Sưu tầm bởi GV. Nguyễn Thanh Tú # Google.com/+DạyKèmQuyNhơn
thành một trung tâm bất đối và như vậy axit lactic có khả năng tạo ra một cặp đồng phân đối quang (xem hình 1a, 1b) COOH
COOH CH3 H
HO
hay
H3C H
COOH
COOH HO
H
H
OH
OH CH3
CH3
H×nh 1a
H×nh 1b
hơ
n
Trong trường hợp phân tử có n nguyên tử cacbon bất đối thì chúng có thể có 2n đồng phân quang học, trong đó có 2n/2 cặp đối quang. Các đồng phân quang học không phải là đối quang của nhau được gọi là đồng phân quang học không đối quang hay đồng phân dia (diastereomer).
m
Q uy
N
Ví dụ phân tử 2-clo-3-iotbutan (CH3-C*HCl-C*HI-CH3) có hai nguyên tử cacbon bất đối nên có bốn đồng phân quang học, trong đó (I) và (II), (III) và (IV) là các đồng phân enan, còn (I) và (III), (I) và (IV), (II) và (III), (II) và (IV) lại là các đồng phân dia (xem hình 2) CH3
I
H
I
H
Cl
H
CH3
CH3 (I)
co
(II)
Kè
H
Cl
ạy
Cl
m /+
H
CH3
D
CH3
H×nh 2
CH3 (III)
CH3
H
H
Cl
I
I
H CH3 (IV)
G
oo
gl
e.
Các đồng phân đối quang không khác nhau về cấu tạo hoá học (trật tự liên kết giữa các nguyên tử trong phân tử), nên hầu như không khác nhau về tính chất vật lý hay hoá học. Chúng chỉ khác nhau về một số tác dụng sinh lý và quan trọng hơn cả là chúng khác nhau về tính quang hoạt. Khi cho ánh sáng phân cực (các bức xạ điện từ chỉ dao động trong một mặt phẳng) qua các hợp chất thông thường thì mặt phẳng dao động không thay đổi, nhưng khi đi qua các đồng phân quang học thì quan sát thấy mặt phẳng dao động bị quay đi một góc αqs (vì nguyên nhân này các chất đồng phân quang học còn được gọi là chất hoạt động quang học hay chất quang hoạt). Góc quay cực của mỗi đồng phân quang học phụ thuộc vào nhiệt độ (toC) và độ dài sóng của bức xạ (λ), chiều dài ống mẫu và nồng độ của dung dịch khảo sát. Giá trị góc quay cực của một chất ứng với một độ dài sóng xác định và nhiệt độ không đổi ứng với chiều dài ống đo