyết định số 287/QĐ-TTg ngày 24/2/2011, Quyết định số 1560/QĐ-TTg ngày 18/10/2012 ban hành các Kế hoạch hành động quốc gia về chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố) và phối hợp với các đơn vị, bộ, ngành có liên quan triển khai, thực hiện các Kế hoạch này. Về hoạt động hợp tác quốc tế 69


Hoạt động hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả nổi bật. Kể từ khi Việt Nam bị đưa vào Quy trình rà soát của Nhóm xem xét các vấn đề về hợp tác quốc tế (ICRG) thuộc FATF vào tháng 02/2010 cho đến khi Việt Nam thoát khỏi Danh sách đen vào tháng 10/2013 và cuối cùng là Việt

Châu Á,... và một số quốc gia khác. Về hoạt động đào tạo, tuyên truyền Công tác đào tạo, tuyên truyền về phòng, chống rửa tiền thời gian qua đã được Cục PCRT quan tâm, phối hợp với các đơn vị có liên quan triển khai có hiệu quả. Cụ thể:

Nam được đưa ra khỏi Quy trình rà soát của ICRG thuộc FATF

Cục PCRT đã phối hợp với các đơn vị đầu mối của Bộ

vào tháng 2/2014, Cục PCRT đã thực hiện tốt vai trò của đơn

Thông tin và Truyền thông triển khai các khoá tập huấn cho

vị đầu mối, tích cực, chủ động phối hợp với các đơn vị, bộ,

đối tượng là biên tập viên, phóng viên báo chí trên cả nước.

ngành có liên quan thực hiện các nội dung trong Kế hoạch

Phối hợp với Bộ Tư pháp triển khai xây dựng Đặc san tuyên

hành động mà Chính phủ Việt Nam đã cam kết với FATF về công tác phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố. Thời gian qua, Việt Nam cũng đã thực hiện tốt nghĩa vụ thành viên của Việt Nam trong Nhóm Châu Á - Thái Bình Dương về phòng, chống rửa tiền (APG) - Việt Nam là thành viên từ năm 2007 - và đã có nhiều hoạt động, hợp tác phối

truyền pháp luật về phòng, chống rửa tiền. Cục PCRT là đầu mối tổ chức nhiều khoá bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao nhận thức về phòng, chống rửa tiền cho hàng chục nghìn lượt cán bộ của NHNN, các Bộ, ngành và cán bộ, nhân viên của các tổ chức tín dụng và các đối tượng báo cáo khác trên toàn quốc.

hợp trong công tác phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố với các quốc gia và tổ chức quốc tế. Năm 2012, Việt Nam đã đăng cai và tổ chức thành công Hội nghị mô hình về chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố của APG; tháng 01/2014 đã đăng cai tổ chức các cuộc họp rà soát của Nhóm rà soát khu vực (RRG) thuộc ICRG với các quốc gia bị rà soát trong khu vực.

70

Đề xuất giải pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả của Cục PCRT Một FIU có đủ quyền hạn, năng lực và vận hành hiệu quả, giữ vai trò là trung tâm quốc gia trong việc thu thập, phân tích và chuyển giao thông tin liên quan đến rửa tiền và tài trợ khủng bố sẽ là hạt nhân quan trọng trong công tác đấu

Bên cạnh đó, Cục PCRT cũng là đầu mối triển khai các

tranh phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và các loại tội

hoạt động hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền của

phạm khác có liên quan. Với vị trí và chức năng hiện có, thời

NHNN và của Việt Nam với các tổ chức quốc tế khác như: Quỹ

gian qua, Cục PCRT đã hoàn thành tốt chức năng và nhiệm

tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới, Văn phòng Phòng, chống

vụ được giao và cơ bản đã thực hiện được vai trò, chức năng,

tội phạm và ma tuý của Liên hợp quốc, Ngân hàng phát triển

quyền hạn của một FIU. Tuy nhiên, để có thể phát huy tốt hơn


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

nữa vai trò hạt nhân của mình trong đấu tranh chống rửa tiền

phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố, Cục PCRT cần

và chống tài trợ khủng bố ở Việt Nam, thời gian tới, mô hình,

được bổ sung chức năng giám sát và đào tạo đối với tất

chức năng của Cục PCRT cần được tiếp tục nghiên cứu và

cả các đối tượng báo cáo theo quy định của Luật phòng,

hoàn thiện trên một số phương diện sau:

chống rửa tiền.

- Cục PCRT cần được bổ sung đủ nhân lực có trình độ

Như vậy, với mô hình và chức năng hiện có, dưới sự

chuyên môn để đáp ứng nhiệm vụ được giao. Cán bộ của Cục

quan tâm, chỉ đạo sát sao của Ban lãnh đạo NHNN và của

PCRT, tuỳ từng vị trí công việc phải có kiến thức trong các lĩnh

Cơ quan TTGSNH, thời gian qua Cục Phòng, chống rửa tiền

vực tài chính, ngân hàng, luật trong nước và quốc tế, công

đã phát huy được vai trò trung tâm quốc gia trong công tác

nghệ, ngoại ngữ nhằm đáp ứng yêu cầu về hợp tác quốc tế

phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam, hoàn thành tốt nhiệm vụ

trong công tác phòng, chống rửa tiền. Bên cạnh đó, cán bộ

được giao và đã có những đóng góp nhất định vào công

của Cục PCRT phải được đào tạo và đào tạo lại để nắm được

cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và phòng,

kiến thức, kỹ năng chuyên biệt của công tác phòng, chống

chống rửa tiền, tài trợ khủng bố nói riêng.

rửa tiền.

Tuy nhiên để đảm bảo vai trò của một đơn vị tình báo

- Cần nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin của Cục

tài chính theo chuẩn mực quốc tế, trong thời gian tới, Cơ quan

PCRT nhằm nâng cao năng lực tiếp nhận, xử lý, lưu giữ thông

Thanh tra, giám sát ngân hàng cần tiếp tục nghiên cứu, trình

tin theo quy định của Luật phòng, chống rửa tiền và kết nối,

các cấp bổ sung chức năng và kiện toàn cơ cấu tổ chức hoạt

chia sẻ thông tin với các đơn vị, Bộ, ngành có liên quan như:

động của Cục Phòng, chống rửa tiền.

Bộ Tài chính (Tổng cục Hải quan, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Tổng cục Thuế), Bộ Công an (Cục Quản lý xuất nhập cảnh, Văn phòng Interpol Việt Nam), Bộ Quốc phòng (Bộ Tư lệnh bộ đội biên phòng), Bộ Xây dựng (Cục Quản lý nhà và bất động sản), Thanh tra Chính phủ (Cục Phòng, chống tham nhũng)… - Phạm vi hoạt động của Cục PCRT cần được mở rộng, bao gồm việc thu nhận, phân tích và phổ biến thông tin liên quan đến rửa tiền, tài trợ cho khủng bố và các tội phạm khác liên quan đến rửa tiền và tài trợ khủng bố. - Để thực hiện tốt vai trò trung tâm quốc gia về 71


CÔNG TÁC VĂN PHÒNG GÓP PHẦN HOÀN THÀNH XUẤT SẮC NHIỆM VỤ CHÍNH TRỊ CỦA CƠ QUAN THANH TRA, GIÁM SÁT NGÂN HÀNG Thạc sĩ Nguyễn Ngọc Cường Chánh Văn phòng Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng

N

gày 27/5/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết

vào hoạt động với sự ngổn ngang, bề bộn của công tác Văn

định số 83/2009/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm

phòng một Cơ quan mới, theo mô hình Tổng cục - Cơ quan

vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan Thanh

TTGSNH - vẫn in đậm trong tâm trí của toàn thể cán bộ công

tra, giám sát ngân hàng (TTGSNH) trực thuộc Ngân hàng Nhà

chức và nhân viên Văn phòng. Công văn đến, đi, xây dựng,

nước Việt Nam và ngày 01/8/2009, Cơ quan TTGSNH chính

sắp xếp chương trình công tác, làm việc của Cơ quan và các

thức đi vào hoạt động. Trong cơ cấu, tổ chức của Cơ quan

đồng chí lãnh đạo, xử lý tờ trình của các vụ, cục, phương tiện,

TTGSNH (Cơ quan), Văn phòng là đơn vị cấp Vụ thuộc Cơ

chỗ ngồi làm việc của các đơn vị, tiếp nhận, bổ nhiệm cán bộ,

quan, có chức năng giúp Chánh Thanh tra, giám sát ngân

thanh toán tiền lương, công tác phí... cứ rối tung lên. Nhưng

hàng trong việc chỉ đạo, điều hành hoạt động của Cơ quan

được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Ban Lãnh đạo Cơ quan,

TTGSNH; thực hiện công tác tổng hợp báo cáo trong phạm

sự phối hợp, hỗ trợ giúp đỡ của các Vụ, Cục của NHNN, sự

vi Cơ quan và toàn hệ thống Thanh tra, giám sát ngân hàng,

cộng tác chia sẻ của các đơn vị thuộc Cơ quan, cùng sự cố

công tác tổ chức, nhân sự, đào tạo, thi đua khen thưởng; quản

gắng, nỗ lực không kể ngày đêm của tất cả cán bộ, nhân viên

lý tài sản, tài chính; thực hiện công tác hành chính, văn thư và

Văn phòng, mọi việc ổn định và đi vào nề nếp qua từng ngày.

lưu trữ của Cơ quan TTGSNH1. Với chức năng nhiệm vụ như trên, Văn phòng Cơ quan

tác văn phòng có tầm quan trọng đặc biệt, giúp cán bộ lãnh

không chỉ đảm nhận nhiệm vụ thuần túy như những văn

đạo nắm được tình hình. Cán bộ văn phòng nắm tình hình

phòng của các đơn vị, cơ quan khác mà còn thực hiện rất

sai thì lãnh đạo sẽ giải quyết không đúng”, 05 năm qua, mỗi

nhiều mảng công việc “ngoại lai”. Thấm thoắt đã 05 năm trôi

một cán bộ Văn phòng luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm,

qua, nhưng những ký ức về những ngày đầu thành lập và đi

thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn, chính

Quyết định số 1653/QĐ-NHNN ngày 14/7/2009 của Thống đốc NHNN quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Văn phòng 1

72

Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Công

trị và rèn luyện đạo đức phẩm chất cán bộ để nỗ lực cố gắng vượt qua khó khăn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

giao, góp phần rất lớn vào việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị

kinh nghiệm công tác; tham mưu cử hàng nghìn lượt cán bộ

của Cơ quan TTGSNH.

đi đào tạo, bồi dưỡng, khảo sát cả trong và ngoài nước; giúp

Công tác xây dựng và báo cáo tiến độ, kết quả thực hiện chương trình, kế hoạch công tác định kỳ hàng tuần, tháng, quý và hàng năm của Cơ quan TTGSNH đã không ngừng được đổi mới, nâng cao chất lượng, bám sát “nhịp đập hối hả, bận rộn” của Cơ quan, đã giúp cho Ban lãnh đạo và từng Đồng chí trong Ban lãnh đạo có được tình hình đầy đủ, kịp thời và chính xác nhất để điều hành, chỉ đạo tất cả các

Ban lãnh đạo thực hiện công tác hợp tác quốc tế, tiếp nhận triển khai các dự án hỗ trợ kỹ thuật, công tác thi đua khen thưởng tại Cơ quan và có ý kiến tham gia khen thưởng đối với các đơn vị trong toàn ngành.... Tất cả những công việc đó đã được các cán bộ Văn phòng thực hiện đúng các quy định của Nhà nước, của ngành và có thể nói là không để xảy ra bất cứ một sai sót nào.

mặt công tác; Công tác điều phối hoạt động và chia sẻ thông

Để tiếp tục thực hiện Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg

tin giữa các đơn vị ngày càng nhịp nhàng và thông suốt. Văn

ngày 24/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt

phòng đã bố trí nguồn nhân lực một cách hợp lý, tạo dựng

Đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và

và lưu giữ được các nguồn thông tin báo cáo một cách cập nhật, chính xác, khoa học và đầy đủ để chủ động cho việc chiết xuất, khai thác phục vụ kịp thời các yêu cầu báo cáo “gấp, khẩn, và hỏa tốc” theo nhiều chuyên đề của rất nhiều cơ quan đơn vị trong và ngoài ngành. Cùng với đó, Văn phòng còn tham mưu giúp cho Ban lãnh đạo làm rất tốt nhiệm vụ thông tin, truyền thông về hoạt động của ngành Ngân hàng nói chung và của Cơ quan TTGSNH nói riêng nhất là trước và trong mỗi kỳ họp của Quốc hội.

định hướng đến năm 2020 và Đề án cải cách tổ chức và hoạt động Thanh tra Ngân hàng phê duyệt theo Quyết định số 1976/QĐ-NHNN ngày 24/8/2007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; theo sự phân công, Văn phòng được giao chủ trì tham mưu giúp Ban lãnh đạo Cơ quan xây dựng trình Ban lãnh đạo NHNN trình Chính phủ Nghị định thay thế Nghị định số 91/1999/NĐ-CP ngày 04/9/1999 về tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngân hàng và trình Thủ tướng Chính phủ Quyết định thay thế Quyết định số 83/2009/QĐ-TTG ngày

Theo thời gian, nhiệm vụ của Cơ quan ngày càng

27/5/2009 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ

nặng nề. Bộ máy tổ chức và nhân sự cần được hoàn thiện,

chức của Cơ quan TTGSNH. Sau một thời gian khẩn trương,

củng cố và tăng cường. Văn phòng đã tham mưu cho Ban

kiên trì, bền bỉ với nhiều lần dự thảo, tiếp thu ý kiến và hoàn

lãnh đạo trong việc bổ nhiệm, đề nghị bổ nhiệm bổ sung đội

thiện, ngày 07/4/2014 Chính phủ đã ban hành Nghị định số

ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp của Cơ quan; thành lập thêm 06

26/2014/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Thanh tra, giám

phòng nghiệp vụ và 01 Tổ Kiểm soát nội bộ; tiếp nhận, tuyển

sát ngành Ngân hàng (hiệu lực từ ngày 01/06/2014) và ngày

dụng thêm hàng chục cán bộ được đào tạo chính quy, có

12/6/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định 73


số 35/2014/QĐ-TTg quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền

cùng nhau nỗ lực cố gắng và đã hoàn thành tốt nhiệm vụ

hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân

nặng nề này.

hàng (hiệu lực từ 01/8/2014). Đây là 02 văn bản pháp lý hết sức quan trọng, đánh dấu sự tiếp tục đổi mới mạnh mẽ về tổ chức của Thanh tra, giám sát ngân hàng theo đúng định hướng, thông lệ, chuẩn mực quốc tế, tạo cơ sở để đổi mới hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng, phù hợp với sự phát triển về mô hình tổ chức và hoạt động, quản trị, điều hành của hệ thống TCTD Việt Nam (đối tượng tác nghiệp chính của Thanh tra, giám sát ngân hàng).

74

Một lĩnh vực công tác không kém phần quan trọng và vất vả trong 05 năm qua đó là mảng công việc liên quan đến công tác đảm bảo ”hậu cần” cho hoạt động của Cơ quan. Hàng chục nghìn công văn, tờ trình đến và đi đã được xử lý kịp thời, đúng quy định và đảm bảo bí mật, an toàn tuyệt đối. Công tác đối nội, đối ngoại, tiếp khách trong và ngoài nước đến làm việc; công tác tổ chức hội thảo, hội nghị, giao ban; việc lo kinh phí, thanh toán tiền lương, tiền thưởng, công tác

Từ cuối năm 2011, Cơ quan TTGSNH được Ban lãnh

phí, thực hiện bảo hiểm, giải quyết các chế độ chính sách

đạo NHNN giao chủ trì triển khai thực hiện ”Đề án cơ cấu lại hệ

cho cán bộ, việc mua sắm trang bị phương tiện làm việc,

thống TCTD giai đoạn 2011-2015” và ”Đề án xử lý nợ xấu của

nhất là việc chuyển địa điểm làm việc của Cơ quan từ ”Vườn

các TCTD”, ”Đề án thành lập Công ty quản lý tài sản của các

Đào” về trụ sở mới tại số 25- Lý Thường Kiệt, Hà Nội vào cuối

TCTD Việt Nam”. Văn phòng được Ban lãnh đạo Cơ quan giao

năm 2013 đã được cán bộ công chức của Văn phòng thực

nhiệm vụ đầu mối tổng hợp xây dựng báo cáo kết quả thực

hiện tận tình chu đáo, không để xảy ra sơ suất đáng tiếc nào.

hiện các Đề án trên để báo cáo định kỳ và thường xuyên cho

Như mọi người thường nói, công tác văn phòng là ”làm dâu

các cơ quan của Đảng, Quốc hội và Chính phủ. Đồng thời từ

trăm họ”, tất cả cán bộ công chức của Văn phòng luôn ý thức

năm 2013, Văn phòng được giao bổ sung nhiệm vụ đầu mối

được điều đó, từ Ban lãnh đạo Văn phòng cho đến từng cán

tổng hợp và xây dựng Kế hoạch thanh tra chuyên ngành của

bộ nhân viên luôn bảo nhau, cố gắng nỗ lực hết mình để trở

Thanh tra, giám sát ngân hàng toàn ngành trình Thống đốc

thành ”nàng dâu” tốt của Cơ quan. Và thực sự qua thời gian,

phê duyệt. Với những nhiệm vụ mới được giao, trong khi tổ

những lời phàn nàn, chê trách đã bớt dần, lời động viên, khen

chức và biên chế không thay đổi cũng tạo thêm gánh nặng

ngợi đã nhiều lên. Ghi nhận cho những nỗ lực, cố gắng và

và áp lực đối với các cán bộ công chức của Văn phòng. Tuy

thành tích đóng góp của Văn phòng vào thành tích chung

nhiên, nhờ có sự chỉ đạo, động viên thường xuyên và sâu sát

của Cơ quan, trong 05 năm qua, tập thể Văn phòng đã 02 lần

của các đồng chí trong Ban lãnh đạo Cơ quan mà trực tiếp là

vinh dự được đón nhận Cờ thi đua xuất sắc toàn ngành do

Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng, sự phối hợp cộng tác

Thống đốc trao tặng, 01 cá nhân được công nhận Chiến sỹ

của các đơn vị liên quan, toàn thể cán bộ của Văn phòng đã

thi đua toàn quốc, 04 cá nhân được công nhận Chiến sỹ thi


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

đua cấp ngành, 27 lượt tập thể và cá nhân được trao bằng khen của Thống đốc và nhiều phần thưởng, danh hiệu thi đua khác. Bấy nhiêu thôi cũng đủ làm cho toàn thể cán bộ, nhân viên Văn phòng cảm thấy tự hào, quên đi những khó khăn vất vả những ngày qua, hứng khởi bước chân trên chặng đường sắp tới. 05 năm hoạt động đối với một tổ chức không phải là dài nhưng cũng đủ để mỗi cán bộ công chức của Văn phòng Cơ quan TTGSNH dành chút thời gian suy ngẫm lại chặng đường đã qua, một chặng đường chứa đựng những vui, buồn và trăn trở của mỗi người. Chúng ta vui vì những thành quả, những việc đã làm tốt, chúng ta chưa vui với những tồn tại, hạn chế của mình và chúng ta trăn trở, suy nghĩ để làm tốt hơn những nhiệm vụ trong chặng đường tiếp theo. Tới đây, theo mô hình mới của Cơ quan TTGSNH quy định tại Quyết định số 35/QĐ/2014-TTg ngày 12/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ, một phần công tác của Văn phòng trong 05 năm qua sẽ được tách ra để thành lập Vụ Tổ chức cán bộ. Dù rằng vẫn trong cùng một Cơ quan TTGSNH nhưng có lẽ không tránh khỏi những cảm xúc, bùi ngùi và bịn rịn. Tuy nhiên một điều chắc chắn rằng, với mỗi một cán bộ của Văn phòng, chặng đường 05 năm qua, ”ngôi nhà Văn phòng” vẫn là tổ ấm tràn ngập tình cảm yêu thương gắn bó, là một ” thuở hàn vi” đặc biệt, mãi mãi là một ký ức đẹp với sự trưởng thành và những bài học, kinh nghiệm quý báu để chúng ta thêm vững tin và hoàn thành xuất sắc hơn nữa mọi nhiệm vụ trong thời gian tới. 75


76


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

PHẦN II: CÁC PHẦN THƯỞNG, DANH HIỆU ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC

77


78


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

79


80


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

81


82


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

83


84


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

85


86


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

87


88


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

Phần I hành trình 5 NĂM (tiếp)

89


THỐNG ĐỐC NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC NGUYỄN VĂN BÌNH VỚI CƠ QUAN THANH TRA, GIÁM SÁT NGÂN HÀNG Nguyễn Công Dương Phó Chánh Văn phòng - Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng

T

rở về Ngân hàng Nhà nước công tác, với gần 03 năm làm Chánh Thanh tra Ngân hàng Nhà nước (tháng 7/2005 - 3/2008), đồng chí Nguyễn Văn Bình đã

máy của Ngân hàng Nhà nước và chịu sự quản lý, chỉ đạo của

thấu hiểu những thuận lợi, khó khăn, thách thức của Thanh

giấy phép; (ii) Xây dựng các chính sách, quy định về an toàn

tra Ngân hàng Nhà nước và công tác thanh tra, giám sát

hoạt động ngân hàng; (iii) Giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ;

ngân hàng ở nước ta. Trong 03 năm đó, đồng chí Nguyễn Văn

(iv) Xử lý rủi ro và vi phạm.

Bình đã triển khai nhiều giải pháp củng cố, phát triển Thanh tra Ngân hàng Nhà nước trở thành một đơn vị mạnh trong Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và trong hệ thống Thanh tra Bộ, ngành trong ngành Thanh tra. Cũng trong thời gian này, giải pháp cải cách và phát triển hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng đã được nghiên cứu và triển khai thực hiện theo Đề án “Phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020” (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2006) và Đề án “Cải cách tổ chức và hoạt động thanh tra ngân hàng” (được Thống đốc NHNN phê duyệt năm 2007). Theo đó, ưu tiên đổi mới mô hình tổ chức, hoạt động của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước; trên cơ sở Thanh tra Ngân hàng Nhà nước và một số Vụ, Cục thuộc NHNN liên quan đến hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng, thành lập Cơ

90

Thống đốc NHNN. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng (Cơ quan TTGSNH) thống nhất thực hiện 04 khâu: (i) Cấp, thu hồi

Trong quá trình triển khai thực hiện các Đề án nêu trên, tháng 4/2008, đồng chí Nguyễn Văn Bình được bổ nhiệm giữ chức Phó Thống đốc NHNN. Mặc dù không trực tiếp phụ trách công tác thanh tra, giám sát ngân hàng, nhưng Phó Thống đốc Nguyễn Văn Bình vẫn thường xuyên theo dõi và dành nhiều sự quan tâm về đổi mới Thanh tra, giám sát ngân hàng. Đồng chí đã cùng Ban Lãnh đạo NHNN xem xét, quyết định trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Cơ quan TTGSNH theo nội dung đổi mới nêu trên. Kết quả, Cơ quan TTGSNH đã được thành lập và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/8/2009 theo Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg ngày 27/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ.

quan Thanh tra, giám sát ngân hàng theo mô hình Tổng cục,

Đến tháng 8/2011, đồng chí Nguyễn Văn Bình được

được tổ chức tập trung, thống nhất thuộc cơ cấu tổ chức bộ

Quốc hội phê chuẩn làm Thống đốc NHNN. Khi đó, 02 vấn đề


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

quan trọng và cấp thiết nhất đặt ra đối với Thống đốc là nguy

của thực tiễn, ngay từ cuối năm 2011, Thống đốc Nguyễn

cơ mất an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) và

Văn Bình đã chỉ đạo khẩn trương xây dựng, trình cấp có

năng lực hoạt động của Cơ quan TTGSNH; Cơ quan TTGSNH

thẩm quyền ban hành Nghị định thay thế Nghị định số

yếu thì rất khó khăn cho việc triển khai chấn chỉnh, củng cố

91/1999/NĐ-CP ngày 04/9/1999 của Chính phủ về tổ chức và

hệ thống TCTD. Lúc bấy giờ, Cơ quan TTGSNH còn rất non trẻ

hoạt động của Thanh tra ngân hàng và Quyết định thay thế

với 03 năm hoạt động; mô hình Cơ quan TTGSNH chưa vận

Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg. Đến ngày 07/4/2014, Chính

hành thông suốt và phát huy đầy đủ tác dụng theo yêu cầu của Đề án đổi mới; Cơ quan TTGSNH đang phải chịu những áp lực lớn từ thực trạng yếu kém, nguy cơ gây mất an toàn của các TCTD và sự bất ổn của thị trường tiền tệ.

phủ đã ban hành Nghị định số 26/2014/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng (có hiệu lực kể từ ngày 01/6/2014) và ngày 12/6/2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 35/2014/QĐ-TTg quy định chức

Đứng trước tình hình đó, nhiều giải pháp đã được

năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan

Thống đốc Nguyễn Văn Bình chỉ đạo triển khai kịp thời để

TTGSNH (có hiệu lực kể từ ngày 01/8/2014). Như vậy, từ ngày

tạo điều kiện tăng cường năng lực hoạt động của Cơ quan

01/8/2014, Cơ quan TTGSNH vừa tròn 05 năm thành lập, đồng

TTGSNH, như: tăng cường năng lực chỉ đạo, điều hành của

thời được vận hành theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và

Ban Lãnh đạo Cơ quan TTGSNH và Lãnh đạo các đơn vị trực thuộc; tăng cường biên chế; chuyển trụ sở làm việc của Cơ quan TTGSNH từ quận Tây Hồ về 25 Lý Thường Kiệt - Hoàn

cơ cấu tổ chức, mới được bổ sung, hoàn thiện tại Quyết định số 35/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Kiếm - Hà Nội gần Trụ sở chính NHNN. Tuy nhiên, đi cùng với

Nhìn lại chặng đường đã qua, có thể nói quá trình

những điều kiện đó là những yêu cầu cao hơn, những chỉ

cải cách thanh tra, giám sát ngân hàng cũng như thành lập

đạo sát sao, cụ thể và quyết liệt hơn của Thống đốc đối với

và hoàn thiện tổ chức, hoạt động của Cơ quan TTGSNH đều

Cơ quan TTGSNH trong việc tham mưu, đề xuất, tổ chức thực

có những đóng góp to lớn của đồng chí Nguyễn Văn Bình

hiện các nhiệm vụ được giao, trong đó có nhiều nhiệm vụ

ở các vị trí lãnh đạo quan trọng đã và đang đảm nhiệm. Khi

quan trọng đột xuất. Trên cơ sở những quan tâm, chỉ đạo của

là Chánh Thanh tra, Phó Thống đốc NHNN hay Thống đốc

Thống đốc, Cơ quan TTGSNH đã từng bước vươn lên, khẳng

NHNN, đồng chí Nguyễn Văn Bình cũng đều là tấm gương

định vai trò, vị trí của mình và khẳng định tính đúng đắn của

sáng về tinh thần đổi mới, tâm huyết với nghề nghiệp, lao

mô hình mới theo Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Để tiếp tục đổi mới, hoàn thiện và phát triển mô hình Cơ quan TTGSNH đạt hiệu quả cao hơn, đáp ứng yêu cầu

động, cống hiến hết sức mình vì sự nghiệp chung và đã để lại ấn tượng tốt đẹp đối với cán bộ, công chức Cơ quan TTGSNH nói riêng và cán bộ, công chức Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng nói chung. 91


Tư duy xử lý nợ xấu đặc thù của Việt Nam TS. Nguyễn Hữu Thủy Tổng giám đốc VAMC

Đ

ến bây giờ, khi những âm tiết quen thuộc V

– A – M – C, viết tắt của tên Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín

ngân hàng (Cơ quan TTGSNH), vốn được coi như đơn vị trực tiếp thai nghén đề án thì đến nay, có lẽ ý tưởng về VAMC vẫn nằm yên trong một ngăn tủ nào đó. Từ ý tưởng đến tiến trình hình thành

dụng (TCTD) Việt Nam

Có thể nói, chỉ đến khi lộ trình và mục tiêu xử lý nợ xấu

đã trở nên quen thuộc,

đang từng bước được hiện thực hóa thì nhiều người mới thừa

hẳn những người khai

nhận đề xuất thành lập VAMC là tư duy của người có tâm đối

sinh ý tưởng thành lập

với xã hội, có tầm trong việc xử lý các vấn đề tồn tại vĩ mô của

và quá trình đưa công

nền kinh tế; thể hiện rõ ý tưởng xử lý nợ xấu của các TCTD

ty đi vào hoạt động, đã

thông qua việc huy động mọi nguồn lực trong xã hội, hạn

có thể thở phào. Bởi

chế tối đa việc sử dụng Ngân sách Nhà nước (NSNN) trong

lẽ, VAMC đã dám đương

bối cảnh NSNN còn hạn chế, nợ công của Chính phủ tiến gần

đầu với áp lực xử lý một khối lượng lớn nợ xấu của nền kinh tế tích tụ tại hệ thống ngân hàng qua rất nhiều năm; khẳng định công cụ xử lý nợ đặc thù, hiệu quả của Việt Nam; từng bước tạo sự tin tưởng và đồng thuận trong xã hội.

92

sự hỗ trợ hết mình, thiết thực của Cơ quan Thanh tra, giam sát

tới giới hạn cho phép. Ý tưởng thành lập VAMC được cụ thể hóa bằng Đề án “Thành lập Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 843.

Trước hết, nếu có thể nói một đôi điều về ý tưởng

Trên thực tế, trước, trong và sau khi VAMC được thành lập

thành lập VAMC thì phải khẳng định rằng ý tưởng thành lập

theo quy định tại Nghị định 53 của Chính phủ, Quyết định

VAMC là một ý tưởng cực kỳ sáng tạo, thể hiện sự hỗ trợ của

1459 của Thống đốc NHNN thì vẫn có những ý kiến của một

Nhà nước đối với các TCTD trong bối cảnh khó khăn của kinh

số tổ chức tài chính quốc tế lớn có uy tín, nhiều nhà khoa học

tế thế giới, kinh tế Việt Nam. Và, nếu không có sự quyết đoán

và thậm chí cả một số TCTD đánh giá rằng việc xử lý nợ xấu

của Ban Lãnh đạo NHNN mà đứng đầu là Thống đốc cùng với

của các TCTD thông qua VAMC là “một việc làm không tưởng”.


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

Tuy nhiên, với tất cả sự nỗ lực của tập thể, cán bộ, công nhân viên chức VAMC và sự quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện của Thống đốc NHNN, các cấp, các ngành mà đặc biệt là sự hỗ trợ thiết thực, hết mình của Cơ quan TTGSNH nên VAMC đã từng bước phấn đấu để khẳng định vai trò lịch sử và sự phát triển bền vững của mình. Nhớ lại từ năm 2008 -2012 là giai đoạn diễn ra khủng hoảng kinh tế toàn cầu, ba nền kinh tế lớn nhất thế giới đồng loạt suy thoái (kinh tế Mỹ phát triển èo uột, kinh tế Nhật Bản tăng trưởng thấp, khu vực đồng tiền chung Châu Âu diễn ra khủng hoảng nợ công), kinh tế khu vực Châu Á tăng trưởng chậm lại. Cùng đó, xuất hiện tình trạng đổ vỡ hàng loạt các ngân hàng mà điển hình là ở Mỹ. Kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011-2012 thì sao? Tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm, lạm phát tăng cao, hàng tồn kho lớn, thị trường bất động sản đóng băng, vỡ nợ dây chuyền tín dụng đen, một số lượng lớn các doanh nghiệp ngừng hoạt động. Hoạt động của hệ thống các TCTD gặp nhiều khó khăn khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế gặp nhiều trở ngại do các thành phần kinh tế cần vốn nhưng không thể nhận vốn tín dụng, do không đáp ứng được yêu cầu về cấp tín dụng. Nợ xấu tại các TCTD có xu hướng liên tục tăng, nhiều TCTD có nợ xấu vượt quá mức 3% tổng dư nợ tín dụng (theo báo cáo của các TCTD thì tỷ lệ này đến cuối năm 2012 khoảng 4,1%, trong thực tế tỷ lệ này còn cao hơn nhiều); một số TCTD có biểu hiện mất khả năng chi trả tạm thời. Hệ thống các TCTD được ví như mạch máu của nền kinh tế nhưng đang bị tắc nghẽn vì cục “máu đông” nợ xấu. Để khẩn trương xử lý nợ xấu của các TCTD và khơi

thông mạch máu về cung ứng vốn cho nền kinh tế, NHNN trình và được Thủ tướng phê duyệt Đề án “Xử lý nợ xấu của các hệ thống các TCTD” và Đề án “Thành lập Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam”. Cơ quan TTGSNH là đơn vị chủ trì tham mưu cho Thống đốc việc lập các đề án trên. Trong quá trình xây dựng Đề án “Thành lập Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam”, NHNN đã gặp nhiều sự nghi ngại từ các tổ chức tài chính quốc tế, từ các nhà khoa học và thậm chí cả một số TCTD về nguồn vốn và khả năng hoạt động của VAMC. Khi nền kinh tế có vấn đề, nợ xấu tăng cao thì hầu hết các nước đều thành lập AMC để xử lý nợ xấu. Để AMC hoạt động hiệu quả thì vấn đề tiên quyết là Chính phủ phải bố trí nguồn vốn cho AMC hoạt động từ NSNN hoặc nguồn từ vay nợ IMF. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, việc bố trí nguồn vốn cho VAMC để xử lý nợ xấu từ hai nguồn trên là khó có khả năng thực hiện và đây là bài toán khó tìm lời giải, thế nhưng như ngạn ngữ Việt Nam có câu “cái khó ló cái khôn”, ý tưởng thành lập VAMC là “cái khôn” không nhỏ. Đứng trước những khó khăn, thách thức từ nguồn lực và sự hoài nghi của một số tổ chức tài chính quốc tế lớn, dư luận xã hội, một số TCTD thì Thống đốc NHNN vẫn kiên định việc thành lập VAMC theo quan điểm hạn chế sử dụng vốn NSNN, huy động mọi nguồn lực trong xã hội để xử lý nợ xấu nhưng phải đảm bảo hoạt động có hiệu quả; đây cũng chính là tư duy sáng tạo riêng của Việt Nam trong việc thành lập VAMC. Đồng thời với việc chủ trì xây dựng Đề án “Thành lập Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam”, Cơ quan 93


TTGSNH cũng là đơn vị đầu mối tham mưu cho Thống đốc NHNN soạn thảo Nghị định 53 về thành lập, tổ chức và hoạt động của VAMC để trình Chính phủ ban hành theo Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ năm 2013. Sau khi Nghị định trên được ban hành, Cơ quan TTGSNH tiếp tục làm đầu mối soạn thảo các văn bản liên quan tới việc thành lập, tổ chức và hoạt động của VAMC trình Thống đốc NHNN. Đây cũng chính là những tiền đề dẫn tới sự ra đời của VAMC theo Quyết định 1459 của Thống đốc NHNN. Trước, trong và sau khi thành lập VAMC, cùng với Vụ Tổ chức cán bộ thì Cơ quan TTGSNH là đơn vị tích cực trong việc lựa chọn, vận động các cán bộ có đủ kiến thức, trình độ, kinh nghiệm về làm việc tại VAMC và tham mưu cho Thống đốc NHNN trong việc lựa chọn nhân sự để xây dựng bộ máy cán bộ chủ chốt, đủ tâm, đủ tầm cho hoạt động của VAMC. Chỉ trong một thời gian rất ngắn sau khi thành lập, toàn thể Lãnh đạo, cán bộ, viên chức công ty đã từng bước khắc phục những khó khăn chung của quốc gia (khả năng bố trí vốn ngân sách để hoạt động bị hạn chế) và khó khăn riêng của một đơn vị mới thành lập về vật lực (chưa có trụ sở ổn định, diện tích làm việc không đủ tiêu chuẩn, hệ công nghệ thông tin chưa được xây dựng hoàn chỉnh…), nhân lực (lực

94

36 TCTD có đề nghị bán nợ cho VAMC). Ngoài việc tập trung mua nợ xấu theo chỉ tiêu, kế hoạch được giao, VAMC cũng không ngừng tăng cường năng lực quản trị - điều hành thông qua việc ban hành các cơ chế, chính sách quản trị và quy trình nghiệp vụ nội bộ. Công tác truyền thông, quảng bá hình ảnh, định hướng dư luận được thực hiện một cách thường xuyên thông qua các bài phát biểu tại các diễn đàn, hội nghị của các lãnh đạo VAMC, thông qua website của VAMC, đặc biệt là việc tư vấn cho khách hàng, TCTD hiểu rõ lợi ích của việc xử lý nợ xấu của VAMC. Như là những bông hoa, quả ngọt đầu mùa, kết quả hoạt động bước đầu của VAMC đã được Chính phủ ghi nhận. Những người đứng đầu các tổ chức tài chính lớn, có uy tín, các nhà khoa học đánh giá cao, thậm chí cả những ý kiến hoài nghi trước đây cũng chính thức thừa nhận những tác động tích cực của VAMC đối với nền kinh tế và hệ thống TCTD. Những tác động trên được thể hiện trên các mặt dưới đây: (i) Góp phần khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) của nền kinh tế Sau khi mua nợ từ TCTD, VAMC bắt tay vào cùng tháo gỡ khó khăn của khách hàng bằng nhiều việc làm cụ thể.

lượng cán bộ, viên chức mỏng, tập hợp từ nhiều nguồn khác

Nhiều đoàn công tác đã đến gặp gỡ, làm việc trực tiếp

nhau…) để hoàn thành nhiệm vụ được Thống đốc NHNN

với khách hàng. Đối với những khách hàng vay đáp ứng các

giao. Mặc dù, lực lượng cán bộ, viên chức của bộ phận nghiệp

điều kiện tại Thông tư 19 được VAMC xem xét, cơ cấu lại thời

vụ hạn chế (hai ban nghiệp vụ mua bán và xử lý nợ xấu thời

hạn trả nợ dưới các hình thức điều chỉnh kỳ hạn nợ và kéo

điểm ít nhất chỉ có10 người, thời điểm cao nhất chỉ có chưa

dài thời hạn trả nợ. Sau khi VAMC mua nợ thì nhiều khách

đầy 30 người) trong vòng ba tháng cuối năm 2013, VAMC đã

hàng đã hết nợ xấu tại TCTD và được TCTD xem xét để tiếp tục

mua được trên 39 nghìn tỷ đồng nợ xấu từ 34 TCTD (trong số

duy trì quan hệ tín dụng bình thường. Đặc biệt, một số khách


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

hàng đã được VAMC đề nghị TCTD tiếp tục cấp tín dụng để khôi phục lại hoạt động SXKD. Hầu hết, các đối tượng khách hàng trên được VAMC phối hợp với các TCTD để xem xét giảm một phần hoặc miễn toàn bộ lãi phạt, phí, lãi vay đã quá hạn thanh toán.

khách hàng đã buông xuôi SXKD vì gánh nặng công nợ; ý

Ngoài ra, theo quy chế khách hàng còn được VAMC xem xét áp dụng một hoặc nhiều biện pháp hỗ trợ tài chính bao gồm: Bảo lãnh vay vốn các TCTD, cho vay, mua trái phiếu doanh nghiệp, các hình thức đầu tư, cung cấp tài chính khác. VAMC cũng đang xem xét để có thể chuyển toàn bộ nợ xấu thành vốn góp của VAMC vào vốn điều lệ, vốn cổ phần của khách hàng, góp thêm vốn ngoài phần nợ xấu đã góp nêu trên nhằm khôi phục, phát triển hoạt động SXKD.

không còn khả năng khôi phục SXKD và đang thực hiện các

Tại thời điểm VAMC mua nợ vẫn còn tồn tại những khách hàng chịu mức lãi suất từ 18% đến 24% một năm, sau khi TCTD bán nợ nhiều khách hàng được VAMC xem xét, điều chỉnh mức lãi suất cho vay về mức hợp lý, hiện tại là 10,7% năm. VAMC đã công bố công khai trên website của NHNN, VAMC và thông tin tới khách hàng về mức lãi suất đã được điều chỉnh để áp dụng đối với các khoản nợ mà VAMC đã mua.

vụ trọng tâm mà VAMC đã và đang nỗ lực triển khai thực hiện

Trật tự ưu tiên trong thu nợ cũng được VAMC xác định lại phù hợp với quy định của pháp luật theo hướng giảm dần gánh nặng công nợ đối với khách hàng. Qua việc cử các tổ công tác kiểm tra thực tế việc ủy quyền thu nợ tại các TCTD, VAMC đã kiến nghị các TCTD thực hiện đúng trình tự thu nợ quy định tại Thông tư 19 để góp phần thúc đẩy đà khôi phục hoạt động của các khách hàng vay.

khoản nợ xấu đã bán được xuất khỏi Bảng cân đối kế toán

Với những hoạt động cụ thể trên, VAMC đã tạo ra thay đổi trong nhận thức của nhiều khách hàng, kể cả những

hơn 47 nghìn tỷ đồng nợ xấu của 34 TCTD. Để mua được khối

thức trả nợ, trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội đã được tăng thêm thông qua việc dành một phần lớn thu nhập để thanh toán nợ xấu và khôi phục lại hoạt động SXKD. Mặt khác, đối với những khách hàng là doanh nghiệp dự án lớn thì VAMC đã có những tác động tích cực trong việc thay đổi chủ sở hữu nhằm tăng cường năng lực tài chính để chống xuống cấp và hoàn thiện dự án dở dang đưa vào phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Chính phủ. Góp phần khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời đánh thức những nguồn lực bị quên lãng để phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế là một trong những nhiệm (ii) Góp phần lành mạnh hóa hoạt động của các TCTD Với việc mua nợ xấu từ TCTD, VAMC đã tác động tích cực đến sự lành mạnh hóa hoạt động của các TCTD. Sau khi bán nợ xấu cho VAMC, toàn bộ giá trị của của TCTD. Số tiền bán nợ xấu được thể hiện bằng giá trị của trái phiếu đặc biệt và được hạch toán sang khoản mục đầu tư trên Bảng cân đối tài sản của TCTD. Do đó, việc bán nợ này làm giảm ngay số tuyệt đối nợ xấu của TCTD và góp phần làm sạch Bảng cân đối kế toán của TCTD. Kể từ tháng 10/2013 đến 15/6/2014, VAMC đã mua lượng nợ trên thì VAMC đã nhận được sự hỗ trợ thiết thực của 95


Cơ quan TTGSNH thông qua việc đôn đốc, yêu cầu các TCTD thực hiện nghiêm túc Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011 – 2015” và Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD”. Với trái phiếu nhận được sau khi bán nợ, TCTD có thể tạo nguồn vốn mới thông qua việc vay tái cấp vốn của NHNN để tăng cường khả năng thanh khoản và đáp ứng nhu cầu tăng trưởng tín dụng hợp lý của nền kinh tế. Thông qua việc bán nợ xấu cho VAMC, nhiều TCTD giảm được tỷ lệ tương đối của nợ xấu trên tổng dư nợ, do đó, khi áp dụng Thông tư 02 (bao gồm cả Thông tư 09 sửa đổi một số điều của Thông tư 02) thì các TCTD vẫn kiểm soát được việc chuyển nhóm nợ xấu trong giới hạn an toàn và tránh được nguy cơ tiềm ẩn bị NHNN đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt, không phải chịu chế tài về hạn chế cấp tín dụng, hạn chế mở rộng mạng lưới và nội dung hoạt động. Qua đó, hỗ trợ các TCTD vượt qua khó khăn tạm thời, vươn lên phát triển bền vững. Sau khi mua nợ xấu, VAMC đã triển khai tích cực các bước xử lý nợ xấu, cụ thể như sau: Trước hết, từ cơ chế hoạt động VAMC đã tranh thủ, huy động cả hệ thống, tiềm lực của các TCTD vào cuộc bằng việc VAMC ký hợp đồng ủy quyền cho TCTD thực hiện việc thu hồi nợ. Thực hiện việc ủy quyền, TCTD được sử dụng những quyền năng riêng có của VAMC, như: được quyền đề nghị các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm hoàn tất thủ tục, hồ sơ pháp lý về tài sản bảo đảm; được quyền đề nghị các cơ quan này tham gia trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm và 96

thu hồi, xử lý nợ, tài sản bảo đảm; được quyền bán đấu giá tài sản bảo đảm mà không cần có sự đồng ý của bên bảo đảm… theo quy định tại Nghị định 53 của Chính phủ. Vì vậy, cho đến nay, sau tám tháng VAMC đã thu được 551 tỷ đồng thông qua hoạt động ủy quyền. VAMC cũng đã chủ động làm việc trực tiếp với các TCTD để thống nhất biện pháp xử lý nợ xấu và rà soát, phân loại toàn bộ các khoản nợ xấu đã mua, đưa ra giải pháp phù hợp, trong đó: gần 15 nghìn tỷ đồng tiến hành cơ cấu lại nợ, gần 8 nghìn tỷ đồng tiếp tục cùng TCTD khởi kiện hoặc thi hành án, trên 15 nghìn tỷ đồng bán nợ hoặc tài sản bảo đảm. VAMC đã cử nhiều đoàn công tác làm việc trực tiếp với các TCTD bán nợ, gặp gỡ và trao đổi trực tiếp với nhiều khách hàng để thống nhất biện pháp xử lý nợ và tìm biện pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối các khách hàng có khả năng khôi phục hoạt động SXKD. Một số khách hàng chây ỳ trong việc trả nợ/xử lý tài sản bảo đảm, VAMC đã trực tiếp làm việc và đã thỏa thuận được lịch trả nợ cụ thể /lịch xử lý tài sản bảo đảm, có khách hàng tự nguyện bàn giao tài sản bảo đảm, có khách hàng đề nghị tự bán tài sản để trả nợ. Với những việc làm kiên quyết trên đây, VAMC đã giúp các TCTD cải thiện rõ rệt mối quan hệ với nhiều khách hàng đã từng tỏ thái độ bất hợp tác với TCTD. VAMC đã trực tiếp làm việc với Tòa án khu vực Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Hà Nội để hỗ trợ TCTD đang trong quá trình khởi kiện. VAMC được sự quan tâm của các tổ chức tài chính quốc tế, vì vậy, TCTD có điều kiện thông qua VAMC chào bán các khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm cho các nhà đầu tư nước


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

ngoài. Nếu từng TCTD tự thực hiện chào bán các khoản nợ

với đầu năm 2013. Trong thành tích đó có sự đóng góp một

xấu, tài sản bảo đảm thì việc chào bán này sẽ phân tán, thiếu

phần của VAMC. VAMC có thể tự hào vì đã góp phần vào việc

sự đa dạng, phong phú về hàng hóa và khó đáp ứng được

giảm tỷ lệ nợ xấu của các TCTD trong năm 2013.

nhu cầu đa dạng của người mua. VAMC đang xem xét hợp tác với nhiều nhà đầu tư quốc tế tiềm năng và đã ký kết hợp đồng bảo mật thông tin với hơn mười nhà đầu tư. Hiện tại, nhiều nhà đầu tư quốc tế đang khảo sát thực tế và VAMC cũng đang xây dựng Danh mục chào bán tài sản bảo đảm của các khoản

Sau những kết quả hoạt động bước đầu, VAMC tiếp tục nhận được sự quan tâm của Chính phủ, NHNN, Cơ quan TTGSNH, từ đó có định hướng cụ thể để phát triển bền vững VAMC, thể hiện qua các mặt sau:

nợ xấu đã mua. Thống đốc NHNN luôn dành sự quan tâm đặc

Về hoạt động nghiệp vụ: Tiếp tục tăng cường mua nợ

biệt đối với việc xử lý triệt để nợ xấu thông qua VAMC. Trong

xấu theo chỉ tiêu kế hoạch do NHNN giao, tập trung xử lý các

dịp Cơ quan dịch vụ tài chính Nhật Bản (JFSA) và NHNN ký kết Thư hợp tác trao đổi tháng 6/2014, Thống đốc NHNN đã đưa ra đề nghị JFSA mời các doanh nghiệp Nhật Bản mua nợ xấu của Việt Nam. Hiện nay, VAMC đang triển khai phương án xử lý nợ xấu đã mua bằng trái phiếu đặc biệt. Mặt khác, VAMC xây dựng Đề án mua, bán nợ theo giá thị trường, đồng thời chủ động triển khai

khoản nợ xấu đã mua để không biến VAMC thành một kho nợ xấu không có khả năng xử lý. Về củng cố nguồn lực: Tiếp tục tăng cường nguồn nhân lực có chất lượng tốt, tăng cường cơ sở vật chất, tăng cường năng lực tài chính cho VAMC để thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ được giao.

phương án bán nợ xấu/ tài sản bảo đảm theo giá thị trường. Đây

Về hành lang pháp lý: Tập trung nghiên cứu, đề xuất ý

là những bước đi đầu tiên, là tiền đề để hình thành thị trường

kiến để các cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung quy định của

mua bán nợ mà trong đó, VAMC là trung tâm.

pháp luật nhằm củng cố quyền năng của VAMC trong việc xử

Sau khi bán nợ xấu cho VAMC thì Báo cáo tài chính của

lý triệt để nợ xấu.

TCTD trở nên lành mạnh hơn; với sự tham gia xử lý nợ xấu,

Cho đến nay, chúng ta có thể khẳng định rằng để

VAMC góp phần làm cho khả năng tài chính, chất lượng tài

VAMC có thể đóng góp tích cực như thời gian vừa qua đối

sản Có của hệ thống các TCTD được cải thiện rõ rệt và đây là

với nền kinh tế, đối với việc thực hiện Đề án “Cơ cấu lại hệ

những tiền đề để TCTD xây dựng chương trình, kế hoạch tăng trưởng bền vững trong tương lai.

thống các TCTD giai đoạn 2011 – 2015” và Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD” thì không thể thiếu sự hỗ trợ

Ngày 21/01/2014, tại buổi họp mặt báo chí cuối năm,

thiết thực của Cơ quan TTGSNH và còn cần hơn nữa sự hỗ

Chánh văn phòng NHNN thông báo tính đến 31/12/2013, tỷ

trợ này trong việc thực hiện định hướng phát triển bền

lệ nợ xấu trong hệ thống các TCTD là 3,79% giảm gần 1% so

vững VAMC trong tương lai. 97


NHỮNG ĐÓNG GÓP TÍCH CỰC CỦA CƠ QUAN TTGSNH TRONG NHIỆM VỤ ỔN ĐỊNH THỊ TRƯỜNG VÀNG CỦA NHNN GIAI ĐOẠN VỪA QUA VỤ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI

V

ụ Quản lý ngoại hối (Vụ QLNH) là đơn vị chính sách,

nước bộc lộ một số bất cập và không phù hợp với điều kiện

thực hiện chức năng tham mưu cho Thống đốc các

thực tế của thị trường. Chức năng quản lý phân tán, vàng

chính sách về quản lý ngoại hối, hoạt động ngoại hối

miếng được coi là hàng hóa thông thường và hoạt động mua,

và hoạt động kinh doanh vàng. Trong quá trình triển khai

bán vàng miếng được thực hiện tại khoảng 12.000 doanh

nhiệm vụ của mình, Vụ QLNH luôn phối hợp chặt chẽ với các

nghiệp và cửa hàng kinh doanh vàng dẫn đến tình trạng khó

đơn vị liên quan để công tác tham mưu đạt chất lượng cao và

quản lý. Nhiều thời kỳ, khi nhu cầu mua bán vàng miếng của

đảm bảo sự liên thông giữa các mảng chính sách. Trong đó,

thị trường tăng lên, có hiện tượng liên kết để làm giá trên thị

Vụ QLNH đánh giá cao sự phối hợp có hiệu quả của Cơ quan

trường, gia tăng tình trạng đầu cơ vàng gây ảnh hưởng bất lợi

TTGSNH trong điều hành chính sách về quản lý ngoại hối nói

tới tỷ giá và ổn định kinh tế vĩ mô. Chính sách cho phép TCTD

chung và đặc biệt là trong công tác quản lý thị trường vàng

được huy động và cho vay vốn bằng vàng trong bối cảnh

nói riêng, góp phần quan trọng thực hiện thành công mục

này cũng đã gián tiếp dẫn tới tình trạng “vàng hóa” nền kinh

tiêu điều hành chính sách của Ngân hàng Nhà nước (NHNN)

tế. Các TCTD sử dụng vàng huy động được để cho vay hoặc

trong thời gian qua.

chuyển hóa thành VND để cho vay làm ảnh hưởng tới rủi ro

Thị trường vàng trong một số giai đoạn đã ảnh hưởng tiêu cực tới thị trường ngoại hối, tới hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD) có hoạt động kinh doanh vàng và ổn định kinh tế vĩ mô. Trước khi Nghị định 24/2012/NĐ-CP (Nghị định 24)

98

cho hệ thống các TCTD, gây rủi ro cho chính người gửi và vay vốn bằng vàng. Nghị định 24 đã tạo lập khuôn khổ pháp lý mới để NHNN triển khai các bước đi bài bản và phù hợp trong quản lý thị trường vàng.

được ban hành, hoạt động kinh doanh vàng được thực hiện

Trên cơ sở định hướng của Đảng, Chính phủ về quản

theo quy định tại Nghị định 174/1999/NĐ-CP. Trong bối cảnh

lý thị trường vàng, để đáp ứng được mục tiêu đề ra, khuôn

kinh tế trong và ngoài nước diễn biến phức tạp, giá vàng trên

khổ pháp lý mới về quản lý thị trường vàng đã được xây

thị trường quốc tế biến động mạnh, thị trường vàng trong

dựng và ban hành, bao gồm: (i) Nghị định 24/2012/NĐ-CP


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

ngày 03/4/2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh

ý kiến trái chiều về chính sách quản lý thị trường vàng của

doanh vàng; (ii) Nghị định 95/2011/NĐ-CP ngày 20/10/2011

NHNN, thực hiện chỉ đạo của Thống đốc và Ban Lãnh đạo

của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực tiền tệ

NHNN, Vụ QLNH đã phối hợp với các đơn vị liên quan quyết

và hoạt động ngân hàng; (iii) Các quy định về chấm dứt huy

tâm thực hiện các nhiệm vụ được giao. Trong đó, công tác

động và cho vay vốn bằng vàng. Trong đó, Nghị định 24 và hệ

thanh tra, kiểm tra và xử lý các đơn vị vi phạm quy định về

thống các văn bản hướng dẫn Nghị định 24 là trụ cột.

hoạt động kinh doanh vàng có ý nghĩa quan trọng trong việc

Triển khai khuôn khổ pháp lý mới về quản lý thị trường vàng, NHNN đã thực hiện các giải pháp đồng bộ, thực hiện vai trò quản lý Nhà nước đối với thị trường vàng.

chấn chỉnh, từng bước đưa mạng lưới kinh doanh vàng miếng mới được cấp phép đi vào hoạt động theo đúng quy định. Một trong những giải pháp then chốt của lộ trình

Với khối lượng công việc cần triển khai rất lớn, diễn

chống “vàng hóa” nền kinh tế, chuyển hóa quan hệ huy động,

ra trong một thời gian ngắn trong khi dư luận vẫn còn nhiều

cho vay sang quan hệ mua, bán và giảm tính hấp dẫn của vàng miếng mà NHNN đã triển khai trong thời gian qua là yêu cầu các TCTD chấm dứt hoạt động huy động, cho vay vốn bằng vàng. Cơ quan TTGSNH đã có những đóng góp tích cực, cùng với Vụ QLNH kịp thời tham mưu cho Thống đốc các giải pháp triển khai cụ thể để thực hiện thành công giải pháp yêu cầu TCTD chấm dứt huy động, cho vay vốn bằng vàng. Lộ trình chấm dứt hoạt động huy động, cho vay vốn bằng vàng bắt đầu thực hiện từ năm 2010 và được Thống đốc giao cho Vụ Chính sách tiền tệ làm đầu mối triển khai thực hiện. Vụ Chính sách 99


100

tiền tệ đã trình Thống đốc ban hành Thông tư số 22/2010/

từng TCTD, tính toán khả năng sử dụng vàng miếng từ các

TT-NHNN ngày 29/10/2010 quy định theo hướng thu hẹp

nguồn cho mục đích tất toán. Trên cơ sở đó, Vụ QLNH và Cơ

đối tượng cho vay vốn bằng vàng, TCTD chỉ được cho vay

quan TTGSNH đã trực tiếp báo cáo, đề xuất với Ban Lãnh đạo

vốn bằng vàng để sản xuất, chế tác và kinh doanh vàng trang

NHNN các giải pháp, phương án tất toán phù hợp với từng

sức (không được cho vay vốn để sản xuất, kinh doanh vàng

đơn vị để vừa yêu cầu các TCTD cân đối thanh khoản VND để

miếng). Sau đó, ngày 29/4/2011 NHNN ban hành Thông tư

mua vàng, đảm bảo mục tiêu ưu tiên tất toán số dư huy động

số 11/2011/TT-NHNN quy định TCTD không được thực hiện

theo quy định, đồng thời không ảnh hưởng lớn tới tình hình

cho vay vốn bằng vàng đối với khách hàng và các TCTD khác;

hoạt động chung của các ngân hàng.

không được gửi vàng tại các TCTD khác và không được thực

Số liệu theo dõi của Vụ QLNH và các thông tin biến

hiện các nghiệp vụ ủy thác, đầu tư và các hình thức cấp tín

động số dư huy động, cho vay vốn bằng vàng hàng ngày do

dụng khác bằng vàng; các TCTD không được huy động vốn

Cơ quan TTGSNH cung cấp là cơ sở để Vụ QLNH phối hợp

bằng vàng, trừ trường hợp phát hành chứng chỉ ngắn hạn

với các đơn vị liên quan phân tích cung cầu vàng miếng trên

bằng vàng để chi trả vàng theo yêu cầu của khách hàng khi

thị trường, tính toán khối lượng và tần suất tổ chức đấu thầu

số vàng thu nợ và tồn quỹ không đủ để chi trả; việc phát hành

vàng hợp lý để tăng cung vàng miếng cho thị trường, trong

chứng chỉ ngắn hạn bằng vàng của TCTD chấm dứt vào ngày

đó có nhu cầu mua vàng để tất toán số dư huy động, cho vay

01/5/2012.

của các TCTD.

Sau khi Thông tư 12 được ban hành, Thống đốc đã

Tình hình sử dụng vàng miếng trúng thầu cũng đã

giao Vụ QLNH làm đầu mối tổng hợp số liệu, xây dựng lộ trình

được Vụ QLNH và Cơ quan TTGSNH phối hợp theo dõi chặt

và đề xuất các giải pháp kiên quyết yêu cầu các TCTD tất toán

chẽ, nghiêm ngặt; kịp thời phát hiện các TCTD còn số dư

số dư huy động và cho vay vốn bằng vàng.

huy động vốn bằng vàng chưa sử dụng vàng mua được

Thực hiện nhiệm vụ Thống đốc giao tại Thông tư 12,

từ các phiên đấu thầu của NHNN để tất toán số vàng đã

để đảm bảo lộ trình chấm dứt huy động vốn bằng vàng, Vụ

chuyển đổi thành tiền và chi trả các khoản huy động vàng

QLNH đã tham mưu áp dụng các biện pháp kiên quyết nhưng

khi đến hạn.

mềm dẻo, linh hoạt để đảm bảo ổn định thị trường vàng. Trên

Trong những ngày cuối quý II/2013, Vụ QLNH và Cơ

cơ sở theo dõi biến động số dư nguồn vốn và sử dụng vốn

quan TTGSNH liên tục trao đổi trực tiếp và bằng văn bản về

bằng vàng của các đơn vị, Vụ QLNH và Cơ quan TTGSNH liên

tình hình tất toán, các biện pháp xử lý với từng đơn vị để chấn

tục làm việc trực tiếp với từng đơn vị, nhiều lần làm việc trong

chỉnh hoạt động của các TCTD, thể hiện sự kiên quyết của

cả ngày nghỉ, ngày lễ để phân tích những khó khăn nội tại của

NHNN nhằm loại bỏ các rủi ro vàng ra khỏi bảng cân đối của


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

các TCTD. Kết quả tất toán được Vụ Quản lý ngoại hối và Cơ

một số nhiệm vụ trọng tâm như tiếp tục quản lý chặt chẽ thị

quan TTGSNH cập nhật, báo cáo hàng tuần cho Thống đốc và

trường vàng miếng để duy trì sự ổn định bền vững của thị

Ban Lãnh đạo NHNN.

trường; tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp sản xuất vàng

Bên cạnh đó, Cơ quan TTGSNH đã trực tiếp thực hiện hoạt động thanh tra, kiểm tra và chỉ đạo NHNN Chi nhánh tỉnh, thành phố tiến hành thanh tra, giám sát chặt chẽ các TCTD, yêu cầu các đơn vị chấp hành các quy định về chấm dứt hoạt động huy động, cho vay vốn bằng vàng. Sau hơn một năm kể từ tháng 4/2012, với sự chỉ đạo sát sao của Thống đốc và Ban Lãnh đạo NHNN, cùng với quyết tâm và sự phối hợp chặt chẽ của các Vụ, Cục trong NHNN, kết quả tất toán số dư huy động, cho vay vốn bằng vàng đã đạt được kết quả rõ rệt. Việc chấm dứt huy động, cho vay vàng,

trang sức, mỹ nghệ trên cơ sở triển khai quy định tại Thông tư 22/2013/TT-BKHCN; triển khai quy định về hoạt động cung ứng dịch vụ bảo quản vàng miếng và quy định về cho vay vốn mua vàng… trong đó công tác thanh tra, giám sát đóng vai trò quan trọng đảm bảo sự tuân thủ của các TCTD đối với các quy định này. Vụ QLNH mong muốn tiếp tục nhận được sự phối hợp chặt chẽ của Cơ quan TTGSNH để thực hiện thành công nhiệm vụ quản lý Nhà nước đối với thị trường ngoại hối nói chung và thị trường vàng nói riêng.

đảm bảo sự an toàn, lành mạnh trong hoạt động của hệ thống ngân hàng, loại trừ cơ bản rủi ro về vàng đối với hệ thống các TCTD, chấm dứt tình trạng ”vàng hóa” trong hệ thống TCTD; giảm thiểu khối lượng vàng nhập khẩu, tiết kiệm ngoại tệ cho nền kinh tế; chuyển quan hệ huy động, cho vay vàng sang quan hệ mua, bán vàng, giảm tính hấp dẫn của vàng miếng; quyền và lợi ích của người dân trước đây đã gửi vàng tại các TCTD được bảo vệ, người dân đã được chi trả vàng đúng hạn. Kết quả tất toán số dư huy động, cho vay vốn bằng vàng ghi dấu mốc quan trọng về sự phối hợp có hiệu quả của Cơ quan TTGSNH với Vụ QLNH để kịp thời tham mưu cho Thống đốc, Ban Lãnh đạo NHNN các giải pháp nhằm thực hiện thành công chủ trương lớn của NHNN là kiên quyết yêu cầu các TCTD chấm dứt hoạt động huy động, cho vay vốn bằng vàng. Dự kiến trong thời gian tới, NHNN sẽ tập trung vào 101


NHỮNG GIẢI PHÁP TIẾP TỤC KIỆN TOÀN TỔ CHỨC, NÂNG CAO NĂNG LỰC, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG THANH TRA, GIÁM SÁT NGÂN HÀNG Phan Tấn Trung Thanh tra, giám sát NHNN Chi nhánh TP.Hồ Chí Minh

102


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

K

hi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu lan rộng ảnh

thế nào cho có hiệu quả đây là một việc quan trọng.

hưởng đến Việt Nam thì ngành Ngân hàng vẫn chưa bị ảnh hưởng lớn, khả năng xảy ra đổ vỡ hệ thống là thấp,

nhưng không thể lấy đó để chủ quan, vì hiện nay hội nhập vào nền kinh tế thế giới của Việt Nam nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng đang ngày càng rộng. Vì vậy, việc thành lập Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng với một mô hình tổ chức mới là kịp thời. Thanh tra Ngân hàng đã có rất nhiều cố gắng như chuyển từ tổ chức thanh tra Bộ sang tổ chức thanh tra chuyên

- Tiến hành đào tạo cán bộ để có thể nắm vững chuyên môn nghiệp vụ của ngân hàng thương mại (NHTM), có hiểu biết nhất định về công nghệ thông tin và ngoại ngữ khi cần thiết. - Chuyển hoạt động giám sát các TCTD theo hướng phân tích và đánh giá rủi ro. - Phối hợp hiệu quả giữa hoạt động giám sát, thanh tra ngân hàng với kiểm toán nội bộ TCTD và kiểm toán độc lập.

ngành thuộc Bộ phù hợp với yêu cầu mới; chuyển từ hoạt

Năm 1997, Luật Ngân hàng Nhà nước được Quốc hội

động thanh tra theo vụ việc là chính sang thực hiện 2 phương

thông qua; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) được

thức là giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ như hiện nay. Căn

khẳng định là một cơ quan có chức năng quản lý đối với các

cứ vào các đơn thư khiếu nại tố cáo và sự chỉ đạo của cấp trên

NHTM và NHTM phải chịu sự giám sát của NHNN khi muốn

để kiểm tra xem xét và xử lý. Hiện nay, thanh tra bắt đầu quan

tham gia hoặc rút lui đối với hoạt động ngân hàng. Thực trạng

tâm đến việc phân tích, đánh giá rủi ro làm cơ sở kiểm soát

giám sát NHTM của NHNN thời gian qua đã đóng vai trò rất

hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD). Đây là sự cố gắng

quan trọng trong việc đảm bảo tuân thủ pháp luật về lĩnh vực

không ngừng trong quá trình vừa học, vừa làm, vừa tiếp cận

tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Thông qua hoạt động thanh

để đổi mới, đồng thời không tránh khỏi tồn tại, khuyết điểm.

tra, giám sát, xử lý khiếu nại, tố cáo, Thanh tra Ngân hàng đã

Hướng đi tới của ngành Ngân hàng nước ta là xây dựng một

phát hiện nhiều vụ việc tiêu cực, vi phạm pháp luật, yếu kém

hệ thống ngân hàng hiện đại và hội nhập với khu vực và quốc

về tài chính, tổ chức, quản trị và hoạt động kinh doanh tại các

tế. Để đạt đến sự thành công này đương nhiên phải tiến hành

NHTM. Trên cơ sở đó, các yêu cầu đối với các NHTM về việc

một cách đồng bộ các giải pháp đổi mới của hệ thống ngân

khắc phục, chấn chỉnh hay xử lý được tiến hành nhằm nâng

hàng Việt Nam.

cao sự an toàn trong hoạt động NHTM.

Trước mắt, cần tăng cường vai trò và hiệu quả của hoạt động giám sát thông qua: - Xây dựng lại phần mềm giám sát theo hướng cảnh báo sớm và phương pháp tổ chức hoạt động giám sát như

Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, quản trị rủi ro là yếu tố nền tảng, trong hệ thống quản trị ngân hàng có hiệu quả; thanh tra, giám sát rủi ro là vấn đề then chốt đối với hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng. 103


Thời gian gần đây, đặc biệt là từ khi Việt Nam trở thành

chóng, phức tạp của hệ thống các TCTD Việt Nam đang tiềm

thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), hệ thống

ẩn nguy cơ đổ vỡ hệ thống rất cao. Vì thế, NHNN phải có trách

ngân hàng đã phát triển nhanh chóng về quy mô, mức độ đa

nhiệm và quyền hạn chủ chốt trong việc quản lý, giám sát

dạng về hoạt động. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển mạnh

hoạt động của các TCTD và các TCTD khác có hoạt động ngân

mẽ của hệ thống tài chính – ngân hàng trong bối cảnh tự do

hàng, đồng thời phối hợp với Bộ Tài chính trong việc quản lý,

hóa tài chính và hội nhập kinh tế quốc tế, các TCTD phải đối

giám sát toàn hệ thống tài chính trên cơ sở bộ máy thanh tra,

mặt nhiều hơn với nhiều thách thức rủi ro, nguy cơ mất an

giám sát ngân hàng hiện nay.

toàn hoạt động. Chính vì vậy, quản lý và giám sát rủi ro đối với hệ thống ngân hàng ngày càng đóng vai trò quan trọng. Đây là hai vấn đề không thể tách rời nhằm hướng tới mục tiêu đảm bảo sự an toàn, lành mạnh và hiệu quả của hệ thống

một trong những ưu tiên hàng đầu của NHNN. Thời gian qua NHNN đã ban hành nhiều quy định về bảo đảm an toàn trong

ngân hàng. Để chứng minh cho tầm quan trọng của quản trị

hoạt động của TCTD nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các TCTD

rủi ro, các chuyên gia nghiên cứu cũng cho thấy những công

quản trị rủi ro trên cơ sở duy trì tỷ lệ an toàn vốn, thanh khoản,

ty thực hiện tốt quản trị doanh nghiệp thì kết quả tài chính và

các hoạt động cho vay, bảo lãnh và phân loại nợ, trích lập và

hoạt động tốt hơn; ít có nguy cơ xảy ra lừa đảo; được các nhà

sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro, chất lượng hoạt động của

đầu tư quan tâm hơn; tiếp cận nguồn vốn tốt hơn. Quản trị

các TCTD đã ngày càng được cải thiện, rủi ro đã được kiểm

rủi ro đặc biệt quan trọng với hoạt động ngân hàng bởi hàng

soát tốt hơn trong điều kiện quy mô của các TCTD ngày càng

loạt lý do: vai trò quan trọng trong nền kinh tế, uy tín và sự tin

mở rộng và phát triển.

tuởng, nhạy cảm với các cuộc khủng hoảng thanh khoản, chi phí cho sự đổ vỡ thất bại cao, bảo đảm an toàn cho tài sản – quỹ của người gửi tiền. Việc giám sát trên cơ sở rủi ro là hết

Để nâng cao năng lực giám sát của NHNN đối với vấn đề quản trị rủi ro của NHTM:

sức cần thiết bởi nó cho phương thức, thước đo nhận dạng

(i) Đối với NHTM:

các TCTD và các lĩnh vực có vấn đề hoặc có khả năng nảy sinh

- Phải hoàn thiện bộ máy giám sát rủi ro hoạt động

vấn đề, xử lý kịp thời và đúng lúc rủi ro phát sinh.

104

Đảm bảo an toàn hoạt động của các TCTD luôn là

của ngân hàng trên cơ sở hình thành một bộ phận độc lập

Các TCTD cũng giữ vai trò, vị trí không kém phần quan

không tham gia vào quá trình tạo ra rủi ro, có chức năng quản

trọng đối với sự ổn định hệ thống tài chính và phát triển kinh

lý, giám sát rủi ro cho các ngân hàng; nhận diện và phát hiện

tế xã hội. Chính vì vậy, cần phải có cơ chế và phuơng pháp

rủi ro; phân tích và đánh giá mức độ rủi ro trên cơ sở các chỉ

thanh tra, giám sát thích hợp để đảm bảo an toàn hệ thống

tiêu, tiêu thức được xây dựng, đồng thời đề ra các biện pháp

các TCTD, đặc biệt là trong bối cảnh sự phát triển nhanh

phòng ngừa, ngăn chặn giảm thiểu rủi ro.


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

- Các ngân hàng phải xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống văn bản, quy chế, quy trình nghiệp vụ như: ban hành đầy đủ các quy chế, quy trình nghiệp vụ trên nguyên tắc tuân thủ các quy định của Nhà nước, của NHNN; kịp thời hướng dẫn các văn bản chế độ có liên quan để áp dụng thống nhất trong toàn hệ thống ngân hàng. Đồng thời, hệ thống văn bản, quy chế, quy trình… phải được tổ chức nghiên cứu, tập huấn và quán triệt để đảm bảo mỗi cán bộ phải nắm vững và thực thi đầy đủ, chính xác. - Cần phải có các giải pháp để đối phó với các yếu tố từ bên ngoài như sự thay đổi về cơ chế, chính sách của Nhà

hàng như là một phần của phương pháp tiếp cận tổng thể của quản lý rủi ro. - Phải chỉ đạo trực tiếp hoặc gián tiếp, thường xuyên độc lập đánh giá chính sách, thủ tục và thực tiễn liên quan đến rủi ro trong hoạt động ngân hàng. - Xây dựng hệ thống giám sát ngân hàng hiện đại và hữu hiệu (về thể chế, mô hình tổ chức, con người và phương pháp) nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam và thực hiện đúng các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng.

nước, sức ép từ việc thực hiện các cam kết theo thông lệ, các diễn biến phức tạp của xu thế thị trường, tác động tiêu cực của thông tin truyền thông bất cân xứng. - Xây dựng hệ thống công nghệ thông tin tiên tiến, hiện đại, ổn định; thường xuyên kiểm tra, bảo trì, bảo dưỡng kịp thời, bổ sung, nâng cấp khi cần thiết để đảm bảo hoạt động ổn định trong mọi trường hợp. - Tuân thủ các quy định Nhà nước về bảo hiểm bắt buộc. - Cần phải có giải pháp về nguồn nhân lực, trước hết là các ngân hàng phải xây dựng và hoàn chỉnh được quy chế tuyển dụng và tuân thủ nghiêm ngặt quy chế này. (ii) Đối với NHNN: - Yêu cầu tất cả các ngân hàng phải có một khung quản trị rủi ro hoạt động hiệu quả để xác định, đánh giá, giám sát nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân 105


GÓP THÊM MỘT VÀI Ý KIẾN VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THANH TRA, GIÁM SÁT NGÂN HÀNG HIỆN NAY PGS., TS. Nguyễn Đình Tự Nguyên Phó Chánh Thanh tra NHNN

C

ơ quan Thanh

thực hiện Quyết định số 83/2009/QĐ-TTg ngày 27/5/2009

tra,

sát

của Thủ tướng Chính phủ (Quyết định số 83). Như chúng ta

hàng

đã biết, tổ chức của Thanh tra Ngân hàng trước đây chỉ có

ngày nay tiền thân là

hai bộ phận chính là Giám sát từ xa và Thanh tra tại chỗ. Bộ

Thanh tra Ngân hàng

phận thanh tra tại chỗ gồm có các phòng thanh tra theo từng

trực thuộc Ngân hàng

chuyên đề, gồm: Văn phòng Thanh tra, Phòng Thanh tra Ngân

Nhà nước đã được

hàng Quốc doanh, Phòng Thanh tra Ngân hàng Cổ phần,

đổi mới từ năm 2009

Phòng Thanh tra các Tổ chức tín dụng hợp tác, Phòng Thanh

theo Quyết định số

tra Xét Khiếu tố và Phòng Giám sát từ xa (tổng số có 6 đơn

83/QĐ-TTg

27

vị). Trong cơ cấu tổ chức của NHNN Việt Nam còn có Phòng

tháng 5 năm 2009 của

Thanh tra Ngân hàng thuộc cơ cấu tổ chức của Chi nhánh

giám

ngân

ngày

Chính phủ. Đó là một bước ngoặt về tổ chức và hoạt động Thanh tra, giám sát ngân hàng ở nước ta.

Hoạt động thanh tra, giám sát thời kỳ này đã có nhiều

Kể từ khi chuyển đổi mô hình tổ chức cũng như chỉ

cố gắng. Theo định kỳ, thông qua giám sát từ xa Thanh tra

đạo điều hành, hoạt động của Cơ quan Thanh tra, giám sát

Ngân hàng đã có những nhắc nhở và cảnh báo về tồn tại và vi

ngân hàng đã có bước chuyển biến mạnh mẽ, từng bước

phạm để TCTD nghiên cứu, chấn chỉnh; thông qua hoạt động

phù hợp với thông lệ thanh tra, giám sát ngân hàng quốc tế,

thanh tra tại chỗ đã phát hiện khá nhiều vấn đề phát sinh và

đã và đang thực hiện có hiệu quả mục tiêu bảo đảm an toàn

vi phạm, nhất là trong hoạt động tín dụng và bảo lãnh, về

hoạt động của hệ thống ngân hàng và tổ chức tín dụng ( sau

hạch toán kế toán, lãi suất, tỷ giá… Tuy nhiên vẫn còn nhiều

đây gọi chung là tổ chức tín dụng ( TCTD)).

106

Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố.

bất cập. Giám sát từ xa được thực hiện hàng tháng trên cơ sở

Trước hết xin được đề cập một số nét tổng quan về

số liệu báo cáo từ các TCTD nên thường chậm và thiếu tính

mô hình tổ chức của Thanh tra Ngân hàng trước khi triển khai

chính xác, đặc biệt là không thực hiện được cảnh báo sớm


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

về sự an toàn của TCTD. Thanh tra tại chỗ theo phương thức

việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tín

thanh tra tuân thủ và chủ yếu là theo vụ việc, chưa phải là

dụng trong hoạt động ngân hàng thì chất lượng hoạt động

thanh tra trên cơ sở rủi ro; tổ chức các cuộc thanh tra thường

tín dụng được cải thiện rõ rệt, nợ quá hạn, đặc biệt là nợ xấu

cồng kềnh, chậm trễ, có khi bị chồng chéo giữa Trung ương

giảm nhanh. Tuy nhiên, công tác thanh tra, giám sát ngân

và địa phương; số lượng các cuộc thanh tra tại chỗ tăng theo

hàng vẫn còn lúng túng, hiệu lực và hiệu quả thanh tra vẫn

hàng năm (từ 609 cuộc năm 2002 đến 1179 cuộc năm 2007);

chưa được cải thiện một cách rõ rệt. Trong thời kỳ này, NHNN

thời hạn nhiều cuộc thanh tra bị kéo dài làm ảnh hưởng đến

thực hiện củng cố hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ của

hoạt động bình thường của TCTD…; sự phối hợp giữa giám

các NHTM bằng Quyết định số 36/2006/QĐ-NHNN ngày

sát từ xa và thanh tra tại chỗ chưa chặt chẽ; sự phối hợp giữa Thanh tra NHNN với các cơ quan chức năng bên ngoài chưa được nhịp nhàng… Chính vì vậy mà hệ thống ngân hàng và TCTD thời kỳ này hoạt động kém hiệu quả, nợ xấu phát sinh lớn: Những năm 2003, 2004 trở về trước nợ quá hạn thường ở mức trên dưới 20% (theo phân loại của Việt Nam); Hầu hết các Ngân hàng thương mại Cổ phần hoạt động yếu kém, có một số phải đưa vào kiểm soát đặc biệt, sau đó phải sáp nhập, thanh lý hoặc giải thể (Châu Á Thái Bình Dương, Việt

1/8/2006 của Thống đốc NHNN ban hành Quy chế kiểm tra kiểm soát nội bộ và Quyết định số 37/2006/QĐ-NHNN ngày 1/8/2006 của Thống đốc NHNN ban hành Quy chế kiểm toán nội bộ của TCTD nên hoạt động của các TCTD cũng bắt đầu được chấn chỉnh, Hoạt động thanh tra giám sát của NHNN và hoạt động kiểm soát nội bộ của các TCTD có sự phối kết hợp tốt hơn, đó cũng là điều kiện làm tăng tính hiệu quả của hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN.

Hoa, Vũng Tàu…). Đó là thời kỳ Hệ thống Ngân hàng Việt Nam

Bước sang những năm 2008 và năm 2009 là những

thực hiện cơ cấu lại một cách mạnh mẽ để tồn tại và lấy đà đi

năm nền kinh tế nước ta bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng

lên cho một giai đoạn mới.

kinh tế từ Mỹ, châu Âu và các nước khác nên các hoạt động

Thời kỳ những năm 2005 đến 2008 trở đi, nhận thức

kinh tế nói chung và Hệ thống Ngân hàng nước ta cũng gặp

về thanh tra, giám sát và kiểm soát hoạt động ngân hàng ở

không ít khó khăn, các cân đối vĩ mô cũng bị ảnh hưởng; hoạt

nước ta từng bước được đổi mới, hiệu lực và hiệu quả hoạt

động của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp xuất

động thanh tra, giám sát ngân hàng từng bước được nâng

nhập khẩu bị giảm sút khá nặng nề làm ảnh hưởng đến hoạt

lên, các TCTD tiếp tục được cơ cấu lại, các ngân hàng được

động của hệ thống các TCTD, nợ quá hạn và nợ xấu tăng lên

yêu cầu tăng vốn điều lệ theo lộ trình, Thời kỳ này hệ thống

đến trên dưới 10%. Hoạt động thanh tra giám sát ngân hàng

các TCTD mạnh lên cả về quy mô và hoạt động, đặc biệt là từ

thời kỳ này vừa tập trung vào chất lượng tín dụng, vừa kiểm

sau khi Thống đốc NHNN ban hành Quyết định số 493/2005/

soát việc sử dụng nguồn vốn do Ngân sách Nhà nước hỗ trợ

QĐ-NHNN và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN quy định về

cho doanh nghiệp khó khăn thông qua hệ thống các TCTD. 107


Để thích ứng với yêu cầu mới của nền kinh tế cũng như hoạt động ngân hàng và đáp ứng yêu cầu về thanh tra, giám sát theo thông lệ quốc tế, NHNN đã trình Chính phủ ban hành Quyết định số 83 về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Ngân hàng. Đó là sự đổi mới mạnh mẽ và là bước ngoặt về tổ chức cũng như hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN Việt Nam. Tổ chức của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng của NHNN đã được tăng cường cả về số lượng cũng như chất lượng. Thanh tra NHNN chuyển thành Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, tương đương một Tổng cục thuộc Bộ, các phòng ban của Thanh tra NHNN trước đây đã bổ sung lực lượng cũng như chức năng nhiệm vụ và chuyển thành các Vụ, Cục, trong đó bao gồm cả Vụ Quản lý cấp phép và Cục Phòng, chống rửa tiền, số lượng cán bộ thanh tra, giám sát tăng lên gấp 3 - 4 lần trước đây. Trên cơ sở này, hoạt động của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng được thực hiện một cách đồng

Hiện nay, nền kinh tế nước ta đang bị ảnh hưởng bởi những biến động của các vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, từ Ukraina và quan hệ Mỹ - châu Âu - Nga, chiến sự ở khu vực Nam Á, tranh chấp ở Biển Đông và Khu vực Đông Bắc Á… Đó là các thách thức cho hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung cũng như thanh tra, giám sát ngân hàng nói riêng. Để góp phần tiếp tục nâng cao năng lực hoạt động cũng như hiệu quả thanh tra, giám sát ngân hàng trong thời kỳ mới, xin có một số ý kiến sau đây: Trước hết, cần tiếp tục hoàn thiện tổ chức, tăng cường năng lực cả thanh tra và giám sát trên cơ sở rủi ro để kiểm tra và nắm bắt kịp thời hơn, đó là các kỹ năng và phương pháp quản trị rủi ro, công nghệ và dịch vụ tài chính mới, quản trị ngân hàng hiện đại…

bộ từ quản lý, cấp phép đến thanh tra, giám sát, kết hợp một

Thứ hai, NHNN cần rà soát lại các quy định an toàn,

cách thuận lợi hơn giữa quản lý với thanh tra, giám sát và xử lý

bao gồm cả việc tăng cường hiệu quả hoạt động kiểm tra,

vi phạm cũng như xử lý ngân hàng có vấn đề…

kiểm soát và kiểm toán nội bộ để đề cao trách nhiệm bảo

Tuy nhiên ở những năm 2012 đến 2013, mặc dù NHNN

108

số NHTM.

đảm an toàn của chính TCTD.

đã tăng cường công tác thanh tra, giám sát và cơ cấu lại theo

Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện nội dung và kỹ thuật

chỉ đạo của Chính phủ, kể cả việc xử lý nợ xấu thông qua

nghiệp vụ thanh tra, giám sát ngân hàng theo các chuẩn mực

bán nợ cho VAMC, nợ xấu của các TCTD đã xuống mức 3,57%

quốc tế trên cơ sở kết hợp thanh tra, giám sát việc chấp hành

(theo chuẩn Việt Nam, nhưng theo một số tổ chức xếp hạng

chính sách pháp luật với thanh tra, giám sát rủi ro đối với các

quốc tế là trên 10%). Một số vụ rủi ro mất vốn lớn vẫn xảy ra,

TCTD. Về thanh tra tại chỗ, cần chú trọng kiểm tra các hoạt

như ở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt

động quản trị rủi ro trên cơ sở báo cáo của TCTD, nhưng các

Nam hay Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (vụ Huyền

Đoàn thanh tra cũng như các Thanh tra viên cần đi sâu kiểm

Như), vụ ở ACB… Nguyên nhân chính là do yếu kém cũng

tra từ quy trình tín dụng, từ khâu thẩm định đến quản lý tín

như hệ thống quản trị rủi ro dẫn đến rủi ro đạo đức của một

dụng, quản lý rủi ro đến phòng ngừa, xử lý và khắc phục rủi ro


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

của TCTD… Đó là mấu chốt của tăng cường hiệu quả trong hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN Việt Nam. Thứ tư, tiếp tục tăng cường công tác giám sát từ xa theo Camels. Theo chúng tôi, những vấn đề cần chú trọng để nâng cao hơn hiệu quả của hoạt động này là: Trước hết, những người thực hiện giám sát (hoặc có thể bố trí cán bộ chuyên trách) để đủ khả năng xem xét, đánh giá được tính đúng đắn và phù hợp đối với báo cáo tài chính của các TCTD, đó là mấu chốt để nâng cao hiệu quả công tác giám sát này; tiếp đến là hoàn thiện các nội dung song vẫn phải bám sát phương pháp xem xét, đánh giá việc thực hiện các quy định của pháp luật về ngân hàng, giám sát trên cơ sở rủi ro và tiến đến thực hiện đúng yêu cầu về cảnh báo sớm tình hình hoạt động của TCTD. Muốn vậy, chúng ta vẫn phải tăng cường năng lực cán bộ thực hiện công tác giám sát, tiếp tục hiện đại hóa ngân hàng và hoàn thiện hệ thống thông tin phục vụ công tác thanh tra, giám sát của NHNN.

109


CÔNG ĐOÀN CƠ QUAN THANH TRA, GIÁM SÁT NGÂN HÀNG NĂM NĂM PHÁT TRIỂN VỮNG MẠNH Thạc sĩ Nguyễn Thị Thúy Ngọc Phó Chủ tịch Công đoàn Cơ quan TTGSNH

N

110

ăm năm - một chặng đường! Cùng với sự phát triển vững mạnh của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, Công đoàn Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân

cố gắng vượt khó, tiếp tục làm việc, cống hiến, góp phần đưa

hàng (Cơ quan TTGSNH) đã thực sự là một tổ chức gắn kết

nề tới những nền kinh tế đang phát triển như nền kinh tế Việt

những con người đang ngày đêm tận tụy, kiên trì, hăng say

Nam. Bên cạnh đó, Công đoàn Cơ quan TTGSNH cũng đã tích

lao động với mục đích cao cả: đảm bảo sự ổn định của hệ

cực và sát sao trong việc đảm bảo quyền lợi nghiên cứu, học

thống ngân hàng - huyết mạch của nền kinh tế và bảo vệ

tập nâng cao trình độ chuyên môn của các đoàn viên. Với đặc

người gửi tiền.

điểm nổi bật là đoàn viên nữ luôn chiếm hơn 50% tổng số

ngành Ngân hàng qua giai đoạn khó khăn nhất, trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu ảnh hưởng nặng

Ra đời tháng 8/2009, trong bối cảnh thành lập Cơ

đoàn viên, lại thường xuyên phải đi công tác xa, Công đoàn

quan TTGSNH từ bốn đơn vị chuyên môn thuộc Ngân hàng

Cơ quan TTGSNH đã đặc biệt động viên, khích lệ cán bộ, đoàn

Nhà nước, Công đoàn Cơ quan TTGSNH là Công đoàn cơ sở

viên nữ vừa đảm bảo thời gian, hiệu quả làm việc, vừa thực

thành viên đông đảo với 247 đoàn viên sinh hoạt tại 8 Công

hiện tốt vai trò người vợ đảm đang, người mẹ tần tảo, người

đoàn bộ phận cơ sở trực thuộc, không có bộ phận thường

con, người cháu hiếu thảo trong gia đình; kịp thời thăm nom,

trực, chuyên trách, chỉ có Ban chấp hành lâm thời. Thời gian

động viên chị em khi sinh nở, khi người thân bị bệnh; chia

đó, vị trí làm việc của Cơ quan TTGSNH lại cách xa trụ sở chính,

sẻ niềm vui, nỗi buồn, sát cánh với chị em và gia đình trong

xa trung tâm nên ít nhiều đã ảnh hưởng tới tâm tư, tình cảm

những lúc bận rộn với việc hiếu, hỷ. Nhờ có sự gắn kết anh

của không ít cán bộ, nhân viên trong Cơ quan. Được sự quan

chị em đoàn viên trong các hoạt động chung với công tác

tâm của lãnh đạo các cấp, Công đoàn Cơ quan TTGSNH đã sát

chuyên môn mà những năm tháng khó khăn nhất trong thời

cánh cùng các đoàn viên của mình ngay từ những ngày đầu

gian đầu thành lập Cơ quan đã qua đi.

vất vả đó thông qua việc trình các cấp hỗ trợ khó khăn và tiền

Năm 2010, Đại hội Công đoàn Cơ quan TTGSNH đã

xăng xe cho những cán bộ nhà ở xa. Các thành viên Ban chấp

được tổ chức. Đại hội chính thức bầu ra Ban chấp hành của

hành lâm thời đã gần gũi, chia sẻ, động viên từng đoàn viên

mình gồm 11 thành viên là đại diện lãnh đạo Cơ quan TTGSNH


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

111


112

với vai trò là Chủ tịch Công đoàn và các Phó Vụ trưởng, Phó

Đảng trong sạch, vững mạnh, tham gia quản lý công tác

Cục trưởng – cũng là các Chủ tịch Công đoàn bộ phận và 02

chuyên môn cũng được Công đoàn Cơ quan TTGSNH coi

cán bộ có năng lực công đoàn nổi trội với vai trò là thành viên

trọng. Trong 05 năm vừa qua, tổ chức Công đoàn Cơ quan

Ban chấp hành. Ban chấp hành đã lập nên các ban chuyên

TTGSNH đã được củng cố vững chắc với số lượng đoàn viên

đề như: Ban tuyên truyền, Ban văn hóa, Ban nữ công, Ban

tăng gần 100 so với thời kỳ đầu thành lập. Có được như vậy là

đời sống... đồng thời đưa ra quy chế hoạt động của các ban

nhờ Công đoàn đã tuyên truyền, phổ biến đến từng cán bộ

để đảm bảo hiệu quả hoạt động của Công đoàn trong suốt

trẻ để họ hiểu được lợi ích và trách nhiệm của đoàn viên và

nhiệm kỳ.

tự nguyện viết đơn xin gia nhập tổ chức công đoàn nơi mình

Trong công tác tuyên truyền, giáo dục, Công đoàn

công tác sau một thời gian được tuyển dụng và theo đúng

Cơ quan TTGSNH đã thường xuyên tổ chức các buổi học tập

Điều lệ hoạt động của Công đoàn Việt Nam. Bên cạnh đó,

và tuyên truyền để đoàn viên và người lao động chấp hành

Công đoàn đã phối hợp tốt với Đảng ủy các cấp tuyên truyền,

nghiêm túc, đầy đủ đường lối, chủ trương, chính sách của

giáo dục đoàn viên thực hiện tốt các quy định của pháp luật,

Đảng, pháp luật của Nhà nước, Điều lệ Công đoàn Việt Nam.

chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các chương trình hành động do

Toàn thể đoàn viên Công đoàn Cơ quan TTGSNH đã tích cực

các cấp ủy đảng đề ra, từ đó giới thiệu, giúp đỡ những đoàn

tham gia học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tuyên

viên ưu tú, có ý chí phấn đấu trở thành đảng viên để các cấp

truyền trong nội bộ các công đoàn bộ phận các chủ đề như:

ủy đảng phát triển đảng đối với những đối tượng này. Đã có

“Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua ái quốc”, “Tư tưởng Hồ Chí

hàng chục lượt đoàn viên ưu tú được tham gia học các lớp

Minh về tiêu chuẩn cán bộ”, “Chủ tịch Hồ Chí Minh với công

cảm tình đảng và hơn 20 đoàn viên công đoàn đã được kết

tác thanh tra”. Công đoàn Cơ quan TTGSNH cũng đã thường

nạp vào Đảng.

xuyên bám sát chỉ đạo của công đoàn cấp trên và phối hợp

Trong công tác công đoàn, công tác nữ công bao giờ

tốt với tổ chức chuyên môn để triển khai tới toàn thể đoàn

cũng là mảng hoạt động có nhiều nổi trội do số đoàn viên

viên và người lao động các phong trào tình nghĩa, phong

là nữ luôn chiếm hơn 50%, thời kỳ đầu chiếm 69% tổng số

trào phát huy vai trò của người phụ nữ Việt Nam, phong trào

đoàn viên và cũng là hạt nhân trong mọi phong trào thi đua

vì nông thôn mới hay phong trào vì tấm lưới Hoàng Sa….

do Công đoàn các cấp phát động. Hầu hết chị em luôn có

Thông qua những hoạt động này, nhận thức về trách nhiệm

tinh thần nhiệt tình, chịu khó học hỏi, có trách nhiệm cao

xã hội, trách nhiệm của từng đoàn viên đối với cộng đồng, ý

trong công việc, khắc phục mọi khó khăn để hoàn thành tốt

thức về sự sẻ chia, đùm bọc và tinh thần yêu nước cũng vì thế

nhiệm vụ được giao. Liên tục các năm, nhiều chị em đã đạt

mà được nâng cao.

danh hiệu Phụ nữ Hai giỏi; “Giỏi việc ngân hàng, đảm việc

Bên cạnh đó, những mặt hoạt động như xây dựng

nhà”, nhiều chị được công đoàn các cấp (Công đoàn Ngân

tổ chức Công đoàn vững mạnh, tham gia xây dựng tổ chức

hàng Nhà nước Việt Nam, Công đoàn Ngân hàng Trung ương,


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

Công đoàn Ngân hàng Việt Nam) khen thưởng, đặc biệt có

Thanh niên Cơ quan TTGSNH. Hàng năm, Công đoàn và Đoàn

chị được Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam tặng bằng khen

Thanh niên Cơ quan TTGSNH đã tổ chức đón Tết thiếu nhi 1-6,

Gia đình xuất sắc toàn diện. Nhiều hoạt động đã được tổ chức

đón Tết trung thu cho các cháu, kịp thời động viên các cháu

trong vòng 5 năm qua, mang lại sự gắn kết tập thể nữ, nâng

là con đoàn viên có nhiều thành tích trong học tập, đạt học

cao tinh thần làm việc hăng say cho cán bộ đoàn viên nói

sinh giỏi, học sinh tiên tiến các năm học và đạt các giải cao

chung như: tổ chức nói chuyện về văn hóa, kỷ niệm ngày phụ nữ quốc tế 8/3; hội thi cắm hoa; tham gia hội thi nấu ăn, hội thi Phụ nữ ngân hàng thanh lịch do Công đoàn Ngân hàng Nhà nước Trung ương tổ chức. Phong trào nữ công không những chỉ được phát huy hiệu quả trong Công đoàn Cơ quan TTGSNH mà còn được coi trọng và phát triển tại từng công

trong các kỳ thi cấp trường, cấp quận, thành phố, quốc gia và quốc tế. Nhiều công đoàn bộ phận đã phát huy sự sáng tạo của đơn vị, tổ chức các cuộc thi, vui chơi cho các cháu như: Hội thi ai thông minh; Hội thi các bé hát hay... để động viên, khuyến khích các con chăm ngoan, học giỏi hơn.

đoàn bộ phận. Nữ công công đoàn các bộ phận đã hết sức

Sự vững mạnh đi lên của Công đoàn Cơ quan TTGSNH

tích cực, sáng tạo trong hoạt động của mình thông qua việc

trong 5 năm qua không chỉ thể hiện ở mức tăng về số lượng

tổ chức các buổi giao lưu, nói chuyện chuyên đề về giới, về

đoàn viên, mà còn thể hiện ở chất lượng hoạt động công

văn hóa công sở, phát động phong trào phụ nữ thời kỳ mới

đoàn trên các phương diện khác nhau như trên. Sự vững

có trình độ và tri thức toàn diện. Chị em cũng là những nhân

mạnh về tổ chức công đoàn ngày càng được củng cố thêm

tố tích cực trong các phong trào ủng hộ, tình nguyện giúp

bởi sự đồng lòng, nhất trí của toàn thể đoàn viên khi bầu

đỡ trẻ em nghèo, người già, người bị bệnh hiểm nghèo và

cho mình một Ban chấp hành mới đầy nhiệt huyết, trẻ trung

phụ nữ nghèo tại các xã bản, vùng sâu, vùng xa, vùng miền

và nhiều sáng tạo vào đầu năm 2014. Có được sự phát triển

núi còn khó khăn thuộc địa phận các tỉnh như Hà Giang, Hòa Bình, Sóc Sơn - Hà Nội; trao quà cho trẻ em nghèo mắc bệnh hiểm nghèo tại các bệnh viện như Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện K, Bệnh viện Ung bướu Hà Nội. Đoàn viên nữ cũng là những hạt nhân gắn kết và phát động các phong trào tình nghĩa, kết hợp với Phụ nữ Công đoàn Ngân hàng Trung ương

vững mạnh như ngày nay cũng là nhờ có sự quan tâm của các cấp Ủy đảng, Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước và của Cơ quan TTGSNH. Hy vọng rằng, với một nền móng khá chắc chắn mà chính những đoàn viên của mình gây dựng nên, Công đoàn Cơ quan TTGSNH sẽ ngày một được củng cố, thực sự là

và các công đoàn thuộc các ngân hàng thương mại quyên

một tổ chức gắn kết các thành viên thân thích như trong một

góp, ủng hộ cho chương trình Mái ấm cho người nghèo tại

gia đình, đồng thời tạo nên sức mạnh tinh thần cho một tập

tỉnh Hà Giang năm 2013, tỉnh Điện Biên năm 2014.

thể những cá nhân sẵn sàng cống hiến sức mình cho công

Công tác chăm lo cho thiếu niên, nhi đồng là một trong những mặt hoạt động tích cực của Công đoàn và Đoàn

cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, cho sự phát triển ngành Ngân hàng nói riêng. 113


114


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

PHẦN III. SƠ ĐỒ TỔ CHỨC CƠ QUAN TTGSNH

115


SƠ ĐỒ TỔ CHỨC CƠ QUAN THANH TRA, GIÁM SÁT NGÂN HÀNG

VỤ 1 Vụ Thanh tra các tổ chức tín dụng trong nước

ĐỖ THỊ NHÀN VỤ TRƯỞNG

NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG VỤ TRƯỞNG

VỤ 3 Vụ Thanh tra hành chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng

VỤ 4 Vụ Giám sát ngân hàng

DƯƠNG ĐÌNH THUẦN VỤ TRƯỞNG

TRẦN ĐĂNG PHI VỤ TRƯỞNG

NGÔ MẠNH ANH PHÓ VỤ TRƯỞNG

NGUYỄN MẠNH TIẾN PHÓ VỤ TRƯỞNG

NGUYỄN VĂN LỢI PHÓ VỤ TRƯỞNG

HOÀNG VĂN THẮNG PHÓ VỤ TRƯỞNG

NGUYỄN DUY PHƯƠNG PHÓ VỤ TRƯỞNG

NGÔ THỊ XUÂN HỒNG PHÓ VỤ TRƯỞNG

ĐỖ VĂN NHƯỜNG PHÓ VỤ TRƯỞNG

NGUYỄN PHI LÂN PHÓ VỤ TRƯỞNG

NGUYỄN THỊ PHỤNG PHÓ VỤ TRƯỞNG

TẠ THÀNH LONG PHÓ VỤ TRƯỞNG

116

VỤ 2 Vụ Thanh tra các tổ chức tín dụng nước ngoài


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

NGUYỄN HỮU NGHĨA CHÁNH TTGSNH

ĐÀO QUỐC TÍNH PHÓ CHÁNH TTGSNH

ĐẶNG VĂN THẢO PHÓ CHÁNH TTGSNH

NGUYỄN THỊ HÒA PHÓ CHÁNH TTGSNH

VỤ 5 Vụ Chính sách an toàn hoạt động ngân hàng

VỤ 6 Vụ Quản lý cấp phép các TCTD và hoạt động ngân hàng

VỤ 7 Cục Phòng, chống rửa tiền

VỤ 8 Văn phòng Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng

PHẠM HUYỀN ANH VỤ TRƯỞNG

HOÀNG QUỐC MẠNH PHÓ VỤ TRƯỞNG

NGUYỄN VĂN NGỌC CỤC TRƯỞNG

NGUYỄN NGỌC CƯỜNG CHÁNH VĂN PHÒNG

NGUYỄN TRỌNG DU PHÓ VỤ TRƯỞNG

BÙI HUY THỌ PHÓ VỤ TRƯỞNG

NGUYỄN THỊ THÚY NGỌC PHÓ CỤC TRƯỞNG

NGUYỄN XUÂN BÌNH PHÓ CHÁNH VP

LÊ TRUNG KIÊN PHÓ VỤ TRƯỞNG

QUÁCH TƯỜNG VY PHÓ VỤ TRƯỞNG

NGUYỄN HUY DŨNG PHÓ CỤC TRƯỞNG

NGUYỄN CÔNG DƯƠNG PHÓ CHÁNH VP

PHẠM GIA BẢO PHÓ CỤC TRƯỞNG

NGUYỄN QUANG HẢI PHÓ CHÁNH VP

VŨ DUY TÍN PHÓ CHÁNH VP

117


118


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

Ban Lãnh đạo Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng

NGUYỄN HỮU NGHĨA CHÁNH TTGSNH

ĐÀO QUỐC TÍNH PHÓ CHÁNH TTGSNH

ĐẶNG VĂN THẢO PHÓ CHÁNH TTGSNH

NGUYỄN THỊ HÒA PHÓ CHÁNH TTGSNH

119


VỤ 1 Vụ Thanh tra các tổ chức tín dụng trong nước

ĐỖ THỊ NHÀN VỤ TRƯỞNG

NGÔ MẠNH ANH PHÓ VỤ TRƯỞNG

120

NGUYỄN DUY PHƯƠNG PHÓ VỤ TRƯỞNG

NGUYỄN THỊ PHỤNG PHÓ VỤ TRƯỞNG

TẠ THÀNH LONG PHÓ VỤ TRƯỞNG


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

VỤ 2 Vụ Thanh tra các tổ chức tín dụng nước ngoài

NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG VỤ TRƯỞNG

NGUYỄN MẠNH TIẾN PHÓ VỤ TRƯỞNG

NGÔ THỊ XUÂN HỒNG PHÓ VỤ TRƯỞNG

121


VỤ 3 Vụ Thanh tra hành chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng DƯƠNG ĐÌNH THUẦN VỤ TRƯỞNG

NGUYỄN VĂN LỢI PHÓ VỤ TRƯỞNG

122

ĐỖ VĂN NHƯỜNG PHÓ VỤ TRƯỞNG


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

VỤ 4 Vụ Giám sát ngân hàng

TRẦN ĐĂNG PHI VỤ TRƯỞNG

HOÀNG VĂN THẮNG PHÓ VỤ TRƯỞNG

NGUYỄN PHI LÂN PHÓ VỤ TRƯỞNG

123


VỤ 5 Vụ Chính sách an toàn hoạt động ngân hàng

PHẠM HUYỀN ANH VỤ TRƯỞNG

NGUYỄN TRỌNG DU PHÓ VỤ TRƯỞNG

124

LÊ TRUNG KIÊN PHÓ VỤ TRƯỞNG


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

VỤ 6 Vụ Quản lý cấp phép các TCTD và hoạt động ngân hàng

HOÀNG QUỐC MẠNH PHÓ VỤ TRƯỞNG

BÙI HUY THỌ PHÓ VỤ TRƯỞNG

QUÁCH TƯỜNG VY PHÓ VỤ TRƯỞNG

125


VỤ 7 Cục Phòng, chống rửa tiền

NGUYỄN VĂN NGỌC CỤC TRƯỞNG

NGUYỄN THỊ THÚY NGỌC PHÓ CỤC TRƯỞNG

126

NGUYỄN HUY DŨNG PHÓ CỤC TRƯỞNG

PHẠM GIA BẢO PHÓ CỤC TRƯỞNG


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

VỤ 8 Văn phòng Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng

NGUYỄN NGỌC CƯỜNG CHÁNH VĂN PHÒNG

NGUYỄN XUÂN BÌNH PHÓ CHÁNH VP

NGUYỄN CÔNG DƯƠNG PHÓ CHÁNH VP

NGUYỄN QUANG HẢI PHÓ CHÁNH VP

VŨ DUY TÍN PHÓ CHÁNH VP

127


128


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

MỘT SỐ HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG CỦA Cơ quan ttgsnh

129


130


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

131


Lễ ký giao ước thi đua khối thanh tra, kiểm toán năm 2013 132


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

Lễ ký giao ước thi đua Thanh tra các bộ, nghành khối II năm 2013 133


Hội nghị mô hình Nhóm Châu Á - Thái Bình Dương về phòng, chống rửa tiền (APG) năm 2012 134


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm hình thành và phát triển (8/2009 - 8/2012)

Lễ ký kết Quy chế phối hợp trao đổi thông tin liên quan đến họa động xâm phạm an ninh quốc gia và tài trợ khủng bố giữa Tổng cục An ninh và Cơ quan TTGSNH 135


136


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

Lễ trao tặng “Mái ấm tình thương” cho phụ nữ nghèo tại tỉnh Điện Biên

137


Lễ trao tặng Cờ thi đua của Bộ Công an cho Cục Phòng chống rửa tiền, Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hạng về thành tích xuất sắc trong phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc 138


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

139


140


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

141


142


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

Quốc tế Phụ nữ 8/3 Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng

143


144


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

145


Hoạt động từ thiện của Cơ quan TTGSNH tại tỉnh Hà Giang 146


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm hình thành và phát triển (8/2009 - 8/2012)

147


148


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

149


150


Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 5 năm thành lập và phát triển (8/2009 - 8/2014)

151


152


Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.