


![]()



Nghệ thuật là cầu nối giữa tâm hồn con người và thế giới
xung quanh, nơi cảm xúc và ý tưởng được chuyển hóa thành những hình thức biểu đạt độc đáo. Trong hành trình khám
phá nghệ thuật, việc cân bằng giữa "lý" – lý trí, sự hiểu biết
và "trần" – thực tại đời thường, là một thách thức đầy thú vị.
Tập sách này, với tên gọi "Nghệ Thuật Lý – Trần," không
chỉ tập trung vào việc khơi dậy cảm hứng sáng tạo, mà còn đi
sâu vào việc tìm hiểu mối liên hệ phức tạp giữa những tư duy
sâu sắc và cách chúng phản chiếu qua đời sống thường nhật.
Qua đó, người đọc không chỉ được chiêm nghiệm những giá
trị thẩm mỹ mà còn hiểu hơn về vai trò của nghệ thuật trong
việc định hình xã hội và bản ngã cá nhân.
Hy vọng rằng tác phẩm này sẽ trở thành nguồn cảm
hứng, dẫn dắt độc giả bước vào một thế giới nơi lý trí và hiện
thực hòa quyện, tạo nên những sắc thái nghệ thuật đầy tinh
tế và ý nghĩa.
Lời mở đầu .......................
Mục lục..............................
Nghệ thuật thời Lý..........
Kiến trúc ..........................
Kiến trúc cung đình.........
Kiến trúc tôn giáo và tín
ngưỡng dân gian...........
Điêu khắc .........................
Nhận xét nghệ thuật thời Lý...............................
Nghệ thuật thời Trần ......
Kiến trúc...........................
Kiến trúc cung đình.........
Kiến trúc tôn giáo và tín
ngưỡng dân gian............ Điêu khắc .........................
Nhận xét nghệ thuật thời Trần ..........................
Lời kết............................... trang1 trang2 trang3 trang4 trang4 trang5 trang6 trang7 trang8 trang9 trang9 trang10,11 trang12 trang13 trang14,15


Hình1 HÌNHTHÁIBỘMÁIKIẾNTRÚCCUNGĐIỆNTHỜILÝ(Hìnhảnh đượcphụcdựngcủaViệnNghiêncứuKinhthành)
Kiến trúc cung đình
Năm 1010, Lý Thái Tổ dời đô tử Hoa Lư (nay thuộc Ninh Bình) ra Đại La và đổi tên là Thăng Long (Hà Nội). Từ đây, Kinh thành Thăng Long phát triển nhanh chóng trên quy mô lớn. Hoàng thành Thăng Long được xây dựng gồm nhiều cung điện, tiêu biểu nhất là điện Cân Nguyên.
" ... Phía trước dựng điện Cản Nguyên làm chỗ coi chẩu, bên tả làm điện Tập Hiển, bên hữu dụng điện Giảng Võ. Lại mở cửa Phi Long thông với cung Nghinh Xuân, cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn, hướng chinh nam dụng điện Cao Minh, thềm gọi là thềm rồng, trong thềm rồng có hành lang dẫn ra xung quanh bồn phia. [...] Dựng kho tàng, đắp thành, đào hao. Bồn mặt thành mỡ bốn cửa: phía đông gọi là của Tường Phù, phía tây gọi là cửa Quảng Phúc, phía nam gọi là cửa Đại Hưng, phía bắc gọi là cửa Diệu Đức. Lại ở trong thành làm Hưng Thiên Ngự Tự và Ngũ Phượng Tình Lâu". (Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Hậu Lê, Đại Việt sử ký toàn thư,Tập 2, NXB Khoa học xã hội, tr.241)

Hình1.KiếntrúcđiệnCànNguyênthờiLý (HìnhảnhphụcdựngcủaViệnNghiêncứu KinhThành)

Hình2.DấutíchkiếntrúcthờiLý tạiHoàngthànhThăngLong
+ Dưới thời Lý, hệ thống chùa, tháp được xây dựng ở nhiều nơi, trong đó có nhiều công trình quy mô lớn. Bên cạnh đó là hệ thống đền, miếu thờ phụng thần linh, anh hùng,người có công với làng, với nước,...
Bảng.Mộtsốcôngtrìnhkiếntrúcchùa,tháp,đến,miềutiêubiểuthờiLý

+ Các công trình chùa, tháp, đền, miếu thời Lý được xây dựng hài hoà với cảnh quan xung quanh, tạo ra sự hoà hợp lâu dài



Dưới thời Lý, nghệ thuật điêu khắc phát triển
khá phong phú, đa đạng, tiêu biểu là hình
tượng rồng bằng đá, tượng bằng đồng, gỗ, đá, đất nung....
Hình tượng rồng thời Lý chịu ảnh hưởng của Phật giáo với đặc điểm nổi bật là thân hình
tròn, da trơn, nhỏ dần về phần đuôi. Thân
rồng thường có từ 11 đến 13 khúc, uốn lượn mềm mại, thanh thoát, nhẹ nhàng và có tư thế như đang bay.
Nghệ thuật đúc đồng thời Lý rất phát triển. Trong bốn tác phẩm nghệ thuật bằng đồng nổi tiếng được xem là “An Nam tứ đại khí" có ba tác phẩm được tạo ra vào thời Lý là đỉnh tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, tượng Phật
Di Lặc chùa Quỳnh Lâm (thời Trần có vạc Phổ Minh).


Hình8.HìnhtượngrồngthờiLýtrênđá
Tháp Báo Thiên còn gọi là Đại Thắng Tư Thiên Bảo Tháp, được xây trên một gò cạnh hồ Lục Thuỷ (hồ Hoàn Kiếm) vào năm 1057 thời vua Lý Thánh
Tông, trong khuôn viên chùa Báo Thiên. Tháp cao 12 tầng, đỉnh tháp làm bằng đồng. Chuông Quy
Điền (tại chùa Một Cột) đúc năm 1080 thời vua Lý
Nhân Tông. Tượng Phật Di Lặc chùa Quỳnh Lâm (Đông Triều, Quảng Ninh) do nhà sư Nguyễn Minh
Không đúc, cao khoảng 20 m.
Thành tựu kiến trúc và điêu khắc thời Lý là sự kết
hợp giữa các yếu tố: điều kiện tự nhiên, xã hội với
tôn giáo đương thời, là sự kế thừa nghệ thuật truyền thống của người Việt và sự tiếp thu những
yếu tố văn hoá bên ngoài (Ấn Độ, Trung Hoa,...).
Mang tính nhẹ nhàng, thanh thoát, chú trọng đến sự hài hòa với thiên nhiên.
Các công trình tôn giáo nổi bật với quy mô lớn như chùa Một Cột, tháp Bảo Thiên, kết hợp tinh tế giữa gỗ, đá, gạch, và đất nung.
Hoa văn trang trí tinh xảo, biểu tượng Phật giáo được thể hiện rõ nét


Mang tính biểu tượng và trang trí, nhẹ nhàng, mềm mại.
Hình tượng rồng thanh thoát, thân uốn lượn nhẹ nhàng, thể hiện sự uyển chuyển và tinh tế.
Nghệ thuật đúc đồng đạt đỉnh cao với chuông Quy Điền, tượng Phật Di Lặc.

Nghệthuật
thờiTrần

Hình12.HànhcungThiênTrường
Dưới thời Trần, ngoài hệ thống cung
điện tại Kinh thành Thăng Long còn có các cung điện ở Tức Mặc (Nam Định).
Năm 1237, vua Trần Thái Tông cho đời
điện Linh Quang về bến Đông Bộ Đầu
và đổi tên thành điện Phong Thuỷ, xây
dựng thành cụm kiến trúc tráng lệ. Bên
cạnh đó, nhà Trần còn cho xây thêm
hành cung làm nơi ở và làm việc của
nhà vua khi ra ngoài kinh thành (thuộc
Gia Lâm, Hà Nội ngày nay).

Năm 1253, vua Trần Thái Tông cho xây
dựng Giảng Võ đường làm nơi rèn
luyện võ nghệ cho các vương hầu, tôn thất.
Năm 1262, Thượng hoàng Trần Thái Tông đổi hương Tức Mặc thành phù
Thiên Trường, xây dựng cung Trùng Quang để làm nơi ở của các Thái thượng hoàng, sau khi nhường ngôi cho con, xây cung Trùng Hoa làm nơi để vua Trần ngự thiện khi về chầu. Bên cạnh đó, nhà Trần còn lập các cung Đệ
Nhất. Đệ Nhị. Đệ Tam, Đệ Tử, xung quanh các phủ đệ dành cho các vương phi, quan lại.
Hành cung Thiên Trường với hệ thống kiến trúc nguy nga, tráng lệ có giá trị
đặc biệt trong số các trung tâm chính trị, văn hoá Đại Việt thời Trần.
i ế n t r ú c t ô n g i á o v à t í n n g ư ỡ n g d â n g i N

Dưới thời Trần, nhiều đền, chùa, lăng mộ.... tiếp tục được xây dựng. Tiêu biểu là đến An Sinh và lăng mộ các vua Trần (Đông Triều, Quảng Ninh). Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử (Uông Bí, Quảng Ninh), chùa Bối Khê (Thanh Oai, Hà Nội),.... Hình14.ThiềnviệnTrúcLâm
Chùa Bối Khê được xây dựng vào khoảng năm 1338 dưới thời vua
Trần Hiến Tông. Chùa thờ Phật ở phía trước. Phía sau thờ Đức
Thánh Bối - tức tướng quân Nguyễn Bình An, là người địa phương
đã có công đánh bại quân xâm lược phương Bắc. Đây là ngôi chùa
đến nay còn lưu lại những dấu vết kiến trúc gỗ nguyên bản thời
Trần đồng thời mang nhiều giá trị nổi bật thể hiện quá trình phát
triển của Phật giáo ở đồng bằng Bắc Bộ.

Hình15.ChùaBốiKhê
Đến nay, chùa Bối Khê vẫn còn lưu giữ được những có vật quý giá như tượng Phật Bà nghìn mắt nghìn tay, 11 bia đã có từ thời Hậu Trần, 2 quả chuông được đúc bằng đồng và 22 đạo sắc từ thời Lý đến thời Nguyễn, một quần thể tượng Cửu Long với 9 pho tượng được đặt trên 9 bệ rồng
Điêu khắc thời Trần khá phát triển, biểu hiện qua hình tượng rồng và những tác phẩm chạm khắc
trên đá, đồng, gỗ như tượng hồ đá tại lăng Trần Thủ Độ (Thái Bình), vạc Phổ Minh, bộ cánh cửa chùa Phổ Minh (Nam Định)....
Hình tượng rồng thời Trần có thân hình mập mạp, uốn khúc mạnh mẽ hơn rồng thời Lý. Hình tượng rồng chủ yếu được chạm nổi trên bia, bệ đá...
Nhiều cặp tượng rồng đặt trước bậc cửa ở một số
chúa và cung điện Những cặp tượng rồng này là tác phẩm tạo hình tiêu biểu thời Trần.

Hình17.TượnghổđáởlăngTrầnThủĐộ

Hình 16.HìnhtượngrồngthờiTrần Tượng hồ đá ở lăng Trần Thủ Độ (Thái Bình) có kích thước gần như thật (dài 1,43 m), thân hình thon, bắp về căng tròn với dâng nằm xoài chân, chân thu về phía trước, đầu ngẩng cao. Tượng hổ tạo khối đơn giản, được sắp xếp một cách chặt chẽ, vững chãi. Đây là một tác phẩm nổi bật của nghệ thuật điêu khắc cô Việt Nam
Vạc Phổ Minh được đúc bằng đồng
vào năm Nhâm Tuất (1262) đời vua
Trần Thánh Tông. Vạc năng 6 150 kg, miệng vạc dày và rộng. Thân vạc khắc
hình rồng uốn lượn, trên là chim lạc tung bay, dưới là phong cảnh núi sông.

Tháng 10 năm Bính Ngọ (1426), Vương
Thông khi sang xâm lược Đại Việt đã cho
phá vạc Phổ Minh và chuồng Quy Điên để lấy đồng đúc vũ khí. Hiện nay, tại chùa Phổ
Minh chỉ còn lại bệ đá kẻ vạc khi xưa

Hình20.Tượngngựatronglăngvua
TrầnHiếnTông
Nghệ thuật điêu khắc thời Trần
là sự nổi tiếp của nghệ thuật
điêu khắc từ thời Lý nhưng
cách tạo hình hiện thực khoáng đạt, khoẻ khoắn hơn
và thể hiện khá rõ tỉnh thần
thượng võ cùng dấu ấn vương quyền

Hình19.ChuôngQuyĐiên
Dấu ấn nghệ thuật điêu khắc thời Trần còn
thể hiện qua tượng trâu, ngựa ở lăng vua
Trần Hiển Tông, một số hương án đá ở chùa
Đậu, chùa Thầy, chùa Ngọc Đình, chùa Bối
Khê (Hà Nội), chùa Dâu (Ninh Bình), chùa
Thanh Lũng (Phú Thọ)..... Bên cạnh đó còn có
một số phù điêu khắc hình nhạc công biểu
diễn mang phong cách Chăm-pa

iến trúc mạnh mẽ, khoáng đạt hơn, phản nh tinh thần thượng võ và quyền lực triều ình.
ông trình tập trung vào cung đình như ành cung Thiên Trường, lăng mộ vua rần.
ôn giáo và tín ngưỡng mang dấu ấn thực
ế, như chùa Phổ Minh với lối kiến trúc gỗ hắc chắn và giàu giá trị lịch sử.

Hình22.KimSơnBảoThắngTự

Hình23.HìnhtượngrồngthờiTrần
Thể hiện tinh thần hiện thực và sức mạnh, khỏe khoắn hơn.
Hình tượng rồng mập mạp, uốn khúc mạnh mẽ, tập trung vào biểu hiện quyền lực và vương quyền.
Điêu khắc thực tế như tượng hổ đá, vạc Phổ Minh, mang dấu ấn thượng võ và tôn giáo
Khoáng đạt, hiện thực, mang đậm dấu ấn vương quyền và tinh thần thượng võ.
Nghệ thuật thời Lý và Trần không chỉ là một phần trong lịch sử, mà còn
là bức tranh hoàn mỹ tái hiện tinh thần, bản lĩnh và khát vọng của một
dân tộc đang bước vào thời kỳ tự cường. Từ những công trình kiến trúc cung đình lộng lẫy như kinh thành Thăng Long, hành cung Thiên
Trường, cho đến những ngôi chùa, tháp, đền đài đậm chất tín ngưỡng, tất
cả đều là minh chứng cho sự kết tinh của trí tuệ, sự khéo léo và lòng mộ
đạo của người Việt.
Nếu nghệ thuật thời Lý mang vẻ đẹp thanh tao, nhẹ nhàng, gắn bó mật thiết với Phật giáo và thiên nhiên, thì thời Trần lại nổi bật với nét mạnh
mẽ, phóng khoáng, phản ánh tinh thần thượng võ của triều đại từng lập
nên những chiến công hiển hách. Mỗi bức tượng rồng, mỗi hoa văn chạm
khắc, mỗi ngọn tháp chùa đều ẩn chứa câu chuyện về đời sống, tâm linh và ý chí kiên cường của con người Đại Việt.
Hai triều đại, tuy mang phong cách nghệ thuật khác nhau, nhưng đều chung một mục tiêu: tạo dựng nền văn hóa vừa mang đậm dấu ấn dân tộc, vừa giao thoa và học hỏi từ các nền văn minh lớn như Ấn Độ và Trung Hoa. Chính sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền thống và sáng tạo này đã làm nên một nền nghệ thuật độc đáo, trường tồn với thời gian.
Ngày nay, những dấu tích còn sót lại, dù chỉ là một bức tượng, một viên gạch, hay những dòng chữ khắc trên bia đá, đều là kho báu vô giá, giúp chúng ta hiểu hơn về một thời kỳ rực rỡ. Nhưng hơn thế, những di sản này còn nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của cha ông.
Nghệ thuật thời Lý – Trần không chỉ là biểu tượng của một thời kỳ hưng thịnh mà còn là ngọn đuốc soi đường cho thế hệ hôm nay và mai sau.
Trong dòng chảy bất tận của lịch sử, những giá trị ấy mãi mãi là niềm tự
hào của dân tộc, là sức mạnh để chúng ta tiếp tục vươn lên, khẳng định bản sắc và vị thế của mình trên trường quốc tế. Bởi lẽ, một dân tộc không
thể vững mạnh nếu đánh mất cội nguồn, và cũng không thể phát triển nếu
không biết gìn giữ những giá trị quý báu mà cha ông để lại.
Chịutráchnhiệmxuấtbản: TổngGiámđốcNGUYỄNHUỲNHMINHHUY
Chịutráchnhiệmnộidung: TổngbiêntậpNGUYỄNHUỲNHMINHHUY
Biêntậplầnđầu: NGUYỄNHUỲNHMINHHUY–NGUYỄNHUỲNHMINHHUY
Biêntậptáibản: NGUYỄNHUỲNHMINHHUY
Biêntậpmỹthuật: NGUYỄNHUỲNHMINHHUY
Trìnhbàybìa: NGUYỄNHUỲNHMINHHUY
Sửabảnin: NGUYỄNHUỲNHMINHHUY
Chếbản: TRƯỜNGTHPTVÕVĂNKIỆT
TạpchíLịchsử11 Mãsố:73LSYD003m1Z9
In12.000bản(QĐinsố12GK)khổ20x29,4cm.
Đơnvịin:CôngtycổphầninScitech
Địachỉ:TrườngTHPTVõVănKiệt
SốĐKXB:07-2024/CXBIPH/901-4567/GD
QĐXB:246TGC/GD-HCMngày15tháng5năm2024 Inxongvànộplưuchiểutháng6năm2024
MãsốISBN:978-604-0-89123-7 ---



