Artbook - Đạo Lương

Page 1


2

DANH

T Í N N G Ư Ỡ N G P H Ồ N T H Ự C


3

DANH

T Í N N G Ư Ỡ N G P H Ồ N T H Ự C


4

DANH

T Í N N G Ư Ỡ N G P H Ồ N T H Ự C


5

DANH

T Í N N G Ư Ỡ N G P H Ồ N T H Ự C


DANH

T Í N N G Ư Ỡ N G P H Ồ N T H Ự C


DANH

T Í N N G Ư Ỡ N G P H Ồ N T H Ự C


0 8

DANH

T Í N N G Ư Ỡ N G P H Ồ N T DHỰ AC

N H

[ LÁ SỐ 01 ]


DANH

T Í N N G Ư Ỡ N G P H Ồ N T H Ự C


1 0

KHAI VĂN HÓA TÂM LINH MÊ TÍN DỊ ĐOAN ? Từ thuở xa xưa, mọi nơi trên cả thế giới nói chung và các dân tộc sinh sống tại Việt Nam nói riêng đã có nhận thức rất sớm về việc thờ cúng thần linh. Người xưa cho rằng bất cứ vật gì cũng đều có linh hồn của nó nên người ta thờ rất nhiều thần, nguyên thủy họ thờ thần Mặt Trời, thần Mặt Trăng, thần Đất, thần Sông, thần Biển, thần Sấm, thần Mưa,...những vị thần gắn với những ước mơ thiết thực của cuộc sống người dân nông nghiệp. Đi sâu vào cuộc sống hằng ngày họ thờ thần Nông là thần trông coi việc đồng áng, thần Lúa, thần Ngô với hy vọng lúc nào ngô lúa cũng đầy đủ. Không chỉ các vị thần gắn với đời sống vật chất, các dân tộc còn thờ các vị thần gắn với đời sống tinh thần của họ. Người Việt thờ các thần Thành Hoàng, các vị anh hùng dân tộc, các vị thần trong đạo mẫu. Họ là các vị thần có công lớn với đất nước, với làng xã, dân chúng thờ phụng các vị thần này để tỏ lòng biết ơn và cầu mong các vị phù hộ họ. Cũng như người Việt, người Hoa thờ các vị thần Quan Công,Thần tài,…Việc thờ cúng, tín ngưỡng đã tồn tại và không ngừng phát triển lâu dài đến tận ngày hôm nay và được gọi chung là văn hóa tâm linh. Ngày nay, chúng ta còn có thể hiểu cụm từ văn hoá tâm linh là một thuật ngữ được dùng để chỉ một loại hình văn hoá tinh thần đặc thù của người Việt Nam lấy đối tượng là sự bày tỏ tình cảm linh thiêng, niềm tin linh thiêng, sự tri ân của những người đang sống đối với những người thân đã mất, đối với những vị anh hùng dân tộc, những liệt sĩ được tôn làm Thánh, làm Thần,… diễn ra trong một không gian thiêng và thời gian thiêng nhất định.

T Í N N G Ư Ỡ N G P H Ồ N T H Ự C

(KHAI-MÀN)


1 1

KHAI Văn hóa tâm linh còn được thể hiện rõ qua câu nói của ông bà ta từ thuở xưa gửi gấm đến con cháu thế hệ sau:

“ Cây có gốc mới nở cành xanh lá, Nước có nguồn mới bể cả sông sâu. Người ta nguồn gốc từ đâu, Có tổ tiên trước rồi sau có mình.”

Chúng ta có thể thấy được trong các hoạt động văn hoá truyền thống dân tộc, người Việt Nam đều có tổ chức các hoạt động văn hoá tâm linh, hoặc do nhà nước Trung ương tổ chức, hoặc do làng, xã tổ chức theo những lễ nghi trang trọng, uy linh, với sự tham gia một cách thành kính, tự nguyện của nhân dân. Đó là Lễ hội giỗ Tổ Hùng Vương, Lễ tế Trời, Đất, tế Thần, Thánh, tế Tổ tiên nhằm mục đích cầu cho quốc thái, dân an, cho con cháu hạnh phúc. Trong phạm vi một dòng tộc, một gia đình cũng có các sinh hoạt văn hoá tâm linh. Đó là việc thờ cúng tổ tiên, sửa sang đền miếu, xây đắp mồ mả vào các dịp tết Nguyên Đán, các ngày giỗ tổ, giỗ ông bà cha mẹ. Thông qua những hoạt động văn hoá tâm linh đó, con người ta tự tu tâm, tích đức để trở nên tốt đẹp hơn, đoàn kết hơn, hướng thiện hơn, bớt đi cái ác, cái xấu trong lòng. Ý nghĩa tích cực của các hoạt động văn hoá tâm linh được người Việt khai thác rất có hiệu quả vào việc giáo dục các thế hệ con cháu, cố kết cộng đồng, giữ gìn bản sắc, truyền thống. Thờ cúng tổ tiên là một nét đẹp trong văn hoá tâm linh của người Việt Nam. Họ tin rằng linh hồn của tổ tiên cũng ở bên cạnh con cháu và phù hộ cho họ. Chính vì như vậy nên gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên và bàn thờ được đặt nơi trang trọng nhất trong nhà. Ngoài các ngày giỗ, tết thì các ngày mùng một, ngày rằm họ thắp hương như một hình thức thông báo và báo hiếu đối với tổ tiên ông bà. Ở phạm vi cộng đồng là tục thờ cúng thành hoàng, các vị thần, các vị tổ sư, các vị anh hùng đã có công với nước, các danh nhân văn hóa… Do ảnh hưởng các tôn giáo, người Việt tổ chức xây đền chùa, miếu mạo, nhà thờ, giáo đường…và thực hành các nghi lễ cầu cúng. Nhiều công trình, hiện vật liên quan đến văn hóa tâm linh đã trở thành những di sản văn hóa, lịch sử quý giá, nhiều công trình văn hóa tâm linh được xây dựng ở những địa điểm có phong cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, kì thú trở thành những điểm du lịch hấp dẫn… Nhiều lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa vùng miền, dân tộc.

T Í N N G Ư Ỡ N G P H Ồ N T H Ự C


1 2

DANH

T Í N N G Ư Ỡ N G P H Ồ N T H KỰ HC

A I

[ LÁ SỐ 02 ]


DANH

T Í N N G Ư Ỡ N G P H Ồ N T H Ự C


1 4

T Í N N G Ư Ỡ TN NG PH DỒ ÂN NT H GỰ CI

A N

DANH

Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa, thiên nhiên tương đối phong phú, đa dạng. Thời xa xưa, người Việt sống chủ yếu dựa vào việc khai thác tự nhiên. Vì vậy, việc thờ cúng các vị thần tự nhiên (nhiên thần) đã sớm gần gũi với họ. Hơn nữa, Việt Nam lại là ngã ba đường nơi giao lưu của nhiều tộc người, của nhiều luồng văn minh. Hai yếu tố đó làm cho Việt Nam trở thành một quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng. Tính đa thần ấy không chỉ biểu hiện ở số lượng lớn các vị thần mà điều đáng nói là, các vị thần ấy cùng đồng hành trong tâm thức mỗi người Việt. Điều đó dẫn đến một đặc điểm của đời sống tín ngưỡng – tôn giáo của người Việt đó là tính hỗn dung tôn giáo. Trước sự du nhập của các tôn giáo ngoại lai, người Việt không tiếp nhận một cách thụ động mà luôn có sự cải biến cho gần gũi với tư tưởng, tôn giáo bản địa. Vì vậy, ở nước ta, trong khi các tôn giáo vẫn phát triển thì các tín ngưỡng dân gian vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân. Và cũng như chính vì tính hỗn dung tôn giáo ấy mà người Việt thể hiện sự bàng bạc trong niềm tin tôn giáo. Đa số người Việt đều có nhu cầu tôn giáo, tuy nhiên, phần đông trong số đó không là tín đồ thành kính của riêng tôn giáo nào. Một người vừa có thể đến chùa, vừa có thể đến phủ miễn là việc làm ấy mang lại sự thanh thản về tinh thần cho họ, có thể thoả mãn điều họ cầu xin. Vì thế, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, một đặc điểm trong đời sống tín ngưỡng - tôn giáo của người Việt là tính dụng. Tôn giáo là để phục vụ nhu cầu cần thiết, trực tiếp của họ trong cuộc sống.


DANH

1 5

Nguồn gốc của khái niệm hay tên gọi này xuất phát từ việc vào thế kỷ 19, khi các tôn giáo, các đạo có nguồn gốc phương Tây, điển hình là Thiên Chúa Giáo và Công Giáo, bắt đầu được truyền bá vào Việt Nam. Do lo sợ người Tây phương sẽ lợi dụng tôn giáo như một hình thức để mua chuộc người dân trong nước, nên vua và các quần thần nước ta đã ra sắc lệnh cấm người dân trở thành con chiên của các đạo này. Họ dán nhãn cho Thiên Chúa Giáo là tà đạo. Trong khi đó, những đạo, những tôn giáo vốn phổ biến ở Việt Nam và các nước phương Đông, như Nho Giáo, Đạo Giáo, Phật Giáo, thờ tổ tiên ông bà, hoặc thờ các vị tướng lĩnh có công giải phóng dân tộc...được cho là chánh đạo. Và những người theo các chánh đạo này được gọi là ‘lương dân’ (tức người dân lương thiện). Tuy nhiên, đây chỉ là cách giải thích của những người không theo Thiên Chúa Giáo hoặc Công Giáo. Những người theo Công Giáo lại thường giải thích rằng chỉ có Công Giáo mới xứng đáng được gọi là một ‘đạo’. Các tôn giáo hay hệ tư tưởng còn lại thì không thể được gọi là đạo. Thế nên người Công Giáo cũng gọi những người không thuộc Công Giáo là lương dân, nghĩa là những người ‘ngoại đạo’. Câu nói dân gian truyền miệng ‘bên lương bên giáo’ cũng bắt nguồn từ câu chuyện này.

Câu chuyện này khá là dài và nó đã xảy ra ở việt nam từ thời vua MINH MẠNG, câu chuyện thế này, ngày đó Tây Dương lợi dụng đạo thiên chúa, để cướp nước Việt Nam ta vua Minh Mạng và các quần thần nhìn thấy rõ nguy cơ đó, cho nên ra một đạo dụ, gọi là đạo dụ sát gia tô (giết gia tô) gọi ai theo đạo gia tô là những người theo tà giáo hoặc là đạo tặc, ai không theo đạo thiên chúa thì gọi là lương dân (tức là dân lương thiện) sau này không gọi họ là đạo tặc, hay tà giáo nữa, nhưng lương dân vẫn tồn tại cho đến ngày nay, còn thực tế họ có tà giáo, hay đạo tặc hay không thì thực tế hoạt động của họ, là câu trả lời rõ nhất

[tứ phủ cộng đồng] - tranh đông hồ

T Í N N G Ư Ỡ TN NG PH DỒ ÂN NT H GỰ CI

A N


1 6

T Í N N G Ư Ỡ N G P H Ồ N T H Ự TC

H Ờ

THỜ

[ LÁ SỐ 03 ]


DANH

T Í N N G Ư Ỡ N G P H Ồ N T H Ự C


1 8

THỜ Thời xa xưa, để duy trì và phát triển sự sống, ở những vùng sinh sống bằng nghề nông cần phải có mùa màng tươi tốt và con người được sinh sôi nảy nở. Để làm được hai điều trên, những trí tuệ sắc sảo sẽ tìm các quy luật khoa học để lý giải hiện thực và họ đã xây dựng được triết lý âm dương, còn những trí tuệ bình dân thì xây dựng tín ngưỡng phồn thực (phồn nghĩa là nhiều, thực nghĩa là sinh sôi, nảy nở).

giã gạo.

Hình dáng của trống đồng phát triển từ cối

Cách đánh trống theo lối cầm chày dài mà đâm lên mặt trống mô phỏng động tác giã gạo. Tâm trống là hình Mặt Trời biểu trưng cho sinh thực khí nam, xung quanh là hình lá có khe rãnh ở giữa biểu trưng cho sinh thực khí nữ. Xung quanh mặt trống đồng có gắn tượng cóc, một biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực.

Tín ngưỡng phồn thực ở Việt Nam được thể hiện ở hai dạng: thờ cơ quan sinh dục của cả nam lẫn nữ (như linga, yoni) và thờ hành vi giao phối, khác biệt với một số nền văn hóa khác như Ấn Độ chẳng hạn, chỉ thờ sinh thực khí của nam Vai trò của tín ngưỡng phồn thực lớn tới mức ngay cả chiếc trống đồng, một biểu tượng sức mạnh của quyền lực, cũng là biểu tượng toàn diện của tín ngưỡng phồn thực:

T N P H Ồ N T H Ự C

Trong kho tàng Văn hóa dân gian, tín ngưỡng phồn thực mang ý nghĩa thiêng liêng. Phồn nghĩa là nhiều, thực là biểu hiện cho sự sinh sôi, nảy nở của vạn vật. Quan niệm về tín ngưỡng phồn thực vốn có mối gắn kết chặt chẽ với tín ngưỡng nông nghiệp, với ước vọng cầu được mưa thuận gió hòa, cơm no áo ấm từ ngàn đời của cư dân.số nền văn hóa khác như Ấn Độ chẳng hạn, chỉ thờ sinh thực khí của nam mà thôi. ngàn đời của cư dân.số nền văn hóa khác như Ấn Độ chẳng hạn, chỉ thờ sinh thực khí của nam mà thôi.

[01]

[01] Hình ảnh bầu vú người phụ nữ xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm điêu khắc Chăm, thể hiện ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn thực và xã hội mẫu hệ. [02] Hình ảnh người đàn ông thỏa thân và cơ quan sinh dục xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm điêu khắc Tượng nhà mồ ở Bắc Tây Nguyên.


THỜ

Thờ sinh thực khí Thờ sinh thực khí (sinh = đẻ, thực = nảy nở, khí = công cụ) là hình thái đơn giản của tín ngưỡng phồn thực. Nó phổ biến ở hầu hết các nền văn hóa nông nghiệp trên thế giới. Nhưng khác với hầu hết các nền văn hóa khác là chỉ thời sinh thực khí nam, tín ngưỡng phồn thực Việt Nam thờ sinh thực khí của nam lẫn nữ. Việc thờ sinh thực khí được tìm thấy ở trên các cột đá có niên đại hàng ngàn năm trước Công nguyên.

[02]

Thờ việc sinh đẻ Ngoài việc thờ sinh thực khí, tín ngưỡng Việt Nam còn thờ hành vi giao phối, đó là một đặc điểm thể hiện việc chú trọng đến các mối quan hệ của văn hóa nông nghiệp, nó đặc biệt phổ biến ở vùng Đông Nam Á. Các hình nam nữ đang giao phối được khắc trên mặt trống đồng tìm được ở làng Đào Thịnh (Yên Bái), có niên đại 500 trước Công nguyên. Vào dịp hội đền Hùng tại Chu Hóa, Phú Thọ, vùng đất tổ lưu truyền điệu múa “tùng dí”, thanh niên nam nữ cầm trong tay các vật biểu trưng cho sinh thực khí nam và nữ, cứ mối tiếng trống “tùng” thì họ lại “dí” hai vật đó lại với nhau. Phong tục “giã cối đón dâu” cũng là một biểu hiện cho tín ngưỡng phồn thực, chày và cối là biểu tượng cho sinh thực khí nam và nữ. Ngoài ra một số nơi còn vừa giã cối (rỗng) vừa hát giao duyên.

1 9

T N P H Ồ N T H Ự C


2 0

THỜ

DO LÀ MỘT ĐẤT NƯỚC NÔNG NGHIỆP NÊN VIỆC SÙNG BÁI TỰ NHIÊN LÀ ĐIỀU DỄ HIỂU. ĐIỀU ĐẶC BIỆT CỦA TÍN NGƯỠNG VIỆT NAM LÀ MỘT TÍN NGƯỠNG ĐA THẦN VÀ ÂM TÍNH (TRỌNG TÌNH CẢM, TRỌNG NỮ GIỚI). CÁC VỊ THẦN Ở VIỆT NAM CHỦ YẾU LÀ NỮ GIỚI, DO ẢNH HƯỞNG CỦA TÍN NGƯỠNG PHỒN THỰC NHƯ ĐÃ NÓI Ở TRÊN NÊN CÁC VỊ THẦN ĐÓ KHÔNG PHẢI LÀ CÁC CÔ GÁI TRẺ ĐẸP NHƯ TRONG MỘT SỐ TÔN GIÁO, TÍN NGƯỠNG KHÁC MÀ LÀ CÁC BÀ MẸ, CÁC MẪU.

S Ù N G B Á I T Ự N H I Ê N

[B]

[A]

Trong phong tục, tín ngưỡng dân gian việc thờ cúng tự nhiên đã giữ một vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân, và trong các tín ngưỡng dân gian đó phải kể đến Tín ngưỡng thờ động vật. Người Việt Nam là dân tộc đa dạng trong việc thờ các vị thần có nguồn gốc từ động vật, họ thờ những con vật mạnh mẽ như thờ hổ, cá voi, thờ voi, ..., thì người Việt còn thờ các con vật hiền cóc, chó, cá, các con vật đó gần gũi với cuộc sống của người dân của một xã hội nông nghiệp. Tín ngưỡng thờ động vật ở Việt Nam bắt nguồn từ những nguyên nhân sau: - Sự tôn thờ các loài động vật bắt nguồn từ sự tò mò của con người đối với các loài động vật. Họ quan sát đặc điểm của những động vật trong tự nhiên. Những đặc điểm đó đặc biệt khiến họ tôn sùng, ngưỡng mộ. - Những vị thần bị đe dọa bởi những người khổng lồ ẩn nấp dưới vóc dáng của những loài động vật. Người dân bắt đầu thờ con vật mà những vị thần của họ biến hình. - Cuộc sống dựa vào thiên nhiên của người Việt Nam là nguồn gốc của tín ngưỡng này. Con người sống dựa vào thiên nhiên đồng thời nó cũng mang đến cho con người bao tai họa. Bởi vậy, họ tin rằng thờ cúng những thứ thuộc về thiên nhiên sẽ mang lại may mắn, sức mạnh. - Một trong những lí do cho sự ra đời tín ngưỡng thờ động vật ở Việt Nam là yếu tố mê tín dị đoan và lời đồn. Đó là việc thần thánh hóa những con vật rất đỗi bình thường.

Thực vật được tôn sùng nhất là cây lúa, có Thần Lúa, Hồn Lúa, Mẹ Lúa,... đôi khi ta thấy còn thờ Thần Cây Đa, Cây Cau,... Các câu chuyện về ma cây cũng khá phổ biến, nhất là chuyện hồn ma quanh quẩn bên gốc cây chỗ người chết. Ở Việt Nam, trong sử thi Đẻ đất đẻ nước của người Mường đã nhắc đến cây si, họ xem cây si như một loại cây cội nguồn của tộc người họ. Người Dao thì thờ cây đa, cây sấu. Họ có lễ mở cửa rừng với bàn thờ thần cây sau những ngày Tết. Còn đối với người Việt từ xa xưa đã thờ thần cây, điều này được thể hiện khá rõ qua câu chuyện “Mộc tinh” được ghi trong Lĩnh Nam chích quái. Người Việt còn thờ Mẫu Thượng Ngàn và thờ cây đa, cây gạo ở mọi làng quê, đình chùa, miếu mạo. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, đối với người Việt, cây cối là loại sinh thể đặc biệt, có đời sống trực giác tâm linh y như con người, có năng lượng phát ra và tương tác được với năng lượng của con người. Mặt khác, cây cối còn được coi là nơi trú ngụ của các vị thần linh hay ma quỷ.3 Vì thế, trong dân gian có câu: “Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề”; hay “Cây thị có ma, cây đa có thần”; “Ở cho phải phải phân phân / Cây đa cậy thần, thần cậy cây đa”. Như vậy, trước những cây cổ thụ to lớn, con người có phần sợ hãi và cho rằng có ma quỷ trú ngụ nên họ đã thờ phụng, để không bị quấy phá mà được che chở.


THỜ [A] Đây là một tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam hình thành từ thời nguyên

thủy. Nó là tín ngưỡng thể hiện tấm lòng thành kính thiêng liêng của con người với động vật. Đây là những động vật thể hiện cho sức mạnh, sự uy nghiêm cũng như những động vật hiền lành, có ích.

[01] Quan Ngũ Hổ Tranh Ngũ Hổ hàng Trống

Tứ linh: [02] Long [03] Lân [04] Quy

[06] Lốt tam đầu cửu vĩ trong tín ngưỡng đạo Mẫu (rắn)

[05] Phụng

[B] Người ta tin rằng con người và cây cỏ có mối quan hệ qua lại. Trong tín

ngưỡng người Việt, nếu một ai đó trong gia đình chết đi, tất cả cây cối trong vườn nhà - đặc biệt những cây do người quá cố trực tiếp trồng và chăm sóc - đều phải để tang. Cây thiêng là nơi thần (hoặc ma) thường đến: Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề; Cây gạo có ma, cây đa có thần; Cây đa cậy thần, thần cậy cây đa…Cây thiêng thường là nơi con người gửi tới những khẩn cầu, mong muốn, nguyện ước về may mắn, xa rời bất hạnh, rủi ro

[07] Cá Ông (cá voi)

[09] Thần Lúa (cây lúa)

[08] Thần cây đa cổ thụ

[10] Thần rừng - tín ngưỡng các dân tộc miền núi

[10]

[02]

[09] [06]

[01] [03]

[08]

[04]

[07]

[05]

2 1

S Ù N G B Á I T Ự N H I Ê N


2 2

THỜ NGOÀI PHỒN THỰC, TỰ NHIÊN, TÍN NGƯỠNG VIỆT NAM RẤT COI TRỌNG CON NGƯỜI. HỌ CŨNG HAY THỜ CON NGƯỜI, ĐẶC BIỆT LÀ THỜ SỐNG VÀ PHONG THÁNH, CHẲNG HẠN NHƯ NGƯỜI TA PHONG TRẦN HƯNG ĐẠO LÀ ĐỨC THÁNH TRẦN, NGUYỄN MINH KHÔNG LÀ ĐỨC THÁNH NGUYỄN HAY THỜ NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC MẾN TRỌNG NHƯ HỒ CHÍ MINH, VÕ NGUYÊN GIÁP… HẦU HẾT CÁC VỊ THẦN HAY CÁC NHÂN VẬT ĐƯỢC THỜ CON NGƯỜI, BỞI VÌ QUAN NIỆM CHO RẰNG CON NGƯỜI LUÔN ĐƯỢC ĐẶT LÀM TRUNG TÂM CỦA VŨ TRỤ, CON NGƯỜI TẠO RA TẤT CẢ, NÊN CON NGƯỜI LUÔN ĐỨNG ĐẦU MỌI LOÀI THỰC THỂ KHÁC. NHƯNG VỚI QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI VIỆT NAM THÌ Ý NGHĨA CỦA CÁC TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TRÊN TOÀN BỘ ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM TA ĐỀU NHẰM HƯỚNG ĐẾN SỰ TÔN KÍNH, COI TRỌNG VÀ TƯỞNG NHỚ NHỮNG CÔNG LAO, CHIẾN TÍCH CỦA ÔNG CHA TA ĐÃ GÌN GIỮ NGÀN ĐỜI QUA, TRUYỀN THỐNG THỂ HIỆN LÒNG TRUNG THÀNH, NHỚ ƠN SÂU SẮC ĐẾN NHỮNG GÌ NGƯỜI VIỆT TA CÓ ĐƯỢC TỪ THIÊN NHIÊN HAY CẢ CON NGƯỜI ĐỜI TRƯỚC, CÙNG VỚI TRIẾT LÝ “UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN”...

T N T H Ờ C Ú N G T Ổ T I Ê N

0 1 0 8

0 7

ĐẠO ÔNG BÀ

0 2

TỔ HÙNG VƯƠNG

0 4

THỜ MẪU

THỜ THẦN

0 3

0 6

TIỀN HIỀN

0 5

TỔ NGHỀ

TỨ BẤT TỬ

HOÀNG THÀNH


THỜ

2 3

Ba hồn gồm: Tinh (sự tinh anh trong nhận thức) Khí (năng lượng làm cho cơ thể hoạt động) Thần (thần thái của sự sống)

Bảy vía ( nam ): Cai quản hai tai Hai mắt Hai lỗ mũi Miệng

Người Việt xưa cho rằng con người gồm phần thể xác và phần linh hồn. Một số dân tộc Đông Nam Á coi linh hồn gồm “hồn” và “vía”. Vía được hình dung như phần trung gian giữa thể xác và hồn. Người Việt cho rằng người có ba hồn, nam có bảy vía và nữ có chín vía. Hồn, phách (hay vía – theo cách gọi của dân gian) là một khái niệm tương đối phức tạp, và được các nhà nghiên cứu đề cập đến dưới nhiều góc cạnh khác nhau. Hồn, phách (vía) cũng là cụm được nhắc tới nhiều trong các sách viết về phong tục, tín ngưỡng ở Việt Nam nhưng giải thích về vấn đề này lại vô cùng phong phú và phức tạp, cho đến giờ chưa có một khái niệm chung nào cho Hồn, Phách hay Vía. Trong tâm linh của người Việt từ xưa đã cho rằng tất cả mọi vật trong vũ trụ và thế gian này đều có linh hồn, và nó tồn tại với rất nhiều cái tên: Hồn, linh hồn, phách, vía, ma, quỷ, thần, thánh, yêu. Hồn và vía dùng thể xác làm nơi trú ngụ, trường hợp hôn mê ở các mức độ khác nhau được giả thích là vía và hồn rời bỏ thể xác ở các mức độ khác nhau. Nếu phần thần của hồn mà rời khỏi thể xác thì người đó chết. Khi người chết, hồn nhẹ hơn sẽ bay sang kiếp khác còn vía nặng hơn sẽ bay là mặt đất rồi tiêu tan. Thế nên mới có những câu ngạn ngữ như:

“HỒN XIÊU PHÁCH LẠC” (phách tức là vía; ở đây muốn nói trạng thái run sợ, mất chủ động). Khi chết là hồn đi từ cõi dương gian đến cõi âm ty, cõi đó cũng được tưởng tượng có nhiều sông nước như ở cõi dương gian nên cần phải đi bằng thuyền nên nhiều nơi chôn người chết trong những chiếc thuyền.

Chín vía ( nữ ): Cai quản hai tai Hai mắt Hai lỗ mũi Miệng Hai vía này có nhiều cách giải thích. Chúng có thể là núm vú có vai trò quan trọng trong nuôi con

VÍA

T N T H Ờ C Ú N G T Ổ T I Ê N


2 4

T N T H Ờ C Ú N G T Ổ T I Ê N

THỜ

NGƯỜI VIỆT LÀ MỘT TRONG NHỮNG DÂN TỘC CÓ TỤC THỜ CÚNG TỔ TIÊN SÂU ĐẬM VÀ SỚM NHẤT, NÓ GẦN NHƯ TRỞ THÀNH MỘT TÔN GIÁO: ĐẠO ÔNG BÀ.

“THÀ ĐUI MÀ GIỮ ĐẠO NHÀ CÒN HƠN SÁNG MẮT ÔNG CHA KHÔNG THỜ.” — NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU, LỤC VÂN TIÊN Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên (hay còn được gọi là đạo ông bà) là tục lệ thờ cúng tổ tiên đã qua đời của nhiều dân tộc châu Á, đặc biệt phát triển trong văn hóa Việt Nam, văn hóa Trung Hoa, văn hóa Triều Tiên và Văn hóa Đông Nam Á Đối với người Việt, phong tục thờ cúng tổ tiên trở thành một thứ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Nhiều người Việt Nam, ngoài tôn giáo của mình thường thờ cúng cả tổ tiên. Đại đa số các gia đình đều có bàn thờ tổ tiên trong nhà, ít nhất là có treo di ảnh một cách trang trọng, nhưng không phải là một tôn giáo mà là do lòng thành kính của người Việt đối với cha mẹ, ông bà, cụ kỵ. Đây là một tín ngưỡng rất quan trọng và gần như không thể thiếu trong phong tục Việt Nam.

Trong tục thờ cúng tổ tiên, người Việt coi trọng việc cúng giỗ hằng năm vào ngày mất. Họ tin rằng đó là ngày con người đi vào cõi vĩnh hằng. Không chỉ ngày giỗ, việc cúng tổ tiên còn được thực hiện đều đặn vào các ngày mồng một (còn gọi là ngày sóc), ngày rằm (còn gọi là ngày vọng), và các dịp lễ Tết khác trong năm Những khi trong nhà có việc quan trọng như dựng vợ gả chồng, sinh con, làm nhà, đi xa, thi cử... người Việt cũng dâng hương, làm lễ cúng tổ tiên để báo cáo và để cầu tổ tiên phù hộ, hay để tạ ơn khi công việc thành công.

/TỔ TIÊN/


THỜ

TỔ CÔNG TÔNG ĐỨC THIÊN NIÊN ĐỊNH

Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên, ông bà (hay còn gọi ông Vải). Tuỳ theo từng nhà, cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác nhau. Bàn thờ tổ tiên bao giờ cũng đặt tại nơi cao ráo, sạch sẽ và trang trọng nhất trong nhà (gian giữa đối với nhà một tầng, tầng trên cùng đối với nhà lầu). Trên bàn thờ thì bày biện đồ thờ cúng (bộ tam sự), như: bát hương, chân đèn, bài vị hay hình ảnh người quá cố, chỗ thắp nến. Đồ cúng cơ bản không thể thiếu hương, hoa, chén nước lã. Ngoài ra có thể có thêm mâm cỗ mặn. Sau khi tàn hai phần ba tuần hương, thì có thể hạ lễ.

TỬ HIẾU TÔN HIỀN VẠN ĐẠI ĐỊNH

2 5

T N T H Ờ C Ú N G T Ổ T I Ê N


2 6

THỜ

NGÀY GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG HOẶC LỄ HỘI ĐỀN HÙNG HOẶC QUỐC GIỖ LÀ MỘT NGÀY LỄ CỦA VIỆT NAM. ĐÂY LÀ NGÀY HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT TƯỞNG NHỚ CÔNG LAO DỰNG NƯỚC CỦA HÙNG VƯƠNG. NGHI LỄ TRUYỀN THỐNG ĐƯỢC TỔ CHỨC HÀNG NĂM VÀO MÙNG 10 THÁNG 3 ÂM LỊCH TẠI ĐỀN HÙNG, VIỆT TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ

TÍN NGƯỠNG NÀY ĐÃ ĐƯỢC BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆT NAM GHI DANH VÀO DANH MỤC DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ QUỐC GIA VÀ UNESCO CÔNG NHẬN LÀ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ.

NGŨ THẬP TỬ QUY SƠN QUY HẢI, BIỆT TRUNG THẦN NỮ THIỆU ANH PHONG.

Hùng Vương là cách gọi dành cho các vị vua nước Văn Lang của người Lạc Việt. Theo truyền thuyết, Hùng Vương thứ I là con trai của Lạc Long Quân, lên ngôi vào năm 2879 trước công nguyên, đặt quốc hiệu là Văn Lang, chia nước làm 15 bộ. Truyền thuyết về Hùng Vương được ghi chép lại lần đầu tiên vào cuối đời Trần tại Hồng Bàng Thị truyện trong sách Lĩnh Nam Trích quái; sau đó được sử gia Ngô Sĩ Liên đưa vào Đại Việt Sử kí Toàn thư ở cuối thế kỉ XV. Còn theo các ghi chép thực tế cũng như di tích khảo cổ thì xác định Hùng Vương là tên gọi thủ lĩnh các bộ tộc Lạc Việt tại miền Bắc Việt Nam hiện nay, xuất hiện vào khoảng thế kỷ VII trước công nguyên.

T Ổ H Ù N G V Ư Ơ N G

[a]

[a] Bức phù điêu Quốc tổ Lạc Long Quân, niềm tự hào của làng Bình Đà [b] Cảnh diễu hành rước kiệu vua Hùng trong ngày giỗ Tổ linh đình, màu sắc và vui tươi

[CÁC ĐỜI VUA]

[Thượng Tổ]

[Thái Tổ]

Kinh Dương Vương: 2879 - 2794 TCN (số năm trị vì là ước đoán). Huý là Lộc Tục.

Hùng Hiền vương, còn được gọi là Lạc Long Quân: 2793 - 2525 TCN. Huý là Sùng Lãm

[03]

[04]

Hùng Lân vương: 2524 - 2253 TCN

Hùng Việp vương: 2252 - 1913 TCN

[06]

[07]

Hùng Huy vương: 1712 - 1632 TCN

Hùng Chiêu vương: 1631 - 1432 TCN

THẬP BÁT TRUYỀN VI QUÂN VI VƯƠNG, TRÙNG XUẤT TIÊN NGA DUY MẠT TẠO

[05] Hùng Hi vương: 1912 - 1713 TCN (phần bên trái chữ “hi” là bộ “ngưu”


THỜ [09]

[08]

Hùng Định vương: 1331 - 1252 TCN

[10]

[ LỄ VÀ HỘI ]

Hùng Hi vương: 1251 - 1162 TCN (phần bên trái chữ “hi” là bộ “nhật”

Lễ hội diễn ra vào ngày 10 tháng 3 âm lịch, hành hương tưởng niệm các vua Hùng, và kết thúc vào ngày 10 tháng 3 âm lịch với lễ rước kiệu và dâng hương trên đền Thượng.

[11] Hùng Trinh vương: 1161 - 1055 TCN

Hùng Vĩ vương: 1431 - 1332 TCN

Có 2 lễ được cử hành cùng thời điểm ngày chính hội: Lễ rước kiệu vua: Đám rước kiệu, nhiều màu sắc của rất nhiều cờ, hoa, lọng, kiệu, trang phục truyền thống xuất phát từ dưới chân núi rồi lần lượt qua các đền để tới đền Thượng, nơi làm lễ dâng hương. Lễ dâng hương: Người hành hương tới đền Hùng chủ yếu vì nhu cầu của đời sống tâm linh. Mỗi người đều thắp hương khi tới đất Tổ để nhờ làn khói thơm nói hộ những điều tâm niệm của mình với tổ tiên. Theo quan niệm của người Việt, mỗi nắm đất, gốc cây nơi đây đều linh thiêng và những gốc cây, hốc đá cắm đỏ những chân hương.

[12] Hùng Vũ vương: 1054 - 969 TCN

[13]

[14]

Hùng Việt vương: 968 - 854 TCN

Hùng Anh vương: 853 - 755 TCN

[15]

[16]

[17]

Hùng Triêu vương: 754 - 661 TCN

Hùng Tạo vương: 660 - 569 TCN

Hùng Nghị vương: 568 - 409 TCN

2 7

Phần hội có nhiều trò chơi dân gian. Đó là những cuộc thi hát xoan (tức hát ghẹo), một hình thức dân ca đặc biệt của Phú Thọ, những cuộc thi vật, thi kéo co, hay thi bơi trải ở ngã ba sông Bạch Hạc, nơi các vua Hùng luyện tập các đoàn thủy binh luyện chiến.

[18] Hùng Duệ vương: 408 - 258 TCN

[b]

T Ổ H Ù N G V Ư Ơ N G


3 0

THỜ

Người Việt còn thờ bốn vị thánh bất tử, đó là Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử và Liễu Hạnh. Tản Viên biểu hiện cho ước vọng chiến thắng thiên tai, lụt lội; Thánh Gióng biểu hiện cho tinh thần chống giặc ngoại xâm; Chử Đồng Tử biểu hiện cho cuộc sống phồn vinh về vật chất; Liễu Hạnh biểu hiện cho cuộc sống phồn vinh về tinh thần của người dân Việt Nam.


3 1 Tài liệu xưa nhất về thuật ngữ Tứ bất tử là bản Dư địa chí, in trong bộ Ức Trai di tập. Nguyễn Tông Quai ở thế kỷ XVII là người đầu tiên giải thích thuật ngữ Tứ bất tử, khi ông chú giải điều 32 trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi. Lời chú ấy như sau: “Người đời Thanh nói: Tản Viên Đại Vương đi từ biển lên núi, Phù Đổng Thiên Vương cưỡi ngựa bay lên không trung, Đồng tử nhà họ Chử gậy nón lên trời; Ninh Sơn (nay là Sài Sơn) Từ Đạo Hạnh in dấu vào đá để đầu thai. Ấy là An Nam Tứ bất tử vậy”

THỜ


Tản Viên Sơn Thánh, hay Sơn Tinh, là vị thần núi Tản Viên (Ba Vì), núi tổ của các núi ở Việt Nam. Tản Viên tượng trưng cho ước vọng chinh phục tự nhiên, chiến thắng thiên tai.

Trong 4 vị trên thì 3 vị nam thần đầu tiên theo truyền thuyết có từ thời Hùng Vương và đã được thờ ở rất nhiều nơi từ rất lâu. Riêng Mẫu Liễu Hạnh là người phụ nữ duy nhất có thật, mới được đưa vào hệ thống Thần Thánh từ thời Hậu Lê. Do Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện khá muộn so với 3 vị kia nên có ý kiến cho rằng bên cạnh 4 vị thánh kia, Tứ bất tử trong tín ngưỡng dân tộc Việt Nam còn có 2 vị thánh khác là Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không.


Phù Đổng Thiên Vương hay Thánh Gióng, tượng trưng cho tinh thần chống giặc ngoại xâm và sức mạnh tuổi trẻ.


Chử Đồng Tử, còn được gọi là Chử Đạo Tổ; tượng trưng cho lòng hiếu nghĩa, tình yêu, hôn nhân và sự sung túc, giàu có.


Công chúa Liễu Hạnh hay Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Liễu Hạnh; tượng trưng cho cuộc sống tinh thần, đức hạnh, trí tuệ, sự thịnh vượng, thơ văn.


2 8

THỜ

CÁC TỔ SƯ NGÀNH NGHỀ là một hoặc nhiều người có công lớn đối với việc sáng lập và truyền bá một nghề nào đó. Do đó được các thế hệ sau tôn trọng và suy tôn là người sáng lập vì đã có công tạo ra nghề, gọi là tổ nghề. Tổ nghề thường là những người có thật, nhưng lại được người đời sau tôn thờ vì đã có công sáng tạo ra nghề, truyền lại cho các thế hệ sau.

Theo Vụ Quản lý nghề - Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Việt Nam), Cả nước có hơn 2.000 làng nghề, 60% số làng nghề có tổ nghề được nhân dân thờ phụng nhiều đời. Hiện có 427 Hiệp hội ngành nghề Trung ương và hàng nghìn hiệp hội nghề địa phương.

T Ổ N G H Ề

[ NGHỀ SÂN KHẤU ] Bà chúa nghề tằm

Tổ sư nghề thêu

Công chúa Quỳnh Hoa thời vua Lê Thánh Tông được tôn là Bà chúa nghề tằm, hiện nay, tại các tỉnh miền Bắc, có gần 60 làng thờ bà..

Các nghề đều có tổ nghề, có khi nhiều người là tổ cùng một nghề (như nghề sân khấu tôn thờ các vị tổ ở nhiều thời điểm khác nhau là Phạm Thị Trân, Đào Tấn, Cao Văn Lầu... hoặc cùng một nghề nhưng mỗi nơi thờ một vị tổ khác nhau như nghề đá Non Nước ở quận Ngũ Hành Sơn Đà Nẵng thờ vị tổ là Huỳnh Bá Quát trong khi ở làng đá Bửu Long ở Biên Hòa Đồng Nai thì là tổ nghề là Ngũ Đinh còn làng nghề chạm khắc đá Ninh Vân, Hoa Lư, (Ninh Bình) thì lại là Hoàng Sùng) nhưng cũng có khi một người là vị tổ của nhiều nghề khác nhau.

Tổ sư nghề đúc đồng

Thờ phụng Tổ nghề, người ta cầu mong Ngài phù hộ cho công việc được suôn sẻ, buôn may bán đắt hoặc lúc đi xa tránh được mọi sự rủi ro. Sau khi công việc có kết quả, người ta làm lễ tạ ơn. Ngày kỵ nhật tổ nghề tại các phường còn gọi là ngày giỗ phường.

Tổ sư nghề gốm sứ Bát Tràng

Lý Quốc Sư (tức Nguyễn Minh Không): tổ nghề đúc đồng Việt Nam, được thờ ở các làng nghề Yên Xá, Nam Định

Trần Quốc Khái, ông thi đỗ tiến sĩ và được vua Lê Chân Tông cho phép đổi tên họ thành Lê Công Hành.

Tổ sư nghề dệt

Nguyễn Thị La (con ông Nguyễn Diệu, người Ái Châu, Thanh Hóa)

Bà tổ nghề May Nghề nhuộm

Ông tổ nghề nhuộm không rõ tên được thờ ở số 18 phố Thợ Nhuộm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Nguyễn Thị Sen: bà được các làng nghề ở Hà Nội và Hội An tổ chức giỗ tổ hàng năm.

Tổ sư nghề vàng bạc

Ba anh em họ Trần: Trần Hoà, Trần Điện, Trần Điền sống tại làng Định Công vào cuối thế kỷ thứ VI.

Tổ nghề kim hoàn

Cao Đình Độ và con là Cao Đình Hương

Nghề làm giấy

Ông tổ nghề làm giấy không rõ họ tên được thờ tại các làng Hồ Khẩu, Đông Xã, Yên Thái, Nghĩa Đô, Hà Nội

Tổ nghề Làng Lụa

Lã Thị Nga, tổ nghề Làng Lụa Vạn Phúc Công chúa Thiều Hoa, con Vua Hùng Vương thứ 6, là tổ của làng lụa Cổ Đô

Hứa Vĩnh Kiều, người làng Bồ Bát (Ninh Bình)

Tổ nghề dệt lượt và trồng ngô Phùng Khắc Khoan

Tổ nghề đan thuyền Trần Ứng Long

Ông tổ nghề khảm trai

Nguyễn Kim (thời Lê Hiển Tông) người làng Thuận Nghĩa, tỉnh Thanh Hóa

Tổ sư nghề rèn Hoa Thị

Nguyễn Đức Tai, người làng Hoa Thị

Tổ sư nghề quạt

người họ Đào, tên nôm là Đầu Quạt, người làng Đào Xá, huyện An Tri, tỉnh Hải Hưng.

TỔ TRUYỀN THIỆN NGHỆ THIÊN THU THỊNH


2 9

THỜ Tam vị thánh tổ gồm có: Tiên Sư, Tổ Sư, Thánh Sư. trong đó Tiên Sư là ông sáng tạo ra nghề hát, Tổ Sư là ông tiếp nói truyền bá nghề hát, ông Thánh sư là thánh về văn chương. Ngày xưa ông thổ tràng là một vị hoàng tử trong cung, ông rất mê nghệ thật và mê hát ông bỏ ngai vàng đi theo, ông không biết hát nhưng có tài viết tuồng, ông viết tuồng cho đoàng hát diễn khi ông mất đoàn hát thờ ông cho đến ngày hôm nay.

Còn vị tổ sau kinh doanh cũng là hoàng tử trong triều đình, ông này chuyên môn kinh doanh nhưng mà ông rất là thương nghệ sĩ, ông hay bỏ tiền ra cho gánh hát cái này, cái nọ nên gánh hát tôn thờ ông. Còn ông thứ 3 rất lạ lùng, ông là hoàng tử nhưng không thích làm vua lại thích ra làm ăn cướp, làm cướp nhưng ông rất là bênh vực nghệ sĩ, miễn ai đụng đến đoàn hát coi như là đụng đến ông, ông diệt trừ người đó liền.

[ CÁC NGHỀ THỦ CÔNG ]

[ CÁC NGHỀ KHÁC ]

Bà tổ nghề hát chèo

Tổ nghề nhà báo

Phạm Thị Trân là bà tổ nghề hát chèo Việt Nam và cũng là bà tổ đầu tiên của ngành sân khấu Việt Nam.

Petrus Trương Vĩnh Ký

Nghệ thuật sân khấu tuồng Liêu Thủ Tâm, Đào Tấn

Ông tổ cải lương

Ông tổ ngành thuốc nam

Tống Hữu Định (1896-1932) . Năm Tú (Châu Văn Tú) ở Mỹ Tho, cũng là người được cho là có công nhất trong việc gây dựng lối hát Cải lương buổi ban đầu.

Tổ nghề ca trù

Đinh Dự Ca trù sau này còn có một số vị tổ nghề địa phương như: Phan Tôn Chu tổ nghề ca trù Cổ Đạm Hà Tĩnh; Đào Thị Huệ tổ nghề ca trù Đào Đặng, Hưng Yên.

Thiền sư Tuệ TĨnh là ông tổ ngành thuốc Nam, nổi tiếng với câu nói “Nam dược trị Nam nhân”. Bên cạnh đó, Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác cũng được tôn thờ vì có công đóng góp rất lớn cho nền y học nước nhà. Cả hai ông đều là Ông tổ ngành Y-Dược cổ truyền Việt Nam.

Tổ nghề kịch nói Vũ Đình Long

Tổ nghề thám tử việt nam Lê Văn Lương

Tổ nghề múa rối nước

Ông tổ của nghề là cụ Nguyễn Đăng Vinh (tự Phúc Khiêm Đào tướng công) đỗ tiến sĩ và làm quan Tổng nội giám.

Tổ nghề ca trù

Đinh Dự Ca trù sau này còn có một số vị tổ nghề địa phương như: Phan Tôn Chu tổ nghề ca trù Cổ Đạm Hà Tĩnh; Đào Thị Huệ tổ nghề ca trù Đào Đặng, Hưng Yên.

Tổ sư nghề bún

Tương truyền ông tổ là Hồ Nguyên Thơ, không rõ sống ở đời nào

SƯ GIÁO TÀI NĂNG VẠN ĐẠI HƯNG

Tổ nghề hát xẩm Trần Quốc Đĩnh

Trò xuân phả

Dương Thị Nguyệt - bà tổ truyền dạy trò Xuân Phả cho người dân Xứ Thanh tại nghè Xuân Phả, Thọ Xuân, Thanh Hóa

Tổ nghề in

Lương Như Hộc

Tổ Ngành điện 25/11 âm lịch

T Ổ N G H Ề


330 2

THỜ

THÀNH HOÀNG [THÀNH LÀ CÁI THÀNH, HOÀNG LÀ CÁI HÀO QUANH THÀNH] Và khi ghép chung lại thành một từ dùng để chỉ vị thần coi giữ, bảo trợ cho cái thành.

T HÍ N À N H G H Ư O Ỡ N À G N G P H Ồ N T H Ự C

“BẢN CẢNH THÀNH HOÀNG” [01] [02] [03]

THƯỢNG ĐẲNG THẦN TRUNG ĐẲNG THẦN HẠ ĐẲNG THẦN Ngoài ba bực thần ấy, còn nhiều nơi thờ bậy bạ, như: thần bán lợn, thần trẻ con, thần ăn xin, thần chết nghẹn, thần tà dâm, thần rắn, thần rết... Các hạng ấy gọi là tà thần, yêu thần, đê tiện thần vì dân tin bậy mà thờ chớ không được vào tự điển, không có phong tặng gì...

[01]

Thượng đẳng thần là những thần danh sơn Đại xuyên, và các bậc thiên thần. Các vị ấy có sự tích linh dị, mà không rõ tung tích ẩn hiện thế nào, cho nên gọi là Thiên thần. Thứ nữa là các vị nhân thần, các vị này khi sanh tiền có đại công lao với dân với nước; lúc mất đi, hoặc bởi nhà vua tinh biểu công trạng mà lập đền thờ hoặc bởi lòng dân nhớ công đức mà thờ. Các bực ấy đều có sự tích công trạng hiển hách và họ tên rõ ràng, lịch triều có mỹ tự bao phong làm Thượng đẳng thần.

[02]

Trung đẳng thần là những vị thần dân làng thờ đã lâu, có họ tên mà không rõ công trạng; hoặc là có quan tước mà không rõ họ tên, hoặc là những thần có chút linh vị. Có những trung đẳng thần được thờ rất phổ biến như anh em Cao Lịch, Cao Khiển là tướng nhà Đinh, thuộc tướng của Đinh Điền. Ở các đền thờ vùng Ninh Bình thì Cao Lịch được sắc phong Lịch Lộ Đại vương trung đẳng thần,...

[03]

Trung đẳng thần là những vị thần dân làng thờ đã lâu, có họ tên mà không rõ công trạng; hoặc là có quan tước mà không rõ họ tên, hoặc là những thần có chút linh vị. Có những trung đẳng thần được thờ rất phổ biến như anh em Cao Lịch, Cao Khiển là tướng nhà Đinh, thuộc tướng của Đinh Điền. Ở các đền thờ vùng Ninh Bình thì Cao Lịch được sắc phong Lịch Lộ Đại vương trung đẳng thần,...

là vị thần được tôn thờ chính trong đình làng Việt Nam. Vị thần này dù có hay không có họ tên & lai lịch, dù xuất thân bất kỳ từ tầng lớp nào, thì cũng là chủ tể trên cõi thiêng của làng và đều mang tính chất chung là hộ quốc tỳ dân (hộ nước giúp dân) ở ngay địa phương đó.


31 3 3

DANH Truyền thống đạo lý của người Việt là nhớ ơn tổ tiên, những người có công với làng xã, đất nước. Trong quá trình mở cõi về phương Nam mà vùng Biên Hòa - Đồng Nai là một trong địa đầu ở Nam bộ, mỹ tục này đựơc thể hiện khá rõ nét trong việc thờ tiền hiền và hậu hiền trong nhiều ngôi đình làng. Ngày nay, làng quê xưa giờ đã lên phố thị nhưng tục thờ này vẫn còn bảo lưu tốt trong nét sinh hoạt trên khắp vùng Đồng Nai. Tiền hiền, hậu hiền những người có công lập làng, lập đình trên nhiều phương diện lúc còn sống nên sau khi các vị mất đi, người dân địa phương ghi nhớ công ơn, uy tín, đạo đức của các vị mà thờ trong đình, có nơi lập bài vị nêu danh tánh cụ thể của từng vị. Dưới các bậc tiền hiền, hậu hiền là những vị tiền bối, hậu bối cũng có công trong sự nghiệp chung.

[04]

“TIỀN HIỀN KHAI KHẨN, HẬU HIỀN KHAI CƠ”

[05]

“TIỀN HIỀN KHAI KHẨN, HẬU HIỀN KHAI CANH”

[06]

“TIỀN HIỀN KHAI KHẨN, HẬU HIỀN KHAI KHẨN”

TIỀN HIỀN HẬU HIỀN TIỀN THỨ HẬU THỨ TIỀN BỐI HẬU BỐI [04]

Tiền hiền là những người có công quy dân lập làng/ấp; hậu hiền có công xây dựng các công trình có tính cách làm nền móng (cơ là nền móng) cho làng, xã như đình, chùa, lăng, miếu…

[05]

Tiền hiền có công quy dân lập làng/ấp; hậu hiền có công giúp dân mở mang ruộng đất canh tác.

[06]

Tiền hiền có công quy dân lập làng/ấp; (nhưng do làng bị xiêu tán nên) hậu hiền đến sau phải quy dân lập làng mới trên cơ sở làng cũ.

[A] [A] Đình di tích lịch sử văn hóa tiền hiền Nguyễn Tú - vị tiền hiền Nam bộ

Trong đình, việc bài trí thờ tiền hiền, hậu hiền mỗi nơi mỗi khác. Theo lệ cổ, bàn thờ tiền hiền và hậu hiền thường được đặt phía sau chính điện thờ Thành hoàng; phía sau chính điện thường có một bức tường ngăn, giữa đặt bàn thờ tiên sư, hai bên là bàn thờ tiền hiền, hậu hiền. Thế nhưng, tùy vào phong tục từng địa phương mà việc bố trí thờ tự trong đình làng có những khác biệt.

T IÍ NỀ N H G ƯI ỠỀ N G P H Ồ N T H Ự C


3 4

THỜ [01]

Ông Phúc Tượng trưng cho sự may mắn, tốt lành. Tương truyền, Ông Phúc là một quan thanh liêm. Theo quan niệm xưa, nhà đông con là nhà có phúc nên hình ảnh ông Phúc còn đi kèm với một hai đứa trẻ, khi thì bồng trên tay, khi thì đứng cạnh bên. Ngoài ra ông Phúc thường đi liền với con dơi bay lượn vì dơi âm Hán-Việt là “bức” cận âm với “phúc”.

[02]

0 1

1 0

Ông Lộc Tượng trưng cho sự giàu có, thịnh vượng. Theo truyền thuyết, Ông sinh tại Giang Tây, sống thời Thục Hán, ra làm quan nên trang phục của ông là triều phục, đầu đội mũ cánh chuồn. Ông thường mặc áo màu xanh lục vì trong tiếng Hoa, “lộc” phát âm gần với “lục”, tay cầm hốt “như ý”. Kề bên ông thường có con hươu vì hươu âm Hán-Việt cũng là “lộc”.

[03]

T H Ờ T H Ầ N

Ông Thọ

0 2

Tượng trưng cho sự sống lâu với hình ảnh là một ông già râu tóc bạc trắng, trán hói và dô cao, tay cầm quả đào, bên cạnh thường có thêm có con hạc. Trên gậy có buộc thêm hồ lô. Tất cả các biểu tượng đều tượng trưng cho sự trường thọ, bất tử.

Người Việt xưa thờ Thần là để nhớ ơn và cũng để tỏ lòng kính sợ. Tất cả các Thần đều linh thiêng, đều có phẩm chất và quyền năng vô lượng để mọi người tôn kính. Thờ cúng là để được Thần giúp cho người yên vật thịnh, và dù đạt nguyện vọng hay không, con người vẫn tạ ơn Thần, một lối ứng xử rất văn hoá và trần tục. [04]

Thần Tài Là một vị thần trong tín ngưỡng Việt Nam và một số nước phương Đông. Đây là vị thần theo quan niệm dân gian sẽ đem lại tiền tài, may mắn. Người ta thường vẽ ông hình một người mặt đen, râu rậm, tay cầm roi, cưỡi cọp đen. Dân gian còn gọi ông là Tài Bạch Tinh Quân hay Triệu Công Nguyên Soái. Người Việt thường thờ ông Thần Tài vào ngày mồng 10 tháng giêng âm lịch.Bàn thờ Thần Tài được lập ở những góc nhà chứ không phải nơi cao ráo như bàn thờ Tổ tiên, Thổ Công hay Thánh Sư.

[05]

Ông Địa Người Việt có câu: “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá”, nghĩa là theo niềm tin thì ở phạm vi nào thì ở đó có vị thần cai quản ở đó. Đối với tín ngưỡng thờ kính Thổ công, mỗi khi làm việc có đụng chạm đến đất đai: xây cất, đào ao, đào giếng, mở vườn, mở ruộng, đào huyệt... thì người ta thường cúng vị thần này qua lễ động thổ. Thổ Công còn được gọi Ông Địa và người ta lập bàn thờ đặt ở mặt đất.

0 3

0 4


3 5

THỜ 0 9

0 8

[06]

Quan Công Hình ảnh tượng Quan Công được biết đến rất nhiều ở khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là những đại gia đình người Hoa. Quan Công là biểu tượng của sự trượng nghĩa, hào hiệp, tiêu diệt cái ác bảo vệ lẽ phải. Theo phong thủy, thờ Quan Công có tác dụng trấn yêu, trừ tà mang lại sinh khí và tài lộc cho gia chủ. Tuy nhiên, từng hình tượng quan công khác nhau sẽ mang lại những ý nghĩa khác nhau.

[07]

Nam Tào - Bắc Đẩu Hai thần Nam Tào và Bắc Đẩu ngoài việc nắm giữ sinh tử, còn quy định số mệnh giàu nghèo, sang hèn, lành dữ, hung cát của mỗi người. Đặc biệt là việc sau khi chết phải đầu thai làm vật hay làm người, cũng do hai thần ghi chép. Nam Tào tức là ở bên tả (phương Nam), Bắc Đẩu ở bên hữu (phương Bắc). Từ xưa đến nay, người ta vẫn tin rằng hai ngôi sao mang tên Nam Tào - Bắc Đẩu chính là chỗ ở của hai vị thần.

0 7 [08]

Long Đỗ còn được gọi là thần Bạch Mã, là vị Thành hoàng đất Thăng Long, được thờ ở đền Bạch Mã, trấn phía Đông trong Thăng Long tứ trấn, cũng như nhiều đình, đền khác. Long Đỗ (có nghĩa là “rốn rồng”, cũng chính là núi Nùng trong truyền thuyết), còn được dùng để chỉ đất Thăng Long-Hà Nội xưa. Thần núi Long Đỗ, nơi tiếp nhận khí thiêng sông núi của đất kinh thành Thăng Long, là vị thần bảo hộ cho nhân dân Thăng Long được an cư lạc nghiệp.

Ngoài mục đích cầu được yên lành, thịnh vượng, thoả mãn đời sống tâm linh, việc thờ cúng còn có mục tiêu giải thoát con người, hướng con người đến lý tưởng Chân, Thiện, Mỹ, bớt nỗi khổ đau, hạn chế điều ác, tăng thêm điều thiện. Như vậy, tín ngưỡng thờ Thần không chỉ có ý nghĩa cầu phồn thực, mà còn có ý nghĩa đạo đức. [09]

0 5

Ngọc Hoàng Việc thờ Ngọc Hoàng Thượng đế rất phổ biến trong tín ngưỡng tôn giáo của người Việt. Các chùa miền Bắc Việt Nam từ lâu đã phối thờ Ngọc Hoàng Thượng đế và các vị thần khác Hàng năm, vào ngày sinh Ngọc Hoàng là mùng 9 tháng Giêng, thường được chọn là ngày làm lễ cúng vía Trời hay lễ tế Trời để tôn vinh Ngọc Hoàng thượng đế. Trong đạo Mẫu của Việt Nam, Ngọc Hoàng được gọi là Vua cha Ngọc Hoàng, là cha của Thánh Mẫu Liễu Hạnh, là đấng thần chủ tối cao. Là vị Thánh cao nhất trong đạo Mẫu nên Ngọc Hoàng thượng đế thường có ban thờ riêng trong các đền và phủ thuộc hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ.

0 6 [10]

Ông bà Táo Táo Quân; Táo Vương hay Ông Táo trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam và Trung Hoa được xem là vị thần cai quản việc bếp núc trong mỗi nhà; Táo có nghĩa là bếp. Táo Quân trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có nguồn gốc từ ba vị thần Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ của Lão giáo Trung Quốc nhưng được Việt hóa thành huyền tích “2 ông 1 bà” - vị thần Đất, vị thần Nhà, vị thần Bếp núc. Hàng năm, đúng vào ngày 23 tháng Chạp là ngày Táo Công lên chầu trời nên có nơi gọi ngày này là “Tết ông Công”, lễ cúng có cá chép vì người Việt cho rằng, ông Táo cưỡi cá chép lên trời

T H Ờ T H Ầ N


3 6

THỜ

Vào hồi ngày 1/12/2016, tại Phiên họp Uỷ ban Liên Chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 11 của UNESCO diễn ra tại thành phố Addis Ababa, Cộng hòa dân chủ Liên bang Ethiopia, di sản “Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” tại 21 tỉnh đã chính thức được UNESCO ghi danh tại Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, được coi là một phương thức quan trọng để thể hiện ký ức lịch sử, bản sắc văn hóa, tinh thần đoàn kết và đáp ứng nhu cầu tâm linh.

Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam là việc tôn thờ nữ thần phải do người nữ thực hiện, tuyệt đối không là người nam, thờ Thánh Mẫu, thờ Mẫu tam phủ, tứ phủ xuất hiện khá phổ biến và có nguồn gốc lịch sử và xã hội sâu xa. Tuy tất cả đều là sự tôn sùng thần linh nữ tính, nhưng giữa thờ nữ thần, Thánh Mẫu, Mẫu tam phủ, tứ phủ không hoàn toàn đồng nhất. Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam là một tín ngưỡng bản địa cùng với những ảnh hưởng ngoại lai từ đạo giáo, lấy việc tôn thờ Mẫu (Mẹ) làm thần tượng với các quyền năng sinh sôi, bảo trợ và che chở cho con người. Là nơi mà ở đó người phụ nữ Việt Nam đã gửi gắm những ước vọng giải thoát của mình khỏi những thành kiến, ràng buộc của xã hội Nho giáo phong kiến.

BẮC BỘ

Quốc Mẫu

Mẫu Âu Cơ

VÙNG MIỀN

NỮ THẦN

MẪU THẦN

MẪU TAM, TỨ PHỦ

Vương Mẫu

Quốc Mẫu Tây Thiên

Những tài liệu văn bản ghi chép về các Thánh Mẫu thường xuất phát từ thần thoại, huyền thoại, truyện kể dân gian và đồng thời cũng có hiện tượng ngược lại là huyền thoại hóa, dân gian hóa các văn bản thần tích, thần phả. Các truyện kể dân gian về 3 vị Thánh Mẫu: Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải lưu truyền trong dân gian khá phong phú, sau này một số được ghi chép lại trong các sách cổ như Việt điện u linh, ngoài ra còn có các truyện kể dân gian khác về các vị nữ thần được các sách sau này tập hợp và ghi chép lại.

Thánh Mẫu Mẹ Thánh Gióng

Tứ vị Thánh nương

Đinh Triều Quốc Mẫu Thánh Mẫu Liễu Hạnh

Mẫu Thượng Ngàn

Cô Nhất Thượng Thiên Cô Chín Đền Sòng

Mẫu Thoải

Cô đôi thượng ngàn

Cô Bé Thượng Ngàn

Chầu đệ nhất thượng thiên

Cô Bơ Thủy Cung

Cô Tư Tây Hồ

cô Năm Suối Lân

Chầu đệ nhị thượng ngàn

Chầu đệ tam thoải cung

Đ Ạ 0 M Ẫ U

Bắt nguồn từ tục thờ Nữ thần có nguồn gốc xa xưa từ thời tiền sử, tới thời phong kiến một số Nữ thần đã được cung đình hoá và lịch sử hoá để thành các Mẫu thần tương ứng thời kỷ từ thế kỷ XV trở về trước với việc phong thần của nhà nước phong kiến, hình thức thờ Mẫu thần với các danh xưng như Quốc Mẫu, Vương mẫu, Thánh Mẫu như hiện tượng thờ Mẫu Âu Cơ, Quốc Mẫu Tây Thiên, Mẹ Thánh Gióng, Tứ vị Thánh nương, Đinh Triều Quốc Mẫu... Từ khoảng thế kỷ XV trở đi, hình thức thờ mẫu Tam phủ, Tứ phủ được định hình và phát triển mạnh, đây cũng là thời kỳ xuất hiện các nhân vật như Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Cô Đôi Thượng Ngàn,... với các nghi thức một phần ảnh hưởng từ Đạo giáo

Dạng thức thờ Mẫu này chủ yếu ở khu vực nam Trung bộ, đặc trưng cơ bản của dạng thức thờ Mẫu ở đây là tín ngưỡng thờ Mẫu không có sự hiện diện của mẫu Tam phủ, Tứ phủ mà chỉ có hình thức thờ Nữ thần và Mẫu thần. Hình thức thờ Nữ thần như thờ Tứ vị Thánh nương, Bà Ngũ Hành và hình thức thờ Thánh Mẫu như thờ Thiên Y A Na, Po Nagar Phật Giáo là một tín ngưỡng dân gian của Huế, tích hợp Đạo giáo Trung Hoa đã thoái hóa với tín ngưỡng thờ Mẫu và nhiều tôn giáo, tín ngưỡng khác của người Việt. Sự ra đời của tín ngưỡng Thiên Tiên Thánh giáo ở Huế xuất phát từ sự gắn kết của Hội Sơn Nam với ngôi điện Huệ Nam thời Nguyễn.

So với ở Bắc Bộ, tục thờ Nữ thần và Mẫu thần có sự phân biệt nhất định với biểu hiện rõ rệt là thông qua tên gọi và xuất thân của các vị thần thì ở Nam Bộ sự phân biệt giữa hình thức thờ Nữ thần và Mẫu thần ít rõ rệt hơn, hiện tượng này được giải thích với nguyên nhân Nam Bộ là vùng đất mới của người Việt, khi di cư vào đây họ vừa mang các truyền thống tín ngưỡng cũ lại vừa tiếp nhận những giao lưu ảnh hưởng của cư dân sinh sống từ trước tạo nên bức tranh không chỉ đa dạng trong văn hoá mà còn cả trong tín ngưỡng


3 7

THỜ Cùng với việc sưu tầm, một số tác giả là các trí thức nho học thời phong kiến đã tiến hành ghi chép lại và sáng tác thêm những huyền thoại, truyền thuyết đã được sưu tầm ghi chép từ trước và thậm chí là sáng tác thêm cho phù hợp tư tưởng lễ giáo thời kỳ đó. Từ thời Hậu Lê, đã có những việc như vậy nhằm phục vụ cho việc phong thần của các vị vua với hai trường hợp điển hình với các ghi chép-sáng tác về Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở miền bắc Việt Nam của Nguyễn Công Trứ, Đoàn Thị Điểm và trường hợp thứ hai là về Thiên Y A Na ở nam Trung Bộ Việt Nam của

TRUNG BỘ

Phan Thanh Giản. Cũng có một nguồn tư liệu khác được dân gian sáng tác từ các huyền thoại, truyền thuyết và thậm chí là các truyện, thơ về các Thánh Mẫu. Đó là các bài hát văn ở Mẫu Tam phủ Tứ phủ với phần cốt lõi của các bài hát văn là lai lịch, sự tích các vị thần, nhất là các Thánh Mẫu.

Po Nagar

Thiên Y A Na

Tứ vị Thánh nương

Bà Ngũ Hành

Thiên Tiên Thánh giáo NAM BỘ Bà Chúa Ngọc

Bà Chúa Xứ

Bà Đen

Bà Thiên Hậu

Bà Ngũ Hành

Tứ vị Thánh nương

Bà Thuỷ Long

Bà Chúa Động

Bà Tổ Cô

Linh Sơn Thánh Mẫu

Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian mang sắc thái nguyên thủy và có chiều dài lịch sử hàng ngàn năm. Nói về nguồn gốc hình thành, một số nhà nghiên cứu cho rằng, tục thờ Thánh Mẫu có từ thời Tiền sử khi người Việt thờ các thần linh thiên nhiên kết hợp với tín ngưỡng thờ nữ thần rất phát triển trong xã hội mẫu hệ (gọi nữ thần là Mẹ-Mẫu-Mế). Qua quá trình tiếp biến văn hóa, tín ngưỡng thờ mẹ thiên nhiên ban đầu đã hòa cùng các tôn giáo khác để trở thành một tín ngưỡng bản địa riêng có của Việt Nam. Việc tôn thờ Mẫu (Mẹ) làm thần tượng với các quyền năng sinh sôi, bảo trữ và che chở cho con người của Đạo Mẫu đã dễ dàng đi vào đời sống dân gian, bắt rễ sâu vào xã hội và đời sống tâm linh của mỗi con người.

Thực hành tín ngưỡng Thờ Mẫu tam phủ của người Việt phân bố ở nhiều địa phương: Tây Bắc, Đông Bắc, Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, thành phố Hồ Chí Minh, lan tỏa và được thực hành ở nhiều địa phương trong cả nước. Đây là một loại hình tín ngưỡng dân gian phản ánh rõ nét tâm hồn người Việt, tín ngưỡng thờ Mẫu có sức sống mãnh liệt dẻo dai, uyển chuyển phù hợp với mọi hoàn cảnh lịch sử đất. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, tín ngưỡng thờ Mẫu luôn có sự gắn bó, dung hòa với các tôn giáo, tín ngưỡng khác, nương tựa, bổ sung cho nhau để cùng nhau tồn tại và phát triển.

Các công trình nghiên cứu đầu tiên về Nữ thần, Thánh Mẫu (Mẫu Thần) ở Việt Nam đều là các công trình của các nhà khoa học người Pháp như Parmenties, Maspero, Durand, Simond và kế tiếp là các nhà khoa học người Việt như Nguyễn Văn Huyên, Đào Thái Bình,... Từ thập niên 1990, nhất là sau hội thảo quốc gia về Thánh Mẫu do Viện nghiên cứu văn hóa Việt Nam tổ chức tại Văn Miếu (Hà Nội), không khí học thuật liên quan tới tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng và tín ngưỡng dân gian nói chung diễn ra sôi động, hàng loạt tác phẩm, công trình nghiên cứu đã được công bố. Từ các nghiên cứu tổng hợp, các nhà nghiên cứu đã hệ thống hóa được việc tôn thờ Mẫu ở Việt Nam trên cả phương diện đồng đại và lịch đại. Về phương diện lịch đại, tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam được hình thành và phát triển trên cái nền thờ Nữ thần và Mẫu thần bản địa (Mẫu Tam phủ, Tứ phủ). Tới thế kỷ XVII-XVIII, sau khi tín ngưỡng Mẫu Tam phủ Tứ phủ đã được hình thành và phát triển thì nó lại Tam phủ, Tứ phủ hóa tục thờ Nữ thần, Mẫu thần. Cùng với sự tiến bộ xã hội và nhân đạo phát triển, sau này người ta phối thờ thêm các vị thần linh là nhân thần có công khai hoang mở đất, vị anh hùng dân tộc đấu trạnh chống giặc ngoại xâm, các vị thần linh bản cảnh địa phương có công truyền nghề, các tiên hiền,.... (Có cả Nam Thần linh). Những vị này được thờ tại đền riêng hoặc phối thờ vào cùng với các đền, điện thờ Mẫu trên khắp cả nước, hình thành nên hệ thống thần linh bản địa được thờ phụng rộng rãi gắn liền với cuộc sống nhân sinh nước Việt chứ không còn thuần túy thờ Nữ Thần, Thánh Mẫu nữa. Đến nay tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam được gọi chung là Đạo Mẫu Việt Nam, bản chất là thờ Tam phủ, Tứ Phủ (Tam phủ công đồng - Tứ Phủ Vạn Linh) và Thánh Mẫu Liễu Hạnh vẫn là thần chủ. Về phương diện đồng đại, đạo Mẫu theo chân người Việt di cư vào phương Nam trong quá trình nam tiến. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt đã giao thoa, tiếp biến với các tục thờ Mẫu của người Chăm, người Khmer, người Lào từ đó tạo nên các dạng thức địa phương của Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam ở ba miền Bắc bộ, Trung và Nam bộ. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, hầu đồng là nghi lễ chính mang tính nghệ thuật sân khấu. Những người lên đồng hóa thân thành các vị Thánh Mẫu, thể hiện sắc diện và động thái đặc trưng trong không gian văn hóa linh thiêng. Người đến tham dự trải nghiệm, cảm nhận được vẻ đẹp của các vị Thánh Mẫu, ngắm nhìn những bộ trang phục lộng lẫy, nghe hát Văn kể về sự tích công trạng của các vị Thánh Mẫu trong không gian nghi lễ với nhiều sắc màu rực rỡ. Muốn thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu trước hết phải có phủ thờ Mẫu. Người đứng ra thực hiện việc lên đồng phải là người có “căn” - ấy là theo cách nói dân gian, hiểu nôm na một cách khoa học hơn thì đó là người có một trạng thái tâm lý không bình thường. Sau đó cần phải có người hát văn và có người hầu dâng, tạm hiểu là những người “nâng khăn, sửa túi” sửa soạn mũ áo, xiêm y cho thanh đồng. Khi hương đã thắp lên, thanh đồng được phủ một tấm vải trên đầu sẽ làm các động tác và hất khăn ra phía sau. Điều bắt buộc là trước điện thờ phải có gương để thanh đồng nhìn bóng mình trong gương mới hầu được (hay còn gọi là hầu bóng). Hầu Đồng là chiếc chìa khóa mở cánh cửa tìm chiếc gương phản chiếu hoàn thiện mình.Tôn giáo giống như một tấm gương, vì vậy chúng ta cần tấm gương đó, để tấm gương đó phản chiếu chúng ta. Tóm lại, để thành người sống có chỗ gửi thác có chỗ về thì phải có Tấm gương soi để nhắc nhở mình, có nơi gửi gắm thần hồn,. Đó là một hành trình tìm kiếm Tâm linh là tìm lại chính mình. Vì vậy, hầu đồng không có nghĩa là diễn xướng đơn thuần, mà là quá trình chuyển hóa cái tâm mình từ cuộc sống Vô Minh không có nhận Thức được đúng sai thành trí tuệ, thành thánh đức để nhìn vào những tấm gương của chư Thánh, học theo, khám phá Đạo cơ; để cuộc sống đời thường được chuyển hóa mang đến Hạnh phúc cho mình, cho người xung quanh, cho Thân Tâm Thanh Thản An Lạc.

Đ Ạ 0 M Ẫ U


3 8

THỜ [01] [02]

TAM PHỦ CÔNG ĐỒNG TỨ PHỦ VẠN LINH Bắt nguồn từ tục thờ Nữ thần có nguồn gốc xa xưa từ thời tiền sử, tới thời phong kiến một số Nữ thần đã được cung đình hoá và lịch sử hoá để thành các Mẫu thần tương ứng thời kỷ từ thế kỷ XV trở về trước với việc phong thần của nhà nước phong kiến, hình thức thờ Mẫu thần với các danh xưng như Quốc Mẫu, Vương mẫu, Thánh Mẫu như hiện tượng thờ Mẫu Âu Cơ, Quốc Mẫu Tây Thiên, Mẹ Thánh Gióng, Tứ vị Thánh nương, Đinh Triều Quốc Mẫu... Từ khoảng thế kỷ XV trở đi, hình thức thờ mẫu Tam phủ, Tứ phủ được định hình và phát triển mạnh, đây cũng là thời kỳ xuất hiện các nhân vật như Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Cô Đôi Thượng Ngàn,... với các nghi thức một phần ảnh hưởng từ Đạo giáo

T H Ờ M Ẫ U B Ắ C B Ộ

QUỐC MẪU ÂU CƠ

BỒ TÁT

ĐỨC VUA CHA

Vua Cha Thiên Phủ (vùng trời) – Ngọc Hoàng Thượng Đế

Tứ phủ công đồng hay Tứ phủ là một khái niệm có quan hệ mật thiết với tín ngưỡng thờ Mẫu tại Việt Nam. Các vị thần khâm sai của Tứ phủ được thờ tại chùa miền Bắc.

Tứ phủ là khái niệm thường được đi liền với khái niệm tam phủ – hệ thống ba vị mẫu đệ nhất, đệ nhị và đệ tam (Thiên – Địa – Thoải), còn gọi là Tam phủ Công Đồng. Từ thời vua Lê Lợi mới ghép thêm phái Thanh Sơn vào hệ thống thờ thần linh tam phủ, hình thành hệ thống tứ phủ (Thiên – Địa – Thoải – Nhạc). Tuy nhiên, do các tín ngưỡng Việt Nam hầu như chỉ được gìn giữ từ đời này sang đời khác qua hình thức truyền khẩu mà không có tài liệu rõ ràng.

[a]

[a],[b]

Tam Phủ được hiểu là nơi làm việc của các quan âm, chư vị thần linh của ba miền Thiên Phủ, Địa Phủ và Thoải Phủ. Trong đó mỗi miền lại mang một đặc trưng riêng biệt: Tứ Phủ cũng được hiểu là nơi làm việc của các quan âm và chư vị thần linh của bốn miền gồm Thiên Phủ, Địa Phủ, Thoải Phủ và Nhạc Phủ. Trong đó mỗi miền lại tượng mang một đặc trưng riêng biệt [06]

HÀNG ÔNG HOÀNG

Ông Hoàng Cả (Thiên Phủ) – Ông Hoàng Quận/ Lê Lợi Ông Hoàng Đôi (Nhạc Phủ) Ông Hoàng Bơ (Thoải Phủ) Ông Hoàng Tư (Địa Phủ) – Ông Hoàng Khâm Sai Ông Hoàng Năm Ông Hoàng Lục Ông Hoàng Bảy (Nhạc Phủ) – Ông Bảo Hà, Ông Hoàng Bảy Bảo Hà Ông Hoàng Bát (Thoải Phủ) – Bao gồm 2 vị là Ông Hoàng Bắc Quốc mặc áo vest kiểu Tàu và Ông Hoàng Bát Nùng mặc áo vàng khi ngự đồng. Ông Hoàng Chín (Thiên Phủ) – Ông Chín Cờn Môn hoặc Ông Chín Thượng Ngàn – Ông Chín Cờn Môn Ông Chín Thượng Ngàn – Ông Hoàng Mười (Địa Phủ) – Ông Nghệ An Ông Hoàng Báo Đông Cuông

[07]

HÀNG CHƯ PHẬT

TỨ PHỦ THÁNH CÔ

[09]

NGŨ HỔ


3 9

THỜ

Vua Cha Nhạc Phủ (vùng rừng núi) – Đức Thánh Tản Viên, Tản Viên Sơn Thánh

Vua Cha Thiên Phủ (vùng trời) – Ngọc Hoàng Thượng Đế

BỒ TÁT Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên – Liễu Hạnh Công Chúa – màu đỏ Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn - La Bình Công Chúa – màu xanh [b]

Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ – Xích Lân Công Chúa – màu trắng QUỲNH QHẾ CÔNG CHÚA

Mẫu Đệ Tứ Nhạc Tiên – Sơn Lâm Công Chúa – màu xanh

QUỲNH HOA CÔNG CHÚA QUẾ HOA CÔNG CHÚA

ĐINH TRIỀU QUỐC MẪU [B]

LỤC PHỦ TÔN ÔNG

Vua Cha Thiên Phủ (vùng trời) – Ngọc Hoàng Thượng Đế Vua Cha Thiên Phủ (vùng trời) – Ngọc Hoàng Thượng Đế

[05]

HÀNG CHẦU BÀ

Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên (Thiên phủ) Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn (Nhạc Phủ) – Ngôi Kiều Công Chúa Chầu Đệ Tam Thoải Phủ (Thoải Phủ) – Thủy Điện Công Chúa Chầu Đệ Tứ Khâm Sai (Địa phủ) – Chiêu Dung Công Chúa Chầu Năm Suối Lân (Nhạc Phủ) – Suối Lân Công Chúa Chầu Lục Cung Nương (Nhạc Phủ) – Lục Cung Công Chúa Chầu Bảy Kim Giao (Nhạc Phủ) – Tân La Công Chúa. Chầu Tám Bát Nàn (Nhạc Phủ) – Nữ Tướng Bát Nàn Chầu Chín Cửu Tỉnh Chầu Mười Đồng Mỏ (Nhạc Phủ) – Nữ Tướng Đồng Mỏ Chi Lăng Chầu Bé Bắc Lệ (Nhạc Phủ) – Bắc Lệ Công Chúa Chầu Bản Đền - Thủ Điện Công Chúa

[08]

TỨ PHỦ THÁNH CẬU

[11]

BÁT BỘ SƠN TRANG

[12]

BẢN ĐỀN BẢN CẢNH

[13]

THẬP NHỊ SƠN TRANG

QUỐC MẪU TÂY THIÊN

TỨ VỊ THÁNH NƯƠNG

[10]

ÔNG LỐT

T H Ờ M Ẫ U B Ắ C B Ộ


4 0

THỜ

DẠNG THỨC THỜ MẪU NÀY CHỦ YẾU Ở KHU VỰC NAM TRUNG BỘ, ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA DẠNG THỨC THỜ MẪU Ở ĐÂY LÀ TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU KHÔNG CÓ SỰ HIỆN DIỆN CỦA MẪU TAM PHỦ, TỨ PHỦ MÀ CHỈ CÓ HÌNH THỨC THỜ NỮ THẦN VÀ MẪU THẦN. HÌNH THỨC THỜ NỮ THẦN NHƯ THỜ TỨ VỊ THÁNH NƯƠNG, BÀ NGŨ HÀNH VÀ HÌNH THỨC THỜ THÁNH MẪU NHƯ THỜ THIÊN Y A NA, PO NAGAR

T H Ờ M Ẫ U T R U N G B Ộ

Người dân miền Trung thờ cúng Thánh Mẫu Thiên Y A Na cùng với các vị Thánh Mẫu cai quản các Cõi, những nhân vật lịch sử hoặc huyền thoại có công giúp nước, cứu dân. Với người miền Trung nói chung, Huế nói riêng, Thiên YA Na không chỉ là vị Nữ thần Có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần, mà Bà Còn được suy tôn là “thần chủ” trong giới đồng bóng và Nữ thần hộ mạng cho “thánh môn đệ tử” trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ, mà trung tâm là điện Huệ Nam (điện Hòn Chén). Hiện nay, đa phần các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng hình tượng Thiên YA Na là sản phẩm của quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa Chăm - Việt, vừa đại diện cho bóng dáng của Vân Hương Thánh Mẫu (Liễu Hạnh Công chúa) tại vùng đất mới. Cùng với Thánh Mẫu Thiên YA Na, hệ thống điện thần Tam - Tứ phủ và nghi lễ lên đồng/ hầu thánh, hát chầu văn đã tạo nên một diện mạo mới trong bức tranh tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt, vừa độc đáo, vừa chứa đựng nhiều bản sắc văn hóa riêng biệt của Huế. Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ có sự phân bố ở nhiều tỉnh thành ở miền Trung và được thực hành ở nhiều địa phương. Tỉnh Thừa Thiên Huế được coi là một trong những địa phương có các trung tâm thờ Thánh Mẫu Thiên Y A Na từng được triều đình nhà Nguyễn ban sắc phong thờ phụng, tiêu biểu như điện Huệ Nam, điện Thiên Sanh, và sau này là Thánh đường Thiên Tiên Thánh Giáo - Tổ đình thờ Mẫu tại miền Trung Chủ thể di sản là đồng đền (thủ am), có chung một niềm tin vào quyền năng, sức mạnh tối linh của các Mẫu, đứng đầu là Thánh Mẫu Thiên LY A Na.

Đệ Tứ Thủy Cung Phù Dung Công Chúa Thánh Bà

Đức Chầu Lục Động Thổ Tinh Thánh Bà

Hệ thống thần linh thờ Mẫu ở miền Trung:

Hệ thống thần linh trong điện thờ Mẫu của người Huế CÓ phần giống với miền Bắc, chỉ khác là ngôi vị thần chủ là Thiên YA Na, chứ không phải là Liễu Hạnh HỆ THỐNG THẦN LINH ĐẠO MẪU MIỀN TRUNG [01]

Vua cha

[02]

Tam Tòa Thánh Mẫu

Ngọc Hoàng và Bát Hải Đồng Đình Mẫu Thiên Y A Na, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu THoải Cung.

[03]

Thánh Bà

Ngũ Hành Tiên Nương

[04]

Quan Lớn

Lục Phủ Tôn Ông

[05]

Tứ phủ Quan Hoàng

Thập Vị Ông Hoàng

[06]

Thánh Cậu

Thập Nhị Thánh Cậu

[07]

Thánh Cô

Thập Nhị Thánh Cô

[08]

Tả Hữu Các Quan

Tả Hữu Các Quan

[09]

Hạ Ban

Ông Hổ

[10]

Còn Lại

Ông Chín Thượng Ngàn, Ngài Giám Sát Chiêm thành, Quan Đốc Binh, Cậu Khuôn Viên, Các Quận, Các Nường,...

NGŨ HÀNH TIÊN NƯƠNG Bà Ngũ Hành, còn gọi là Ngũ Hành Nương Nương, 5 Mẹ Ngũ Hành là 5 vị nữ thần được thờ phụng phổ biến tại miền Trung và miền Nam.

Tên gọi khác: Ngũ Hành Thần Nữ Ngũ Hành Nương Nương Ngũ Hành Tiên Nương Kim đức thánh phi Thủy đức thánh phi Hỏa tinh thần nữ

Tam Động Trung Thiên Hỏa Phong Thánh Bà

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và sau khi “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể vào năm 2018, thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu của người Huế đã có sự “lai căng” theo đồng Bắc và biến tướng trong thực hành nghi lễ lên đồng, dần đánh mất đi bản sắc riêng theo lối Huế. Khởi thủy tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ được hình thành từ việc tôn vinh người phụ nữ trong văn hóa truyền thống kết hợp với nhân tố “Thánh Mẫu Liễu Hạnh” đã “lên khuôn” từ một số hoạt động tôn thờ rời rạc đến một thử tín ngưỡng có tính hệ thống hơn. Đánh giá một cách tổng thể, tục thờ Mẫu của người Việt được chia thành ba dạng thức là thờ Mẫu Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ, gắn liền với thể thức thờ tự, không gian điện thờ, thực hành nghi lễ lên đồng khác nhau. Sự khác nhau này được hình thành dựa trên cơ sở của yếu tố lịch sử và sự tiếp biến, giao lưu văn hóa trong quá trình công cơ của các dân tộc. Điều này khá rõ nét qua tục thờ Mẫu theo dạng thức Trung Bộ, tuy hệ thống thần linh và nghi thức thờ cúng, tục thờ Mẫu ở Huế vẫn thuộc hệ thống thờ Mẫu Tam phủ ở miền Bắc, tuy nhiên trong điện thân, vị thân chủ không phải là Liễu Hạnh như ở Bắc Bộ, mà là Thiên YA Na. Có thể nói, tín ngưỡng thờ Thiên YA Na Thánh Mẫu là kết quả của sự tiếp biến văn hóa Việt - Chăm, đó chính là sự dung hợp và Việt hóa từ Nữ thân Mẹ xứ sở Poh Inư Nagar của người Chăm thành Mẫu T h i ê n Y A Na của người Việt. Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu của người Huế Có điểm tương đồng và khác biệt so với thờ Mẫu miền Bắc

Châu Sa Ngoại Cảnh Mộc Tinh Chúa Lá Thánh Bà

Bạch Ba Công Chúa Thánh Bà


4 1

THỜ Như trên đã phân tích, hệ thống thần linh trong điện thờ Mẫu của người Huế có phần giống với miền Bắc, chỉ khác là ngôi vị thần chủ là Thiên YA Na, chứ không phải là Liễu Hanh. Sự thay đổi ngôi vị thần chủ này được bắt nguồn từ những kỳ tích trong truyền thuyết, được truyền tụng từ người dân láng giềng, là vị nữ thần đã dạy cho dân trồng lúa, dệt vải, cứu giúp mọi người khi gặp điều khốn khó, điều hòa mưa nắng, hộ quốc an dân ý nghĩa cũng như thiên chúc ấy, sớm gây ấn tượng và dễ đi vào lòng của những lớp người cùng tồn tại trên loại hình nông nghiệp trồng lúa, từ lâu đã có cuộc sống định cư nhưng cũng gặp những bất trắc, đe dọa từ thiên nhiên” và sự Công nhận Thượng đẳng thần”, cùng các thần hiệu được gia tăng như Hoằng Huệ, Phổ Tế, Linh Cảm, Diệu Thông, Mặc Tướng, Trang Huy Với ý nghĩa quảng đại thần thông, linh ứng, hộ quốc, cửu dân của triều đình nhà Nguyễn Việc “các vua chúa nhà Nguyễn đế cao Thiên YA Na và phong chức Thượng đẳng thân là một động thái phù hợp để lấy lòng dân chúng và củng cố uy quyền chính trị?

[18] Tháp Bà Po Nagar

POH YANG INA NAGAR

THIÊN Y A NA Không những mang ý nghĩa tâm linh cho người Chăm Pa mà lễ hội tháp bà ponagar cũng là ngày lễ lớn của tín dân Khánh Hòa. Hằng năm cứ đến ngày 20-23 tháng 3 âm lịch, lễ hội tháp bà được diễn ra rất long trọng. Người người dân hương, dâng hoa, dâng lễ vật để cầu mong dân chúng Khánh Hòa nói riêng và cả nước nói chung được ấm no, hạnh phúc và cầu xin mưa thuận gió hòa. Đặc biệt với màn múa bóng điêu luyện của các cô gái trẻ, đầu đội lễ vật, người hoa tươi, người đèn lồng ngũ sắc. Các cô gái mặc những bộ áo xiêm rực rỡ, mới nhất, xiêm y của người Chăm Pa và ngã nghiêng, uốn lượn theo điệu nhạc. Điệu múa bóng là đặc trưng của người Chăm, chỉ múa dâng lên mẹ (Bà Thiên Y) mỗi khi dịp lễ.

T H Ờ M Ẫ U T R U N G B Ộ


4 2

THỜ

Nam bộ là vùng đất mới nên trong quá trình khai hoang mở đất cũng là quá trình cư dân mang theo hành trang tinh thần của mình từ nhiều vùng, miền khác nhau khi đến sinh sống tại Nam Bộ. Tín ngưỡng ở Nam Bộ vì vậy càng trở nên phong phú, đa dạng hơn. Mặt khác, tín ngưỡng ở Nam Bộ còn là sản phẩm của quá trình giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng cư dân. Vì vậy, có thể thấy các thành tố có trong tín ngưỡng từng tộc người cư trú ở Nam Bộ như: Kinh, Hoa, Chăm, Khmer đều có một ảnh hưởng nhất định trong việc định hình thể loại, diện mạo của các tín ngưỡng thờ Nữ thần cũng như thờ Mẫu ở Nam bộ.

So với ở Bắc Bộ, tục thờ Nữ thần và Mẫu thần có sự phân biệt nhất định với biểu hiện rõ rệt là thông qua tên gọi và xuất thân của các vị thần thì ở Nam Bộ sự phân biệt giữa hình thức thờ Nữ thần và Mẫu thần ít rõ rệt hơn, hiện tượng này được giải thích với nguyên nhân Nam Bộ là vùng đất mới của người Việt, khi di cư vào đây họ vừa mang các truyền thống tín ngưỡng cũ lại vừa tiếp nhận những giao lưu ảnh hưởng của cư dân sinh sống từ trước tạo nên bức tranh không chỉ đa dạng trong văn hoá mà còn cả trong tín ngưỡng Những Nữ thần được thờ phụng ở Nam Bộ như Bà Ngũ Hành, Tứ vị Thánh nương, Bà Thuỷ Long, Bà Chúa Động, Bà Tổ Cô,...và những Mẫu thần được thờ phụng như Bà Chúa Xứ, Bà Đen, Bà Chúa Ngọc, Bà Thiên Hậu,... Hoàng Mười (Địa Phủ) – Ông Nghệ An Ông Hoàng Báo Đông Cuông

Có hai dạng nữ thần, đó là nhiên thần và nhân thần. Các nữ thần mang tính siêu nhiên, thể hiện các yếu tố trong tính thiên nhiên như: thần mặt trăng, thần mặt trời, thần Đậu, thần Dâu, Năm bà Ngũ Hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ)... Bên cạnh, thì nhân thần vốn là những con người thật như các vị tướng khởi nghĩa ( Hai Bà Trưng), những người phụ nữ có công giúp dân dựng làng, lập ấp, chợ hay truyền kiến thức, dạy nghề...

T H Ờ M Ẫ U N A M B Ộ

[01]

BÀ THIÊN HẬU

Thiên Hậu Thánh Mẫu hay bà Thiên Hậu, còn gọi là Ma Tổ, Mẫu Tổ, hay là Thiên Thượng Thánh Mẫu hoặc Thiên Hậu Nguyên quân; là một vị thần quan trọng trong tín ngưỡng của người Trung Hoa và người Việt gốc Hoa. Bà được xem như vị thần bảo trợ của ngư phủ và người đi biển, được tôn kính đặc biệt cả trong Phật giáo và Đạo giáo ở các quốc gia Đông Á.

Trong suốt hàng trăm năm qua, kể từ những người Hoa đầu tiên vượt biển di dân từ quê hương mình đến nước ta để lập nghiệp, thì họ cũng mang theo không ít nét đặc trưng của nền văn hóa phương Bắc, góp phần làm phong phú hơn cho nền văn hóa nước Nam. Và tín ngưỡng thờ Bà Thiên Hậu, hiện vẫn được đông đảo người Việt, nhất là khu vực Nam Bộ và những gia đình người Việt gốc Hoa. Người dân thường thờ phượng nhang đèn cho bà, cầu mong mưa thuận gió hòa, thêm chức năng bảo an, ban phát phúc lộc, thịnh vượng, đặc biệt là hộ mệnh cho trẻ sơ sinh.

[02]

BÀ TỔ CÔ

Bà Cô Tổ hay được gọi là Bà Tổ Cô, đó là tên gọi chung để chỉ những người đã mất trong gia tộc. Họ là những thiếu nữ mất đi khi còn trẻ, chưa chồng chưa con, thường là những người gặp tai nạn, bệnh tật và mất bất ngờ khi đang ở độ tuổi còn xuân xanh độ 18 đôi mươi. Chính vì qua đời khi còn quá trẻ, họ còn nhiều tâm nguyện chưa hoàn thành, nhiều ước muốn còn dở dang và còn nhiều vấn vương với người thân, nên những vị này thường lưu luyến cõi hồng trần, khó dứt duyên trần để chuyển thế đầu thai. Vong linh của họ chọn ở lại trong gia tộc, dõi theo con cháu hậu thế, những vong hồn linh thiêng hơn đôi khi có thể hiển linh, giúp đỡ con cháu đời sau.

Theo lời kể của cha mẹ và ông bà, Bà Tổ Cô thường sẽ ở lại phù hộ độ trì, bảo vệ bình an cho gia đình, nhất là các cháu nhỏ trong gia tộc. Gia tộc tin vào sự linh thiêng của những bà Tổ Cô, tin rằng bà Tổ Cô thường xuyên hiển linh giúp đỡ con cháu hậu thế, họ không chỉ có thể bảo vệ bình an cho gia đình mà còn bảo hộ gia tộc khỏi các thế lực tà ma quỷ quái quấy nhiễu gia đình. Chẳng những thế, họ còn ban phát tài phát lộc, sức khỏe cũng như hạnh phúc cho cả gia tộc. Những vị này không đơn giản là những vong hồn vương vấn cõi trần nữa mà đã nhập Thánh theo hầu các Thánh Mẫu, Thánh Cô hoặc nhập vào cửa Phật theo hầu các vị Đức Phật nên có quyền năng rất lớn.

[03]

BÀ THỦY LONG

Thủy Long Thánh Mẫu hay thần nữ Kim Giao (không rõ năm sinh, năm mất); được xem là người có công khai phá huyện đảo Phú Quốc thuộc tỉnh Kiên Giang, Việt Nam. Tương truyền, bà thuộc dòng dõi vua chúa Cao Miên (Campuchia ngày nay), do bị lật đổ nên bà đã trốn sang đảo Phú Quốc để sống. Tại đây, bà thiết lập một đồng cỏ rộng lớn cho đàn trâu mà bà mang theo, đồng thời tuyển mộ người đi khai khẩn đất đai để trồng trọt. Ngày nay, những cánh đồng trồng lúa ấy vẫn còn vết tích,

mà dân địa phương gọi là đồng Bà. Trên đồng còn nhiều cột cây trai, vết tích của những chuồng trâu thuở nọ. Dọc theo sông Cửa Cạn còn một vũng nước sâu gọi là búng Dinh Bà. Cũng theo lời kể, thì đây là nơi bà lập dinh trại ngày xưa. Người dân Phú Quốc rất tôn kính bà, coi bà như người tiên phong khai phá đảo, tôn bà là Thủy Long Thánh Mẫu. Hằng năm, dân chúng tổ chức lễ cúng tế bà vào ngày rằm tháng Giêng âm lịch. Hiện nay, Phú Quốc có hai ngôi đền thờ bà, một ở xã Cửa Cạn, gọi là Dinh Bà Trong, một ở thị trấn Dương Đông, gọi là Dinh Bà Ngoài


4 3

THỜ [04]

BÀ CHÚA XỨ

Bà Chúa Xứ, Chúa Xứ Thánh Mẫu, hoặc Bà Chúa Xứ Nguyên Nhung là một nữ thần phồn thịnh được thờ ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Bà tượng trưng cho nghề nghiệp, sức khỏe, và là người bảo vệ biên cương nước Việt. Bà được thờ tại làng Vĩnh Tế dưới chân núi Sam, tỉnh An Giang. Có một giai thoại kể lại rằng, giặc Xiêm rượt đuổi dân theo lên núi thấy pho tượng của bà đẹp, bọn chúng muốn mang tượng bà về nước. Nhưng chỉ đi được vài bước thì pho tượng nặng trịch, không thể đi được nữa. Tên tướng cầm đầu tức giận quá lấy binh khí ra đập bể một cánh tay của bà. Và lập tức, bà trừng phạt tên này chết ngay tại chỗ, những tên còn lại hoảng loạn bỏ chạy. Dân làng cũng từ đấy tôn kính gọi Bà là Bà Chúa Xứ. Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam được tổ chức trang trọng từ 23-27/4 âm lịch hàng năm, và được Bộ Văn hóa Thông tin và Tổng cục Du lịch Việt Nam công nhận là Lễ hội cấp Quốc gia từ 2001.

[06]

BÀ NGŨ HÀNH

Bà Ngũ Hành, còn được gọi là Chúa Bà Ngũ Hành, Ngũ Hành Nương Nương, 5 Mẹ Ngũ Hành là nữ thần được thờ phụng phổ biến tại miền Trung và Nam. Ngũ Hành là khái niệm bắt nguồn từ quan niệm triết học của Trung Quốc cổ. Theo đó, quan niệm này chỉ ra rằng trời đất, vũ trụ được vận hành bởi 5 yếu tố: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Tức biểu trưng lần lượt cho kim loại, gỗ, nước, lửa và đất. Mỗi yếu tố lại có sự tương sinh tương khắc theo quy luật nhất định. Quy luật này đã được phát triển và ứng dụng rộng rãi trong rất nhiều lĩnh vực thuộc đời sống xã hội như y học, ẩm thực, thiên văn, …Dần dần, thuyết Ngũ Hành được tín ngưỡng hóa, trở thành sự thờ phụng mang tính chất tâm linh thiêng liêng phổ biến tại rất nhiều nước Á Đông, trong đó có Việt Nam. Với đặc điểm là một nước nông nghiệp trồng lúa nước. Vụ mùa bội thu cuộc sống ấm no hay không phụ thuộc rất nhiều vào nắng, gió, mưa sa của trời đất nên tín ngưỡng thờ Chúa Bà Ngũ Hành càng phát triển và trở nên phổ biến tại Việt Nam đặc biệt tại các tỉnh Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ.

[06]

[05]

ĐỊA MẪU

Địa Mẫu hay Mẫu Địa Phủ, có tài liệu gọi là Địa Mẫu Nương Nương, hay Quảng Cung Công Chúa là vị nữ thần quản lí vùng địa ngục, nguồn gốc cho mọi sự sống và là một vị thần cai quản âm phủ trong thần thoại Việt Nam và Trung Quốc. Bà là Vu Tổ sáng lập ra luân hồi trong thần thoại Trung Quốc, Địa Mẫu trong thần thoại Việt Nam là phiên bản nữ của Diêm La Vương đứng đầu Thập Điện Diêm Vương chịu trách nhiệm phán xét linh hồn người chết. Còn trong thần thoại Trung Hoa thì Địa Mẫu là nữ thần vu tổ sáng tạo ra luân hồi sinh ra từ giọt tinh huyết của thần Bàn Cổ. Còn có một truyền thuyết về Địa Mẫu cai quản đất đai và các thổ địa. Có thể ba truyền thuyết này kể về ba nhân vật khác nhau, ba vị Địa Mẫu khác nhau nhưng đều được gọi chung là Địa Mẫu có nghĩa là “mẹ của Đất”.

[07]

[04]

TỨ VUA BÀ

Tứ Vị Thánh Nương là các bà Thánh mẫu được thờ phụng ở khắp vùng duyên hải nước ta , và ở các tỉnh đồng bằng . Mọi truyền thuyết đều tập trung vào bà Hoàng hậu nhà Tống và vào thời điểm Cửa Cờn Xứ Nghệ. Tục thờ Tứ Vị Thánh Nương hiện rất phổ biến ở nhiều làng người Việt ven biển từ Bắc vào Nam , ngoài ra còn thấy ở các làng ven biển Trung Bộ . Tuy nhiên tục thờ này phổ biển nhất là miền biển Trung Bộ . Mà trung tâm là Đền Cờn ( Nghệ An ) Hàng năm, lễ hội đền Cờn lại được tổ chức trong thể với nhiều hoạt động mang nét tâm linh được diễn ra. Đền Cờn là một trong 4 ngôi đền linh thiêng bậc nhất ở Nghệ An: “Nhất Cờn, nhì Quả, tam Bạch Mã, tứ Chiêu Trưng”.

[05] [08]

BÀ ĐEN

Bà Đen, còn có tên là Linh Sơn Thánh Mẫu, là một vị nữ thần của núi Bà Đen, và là ngọn núi cao nhất nam bộ, được biết đến bởi phong cảnh hữu tình và nhiều huyền thoại tại Tây Ninh, xứng danh Đệ nhất thiên sơn. Theo Gia Định thành thông chí, tên gốc của núi Bà Đen là Bà Dinh. Đến khoảng nửa thế kỷ XVIII mới xuất hiện tên gọi núi Bà Đênh, sau gọi trại dần thành núi Bà Đen. Cũng có người gọi là núi Điện Bà.

Có một thuyết bảo rằng Bà Đen bắt nguồn từ tín ngưỡng của người Khơ Me, và họ gọi bà là Baden. Cũng có truyền thuyết cho rằng, ngày xưa, chủ vùng núi này là người phụ nữ Phù Nam có tên là Rê Đeng. Do người đời sau đọc trại thành Đen. Có tận 2-3 thuyết nói về nữ thần này. Cứ Tết cho tới hết tháng Giêng, ngày nào cũng có hàng vạn người dân thập phương tới vãn cảnh và cúng tài khấn lộc ở chùa núi Bà Đen.

T H Ờ M Ẫ U N A M B Ộ


4 4

DANH

[ LÁ SỐ 04 ]

T H I Ê N G


DANH

S Ù N G B Á I T Ự N H I Ê N


4 6

N G À Y T Ế T

THIÊNG

Tết Nguyên đán ( Tết Cổ Truyền ) được xem là thời điểm thể hiện cho sự giao thoa giữa trời đất, thần linh với con người. Tết trong Tết Nguyên đán có nghĩa là tiết (ở đây biểu hiện cho thời tiết) sẽ vận hành theo 4 mùa trong năm Xuân - Hạ - Thu - Đông, một chu trình kết thúc và có nghĩa đặc biệt cho nền kinh tế xưa khi còn dựa vào nông nghiệp là chủ yếu.


THIÊNG

HAI BA ÔNG TÁO VỀ TRỜI

4 7

DỰNG NÊU TRƯỚC NGÕ ĂN CHƠI SUỐT TUẦN

Cúng tiễn ông Công ông Táo về trời (23 tháng Chạp) là một trong những ngày lễ quan trọng nhất trong năm. Đây cũng là ngày đánh dấu thời điểm bắt đầu vào Tết. Ngày xưa gọi là tiễn Táo quân về trời. Ngày nay, người dân gọi bằng Tết ông Công, ông Táo Tục cúng Táo quân khởi nguồn từ bếp lửa, tượng trưng cho sự ấm no, sung túc, cung cấp sự sống cho con người bằng việc sưởi ấm, đun chín thức ăn. Đó cũng là hình tượng trong cõi tâm linh về ông Vua Bếp.

THẦN BẾP THẦN ĐẤT

Mũ ông Công ba cỗ hay ba chiếc: Hai mũ đàn ông và một mũ đàn bà. Mũ dành cho các ông Táo thì có hai cánh chuồn, mũ Táo bà thì không có cánh chuồn. Cá chép: Tượng trưng cho phương tiện di chuyển của ông Công, ông Táo. Bạn có thể sử dụng cá chép giấy hoặc cá chép thật đều được. Thường ở miền Bắc người ta còn cúng một con cá chép sống thả trong chậu nước ngụ ý “cá chép hóa rồng” nhưng tại Nam Bộ thường dùng cá chép giấy nhiều hơn Tiền vàng, một chiếc áo, một đôi hia bằng giấy

THẦN NHÀ

MŨ, ÁO, GIÀY

CÁ CHÉP

TIỀN VÀNG

N G À Y T Ế T


4 8

(LỄ TRỪ TỊCH)

THEO TRUYỀN THỐNG TRUNG QUỐC, ÁNH SÁNG VÀ TIẾNG ỒN CỦA PHÁO HOA CÓ THỂ XUA ĐUỔI TÀ ÁC VÀ ĐIỀM XẤU. DO VẬY, VÀO LÚC 12H ĐÊM GIAO THỪA CỦA TẾT NGUYÊN ĐÁN, PHÁO HOA SẼ ĐƯỢC BẮN LÊN BẦU TRỜI ĐỂ MỌI NGƯỜI TIỄN BIỆT NĂM CŨ, CHÀO ĐÓN NĂM MỚI, CŨNG NHƯ XUA ĐUỔI ÁC QUỶ. NGƯỜI TRUNG QUỐC CŨNG TIN RẰNG AI BẮN QUẢ PHÁO ĐẦU TIÊN TRONG NĂM MỚI SẼ NHẬN ĐƯỢC MAY MẮN.

Ý NGHĨA CỦA NGÀY CÚNG GIAO THỪA

C Ú N G N G À Y T Ế T

Cúng giao thừa (hay còn được gọi là lễ cúng trừ tịch, lễ giao thừa) là lễ cúng được thực hiện đúng vào thời khắc giao thừa - chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Ở nhiều địa phương, lễ cúng này được thực hiện vào giờ Tý (tức là từ 23 giờ đêm tới 1 giờ sáng). Đây chính là khoảnh khắc một giờ của năm cũ và một giờ của năm mới Theo quan niệm dân gian, các vị thần tiến hành bàn giao tiếp nhận công việc rất khẩn trương nên sẽ chỉ có thể đi ngang qua chứng kiến hoặc ăn rất vội vàng. Do đó, cốt yêu là ở lòng thành của gia chủ.

Trong tâm niệm của người Việt, lễ cúng giao thừa cần được thực hiện vô cùng cẩn trọng bởi người ta tin rắng những điềm hay, điềm dở xảy ra vào giây phút này đều liên quan tới mọi sự hay, dở của các thành viên trong năm mới. Chính vì vậy, lễ cúng giao thừa luôn có ý nghĩa vô cùng đặc biệt

Theo quan niệm dân gian, có 12 vị Hành khiển, Phán quan nhà trời, tượng trưng cho 12 con giáp từ Tí đến Hợi, luân phiên nhau xuống trông coi công việc dưới hạ giới. Và cứ sau mỗi chu kỳ 12 năm, việc cai quản hạ giới sẽ quay trở về cho vị Hành khiển đầu tiên.

Sau khi cúng Giao thừa ở nhà xong, mọi người thường kéo nhau đi lễ các đình, chùa, miếu, điện để cầu phúc và cầu may, để xin Thần, Phật phù hộ độ trì cho bản thân và gia đình trong năm mới.

[01]

năm sau. [01] Theo phong tục truyền thống, người Việt tin rằng mỗi năm có một vị quan Hành khiển cai trị hạ giới khác nhau. Giao thừa cũng là thời khắc chuyển giao công việc cai trị của các vị quan Hành khiển. [02] Mâm cúng giao thừa để bày tỏ lòng thành kính của gia chủ đối với thiên binh thiên tướng

Sau khi cúng giao thừa xong, người gia chủ mới đi lễ đền chùa. Đối với những gia đình muốn tự xông nhà, thường sẽ chọn một người dễ vía, hợp tuổi ra đi từ lúc chưa đúng giờ trừ tịch. Rồi khi lễ trừ tịch đến thì sẽ dự lễ tại đình chùa hoặc ở thôn xóm, sau đó xin hương lộc hoặc hái cành lộc về.

Ở nhiều địa phương, lễ cúng này được thực hiện vào giờ Tý (tức là từ 23 giờ đêm tới 1 giờ sáng). Đây chính là khoảnh khắc một giờ của năm cũ và một giờ của năm mới Theo ông bà xưa, người khấn bài cúng đêm giao thừa phải là người chủ của gia đình. Bởi đây là lễ cúng cầu mong hưng thịnh, sức khỏe cho tất cả thành viên trong gia đình. Ngoài ra, người đứng làm lễ phải tắm rửa sạch sẽ, kiêng làm chuyện vợ chồng trước 2 ngày, không ăn các món tứ linh, không ăn cá chép, thịt chó và thịt mèo để tránh phạm thượng ngũ phương long mạch linh thần linh nghiệm.


4 9 BÁNH CHƯNG,TÉT Là một món ăn truyền thống bánh chưng, bánh tét này là lời mong ước một năm mới dồi dào, no đủ, sung túc và thịnh vượng. THỊT KHO TÀU Những miếng thịt vuông, quả trứng tròn là biểu hiện hài hòa cho tính hài hòa âm dương, sự vuông tròn cho cả năm. LỄ VẬT CÚNG GIAO THỪA NGOÀI TRỜI GỒM:

ngũ quả, hương, hoa, đèn nến, trầu cau, muối gạo, trà, rượu, quần áo và mũ nón mũ thần linh, gà trống luộc có gắn một bông hoa hồng đỏ ở mỏ, xôi, bánh chưng... nếu là phật tử có thể cúng mâm lễ chay. Theo phong tục cổ truyền của người dân Việt Nam thì giao thừa được tổ chức để đón các vị Thiên binh (gồm 12 vị Hành khiển). Khi đi thị sát dưới hạ giới, vì rất vội nên các vị Thiên binh không kịp vào tận bên trong nhà được, do đó bàn cúng của các gia đình thường được đặt ở ngoài cửa chính. Mỗi năm sẽ có một vị Hành khiển cai quản hạ giới, sau 12 năm thì họ sẽ luân phiên trở lại. Khi hết một năm, vị Hành khiển cũ cai quản Hạ giới sẽ bàn giao công việc cho vị Hành khiển mới cai quản hạ giới trong năm Ở nhiều địa phương, lễ cúng này được thực hiện vào giờ Tý (tức là từ 23 giờ đêm tới 1 giờ sáng). Đây chính là khoảnh khắc một giờ của năm cũ và một giờ của năm mới

THỊT GÀ LUỘC Theo dân gian, món thịt gà luộc vàng óng, mềm mại hứa hẹn mang đến cho mỗi gia đình một năm mới tràn đầy niềm vui, hạnh phúc và khởi đầu thuận lợi, vạn sự như ý. CANH KHỔ QUA Theo cách chơi chữ của người Việt, có nghĩa là mọi nỗi khổ sẽ qua đi để đón một năm mới hạnh phúc an lành. HOA QUẢ HÌNH TRÒN Thường được bày trên mâm ngũ quả vào dịp Tết với mong ước một năm mới may mắn, tròn đầy viên mãn.

XÔI GẤC Với sắc đỏ may mắn và thịnh vượng, xôi gấc sẽ là một món ăn không thể thiếu để dành lấy sự cát tường trong năm mới. THỊT ĐÔNG Là món ăn không thể thiếu được của người miền Bắc mỗi dịp Tết. Sự hòa quyện của các nguyên liệu trong món thịt đông thể hiện sự hòa hợp, gắn kết, yêu thương của các thành viên trong gia đình. Không những vậy, màu sắc trong trẻo của món ăn còn mang ý nghĩa hy vọng một năm mới may mắn, thuận lợi sẽ đến với cả gia đình. GIÒ, CHẢ Giò chả là món ăn tượng trưng cho sự phú quý, sang trọng, cho phúc lộc đến nhà. Vì vậy, không biết từ bao giờ, món ăn này đã được chọn để khởi đầu cho một năm mới an khang thịnh vượng.

[08] NHANG RỒNG

[02] GÀ LUỘC NGẬM HOA

[05] THỊT KHO TÀU

[02] NỘM RAU CỦ

[04] DƯA GÓP [07] BÁNH CHƯNG [06] GIÒ/CHẢ LỤA

[03] CHẢ NEM RÁN

C Ú N G N G À Y T Ế T


5 0

C Ú N G N G À Y T Ế T

THIÊNG

[02]

[04]

[01] Hoạt động thăm hỏi, chúc tết người thân, người quen, bạn bè thầy cô,...của người Việt. [02] Mâm cúng giỗ mồng 1, mồng 2, mồng 3 kính mời gia tiên, thần linh. [03] Tục lì xì đầu năm, với mục đích chúc con trẻ hay ăn chóng lớn, ngoan ngoãn gặp nhiều may mắn. [04] Tục đốt vàng của người Việt, với mục đích cho người âm có tiền, vật phẩm tiêu xài.


THIÊNG

5 1

Nói về mồng một Tết cha, cụ Phan Kế Bính (đỗ cử nhân Hán học năm 1906, là nhà báo vừa có cựu học, vừa có có tinh thần duy tân) đã ghi lại chuyện về mồng một Tết. Cụ viết rằng “sáng mồng một thì làm cỗ cúng gia tiên… Cúng xong thì con cháu ra mừng tuổi ông bà cha mẹ, lạy hai lạy. Ông bà cha mẹ mừng cho con cháu mỗi đứa một vài xu hoặc một vài hào gọi là tiền mừng tuổi… (sách Việt Nam phong tục, 1915). Cúng gia tiên thì chắc chắn là cúng bên nội, nhà cha, theo phong tục xưa. Đó đích thị là mồng một Tết cha vậy.

[01] Dân gian ngày xưa từng nói cả câu có cụm mồng hai Tết mẹ nhưng những người ghi chép bỏ sót hoặc vì cớ gì đó mà cố tình bỏ bớt cụm này. Điều này khó xảy ra vì đạo hiếu xưa, cha mẹ đều tôn trọng như nhau, chưa kể tình cảm con người thì “phụ mẫu tình thâm” hướng về mẹ nhiều hơn. Các cụ trọng lễ nghĩa chắc không đến nỗi sơ sót đến nhường vậy. Kiểu này trong thành ngữ tục ngữ rất thường thấy. Từ khi nói kéo theo mồng hai Tết mẹ thì người ta lại tìm cách giải thích: cha là bên nội, mẹ là bên ngoại cho hữu lý. Tức là mồng một thì chúc Tết bên nội, mùng hai thì về nhà ngoại thăm hỏi, chúc tụng.

Còn về mồng ba Tết thầy, các cụ xưa giải thích đây là truyền thống “tôn sư trọng đạo” của người Việt. Người xưa rất trọng người thầy, xem người như là người cha thứ hai của mình. Thế nên vào những ngày đầu năm, sau khi cúng gia tiên và chúc Tết ông bà, cha mẹ, vào mồng 3 người Việt thường đến thăm hỏi thầy xưa, dành tặng những món quà mong muốn thầy có nhiều sức khỏe trong năm mới. Ngày xưa thầy đồ dạy học đa số không có chuyện biên chế hay giáo chức ăn lương nhà nước như bây giờ, trừ trường đặc biệt do triều đình lập ra. Thu nhập của các vị thầy đồ đến từ quà cáp của cha mẹ môn sinh.

[03]

Lễ hóa vàng, còn gọi là lễ đưa tiễn ông bà, lễ hóa vàng cho Tổ tiên, hay lễ tạ năm mới. Theo GS sử học Lê Văn Lan, tục hoá vàng dựa trên tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, vật hoá vàng thường gắn với đời sống thường nhật, để thấy con người ở thế giới bên kia sống gần với dương gian. Bên cạnh đó, lễ hóa vàng cũng chính là lễ đón thần tài, tài lộc về với gia đình, hy vọng một năm làm ăn thuận lợi, hanh thông. Trước đây, lễ hóa vàng thường được tổ chức vào ngày mùng 3 hoặc mùng 7 Tết, nhưng nay tùy điều kiện của mỗi gia đình, lễ hóa vàng cũng được tổ chức linh động hơn. Thông thường là từ ngày mùng 3 đến ngày mùng 10 Tết. Do đó, các đồ lễ như: mâm ngũ quả, bánh, mứt… sẽ được giữ nguyên trên ban thờ trong suốt 3 ngày Tết đó.

C Ú N G N G À Y T Ế T


5 2

THIÊNG

VIỆT NAM LÀ QUỐC GIA GẮN LIỀN VỚI NHIỀU PHONG TỤC TẬP QUÁN CỔ TRUYỀN, NGHI THỨC CÚNG KỴ. NGOÀI CÁC NGÀY TẾT CHÍNH CỦA VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG, Ở VIỆT NAM CÒN CÓ MỘT SỐ LỄ CÚNG TIÊU BIỂU NHƯ CÚNG MỒNG 1-15 HÀNG THÁNG CÚNG TIẾT NGUYÊN TIÊU CÚNG TIẾT THANH MINH

NGÀY MÙNG MỘT (NGÀY SÓC) LÀ NGÀY KHỞI ĐẦU CỦA MỘT THÁNG MỚI CẦU ĐIỀU MAY MẮN VÀ THÀNH CÔNG. NGÀY RẰM (NGÀY VỌNG) CÓ SỰ THÔNG SUỐT CỦA MẶT TRĂNG VÀ MẶT

C Ú N G N G À Y T Ế T

Hơn nữa, ngày vọng, theo quan điểm của người xưa thì “ mặt trời mặt trăng nhìn rõ nhau, thấu suốt ánh sáng nhau, soi chiếu vào mọi tâm hồn con người trở nên sáng suốt, trong sạch, đẩy lùi được mọi đen tối vẩn đục cái tâm vốn sáng suốt, trong sạch từ trong bản thể” nên thần thánh, ông bà, tổ tiên sẽ thông thương với con người, những nguyện cầu sẽ có cảm ứng mạnh nhất tới các cõi khác và sự cảm thông, tương tác dễ dàng được đáp lại.

Ngày mùng Một (ngày Sóc) là ngày khởi đầu của một tháng mới cầu điều may mắn và thành công. Ngày rằm (ngày Vọng) có sự thông suốt của mặt trăng và mặt trời tức là trong ngày này thần thánh, tổ tiên thông thương với con người thì con người chỉ cần thật tâm cầu nguyện sẽ dễ dàng gửi được nguyện cầu hơn. Hơn nữa, lễ cúng trong ngày này còn thể hiện mong muốn con người sáng suốt trong sạch, đẩy lùi những thứ xấu xa trong lòng. Hơn nữa, lễ cúng trong ngày này còn thể hiện mong muốn con người sáng suốt trong sạch, đẩy lùi những thứ xấu xa trong lòng. Việt Nam là quốc gia gắn liền với nhiều phong tục tập quán cổ truyền, nghi thức cúng kỵ. Một trong số đó là lễ cúng gia tiên mùng 1 và rằm 15. Không phải ngẫu nhiên mà vào 2 ngày này, gia đình đều chuẩn bị những mâm cúng tươm tất, đủ đầy

[01] [01] Đồ cúng mồng 1-15 hàng tháng thường là hoa quả, đồ chay thanh tịnh


5 3

THIÊNG

[02] [02] Thả đèn hoa vào tiết Nguyên Tiêu

Tết Nguyên Tiêu nghĩa là đêm rằm đầu tiên của năm mới, “Nguyên” nghĩa là thứ nhất, “Tiêu” nghĩa là đêm. Ngoài ra Tết Nguyên Tiêu còn được gọi là Tết Thượng Nguyên để phân biệt với Tết Trung Nguyên và Tết Hạ Nguyên. Tết Nguyên Tiêu là một ngày lễ quan trọng với người Phật giáo hằng năm, vì vậy có câu nói rằng “Cúng quanh năm không bằng Rằm tháng giêng”.

Vào ngày lễ này mỗi gia đình thường sẽ bày một mâm cỗ cúng để thể hiện lòng thành kính và biết ơn của con cháu đối với Phật, ông bà tổ tiên câu mong năm mới an lành và nhiều tài lộc. Tùy vào điều kiện kinh tế và phong tục tập quán mà mỗi vùng miền sẽ có cách thể hiện mâm cỗ khác nhau nhưng ít hay nhiều thì đều chung mục đích tỏ lòng thành kính với Phật và tổ tiên của mình.

Theo truyền thống Phật giáo, ngày Rằm tháng Giêng là ngày trọng đại và vô cùng đặc sắc, mang ý nghĩa rất lớn. Vào ngày này, dân chúng lên chùa cúng dâng sao giải hạn với mong muốn giải trừ tai ách, cầu nguyện an lành. Chính vì vậy mà vào Rằm tháng Giêng, nhiều chùa lập đàn, tụng niệm và hồi hướng công đức đầu năm, mong cầu phát sinh an lành, hạnh phúc

Ngoài việc tảo mộ trong tết thanh minh thì mâm cúng cũng là một phần quan trọng. Tuỳ theo phong tục của mỗi nơi mà mâm cỗ cúng có thể là mâm chay hay mâm mặn, nhưng tốt nhất là nên cúng mâm cỗ chay. Bao gồm: Xôi chè, bánh trôi, bánh chay, gạo muối, bỏng, bơ,… mang ý nghĩa tín ngưỡng nhằm tưởng nhớ những người đã khuất và cầu cho họ sớm được siêu thoát.

“THANH MINH TRONG TIẾT THÁNG BA, LỄ LÀ TẢO MỘ, HỘI LÀ ĐẠP THANH”

[03] Tập tục tảo mộ vào tiết Thanh Minh

Tết thanh minh là một ngày lễ mang nét văn hóa gắn liền với đạo đức của người Việt. Vào ngày này, mọi người trong gia đình sẽ tụ họp để làm lễ tảo mộ đầu năm, thăm viếng và dọn cỏ dại trên mộ, làm lễ cúng để mời những người đã khuất về nhà dùng cơm với con cháu. Do đó, vào ngày thanh minh, các hoạt động như báo hiếu, đền đáp ơn sinh thành của tổ tiên được tổ chức rất long trọng. Tết thanh minh thường không có ngày cố định và có thể xê dịch một vài ngày. Nhưng theo quy ước thì tết thanh minh sẽ bắt đầu sau ngày Lập Xuân khoảng chừng là 45 ngày. Năm 2022 Tết thanh minh năm 2022 sẽ bắt đầu vào ngày ngày 4/4/2022 dương lịch (sau khi kết thúc tiết Xuân Phân) và kết thúc vào ngày 20/4/2021 dương lịch (thời điểm bắt đầu tiết Cốc Vũ)

[03]


5 4

THIÊNG Rằm tháng 7 hay là ngày “xá tội vong nhân”. Lễ cúng này có mục đích làm phúc, an ủi những vong linh không nơi trú ngụ, không người thăm nom. Rằm tháng 7 (15/07 âm lịch) là ngày rằm lớn nhất trong năm theo phong tục của người Việt Nam Miền Bắc: Thường gọi là ngày “xá tội vong nhân”, ngày cúng các chúng sinh không nhà không cửa hay còn gọi là cúng cô hồn Theo các vị sư ở chùa nổi tiếng, theo quan niệm dân gian của người Việt thì tháng bảy âm người ta coi đó là tháng của những hồn ma (còn gọi là tháng của quỷ). Thường thì từ mùng 2 đến mùng 12 tháng bảy, Diêm Vương đã có lệnh mở cửa Quỷ Môn Quan cho ma giới và kết thúc đóng cửa vào ngày 15/7 âm lịch vào 12 giờ đêm.

Khi bắt đầu mở cửa thì các ma quỷ sẽ được xóa tội lỗi, được thả về trần gian, tự do trên dương thế. Chính vì các hồn ma thường sợ ánh sáng, không dám trực tiếp đến đón nhận các lễ vật cúng vào buổi sáng và buổi trưa. Vì vậy mà nên cúng cô hồn vào buổi chiều tối hoặc tối hẳn thì sẽ dễ dàng nhận được các đồ cúng đó

R Ằ M T H Á N G B Ả Y

Giật cô hồn (hay giựt cô hồn) là một phong tục lâu đời của người Việt trong lễ cúng chúng sinh vào ngày rằm tháng 7 âm lịch, tháng cô hồn. Theo quan niệm dân gian, tháng 7 âm lịch còn được gọi là tháng cô hồn, thời điểm các vong hồn được tự do đi lại trên trần thế. Vì vậy, vào ngày rằm tháng 7, ngoài nghi lễ cúng thần linh, tổ tiên, các gia đình thường thực hiện thêm nghi lễ cúng chúng sinh hay còn gọi là cúng cô hồn để tránh bị ma quỷ quấy nhiễu. Trước khi buổi lễ cúng cô hồn kết thúc, gia chủ sẽ bê mâm lễ gồm có tiền lẻ, bỏng ngô, khoai luộc, bánh, kẹo... ra ngoài đường để trẻ con tranh cướp nhau. Bởi theo quan niệm người xưa, cúng chúng sinh là để giúp đỡ các linh hồn lang thang, đói khát.

BÁO ÂN BÁO HIẾU


5 5

THIÊNG Vào ngày này, các gia đình thường làm một lễ cúng tạ ơn các Thần linh và một mâm tưởng nhớ ông bà tổ tiên để cầu nguyện cho các vong hồn siêu thoát và cầu bình an cho gia đình. Lễ cúng có thể chuẩn bị đồ mặn hoặc đồ chay tùy vào hoàn cảnh, điều kiện của từng gia đình. Theo tín ngưỡng dân gian Việt Nam, ngày lễ Vu Lan và lễ cúng chúng sinh mang nhiều ý nghĩa sâu sắc và đầy tính nhân văn. Rằm tháng 7 âm lịch hằng năm luôn là dịp đặc biệt để các thành viên trong gia đình quây quần, gắn bó với nhau thông qua những phong tục truyền thống. Cúng rằm tháng 7 là dịp để con cháu bày tỏ lòng biết ơn đối với các bậc sinh thành, ông bà, tổ tiên đã khuất. Vì vậy, chúng ta cần tiến hành những nghi lễ đúng để ngày Rằm tháng 7 trở nên ý nghĩa hơn trong đời sống tâm linh của mỗi người

Trong buổi lễ Vu Lan thiêng liêng, ai còn cha mẹ sẽ được cài lên ngực áo một đóa hoa hồng đỏ thắm, đó là một lời nhắc nhở rằng mình vẫn còn cả cha và mẹ Ai mất cha hoặc mẹ thì nhè nhẹ cài lên ngực mình đóa hồng nhạt,

Trong dịp lễ Vu lan, phật tử thường cầu siêu cho người đã khuất, làm phúc bố thí, phóng sinh để tích phước cầu an, cầu mong cho cha mẹ được tăng phúc tăng thọ, hóa giải nghiệp chướng. Ngoài ra, trong dịp lễ Vu Lan, khi đến chùa các phật tử sẽ được cài lên áo một bông hoa hồng: màu đỏ tượng trưng cho người còn mẹ và màu trắng cho ai đã mất mẹ. Với những ai may mắn được cài bông hồng đỏ trên ngực áo thì được nhắc nhở hãy cố gắng hết lòng vâng lời, hiếu kính, lễ phép với cha mẹ. Còn người cài hoa trắng sẽ thấy như một sự nhắc nhở không bao giờ quên ơn cha mẹ, đồng thời giữ nền nếp gia phong, anh em hòa thuận.

Ai mất cả hai đấng sinh thành thì cài lên ngực mình hoa trắng buồn thương. Hoa hồng trắng còn muốn nhắc nhở con người rằng phải sống thật tốt, ý nghĩa để người ra đi cảm thấy tâm hồn được an nhiên, thanh thản và không còn vướng bận chuyện trần gian.

UỐNG NƯỚC NHỚ NGUÒN ĂN QUẢ NHỚ KẺ TRỒNG CÂY CHIM CÓ TỔ, NGƯỜI CÓ TÔNG CÔNG CHA NHƯ NÚI THÁI SƠN, NGHĨA MẸ NHƯ NƯỚC TRONG NGUỒN CHẢY RA

R Ằ M T H Á N G B Ả Y


5 6

THIÊNG

[02]

[01]

L Ễ C Ú N G V Ù N G M I Ề N

Tục giỗ họ cuối năm ( người Vân Kiều )

Người chết có thế giới của riêng họ và đồng bào cố gắng lánh thật xa kẻo sợ bị liên lụy, đen đủi. Tuy vậy, vào dịp cuối năm âm lịch, hễ có điều kiện (5 năm hay 10 năm), đồng bào sẽ tổ chức lễ Ra-pưp (giỗ họ) để tỏ lòng kính nhớ tổ tiên, những người đã khuất và giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn, nền nếp tộc người cho thế hệ con cháu mai sau.

[01]

[02]

Tục cúng hậu ( Bắc Giang )

Cúng Hậu là hình thức cúng ruộng, tiền, vàng bạc, đồ thờ …. cho làng hoặc cho đình, chùa… để được cúng giỗ lâu dài sau khi “trăm tuổi về già”. Thông thường, người nào có tiền, có của mà không có con trai nối dõi để khỏi phải chịu cảnh “cướp cháo lá đa” thì ngoài việc lập người kế tự giữ gìn hương hoả, người ta còn cúng Hậuxuất phát từ một nguyên nhân là không có người nối dõi phụng thờ. Có người nhân lúc làng gặp khó khăn là cúng tiền, ruộng để giúp đỡ mà được bầu Hậu. Có người cúng Hậu để nhờ làng, đình, chùa, đền, miếu … cúng giỗ cho bản thân hoặc những người thân trong gia đình, lcũng có người cúng Hậu để nâng cao uy tín, địa vị của bản thân, của dòng họ hoặc chỉ để nương bóng Thần Phật mong cả làng cúng giỗ mình thì hương hoả càng được lâu dài


THIÊNG [03]

[03]

Lễ cúng Yang Mot ( người Gia Rai )

Theo quan niệm của người Gia Rai, trước khi tổ chức các nghi lễ của gia đình như: Lễ mừng nhà mới, mừng thọ, bỏ mả… hay trước khi thu hoạch lúa nương, bắp trên rẫy hoặc con bò của gia đình mất tích, thì phải tiến hành làm lễ cúng Yang Mot. Ý nghĩa sâu xa của việc làm lễ cúng Yang Mot là cầu cho gia đình tổ chức các nghi lễ trên diễn ra suôn sẻ, tốt đẹp và được các Yang phù hộ; cầu cho người thân trong gia đình được mạnh khỏe, bình an, tránh xa bệnh tật, tai ương và được các Yang bảo vệ; cầu gặp nhiều may mắn trong sản xuất, gặt hái mùa màng bội thu; cầu cho gia súc, già cầm của gia đình sinh sản và phát triển tốt, tránh xa dịch bệnh. Lễ cúng thường được tổ chức trong buổi tối vào hàng tháng, từ ngày bắt đầu trăng khuyết cho đến hết mùa trăng. Lễ vật thường là một con gà và một ché rượu cần được bày ra ở giữa gian nhà sàn dài của gia chủ. Lễ cúng được tổ chức bởi một thầy cúng (Pô Ia Lăih) của gia đình. Người này được chọn trong dòng họ, có sự am hiểu về nghi lễ cổ truyền của người Gia Rai và đọc lời khấn.

5 7

[04]

[04]

Lễ cúng Sayangva ( người Chơ ro )

Lễ hội Sayangva là phong tục truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số Chơ’ro được tổ chức hàng năm vào tháng 3 âm lịch hằng năm sau khi bà con thu hoạch xong mùa màng. Thông lệ hàng năm, lễ hội thường diễn ra vào hôm trăng sáng. Già làng và bà con trong buôn mang các lễ vật như rượu cần, cơm lam, thịt thú rừng... tổ chức lễ tạ ơn thần linh đã cho một mùa bội thu và cầu xin mưa thuận gió hòa để mùa vụ năm sau nhà nhà được no đủ. Lễ vật gồm một đùi heo phía chân sau, giữ nguyên đuôi; một nửa con gà nhưng giữ nguyên phần đầu và đĩa đựng một số đồ lòng của con vật như gan, cật, một ít thịt chặt rời. Các phần thịt để tươi. Thầy cúng bày lễ vật phía dưới ban thờ Nhang cùng với một ổ bánh dày và các loại củ nầu chín (nần, mì, chụp). Sau đó, người phụ cúng đem đĩa thịt ra xâu vào hai xiên tre (mỗi xiên tre xâu riêng biệt thịt heo, gà Theo già làng, bà con muốn cảm ơn thần linh, tổ tiên đã phù hộ gia đình, làng bản bình an, mùa màng, nương rẫy, cây trái tốt tươi. Dân làng làm heo, gà, bánh trái… tạ ơn thần linh, tổ tiên về cùng dự lễ cúng này và tiếp tục phù hộ, giúp đỡ tất cả mọi người trong làng bản. Dù ở đâu, làm gì lúc ở nhà hay làm rẫy, lúc lên rừng hay xuống suối đều được thần linh gìn giữ bình an, không bị bệnh tật, ma quỹ làm hại, người trong gia đình từ già đến trẻ đều mau mắn. Cầu xin thần linh cho cây cối, lúa rẫy trồng có mưa, gió thuận hòa, giúp đỡ từ gốc tới ngọn, không bị thú dữ phá hư, mùa màng, thú nuôi không có dịch hại.

L Ễ C Ú N G V Ù N G M I Ề N


5 2 8


S Ù N G B Á I T Ự N H I Ê N


6 0

K K N G À Y T Ế T


6 1

ĐIỀU 1: [Không quét nhà vào ngày mồng Một]

Bởi theo quan niệm nếu quét nhà là sẽ hất tài lộc ra khỏi cửa. Theo quan niệm từ xưa, thì không nên quét nhà vào ngày mùng một, cũng như những ngày đầu năm, bởi làm như vậy chính là đã quét hết lộc ra khỏi nhà. Hơn nữa vào những ngày cuối năm, mọi người cũng đã dọn dẹp và lau chùi nhà cửa sạch sẽ, gọn gàng rồi, nên cũng không phải nhất thiết quét nhà vào ngày đầu năm đâu nhé.

ĐIỀU 2: [Không cho lửa vào đầu năm]

Lửa tượng trưng cho đỏ, cho sự may mắn vì vậy vào những đầu năm, mọi người đều kiêng kỵ cho lửa người khác.

ĐIỀU 3: [Không cho nước vào đầu năm]

Vì nước tượng trưng cho sự sinh sôi ” Tiền vào như nước”.

ĐIỀU 4: [Không làm vỡ đồ dùng]

Vì chúng báo hiệu cho sự chia lìa, đổ vỡ nên rất kiêng kị.

ĐIỀU 5: [Không gây tranh cãi, bất hòa làm mất hòa khí gia đình]

ĐIỀU 6: [Không mặc quần áo màu đen-trắng]

Đây là màu sắc tượng trưng cho sự tang tóc.Thường thì người dân Việt Nam sẽ kiêng mặc những đồ quần áo màu hoàn toàn đen hoặc hoàn toàn trắng trong ngày mùng 1, mùng 2, mùng 3 Tết. Màu đen và trắng tượng trưng cho sự tang tóc, điều xui xẻo. Nên mặc những đồ nhiều màu sắc sặc sỡ để tạo cảm giác vui vẻ, may mắn để khởi đầu một năm thuận lợi.

ĐIỀU 7: [Kiêng để tang vào ngày mồng Một]

Mồng Một là ngày vui của tất cả mọi người nên những nhà nào có tang sẽ được cất khăn tang trong vòng ba ngày, nếu có người mất đúng vào ngày mồng Một thì gia chủ sẽ không phát khăn tang ngay mà để sang sáng mồng Hai, còn nếu nhà có người mất vào ngày 30 thì gia chủ thường thực hiện tang lễ trong ngày hôm đó tránh để sang ngày mồng Một. Những gia đình có tang tránh đi chúc Tết, thăm hỏi người khác.

ĐIỀU 8: [Kiêng khóc lóc, buồn tủi, bực tức]

ĐIỀU 11: [Kiêng nói bậy, nói xui]

ĐIỀU 9: [Kiêng ăn dở, bỏ thừa]

ĐIỀU 12: [Kiêng làm rơi vỡ tô chén, ly thủy tinh]

ĐIỀU 10: [Kiêng vay mượn vào nhưng ngày đầu năm]

ĐIỀU 13: [Kiêng xông nhà người không hợp tuổi]

K K N G À Y T Ế T


6 2

Cứ mỗi dịp Tết đến Xuân về, người ta thường dặn dò nhau những điều kiêng kỵ vào đầu năm với hy vọng năm mới sẽ an lành và may mắn, tránh đi những điều xui xẻo không đáng có. Đặc biệt việc quét nhà vào mùng 1 tết là điều kiêng kỵ từ xưa đến nay của dân tộc ta.

K K N G À Y T Ế T

Cứ mỗi dịp Tết đến Xuân về, người ta thường dặn dò nhau những điều kiêng kỵ vào đầu năm với hy vọng năm mới sẽ an lành và may mắn, tránh đi những điều xui xẻo không đáng có. Đặc biệt việc quét nhà vào mùng 1 tết là điều kiêng kỵ từ xưa đến nay của dân tộc ta. Theo quan niệm dân gian, dùng chổi quét nhà trong 3 ngày tết nhất là ngày mùng 1 tết tức là bạn đã quét đi những tài lộc, vận đỏ của cả năm ra khỏi nhà và điều này sẽ khiến cho tình hình tài chính cả năm của gia đình không ổn định, các thành viên không thể tạo ra được của cải vật chất, hoặc nếu có thì cũng sẽ tiêu vào những việc bên ngoài mà không thể tiết kiệm được.

Ý nghĩa phong tục kiêng quét nhà ngày Tết: Vào những ngày đầu năm, đặc biệt là mùng 1, 2, 3, các gia đình sẽ tránh việc quét rác, đổ rác vì sợ rằng sẽ quét hết tiền bạc, vận đỏ, lộc xuân ra khỏi nhà. Dân gian cho rằng, nếu quét nhà trong 3 ngày đầu năm thì cả năm gia đình sẽ nghèo túng, khánh kiệt, thần tài sẽ đi mất, tiền bạc không đến được với gia đình và hiển nhiên nó mang lại điềm xấu, không may mắn. Do vậy, ngày 30 Tết, dù bận rộn đến đâu mọi người cũng phải dọn dẹp nhà cửa, không vứt rác bừa bãi.


6 3

CHUYỆN KIÊNG KỴ NÀY ĐÃ ĐƯỢC GIẢI THÍCH BẰNG MỘT VÀI SỰ TÍCH, ĐIỂN TÍCH TỪ THỜI XA XƯA

Ngày xưa ở trên cung điện nhà trời có một người đàn bà nấu ăn rất khéo tay. Bà chế những món bánh trái tuyệt phẩm, làm những thức ăn ngon đến nỗi chỉ nếm qua một miếng là không thể nào quên được. Cho nên Ngọc Hoàng thượng đế cho bà chuyên trông nom công việc nấu ăn cho mình ở thiên trù. Nhưng bà lại hay ăn vụng và tham lam. Lệ nhà trời những người hầu hạ đều có thức ăn riêng, nhất thiết không được đụng chạm đến ngự thiện, dù là Ngọc Hoàng ăn thừa cũng vậy. Nhưng luật lệ đó không ngăn được những người đang sẵn thèm khát. Người đàn bà vẫn tìm đủ mọi cách để làm cho kho thức ăn của nhà Trời hao hụt. Tuy đã quá tuổi xuân, bà ta lại yêu một lão vốn chăn ngựa cho thiên đình. Đời sống của những người chăn ngựa thì ở cõi trời cũng như cõi đất đều cực khổ không kém gì nhau. Ông ta thích rượu và từ khi gặp người đàn bà này lại thèm ăn ngon. Bà ta say mê ông tưởng trên đời không còn gì hơn được. Mỗi lúc thấy người đàn ông đó thèm thức ăn, đồ uống của nhà Trời, bà ta không ngại ngần gì cả. Đã nhiều phen bà lấy cắp rượu thịt trong thiên trù giấu đưa ra cho ông. Và cũng nhiều phen bà dắt ông lẻn vào kho rượu, mặc sức cho ông bí tỷ. Một hôm, Ngọc Hoàng thượng đế mở tiệc đãi quần thần. Bà và các bạn nấu bếp khác làm việc tíu tít. Chỉ vào chập tối, các món ăn đã phải làm đầy đủ. Rồi khi ánh nguyệt của đêm rằm sáng lòa là mọi người bắt đầu vào tiệc. Nhưng giữa lúc cỗ đang bay lên mâm thì từ

đằng xa, bà đã nghe tiếng lão chăn ngựa hát. Bà biết ông tìm mình. Bà lật đật ra đón và đưa giấu ông ta vào phía góc chạn. Bà đưa cho ông mấy chén rượu, thứ rượu ngon nhất của thiên tào rồi trở ra làm nốt mẻ bánh hạnh nhân. Người đàn ông đó mới đi tắm ngựa ở bến sông về. Bưng lấy bát cơm hẩm, ông sực nhớ đến rượu thịt bây giờ chắc đang ê hề ở thiên trù, nên vội lẻn đến đây. Trong bóng tối, ông nuốt ực mấy chén rượu lấy làm khoái. Chén rượu quả ngon tuyệt, hơi men bốc lên làm ông choáng váng. Ông bỗng thèm một thức gì để đưa cay. Trong bóng tối trên giá mâm đặt ở gần đó, có biết bao là mỹ vị mùi thơm phưng phức. Đang đói sẵn, ông giở lồng bàn sờ soạng bốc lấy bốc để... Khi những người lính hầu vô tình bưng mâm ngự thiện ra thì bát nào bát ấy đều như đã có người nào nếm trước. Ngọc Hoàng thượng đế vừa trông thấy không ngăn được cơn thịnh nộ. Tiếng quát tháo của Ngọc Hoàng dữ dội làm cho mọi người sợ hãi. Bữa tiệc vì thế mất vui. Người đàn bà nấu bếp cúi đầu nhận tội. Và sau đó thì cả hai người cùng bị đày xuống trần làm chổi để phải làm việc luôn tay không nghỉ và tìm thức ăn trong những rác rưởi dơ bẩn của trần gian. Đó là tội nặng nhất ở thiên đình. Lâu về sau, thấy phạm nhân bày tỏ nông nỗi là phải làm khổ sai ngày này qua tháng khác không lúc nào ngơi tay, Ngọc Hoàng thương tình ra lệnh cho họ được nghỉ ba ngày trong một năm. Ba ngày đó là ba ngày Tết nguyên đán. Bởi vậy đời sau trong dịp Tết nguyên đán, người ta có tục lệ kiêng không quét nhà

Câu chuyện kể rằng, có một người lái buôn tên là u Minh, đi qua hồ Thanh Thảo được Thủy thần tặng cho một người hầu tên là Như Nguyệt, đem về nhà được vài năm thì u Minh ăn nên làm ra, nhà rất giàu. Một hôm, vào ngày Mùng 1 Tết, không biết vì lý do gì mà u Minh đánh Như Nguyệt, cô sợ quá chui vào đống rác ở góc nhà. Vợ u Minh không để ý nên vô tình quét nhà hốt luôn cả đống rác có Như Nguyệt bên trong và đổ. Từ đó nhà u Minh lại nghèo đi. Người ta bảo Như Nguyệt là thần tài và lập bàn thờ để thờ, từ đó có tục kiêng quét nhà, hốt rác trong ngày đầu năm để không phải vô tình hốt mất thần tài đi.

K K N G À Y T Ế T


6 4

Trong ngày Tết cổ truyền, mọi người thường lựa những màu sắc như màu đỏ, màu vàng, màu xanh… để mặc đi chơi Tết. Trong khi đó, màu đen hay thậm chí là màu trắng dường như bị “kỳ thị” vì nhiều người cho rằng chúng có màu sắc u ám và không phù hợp với không khí tươi vui của ngày Tết Ngoài ra, trong phong thủy thì màu đen có thể thu hút tà khí, màu trắng để tiện sự tang tóc, đây chính là lý do vì sao người ta thường không mặc màu đen hay màu trắng vào ngày Tết, đặc biệt là những ngày đầu năm mới.

K K N G À Y T Ế T

VÌ ĐÂY LÀ MÀU SẮC TƯỢNG TRƯNG CHO SỰ TANG TÓC. Theo quan điểm của rất nhiều người, màu đen và màu xám thể hiện sự u ám và tối tăm. Do đó, khi diện lên mình bộ đồ này, bạn không chỉ khiến cho người xung quanh cảm thấy không vui mà bản thân cũng đang hút sự không may vào mình. Chính vì vậy, có rất nhiều gia đình, đặc biệt là các gia đình nông thôn truyền thống, mùng một Tết không cho phép con cái mặc đồ màu đen.

Theo quan điểm dân gian, màu trắng thể hiện sự tang thương và chết chóc. Do vậy, mùng một Tết các cụ vẫn khuyên răn, thậm chí là cấm con cháu trong nhà mặc đồ màu trắng. Trong các đám cưới truyền thống xưa kia, màu trắng cũng không được lựa chọn. Thay vào đó là màu đỏ thể hiện sự may mắn, rực rỡ tôn thêm không khí mừng vui.

NHỮNG MÀU SẮC MAY MẮN MẶC MÙNG MỘT TẾT THEO MỆNH Có rất nhiều người lựa chọn màu sắc để mặc ngày Tết hay thậm chí là hàng ngày theo mệnh. Vào ngày mùng một Tết cũng vậy, mỗi con giáp sẽ có một màu sắc may mắn khác nhau. Ví như tuổi Tý thích hợp với màu trắng, đen hoặc các màu sẫm. Tuổi Sửu hợp với màu vàng và cam. Tuổi Dần hợp với màu xanh nhạt, đen hoặc màu sẫm. Những người tuổi Mão nên chọn màu đỏ, đen hoặc màu sẫm. Tuổi Thìn là màu vàng và be vàng. Nếu bạn tuổi Tỵ thì bạn có thể tham khảo màu đỏ, xanh lam đậm. Tuổi Ngọ thì may mắn nhất là màu xanh lá hoặc xanh lam. Màu vàng hoặc đỏ thích hợp cho người tuổi Mùi mặc vào mùng một Tết. Tuổi Thân là màu vàng và trắng. Tuổi Dậu là vàng và be nhạt. Các bạn tuổi Tuất nên chọn màu vàng, đỏ hoặc trắng. Tuổi Tuất là trắng, cam nhạt hoặc đỏ.


6 5

Ý NGHĨA NHỮNG MÀU SẮC MAY MẮN Màu đỏ hầu như luôn đem lại sự rực rỡ, tươi vui cho người nhìn. Đây còn là màu tượng trưng cho sự may mắn và dồi dào. Vì vậy, màu đỏ được nhân dân ta sử dụng nhiều nhất cho những ngày đầu năm mới. Trong công việc, màu đỏ còn tượng trưng cho sự quyết liệt và nhiệt huyết. Đây là một màu sắc vô cùng thích hợp để mặc vào mùng một Tết, đặc biệt là với những người mang mệnh Hỏa.

Màu cam là màu được pha trộn từ đỏ và ánh vàng. Sắc màu này cũng đem lại may mắn cho người mặc, đặc biệt là với những người mệnh Hỏa. Nó cũng dịu mắt và nhẹ nhàng hơn màu đỏ nên thích hợp với những bạn nữ dịu dàng, không thích quá nổi bật. Bên cạnh đó, màu cam cũng là màu rất dễ phối đồ và tôn sắc da cho bạn. Nó còn thể hiện sự sáng tạo, lôi cuốn người nhìn.

Màu tím thường đại diện cho sự thủy chung và son sắt. Không chỉ thế, màu này còn thể hiện quyền lực và sự quý phái. Do đó, vào ngày mùng một Tết, có rất nhiều người chọn màu tím để đi chúc Tết và đi chơi. Tuy nhiên, bạn cần tránh màu tím đậm vì nó thể hiện nỗi buồn và sự vô vọng. Màu tím nhạt hoặc tím hồng mới là sắc thái hợp với ngày Tết

Màu vàng là màu quý phái mà ngày xưa chỉ có vua chúa mới được sử dụng. Màu vàng tươi mang lại cho bạn một sức sống mãnh liệt và tràn đầy. Nó là màu nắng mai, mang tới cảm giác ấm áp và hạnh phúc cho người nhìn cũng như cho bản thân. Do đó, màu vàng cũng là một trong những sắc màu được lựa chọn nhiều nhất trong những ngày Tết. Đặc biệt, bạn sẽ thấy chúng là tông màu chủ đạo của rất nhiều bộ áo dài chơi xuân của các nàng thơ.

Có lẽ rất nhiều người không nghĩ tới màu nâu lại là màu may mắn nên mặc cho ngày mùng một Tết. Bởi đây là gam màu trầm chứ không phải kiểu rực rỡ, sáng sủa như các màu bên trên. Tuy nhiên, các màu bên trên thường sẽ không phù hợp cho phái mạnh. Màu nâu đã bù đắp được điều đó. Nó là màu của đất, thể hiện sự vững chãi theo thời gian. Nó còn khiến cho phái mạnh thể hiện được sự nam tính và đáng tin của mình.

K K N G À Y T Ế T


6 6

K K R Ằ M T H Á N G B Ả Y

T R Á N H

T R Á N H


6 7

K K R Ằ M T H Á N G B Ả Y


6 8

K K R Ằ M T H Á N G B Ả Y

SẼ KHIẾN MA QUỶ BU ĐẾN Ở Việt Nam, cúng cô hồn là một tín ngưỡng tâm linh truyền thống của người Việt, được truyền từ đời này sang đời khác. Người Việt cho rằng, con người bao gồm hai phần là hồn và xác. Khi con người mất đi nhưng phần hồn vẫn tồn tại, có người thì được đầu thai khiếp khác hay có người thì bị đầy xuống địa ngục, làm quỷ đói quấy nhiễu dương gian. Hàng năm, người Việt cúng cô hồn kéo dài một tháng, tùy thuộc vào từng gia đình, từng vùng miền khác nhau chứ không ấn định riêng một ngày Người dân cũng quan niệm rằng, tháng cô hồn là tháng ma quỷ, không đêm lại may mắn nên hầu hết các công việc cưới hỏi, khởi công xây dựng, mua sắm, đi xa,… đều tránh tháng 7. Ngoài những lễ tiết cúng bái, dân gian ta còn tương truyền cả những điều con người nên làm và không nên làm trong tháng cô hồn để cho cầu mong được bình an, hạnh phúc. Một trong số đó là kiêng đốt vàng mã tùy tiện trong tháng cô hồn.

Việc đốt vàng mà là những câu kinh là để xoa dịu vong linh, mong muốn tâm họ hoan hỷ hơn bớt đi phần sân hận, dễ dàng tiếp nhận kinh kệ hiểu lời khai thị của kinh sư mà đi vào siêu thoát. Vì vậy, việc đốt vàng mã ở mức độ hợp lý, đủ sẽ giúp xoa dịu linh hồn đồng thời kết hợp với trai đàn dẫn độ siêu thoát của nhà Phật thì mới đạt công đức viên mãn. Nếu chúng ta đốt quá nhiều đồ vật mang tính tượng trưng cho tài sản như nhà cửa, ô tô, tiền đô,... chỉ càng làm cho các vong linh thêm chấp niệm, khó vãn sanh vì họ càng tiếc nuối chốn trần thế, vương vấn không muốn rời đi. Gia chủ nên chăm lo cho vong linh đầy đủ nhất về mặt linh hồn và nên dùng các loại tiền xưa có in kinh văn để trợ lực thêm cho họ và đốt một số lượng vừa phải mà thôi nhưng quan trọng nhất là kết hợp với trai đàn chẩn tế.


13 6 9

DANH

S K Ù K NG R B Ằ Á M TI T H Ự Á N H G BI ẢÊ N Y


7 0

ĐÓ LÀ ĐỒ DÀNH CHO MA QUỶ, NẾU CHƯA CÚNG VÀ CẦU XIN MÀ LẤY ĂN SẼ RƯỚC TAI HOẠ VÀO MÌNH.

K K R Ằ M T H Á N G B Ả Y

Đốt để dâng kính phật và các bậc thiên thần nói chung cầu sức khỏe tuổi thọ. Nam 7 tờ, nữ 9 tờ

Trong lễ Xá tội vong nhân, các gia chủ thường vẩy cháo, rắc gạo, muối để bố thí thức ăn khắp 4 phương 8 hướng nhằm tứ tán các cô hồn. Sau khi cúng xong, nên đốt vàng mã ngay tại chỗ để các cô hồn nhận và đi ngay, không lẩn quẩn quấy nhiễu gia chủ. Một vài địa phương không đem đồ cúng vào nhà, thay vào đó là tục giật cô hồn. Những người sống giành giật các mâm cúng rồi gia chủ sẽ quăng tiền cho người sống (đồng tiền bằng kim khí đang lưu hành) cùng với kẹo bánh. Dân gian cho rằng số người sống đến giành giật càng nhiều càng đông, tức là họ đã “mua chuộc” các cô hồn không đến quấy rối gia đình gia chủ này. Nếu không có ai giành giật, đồ cúng sẽ được bỏ vào túi đem cho trẻ con nhà khác, người nghèo hoặc người ăn xin. Để các cô hồn dễ nhận được đồ cúng, gia chủ nên cúng vào buổi chiều tối. Vì theo dân gian tương truyền, ánh sáng ban ngày sẽ khiến các vong hồn bị tan ra hoặc suy yếu đi. Do đó, chỉ khi trời chiều tối, thiếu ánh sáng, các vong hồn mới có thể tụ lại hưởng đồ cúng.

Vãn sanh tiền (hình hoa mai vàng): Đốt cho ông bà, cha mẹ, những người khuất mặt khuất mày. Ghi tên, ngày tháng năm sinh - ngày tháng năm mất của người đó theo bát tự. Nam đốt 7 tờ, nữ thì 9 tờ đốt cho thiên thần nói chung (Phước Lộc Thọ - Tam Đa) cầu bình an tuổi thọ.


7 1

THEO QUAN NIỆM XƯA, THÌ KHÔNG NÊN ĂN ĐỒ CÚNG CÔ HỒN VÌ NGƯỜI XƯA QUAN NIỆM SẼ RƯỚC NHỮNG VONG LINH KHÔNG NƠI NƯƠNG TỰA VÀO NHÀ VÀ MANG THEO NHỮNG ĐIỀM XẤU CHO GIA CHỦ.

KHI CÚNG CÔ HỒN, CÁC GIA CHỦ KHÔNG NÊN ĐỂ TRẺ CON, PHỤ NỮ MANG THAI VÀ NGƯỜI GIÀ LẠI GẦN MÂM CÚNG BỞI VÌ NHỮNG NGƯỜI NÀY ĐỀU THUỘC DẠNG “YẾU BÓNG VÍA”, DỄ BỊ CÁC CÔ HỒN TRÊU CHỌC. NGOÀI RA, SAU KHI CÚNG XONG CŨNG KHÔNG ĐỨNG TRƯỚC LỐI RA VÀO, CHẮN ĐƯỜNG CÔ HỒN HƯỞNG ĐỒ CÚNG.

Muối, gạo (1 dĩa). Cháo trắng nấu loãng (12 chén nhỏ), hay là cơm vắt: 3 vắt. 12 cục đường thẻ. Giấy áo, giấy tiền (có thể là tiền thật nhưng là mệnh giá nhỏ) . Mía (để nguyên vỏ và chặt từng khúc nhỏ độ 15 cm). Bánh, kẹo, tiền mặt (tiền thật, các loại mệnh giá). Bỏng ngô, khoai lang luộc, ngô luộc, sắn luộc. Hoa, quả 5 loại 5 màu (ngũ sắc). Nước: 3 ly nhỏ, 3 cây nhang, 2 ngọn nến nhỏ.

Đầu tiên ta đặt bát lư nhang ở trước mặt để làm tâm. Đèn nến đặt bên cạnh lư nhang. Chén gạo và muối đặt 2 bên lư nhang sao cho cân đối. Tiếp đó, ta đặt 3 lý rượu, 3 ly nước phía sau bát lư nhang. Đến 6 dĩa xôi, 6 chén chè, 6 chén cháo. Hãy sắp thành một hàng ngang sao cho đẹp mắt Hoa và trái cây chúng ta đặt theo quy tắc Đông bình, Tây quả, tức bình hoa ta đặt phía Đông, dĩa trái cây ta đặt phía Tây. Sau đó ta đặt giấy cúng vàng mã, kề bên hoa ta đặt dĩa bánh kẹo và không quên một bó nhang để thắp hương cầu khấn. Đừng quên 6 bộ chén đũa muỗng để các vị thần linh chứng dám lễ vật.

Mâm cúng cô hồn

K K R Ằ M T H Á N G B Ả Y


7 2

THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

K K Đ Á M T A N G

0 1 0 2 0 3 0 4

KHI CHÔN CẤT THÌ KIÊNG DÙNG QUẦN ÁO HAY ĐỒ DÙNG CỦA NGƯỜI CÒN SỐNG CHO NGƯỜI MẤT.

KHI KHÂM TRÁNH ĐỂ MẮT RƠI XUỐNG

LIỆM, NƯỚC

VÌ NHƯ VẬY LÀ NGƯỜI MẤT ĐÃ MANG ĐI MỘT PHẦN CỦA NGƯỜI SỐNG, KHIẾN NGƯỜI SỐNG CÓ THỂ BỊ NGỚ NGẨN, HAY QUÊN

VÌ CON CHÁU SẼ LÀM ĂN KHÓ KHĂN VÀ CŨNG TRÁNH QUỶ NHẬP TRÀNG, VÌ VẬY NGƯỜI KHÂM LIỆM KHÔNG ĐƯỢC KHÓC. NGƯỜI CHỨNG KIẾN DÙ THƯƠNG XÓT NGƯỜI QUÁ CỐ ĐẾN ĐÂU CŨNG PHẢI ĐỨNG XA MỘT QUÃNG ĐỂ TRÁNH NƯỚC MẮT BỊ NHỎ VÀO THI HÀI.

Ở NHỮNG GIA ĐÌNH MÀ CÓ NGƯỜI GIÀ MẤT, CHẬP TỐI PHẢI ĐÓNG CỬA, KIÊNG TRẢ LỜI NẾU CHƯA NHẬN TIẾNG GỌI NGƯỜI ĐỨNG NGOÀI

SỞ DĨ LÀ DO THEO TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN, NGƯỜI GIÀ MỚI MẤT CÒN QUYẾN LUYẾN CON CHÁU, TỐI VỀ GỌI CON CHÁU VÀ SẼ BẮT THEO NHỮNG AI LÊN TIẾNG TRẢ LỜI

CON CHÁU PHẢI CANH GIỮ THI HÀI NGÀY ĐÊM

TRÁNH ĐỂ CHÓ, MÈO HAY VẬT NUÔI DI CHUYỂN QUA ĐỂ TRÁNH HIỆN TƯỢNG QUỶ NHẬP TRÀNG.


7 3

VÌ CÓ THỂ BỊ NHIỄM HƠI LẠNH TỪ THI THỂ NGƯỜI MẤT MÀ ỐM BỆNH. NHỮNG NHÀ CÓ NGƯỜI GIÀ, TRẺ NHỎ, PHỤ NỮ CÓ THAI SỐNG GẦN NHÀ GIA ĐÌNH CÓ TANG THÌ PHẢI ĐẶT LÒ THAN ĐỐT VỎ BƯỞI VÀ BỒ KẾT ĐỂ TRỪ UẾ KHÍ.

NGƯỜI GIÀ, CÓ THAI, TRẺ NHỮNG AI BỊ CẮN KIÊNG DỰ LIỆM, AN TÁNG

PHỤ NỮ EM HOẶC CHÓ DẠI LỄ KHÂM

0 5

VÌ CÓ ÂM KHÍ SẼ KHÔNG CÓ LỢI CHO VIỆC LÀM ĂN, SINH SỐNG CỦA NHỮNG NGƯỜI TRONG NHÀ. THÂN NHÂN NGƯỜI CHẾT PHẢI TỔ CHỨC TANG LỄ TẠI NƠI CHẾT HOẶC DỰNG LÁN NGOÀI ĐỒNG ĐỂ LÀM LỄ. NGƯỜI CHẾT DO TAI NẠN TÀU XE, SÔNG NƯỚC... THÌ PHẢI CÚNG LỄ TRỰC TIẾP NƠI BỊ NẠN.

KHI GẶP NGƯỜI NGOÀI ĐƯỜNG, ĐƯA XÁC VỀ NHÀ

BỞI THEO TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN, CHỈ BẰNG CÁCH CHÉM ĐỨT SỢI DÂY, MỐI OAN NGHIỆT MỚI DỨT VÀ GIA ĐÌNH NGƯỜI ĐÓ MỚI TRÁNH ĐƯỢC HỌA CHẾT VÌ THẮT CỔ THEO ĐUỔI. HAY TỐT NHẤT MỜI THẦY CHÙA GIỎI VỀ CÚNG ĐỂ LẬP ĐÀN GIẢI OAN VÀ NHỐT VONG TRÁNH TRƯỜNG HỢP VONG BỊ QUỶ SAI VỀ BẮT NGƯỜI

VỚI NHỮNG NGƯỜI TREO CỔ, NGƯỜI TA SẼ DÙNG DAO CHÉM ĐỨT SỢI DÂY KHI NGƯỜI ĐÓ CÒN TREO LƠ LỬNG CHỨ KHÔNG CỞI THÁO SỢI DÂY

0 7

VÌ ĐÓ THỂ HIỆN SỰ TÔN TRỌNG VỚI NGƯỜI ĐÃ MẤT

NGƯỜI DỰ ĐÁM TANG CHỈ MẶC ĐỒ ĐEN TRẮNG, TRÁNH ĂN MẶC LỐ LĂNG, LÒE LOẸT, HỞ HANG.

0 8

CHẾT KIÊNG

0 6

THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

ĐÁM TANG HAY ĐÁM MA, LỄ TANG, TANG LỄ, TANG MA LÀ MỘT TRONG NHỮNG PHONG TỤC CỦA VIỆT NAM. BAO GỒM NHIỀU QUY TRÌNH CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐANG SỐNG THỰC HIỆN ĐỐI VỚI NGƯỜI VỪA CHẾT TANG LỄ ĐƯỢC TỔ CHỨC KHÁC NHAU Ở CÁC DÂN TỘC TRÊN VIỆT NAM, MỖI MỘT DÂN TỘC CÓ NHỮNG NGHI LỄ TỔ CHỨC KHÁC NHAU MẶC DÙ KHÔNG NHIỀU NHƯNG ĐỀU CÓ NHỮNG BƯỚC CƠ BẢN TƯƠNG ĐỐI GIỐNG NHAU Ở CÁC NGƯỜI KINH CŨNG NHƯ CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ.

K K Đ Á M T A N G


7 4

CON CHÁU PHẢI CANH GIỮ THI HÀI NGÀY ĐÊM, TRÁNH ĐỂ CHÓ, MÈO HAY VẬT NUÔI DI CHUYỂN QUA ĐỂ TRÁNH HIỆN TƯỢNG QUỶ NHẬP TRÀNG.

K K Đ Á M T A N G

MÈO MA, MÈO QUỶ Không phải chú mèo nào cũng có “khả năng huyền bí”. Mà thường chỉ có 2 loại. Một là loại “Mèo ma”. Hai là loại “Mèo quỷ” đặc chủng, toàn thân có màu đen, thường điểm một chòm lông màu vàng đậm giữa trán chỉ nhỏ bằng đồng tiền cổ mà người ta cho đó là “con mắt thứ ba” giúp loài mèo này có thể nhìn thấy và liên lạc được với ma quỷ vô hình, để cùng hợp lực khiến người chết ngồi dậy thành quỷ nhập tràng. Loài mèo này có tên: Linh miêu, mắt sáng và chói đỏ trong bóng tối như hai cục than giữa gió, phừng phừng lửa giận. Người ta cho linh miêu là đứa con sinh ra từ sự phối hợp quỷ quái và rất hy hữu giữa một con mèo cái đen tuyền với một con rắn hổ chỉ ăn loại thịt duy nhất là thịt cóc, rồi linh miêu ra đời không phải ở một làng xóm, ở một ngôi nhà có chủ nào hết, mà thường ra đời trong một ngôi miếu hoang, một bờ ao vắng, hoặc dưới một khu đầm lầy lau lách.

Thức ăn của linh miêu cũng theo khẩu vị của loại rắn hổ có viền đen trên cổ, nghĩa là rất khoái ăn thịt cóc sống. Khi trưởng thành, linh miêu quay trở về nơi mẹ của nó từng sinh sống, thích ngồi trên những gác ba của ngọn cây, hoặc leo lên những nóc nhà nhìn xuống. Nếu nửa đêm, những sinh vật nào vô phúc gặp tia mắt đỏ ngầu của linh miêu trừng nhìn, tức khắc chúng sẽ trở nên tê liệt không cử động được, như các loài chuột, loài chim, sẽ phải đứng trân như chết để đợi linh miêu đến gần vồ lấy ăn thịt, hoặc dùng móng vuốt cào xé, giỡn hớt dưới ánh trăng một lúc lâu, rồi mới vứt xác ra xa như vứt một món đồ chơi đã chán. Người ta đồn, nếu linh miêu bất ngờ nhảy qua một thi hài đang khâm liệm trong nhà, thì người chết ấy sẽ từ từ ngồi dậy thành quỷ nhập tràng. Quỷ nhập tràng có thể đứng lên, mắt cứ mở trừng trừng cả đêm ngày, đưa đĩa cơm với nước uống đến xác chết vẫn

dùng hết, nhất là biết lựa ra những miếng thịt tươi đỏ, những món sống sít chưa nấu chín để đưa vào miệng một cách khoái khẩu. Đến khoảng chạng vạng khi trời sập tối, hoặc vào lúc nửa đêm có trăng, thường đi qua đi lại trong nhà với bộ dạng cứng đơ tựa như người gỗ hoặc người máy, vì các khớp xương của người chết khi hóa quỷ nhập tràng cứ tuồng như bị siết chặt bằng đinh vít vào nhau nên không thể cử động bình thường nổi. Nhà nào có quỷ nhập tràng thì ngay giữa trưa vào giờ ngọ, khi mặt trời đứng bóng, trong nhà khí phần vẫn lạnh lẽo, u ám như cõi âm. Càng về đêm, chung quanh nhà có nhiều tiếng động lạ, lúc than khóc như tiếng con nít, lúc thì thào dọa dẫm như tiếng người lớn chết oan…


7 5

“NHẬP TRÀNG (MA QUỶ) NHẬP VÀO THÂY NGƯỜI CHẾT LÀM CHO BIẾT ĐI LẠI, NÓI NĂNG NHƯ NGƯỜI SỐNG’’

DƯỚI GÓC NHÌN KHOA HỌC

HIỆN TƯỢNG MÈO NHẢY QUA QUAN TÀI Ông bà ta từ xưa đến nay điều kiêng kị việc để mèo xuất hiện trong đám tang, đặc biệt là mèo đen. Bởi một câu chuyện nửa hư nửa thật rằng nếu để mèo nhảy qua quan tài thì người đã khuất kia sẽ đột nhiên sống lại, từ từ ngồi dậy và biến thành quỷ nhập tràng. Người chết lúc này sẽ trở thành cương thi, quỷ dữ khiến mọi người kinh hoàng Theo một số tài liệu cổ được ghi lại rằng những người đã chết mà bị chó, mèo nhảy qua đều là điều tối kỵ. Con vật này sau đó phải bị giết chết và chôn cùng với xác chết để cho linh hồn người mất có thể được siêu thoát và không bị quấy rầy. Gia đình có người mất cần phải cắt cử thành viên canh giữ xác mèo. Không những vậy, họ còn phải rắc hạt cải ra xung quanh nhà và gỡ mái ngói để ánh sáng xuyên xuống nhằm trừ tà giúp cho hồn người chết đi thanh thản.

HIỆN TƯỢNG QUỶ NHẬP TRÀNG Quỷ nhập tràng là một câu chuyện lưu truyền trong dân gian kể về hiện tượng người chết trong lúc khâm liệm thì sống dậy và có những hành động khó hiểu. Những câu chuyện về quỷ nhập tràng luôn gắn liền với con mèo đen hay còn gọi là linh miêu. Truyền thuyết kể rằng khi người chết chưa được khâm liệm mà một con mèo màu đen nhảy qua xác chết thì sẽ làm cái xác chết vùng dậy thậm chí là đuổi theo người sống trong thời gian ngắn.

Dưới góc nhìn của khoa học hiện đại, người vừa chết trong cơ thể vẫn giữ luồng điện âm tích còn sót lại chưa kịp ra khỏi cơ thể. Luồng điện ấy, khi gặp hấp lực của một luồng điện dương khác gần đó (của các cơ thể sống) sẽ có thể dẫn đến cảm ứng điện trường khiến người chết ngồi dậy mà người ta cho rằng đó là quỷ nhập tràng. Luồng điện dương (hâm nóng sự sống lại ngắn ngủi của xác chết) không nhất thiết phải cần đến linh miêu, hoặc các loài mèo ma, hay là một thế lực siêu hình nào, mà có thể đó là do… một con người bình thường. Dĩ nhiên cảm ứng gây nên “quỷ nhập tràng” chỉ xảy ra trong một điều kiện có sự tương tác tất yếu nào đó giữa sinh vật sống với thi hài người chết.

K K Đ Á M T A N G


7 6 DÂN GIAN CÓ CÂU: “TU TRĂM NĂM MỚI CHUNG CHUYẾN ĐÒ, TU NGHÌN NĂM MỚI NÊN DUYÊN VỢ CHỒNG“. ĐỂ LÀ VỢ CHỒNG CỦA NHAU THÌ CẦN CẢ DUYÊN, CẢ NỢ. CÓ DUYÊN ẮT SẼ GẶP NHAU, CÓ DUYÊN THÌ MỚI THÀNH ĐÔI LỨA.

DUYÊN ÂM DUYÊN ÂM LÀ MỐI NHÂN DUYÊN GIỮA NGƯỜI CÒN SỐNG TẠI DƯƠNG THẾ VỚI MỘT NGƯỜI ĐÃ MẤT Ở THẾ GIỚI BÊN KIA. VÌ MỘT LÝ DO NÀO ĐÓ MÀ NGƯỜI ĐÃ MẤT KHÔNG DỨT BỎ ĐƯỢC TÌNH CẢM, CÒN LƯU LUYẾN VỚI NGƯỜI CÒN SỐNG, KHÔNG CHẤP NHẬN VIỆC MÌNH ĐÃ CH.ẾT NÊN CỐ BÁM RIẾT LẤY NGƯỜI CÒN SỐNG, LÀM ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐƯỜNG TÌNH DUYÊN CỦA NGƯỜI ĐÓ.

1 con gà 1 đĩa xôi đỏ 2 chén rượu trắng

M R D U Y Ê N Â M

2 chén nước lọc 1 đĩa trầu cau 1 chiếc kéo có buộc hai nơ đỏ ở cán 1 chiếc nhẫn cưới mạ vàng

Mua thuyền vàng, thỏi vàng, vàng lá và một ít tiền âm phủ Nếu người âm là nam thì cần 7 sợi tơ hồng hoặc 7 sợi chỉ hồng, nếu người âm là nữ thì cần 9 sợi tơ hồng hoặc 9 sợi chỉ hồng Nếu người âm là nam thì 7 bông hoa đồng tiền đỏ, nếu người âm là nữ thì 9 bông hoa hồng đỏ

Chuẩn bị lễ vật ở một khu đất trống ngoài nhà mình ở, bàn lễ quay về hướng Tây Nam, bàn được phủ thảm đỏ Đốt nến trắng và thắp một nén nhang thơm Rót hai chén rượu, uống một chén, một chén rải xuống đất Lấy kéo cắt đôi sợi chỉ tơ hồng ám chỉ cắt bỏ đoạn nhân duyên này Ném nửa đoạn tơ hồng và chiếc nhẫn về hướng Tây Nam Tất cả đồ cúng đều đem hóa, nhằm hướng Tây Nam thực hiện, đồ cúng cũng đem rải hết, không được mang bất kỳ thứ gì về nhà Sau khi thực hiện xong thì xoa dầu tỏi khắp người, xông qua trầm hương, lễ tạ 8 phương rồi về

DẤU HIỆU BỊ DUYÊN ÂM THEO ĐUỔI 0 1

Đường tình duyên gặp nhiều trắc trở, yêu ai cũng không thành hoặc không để ý đến ai cả. Nếu có tiến đến hôn nhân thì cũng nhanh chóng tan vỡ mà không hiểu vì sao…

0 2

Tính tình thay đổi theo chiều hướng tiêu cực nhưng không phải là do công việc hay gia đình,…

0 3

Hay thơ thẩn, bần thần như cơ thể này không phải là của mình; không thể làm chủ được suy nghĩ

0 4

Thường xuất hiện những giấc mơ lạ, gặp gỡ người nào đó nhiều lần nhưng không hề quen biết.

0 5

Thi thoảng nghe những câu nói mơ hồ, lời thì thầm bên tai như muốn xúi giục điều gì đó.

0 6

Có cảm giác sợ hãi, lạnh lẽo khi đứng trước di ảnh của Chúa, Phật,…

0 7

Hay ngủ li bì và có cảm giác mệt mỏi trong người, không có sức sống. Đi khám bệ.nh thì không tìm ra nguyên nhân.

0 8

Bị đau nhức ở một vị trí nào đó trên cơ thể mà không rõ nguyên nhân.

0 9

Bỗng dưng cảm thấy buồn, chán mà không rõ nguyên nhân. Thậm chí muốn tử tự để kết liễu cuộc đời mình.

Bài khấn: “Thưa hồn ở cõi bên kia, nay âm dương cách biệt ngả chia hai đường, hồn thì ở cõi âm, còn tôi thì ở cõi dương, chúng ta dù có cố gắng thì cũng không thể về cùng một chỗ. Nếu hồn có tình ý với tôi thì cũng không thể nên kiếp vợ chồng, bởi thiên có luật thiên, địa có luật địa, tôi và hồn thì có nhân quả, nếu hồn còn bám chấp duyên này thì nghiệp mà hồn phải gánh sẽ rất nặng, thôi thì nếu còn duyên ta xin hẹn ở những kiếp sau, kiếp này mong hồn không oán trách. Nay tôi sửa soạn lễ vật tiền vàng, trầu cau, nhẫn cưới và tơ hồng chỉ đỏ, thỉnh hồn về để chúng ta làm lễ cắt duyên âm. Kể từ giờ phút này, tôi xin trả lại mọi lễ vật cho hồn, chúng ta hai người hai ngả, để tôi sẽ xây dựng cuộc sống mới của tôi, và hồn thì về nơi tam giới, duyên xưa đã hết, mà tình âm cũng chấm dứt từ đây, trên có trời, dưới có đất, giữa có tôi và hồn, xung quanh tam giới có thần tiên làm chứng tôi xin tuyệt tình với hồn!”


7 7

[04] Duyên âm theo phá

[02] Duyên tiền kiếp

Là các vong ở kiếp trước thích bạn, yêu thầm bạn hoặc đã từng nên duyên vợ chồng với bạn. Họ theo bạn đến tận kiếp này hoặc vô tình gặp lại bạn và đi theo. Loại duyên âm này thường không gây hại gì hoặc chỉ cản trở tình duyên khi bạn gặp người không tốt. Thậm chí, họ còn hay giúp đỡ bạn về các vấn đề trong cuộc sống.

[01]

Cách hóa giải: Nếu bạn còn nhỏ tuổi thì không cần hóa giải. Khi đã đến tuổi lấy vợ/ gả chồng mà đường tình duyên còn lận đận thì chỉ cần trò chuyện, khuyên bảo họ là được; không cần phải tìm thầy để làm lễ hóa giải.

[03] Duyên hiện kiếp

Là mối nhân duyên giữa người trần và người âm ở kiếp sở tại mà người bị dính duyên âm không hề hay biết. Các trường hợp gặp duyên âm hiện kiếp như: -Mang đồ vật của người m.ất trẻ, chưa vợ/ chồng về nhà để sử dụng như: quần áo, giày dép, trang sức,… -Chọc ghẹo những người âm m.ất trẻ, chưa lập gia đình bằng những lời lẽ tán tỉnh, ve vãn.

-Đi vệ sinh vào những nơi có người âm mất thiêng như: cây gạo, cây đa, các đoạn đường hay xảy ra tai nạn,… -Mua đất, thuê nhà có oan khí, có người ch.ết oan, tử tự vì tình,… Hay đi sớm, về muộn vào những khung giờ có âm khí nặng. -Đi đường gặp vong linh mất trẻ có ngày tháng năm sinh trùng với mình, hợp mệnh nên vong linh theo thành duyên âm.

Đây là những vong đi lang thang, không được thờ cúng cẩn thận. Bạn vô tình lọt vào “tầm ngắm” của họ; họ thích bạn, thấy hợp nên đi theo với mục đích muốn kết duyên vợ chồng với họ. Loại duyên âm này thường đi theo để phá tình duyên, tài lộc, sức khỏe,.. của người bị theo. Những tiền duyên do lời thề hẹn mà bị trói chặt với người trần thường đi theo để phá duyên của người trần. Đồng thời, họ cũng tìm mọi cách để kéo người trần xuống cõi âm để nên duyên vợ chồng với họ.

M R D U Y Ê N Â M


7 8

TỤC HÈM Ý NGHĨA - Nghi tiết đặc biệt trong ngày hội làng nhằm nhắc lại tích lúc bình sinh của vị thần làng thờ làm thành hoàng - Tục Hèm kiêng cữ một điều gì đó liên quan tới thần linh của làng hay dòng họ. - Tên Hèm là tên của tổ tiên hay vị thần linh nào đó mà gia tộc hay cả làng kiêng cữ không được nhắc tới. Hèm được coi là biểu hiện cao nhất của khái niệm kiêng, kỵ. Hèm thường đi kèm với những hoạt động mang tính cộng đồng cao như việc cúng tế thành hoàng làng và thể hiện cao qua lễ hội. Thông thuờng, hèm của mỗi làng là những hành động, nghi lễ mang tính bí mật, riêng tư gắn với lai lịch vị thần làng đang thờ. Những hèm đó có chung đặc điểm là bí mật riêng, phải giấu giếm đối với người ngoài cuộc (cộng đồng khác) và giấu giếm với chính quyền trung ương. Chính các nghi lễ hèm đã tạo ra dấu ấn riêng cho cộng đồng sở hữu nó và trở thành niềm tin linh thiêng khi oai linh của các vị thần có hèm phù trợ cho cộng đồng an lành, thịnh vượng. Nếu như kiêng có tính khá phổ biến trong xã hội, kỵ có tính ít phổ biến hơn thì hèm là một đặc sản riêng. Có lẽ đến hiện nay, chưa có một tổng kết nào trong nghi lễ thờ phụng mà lại có hèm trùng nhau, cho dù cùng chung một đối tượng thờ phụng. Đã có một thời, hèm bị coi là sản phẩm điển hình của mê tín đị doan, song thực chất, chính hèm lại là nơi chưa đựng nhiều nghi lễ, phong tục cổ, những lớp văn hóa sớm hơn, thô sơ, mộc mạc, khi con người còn non thơ trước cuộc sống đầy bất trắc. Kiêng kỵ là hiện tượng phổ biến trong đời sống nông thôn Bắc Bộ. Đặc biệt, trước Cách mạng tháng Tám, việc kiêng kỵ được người dân tuân thủ khá nghiêm với tinh thần tự giác. Cộng đồng mỗi làng xã khép kín sau lũy tre xanh dường như đều có những bí mật kiêng kỵ rất riêng tư. Do vậy, những lực lượng ngoài cộng đồng không dễ gì thâm nhập vào thế giới kiêng kỵ riêng tư đó. Tuy nhiên, một hiện tượng trái ngược cũng thường xảy ra. Có khi, việc kiêng kỵ tại cộng đồng này lại không có ý nghĩa hay giá trị gì với cộng đồng khác, dù cho hai cộng đồng này liền kề nhau về lãnh địa. Như vậy, vấn đề kiêng kỵ, hèm húy cũng có những nét phổ quát và dị biệt khi đặt chúng trong bối cảnh nhất định.

TỤC HÈM” LÀ MỘT HÌNH THỨC DIỄN XƯỚNG TỒN TẠI DƯỚI DẠNG NGHI LỄ NHẰM TÁI HIỆN LẠI NHỮNG NÉT RIÊNG, ĐẶC TRƯNG, THẬM CHÍ LÀ SỞ THÍCH CỦA VỊ THẦN LINH ĐƯỢC TÔN THỜ. “TỤC HÈM” THƯỜNG DIỄN VÀO GIỜ THIÊNG VÀ NHỮNG NGƯỜI THAM GIA LÀ CÁC CỤ CAO NIÊN ĐẠI DIỆN NỘI BỘ CỘNG ĐỒNG.

[01]

LỄ HỘI NÁ NHÈM

Lễ hội Ná Nhèm là lẽ hội của người Tày ở xã Trấn Yên (huyện Bắc Sơn, Lạng Sơn) được tổ chức vào ngày 15 tháng Giêng hàng năm. Trước đây, lễ hội được tổ chức 3 năm/lần.Trong tiếng Tày, Ná Nhèm nghĩa là “bôi mặt”, nghĩa bóng chỉ sự ẩn danh, ẩn thân. Những người tham dự lễ hội đều bôi mặt nhọ là vì thế. Bên cạnh nghi thức cúng thành hoàng, lễ hội Ná Nhèm còn tái hiện sự tích đánh giặc giữ làng. Khi được phục dựng, lễ hội cũng vẫn giữ được nhiều diễn xướng dân gian hay, độc đáo và các nghi lễ thờ cúng cổ xưa. Nhờ đó, sau vài trăm năm thất lạc, dòng họ Mạc ở Hải Phỏng đã nhận ra họ hàng xa ở tận Lạng Sơn. Theo TS Bùi Quang Thắng: “Họ nhận ra nhau bởi mỗi một nghi lễ cúng ông thần giống hệt nhau, không giống với các nghi lễ khác ở vùng khác”. Trong số các nghi lễ: tập trận, múa đại đao, dâng tiến vua cống vật (cây cối, hạt giống...), đặc biệt có bộ lễ vật rất quan trọng là sinh thực khí. Lễ rước sinh thực khí gồm tàng thinh (sinh thực khí nam) và Mặt nguyệt (sinh thực khí nữ) thể hiện ước vọng cầu may, cầu cho sự sống sinh sôi nảy nở của người dân.


7 9 [04] [03] [03]

[02]

LỄ HỘI QUANG LANG BÀ CHÚA MUỐI

Lễ hội Quang Lang – bà chúa Muối còn gọi là lễ hội ông Đùng bà Đà, Lễ hội thể hiện ước vọng của người diêm dân về sự sinh sôi dồi dào. Điểm nổi bật của lễ hội là múa ông Đùng, bà Đà mang đậm chất dân gian, diễn lại tích trò xưa trẻ mục đồng chơi cạnh bà chúa Muối. Qua hàng trăm năm, tục rước Đùng ở lễ hội bà chúa Muối vẫn giữ nguyên được nét cổ. Hình nộm ông Đùng, bà Đà được đan mắt cáo bằng tre mỏng, tượng trưng cho bố, mẹ. Thân hình cao tới 1,5m - 2m, hình chóp nón, đường kính phía dưới rộng, đủ cho một người chui lọt vào. Hai hình nộm nhỏ hơn tượng trưng cho đàn con cháu. Khi múa các hình nộm nghiêng ngả, lắc lư vui nhộn. Vai ông Đùng bà Đà phải phối hợp sao cho thật nhuần nhuyễn, có những lần giáp mặt, thân chập vào nhau, tượng trưng cho ước vọng sinh sôi nảy nở, mong nhiều hoa trái của dân làng. Đùng bố, mẹ đi trước, các Đùng con quấn quýt theo sau. Trong khi múa người ta xướng vang những câu tụng ca công đức của bà chúa Muối như: “Lạy chúa! Muối của chúa năm nay được mùa lắm! Lạy chúa, lạy chúa…”. Múa Đùng là tục rước chính của lễ hội bà chúa Muối, diễn ra vào lúc nhập nhoạng tối ngày 14/4 âm lịch. Đoàn rước sẽ đi một vòng quanh làng rồi trở lại cửa đền tham gia tục phá Đùng. Dân làng đổ xô về phía hình nộm để lấy ít nhất một nan tre trên thân của ông Đùng, bà Đà. May mắn hơn là lấy được mặt Đùng.

[02]

LỄ HỘI GIÓNG

Hội Gióng đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử, là lễ hội rất cổ xưa nói đến thời kỳ đồ đồng và đồ sắt, phong tục, lối sống của dân Đông Nam Á cổ. Hội Gióng được tổ chức để tưởng nhớ tới Phù Đổng Thiên vương Thánh Gióng - một trong những vị thánh “bất tử” của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Lễ hội Gióng thường được tổ chức vào ngày 8-9/4 âm lịch. Hiện nay, có rất nhiều nơi ở đồng bằng Bắc Bộ thờ phụng Đức Phù Đổng Thiên vương Thánh Gióng, nhưng chính hội vẫn là ở làng Phù Đổng (Gia Lâm, Hà Nội) nơi Đức Thánh Gióng sinh thành và Phù Linh (Sóc Sơn, Hà Nội) nơi Thánh Gióng hóa thân. Hội Gióng gắn với truyền thuyết về một cậu bé kỳ lạ ở làng Phù Đổng, 3 tuổi vẫn chưa biết nói, biết cười. Nhưng khi nghe lời kêu gọi của sứ giả nhận lệnh Vua đi tìm người tài giỏi đánh giặc ngoại xâm, Gióng bỗng lớn nhanh như thổi, rồi xung phong ra trận cứu nước, cứu dân. Sau khi dẹp tan quân giặc, ngài về núi Sóc rồi cưỡi ngựa bay lên trời. Tại hội Gióng bao giờ cũng tái hiện sự tích Ông Hiệu cờ (được xem là hiện thân của Thánh Gióng), ngoài ra còn có các vai ông Hiệu trống, Hiệu chiêng, Hiệu Trung quân, Hiệu Tiểu cổ, cô Tướng, các phường Áo đen, phường Áo đỏ... Người đóng vai Ông Hiệu cờ trong lễ hội sẽ phất cờ đá tung ba chiếc bát úp trên ba manh chiếu. Ba chiếc bát biểu tượng cho đồi núi và cánh đồng, thể hiện sức mạnh vô địch của Gióng trước kẻ thù. Ngày chính hội mùng 9/4 sẽ có các tích trò tái hiện 2 trận đánh của Thánh Gióng. Năm 2011, Hội Gióng đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại

LỄ HỘI XUÂN PHẢ

Lễ hội Xuân Phả (làng Xuân Phả, xã Xuân Trường, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa) diễn ra từ ngày 10 – 12/2 âm lịch hàng năm, nhằm suy tôn Đông Hải đại vương, âm phủ và Vua Đinh, Lê. TS Bùi Quang Thắng chia sẻ, lễ hội này đã biến mất 60 năm và nay dược ông phục dựng lại. Các diễn xướng của lễ hội Xuân Phả đáng xem hơn ở bất kỳ lễ hội nào khác. Điểm đặc sắc của lễ hội xuân Phả là tiết mục diễn trò Xuân Phả của 9 thôn trong xã, mỗi thôn đảm trách một trò. Trò Xuân Phả có 5 bộ trò tiêu biểu gồm: Hòa Lan, Ai Lao, Chiêm Thành, Tú Huần và Ngô Quốc, mô phỏng các hoạt động của quốc gia, tộc người láng giềng đến yết kiến, tiến cống nhà vua nước Việt. Đặc biệt ở trò Xuân Phả là những điệu múa cổ vẫn được giữ nguyên. Nhờ có sự pha trộn của yếu tố cung đình và dân gian, diễn trò Xuân Phả rất huyền bí, lộng lẫy, phản ánh quan niệm thẩm mỹ của dân tộc nói chung, của người nông dân nơi nó được sinh ra nói riêng. “Vũ công” hầu hết là nam giới. Trong 5 điệu múa trò có 3 điệu người diễn phải dùng mặt nạ gỗ là: Chiêm Thành, Hoa Lang và Tú Huần. Hầu hết đạo cụ diễn trò Xuân Phả đều chế tạo bằng nguyên liệu sẵn có như tre, trúc, gỗ vông, rễ cây si.


8 2 0

LÀNH

[ LÁ SỐ 06 ]

L À N H


3

DANH LÀNH

S Ù N G B Á I T Ự N H I Ê N


8 2

LÀNH

PHONG TỤC ĐƯỢC HIỂU LÀ NHỮNG HOẠT ĐỘNG SỐNG CỦA CON NGƯỜI, ĐƯỢC HÌNH THÀNH TRONG SUỐT CHIỀU DÀI LỊCH SỬ VÀ ỔN ĐỊNH THÀNH NỀ NẾP, ĐƯỢC MỌI THÀNH VIÊN TRONG CỘNG ĐỒNG THỪA NHẬN VÀ TỰ GIÁC THỰC HIỆN CÓ TÍNH KẾ THỪA TỪ THẾ HỆ NÀY SANG THẾ HỆ KHÁC TRONG CỘNG ĐỒNG NHẤT ĐỊNH. PHONG TỤC LÀ MỘT BỘ PHẬN CỦA VĂN HÓA,CÓ VAI TRÒ QUAN TRỌNG TRONG VIỆC HÌNH THÀNH TRUYỀN THỐNG CỦA MỘT DÂN TỘC, MỘT ĐỊA PHƯƠNG, NÓ ẢNH HƯỞNG, THẬM CHÍ CHẾ ĐỊNH NHIỀU ỨNG XỬ CỦA CÁ NHÂN TRONG CỘNG ĐỒNG.

V Ò N G Đ Ờ I

Những nghi lễ chủ yếu trong chu kỳ đời người của Việt Nam có thể được coi là một phần không thể tách rời nền văn hóa của quốc gia, dân tộc. Song, trải qua quá trình lịch sử của mỗi quốc gia, những nghi lễ này cũng luôn biến đổi cho phù hợp với nhân tố thời đại. Lễ đầy tháng, lễ đầy năm (lễ thôi nôi) là những nghi lễ đã có từ rất lâu được lưu truyền qua nhiều thế hệ và là một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của người Việt Nam. Không khó lý giải bởi lễ vật dùng trong lễ đầy tháng và thôi nôi của Việt Nam rất đa dạng và chi tiết. Nhìn chung, thời đại mới gắn quá trình hội nhập, phát triển đã tác động mạnh mẽ tới các nghi lễ này khiến cho có thể làm mai một hoặc biến dạng theo cơ chế thị trường. Về nghi lễ trưởng thành cho thấy: Ở Việt Nam, nghi lễ này vẫn được duy trì ở những dân tộc thiểu số nhưng đã có sự biến đổi nhất định. Biến đổi này chỉ tập trung vào các chi tiết có tính hình thức nhằm phù hợp với điều kiện môi trường kinh tếxã hội đang thay đổi song nội dung và bản chất của nghi lễ vẫn được duy trì. Song, nhìn chung, kinh tế ngày càng phát triển, đời sống được nâng cao khiến cho nghi lễ trưởng thành có thêm điều kiện duy trì theo hướng bảo tồn và phát huy bản

sắc văn hóa các dân tộc. Thời gian gần đây, nghi lễ trưởng thành diễn biến theo hướng tự phát, thường là do các trường tự tổ chức cho học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học vào dịp cuối năm với sự tham gia của bạn bè, thầy cô và phụ huynh. Trang phục trong lễ trưởng thành thường là đồng phục hoặc áo, mũ tốt nghiệp. Đây là dịp để các học sinh chia sẻ suy nghĩ, dự định tương lai, đồng thời bày tỏ lòng biết ơn tới thầy cô và cha mẹ khi bước vào tuổi trưởng thành. Trong nghi lễ hôn nhân của Việt nam cho thấy, phần lớn đều biến đổi theo hướng phù hợp với cuộc sống hiện nay, những yếu tố như một số kiêng kỵ, tảo hôn, tổ chức hôn lễ rườm rà đều được khắc phục dần. Khi xem xét các yếu tố biến đổi trong nghi lễ tang ma của Việt Nam có thể nhận thấy dường như chỉ biến đổi về các thành tố liên quan tới sự phát triển kinh tế - xã hội còn bản chất vẫn được duy trì một cách bền vững. Bên cạnh đó, hình thức mai táng cũng biến đổi với sự xuất hiện của hỏa táng trong những năm gần đây. Song, nhìn chung, các yếu tố biến đổi khác đều diễn ra theo chiều hướng đơn giản hóa phù hợp với cuộc sống xã hội hiện đại.

[01]

GIAI ĐOẠN SINH ĐẺ

Đây là giai đoạn khi những đứa trẻ sinh ra, gia đình muốn mong muốn đứa trẻ khi lớn lên đạt được thành công trong mọi thứ, ăn mau chóng lớn, sức khỏe đủ đầy, định hướng về tài năng, sự nghiệp của chúng từ giai đoạn còn nhỏ. Họ luôn cúng kiếng các bà mụ đã đỡ đẻ chúng, các vị thần hoặc tổ tiên ban phước cho chúng qua các hình thức nghi thức đã trở thành truyền thống lâu đời của người dân Việt Nam hiên nay như Lễ đầy tháng, lễ đầy năm, lễ cúng mụ ở các độ tuổi 3,5,9,12,...


LÀNH [04]

[05]

GIAI ĐOẠN KẾT THÚC

Giai đoạn này là một nghi lễ kết nối với công đoạn xử lý cuối cùng của một xác chết, chẳng hạn như chôn cất hoặc hỏa táng, có những người thân hữu đến tham dự và đưa tiễn. Phong tục tang lễ bao gồm sự phức tạp của tín ngưỡng và tập quán được sử dụng bởi một nền văn hóa để tưởng nhớ và tôn trọng người chết, từ sự can thiệp, đến các di tích, lời cầu nguyện và nghi lễ khác nhau được thực hiện để vinh danh họ. Phong tục khác nhau giữa các nền văn hóa và các nhóm tôn giáo. Tang lễ bao gồm để tang người quá cố, kỷ niệm cuộc sống của họ, và cung cấp hỗ trợ và cảm thông cho người mất; Ngoài ra, đám tang có thể có các khía cạnh tôn giáo nhằm giúp linh hồn của người quá cố đến thế giới bên kia, phục sinh hoặc tái sinh.

[02]

GIAI ĐOẠN TRƯỞNG THÀNH

Trong các nghi lễ của chu kỳ đời người thì nghi lễ trưởng thành (hay lễ thành nhân, lễ thành đinh, lễ cấp sắc). Nghi lễ này cũng được xem là cột mốc rất quan trọng đánh dấu bước ngoặt lớn trong cuộc đời từ khi “con non dại” để trở thành “người lớn”. Có thể nói, nghi lễ này của Việt Nam dường như không quá nổi bật trong các nghi lễ vòng đời người. Ở người Kinh thường được tiến hành khá đơn giản khi gia đình có con trai đến tuổi trưởng thành (18 tuổi), làm một lễ nhỏ như “biện cơi trầu” trình làng là được. Trong khi đó, đối với một số dân tộc thiểu số như: dân tộc Dao, dân tộc Ê Đê... quan niệm nghi lễ này có ý nghĩa đặc biệt nên cách thức tiến hành rất đa dạng, phong phú tùy theo mỗi dân tộc, mỗi vùng với thời điểm, địa điểm khác nhau.

8 3

GIAI ĐOẠN LÊN LÃO

Giai đoạn này là dành cho các cao niên, cụ già có độ tuổi từ 60 - 80 tuổi trở lên (những người được xem là sống lâu) do con cháu của họ tổ chức đồng thời cũng là lễ mừng của con cháu, vì theo quan niệm đạo đức và tôn giáo, cha mẹ có sống lâu thì con cháu mới được phụng dưỡng, thể hiện đạo hiếu. Thượng thọ được coi là một trong những nét truyền thống của người Việt Nam, thể hiện đạo lý làm người “uống nước nhớ nguồn”, “kính trọng người già cả” và đền đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của bậc ông bà, cha mẹ và là một nét đẹp của văn hoá Việt Nam. Qua các lễ : Lễ mừng tuổi, lễ lên lão, lễ khao thượng thọ,...

[03]

GIAI ĐOẠN KẾT HÔN

Từ xưa đến nay vẫn vậy, việc “trai lớn lấy vợ, gái lớn gả chồng” mãi là chuyện muôn thuở bởi đó là qui luật của cuộc sống. Hơn nữa, qua các nghi thức của hôn nhân không chỉ ghi dấu mốc son mà còn là ngày đại lễ hội của một đời người. Chính bởi lẽ đó, nghi lễ hôn nhân của Việt Nam cũng không là ngoại lệ nhưng không thể phủ nhận rằng hôn nhân vẫn là việc hệ trọng trong chu kỳ đời người cho dù có sự biến đổi ít nhiều trước sự tác động của yếu tố thời đại đi chăng nữa. Có thể thấy rằng tại Việt Nam, nghi lễ hôn nhân thường trải qua các bước như dạm ngõ, lễ ăn hỏi, lễ đón dâu và hôn lễ, song ở mỗi nghi thức lại tiến hành khác nhau bởi do phong tục tập quán của mỗi dân tộc, địa phương qui định. Tuy nhiên, hôn lễ là một trong những nghi thức của hôn nhân để gia đình, dòng họ, cộng đồng thừa nhận sự kết hôn của đôi trai gái.

V Ò N G Đ Ờ I


8 4

LÀNH [A]

GIAI ĐOẠN SINH ĐẺ

[01] Lễ cúng mụ Ông bà ta xưa quan niệm rằng: Đứa trẻ được sinh ra là do 12 bộ Tiên Nương (12 bà Mụ) nặn ra. Vì vậy, khi đứa trẻ đầy cữ (chào đời được 3 ngày), đầy tháng (chào đời được một tháng) và đầy năm, gia đình đứa trẻ phải tiến hành nghi lễ cúng Mụ để tạ ơn và cầu xin các Mụ ban cho đứa trẻ mọi điều may mắn tốt lành. [02] Lễ đầy tháng Lễ đầy tháng hay còn gọi là cúng đầy tháng là thời điểm theo quan niệm truyền thống của Việt Nam, đứa trẻ vừa được tròn một tháng sau sinh. Sự kiện này bao hàm nhiều ý nghĩa như: kết thúc giai đoạn khó khăn nhất không chỉ đối với người con mà còn với cả bà mẹ thời hậu sản (phải kiêng khem ở cữ); Đứa trẻ đã qua thời trứng nước tức tính được phần lớn những rủi ro trong năm đầu tiên của cuộc đời; Thông báo cho Tổ tiên về việc ra đời và đầy tháng tuổi của một thành viên mới trong gia đình. Song, bao trùm lên hết thảy, nghi lễ đầy tháng chính là chứng nhận của xã hội về sự hiện hữu của một con người - một thành viên mới trong gia đình và xã hội để qua đó khẳng định vai trò, trách nhiệm của gia đình, xã hội đối với thành viên mới, thế hệ tương lai. [03] Lễ đầy năm (thôi nôi) Đối với người Việt Nam, nghi lễ đầy năm của đứa trẻ rất quan trọng được xem như mở đầu cả đời người, do đó, lễ đầy năm (còn gọi là cúng đầy năm, lễ thôi nôi, cúng thôi nôi, đám thôi nôi) nhiều khi được tổ chức lớn hơn cả lễ đầy tháng. Ngoài việc cúng lễ cầu mong cho đứa trẻ hay ăn mau lớn, luôn khỏe mạnh, trước kia còn có nghi thức thử tài “chọn nghề tương lai” của trẻ. Theo quan niệm dân gian, vật nào được trẻ chọn trước (cầm trước) thì đó chính là sự chọn lựa nghề nghiệp tương lai cho mình.

[D]

V Ò N G Đ Ờ I

[B]

TRƯỞNG THÀNH

[02] Lễ cấp sắc của người Dao Theo quan niệm của người Dao, lễ cấp sắc là nghi lễ độc đáo và được lưu truyền từ nhiều đời trong cộng đồng người dân tộc Dao ở Lào Cai. Đàn ông chưa trải qua lễ cấp sắc thì dù già vẫn chưa được coi là trường thành và sẽ khong được tham dự vào việc hệ trọng của cộng đồng. Còn người đã qua tuổi cấp sắc dù ít tuổi vẫn được cộng đồng thừa nhận, được giúp việc cho thầy cúng. Lễ cấp sắc thường được tổ chứa vào tháng 11,12 hoặc tháng Giêng [02] Lễ trưởng thành của người Êđê Phải trải qua 5 lần làm nghi lễ trưởng thành thì người đó mới thật sự trưởng thành. Trong nghi lễ trưởng thành, già làng thay mặt buôn làng, thay mặt họ tộc chàng trai làm lễ cúng Giàng về chứng kiến và chiếc vòng đeo tay trong lễ trưởng thành là biểu tượng của cuộc sống, có nghĩa là buôn làng đã trao cho sức mạnh. Lễ trưởng thành củangười Ê Đê thể hiện tính cộng đồng rất cao vì có sự tham gia góp sức của cả buôn làng... [02] Lễ trưởng thành của học sinh Thời gian gần đây, nghi lễ trưởng thành diễn biến theo hướng tự phát, thường là do các trường tự tổ chức cho học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học vào dịp cuối năm với sự tham gia của bạn bè, thầy cô và phụ huynh. Trang phục trong lễ trưởng thành thường là đồng phục hoặc áo, mũ tốt nghiệp. Đây là dịp để các học sinh chia sẻ suy nghĩ, dự định tương lai, đồng thời bày tỏ lòng biết ơn tới thầy cô và cha mẹ khi bước vào tuổi trưởng thành.

[E]

KẾT THÚC

Tang lễ hay tang ma Đám ma, đám tang là một trong những phong tục của người Việt. Từ xa xưa do đã chịu ảnh hưởng rất nhiều từ nghi lễ của Trung Hoa nên tang lễ của người Việt cũng gồm rất nhiều quy trình, song đã cải biến nhiều chỗ để phù hợp với truyền thống dân tộc Việt. Tang lễ là tất cả những nghi thức do người sống thực hiện cho người chết từ lúc hấp hối cho đến khi chôn cất, nhằm thể hiện lòng thành kính, biết ơn đối với người đã khuất. Sinh hoạt xã hội Á Đông rất coi trọng tình cảm, đề cao tình thân, coi trọng huyết thống gia đình thân tộc hơn nên những nghi thức nghi lễ trong tang ma được thực hiện rất chu đáo, bài bản. Trong tư tưởng triết gia Á Đông, việc thực hiện nghi lễ tang ma đối với người chết là rất quan trọng Từ xa xưa, người người ta có ý nghĩ là sẽ chết nên trong nhà luôn được thủ sẵn một quan tài (hòm), được chọn lữa kỹ càng, gỗ tốt; và cả đồ bổ khuyết, đồ khâm liệm… Đó là đối với nững nhà giàu khá giả, phú quý còn với những gia đình nghèo khó thì họ chắc chắn phải chuẩn bị đủ quần áo đẹp, chiếu mới. Ngày xưa kia là vậy, đến bây giờ thì không còn chuẩn bị như này nữa vì người ta sợ nghĩ đến tang ma trong nhà, đặc biệt kiêng kị việc để quan tài trong nhà vì ý nghĩ mang điềm xấu đến gia đình.

Những nghi thức tang ma cơ bản của người Việt được thực hiện trình tự như sau và hầu như vẫn còn nguyên vẹn giá trị gốc không thay đổi ở hiện tại là mấy: [a] Lúc hấp hối con cháu vực đưa giường ra giữa nhà, ngày nay thì người ta sẽ đưa lên gian nhà thờ hay gian nhà chính, đặt đầu nằm quay về hướng đông để thụ sinh khí.

[g] Đặt tên thụy tên hiệu (tục gọi là tên hèm) đọc cho họ nghe, nếu sức quá yếu thì kề sát tay, đọc rõ ràng, nhắc đi nhắc lại để nhớ mà sau này gọi về cúng cơm.

[f] Lúc tắt hơi rồi, gài một chiếc đũa ngang miệng cho hé mở hàm rang (để dễ phạn hàm khi liệm).

[b] Cắt người coi sóc, nắn chân tay. [c] Hỏi xem có dặn bảo gì thì ghi chép, ngồi trò chuyện, thủ thỉ với người hấp hối trước khi họ ra đi, cầu mong họ an tâm, yên lòng mà ra đi thanh thản. [d] Rước đặt thây xuống chiếu trải trên đất để mong sinh khí phục hồi, rồi lại rước đặt lên giường, dùng vải đắp phủ kín. Tục truyền, không phủ kín mặt và không canh chừng lỡ có chó mèo chạy qua nhìn phải mắt người chết dễ sinh ra quỷ nhập tràng. Có lẽ đây là dụng ý khiến người ta phải cử người trông nom thi hài và dắp kín mặt mũi, thân…

GIAI ĐOẠN LÊN LÃO

Lễ mừng thọ Theo cách hiểu thông thường, chữ “thọ” là chỉ cho những người có tuổi tác cao (tức là cao niên, sống lâu) nên con cháu trong gia đình hoặc là thân tộc làm lễ mừng thọ các Cụ. Chữ “thọ” cũng có thể phân ra nhiều bậc, để biết bậc nào là thọ thấp, thọ cao, thọ nhiều tuổi, ít tuổi. Theo đó, khi chúc “Mừng Thọ” hay chữ “Chúc Thọ” là từ 60 tuổi trở lên. “Trung Thọ” là từ 70 tuổi trở lên, “Thượng Thọ” là từ 80 tuổi trở lên, “Đại Thọ” là từ 90 tuổi trở lên, “Vạn Thọ”, “Trường Thọ” cũng có thể chỉ cho những bậc đã sống từ trăm tuổi trở lên, Hoặc có những lời chúc như “ Phúc Thọ” là chỉ cho những bậc có phước nhiều, (“Phước Như Đông Hải, Thọ tỷ Nam Sơn”), Còn “Đạo Thọ” là chỉ những bậc tu hành nhiều năm, người có nhiều công đức (“Đạo Thọ Miên Trường”) Hoặc có thể dùng chữ “Khánh Tuế” hoặc “Khánh Thọ” để mừng cho các bậc đã thượng thọ hay đại thọ rất là long trọng, tôn kính mừng thọ các bậc bề trên.

[e] Đặt ít bông lên mũi để biết rõ ngày tắt nghỉ. Phải chính xác ngày giờ để đưa thầy xem có kỵ giờ ngày hành lễ hay không, tránh trùng vào ngày xấu, ma quỷ tranh giành.

[01] Lễ cúng mụ

[02] Lễ đầy tháng

GIAI ĐOẠN SINH ĐẺ [03] Lễ đầy năm

[04] Lễ cấp sắc của người Dao Độ tuổi mừng thọ có thể chia làm 3 bậc: Hạ thọ: từ 61 tuổi đến 69 tuổi. Trung thọ: từ 70 tuổi đến 79 tuổi. Thượng thọ: từ 80 đến 100 tuổi. Trong xã hội truyền thống của người Việt (người Kinh), vào dịp đầu năm, đón xuân mới người ta thường tổ chức khao thượng thọ (thường là vào dịp Tết nguyên đán - khoảng mồng hai Tết). Lễ khao thượng thọ được tổ chức trong gia đình và chủ yếu mang tính gia đình (hoặc dòng tộc, gia tộc), khác với lễ lên lão (gọi là lễ ra nhiêu), diễn ra ở đình làng, chủ yếu mang tính xã hội. Và Người Việt Nam quan niệm ông bà cha mẹ sống lâu là niềm hạnh phúc, là phúc đức cho con cháu. Lễ thượng thọ ở các làng quê là ngày hội đầu năm, ngày hội của truyền thống “uống nước nhớ nguồn cao đẹp”

[06] Lễ trưởng thành của học sinh

GIAI ĐOẠN TRƯỞNG THÀNH

[05] Lễ trưởng thành của người Êđê


8 5

LÀNH [c]

LỄ CƯỚI

[d]

[b]

CÁC LỄ HỘI, NGHI THỨC 02. Lễ xin dâu

CÁC LỄ HỘI, NGHI THỨC NHÁNH

[a]

GIAI ĐOẠN KẾT THÚC

01. Lễ nạp tài

[e]

03. Tục chăng dây

05. Rước dâu vào nhà

Lễ mừng thượng thọ Các nghi thức lễ cưới

Lễ mừng trung thọ [f]

04. Lễ rước dâu

06. Lễ tơ hồng

10. Lễ lại mặt

[g]

07. Trải giường chiếu

Lễ mừng hạ thọ 08. Lễ hợp cẩn

GIAI ĐOẠN LÊN LÃO

09. Tiệc cưới 10. Lễ cheo

ĐÁM CƯỚI HIỆN NAY

[C]

[07] Lễ nạp thái Sau khi nghị hôn, nhà trai mang sang nhà gái một cặp “nhạn” để tỏ ý đã kén chọn ở nơi ấy.

[13] Lễ ăn hỏi

[12] Lễ dạm ngõ

[08] Lễ vấn danh Lễ do nhà trai sai người làm mối đến hỏi tên tuổi và ngày sinh tháng đẻ của người con gái.

[14] Lễ cưới

[09] Lễ nạp cát: Lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, nếu tuổi xung khắc thì thôi.

GIAI ĐOẠN KẾT HÔN

[11] Lễ thỉnh kỳ

[07] Lễ nạp thái

[10] Lễ nạp tệ (hay nạp trưng): là lễ nạp đồ sính lễ cho nhà gái, tang chứng cho sự hứa hôn chắc chắn.

[11] Lễ thỉnh kỳ: là lễ xin định ngày giờ làm rước dâu tức lễ cưới. Và sau cùng là Lễ thân nghinh (tức lễ rước dâu hay lễ cưới): đúng ngày giờ đã định, họ nhà trai mang lễ đến để rước dâu về.

[09] Lễ nạp cát

[08] Lễ vấn danh

[10] Lễ nạp tệ (hay nạp trưng)

ĐÁM CƯỚI TRUYỀN THỐNG

Tuy nhiên hiện nay đa số gia đình người Việt không còn theo những này nữa mà đã co hẹp lại để đỡ tốn thời gian và tiền bạc. Theo mình được biết thì hiện nay, đám cưới hiện đại chỉ còn một số lễ như sau:

KẾT HÔN

[08] Lễ dạm ngõ Được sự đồng ý của nhà gái, nhà trai đem lễ sang. Đồ lễ bắt buộc phải có là trầu, cau, rượu, chè. Phải có trầu cau vì câu chuyện trầu cau trong cổ tích Việt Nam là tiêu biểu cho tình nghĩa vợ chồng, họ hàng ruột thịt. Miếng trầu là đầu câu chuyện, không có trầu là không theo lễ. [09] Lễ Ăn hỏi Hay còn gọi là lễ vấn danh, theo tục xưa là hỏi tên tuổi cô gái, nhưng ngày nay cha mẹ đôi bên đã biết biết rõ rồi. Cô gái nhà nào đã nhận lễ vấn danh coi như đã có nơi, có chốn. Sau ngày lễ ăn hỏi, phải có báo hỉ, chia trầu. Nhà gái trích trong lễ vật nhà trai đưa đến một lá trầu, một quả cau, một gói trà nhỏ, một cái bánh cốm, hoặc vài hạt mứt. Tất cả gói thành hộp hay phong bao giấy hồng, mang đến cho các gia đình họ hàng, bạn hữu của nhà gái. Nhà trai cũng báo hỉ, nhưng không phải có lễ vật này mà chỉ cần thiếp báo hỉ. Cũng trong lễ ăn hỏi, hai họ định luôn ngày cưới.

[10] Lễ cưới Lễ nạp tài Lễ xin dâu Tục chăng dây Lễ rước dâu Rước dâu vào nhà Lễ tơ hồng Trải giường chiếu Lễ hợp cẩn Tiệc cưới Lễ cheo Lễ lại mặt

V Ò N G Đ Ờ I


8 6

LÀNH

( CÁ ÔNG ) LỄ HỘI CẦU NGƯ (HAY CÒN GỌI LÀ LỄ HỘI CÁ ÔNG) LÀ NÉT ĐẸP VĂN HOÁ CỦA NGƯ DÂN CÁC LÀNG CHÀI VEN BIỂN NAM TRUNG BỘ. LỄ HỘI TÁI HIỆN LẠI MỘT CÁCH SINH ĐỘNG PHONG TỤC TRUYỀN THỐNG THỜ CÚNG CÁ ÔNG THEO NHỮNG TRUYỀN THUYẾT MANG ĐẬM NÉT VĂN HÓA DÂN GIAN. Theo các nhà nghiên cứu văn hoá, Lễ hội Cầu Ngư, thờ cúng Cá Ông là một hiện tượng văn hóa dân gian tiêu biểu của ngư dân ven biển, đặc biệt là ven biển Nam Trung bộ. Lễ hội cúng Cá Ông có vị trí đặc biệt trong đời sống tâm linh và tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân, đặc biệt là ngư dân các làng vạn chài. Qua thời gian, lễ hội càng được củng cố trong cộng đồng ngư dân ven biển và trở thành lễ hội truyền thống của bà con ngư dân.

L Ễ C Ầ U N G Ư

Tục thờ cúng Cá Ông, còn gọi là thần Nam Hải, bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ cá của người Việt các tỉnh Bắc bộ. “Ông” là tiếng gọi tôn kính của ngư dân dành riêng cho cá voi, loài cá thường giúp họ vượt qua tai nạn khi lênh đênh trên biển cả. Trong dân gian, người Việt cũng như người Chăm và người Hoa đều cho rằng cá voi không phải là loài cá bình thường mà là một loài cá thần. Biểu hiện ở đây không phải là sức vóc to lớn và sức chịu đựng khác thường, mà là loài cá có suy nghĩ, có tình cảm và đặc biệt là sự cảm nhận và tâm linh như con người. Không phải chỉ ngày xưa mà ngay cả tới bây giờ nhiều người vẫn nghĩ thế. Do đó, việc tôn thờ và thờ phụng rất tôn nghiêm

Trong sự chuyển hóa cá voi từ một loài vật nơi biển cả thành một vị Thần của cư dân sống bằng nghề biển, có vai trò của vương triều nhà Nguyễn. Nhiều đời vua nhà Nguyễn đã ban sắc phong tặng cá voi là “Nam Hải cự tộc Ngọc Lân tôn Thần”. Liên tiếp trong nhiều thế kỷ, các triều đại vua khác nhau đã ban sắc phong cho thần Nam Hải, chính thức công nhận tục thờ cúng Cá Ông tại các làng quê dọc ven biển miền Trung. Lăng Ông luôn được làng chài thờ cúng quanh năm và đặc biệt vào mùa xuân hay mùa thu hằng năm, lễ hội cúng Cá Ông theo nghi lễ truyền thống, rất trang trọng. Thờ Cá Ông ở đây không chỉ được xem là sự tôn kính thần linh mà còn gắn liền với sự hưng thịnh của cả làng. Hàng năm, thường là sau khi ăn Tết xong, ngư dân tổ chức lễ tế Cá Ông lồng ghép dưới hình thức Lễ hội Cầu Ngư và lễ ra quân đánh bắt vụ cá nam.

Những truyền thuyết về tục thờ Cá Voi Tục thờ Cá Ông ra đời từ bao giờ và đâu là nơi phát tích đến nay vẫn chưa thể khẳng định chính xác. Để giải thích cho tục thờ Cá Voi có nhiều truyền thuyết, trong đó một số truyện thuyết, chuyện kể vẫn còn được lưu truyền cho đến hôm nay: – Trong thần thoại Chăm kể lại: Sau thời gian rèn luyện phép thuật vì nôn nóng trở về xứ sở, Cha-Aih-Va đã cãi lời thầy tự ý biến thành cá voi, ra sông lớn mà đi nên sau đó đã bị trừng phạt. Cha-Aih-Va đổi tên và tự xưng là Po Riyah (thần Sóng Biển), cũng có lúc hoá thân thành thiên nga, trở thành ân nhân của những người bị đắm thuyền. – Truyền thuyết Phật giáo kể rằng: Ngày xưa, Đức Phật Bà Nam Hải Quan Âm, khi đi tuần du Nam Hải, Ngài rất đau xót khi mỗi mùa biển động, bão tố, nhiều thuyền nhân và ngư dân bị đắm thuyền và chết trôi trên biển cả. Để cứu giúp những sanh linh, Ngài liền lấy chiếc áo cà sa đang mặc và xé ra làm ngàn mảnh nhỏ ném xuống biển khơi, rồi hoá phép thành loài cá Voi có thân hình to lớn, lại ban cho cả “Phép thâu đường”để bơi thật nhanh nhằm kịp đến cứu giúp ngưòi bị nạn. Từ đó, loài cá Voi luôn là trợ thủ đắc lực trong việc cứu giúp người bị nạn trên biển. Do vậy, người dân miền biển các tỉnh phía Nam nước ta xem loài cá Voi là vị thần linh của biển khơi.


8 7

LÀNH Lễ Nghinh Ông

Nếu như Lễ Rước sắc là nghi thức được sử dụng chung cho nhiều lễ hội mà nơi tổ chức hoặc vị Thần chủ được bái tế trong lễ hội ấy có sắc phong vua ban, thì Lễ Nghinh Ông là nghi thức riêng có của Lễ hội Cầu Ngư. Lễ Nghinh Ông ở Khánh Hòa thường được tổ chức vào giờ thủy triều lên nên còn gọi là ‘Lễ nghinh thủy triều’. Lễ được thực hiện nhằm mục đích rước hồn Ông Nam Hải từ biển khơi về Lăng trước khi Tế chánh. Vì vậy, nghi thức này còn được gọi là ‘Phụng nghinh hồi đình’. Do Lễ hội Cầu Ngư ở các làng không trùng nhau về thời gian mà theo tập tục lễ nghinh Ông phải tùy theo con nước lên, nên giờ tiến hành lễ của mỗi làng cũng mỗi khác. Nhưng đa phần Lễ Nghinh Ông ở Khánh Hòa đều được tổ chức vào sáng sớm – là thời điểm mặt trời lên cũng như nước triều lên. Lễ Nghinh Ông thường kéo dài trong khoảng hai giờ. Đoàn thuyền tham dự Lễ Nghinh Ông ở Khánh Hòa phải là những chiếc thuyền đánh cá đích thực và được bố trí như sau: – Ghe lễ – Ghe Bá trạo – Ghe dắt Ngoài số ghe quy định trên, còn có nhiều ghe của ngư dân hoặc khách tham quan cũng đi theo dự lễ, tạo nên không khí tưng bừng và sắc màu cho Lễ Nghinh Ông.

Hò Bá Trạo

Hò Bá trạo là một trò diễn dân gian vùng Nam Trung bộ mang tính tổng thể nguyên hợp đậm nét. Với hình thức biểu diễn tổng hợp mang tính chất sân khấu dân gian như múa, hát, nói… Là trò diễn nhưng lại được xem là một nghi lễ bắt buộc chỉ riêng có trong Lễ hội Cầu Ngư ở Nam trung bộ và Khánh Hòa. Theo cổ lệ, mỗi làng có Lăng Ông đều thành lập đội Hò Bá trạo để phục vụ cho lễ hội làng mình. Trước ngày lễ hội, làng chọn từ 15 đến 19 thanh niên khỏe mạnh để tập trò Hò Bá trạo. Trong thời gian luyện tập ấy họ phải ăn chay nằm đất, tránh sát sinh và không được quan hệ với phụ nữ nhằm giữ cho thân tâm trong sáng để phụng sự Đức Ông. Về sau cổ lệ này được gia giảm, đồng thời do nhu cầu nâng cao chất lượng phục vụ lễ hội mà đã hình thành nên các đội Hò Bá trạo bán chuyên và chuyên nghiệp.

Lễ Rước sắc

Ở Khánh Hòa, các sắc phong Ông Nam Hải thường không đặt tại Lăng mà được cất giữ tại Nhà Tiền hiền hoặc giao cho một hào lão có uy tín trong làng gìn giữ gọi là ‘Thủ sắc’, khi có lễ hội thì mới rước sắc về Lăng tổ chức bái tế. Do vậy, Lễ Rước sắc được xem như nghi thức mở đầu của Lễ hội Cầu Ngư ở Khánh Hòa. Lễ Rước sắc được bắt đầu vào sáng ngày đầu tiên của Lễ hội. Đúng giờ quy định, Ban Tế lễ, các vị hào lão, những người phụng sự lễ hội và dân làng lễ phục trang nghiêm, tề tựu đầy đủ tại Nhà Tiền hiền để chuẩn bị vào cuộc lễ. Lễ gồm ba nghi thức: –Thỉnh sắc: Được thực hiện trang trọng trước chánh điện của Nhà Tiền hiền. Ban Tế lễ thay mặt dân làng dâng hương xin với Thành hoàng và các vị Tiền Hậu hiền được thỉnh sắc Ông Nam Hải về Lăng bái tế. Ở một số nơi, Lễ Thỉnh sắc cũng chính là Lễ Tế Tiền hiền. –Rước sắc: Được thực hiện theo hình thức đám rước long trọng. Một đám rước được tổ chức bài bản gây ấn tượng lớn cho mọi người, thu hút đông đảo dân làng tham dự và tạo nên không khí vừa thiêng liêng, vừa gần gũi – trang trọng mà là rất nhộn nhịp, tưng bừng. –Khai sắc: Khi đám rước về đến Lăng, Ban Tế lễ đưa Long đình vào Chánh điện. Sau khi nhập Long đình vào Lăng, vị Chánh tế sẽ mang sắc phong đặt lên bàn thờ để làm Lễ Khai sắc và mở đầu cho Lễ hội Cầu Ngư.

L Ễ C Ầ U N G Ư


8 8

LÀNH

Trong tín ngưỡng nông nghiệp đồng bào luôn thể hiện sự tôn thờ thần Núi, thần Sông và đặc biệt là thần Lúa để cầu mong cho mưa thuận gió hòa mùa màng bội thu. Chính vì lẽ đó, hàng năm đồng bào Tà Ôi– Pa Cô thường tổ chức lễ APier trước khi bà con trỉa lúa, gieo hạt trên nương. Bởi họ quan niệm nếu không làm lễ cúng này thì thần Lúa sẽ không thức dậy mùa màng không tốt tươi, sẽ bị con sâu con mọt, phá hoại, vậy nên việc làm lễ cúng thần là một nghi lễ quan trọng trong văn hóa của người Tà Ôi - Pa Cô.

Trưởng làng sẽ họp làng lại và chọn ngày giờ tốt để chọn mảnh đất cho nghi lễ gieo hạt. Sau khi họp bàn và chuẩn bị đất xong họ sẽ cùng nhau cải tạo mảnh đất đó thành những mảnh nhỏ để chuẩn bị cho nghi lễ gieo hạt. Khi đất đã được chọn lựa và cải tạo, đồng bào Tà Ôi - Pa Cô tiến hành một cây nêu tại khoảng đất đó và chọn giờ làm lễ

Lễ vật dâng cúng trong lễ A pier bao gồm 1 con heo, 1 con gà, 1 ché rượu cần, gạo nếp, bánh, mía, 5 loại hạt giống (lúa, ngô, lạc, đậu, mè). Sau khi lễ vật chuẩn bị xong, họ sẽ thịt heo và dâng lên cho Yang phần đầu và thịt ngon nhất để thể hiện lòng thành, cùng với đó là máu tươi được lấy từ con heo. Theo nghi thức, gà được luộc chín đặt cạnh ché rượu cần đặt sẵn bên cột nêu cùng những chiếc bánh a quát. Đặc biệt vật dụng không thể thiếu được là các loại hạt giống đã được các gia đình chuẩn bị sẵn. Khi lễ vật đã được chuẩn bị xong các gia đình tề tựu

bên mái nhà Rông và Trưởng làng đại diện làm lễ cho cả Làng, đồng bào Tà Ôi – Pa Cô cùng ngồi quanh cây nêu thể hiện lòng thành, Trưởng làng thắp nén hương và bắt đầu lễ cúng trên nhà Rông: “Ơi Yang, hôm nay chúng con cùng tất cả những gia đình trong buôn có mặt tại đây. báo cáo với Yang rằng, cho đến giờ phút này mùa vụ mới đã bắt đầu mong thần hãy thức dậy đừng ngủ nữa. đã đến lúc chúng ta cùng nhau đi ra rẫy để chuẩn bị cho một mùa gieo hạt, trỉa lúa mới. thần không còn thời gian để ngủ nữa đâu, hãy yêu mến con người, hãy yêu

thương buôn làng, hãy chứng dám cho buôn làng bằng những lễ vật mà chúng con dâng cúng lên Giàng, có gà, có rượu, có xôi có bánh và có thịt…xin Giàng hãy thức tình để nảy mầm xanh tốt, lớn đều, lớn nhanh, hạt chắc, hạt đều…mang lại một mùa màng bội thu và ấm no cho cả buôn làng. Ơ Yàng!”. Sau khi lễ cúng trong nhà được hoàn tất, thầy cúng cùng toàn thể dân làng cùng di chuyển ra mảnh đất đã chọn và tổ chức lễ cúng ngoài rẫy. Lễ vật dâng cúng cũng bao gồm: gà, heo, rượu, bánh, mía, và tiết heo tươi theo nghi thức.

[02]

L Ễ G I E O H Ạ T

[01]

Nghi thức đánh thức hạt giống.

Bắt đầu lễ cúng, Trưởng làng lấy một chiếc chiêng la để cho những hạt giống vào đó, đánh chiêng lên cho hạt giống thức dậy. Đồng bào Tà Ôi – Pa cô quan niệm chỉ khi hạt giống được đánh thức thì mới có thể nảy mầm, lên đều và lên đẹp. Cùng lúc đó, những gia đình có hạt giống đã được bỏ sẵn trong giỏ và đeo bên hông, họ đứng theo từng hàng trên những mảnh đất được chia sẵn cho từng loại hạt.

Lễ vật ngoài rẫy.


8 9 Lúc này, Trưởng làng bắt đầu đọc lời cúng các vị thần: “Ơi các vị thần đang ngự trị trên mảnh mương con suối của chúng con hãy xin thức dậy để chứng dám cho cho ngày hôm nay. Và giờ phút này thần lúa đã thức dậy để chuẩn bị cho một mùa gieo hạt mới. xin các vị thần hãy chứng dám cho buôn làng với các lễ vật như heo, gà, rượu, bánh và xôi… được dâng lên với tất cả mong muốn, mưa thuận gió hòa, thần lúa mọc lên xanh tốt, không bị con sâu con mối phá hoại cũng như các hạt giống sẽ lên đều, lên xanh, lên đẹp…”Sau khi lời cúng của Trưởng làng kết thức thì cũng

LÀNH

là lúc các hạt giống sẽ được gieo xuống đất trước sự vui mừng của cả buôn làng. Họ vừa gieo hạt vừa hát ru cho thần Lúa, mong thần hãy luôn yêu thương con người, quý mến buôn làng mà nhanh nảy mầm xanh tốt, xen lẫn những bài hát ru là những tiếng chiêng, trống rộn ràng báo hiệu một mùa vụ tốt tươi ở phía trước. Sau khi các nghi lễ cúng kết thúc, chương trình giao lưu văn nghệ của các cộng đồng dân tộc đang tham gia các hoạt động hàng ngày tại Làng được diễn ra. Lễ Gieo hạt và các hoạt động dân ca dân vũ tại làng dân tộc Tà Ôi đã thu hút đông đảo du khách tham quan. [05]

[04]

Nghi thức cúng thần Lúa.

Đồng bào Tà Ôi - Pa Cô múa xoang mừng vui hội.

[03]

Lễ vật trong nhà

L Ễ G I E O H Ạ T


9 0

LÀNH

0 1

MÙA XUÂN

0 2

TẾT NGUYÊN ĐÁN

Dọn dẹp, trang trí nhà cửa đón Tết Vào những ngày trước Tết, các gia đình người Việt thường có phong tục dọn dẹp, trang trí nhà cửa. Trong những ngày này, các đồ dùng gia đình hay bàn ghế, cửa ngõ đều được lau chùi sạch sẽ.

T H Ờ I T I Ế T

Lễ rước vong linh ông bà Vào chiều ngày 30 Tết các gia đình sẽ chuẩn bị mâm cỗ gồm trái cây, thức ăn để cúng ông bà, tổ tiên. Đây là phong tục ngày Tết rước ông bà về ăn Tết với con cháu.

Gói bánh chưng, bánh tét Tết Bánh chưng, bánh tét là những món ngon ngày Tết không thể thiếu trong dịp Tết cổ truyền. Vào những ngày cuối năm, các thành viên trong gia đình sẽ tụ họp và ngồi vây quần bên nhau để gói bánh chưng, bánh tét. Xuất hành đầu năm Xuất hành vào đầu năm mới là phong tục ngày Tết diễn ra vào sáng mồng 1 Tết. Tức là thời gian bạn sẽ bước chân ra khỏi nhà đầu tiên thì được tính là xuất hành. Phong tục xuất hành đầu năm với mong muốn cả năm may mắn, “thượng lộ bình an” mỗi khi bước chân ra đường.

MÙA HẠ TẾT ĐOAN NGỌ

Cúng tất niên cuối năm Đây là một phong tục ngày Tết mang ý nghĩa rất quan trọng. Tất nghĩa là xong, hết còn niên nghĩa là năm do đó tất niên là kết thúc một năm cũ đã qua. Nó có ý nghĩa để tổng kết 1 năm làm việc và cầu may cho năm mới. Các thành viên trong gia đình sẽ cùng nhau chuẩn bị những mâm cỗ đầy, khói hương nghi ngút đặt lên bàn thờ gia tiên. Phong tục xông đất Tục xông đất hay còn là xông nhà được thực hiện sau đêm giao thừa, thường là vào mồng 1 Tết. Ai đặt chân đến nhà bạn đầu tiên thì người đó được coi là người xông đất đầu năm. Với quan niệm nếu người xông đất hợp tuổi với gia chủ trong năm mới thì cả năm sẽ làm ăn phát đạt.

Tắm nước lá mùi Cây mùi là một loại cây lá nhỏ và có mùi thơm. Theo tục truyền, lấy cây mùi đun nước tắm trong ngày này sẽ giúp thoát nhiều mô hôi, cơ thể sẽ được thư giãn cùng với hương thơm dễ chịu. Ngoài ra, lá mùi còn là một vị thuốc nam giúp tránh được gió máy, cảm mạo, trừ độc, mang lại sức khỏe tốt. Hái lá thuốc Vào trưa 12 giờ, ở nhiều địa phương thường thấy là những vùng thôn quê, người dân sẽ rủ nhau đi hái lá thuốc. Theo quan niệm của người xưa truyền rằng, 12 giờ trưa là thời khắc dương khí tốt nhất vì mặt trời sẽ tỏa ra ánh nắng tốt nhất trong năm, do đó các loại cây lá hái trong thời gian này có tác dụng chữa bệnh.

Ăn trái cây giết sâu bọ Ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch là lúc thời tiết giao mùa, các côn trùng sâu bọ phát triển. Theo quan niệm xưa, việc ăn trái cây đầu mùa và đặc biệt là các loại cây chua, chát như mận, vải, dưa hấu, dứa… để diệt các “sâu bọ” có trong người. Ăn cơm rượu nếp Đây là món ăn có vị ngọt và chữa được nhiều bệnh như suy nhược cơ thể, trị chứng ra mồ hôi trộm. Phong tục này đã

có từ lâu đời nhằm thể hiện mong muốn đẩy lùi được mầm bệnh trong cơ thể, mang lại sức khỏe dồi dào và tươi trẻ.

Ăn bánh ú tro Bánh ú tro có tính mát và dễ tiêu, dùng để trung hòa các loại thức ăn nhiệt, khó tiêu. Không những thế, bánh còn giúp cơ thể thải độc, lợi tiểu và phòng các bệnh sỏi thận, gút,.... Khảo cây giờ Ngọ Khảo cây vào giờ Ngọ Đúng 12 giờ trưa vào ngày Tết Đoan Ngọ, ở nhiều địa phương sẽ thực hiện tập tục khảo cây hay còn gọi là đánh cây. Những cây bị khảo thường là những loại cây ăn quả ít ra quả hoặc bị sâu bệnh. Tùy theo từ vùng miền mà cách hỏi sẽ khác nhau tuy nhiên đa số tập trung vào việc “đe dọa” cây nêu không ra trái sẽ bị đốn. Người trên cây sẽ trả lời với giọng cuống quýt và van xin, hứa sắp tới sẽ cho ra quả.


9 1

LÀNH

0 3

MÙA THU

0 4

TẾT TRUNG THU

Trong ngày Tết Trung Thu, theo phong tục người Việt, tất cả thành viên trong gia đình cùng bày mâm cỗ cúng trên bàn thờ và mâm cỗ cúng trăng (cúng trời đất), quây quần bên nhau, thưởng trà, ăn bánh, trông trăng; trẻ em vừa múa hát vừa rước đèn, rồng rắn theo đoàn múa lân, múa rồng. Cũng từ đó trăng tròn là biểu tượng của sum họp và Tết trung thu cũng được gọi là Tết đoàn viên. Đây cũng là dịp nghĩa của chăm sóc, của báo hiếu, của biết ơn, của tình thân hữu, của đoàn tụ và của thương yêu.

Mâm cỗ Thông thường có trọng tâm là con chó được làm bằng tép bưởi. Xung quanh có bày thêm hoa quả và những loại bánh nướng, bánh dẻo, bánh chay có hình lợn mẹ với đàn lợn con béo múp míp hoặc hình cá chép. Hạt bưởi thường được bóc vỏ và được xiên vào những dây thép, và đến đêm Trung Thu, những sợi dây bằng hạt bưởi được đem ra đốt sáng. Những loại quả, thức ăn đặc trưng của dịp này là chuối và cốm, quả thị, hồng đỏ và hồng ngâm màu xanh, vài quả na dai...và bưởi là thứ quả không thể thiếu được.

MÙA ĐÔNG LỄ HỘI MỪNG LÚA MỚI

Lồng đèn Những chiếc lồng đèn này được làm bằng giấy bìa, giấy kiếng đỏ và đốt nến bên trong là loại đồ chơi phổ biến trong dịp Trung Thu xưa. Nào là, đèn ông sao, đèn cá chép, đèn bươm bướm, đèn sư tử... Bánh trung thu Từ truyền thống đến hiện đại, dù đa dạng hóa hơn về nguyên liệu làm bánh và hình thức trình bày nhưng bánh trung thu vẫn được chia làm 2 loại chính: bánh nướng, bánh dẻo.

Người Xơ Đăng Xơ Đăng là một trong những dân tộc có lịch sử lâu đời nhất về Lễ Cúng Cơm Mới. Lễ hội này đối với người Xơ Đăng mang rất nhiều màu sắc tâm linh, thường được tổ chức trong vòng ba ngày. Lễ Cúng Cơm Mới đối với người Xơ Đăng chính là dịp để các gia đình cùng nhau chuẩn bị những ché rượu cần ngon nhất, những miếng thịt nướng thơm phức, những thanh cơm lam nóng hổi, cùng nhau làm nên nét đẹp của văn hóa cộng đồng. Mâm cúng cũng không thể thiếu được đầu heo, cơm nấu từ lúa mới để dâng lên thần linh. Đặc biệt người đồng bào Xơ Đăng còn có tục lệ ăn thịt chuột đồng, ngụ ý chính là ám chỉ tiêu diệt loài động vật phá hoại mùa màng này.

Người J’rai và Bahnar Khác với Xơ Đăng, lễ mừng lúa mới của dân tộc J’rai và Bahnar lại kéo dài hơn rất nhiều, thường từ tháng 11 dương lịch cho đến tháng giêng năm sau. Vì sau vụ mùa bà con đều rảnh rỗi, thời tiết chưa thuận lợi để gieo cấy vụ mới nên sẽ dành thời gian cho đất nghỉ ngơi. Lễ Cúng Cơm Mới của người J’rai và Bahnar diễn ra ở từng nhà theo tục lệ truyền thống. Đồ cúng chủ yếu là heo, gà, dê, tùy thuộc vào kinh tế mỗi gia đình. Gia đình nào thu hoạch, phơi lúa thóc xong trước thì tổ chức trước, gia đình nào xong sau thì tổ chức.

Người Êđê Phong tục lễ hội mừng lúa mới của dân tộc này cũng có nhiều nét tương đồng với các dân tộc kể trên. Mỗi gia đình sẽ lần lượt tổ chức Lễ Cúng Cơm Mới tại nhà mình, phụ nữ tập trung lại nấu nướng, bếp núc cho nhà này rồi qua nhà khác, đàn ông thì cũng tụ lại giết gà mổ heo, cứ lần lượt đến từng nhà trong bản, làm rồi cúng lễ rồi ăn uống. Chính vì thế dịp lễ hội mừng lúa mới này chúng là cơ hội thắt chặt tình nghĩa của người dân tộc Êđê, mỗi nhà đều đón tiếp hết lượt người dân trong bản, thậm chí còn mời họ hàng từ các buôn làng xa ghé qua. Đây cũng là dịp để nam thanh nữ tú gặp gỡ tìm hiểu nhau, mở ra những mối tình đẹp.

T H Ờ I T I Ế T


9 14 2

[ LÁ SỐ 07 ]

K Ế T


LÀNH


9 4

KẾT Khái niệm văn hoá tâm linh biểu hiện thực chất tri thức khoa học về cuộc sống chân thật của con người trong thế giới tự nhiên và xã hội. Cuộc sống của xã hội loài người không thể tồn tại lâu dài nếu không có văn hoá tâm linh. Tức là, các cá nhân, nhóm, cộng đồng không sống chân thật, thân thiện, nhân văn trong quốc gia, xã hội loài người thì cuộc sống trên trái đất này sẽ ngày càng bị huỷ diệt. Nhận thức đúng khái niệm văn hoá tâm linh là vấn đề cấp thiết ở các quốc gia trên thế giới; để công dân có thể hiểu rõ thực chất các khái niệm, như sự thật, sự sống, con người, hạnh phúc,nguồn gốc thật của sự sống các loài vật, trong đó có loài người. Nhận thức không đúng khái niệm văn hoá tâm linh về thực chất là do thiếu sự liêm chính học thuật của con người, dẫn đến hậu quả tiêu cực đối với sự phát triển.

Như trong không ít các từ điển đã giải thích cho chúng ta hiểu rằng “tâm” là trái tim, “linh” là sáng suốt thiêng liêng, văn hóa tâm linh lại là một khái niệm chung bao quát giúp con người chúng ta có một góc nhìn, một tinh thần thoải mái và an yên. Không chỉ vậy, trong đời sống hiện nay, chúng ta có rất nhiều các hoạt động văn hóa tâm linh và đã có lịch sử rất lâu đời từ thời ông cha ta và nó dần như thói quen hoặc là lối sống văn hóa, lối sống văn minh và tiến bộ của dân tộc Việt Nam ta. Văn hóa tâm linh không chỉ là chỉ những phong tục thờ cúng mà nó còn là mặt truyền thống văn hóa đẹp đẽ và mang tính lịch sử cao quý của dân tộc Việt Nam chúng ta. Ngoài ra, không chỉ mang nét đẹp về lối sống, về tính lịch sử mà văn hóa tâm linh còn mang đến nét đẹp về sự hiếu thảo, sự tôn kính, nhớ ơn đối với cội nguồn, tổ tiên với những vị anh hùng dân tộc, những người chiến sĩ đã khuất vì đấu tranh tạo nên hòa bình cho con cháu thế hệ sau chúng ta, của dân tộc Việt Nam ta, đây là điều quan trọng nhất và rõ nhất mà nét đẹp văn hóa tâm linh thể hiện được trong dân tộc Việt Nam ta.

L Ờ I K Ế T

Văn hóa tâm linh có những mặt tích cực không thể phủ nhận trong đời sống cộng đồng. Đó là sợi dây cố kết cộng đồng, lưu giữ truyền thống, giáo dục lòng nhân ái, vị tha, ý thức hướng thượng, hướng thiện. Các tôn giáo khác nhau về giáo lý song đều gặp nhau ở tinh thần nhân ái, khoan dung, triết lý nhân bản. Văn hóa tâm linh là chỗ dựa về mặt tinh thần, xoa dịu những đau thương mất mát, đem lại niềm tin vào những điều tốt đẹp, cao cả, thiêng liêng, giúp con người chiến thắng nỗi sợ hãi trước cái chết, đem lại sự thanh thản, cân bằng cho tâm hồn.

Tín ngưỡng dân gian có khả năng đáp ứng được những nhu cầu về mặt tinh thần, tâm linh của các tầng lớp cư dân trong xã hội: nhu cầu được an ủi, chia sẻ, xoa dịu nỗi đau thương, mất mát nơi trần thế; ước mơ có điểm tựa tinh thần để đối mặt với những thách thức, rủi ro từ thiên nhiên và xã hội; là “chất keo gắn kết cộng đồng”, “năng lượng tinh thần”, khuyến khích con người hướng thiện, vươn tới chân - thiện - mỹ, ba trụ cột quan trọng của văn hóa. Đó là nền tảng của tính nhân văn của nhân loại.


KẾT Như trong không ít các từ điển đã giải thích cho chúng ta hiểu rằng “tâm” là trái tim, “linh” là sáng suốt thiêng liêng, văn hóa tâm linh lại là một khái niệm chung bao quát giúp con người chúng ta có một góc nhìn, một tinh thần thoải mái và an yên. Không chỉ vậy, trong đời sống hiện nay, chúng ta có rất nhiều các hoạt động văn hóa tâm linh và đã có lịch sử rất lâu đời từ thời ông cha ta và nó dần như thói quen hoặc là lối sống văn hóa, lối sống văn minh và tiến bộ của dân tộc Việt Nam ta. Văn hóa tâm linh không chỉ là chỉ những phong tục thờ cúng mà nó còn là mặt truyền thống văn hóa đẹp đẽ và mang tính lịch sử cao quý của dân tộc Việt Nam chúng ta.

9 5

Ngoài ra, không chỉ mang nét đẹp về lối sống, về tính lịch sử mà văn hóa tâm linh còn mang đến nét đẹp về sự hiếu thảo, sự tôn kính, nhớ ơn đối với cội nguồn, tổ tiên với những vị anh hùng dân tộc, những người chiến sĩ đã khuất vì đấu tranh tạo nên hòa bình cho con cháu thế hệ sau chúng ta, của dân tộc Việt Nam ta, đây là điều quan trọng nhất và rõ nhất mà nét đẹp văn hóa tâm linh thể hiện được trong dân tộc Việt Nam ta.

L Ờ I K Ế T


9 6

NGUỒN

KHAI

WIKIPEDIA

THỜ

DANH

WIKIPEDIA

N G U Ồ N

WIKIPEDIA LYTUONG.NET VUSTA.VN LANGNGHECATDANG. WORDPRESS.COM BAOPHAPLUAT.VN VANCUNGVIETNAM.COM PLO.VN BAOTINTUC.VN BAODONGNAI.COM BAODANANG.VN CHONTHIENG.COM BOOKHUNTERCLUB.COM DAO-MAU.FANDOM.COM DONGMYNGHE.COM.VN TAPCHISONGHUONG.COM. VN BAOTANGPHUNU.COM

THIÊNG

WIKIPEDIA META.VN VIETNAMPLUS.VN BACHHOAXANH.COM COOKY.VN TIENPHONG.VN HANOIMOI.COM.VN DONGYYEN.COM.VN BAODANTOC.VN VIETNAMNET.VN


9 7

NGUỒN

KIÊNG

VNDOC.COM WIKIPEDIA GIADINH.NET.VN BACHHOAXANH.COM THAPLONGTHO.VN TINTUCVIETNAM.VN KINHDIENTAMQUOC.VN VIETGIAITRI.COM TAPCHIMEOVAT.COM

KẾT

LÀNH

GVHD

NGUYỄN LÂM MINH HOÀI

WIKIPEDIA LUATHOANGPHI.VN CJS.INAS.GOV.VN HERITAGEVIETNAMAIRLINES. COM DANTOCMIENNUI.VN CUOIHOIVIETNAM.COM UYENDIEM.WORDPRESS.COM BAZANTRAVEL.COM DOISONGPHAPLUAT.NGUOIDUATIN.VN DULICHVIETNAM.COM.VN MATTRANKHANHHOA.ORG.VN MIA.VN

THÀNH VIÊN NHÓM

PHẠM THÀNH LỘC 197DH13798 NGUYỄN NGỌC ANH TRÂM 197DH14815 HOÀNG ÁNH SAO 197DH33616 LÂM MẠNH TƯỜNG 197NA15745

N G U Ồ N



Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.