Khóa luận tốt nghiệp
Chuyên ngành: Hóa học Phân tích
MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề Ô nhiễm môi trường đã và đang là vấn đề toàn cầu được nhiều nước đặc biệt quan tâm, trong đó có Việt Nam. Năm 2008 là năm báo động về tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng ở nước ta khi một loạt các vụ vi phạm gây ô nhiễm môi trường được phát hiện. Do đó công tác xử lý các chất thải, bảo vệ môi trường càng trở nên cấp bách. Nước thải của các cơ sở sản xuất hóa chất quốc phòng thường chứa một số hợp chất nitro độc hại như: nitrotoluen (NT), 2,4,6-trinitrotoluen (TNT), nitroglyxerin (NG), 2,4-dinitrotoluen (DNT), nitrophenol (NP), 2,4-dinitrophenol (DNP), 2,4,6trinitrorezocxin (TNR) và chứa một lượng lớn các muối nitrat. Đây là các hóa chất dễ gây nổ, đồng thời có độc tính cao với môi trường và con người. Do đó, xử lý nước thải chứa các hợp chất nitro có trong thành phần thuốc phóng, thuốc nổ, thuốc pháo là yêu cầu thực tiễn cấp bách đối với ngành công nghiệp quốc phòng. Hiện nay có rất nhiều phương pháp được ứng dụng để xử lý các hợp chất hữu cơ độc hại, và một trong các phương pháp đang được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu là sử dụng kim loại để khử các hợp chất hữu cơ. Ưu điểm của phương pháp này là khả năng phân hủy cao, dễ áp dụng, công nghệ đơn giản và giá thành thấp. Tuy nhiên, phương pháp trên thường xử lý không triệt để, chỉ tạo ra những sản phẩm ít độc hơn với môi trường chứ không chuyển hóa hoàn toàn chúng thành các hợp chất không độc hại. Những nghiên cứu gần đây cho thấy phản ứng phân hủy các hợp chất hữu cơ bền vững bằng kim loại sắt kết hợp với muối pesunfat (S2O82-) có hiệu quả xử lý rất cao. Lúc này, trong hệ phản ứng không chỉ có quá trình khử các hợp chất nitro mà còn xảy ra quá trình oxi hóa nâng cao nhờ quá trình sinh ragốc sunfat tự do SO4*. Từ những cơ sở đã nêu trên chúng tôi đã lựa chọn
Hoàng Thị Thu Hường
Trang 1