Jane eyre phần i

Page 1


Tên sách: Jane Eyre Tác giả: Charlotte Bronte Dịch giả: Nguyễn Tuyên Nhà xuất bản: Văn học Năm xuất bản: 2008 Số trang: 622 Khổ sách: 14.3 x 20.3 cm Trọng lượng: 700 gram Đánh máy: hiepsiga, heocon_18, giangcoi163, JinnyH, chunhocnhoxiu, tuinak, hoanga1, ICT, Mercury169, Cammywhity, katies91, ohoh_helpme, hanh_nguyen_bg, zuywuan, camchuongdo Soát lỗi chính tả và làm ebook: hiepsiga Ngày hoàn thành: 03/04/2011 Nguồn: http://www.e-thuvien.com/ ----TVE----


Charlotte Bronte

JANE EYRE Người dịch: Nguyễn Tuyên

NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC



MỤC LỤC Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Chương 15 Chương 16 Chương 17 Chương 18 Chương 19 Chương 20 Chương 21 Chương 22 Chương 23 Chương 24 Chương 25 Chương 26 Chương 27 Chương 28 Chương 29


Chương 30 Chương 31 Chương 32 Chương 33 Chương 34 Chương 35 Chương 36 Chương 37 Chương 38



Chương 1 Không thể dạo chơi được ngày hôm ấy. Thực ra vào buổi sáng chúng tôi cũng đã thơ thẩn lang thang suốt cả tiếng đồng hồ bên các lùm cây trụi lá, nhưng sau bữa tối (mỗi khi không có khách, bà Reed thường dọn cơm ăn sớm) thì gió đông chợt tràn về cuốn theo những đám mây tối sầm, rồi đến một trận mưa lạnh buốt đến nỗi chẳng có ai nghĩ đến việc bước chân ra khỏi nhà. Nhưng tôi lại lấy thế làm vui, đơn giản là tôi vốn không thích những cuộc dạo bộ dài dài, nhất là vào những buổi chiều rét mướt. Quả thực tôi thấy sợ phát khiếp khi nghĩ đến lúc trở về nhà giữa cảnh chiều đông nhá nhem, ngón chân ngón tay cước giá tê tái, trong lòng khổ sở vì những lời mắng mỏ của chị vú nuôi Bessie cùng sự tủi nhục vì lại thấy mình thấp hèn hơn cả Eliza, John và Georgiana Reed. Những cái tên Eliza, John và Georgiana Reed tôi vừa nói hiện giờ đang túm tụm vây quanh bà mẹ trong phòng khách – người đang gác người lên chiếc tràng kỷ đặt cạnh lò sưởi. Trông bà có vẻ thật hạnh phúc với những đứa con yêu quấn quýt quanh mình – lúc ấy chúng chơi ngoan lắm cơ! Nhưng còn tôi, bà Reed không cho lại gần chung vui. Bà bảo “bà rất lấy làm tiếc khi phải cách ly tôi như vậy cho tới khi bà nghe chị Bessie nói, và tất nhiên là cả chính bà cũng nhận thấy tôi đã thực lòng cố gắng sống chan hòa và lễ phép hơn, có cách cư xử hoạt bát và đáng yêu hơn, nói tóm lại là một tính nết nhẹ nhàng hơn, thẳng thắn, tự nhiên hơn. Còn bây giờ thì bà phải tước bỏ của tôi những đặc quyền làm vui vầy trẻ nhỏ.” - Mợ đã nghe chị Bessie nói những gì về cháu nào? – Tôi hỏi. - Jane. Đừng có giở cái giọng láo lếu ra mà vặn vẹo tao, mà trẻ con là cấm tiệt không được có cái vặn vẹo bề trên như thế. Tìm chỗ khác mà ngồi đi, chừng nào còn chưa biết ăn nói cho tử tế thì hãy cứ ngậm mồm ngậm miệng lại! Tôi lẩn sang phòng điểm tâm nằm sát ngay bên phòng khách. Trong đó có một tủ sách. Tôi để ý những cuốn có nhiều tranh ảnh, chọn ngay lấy một quyển và leo lên bậu cửa sổ, thu chân ngồi xếp bằng tròn như một người Thổ, rồi kéo tấm rèm dạ đỏ xuống cho thật kín.


Những nếp rèm đỏ tươi che kín tầm mắt bên phải tôi, còn bên trái là những tấm kính trong suốt khiến cho tôi cảm thấy mình được che chở, nhưng không bị ngăn cách với cảnh trời đất ảm đạm một ngày cuối năm. Dù xem sách, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn ngó nghiêng ngắm cảnh chiều đông. Bày ra trước mắt tôi là một màn sương mù nhạt nhòa phía xa xa, gần hơn nữa là một bãi cỏ ướt mềm dưới những lùm cây gục đầu vì bão tố dập vùi cùng những hạt mưa rơi không dứt, những trận cuồng phong gào rú thê lương. Tôi trở lại với cuốn sách – cuốn Lịch sử các loài chim ở Anh quốc của Bewick. Bình thường, chẳng mấy khi tôi quan tâm đến những dòng chữ, nhưng có một số trang giới thiệu thì dù còn là trẻ con, tôi cũng chẳng thể bỏ qua như những tờ giấy trắng được. Đó là những trang nói về những nơi một số loài hải âu thường qua lại, “những mỏm đá và mũi đất đơn độc trơ vơ” chỉ dành cho những loài chim ấy làm tổ, về bờ biển Nauy nhấp nhô những hòn đảo từ cực Nam, Lindesness hay Naze, cho đến mũi Bắc… Nơi biển Bắc mịt mùng sóng vỗ Sôi sục quanh những hải đảo đơn côi Của miền đất Thule xa xôi; và Đại Tây dương bạc đầu giữa trùng khơi Đổ tràn và Hibrides cùng phong ba bão tố. Tôi cũng không thể bỏ qua những dòng nói về các bờ biển lạnh lẽo ảm đạm ở Lapland, Siberia, Spitzbergen, Nova Zembla, Aixơlen, Greenland, với “miền cực Bắc mênh mông và những vùng trời tăm tối hoang sơ quanh năm suốt tháng trập trùng sương tuyết – nơi có những cánh đồng băng rắn chắc tích tụ từ hàng trăm năm, bao phủ lấp lóa trên những đỉnh núi trùng điệp vây quanh miền Bắc cực và cũng là nơi hội tụ cái giá buốt vô cùng khắc nghiệt”. Tôi có một trí tưởng tượng riêng về những miền trắng chết chóc ấy. Nó u ám như những khái niệm mơ hồ vẫn chập chờn mông lung trong đầu óc trẻ con, nhưng lại ấn tượng đến lạ lùng. Những dòng giới thiệu gắn với những hình vẽ minh họa tiếp theo càng tăng thêm ý nghĩa cho mỏm đá đứng bơ vơ giữa biển sóng cồn mịt mù bụi nước, cho con thuyền tan vỡ trôi giạt trên bãi biển hoang vu, cho vầng trăng lạnh ghê người lấp ló sau những làn


mây nhìn vào xác thuyền đắm. Tôi không sao gợi tả được tình cảm trong lòng trước cái nghĩa địa câm lặng quạnh hiu với những mảnh bia đá khắc chữ, vòm cổng vào, hai thân cây trơ trọi, đường chân trời thấp tịt cùng dãy tường đổ vây quanh, và cảnh trăng lưỡi liềm mới nhú như muốn chứng thực cho một thời khắc hoàng hôn đang sắp qua đi. Hai chiếc tàu dập dềnh một chỗ trên những làn sóng biển uể oải khiến tôi tưởng đó là những bóng ma biển. Tôi lật nhanh trang có con quỷ buộc chặt cái bị vào lưng gã ăn trộm. Quả là một cảnh tượng thật hãi hùng đối với tôi! Nhưng khủng khiếp hơn vẫn là con vật đen trùi trũi, đầu mọc sừng, ngồi ngất ngưởng trên mỏm đá giương mắt nhìn một đám đông vây quanh chiếc giá treo cổ đằng xa. Mỗi bức tranh kể một câu chuyện; đối với sự hiểu biết và những cảm xúc còn non nớt của tôi thì đó thường là những chuyện huyền bí, nhưng bao giờ cũng rất thú vị, chẳng kém gì những mẩu chuyện mà thỉnh thoảng chị Bessie, khi thấy vui trong lòng, vẫn kể cho tôi nghe trong những buổi chiều đông. Thường thì mỗi khi đem chiếc bàn dùng để là quần áo vào gần lò sưởi trong buồng trẻ, chị lại bảo chúng tôi ngồi quây quần xung quanh rồi kể chúng tôi nghe những mẩu chuyện tình, chuyện phiêu lưu trong các thần thoại cổ và những ca khúc xưa, khiến chúng tôi không dứt ra được. Chị cũng hay kể [1] những mẩu chuyện rút trong cuốn Pamela , và cuốn Henry, bá tước xứ [2] Moreland. Trở lại bên khung cửa sổ, tôi cảm thấy vui vì có cuốn truyện của Bewick đặt trên gối, ít ra là vui theo hoàn cảnh của tôi. Tôi chẳng sợ gì mà chỉ lo có người vào phá tan niềm vui nho nhỏ của mình, và điều đó đã đến quá nhanh. Cửa phòng điểm tâm bất ngờ mở toang. - A! Bà già lầm lì đây rồi! – John Reed hét tướng lên nhưng rồi lại im bặt vì thấy hình như trong phòng chẳng có ai. - Lạ thật, con ranh ấy biến đi đằng nào rồi không biết? – Nó lẩm bẩm rồi gọi ầm lên – Lizzy ơi! Georgy ơi! (tên hai đứa em), con Jane nó không có ở


đây. Chúng mày chạy ra bảo mẹ là nó đã chạy ra ngoài dầm mưa rồi nhé. Đồ thối thây! “Mình kéo chiếc màn cửa thế này lại hóa hay.” – Tôi nghĩ và thầm khấn để nó đừng tìm ra chỗ mình trốn. Một mình thằng John thì làm sao tìm được chỗ của tôi. Nó không phải là loại nhanh nhẹn, sáng dạ. Còn Eliza thì khác, chỉ vừa thò cổ vào đã phán ngay một câu: - Jack, thế nào nó cũng nấp sau rèm cửa cho mà xem! Tôi vội chui ra ngay, vì cứ nghĩ đến đoạn bị cái thằng gọi là Jack ấy lôi xềnh xệch xuống là tôi đã đủ rủn cả người. - Có chuyện gì vậy, Reed? – Tôi lúng túng hỏi nó. - Phải nói rằng: “Thưa cậu chủ Reed, cậu bảo gì ạ.” Tao muốn mày lại đây. – Nó nạt nộ rồi nó ngồi phịch xuống ghế bành, tay ra hiệu cho tôi phải lại gần và đứng ngay trước mặt nó. John Reed là một thằng học trò mười bốn tuổi, hơn tôi bốn tuổi vì hồi ấy tôi mới lên mười. So với tuổi thì nó là một thằng cao lớn, nước da tai tái bệnh hoạn, khuôn mặt to bành bạnh và thô kệch, chân tay vụng về thô thiển. Nó quen thói phàm ăn tục uống, nên bị bệnh gan, mắt thì lờ đờ đùng đục, còn má thì phị ra như hai cái bị. Lẽ ra giờ này nó phải ở trường nội trú, nhưng bà Reed đã rước nó về nhà một hai tháng, để “chăm nom cho sức khỏe mong manh” của cậu con trai quý tử. Ông giáo chủ nhiệm Miles đã nói như đinh đóng cột rằng sức khỏe của nó sẽ chẳng đến nỗi thảm hại như vậy nếu như ở nhà bớt gửi bánh kẹo cho nó đi một chút; nhưng đời nào bà mẹ lại chịu nghe theo cái ý kiến khắt khe như thế, bà chỉ nghĩ rằng thằng John bủng beo chẳng qua là vì chăm học hoặc cũng có thể vì nhớ nhà quá đấy thôi. Nhưng John đâu có yêu quý gì mẹ và các em nó. Còn tôi thì khỏi phải nói, tôi ghét nó đến tận xương tận tủy. Nó bắt nạt và hành hạ tôi như tra tấn, không phải vài ba lần mỗi tuần hay vài bữa mỗi ngày, mà là liên tục. Từng dây thần kinh của tôi đều khiếp sợ nó, từng đường gân thớ thịt trên người tôi đều rúm cả lại mỗi khi thấy nó đến gần. Những khi bị nó dọa dẫm, tôi bủn rủn hết cả người vì chẳng còn biết kêu ai. Đám gia nhân trong nhà chẳng ai muốn bênh vực tôi vì sợ làm phật lòng nó. Còn bà Reed thì giả mù giả điếc coi như chẳng có chuyện gì xảy ra. Chẳng bao giờ bà trông hoặc nghe thấy thằng con quý tử nhục mạ tôi. Không ít lần nó hành hạ chửi bới tôi ngay


trước mặt bà, nhưng thường thì nó hành hạ tôi sau lưng bà. Theo thói quen nghe lời thằng John, tôi bước lại chỗ nó ngồi. Nó cố thè hết cỡ cái lưỡi đến ba phút trước mặt tôi tưởng chừng đứt cuống lưỡi đến nơi. Tôi biết sớm muộn gì thì nó cũng lại đánh tôi; dù sợ bị ăn đòn nhưng tôi vẫn cố mường tượng ra cái bộ mặt ngoáo ộp mà nó sắp giở ra với tôi. Không hiểu nom nét mặt tôi, nó có đoán được tôi nghĩ gì không, chỉ biết rằng nó đã chẳng nói chẳng rằng, bất ngờ vồ lấy tôi rồi thượng cẳng chân, hạ cẳng tay đấm đá túi bụi vào người tôi. Tôi loạng choạng suýt ngã nhưng cũng kịp lấy thăng bằng và lùi xa chiếc ghế bành vài bước. - Tao làm vậy cốt để trị mày vì cái tội lấc cấc với mẹ tao lúc nãy, – nó lên giọng – tội thập thò lẩn lút sau rèm cửa, và cả cái tội mày giương mắt nhìn tao vừa xong, đồ con chuột bẩn thỉu! Bị nó rủa suốt ngày nên tôi chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện cãi lại, mà chỉ lo làm sao chịu được trận đòn thế nào cũng xảy ran gay sau những lời chửi rủa. - Mày đang giở trò gì sau rèm cửa thế hả? – Nó hỏi. - Tao đọc sách. - Chìa quyển sách ra đây tao xem nào! Tôi quay lại cửa sổ lấy quyển sách. - Hạng như mày mà cũng đòi đọc sách của chúng tao à? Mày là kẻ ăn bám nhà tao, mẹ tao bảo thế. Đến một xu dính túi mày cũng đếch có, bố mày cũng chẳng để lại gì cho mày. Cái hạng mày lẽ ra phải đi ăn xin mới phải, chứ đâu lại được sống ở đây với con nhà sang trọng như chúng tao, ngồi ăn cùng chúng tao, mặc quần áo bằng tiền của mẹ chúng tao. Được đấy, thế nào tao cũng phải dạy cho mày cách lục lọi giá sách: đấy là sách của riêng tao, cả cái nhà này cũng là của tao, cùng lắm là trong vài năm nữa. Bước ra đứng cạnh cửa đi, nhớ là phải đứng xa cái gương và cửa sổ ra, biết chưa? Tôi lầm lì làm theo lời thằng ôn mà chưa hiểu nó định làm gì mình. Nhưng khi thấy nó cầm quyển sách và đứng lấy đà chuẩn bị ném, tôi vội tránh sang một bên theo bản năng và hét ầm lên. Nhưng muộn rồi, cuốn sách đã liệng trúng người tôi, làm tôi ngã dúi dụi vào khung cửa đến toạc cả


máu đầu. Bị đau điếng và kinh hãi đến cực độ (tiếp theo là những cảm giác khác), tôi uất ức hét lên: - Đồ dã man cục súc, mày đúng là thằng giết người, tên đồ tể. Mày xem mày có khác gì bọn bạo chúa La mã không? Tôi đã đọc cuốn Lịch sử thành Rôm của Goldsmith và sẵn có ý niệm về các nhân vật Neron, Caligula… thành ra tự trong đầu đã ngầm so sánh bọn này với thằng John, chứ thực ra tôi không hề nghĩ đến chuyện phải chửi rủa như vậy. - Cái gì! Mày lải nhải cái gì! – Thằng John gào lên. – Có phải nó dám nói với tao thế không? Eliza, Georgiana, chúng mày có nghe thấy nó nói gì không? Chẳng lẽ tao lại không đi mách mẹ được à? Nhưng trước hết… Nó xông lại túm tóc, túm vai tôi. Được rồi, mày cứ hành hạ con chán sống này đi! Tôi thấy nó đúng là một tên bạo chúa, một thằng giết người. Vết thương trên đầu rỉ máu ròng ròng chảy xuống cổ gây cho tôi một cảm giác đau đớn át đi sự sợ hãi, và tôi đã điên cuồng chống trả thằng Reed. Tôi không nhớ rõ tay mình đã làm những gì, chỉ thấy nó hét: “Đồ con chuột! Đồ con chuột!” và rống lên ầm ĩ. Nó đã có kẻ bênh vực ngay bên cạnh. Eliza và Georgiana lập tức chạy lên cầu thang tìm bà Reed. Bà xuất hiện ngay tại trận, theo sau là chị Bessie và cô đầy tớ Abbot. Họ nhảy vào can tôi và thằng Reed: - Trời ơi! Chết thật! Nó dám đánh lại cả cậu John mới gớm chứ! - Đã ai thấy cảnh tai quái thế này bao giờ chưa? Rồi bà Reed ra lệnh: - Lôi cổ nó vào phòng đỏ kia, khóa chặt cửa lại. Bốn bàn tay lập tức túm chặt lấy tôi và lôi tuột tôi lên bậc cầu thang.



Chương 2 Tôi vùng vằng chống cự suốt dọc đường lên gác, đó là điều tôi chưa từng làm. Sự ngang bướng của tôi càng khiến Bessie và Abbot nghĩ không tốt về tôi. Thực ra thì tôi cũng có sỗ sàng, hay nói như người Pháp, tôi đã phát điên. Tôi hiểu rằng chỉ vì giây phút làm càn mà tôi sẽ phải hứng chịu bao nhiêu hình phạt. Và cũng như bất cứ một kẻ nô lệ nổi loạn nào khác, trong cơn tuyệt vọng, tôi thấy mình phải đi tới cùng. - Giữ lấy tay con bé, Abbot, trông nó chẳng khác nào một con mèo điên. - Rõ là đồ không biết ngượng! – Chị đầy tớ rít lên. – Cô quá lắm, Eyre ạ! Dám đánh lại cậu ấm, con trai ân nhân của mình, cậu chủ của mình! - Cậu chủ ư! Hạng nó mà cũng đòi là ông chủ của em ư? Thế chẳng nhẽ em là đầy tớ của nó? - Không, cô còn chưa bằng cả đầy tớ nữa là đằng khác, vì cô chỉ là một đứa vô tích sự. Đây, ngồi xuống đây và ngẫm cho kỹ về cái tính đanh đá của mình. Lúc ấy, họ lôi tôi vào căn phòng bà Reed vừa bảo và dúi tôi ngồi xuống một chiếc ghế đẩu. Máu trong người tôi như sôi lên, tôi đứng phắt dậy như một chiếc lò xo, nhưng bốn cánh tay lại giữ chết lấy tôi. - Nếu cô không chịu ngồi yên thì có lẽ phải trói cô lại vậy. – Bessie dọa tôi. – Lấy cho tôi mượn đôi tất, chị Abbot, tất của tôi sợ đứt mất. Abbot cúi xuống cởi chiếc nịt ở bắp chân chắc lẳn của mình ra. Thấy họ làm thật và nghĩ đến chuyện bị làm nhục một lần nữa, tôi đành phải bớt hung hăng: - Đừng cởi tất nữa, em sẽ không làm càn nữa đâu. Như muốn đảm bảo lời hứa của mình, tôi ngồi yên, hai tay nắm chặt gờ ghế. - Nhớ đừng có mà ngọ nguậy nữa đấy nhé. – Bessie nói và khi thấy tôi đã thực sự xuống nước, chị ta mới chịu buông tôi ra. Hai người đứng khoanh tay nghi ngờ nhìn thẳng vào mặt tôi, vẻ như vẫn chưa tin ở sự khuất phục


của tôi. Cuối cùng, Bessie quay sang bảo Abbot: - Từ trước đến nay nó có làm thế đâu? - Lúc nào mà nó chẳng thế? Abbot đáp lại. – Tôi vẫn luôn mồm nhắc bà chủ về con bé này, và bà ấy cũng đồng ý với ý kiến của tôi. Nó là một đứa gian xảo, tôi chưa từng thấy đứa con gái nào chạc tuổi nó mà lì lợm đến thế. Bessie không nói gì, nhưng lát sau thấy chị quay sang bảo: - Cô phải hiểu rằng cô mang ơn bà Reed rất nhiều vì công bà nuôi nấng; nếu bị bà ấy đuổi khỏi đây thì cô chỉ còn nước là vào trại tế bần. Tôi thật không biết nói thế nào trước những lời răn dạy nhạt nhẽo của Bessie. Đây không phải là lần đầu tiên tôi được nghe những câu nói như vậy, nó chẳng khác gì những kỷ niệm thuở thơ ấu non nớt vẫn thường gợn lên trong đầu tôi. Lời trách móc tôi là một kẻ ăn bám đã trở thành một điệp khúc cay đắng văng vẳng mơ hồ bên tai tôi. Abbot phụ họa theo: - Cô đừng lầm tưởng bà Reed tử tế nuôi nấng dạy dỗ cô cùng với cô cậu Reed mà nghĩ là mình ngang hàng với chúng nhé. Rồi họ sẽ giàu sang, còn cô thì mãi mãi vẫn chỉ là đứa chết cũng không có chỗ dung thân mà thôi. Việc của cô là phải biết nhún nhường và cố làm sao để tự vừa lòng với họ. - Những điều chúng tôi nói chỉ cốt là để tốt cho cô thôi, – Bessie nói thêm, giọng đã dịu lại – cô nên cố gắng làm sao trở thành một người sống có ích và dễ thương, chỉ có vậy cô mới còn chốn nương thân ở đây, chứ nếu cô cứ điên điên khùng khùng và cục cằn thô lỗ thì tôi tin là sớm muộn bà Reed cũng sẽ tống cô ra khỏi cửa. - Chưa biết chừng còn bị Chúa trừng phạt nữa ấy chứ. – Abbot lại nói đế thêm vào – Nó sẽ bị quất chết tươi giữa lúc nó giở giói điên khùng, và rồi đời nó sẽ đi về đâu chứ? Chị Bessie ạ, chúng mình xuống thôi. Chịu khó ngồi đây một mình và cầu nguyện đi, cô Eyre ạ. Nếu cô không chịu ăn năn hối cải, thế nào quỷ dữ cũng sẽ chui xuống ống khói bắt cô đem đi đấy. Hai người bước ra khỏi phòng rồi khóa chặt cửa lại. Nơi tôi đang ngồi là một căn phòng để thừa. Hiếm khi, nếu không muốn


nói là chưa bao giờ có người ngủ ở đây, trừ những lúc có nhiều khách khứa đến lâu đài Gateshead. Nhưng đó lại là một gian phòng rộng và trang trọng nhất trong nhà. Giữa phòng là một chiếc giường có bốn chân bằng gỗ gụ to bự, với những tấm màn lụa màu đỏ thẫm dệt hoa văn nổi buông chùng xuống nom như một cái ngai thờ. Hai khung cửa sổ lớn luôn buông kín mành, bị những tràng hoa thêu và những tấm rèm cùng một loại vải che khuất một nửa. Thảm trải sàn màu đỏ sẫm, cuối giường kê một chiếc bàn phủ tấm khăn đỏ thắm. Các bức tường được quét màu hồng nhạt. Tủ quần áo, bàn trang điểm và những chiếc ghế cổ đều được làm bằng gỗ gụ đánh bóng. Giữa đám đồ đạc câm lặng này nổi bật lên một đống đệm và gối vỏ trắng, ở trên giường được phủ một tấm ga Macxây trắng như tuyết. Gần đầu giường kê một chiếc ghế bành rộng được đặt mảnh đệm cũng màu trắng nhưng ít nổi bật như đống đệm gối. Đằng trước ghế bành đặt một chiếc ghế để chân mà thoạt nhìn tôi cứ tương là một cái ngai thờ xám nhợt. Căn phòng lạnh lẽo vì ít khi có ánh sáng, lặng lẽ vì cách xa cả nhà trẻ và nhà bếp; thâm nghiêm và ít có dấu chân người. Chỉ có thứ bảy hàng tuần mới có người vào lau bụi bám trên các đồ vật. Ngay cả bà Reed cũng thỉnh thoảng mới ló vào xem mấy thứ cất trong chiếc ngăn kéo bí mật ở tủ quần áo, trong đó để các loại giấy tờ, tráp đựng nữ trang của bà và một tấm ảnh nhỏ của ông chồng quá cố. Mấy thứ sau cùng tôi vừa kể có liên quan tới bí mật của căn phòng nhỏ đó. Ông Reed mất đã được chín năm rồi, ông trút hơi thở cuối cùng trong căn phòng tôi đang ngồi đây. Căn phòng cũng chính là nơi đặt thi hài ông, và là nơi mấy người phu của nhà đòn rước linh cữu ông đi. Từ ngày ông mất, căn phòng được biến thành nơi thờ tự nên có ít người bước chân vào. Cái chỗ mà chị Bessie và Abbot cay nghiệt kia vừa dúi tôi ngồi xuống là một chiếc ghế đẩu có thùng thấp tè, kê cạnh lò sưởi lát đá cẩm thạch. Lù lù ngay trước mặt tôi là cái giường; bên phải là tủ quần áo khá cao, màu thẫm, cửa loang loáng phản chiếu méo mó lờ mờ các đồ vật; bên trái là hai khung cửa sổ nhỏ có rèm che kín. Giữa hai cửa sổ treo một tấm gương soi lớn phản chiếu cái vẻ thâm nghiêm trống trải của căn phòng và chiếc giường. Không rõ Bessie và Abbot lúc ra có khóa cửa buồng không; tôi đánh bạo đứng ngay dậy chạy ra xem sao. Trời đất ơi, không còn nhà ngục nào kiên cố hơn được nữa! Lúc trở về chỗ ngồi, tôi buộc phải đi ngang qua chỗ chiếc gương. Tôi liếc mắt nhìn vào gương và cảm thấy chiều sâu thăm thẳm của nó như làm tôi bị mê hoặc. Trong cái ảo ảnh kia, mọi vật đều lạnh lẽo và u tối hơn ở ngoài. Một


cái bóng bé con kỳ quái đang nhìn tôi, bộ mặt cùng đôi tay trắng bệnh hiển hiện trong bóng tối, đôi mắt long lanh đưa đi đảo lại sợ sệt nhìn những đồ vật im lìm bất động chung quanh, tạo cho tôi cảm giác mình đang đứng trước một bóng ma hiện hình. Tôi lập tức mường tượng ra đó là một trong những bóng ma nhỏ bé, nửa người nửa ngợm thường hiện lên trước mặt kẻ bộ hành lúc đêm hôm khuya khoắt giữa những thung lũng dương sỉ cô liêu, hoặc giữa những cánh đồng hoang vắng mà thỉnh thoảng tối tối chị Bessie vẫn kể cho tôi nghe. Tôi quay về chỗ ghế đẩu. Tôi bông đâm ra mê tín, nhưng cũng chưa đến nỗi dị đoan khiến tôi mê muội. Dòng máu tôi vẫn còn nóng bừng bừng; tâm trạng bực bội của một kẻ nô lệ nổi loạn vẫn chưa dễ gì nguội đi trong lòng; tôi phải kìm bớt những hoài niệm miên man về quá khứ trước khi bị gục ngã bởi những lo sợ trước mặt. Tính cục súc tàn bạo của thằng Reed, sự kiêu căng của mấy đứa con gái em nó, sự ghét bỏ của bà mẹ, và hành động theo hùa của đám đầy tớ trong nhà, vâng, tất cả đều quay cuồng trong đầu tôi như một cái giếng ngập ngụa. Tại sao tôi cứ phải chịu đau khổ, chịu hành hạ đày đọa mãi thế? Tại sao tôi không thể làm cho người khác vừa lòng? Tại sao người ta lại không có cảm tình với tôi? Trong khi con Eliza ngang ngạnh ích kỷ thì lại được người ta tôn trọng. Con Giorgiana mất nết hư thân, một đứa gian dối, hỗn láo và hay sinh sự thì lại được họ chiều chuộng. Dường như sự xinh xẻo, đôi má hồng và những lọn tóc vàng óng của nó như đã đánh lừa con mắt của mọi người, khiến cho ai nhìn thấy cũng có thể bỏ qua mọi lỗi lầm cho nó thì phải. Còn cậu quý tử John thì khỏi phải nói: không một ai dám phật ý chứ chưa nói đến chuyện mắng mỏ nó, cho dù nó có vặn gẫy cổ chim bồ câu, giết chết những con công non, suỵt chó xộc vào đàn cừu, ngắt tiện cả những chùm nho trong nhà kính, bẻ sạch những mầm cây quý nhất trong vườn ươm đi nữa thì cũng chẳng sao. Nó còn gọi mẹ nó là “gái già” và thỉnh thoảng lại nhiếc móc bà vì cái tôi nước da của bà đen khiến nó cũng bị đen lây. Nó chẳng coi những ý muốn của bà là cái gì, thậm chí còn xé rách và bôi nhem nhuốc vào áo lụa của bà, thế nhưng vẫn cứ là “cậu cưng của mẹ”. Còn tôi, có bao giờ tôi sơ ý phạm phải lỗi một tí ti nào đâu. Lúc nào tôi cũng cố gắng làm tròn bổn phận của mình, thế mà vẫn bị họ luôn mồm sỉ vả là ương ngạnh, rách việc, lén lút, lầm lì từ sớm đến trưa, từ trưa đến tối. Đầu tôi còn đau nhức và rỉ máu từ lúc bị John đáng ngã; nó đánh tôi dã man thế mà không bị ai mắng. Còn tôi, chỉ vì dám kháng cự để tránh những lần vô lý sau, mà bị mọi người sỉ nhục đến thậm tệ.


“Thật là bất công, phi lý!” – Tôi tự lý luận bởi sự thôi thúc cay đắng của một sức mạnh bột phát nhất thời. Và sự bồng bột ấy bỗng trở nên quyết liệt, xui khiến tôi nghĩ đến những mưu kế kỳ lạ để thoát khỏi cảnh áp bức không thể chịu nổi này bằng cách bỏ trốn, hoặc nếu không làm thế được, thì tôi cũng sẽ chẳng ăn uống gì nữa và cứ tự để cho mình chết. Tôi thật sự khiếp nhược trong buổi chiều ảm đạm ấy! Đầu óc tôi sao mà rối bời, mà muốn nổi loạn đến thế! Tôi đang thực sự vật lộn với chính mình trong tối tăm ngu dốt mà không thể trả lời cái câu hỏi lởn vởn không dứt trong đầu mình: tại sao tôi lại phải khổ như vậy? Giờ đây, khi một khoảng thời gian dài đã trôi qua, không nhớ là bao nhiêu năm, tôi mới thấu hiểu cảnh ngộ của mình. Tôi bất hòa và khác biệt với hết thảy mọi người trong lâu đài Gateshead, chẳng có điểm gì hòa hợp với bà Reed, hay lũ con bà, hay bọn người đầy tớ mà bà đã chọn. Nếu họ không thích tôi thì tôi cũng chẳng việc gì phải yêu mến họ. Nhưng thực lòng mà nói, họ việc gì phải tỏ ra trìu mến một kẻ không thể nào có thiện cảm với một ai trong bọn họ; một kẻ khác hẳn họ về tính tình, khả năng, khuynh hướng; một kẻ vô dụng, chẳng làm được gì để phục vụ lợi ích của họ hoặc làm cho họ thêm vui lòng; một kẻ ăn hại luôn nuôi dưỡng trong lòng những mầm mống căm phẫn đối với cách đối xử của họ, coi thường những phán xét của họ. Trong phòng đỏ ánh sáng ban ngày đã tắt. Lúc ấy đã quá bốn giờ, và ánh chiều đang ngả dần sang một màu mây khói ảm đạm. Tôi bắt đầu nghe thấy tiếng những hạt mưa rơi đập tí tách vào các cô cửa kính bên cầu thang, rồi tiếng gió rít qua những lùm cây sau nhà. Người tôi lạnh dần như cục đá, và rồi bao nhiêu can đảm trong tôi cũng biến đi đâu hết. Cái nhút nhát thường ngày, tính tự ti, sự chán chường bỗng chốc đổ ập ướt át trên đống tro của lửa căm giận đang lụi tàn. Ai cũng bảo là tôi hung ác, chưa biết chừng đúng thật. Việc gì phải nhịn ăn cho chết đói chứ? Hẳn đó là một tội lỗi: tôi đã đáng chết chưa? Hay cái hầm mộ dưới nhà thờ Gatesheat là một nơi an nghỉ cuối cùng có sức quyến rũ những kẻ chán chường? Nghe nói hầm mộ ấy chính là nơi người ta chôn cất ông Reed. Nghĩ đến ông, tự nhiên tôi lại thấy sợ. Tôi không thể hình dung ông là người thế nào, chỉ biết ông là cậu ruột tôi – em trai của mẹ tôi, là người đã đem tôi về nhà nuôi khi tôi là một đứa trẻ côi cút, và trong lúc hấp hối, ông đã bắt bà vợ hứa rằng sau này phải nuôi dạy tôi như con đẻ. Có lẽ bà Reed luôn nghĩ rằng mình đã giữ đúng lời hứa, hay


nói một cách khác, bà đã thực hiện lời hứa với chồng một cách tốt nhất theo bản chất của mình. Nhưng nói cho cùng, sau khi chồng chết, việc gì bà phải thương yêu một đứa trẻ không còn quan hệ máu mủ gì với mình ở trong nhà? Thật là khó chịu khi phải nhìn một đứa trẻ con nhà người dưng nước lã giữa bầy con thân thương của mình chỉ vì một lời hứa miễn cưỡng với người quá cố như một sự ràng buộc không thể nào chấp nhận được ấy. Trong đầu tôi chợt lóe lên một ý niệm: tôi ngờ rằng – bao giờ cũng vậy – nếu còn sống, thế nào cậu Reed cũng đối xử tốt với tôi. Giờ đây, chốc chốc lại ngồi sợ sệt ngắm nhìn tấm gương trắng nhờ nhờ và những bức tường chìm trong bóng tối, tôi bắt đầu hồi tưởng lại chuyện đã được nghe về những người đã chết. Chuyện kể rằng nếu những ước nguyện cuối cùng của họ bị vi phạm khiến họ nằm dưới mồ không yên, thế nào họ cũng trở về dương gian để trừng phạt kẻ nuốt lời và trả thù cho những người bị ức hiếp. Tôi nghĩ rằng linh hồn ông Reed, bị dằn vặt vì cảnh bị ngược đãi của đứa cháu gái mình, hẳn sẽ chui lên khỏi mồ – và hiện ra ngay trước mắt tôi trong căn phòng này. Tôi quệt nước mắt, cố nén những tiếng nấc trong lòng vì sợ những biểu hiện đau khổ sẽ đánh thức một giọng nói siêu phàm nào đó đến an ủi tôi, hay làm cho hiện ra trong bóng tối một khuôn mặt tỏa ánh hào quang và rạng rỡ niềm thương cảm cúi sát xuống người tôi. Đúng ra thì đó phải là nguồn ai ủi, nhưng nếu là chuyện có thật thì chắc chắn tôi sẽ sợ phát khiếp. Tôi ra sức xua đuổi ý nghĩ đó và cố giữ cho bình tĩnh trong lòng. Tôi ngẩng mặt hất ngược mớ tóc lòa xòa dưới trán và đánh bạo nhìn quanh căn phòng tối om. Vừa lúc đó có một vệt sáng không hiểu từ đâu rọi lên tường. Chẳng lẽ lại là ánh trăng chiếu qua mành cửa? Không thể, bởi ánh trăng bao giờ cũng đứng yên, đằng này lại chuyển động, hắt ngược lên trần nhà rồi lia loang loáng ngay trên đầu tôi. Chắc là ánh lửa chiếu vào từ một cây đèn lồng của ai đó đang đi ngang qua thảm cỏ. Nhưng thần hồn nát thần tính, vốn đã sợ sẵn sau những nao núng vừa rồi, tôi nghĩ vệt sáng đó chính là sứ giả báo hiệu trước một linh hồn sắp đến thăm tôi từ thế giới bên kia. Tim đập mạnh, đầu óc như có lửa, hai bên tai như có tiếng cánh chim vỗ, tôi ngỡ như có một cái gì đó đang đến bên cạnh mình. Cảm giác bức bối, ngột ngạt không thể chịu đựng nổi khiến tôi gào ầm lên và liều mạng chạy bổ ra cửa, mắm môi mắm lợi lay lắc ổ khóa một cách tuyệt vọng. Nhưng ngay lúc đó tôi nghe có tiếng những bước chân đi dọc hành lang bên ngoài, rồi tiếng chìa khóa xoay loạch xoạch trong ổ. Bessie và Abbot bước vào. - Eyre, cô ốm đấy à? – Bessie cất tiếng hỏi tôi.


- Cái gì mà ầm ĩ lên thế! Làm tôi sợ hết cả hồn! – Abbot gắt gỏng. - Cho em ra ngoài! Để em vào nhà trẻ đi! – Tôi kêu van. Chị Bessie lại hỏi: - Để làm gì? Cô bị đau à? Cô đã lại nhìn ra cái gì phải không? - Vâng, có một vệt sáng, cứ như ma sắp hiện về ấy. – Tôi nức nở và nắm chặt tay chị Bessie. Không thấy chị gạt ra. - Nó giả bộ đấy! Abbot ngoa ngoắt nói, giọng có vẻ kinh tởm. – Tiếng kêu mới thật giống làm sao! Nếu nó đau ốm thật thì ai thèm chấp, nó chỉ quang quác lên cốt để bắt mình phải lên đây thôi; tôi thừa biết cái thói ranh ma của nó. - Lại chuyện gì thế hả? – Một giọng khác hách dịch. Thì ra là bà Reed đang đi ngoài hành lang. – Này hai chị, tôi đã bảo là nhốt con bé trong phòng cho đến khi tự tôi đến kia mà! - Nhưng cô Jane gào to quá, thưa bà. – Bessie tần ngần đứng phân trần. - Mặc xác nó! – bà Reed rít lên – Buông tay Bessie ra! Con kia, mày không thể lừa ai được bằng cái trò mèo ấy đâu! Tao còn lạ gì bọn nhãi ranh như mày, tao phải làm cho mày hiểu rằng cái mẹo vặt ấy không ổn đâu. Biết điều thì hãy cứ ngồi trong đó thêm một tiếng nữa đi. Liệu cái thần hồn đấy, biết vâng lời thì hãy mong tao tha cho. - Mợ ơi! Xin mợ thương cháu! Hãy tha lỗi cho cháu, cháu không chịu nổi như thế này nữa đâu. Cháu xin chịu phạt bằng bất cứ cách nào cũng được! Cháu sẽ chết mất nếu cứ… - Im ngay! Cái thói táo tợn của mày thật đáng ghê tởm! – Chắc là bà ta thấy như thế thật. Trong mắt bà thì tôi là một kẻ biết đóng kịch quá sớm. Bà thực sự coi tôi như một đứa trẻ con nhiều đam mê độc ác, đồi bại và lừa lọc nguy hiểm. Bessie và Abbot lui đi rồi. Sốt ruột trước sự nem nép và những tiếng nức nở của tôi, bà Reed bất ngờ dúi mạnh tôi vào buồng và lập tức khóa cửa nhốt tôi bên trong mà không thèm nói thêm nửa lời. Nghe tiếng chân bà bước xa dần, tôi bỗng thấy sa sầm như sắp sửa ngất xỉu, không biết gì nữa.




Chương 3 Điều tôi nhớ tiếp theo là khi sực tỉnh dậy, tôi có cảm giác như vừa trải qua một cơn ác mộng và trông thấy trước mặt một vệt sáng đỏ chói lòa đáng sợ với những đường rạch đen ngang dọc. Tôi cũng nghe thấy những âm thanh rỗng tuyếch như bị tiếng gió rít hay tiếng thác đổ át đi. Sự lo lắng mơ hồ, cảm giác bấp bênh và sợ hãi đã làm cho các năng lực trong tôi trở nên hỗn loạn. Ngay sau đó, tôi thấy hình như có ai đang nhẹ nhàng đỡ tôi ngồi dậy. Chưa bao giờ tôi thấy mình được nâng niu như thế. Tôi ngả đầu lên một chiếc gối hay có lẽ trên một cánh tay nào đó, trong người cảm thấy thật dễ chịu. Chừng năm phút sau, đám mây hoang mang trong người tan dần, tôi nhận ra mình đang nằm trên chiếc giường của mình, còn ánh sáng đỏ chói vừa nãy chính là ngọn lửa hắt ra từ nhà trẻ. Trời đã tối, một ngọn đèn cày cháy chập chờn trên bàn, chị Bessie bưng cái khay đứng ở cuối giường, và một người đàn ông ngồi trên chiếc ghế bành đặt ngay sát chiếc gối tôi đang nằm và cúi xuống gần tôi. Tôi bỗng cảm thấy trong lòng có một niềm an ủi khó tả, một sự vỗ về êm ái là mình được che chở an toàn, khi tôi biết là có một người lạ ở trong phòng, một người không thuộc lâu đài Gateshead mà cũng chẳng có quan hệ gì với bà Reed. Tôi không nhìn chị Bessie (mặc dù sự có mặt của chị không làm tôi thấy gớm ghiếc như chị Abbot) mà quay sang nhìn kỹ khuôn mặt ông ta: thì ra là ông Lloyd, một thợ bào chế thuốc mà thỉnh thoảng bà Reed vẫn mời… mỗi khi trong nhà có gia nhân ốm (còn đối với bản thân và mấy đứa con bà thì bà cho mời thầy thuốc tử tế). - Nào, cháu có biết tôi là ai không? – Ông ta hỏi tôi. Tôi vừa nhắc tên ông vừa chìa tay ra. Ông mỉm cười và nắm lấy tay tôi, nói: “Chỉ lát nữa là khỏe thôi”. Rồi ông đặt tôi nằm xuống giường và dặn Bessie phải chăm sóc tôi cẩn thận, đừng làm phiền tôi đêm đó. Sau khi dặn dò thêm vài câu và hẹn ngày mai quay lại, ông khép cửa ra về khiến cả căn phòng như tối sầm lại. Tôi nằm trên giường mà lòng buồn rười rượi. Dẫu sao thì có ông bên cạnh, tôi cũng cảm thấy mình được che chở rất nhiều. - Cô cảm thấy có thể ngủ được không? – Bessie hỏi, giọng khá dịu dàng.


Tôi ngập ngừng trả lời, vì sợ chị câu trước câu sau sẽ lại gắt gỏng với tôi ngay: - Em sẽ cố gắng. - Cô có muốn uống nước hoặc ăn một chút gì không? - Không, cảm ơn chị Bessie. - Vậy tôi đi ngủ nhé, quá nửa đêm rồi còn gì, nhưng nếu cần gì thì cứ gọi tôi một câu. Sao tự nhiên lại tử tế thế không biết! Tôi bạo miệng hỏi một câu: - Chị Bessie này, chị có biết em bị làm sao không? Hay là em bị sốt rồi? - Tôi cho là cô phát sốt vì gào nhiều quá đấy mà. Nhưng chắc là sẽ khỏi ngay thôi. Bessie về phòng dành cho các gia nhân ở bên cạnh. Tôi nghe thấy chị nói: - Sarah này, sang ngủ với tôi bên nhà trẻ đi, tôi không dám ngủ một mình với con bé tội nghiệp đêm nay đâu. Không khéo nó chết mất. Chắc nó bị sốc vì ác mộng, hoặc vì đã trông thấy một cái gì đó. Kể ra bà chủ cũng hơi hà khắc với nói. Sarah sang nằm với Bessie. Họ thì thầm với nhau suốt nửa giờ đồng hồ rồi mới ngủ. Tôi nghe câu được câu chăng, nên chỉ hiểu lõm bõm câu chuyện giữa hai người. “Có ai đó vụt hiện ra trước mắt nó, trắng toát rồi biến mất… Một con chó to xù chạy nhào theo sau cái bóng… Ba tiếng đập mạnh vào cửa buồng… Một vệt sáng ngoài nghĩa địa, đúng ngay trên mồ của…” Cuối cùng thì cả hai đều lăn ra ngủ, lửa trong lò sưởi và nến cũng tắt. Tôi thức trắng suốt đêm dài ảm đạm, cả tai, mắt và tâm trí tôi cứ căng ra vì những điều hãi hùng mà chỉ trẻ con mới cảm thấy. Cũng may là sau sự việc xảy ra ở căn phòng đỏ, tôi không bị ốm nặng và lai rai. Chỉ có điều cú sốc đã làm cho thần kinh tôi phải chịu hậu quả đến tận


bây giờ. Vâng, thưa bà Reed, chỉ vì bà mà thần kinh tôi khiếp đảm. Nhưng tôi phải tha thứ cho bà vì bà đâu có ý thức được việc mình làm. Khi làm tôi đau lòng, bà chỉ nghĩ làm vậy cốt để nhổ tận gốc rễ thói xấu của tôi thôi. Trưa hôm sau, tôi vùng dậy mặc quần áo, quấn chiếc khăn choàng vào cổ rồi lặng lẽ sang ngồi bên lò sưởi trong buồng trẻ. Tôi cảm thấy người yếu đuối mỏi mệt, nhưng điều làm tôi tủi nhất là cảm thấy khổ sở về tinh thần, đến nỗi tôi chỉ còn biết lặng lẽ khóc thầm. Nước mắt chứa chan, tôi vừa lau giọt này thì giọt khác lại tuôn trào trên gò má. Vâng, lẽ ra tôi phải thấy vui vì lúc này không có đứa nào trong gia đình nhà Reed có mặt. Chúng đã đi đâu với bà Reed. Abbot cũng đang ngồi khâu ở một buồng khác, còn chị Bessie thì bước qua bước lại xếp xếp, dọn dọn đồ chơi vào ngăn kéo, thỉnh thoảng mới thấy chị nói với tôi một câu, giọng dịu dàng khác hẳn mọi ngày. Lẽ ra tôi phải thấy mình đang được ở trên một thiên đàng êm ả, vì hằng ngày tôi vẫn quen với cuộc sống nặng nề và tàn nhẫn, nhưng cơn sốc quá mạnh đã khiến tôi không thể vui lên được, dù là trong khung cảnh yên tĩnh như thế này. Chị Bessie xuống bếp mang cho tôi cái bánh có nhân đựng trong một chiếc đĩa sứ bằng men sặc sỡ có vẽ hình một con chim đang làm tổ trên một tràng hoa hồng và nụ tầm xuân ở vườn địa đàng. Đó là cái đĩa tôi vẫn mê thích, vẫn ao ướt được mó tay vào và nhìn cho thật kỹ, song tôi luôn bị cho là không xứng đáng được hưởng ân huệ đó. Vậy mà nay chiếc đĩa quý ấy được đặt ngay trên hai đầu gối tôi, và tôi đang được mời ăn tấm bánh thơm ngon đặt ngay trên đó. Quả là một ân huệ vô nghĩa! Cũng như phần lớn những ban phát tôi hằng mong đợi và luôn bị từ chối, ân huệ này đã đến quá muộn! Làm sao tôi có thể nuốt trôi tấm bánh ấy bây giờ? Cả bộ lông chim và màu sắc của những bông hoa in trên đĩa sứ kia đối với tôi lúc này dường như cũng trở nên phai úa đến kỳ lạ. Tôi đặt đĩa bánh sang một bên. Chị Bessie hỏi tôi có muốn đọc sách không. Từ sách có vẻ khích lệ tôi ngay lập tức, và tôi nhờ chị ra lấy cho tôi cuốn Những cuộc phiêu lưu của Gulliver. Tôi đã nhiều lần đọc đi đọc lại cuốn này mà vẫn cảm thấy thích thú. Tôi cho rằng đấy là cuốn sách kể về những câu chuyện có thực và thấy nó có sức lôi cuốn hơn cả chuyện thần thoại. Không ít lần tôi đã hoài công tìm kiếm các yêu quái tí hon lẩn giữa những chùm lá mao hoàng địa và những đóa loa kèn, dưới những cây nấm hay dậu thường xuân phủ kín những hốc tường cổ, để rồi phải buồn rầu mà kết luận rằng chúng đã bỏ nước Anh này để đến một miền đất man di mọi rợ nào đó, nơi có những cánh rừng hoang vu rậm rạp hơn và ít dấu chân người hơn. Trong khi đó, tôi vẫn nghĩ xứ Lilliput và Brobdignag là có thật trên thế gian này. Tôi tin rằng sẽ có một ngày, trong một cuộc phiêu lãng thật


dài, tôi sẽ được tận mắt trông thấy ở một vương quốc tí hon những cánh đồng, nhà cửa và ngọn cây thấp lè tè, những con người bé tin hin, những đàn bò, bầy cừu và nhiều giống chim nhỏ tí ti, và ở một xứ sở khổng lồ những cánh đồng lúa cao như cây rừng, những chú chó khổng lồ, những con mèo vĩ đại cùng những người đàn ông, đàn bà cao lớn như cái tháp. Vậy mà khi đã cầm quyển sách ấy trong tay, giở được vài trang tìm trong những bức tranh kỳ diệu bí ẩn vẫn lôi cuốn tôi từ trước đến nay, tôi chỉ thấy toàn là những điều nhàm chán đến lạ lùng. Người khổng lồ chỉ còn là những con yêu tinh hốc hác, người tí hon là những con vật độc ác và đáng sợ, còn Gulliver là một kẻ lữ hành bất hạnh, lạc lõng giữa những miền đất xa xôi nguy hiểm. Chẳng dám xem lâu hơn nữa, tôi gấp sách lại đặt lên bàn, bên tấm bánh ngọt vẫn còn nguyên trong đĩa. Dọn dẹp xong xuôi, chị Bessie rửa tay rồi mở một chiếc ngăn kéo nhỏ chứa đầy những mảnh vụn lụa và sa tanh rực rỡ đủ màu sắc để chuẩn bị khâu một cái mũ mới cho con búp bê của Georgiana. Chị vừa làm vừa hát, lời bài hát rất quen thuộc với tôi: Ơi những ngày ta sống phiêu lãng, Một thời dĩ vãng xa xôi. Tôi thường được nghe giai điệu ấy và lúc nào cũng thấy nó rất lôi cuốn, vì chị Bessie có chất giọng ngọt ngào – ít nhất là theo đánh giá của tôi. Nhưng lúc này, mặc dù giọng chị rất dịu êm, tôi vẫn cảm thấy trong giai điệu du dương ấy một nỗi buồn khôn tả. Đôi lúc bận bịu công việc, chị ngân nga rất nhẹ và trầm điệp khúc: Một thời dĩ vãng xa xôi nghe như một điệu nhạc hiếu bi ai nhất. Chị hát sang một bài khác, bài này mới thật thê thảm. Chân chồn gối mỏi, đôi tay yếu; Đường xa heo hút núi hoang vu; Chiều buông đêm xuống cảnh liêu tịch Lấp lối em đi kiếp lãng du. Sao đời nỡ để em đơn côi. Giữa chốn tàn hoang sỏi đá phơi?


Người đời ghẻ lạnh, chỉ mong Chúa, Dõi bước em đi giữa cảnh đời. Đêm thanh gió cuốn nhẹ lắt lay Trời quang mây tạnh ánh sao đầy. Chúa ơi, phước lành xin che chở, Cho em hy vọng kiếp sống này. Dẫu tôi ngã gục, cầu gãy ngang, Lạc giữa đầm lầy, chẳng nắng tràn, Chúa tôi vẫn rủ lòng ban phước Che bóng em buồn kiếp lang thang. Tôi lòng tâm tưởng thêm sức mạnh: Dẫu không chỗ dựa, chốn dung thân. Nhưng nhà tôi – Trời, thế là đủ; Chúa là bạn tôi, kẻ độc hành. - Kìa, cô Jane, đừng khóc nữa. – Bessie bảo tôi khi vừa hát xong. Nghe câu nói của chị chẳng khác gì câu nói: “Lửa ơi, đừng cháy nữa!” Nhưng làm sao chị hiểu được sự cơ cực đang day dứt trong lòng tôi? Sáng hôm ấy, ông Lloyd lại đến. - Ô kìa! Đã dạy được rồi kia à? – Ông nói lúc đi vào nhà trẻ. – Thế nào, chị bảo mẫu, cô ấy ra sao? Bessie trả lời rằng tôi ổn cả. - Nếu thế thì cô ấy trông phải vui hơn mới đúng chứ? Lại đây, Jane. Tên cháu là Jane, có phải không nhỉ? - Thưa ông, vâng, Jane Eyre.


- Trông cháu như đang khóc thì phải, cháu có thể nói cho tôi biết tại sao không, Jane Eyre? Cháu có bị đau không? - Dạ, không. - Ô, tôi cho rằng cô ấy khóc chỉ vì không được lên xe đi chơi với mấy cô chủ đấy thôi. – Chị Bessie nói chen vào. - Chắc không phải thế đâu, cô ấy đâu còn trẻ con mà khóc lóc như vậy. Tôi cũng nghĩ như ông, nên tôi tự ái trả lời ngay vì bị qui tội oan ức. “Còn lâu tôi mới khóc vì một chuyện như vậy! Tôi đâu có thích đi chơi xe, tôi khóc vì tôi thấy đời mình khổ, thế thôi.” - Thôi, đừng khóc nữa đi! – Bessie nói. Ông bào chế tốt bụng có vẻ như hơi bối rối. Tôi đứng trước mặt ông. Đôi mắt xám của ông tuy nhỏ và không sáng lắm, nhưng cũng đủ để tôi thấy là lanh lợi. Còn nét mặt, dù hơi thô nhưng lại toát lên vẻ nhân từ. Sau khi đã quan sát tôi thật kỹ, ông mới hỏi: - Hôm qua có chuyện gì khiến cháu phát ốm lên như vậy? - Cô ấy ngã đấy. – Bessie lại chêm vào. - Ngã à! Cứ như con nít ấy! Bằng ngần này tuổi rồi mà đi đứng vẫn còn chưa vững sao? Cũng phải tám, chín tuổi rồi chứ ít gì. - Cháu bị người ta đánh cho ngã, – thấy mình bị coi thường tôi cãi luôn – nhưng không phải vì thế mà cháu ốm. – Tôi nói thêm, trong khi ông Lloyd kịp châm một điếu thuốc. Lúc ông bỏ hộp thuốc lá vào túi cũng là lúc tiếng chuông báo giờ ăn của các gia nhân réo vang; ông hiểu hiệu chuông này. “Chuông gọi chị đấy, chị bảo mẫu ạ,” – Ông nói, “chị có thể xuống đi. Từ giờ đến lúc chị quay trở về, tôi sẽ có mấy lời với cô bé Jane này.” Bessie định nán lại nhưng không thể được, vì ở lâu đài Gateshead, bữa ăn bao giờ cũng phải đúng giờ. - Không phải cháu ốm vì bị ngã, vậy thì tại sao? – Ông Lloyd chỉ hỏi tôi


khi chị Bessie vừa đi khỏi. - Cháu bị người ta nhốt vào một căn phòng có ma cho đến tận đêm. Tôi thấy ông Lloyd chau mày mỉm cười: “Ma à! Thế đấy, rõ là con nít rồi còn gì! Cô sợ ma à?” - Cháu sợ cậu Reed hiện về. Cậu cháu chết ở trong phòng ấy, thi hài cậu được liệm ở đấy. Chị Bessie và mọi người, tất cả chẳng ai dám mò vào căn phòng này vào buổi tối, vậy mà cháu lại bị tống vào đấy, mà chẳng có đèn gì cả. Thật là độc ác, suốt đời cháu sẽ không bao giờ quên được chuyện này. - Vô lý! Chỉ có thế mà phải khổ sở như vậy ư? Thế bây giờ, giữa ban ngày, cháu có sợ nữa không? - Không, nhưng lại sắp tối đến nơi rồi, mà cháu còn cảm thấy không vui vì nhiều chuyện khác nữa. - Lại còn chuyện gì nữa? Cháu thử kể xem nào. Không hiểu sao tôi lại mong được trả lời cặn kẽ câu hỏi đó đến thế! Nhưng cũng thật khó nói lên lời! Trẻ con cũng có những cảm giác về tình cảm, nhưng lại thiếu khả năng phân tích, và nếu những phân tích phần nào tác động được vào đầu óc đi nữa thì chúng cũng chẳng biết phải diễn tả bằng lời như thế nào. Nhưng vì sợ làm lỡ cơ hội đầu tiên và duy nhất để thổ lộ cho vơi bớt nỗi lòng, sau một lúc im lặng vì xúc động, tôi trả lời thật lòng: - Có điều là cháu không còn cha mẹ anh chị em nào nữa cả. - Nhưng cháu có một bà mợ tử tế và mấy đứa em họ. Tôi lặng cả người, nhưng rồi lại vụng về đáp lại: - Nhưng chính thằng John Reed đã đánh cháu ngã chảy máu đầu, còn mợ Reed thì nhốt cháu vào căn phòng đó. Lần thứ hai ông Lloyd rút hộp thuốc lá ra. - Cháu không thấy Gateshead là một lâu đài rất đẹp sao? – Ông hỏi. – Cháu không thấy mình phải chịu ơn khi được ở một nơi tốt như vậy sao? - Thưa ông, nhưng không phải là nhà của cháu, và chị Abbot nói rằng ở


đây cháu cũng chẳng hơn gì một con ở. - Chà! Nhưng cháu không khờ dại đến nỗi muốn rời khỏi một nơi đẹp như thế này? - Nếu có một chỗ nương thân khác thì cháu sẽ rất vui lòng từ bỏ nơi đây, nhưng cháu không rời khỏi Gateshead nếu chưa đủ khôn lớn. - Có lẽ cháu có thể… ai mà biết được? Ngoài bà Reed ra, cháu còn họ hàng gì nữa không? - Cháu nghĩ là không, thưa ông. - Cả họ nội cũng không? - Cháu không được biết, cháu có hỏi mợ Reed một lần, và bà ấy cho biết hình như cháu có một vài người họ hàng nghèo khổ, dòng họ Eyre, nhưng bà không biết gì những người này cả. - Nếu đúng có thế, cháu có muốn về với họ không? Tôi lặng người suy nghĩ. Sự nghèo khó luôn là điều đáng buồn đối với người lớn và càng buồn hơn đối với trẻ con. Chúng không hiểu nhiều về sự chịu khó, tính cần cù, sự nghèo khổ đáng kính trọng; mà tiếng nghèo chỉ gợi lên cho chúng những hình ảnh quần áo rách rưới, ăn uống thiếu thốn, bếp nguội tro tàn, cư xử cục cằn và hàng loạt thói xấu khác. Cái nghèo đối với tôi còn đồng nghĩa với sự sa đọa. - Không, cháu không thích sống với người nghèo. – Tôi trả lời. - Ngay cả khi họ tốt với cháu, cháu cũng không thích sao? Tôi lắc đầu vì không thể hiểu nghèo mà lại có đủ phương tiện để sống cho tốt được, và rồi lại phải học lời nói như họ, phải làm quen những cách xử sự của họ, không được giáo dục, lớn lên như những phụ nữ khốn khổ mà đôi lần tôi trông thấy họ cho con bú hay giặt quần áo trước cửa những túp lều của làng Gateshead. Không, tôi không đủ dũng cảm mua sự tự do bằng cái giá rẻ mạt như thế được. - Nhưng chẳng lẽ họ hàng cháu đều nghèo đến thế sao? Họ có phải là dân lao động không?


- Cháu cũng không biết, mợ Reed nói với cháu là nếu có thì họ cũng chỉ là những kẻ ăn mày mà thôi. Cháu không muốn đi ăn mày. - Thế cháu có muốn đi học không? Tôi im lặng suy nghĩ. Tôi chỉ biết lờ mờ thế nào là trường học. Thỉnh thoảng chị Bessie cũng bảo rằng đó là nơi các thiếu nữa phải ngồi trên ghế gỗ, đeo bảng sau lưng và phải ngoan ngoãn biết điều. John Reed căm ghét nhà trường và có khi còn chửi cả thầy giáo, nhưng đó không thể là tấm gương để tôi noi theo. Và nếu những điều Bessie kể về kỷ luật trong nhà trường (mà chị biết qua những quý cô trong một gia đình chị từng làm con ở trước khi đến Gateshead) làm tôi kinh hãi bao nhiêu, thì những chi tiết về kết quả mà các thiếu nữ ấy đã đạt được lại hấp dẫn tôi bấy nhiêu. Bessie thường ca ngợi những bức tranh phong cảnh và hoa lá, những ca khúc họ hát, những vở kịch họ sắm vai, những chiếc túi xách họ đan, những cuốn sách tiếng Pháp họ có thể dịch. Chỉ mới nghe thế thôi tôi đã thấy rạo rực hết cả người rồi. Hơn nữa, trường học sẽ giúp tôi thay đổi hoàn toàn cuộc sống, vì tôi sẽ phải đi xa một chuyến, thoát ly hẳn lâu đài Gateshead và bước vào một cuộc đời mới. - Cháu rất thích được đi học! – Tôi kết thúc những suy nghĩ của mình bằng một câu như vậy. - Được, được, ai biết được sau này sẽ ra sao? – Ông Lloyd đứng dậy và lẩm bẩm một mình: “Cô bé này cần phải thay đổi không khí và hoàn cảnh sống. Nó đang bị suy nhược thần kinh nặng.” Chị Bessie trở vào buồng, cùng lúc ấy có tiếng bánh xe lăn trên con đường rải sỏi. - Bà chủ vừa về phải không, chị bảo mẫu? – Ông Lloyd hỏi. – Tôi cần nói chuyện với bà ấy trước khi rời khỏi đây. Bessie dẫn ông sang phòng điểm tâm. Trong cuộc nói chuyện giữa ông và bà Reed, căn cứ vào những việc xảy ra sau này, tôi đoán là ông đã mạnh bạo đưa đề nghị cho tôi được đi học. Và đề nghị của ông có vẻ đã được chấp thuận ngay, vì vào một buổi chiều tối, trong khi cả Bessie và Abbot ngồi khâu ở nhà trẻ, tôi đã nghe họ nhắc đến chuyện đó khi tưởng tôi đã ngủ rồi. “Chắc bà chủ cũng đang muốn tống khứ cái con của nợ ấy đi, lúc nào nó cũng như


là đang rình mò mọi người và âm mưu cái gì đó”. Tôi tin là Abbot luôn coi tôi như một đứa trẻ hư thân mất nết. Cũng vào dịp đó, qua câu chuyện của Abbot và Bessie, lần đầu tiên tôi được biết rằng cha tôi là một mục sư nghèo, mẹ tôi đã lấy cha tôi bất chấp sự phản đối của bạn bè, vì họ cho rằng lấy như thế không tương xứng. Ông cụ Reed, tức ông ngoại tôi, tỏ ra rất tức giận vì thái độ ngang ngạnh của mẹ tôi, đã cắt đứt quan hệ máu mủ và không cho bà một xu nào. Lấy nhau được một năm thì cha tôi nhiễm bệnh sốt phát ban khi đi thăm người nghèo ở một khu chế tạo lớn, nơi bệnh dịch ấy đang hoành hành và cũng là địa phận cha tôi làm mục sư. Mẹ tôi lây bệnh từ cha tôi, và hai người chết cách nhau có một tháng. Nghe câu chuyện, Bessie buông một tiếng thở dài: “Tội nghiệp Jane, kể ra thì con bé cũng đáng thương, chị Abbot nhỉ!” - Đúng, – Abbot trả lời – nếu nó là một đứa trẻ xinh xẻo và ngoan ngoãn thì người ta cũng thông cảm cho cảnh ngộ đơn côi của nó, nhưng quả thực là người ta không thể thương được một con cóc như thế. - Nhất định rồi, – Bessie tán đồng, – nếu một người xinh đẹp như cô Georgiana mà rơi vào cảnh ngộ ấy thì còn đáng thương hơn nhiều. - Phải đấy, cô Georgiana mới là người để tôi ngưỡng mộ! – Abbot nồng nhiệt hưởng ứng. – Đúng là một cô tiên bé nhỏ! Tóc buông dài này, đôi mắt thì xanh thăm thẳm, còn nước da thì khỏi phải nói, cứ là nõn nà như người trong tranh ấy! Bessie này, tự nhiên tối nay tôi thèm ăn thịt thỏ thế không biết. - Tôi cũng vậy… với một củ hành nướng. Hay là ta xuống dưới nhà đi. Và họ cùng đi xuống.



Chương 4 Từ lúc nói chuyện với ông Lloyd và lõm bõm nghe được câu chuyện giữa Bessie và Abbot, tôi thấy có đủ lý do làm nên mong muốn khỏi bệnh. Có vẻ như tôi sắp có sự thay đổi, và tôi bắt đầu âm thầm hy vọng, chờ đợi. Bà Reed thỉnh thoảng lại gườm gườm nhìn tôi bằng ánh mắt khắc nghiệt và hiếm khi thấy bà mở miệng nói với tôi một lời. Từ dạo tôi bị ốm đến giờ, càng ngày bà càng vạch ra nhiều ngăn cách giữa tôi và các con bà. Bà bắt tôi ngủ riêng ở một căn buồng nhỏ, phạt tôi chỉ được ngồi ăn một mình, còn ban ngày chỉ được chơi trong nhà trẻ trong khi mấy đứa em họ tôi được thoải mái chơi ngoài phòng khách. Dù không được nghe bà Reed đả động đến chuyện tống khứ tôi đến trường, nhưng tôi vẫn cảm thấy bà không thể nào chịu được tôi ở cái nhà này lâu hơn nữa. Giờ đây, càng nhìn thấy tôi là bà càng tỏ ra căm ghét. Rõ ràng là Eliza và Georgiana phải hết sức tránh nói chuyện với tôi theo lệnh của bà mẹ. Mỗi lần nhìn thấy tôi, thằng John lại trợn mắt đá lưỡi vào hai bên má, và có lần nó còn định nện cho tôi một trận nữa, nhưng thấy tôi có vẻ hung hăng và liều lĩnh như lần trước, nó lại thôi. Nó vừa bỏ chạy vừa ngoạc mồm ra chửi và gào ầm lên là tôi đã đánh nó giập máu mũi. Quả thật là tôi cũng có dang tay đấm cho nó một phát vào giữa mũi. Thấy nó có vẻ chùn bước vì quả đấm hoặc vì ánh mắt của mình, tôi nảy ra ý định nhân lúc đó cho nó một trận no đòn, nhưng nó đã kịp chạy lại với mẹ rồi. Tôi nghe thấy nó bù lu bù loa mách với bà Reed rằng: “Con ranh Jane Eyre bẩn thỉu”, đã nhảy xổ vào nó như một con mèo điên. Bà Reed gạt phắt đi. - John, đừng nhắc đến nó với mẹ nữa đi, mẹ đã bảo con không được lại gần nó kia mà. Nó đâu đáng để mình đếm xỉa. Mẹ không thích con và các em chơi với nó. Đang đứng tựa vào lan can cầu thang ngay cạnh đấy, nghe hai mẹ con bà Reed nói, tôi điên tiết hét lên mà chẳng cần biết hậu quả ra sao: - Chúng nó không đáng để cho cháu chơi thì có. Dù là một người khá to béo, nhưng vừa nghe câu nói lạ lùng hỗn xược của tôi, bà Reed lập tức nhảy ngược lên cầu thang, quát tháo ầm ĩ và đẩy dúi tôi ngồi phịch xuống chiếc giường nhỏ trong nhà trẻ. Bà ra lệnh cho tôi không được rời khỏi chỗ và cấm tôi nói một lời nào trong suốt ngày hôm ấy.


- Nếu cậu Reed còn sống thì cậu ấy sẽ nói thế nào với mợ đây? – Tôi buột miệng hỏi lại bà. Tôi nói buột miệng, vì dường như tôi không muốn nói thế mà tự nhiên lưỡi tôi cứ thốt ra: có một cái gì đó khiến tôi bật nên lời mà không thể kiềm chế được. - Cái gì? – Bà Reed uất ức thốt lên, đôi mắt xanh ngắt lạnh lùng và khắc nghiệt thường ngày của bà có vẻ bối rối như sợ hãi. Bà buông tay tôi ra, nhìn tôi chằm chằm như thực sự không hiểu tôi là người hay là ma quỷ nữa. Tiện thể, tôi nói đại: - Từ trên thiêng đàng, cậu Reed có thể biết hết mọi việc làm và ý nghĩ của mợ, cả ba mẹ cháu cũng thế. Tất cả họ đều biết mợ nhốt cháu suốt ngày và mong cho cháu chết đi thế nào. Bà Reed như đã định thần lại, túm áo tôi lắc lấy lắc để, bạt tai tôi mấy cái rồi chẳng nói chẳng rằng, lừ lừ bước ra ngoài. Bessie lại bắt đầu lên lớp tôi bằng một bài đạo đức suốt cả tiếng đồng hồ. Chị bảo tôi là đứa hung tợn, vô giáo dục chưa từng thấy ở một nhà nào. Tôi hơn tin tin, vì quả thực tôi cũng cảm thấy trong lòng mình chỉ toàn nảy sinh những tình cảm xấu xa. Tháng Mười một, Mười hai và nửa tháng Giêng lặng lẽ trôi qua. Lễ Giáng sinh và ngày tết năm mới ở lâu đài Gateshead được tổ chức vui vẻ như thường lệ với những món quà biếu, những bữa tiệc và dạ hội liên miên. Dĩ nhiên là tôi bị gạt ra ngoài tất cả những cuộc vui đó. Tôi chỉ dám mon men góp vui bằng cách đứng ngoài lầm lũi chứng kiến cảnh sắm sửa hàng ngày của Eliza và Georgiana, ngắm chúng lên xuống phòng khách, mặc những bộ cánh mỏng manh tha thướt, những dải thắt lưng đỏ chói, những lọn tóc uốn rất công phu, rồi lén nghe tiếng dương cầm và thụ cầm vẳng lên từ dưới nhà, tiếng bước chân qua lại của người quản gia cùng đám gia nhân, tiếng chạm cốc sứ và pha lê lúc người ta chúc tụng nhau, tiếng chuyện trò lúc được lúc chăng theo nhịp đóng mở của những cánh cửa. Khi đã hết hứng thú, tôi rời cầu thang, lủi thủi bước về buồng trẻ lặng câm hiu quạnh, nơi dù có phảng phất nỗi buồn nhưng không làm tôi cảm thấy buồn day dứt. Thực lòng mà nói thì tôi chẳng thích mò đến cuộc vui tí nào, vì có xuống tôi cũng chẳng được người ta chú ý, và giả sử Bessie có tử tế để mắt đến cái thân tôi, thì tôi vẫn cứ thích ngồi riêng với chị trong những buổi chiều tối âm thầm còn hơn là phải góp mặt ở những cuộc liên hoan để rồi bị bà Reed lườm nguýt bằng ánh mắt cay nghiệt trong buồng đầy các quý ông, quý bà lịch sự. Nhưng vừa


mặc quần áo cho các cô chủ xong, theo thói quen, chị Bessie lại xà vào những chỗ náo nhiệt như nhà bếp hoặc buồng gia nhân cùng cây nến trên tay. Tôi chỉ còn biết đặt con búp bê lên đầu gối làm bạn, rồi ngồi chơi một mình cho đến lúc ánh lửa trong lò sưởi lụi tàn, nhưng vẫn không quên lấm lét đảo mắt nhìn quanh xem có ma hiện hình trong căn phòng u uất câm lặng hay không. Và khi than trong lò đã rạc tơi tả, tôi vội vàng cởi hết áo ngoài và chui tọt lên chiếc giường con, mong tránh xa bóng tối và cái lạnh càng nhanh càng tốt. Bao giờ tôi cũng đem theo con búp bê vào giường, bởi đã là con người thì phải có cái gì đó để yêu thương. Trong khi chẳng biết chọn vật gì xứng đáng hơn, tôi chỉ còn cách tìm niềm vui cho mình trong cái tình cảm âu yếm một con búp bê gỗ bé nhỏ, khoác bên ngoài một bộ đồ tơi tả như một con bù nhìn. Giờ đây, mỗi khi nhớ lại, tôi lại lấy làm lạ: tại sao mình lại thương yêu một thứ đồ chơi vô tri vô giác đến thế, tại sao tôi lại có thể tưởng tượng đó là một vật sống động và có tình cảm như thế. Tôi không thể đến với giấc ngủ nếu không ấp ủ nó vào lòng, chỉ đến khi thấy nó đã nằm ấm áp trong vòng tay che chở của mình, tôi mới bắt đầu thấy vui vui vì tin rằng nó cũng được chia sẻ niềm vui nỗi buồn với riêng tôi. Thời gian như kéo dài vô tận trong lúc tôi nằm đợi tiệc tan và lắng nghe bước chân chị Bessie trên cầu thang. Thỉnh thoảng chị vẫn lên gác tìm cái đê hoặc cái kéo, hay mang lên cho tôi một thứ gì để ăn tối – chẳng hạn chiếc bánh bao nhân ngọt hoặc chiếc bánh phó mát kem. Trong lúc tôi ăn, chị lặng lẽ ngồi giường đợi. Và khi tôi ăn xong, chị đắp lại chăn cho tôi, hôn tôi hai lần và bảo: “Chúc Jane ngủ ngon”. Trước những cử chỉ dịu dàng ấy, tôi thấy dường như Bessie là người tốt nhất, tử tế nhất và đáng yêu nhất trên đời. Tôi chỉ mong chị sẽ dịu dàng, đáng yêu như thế mãi, đừng xua đuổi mắng mỏ tôi hoặc bắt tôi làm những việc vô lý như một thói quen của chị. Tôi nghĩ rằng Bessie Lee hẳn phải là một cô gái có khả năng bẩm sinh. Chị luôn tỏ ra khéo léo trong công việc và lại có tài kể chuyện rất hấp dẫn, ít nhất là như vậy với ấn tượng chị để lại cho tôi trong những lúc kể chuyện trẻ con. Nếu hồi ức của tôi về nét mặt và dáng người Bessie là đúng thì chị cũng là một người xinh đẹp. Tôi còn nhớ chị là một phụ nữ trẻ măng, mái tóc óng ả, đôi mắt đen láy, nét mặt rất thanh tú, nước da mịn màng trắng trẻo, dáng người mảnh khảnh. Chỉ phải cái tội tính khí thất thường, nóng nảy, lại có những khái niệm mơ hồ về lẽ phải và sự công bằng. Song kể cả như vậy, tôi vẫn cảm thấy thích chị hơn hết thảy mọi người trong lâu đài Gateshead. Ngày mười lăm tháng Giêng, khoảng chín giờ sáng, chị Bessie xuống nhà điểm tâm, mấy đứa em họ tôi chưa thấy mẹ chúng cho gọi lên. Eliza đang đội


mũ và mặc áo làm vườn để ra ngoài cho gà ăn, đó là việc nó rất thích. Nó cũng rất mê việc bán trứng cho người quản gia để dành tiền làm vốn riêng. Nó có máu buôn đi bán lại và ý thức kiếm tiền để dành dụm. Điều này không chỉ được thể hiện trong việc bán trứng và gà con, mà ở chỗ nó kì kèo giá cả với bác làm vườn về các loại giống hoa lá, chồi cây non, bởi theo lệnh bà Reed, bác phải mua cho cô chủ tất cả những gì mà cô ấy muốn bán. Eliza có thể bán cả tóc trên đầu nếu thấy đó là có lợi. Còn tiền thu được ư? Lúc đầu nó bọc tiền vào những mảnh giấy hoặc giẻ rách rồi bí mật giấu vào đủ các xó xỉnh. Kể từ khi mấy kho báu bị một chị người hầu trong nhà biết, nó sợ bị mất có ngày nên đành phải đem gửi mẹ, nhưng lại đòi lãi rất nặng – khoảng năm mươi hay sáu mươi phần trăm. Cứ ba tháng nó lại tính gốc lãi một lần rồi ghi ghi chép chép rất cẩn thận vào một quyển sổ nhỏ. Georgiana ngồi trên một chiếc ghế cao đặt trước gương chải đầu, cài lên tóc những bông hoa giả và lông chim tìm thấy trong ngăn kéo ở gác xép sát mái nhà. Tôi bận dọn giường theo lệnh của Bessie, chị dặn tôi phải làm xong trước khi chị quay trở lại (thời gian này Bessie thường sai tôi làm phụ việc, để dọn dẹp trong buồng và quét bụi bàn ghế.v.v.). Sau khi trải đệm và gấp xong áo ngủ của mình, tôi lại gần bậu cửa sổ thu dọn vài quyển tranh và đống đồ chơi buông quăng bỏ vãi ngổn ngang; nhưng Georgiana lại ra lệnh cho tôi cứ để mặc những đồ chơi của nó ở đấy (vì bàn ghế, gương lược, đống tách chén đều là sở hữu riêng của nó), nên tôi cũng chẳng buồn dọn nữa. Hết việc, tôi phồng mồm thổi giạt những bông tuyết bám nhẹ trên cửa sổ, để trơ lại một khoảng trống nhỏ trên mặt kính, khiến tôi có thể nhìn ra bên ngoài, nơi mọi cảnh vật đều im lìm và tê liệt bởi sương sa giá rét. Từ khung cửa sổ, tôi nhìn ra chòi canh của bác gác cổng và con đường dành cho xe ngựa. Đúng vào lúc thổi bạt lớp màng tuyết trắng bạc phủ trên mặt kính để nhìn ra ngoài, tôi bỗng thấy cánh cổng mở rộng, sau đó là một chiếc xe ngựa chạy vào. Tôi thờ ơ nhìn theo bóng chiếc xe. Chuyện xe ngựa vào lâu đài Gateshead không phải là hiếm, hơn nữa chẳng bao giờ có chuyến xe nào mang đến những người khách liên quan tới tôi cả. Chiếc xe dừng lại trước nhà, tiếng chuông ngoài cửa réo gắt gỏng, người khách được mời vào. Vẫn chẳng có gì liên quan đến tôi, nên hai mắt tôi như bị hút ngay vào một chú chim cổ đỏ vừa đậu trên một cành anh đào trụi lá mọc bên bờ tường cạnh cửa sổ, nó vừa cất tiếng hót lảnh lót. Đồ ăn sau bữa ăn của tôi vẫn còn trên bàn. Tôi bóp vụn một mẩu bánh rồi mở cửa ném ra ngoài. Vừa lúc ấy Bessie chạy lên cầu thang vào phòng trẻ.


“Cô Jane, cởi tạp dề ra đi, cô đang làm gì đấy?” – Bessie hỏi. – “Sáng nay đã rửa mặt mũi chân tay chưa?” Tôi không trả lời ngay mà mở cửa sổ một lần nữa, vì tôi muốn con chim cổ đỏ chắc chắn nhận được những miếng ăn của mình. Cửa mở, tôi tung tiếp những mẩu bánh vụn trên, một ít vãi trên gờ đá, một ít vương trên cành anh đào, bấy giờ tôi mới khép cửa lại và trả lời: - Chưa, chị Bessie ạ, em chỉ mới phủi bụi đồ đạc xong. - Cô thật là vô tích sự! Thế cô đang làm cái gì đấy? Trông mặt cứ đỏ bừng lên như buôn bạc giả ấy! Cô mở cửa làm gì nào? Tôi không phải trả lời, vì hình như chị Bessie đang vội lắm, không có thì giờ mà nghe tôi phân trần. Chị kéo xềnh xệch tôi ra bồn nước, lấy xà phòng, khăn mặt rửa ráy cho tôi, tay chẳng nhẹ chút nào. Rồi chị lấy một chiếc bàn chải cứng trải đầu và cởi tạp dề cho tôi. Xong đâu đấy, chị lại vội vàng kéo tôi ra đầu cầu thang và bảo tôi phải xuống ngay, vì ở phòng ăn có người đang đợi tôi. Tôi định hỏi xem ai, và có bà Reed ở dưới ấy không, nhưng chị Bessie đã vội bỏ đi. Tôi đành phải lò dò bước xuống. Đã gần ba tháng nay tôi không được gọi đến trước mặt bà Reed. Bị cấm ngặt bấy nhiêu ngày trong phòng trẻ nên các phòng điểm tâm, phòng ăn tối và phòng khách đã trở thành những chốn gớm ghiếc đối với tôi, khiến tôi rất sợ nếu phải bước vào. Tôi hiện đang đứng giữa một căn phòng trống không, trước mặt tôi là cửa phòng điểm tâm, tôi dừng lại, rụt rè, run rẩy. Những lần bị trừng phạt vô lý hồi ấy đã biến tôi thành một con bé sao mà hèn nhát đốn mạt đến thế! Tôi sợ phải quay về buồng trẻ, và cũng chẳng dám tiến vào phòng khách, mà cứ lưỡng lự đứng im một chỗ đến mười phút. Chỉ đến khi có tiếng chuông gắt gỏng trong phòng điểm tâm tôi mới đưa ra quyết định: tôi phải vào. “Lại còn ai gọi mình nữa nhỉ?” – Tôi tự hỏi trong khi hai tay ra sức vặn nắm đấm cửa trong vài giây. – “Mình còn được gặp ai trong phòng, ngoài bà Reed nữa? Là ông hay là bà?” – Cánh cửa vừa hé mở, tôi hấp tấp bước vào và cúi chào thật thấp, rồi ngước mắt lên nhìn… một cái cột đen trũi! Hay ít ra là cảm giác thoạt nhìn của tôi về một cái bóng cứng đờ, gầy guộc, mặc đồ đen, đứng thẳng đuỗn giữa tấm thảm, bộ mặt tàn nhẫn chẳng khác nào một cái mặt nạ bằng gỗ đẽo được cắm trên một cái cột. Như thường lệ, bà Reed vẫn ngồi bên lò sưởi. Bà ra hiệu cho tôi lại gần.


Tôi lẳng lặng làm theo, rồi bà giới thiệu tôi với con người lạ mặt cứng đờ ấy đại loại như thế này: “Đây là con bé mà vì tôn trọng nó, tôi mới nói chuyện với ông.” Ông ta, vì đó là một người đàn ông, từ từ quay đầu lại chỗ tôi đang đứng, dò xét tôi bằng hai con mắt xám xịt ẩn dấu dưới hai hàng lông mày sâu róm, và ông trịnh thượng hỏi với một giọng trầm trầm: “Trông người nó bé quá! Thế nó bao nhiêu tuổi rồi?” - Mười tuổi. - Thế kia à? – Ông ta hỏi lại và xoi mói nhìn tôi thêm vài phút, vẻ như không tin. - Cháu tên gì, cô bé? - Thưa ông, Jane Eyre ạ. Vừa trả lời, tôi vừa ngẩng lên nhìn ông ta: một người cao lớn, khuôn mặt bành bạnh, nói chung cả dáng người đều thô kệch và cứng nhắc. - Được rồi, Jane Eyre, cháu có ngoan không? Làm sao trả lời là có được trong khi những người xung quanh tôi đều nghĩ ngược lại: tôi im lặng. Bà Reed trả lời thay tôi bằng cái nhún vai đầy ý nghĩa: “Có lẽ ta đừng nên bàn đến chuyện ấy thì hơn, ông Brocklchurst ạ”. - Quả thực tôi rất lấy làm tiếc khi phải nghe điều đó, nhưng tôi cũng cần nói chuyện với nó một lát chứ. – Ông ta đáp lại và gập cái thân hình cứng nhắc ngồi xuống chiếc ghế bành đặt đối diện với bà Reed, bảo tôi: “Lại gần đây nào”. Tôi bước qua tấm thảm tiến lại gần người đàn ông. Ông ta bắt tôi đứng ngay trước mặt mình. Eo ôi, lúc này mặt tôi đã ngang tầm với bộ mặt của ông ta, một bộ mặt thật ghê gớm! Cái mũi thì to đùng! Và cả cái mồm nữa: hàm răng to tướng như răng ngựa mà lại vổ cả ra ngoài môi nữa chứ! - Không có gì đáng buồn hơn là đứng trước một đứa trẻ hư thân mất nết, – ông ta bắt đầu lên lớp – còn tệ hơn nữa nếu đó lại là một đứa con gái. Cháu có biết những kẻ xấu sau khi chết sẽ phải tới đâu không?


- Xuống địa ngục. – Tôi đáp ngay như một tín đồ chính thống giáo. - Thế địa ngục là như thế nào? Cháu có thể nói cho bác biết không? - Một cái vạc lửa. - Thế cháu có muốn rơi vào cái vạc ấy để bị thiêu mãi mãi không? - Thưa ông, không. - Thế cháu phải làm gì để tránh rơi xuống đó? Tôi nghĩ một lát rồi trả lời: “Cháu phải giữ sức khỏe và không được chết”. - Làm thế nào để giữ sức khỏe được kia chứ? Ngày nào cũng có những đứa trẻ còn bé hơn cháu chết đấy thôi. Bác vừa phải chôn một đứa bé năm tuổi mới chết cách đây độ một, hai hôm, đó là một đứa con ngoan nên có lẽ bây giờ nó đã lên thiêng đàng rồi. Chỉ sợ nếu sang thế giới bên kia thì cháu cũng chẳng được như vậy đâu. Không có cách nào làm ông ta hết ngờ vực, tôi chỉ còn biết cụp mắt xuống nhìn đôi bàn chân to tướng của ông trên thảm và thở dài, chỉ muốn nhanh nhanh thoát ra khỏi chỗ này. - Hy vọng rằng cái thở dài này xuất phát từ đáy lòng cháu, và cháu đã biết hối hận vì đã luôn làm khổ vị ân nhân tốt tính của mình. “Ân nhân! Ân nhân!”. – Tôi thốt lên trong lòng. “Tại sao ai cũng bảo bà Reed là ân nhân của mình chứ? Nếu vậy thì ân nhân cũng chỉ là một cái gì thật khó chịu mà thôi”. - Sớm tối cháu có thường xuyên cầu kinh không? – Ông ta hỏi tiếp. - Thưa ông, có ạ! - Cháu có hay đọc Kinh Thánh không? - Thỉnh thoảng ạ. - Đọc vui vẻ chứ? Cháu có thích Kinh Thánh không?


- Cháu thích sách Khải huyền, sách Daniel, sách Sáng Thế ký, sách Samuel, một chút trong cuốn Exodus về người Do Thái, vài đoạn trong cuốn Các vị vua và Biên niên sử, và sách của Job và Jonah. - Thế còn các Thánh ca thì sao nhỉ? Hy vọng là cháu cũng thích. - Không, thưa ông. - Không à? Hay nhỉ! Bác có một cậu con trai ít tuổi hơn cháu, nhưng nó đã thuộc làu làu sáu bài thánh ca, và nếu cháu có hỏi nó thích ăn một chiếc bánh hạnh nhân hơn hay là học một đoạn thánh ca hơn, thế nào nó cũng bảo: “Ồ, thánh ca chứ! Các thiên thần đều hát thánh ca mà! Ước gì mình được làm một thiên thần bé nhỏ ở dưới trần gian”. Thế đấy. - Thánh ca thì có gì hay đâu. – Tôi cãi lại. - Điều đó cho thấy cháu có lòng dạ không tốt, cháu phải cầu Chúa đổi cho một trái tim mới thật trong trắng; vứt bỏ trái tim bằng gỗ đá mà thay vào đó một trái tim bằng da bằng thịt đi. Tôi đang định hỏi làm thế nào để thay được trái tim thì bà Reed xen ngang vào, bảo tôi ngồi xuống và tự mình nói chuyện. - Ông Brocklehurst ạ, thiết tưởng tôi đã nói trong lá thư gửi ông ba tuần trước rằng con bé này hoàn toàn không có những tính nết mà tôi mong đợi. Nếu ông bằng lòng chấp nhận nó vào trường Lowood, thì tôi sẽ rất vui mừng khi thấy bà giám thị và các cô giáo chú ý chặt chẽ đến nó, và đặc biệt phải cảch giác với cái tính xấu xa nhất của nó, ấy là cái tính trâng tráo. Tao nói ở đây ba mặt một nhời, Jane ạ, để mày đừng hòng lợi dụng ông Brocklehurst. Tôi có sợ và ghét bà Reed cũng chẳng oan, vì bản chất của bà là muốn làm nhục tôi đến phũ phàng. Chẳng bao giờ tôi thấy vui trong lòng khi có mặt bà. Cho dù tôi đã cẩn thận vâng lời, đã cố làm hài lòng bà đi nữa, thì tất cả mọi cố gắng của tôi cũng đều là công dã tràng và đều được bà đáp lại bằng những lời nhục mạ như vừa rồi. Bây giờ bà lại miệt thị tôi trước mặt một người lạ, khiến tôi như chết đứng tại chỗ đến nơi. Tôi nhận ra bà Reed đang dập tắt mọi hy vọng trong cái khoảng sinh tồn mới mà bà đã định đưa tôi vào. Dù không diễn tả được cảm giác của mình, tôi cũng cảm thấy bà đang gieo rắc mối ác cảm và sự tàn nhẫn lên chặng đường tương lai của tôi. Tôi biết trong con mắt của ông Brocklehurst, tôi đã biến thành một con bé láu cá,


độc ác. Làm sao xóa được sự bất công đó bây giờ? “Quả thực là chẳng có cách nào cả.” – Tôi thầm nghĩ và cố nén cho khỏi bật khóc, dù vẫn quệt vội mấy giọt nước mắt lăn dài trên gò má như một biểu hiện bất lực của nỗi lòng tủi hổ, ê chề. - Đấy là chẳng còn gì buồn hơn khi thấy một đứa trẻ mới bé tí mà đã có tính trâng tráo, – ông Brocklehurst nói – trâng tráo cũng chẳng khác nào lường gạt. Rồi tất cả những kẻ tráo trở sẽ bị quẳng vào trong vạc lửa lưu hoàng nơi địa ngục. Nhưng bà Reed ạ, cô bé này sẽ được trông coi tử tế, tôi sẽ bảo cô Temple và các giáo viên khác. - Tôi cũng mong nó sẽ được dạy bảo sao cho xứng đáng với tương lai của nó, – bà ân nhân của tôi nói tiếp – sao cho nó thành người có ích, khiêm nhường; còn trong các kỳ nghỉ, xin phép ông cứ cho nó ở lại luôn Lowood. - Thưa bà, bà quyết định như thế là hoàn toàn đúng đắn. – Ông Brocklehurst quay sang đáp lời. – Khiêm tốn là một ân huệ của Thiên Chúa giáo, nó đặc biệt thích hợp với các học trò ở Lowood. Bởi vậy tôi đặc biệt chú trọng đến đức tính đó trong việc giáo dục các học sinh. Tôi đã nghiên cứu cách tốt nhất để hạn chế cái tính kiêu ngạo của chúng. Và chỉ trong một hôm tôi đã có được một bằng chứng thú vị về thành công của mình. Hôm đó, sau khi cùng mẹ thăm trường về, con cháu thứ hai Augusta đã reo lên với tôi. “Ôi, ba ơi, trông các nữ sinh ở Lowood có vẻ thầm lặng và xềnh xoàng quá! Tóc thì vuốt ngược ra sau hai tai, tạp dề thì khâu nổi ở bên ngoài – trông chúng chẳng khác gì con nhà nghèo khổ! Chúng cứ trố mắt nhìn áo của con và của mẹ, cứ như chưa bao giờ được trông thấy một chiếc áo lụa không bằng!” - Tôi hoàn toàn tán thành điều đó, – bà Reed đáp lời – dù tôi có tìm khắp nước Anh, cũng khó tìm được một chỗ nào có phương pháp giáo dục đúng đắn hơn đối với một đứa trẻ như con Jane Eyre này. Tôi thấy cần phải kiên định, ông Brocklehurst ạ! Kiên định ở mọi mặt. - Thưa bà, kiên định là nhiệm vụ đầu tiên trong các bổn phận Thiên Chúa giáo. Điều đó được thể hiện trong mọi sự bố trí sắp xếp ở nhà trường Lowood, từ ăn uống đạm bạc, áo quần giản dị, tiện nghi mộc mạc, đến thói quen cần cù và tích cực. Đó là nội quy hàng ngày của nhà trường và các cư dân trong đó.


- Thế thì tốt rồi, thưa ông. Vậy thì tôi có thể coi con nhỏ này đã được thừa nhận làm một học sinh của Lowood, và ở đấy nó sẽ được giáo dục phù hợp với hoàn cảnh và tương lai sau này của nó rồi chứ? - Thưa bà, bà có thể tin như vậy. Nó sẽ được nhận vào vườn ươm chọn lọc đó. Tôi tin rằng nó sẽ tỏ ra biết điều khi được gửi gắm vào đó. - Tôi sẽ gửi nó đến càng sớm càng tốt, ông Brucklehurst ạ, vì tôi xin đảm bảo với ông rằng tôi rất muốn trút bỏ cái gánh trách nhiệm đang ngày càng đè nặng lên vai mình. - Tất nhiên, tất nhiên, thưa bà. Bây giờ có lẽ tôi phải xin phép đây. Khoảng một hai tuần nữa tôi sẽ quay lại lâu đài Brocklehurst. Ông bạn thân của tôi, ông phó tổng giám mục, chắc sẽ chẳng chịu để tôi về sớm hơn. Tôi sẽ viết cho cô Temple vài dòng báo cho cô ấy biết sắp có một nữ sinh mới, để cô ấy có thể dễ dàng đón con bé. Xin tạm biệt bà. - Chào ông Brocklehurst, tiện thể nhớ cho tôi gửi lời thăm bà nhà và cô Brocklehurst, cô Augusta, cô Theodore, và cả cậu Broughton Brocklehurst nữa. - Vâng, tôi xin nhớ. Này cháu gái, đây là quyển Cẩm nang dành cho trẻ em, cháu chịu khó cầm mà đọc, nhất là phần “Chuyện về cái chết bất ngờ và khủng khiếp của Martha G. – một đứa trẻ hư, dối trá và lừa lọc.” Dứt lời, ông Brocklehurst đưa cho tôi một quyển sách mỏng bìa khâu, rồi rung chuông gọi xe ra về. Vậy là chỉ còn bà Reed và tôi. Mấy phút nặng nề trôi qua, tôi lặng im, mở to mắt ngắm bà ngồi khâu. Hồi ấy bà chừng băm sáu, băm bẩy, vóc người lực lưỡng, vai vuông như đàn ông, rắn chắc, không cao lớn, tuy mập mạp nhưng không béo ục ịch. Bà có khuôn mặt khá to, hàm dưới nở bạnh ra cứng nhắc, trán thì ngắn tũn, cằm rộng và nhô, được cái mũi khá cân đối với cái mồm kéo dài. Dưới hai hàng lông mày thưa thớt là đôi mắt ác nghiệt, nước da đen nhờ nhờ, mái đầu nâu nâu vàng vàng như sợi đay. Chẳng thấy bà ốm đau bao giờ. Bà là người khôn khéo và chính xác trong cai quản công việc, giỏi việc nhà. Chỉ có các con bà là thỉnh thoảng mới tỏ ra coi thường và nhạo báng uy quyền của mẹ. Bà rất biết cách ăn mặc, biết chú ý đến điệu bộ cử chỉ để làm đẹp thêm cho mình.


Tôi ngồi trên một chiếc ghế thấp đặt cách ghế bành của bà vài bước, ngắm nghía hình dáng và dò xét nét mặt bà. Tôi cầm trong tay cuốn sách có đoạn kể về cái chết bất ngờ của một đứa trẻ dối trá, mà cảm thấy nó như một lời cảnh báo cho số phận con sâu cái kiến của mình. Những gì vừa xảy ra, những gì bà Reed vừa nói về tôi với ông Brocklehurst và toàn bộ nội dung câu chuyện giữa hai người, vẫn còn mới tinh, phũ phàng như một mũi kim chích thẳng vào ruột gan tôi. Tôi cảm thấy tất cả vẫn văng vẳng bên tai, thấy sự uất ức đang trào dâng trong lòng. Đang mải khâu, bà Reed chợt ngừng tay và nhìn thẳng vào mặt tôi. - Bước ra khỏi đây ngay, về buồng trẻ mà ngồi. – Bà ra lệnh cho tôi. Có thể là cái nhìn hay cử chỉ nào đó của tôi đã chạm nọc bà, nên giọng bà mới tức tối đến như vậy, dù đã cố nén cũng không được. Tôi đứng dậy đi ra cửa, nhưng nghĩ thế nào lại quay lại, bước ngang qua giữa phòng về phía cửa sổ, đến ngay cạnh bà. Tôi phải nói cho ra nhẽ: tôi đã bị đối xử tàn nhẫn và bây giờ đã đến lúc phải phản ứng lại, nhưng bằng cách nào? Sức tôi liệu có đủ địch lại địch thủ của mình không? Tôi lấy hết sức bình sinh bật ra những nỗi niềm bị đè nén bấy lâu trong lòng: - Cháu không phải là đứa trâng tráo, bởi nếu đúng như vậy thì cháu phải nói là cháu yêu mợ, nhưng đằng này cháu nói thẳng là cháu không yêu mợ kia mà. Nếu không kể thằng John, thì mợ là người cháu ghét nhất trên đời. Còn cuốn sách này, mợ có thể đem cho con gái của mợ, con Georgiana ấy, vì chính nó mới là đứa trâng tráo chứ không phải cháu. Bà Reed vẫn ngồi khâu, đôi mắt lạnh lùng của bà nhìn tôi chòng chọc. - Mày còn điều gì muốn nói nữa không? – Bà hỏi tôi như hỏi một người lớn có mâu thuẫn với mình, chứ không phải bằng cái giọng thường dùng với trẻ con. Cả ánh mắt đến cách ăn nói của bà đều kích động trong tôi một mối ác cảm đối với bà. Toàn thân tôi run lên vì xúc động. Không thể kìm chế được, tôi tức mình nói liền: - Tôi cảm thấy thật vui vì bà không có họ hàng gì với tôi. Từ nay trở đi, chừng nào tôi còn sống trên đời này, thì chừng đó tôi sẽ không còn gọi bà là


mợ nữa. Tôi cũng sẽ không bao giờ thèm đến thăm bà, kể cả khi đã lớn thành người. Nếu ai hỏi tôi có yêu quý bà không và bà đối xử với tôi như thế nào, thì tôi sẽ nói toạc ra rằng chỉ cần nghĩ đến bà thôi, tôi cũng đủ phát sốt lên rồi. Bao giờ bà cũng đối xử với tôi thật tàn nhẫn. - Sao mày dám quả quyết với tao như vậy hả, con ranh Jane Eyre kia? - Tại sao ư, bà Reed? Tại sao tôi dám ư? Tại vì đó là sự thực. Bà nghĩ tôi sống không có tình cảm, không cần có tình thương, không cần được đối xử tử tế, nhưng làm sao tôi sống như vậy được. Chính bà mới là kẻ không có tình thương. Tôi sẽ ghi nhớ cho đến chết việc bà đã đẩy tôi dúi dụi vào phòng đỏ ra sao, rồi bà giam tôi trong đó như thế nào, mặc dù lúc đó tôi đã nài nỉ van xin, kêu gào thảm thiết: “Mợ hãy thương cháu, xin hãy thương cháu, mợ Reed ơi!” Tôi bị bà phạt vạ khổ sở như vậy chỉ vì thằng con trai hỗn láo của bà vô cớ đánh tôi vỡ đầu. Nếu có người hỏi chuyện, tôi sẽ kể lại đúng như thế. Người ta cứ tưởng bà là một người tốt đẹp, nhưng thực ra bà chỉ là đồ tồi, đồ nhẫn tâm. Chính bà mới là kẻ tráo trở. Sau khi xổ liền một tràng, nỗi lòng tôi như mở bung ra với một cảm giác tự do và đắc thắng kỳ lạ chưa từng thấy. Có vẻ như sợi dây trói buộc vô hình nào đó đã đứt tung để tôi đấu tranh cho một viễn cảnh tự do không chờ đợi của chính mình. Đó chẳn phải là một cảm nghĩ không có lý, vì trông bà Reed lúc đó có vẻ hốt hoảng thực sự. Mặc cho mớ vải khâu tụt khỏi đầu gối, bà ta giơ hai tay lên, người lắc lư như lên đồng, mắt mũi nhăn nhúm như sắp khóc. - Jane, cháu bị sao mà ăn nói bừa bãi thế? Tại sao người cháu lại run bắn lên thế? Cháu có muốn uống nước không? - Không cần, bà Reed ạ. - Cháu còn muốn nói điều gì nữa không, Jane? Thực ra mợ cũng rất muốn là người bạn của cháu. - Vậy ư? Thế chẳng phải bà vừa nói với ông Brocklehurst rằng tôi là một đứa xấu xa, trí trá đó là gì? Rồi tôi sẽ nói cho mọi người ở Lowood biết bà là người thế nào và đã làm những việc tồi tệ ra sao. - Jane ạ, cháu không hiểu được những điều mợ nói đâu. Trẻ con có lỗi thì phải sửa.


- Lỗi của tôi không phải là trâng tráo! – Tôi gào lên như một con điên. - Nhưng cháu giận quá mất khôn, Jane ạ, cần phải bình tĩnh lại mới được. Còn bây giờ hãy về buồng mà nằm nghỉ đi một lát, cưng ạ. - Tôi không phải là cưng kiếc gì của bà, tôi không thể nằm được. Hãy sớm tống cổ tôi đến trường đi, bà Reed, tôi chán ở đây lắm rồi. “Đúng thế, kiểu gì cũng phải tống cổ nó đến trường ngay mới được”. – Bà Reed lẩm bẩm một mình và nhặt lấy mớ đồ khâu, rồi bước vội ra ngoài. Còn lại mình tôi như một kẻ thắng trận trên chiến trường. Đó là cuộc đấu tranh quyết liệt nhất và cũng là chiến thắng đầu tiên tôi giành được. Tôi đứng một lát trên tấm thảm, nơi ông Brocklehurst vừa đứng, tận hưởng cái cô đơn của người chiến thắng. Thoạt đầu, tôi còn mỉm cười với chính mình và cảm thấy thật vui, nhưng cảm giác này đã nhanh chóng dịu đi cùng sự sục sôi trong huyết quản của tôi. Một đứa trẻ không thể cãi vã với người lớn, cũng không thể bung ra sự tức giận bồng bột của mình như tôi đã làm, mà sau đó lại không cảm thấy dằn vặt vì hối hận. Lúc kết tội và đe dọa bà Reed, lòng tôi bùng cháy dữ dội như một đống lá khô, thiêu đốt phá phách tất cả. Nhưng khi ngọn lửa đã lụi tàn thì đống lá ấy chỉ còn là một đám tro muội đen đủi, tượng trưng cho tâm trạng của tôi, sau nửa giờ im lặng suy nghĩ về cảnh ngộ và tình cảm yêu thương, ghét bỏ của mình. Lần đầu tiên tôi thưởng thức sự trả thù, nó lâng lâng tựa như men rượu nồng, uống vào thấy lòng mình như ấm lên, nhưng sau đó lại là hương vị gay gắt, bỏng rát, khiến tôi cảm thấy như mình bị đầu độc. Tôi bỗng thấy muốn đến xin lỗi bà Reed quá, nhưng theo kinh nghiệm cũng như bản năng, tôi biết rằng làm như vậy chỉ càng làm cho bà thêm khinh bỉ mình, chưa biết chừng lại càng kích động tính nóng nảy của chính mình lên nữa ấy chứ. Tôi muốn rèn cho mình một phẩm chất khác tốt hơn cái kiểu ăn nói phũ phàng; trau dồi một tình cảm khác đỡ ác nghiệt hơn tính nóng nảy u uất. Tôi cầm lấy một cuốn sách – các mẩu chuyện Arập – và cố gắng ngồi đọc. Nhưng rốt cuộc tôi không thể tập trung nổi, đầu óc cứ vơ vẩn hoài giữa mình và những trang giấy mà thường ngày tôi vẫn rất say mê. Tôi mở toang ô cửa kính phòng điểm tâm. Các lùm cây đứng lặng như tờ, sương muối xám xịt bao trùm khắp khu vườn mà không hề bị một cơn gió cuốn hay ánh mặt trời xua tan. Tôi khoác áo trùm kín đầu và cánh tay rồi bước ra một góc vườn yên tĩnh, nhưng lòng chẳng thấy vui khi ngắm những lùm cây im lìm, những trái


linh sam rụng, những tàn dư lạnh lẽo của mùa thu, những chiếc lá vàng bị gió thổi giạt thành đống. Tôi dựa cổng nhìn ra cánh đồng hoang, không một bóng con vật, cỏ cây hoa lá thì trụi trơ. Đó là một ngày ảm đạm, bầu trời xám đục, mọi cảnh vật bị tuyết phủ trắng xóa. Những bông tuyết vẫn rơi rơi hoài. Lòng tôi buồn rười rượi, miệng lẩm bẩm không ngớt: “Mình phải làm gì đây? Mình phải làm gì đây?” Chợt một giọng trong trẻo gọi tên tôi: “Cô Jane! Cô ở đâu đấy? Vào mà ăn đi chứ!” Tôi nhận ra giọng Bessie, nhưng vẫn đứng nguyên tại chỗ. Chị bước nhẹ xuống lối nhỏ ra vườn. - Cô buồn cười thật đấy, – chị Bessie bảo – tại sao nghe gọi mà cô vẫn không vào? Tôi thấy sự có mặt của Bessie dễ chịu hơn những điều tôi đang nghĩ trong đầu, dù chị cũng là người hay nổi cáu. Quả thực là sau cuộc cãi lộn với bà Reed, tôi không còn để tâm đến tính nóng nảy thoáng qua của chị bảo mẫu, và tôi đã sẵn sàng tìm đến hơi ấm nơi tâm hồn trẻ trung của chị. Tôi dang tay ôm chầm lấy chị và nói: “Lại đây, chị Bessie, đừng mắng tôi nữa”. Đó là một cử chỉ bộc trực và bạo dạn hơn tính nhút nhát thường lệ của tôi, và dù sao nó cũng làm chị hài lòng. - Jane ạ, cô đúng là một đứa trẻ kỳ quặc! – chị vừa nói vừa nhìn tôi, – một đứa trẻ lang bạt và đơn độc. Hình như cô sắp được đến trường rồi thì phải? Tôi gật đầu. - Thế cô không buồn vì phải xa chị Bessie tội nghiệp này ư? - Bessie thì bận tâm gì đến em kia chứ? Chị vẫn chẳng mắng em luôn đấy thôi. - Thì cô cũng kỳ lắm kia, lúc nào cũng sợ sợ sệt sệt, cô bạo dạn lên thì có sao nào. - Thì sao ư? Để lại bị ăn đòn à?


- Đòn là đòn thế nào! Nhưng kể ra cô cũng bị đối xử tệ thật. Tuần trước, khi đến thăm tôi, mẹ tôi có bảo rằng bà chẳng hề muốn có một cô con gái rơi vào địa vị như cô. Thôi, ta vào đi, tôi có tin vui cho cô đấy. - Em không nghĩ như vậy, chị Bessie ạ. - Cái con bé này! Cô định nói gì vậy? Sao lại nhìn tôi buồn rười rượi thế kia! Thôi được! Nhưng trưa nay bà chủ và các cô Reed, cậu John sẽ đi uống trà ở nhà khác, còn cô sẽ ngồi với tôi. Tôi sẽ bảo chị đầu bếp làm cho cô một chiếc bánh, và sau đó cô sẽ giúp tôi một tay xem lại các ngăn kéo của cô, vì thế nào tôi cũng phải thu xếp hòm xiểng cho cô nữa. Bà chủ định cho cô rời Gateshead trong vòng một hai hôm nữa, và cô có thể mang theo thứ đồ chơi nào tùy thích. - Bessie, chị hứa đi, từ giờ cho tới khi em đi, chị sẽ không mắng nhiếc em nữa chứ? - Được, tôi hứa, nhưng với điều kiện cô phải là một cô bé thật ngoan và không việc gì phải sợ tôi nữa. Nếu tôi có lỡ gắt gỏng một chút thì cũng đừng vì thế mà giật mình. Không hiểu sao cứ thấy cô như vậy là tôi lại thấy bực mình. - Em không nghĩ là em sẽ phải sợ chị mãi, Bessie ạ, vì dù sao thì em cũng đã quen với chị rồi, với lại rồi sẽ còn khối người khác để mà sợ nữa ấy chứ. - Nếu cô sợ họ mãi thì thế nào họ cũng sẽ ghét bỏ cô cho mà xem. - Cũng như chị, phải vậy không, Bessie? - Tôi không ghét cô, thậm chí tôi tin rằng còn yêu cô hơn những người khác. - Nhưng có bao giờ chị tỏ ra như vậy đâu. - Cô cũng hay để ý đấy chứ! Cách nói chuyện của cô cũng thật là lạ. Cái gì khiến cô trở nên liều lĩnh và táo tợn như vậy? - Cái gì à! Em sắp phải xa chị, vả lại… Tôi định nói toạc ra chuyện xảy ra giữa tôi và bà Reed, nhưng nghĩ thế nào lại thôi vì thấy không nói gì là hơn cả.


- Xa tôi, chắc là cô vui lắm? - Hoàn toàn không phải vậy, chị Bessie ạ. Ngay bây giờ em đã bắt đầu thấy hơi buồn. - “Ngay bây giờ!” và “hơi buồn!” Quý cô của tôi nói mà cứ bình thản như không ấy! Tôi dám chắc rằng nếu bây giờ tôi xin được hôn cô một cái, chắc gì cô đã đồng ý! Thế nào cô sẽ lại bảo tôi rằng cô hơi không thích. - Em sẽ hôn chị và sẵn sàng đón nhận nụ hôn của chị, chị cúi xuống một chút đi. Bessie cúi thấp người xuống. Chúng tôi ôm hôn nhau, rồi tôi theo chị vào nhà, lòng nhẹ tênh. Buổi trưa ấy trôi qua thật nhẹ và êm ả. Chiều đến, Bessie kể mấy câu chuyện trong những câu chuyện hay nhất, và hát những bài ngọt ngào nhất mà chị biết cho tôi nghe. Tôi bỗng thấy cuộc đời như đang bừng lên những tia nắng ấm.



Chương 5 Ngày mười chín tháng Giêng, chuông đồng hồ vừa điểm năm giờ sáng thì chị Bessie bước vào buồng tôi với ngọn nến trên tay. Tôi dậy trước khi chị tới khoảng nửa giờ, đủ thời gian để rửa mặt, mặc quần áo dưới ánh trăng náu rọi qua ô cửa sổ nhỏ ngay cạnh giường. Hôm ấy, tôi rời Gateshead bằng xe ngựa. Bessie là người duy nhất dậy sớm, chị thắp đèn trong phòng trẻ và dọn bữa sáng cho tôi. Nhưng nào có mấy đứa con nít ăn được trong tâm trạng háo hức trước một cuộc đi xa, và tôi cũng chẳng phải là ngoại lệ. Thúc tôi ăn chẳng được, chị Bessie phải lấy giấy gói cho tôi một ít bánh quy và nhét vào trong một cái túi. Chị giúp tôi chỉnh lại quần áo và mũ mão, rồi quàng lên cổ một chiếc khăn choàng và cùng tôi ra khỏi buồng trẻ. Khi đi ngang qua cửa phòng bà Reed, chị hỏi tôi: “Cô có định vào từ biệt bà Reed không?” - Khỏi cần, chị Bessie ạ. Tối hôm qua, khi chị xuống dưới nhà ăn tối, bà ấy đã vào buồng em và bảo sớm nay, lúc nào đi, em không cần phải gặp bà hoặc mấy đứa em làm gì cho phiền phức. Bà ấy còn bảo rằng bà luôn là người bạn tốt nhất của em, đừng bao giờ quên nhắc đến bà và công ơn của bà. - Thế cô đã nói gì? - Chẳng nói gì cả, em trùm khăn kín mít rồi quay mặt vào tường. - Như thế thì không được, Jane ạ! - Được chứ, chị Bessie, bà chủ của chị không phải là bạn, mà là kẻ thù của em. - Ô kìa, cô Jane, ai lại nói thế? - Chào vĩnh biệt Gateshead! – Tôi cay đắng kêu lên lúc bước qua phòng lớn ra cửa trước. Mảnh trăng khuất bóng giữa những đám mây khiến bầu trời tối sầm lại. Chiếc đèn lồng trên tay Bessie hắt ánh sáng mờ tỏ xuống những bậc thềm ẩm ướt và con đường rải sỏi còn đẫm tuyết tan. Bước vội xuống lối đi, cái giá buốt của một buổi sớm mùa đông khiến tôi run cầm cập. Phòng bác gác cổng đã le lói ánh đèn, vợ bác đang nhóm lửa. Hòm hành lý của tôi được đem


xuống từ chiều hôm trước, đã được buộc dây cẩn thận và đặt ngay ngoài cửa. Đã sáu giờ kém ít phút! Và khi chuông đồng hồ vừa điểm sáu giờ được một lúc thì có tiếng bánh xe lộc cộc lăn trên đường. Nhòm ra cửa, tôi thấy có ánh đèn xe lắc lư nghiêng ngả trong bóng tối báo hiệu chiếc xe đang đến gần. - Cô ấy đi có một mình thôi à? – Vợ bác gác cổng hỏi. - Vâng! - Đi bao xa? - Năm mươi dặm. - Xa quá nhỉ! Không hiểu sao bà Reed lại để cho cô ấy đi một mình xa như thế. Chiếc xe bốn ngựa chở đầy khách dừng ngay trước cổng. Bác xà ích và tay áp tải giục mọi người nhanh tay chuyển hành lý của tôi lên xe. Tôi ôm níu lấy cổ chị Bessie để tạm biệt chị bằng những nụ hôn. - Làm ơn để mắt tới cô ấy hộ tôi! – Bessie bảo tay áp tải khi anh ta bế thốc tôi vào trong xe. - Được rồi, được rồi! – Tay áp tải trả lời và đóng cửa xe lại rồi hô to: “Đi thôi!” Chiếc xe lập tức lên đường. Vậy là tôi phải giã biệt Bessie, giã biệt lâu đầu Gateshead để tới một nơi xa xôi mờ mịt nào đó mà tôi chưa mường tượng ra nổi. Tôi chẳng còn mấy ấn tượng về chuyến đi này, chỉ nhớ rằng ngày hôm ấy dài vô tận, như thể chúng tôi phải đi hàng trăm dặm đường. Xe chúng tôi qua một vài thị trấn, và rồi đến một thị trấn lớn thì dừng lại. Bầy ngựa được thả tự do, trong khi các hành khách được xuống xe ăn sáng. Tôi được dẫn vào một quán nhỏ, nơi tay phụ xe muốn tôi phải ăn một thứ gì, nhưng vì tôi không muốn ăn nên anh ta để tôi ngồi trong một căn buồng rộng thênh thang có hai lò sưởi ở hai đầu hồi, trên trần treo một chùm đèn, trên tường cao có một ban công nhỏ sơn đỏ để đầy nhạc cụ. Tôi tha thẩn trong phòng một lúc lâu, trong lòng trào dâng một cảm giác kỳ lạ, chỉ lo mình bị một kẻ lạ mặt bắt cóc giống như những câu chuyện chị Bessie thường kể cho tôi nghe bên lò sưởi. Cuối cùng thì tay phụ xe cũng quay lại bế xốc tôi lên xe trước khi leo lên chỗ ngồi của mình và rúc tù và inh ỏi. Chiếc xe tiếp tục nhẫn nại lăn


bánh trên đường phố của thị trấn L…

[3]

Trời chiều chở nặng hơi sương ẩm ướt. Lúc chạng vạng tối, tôi cảm thấy mình đã xa Gateshead lắm rồi, bởi xe chúng tôi không còn qua các thị trấn. Mọi cảnh vật đều đã thay đổi, những ngọn đồi nhấp nhô xám xịt bao quanh chân trời, hoàng hôn dần buông… Chúng tôi xuống một thung lũng u tịch, chỉ có tiếng gió rít giữa các lùm cây khi màn đêm đã thực sự bao trùm lên vạn vật. Tiếng gió ru khiến tôi chìm dần vào giấc ngủ, nhưng tôi cũng chẳng ngủ được lâu, vì tiếng bánh xe dừng bất chợt đã làm tôi choàng tỉnh. Cửa xe mở, một phụ nữ có dáng dấp của một đầy tớ đứng bên cạnh cửa. Tôi nhìn rõ khuôn mặt và quần áo chị ta nhờ ánh đèn hắt xuống từ trên xe. - Trên xe có cô bé nào tên là Jane Eyre không nhỉ? – Chị ta hỏi. Tôi trả lời: “Có”, và được bế xuống xe. Đợi hòm hành lý của tôi được dỡ xuống hết, chiếc xe lại lập tức chuyển bánh. Phải ngồi lâu quá, hơn nữa xe lại xóc và nhiều tiếng ồn, nên tôi thấy chóng mặt và ê ẩm hết cả người. Tôi định thần nhìn lại mình một lúc. Mưa, gió và bóng tối đè nặng lên cảnh vật xung quanh, song tôi vẫn lờ mờ nhận ra một bức tường có một ô cửa mở trước mặt. Đợi tôi bước qua cửa, người dẫn đường mới lặng lẽ khép cửa lại và bấm khóa cẩn thận. Trước mặt tôi là một tòa, hay nói đúng hơn là một dãy nhà – vì tòa nhà chạy rất dài – có nhiều cửa sổ, trong đó có một vài cửa sổ vẫn còn ánh đèn. Chúng tôi bước vào một lối đi rải sỏi khá rộng, lõng bõng nước, dẫn tới một khung cửa. Chị người hầu dẫn tôi qua hành lang vào một phòng còn ánh lửa và để tôi một mình trong đó. Tôi đứng hơ những ngón tay rét cóng trên ngọn lửa hồng và đảo mắt nhìn xung quanh. Không phải ánh đèn cầy, mà là ánh lửa bập bùng hắt ra từ lò sưởi soi sáng những bức tường dán giấy, những tấm thảm, rèm cửa sổ và các đồ đạc bằng gỗ gụ bóng lộn: đây là phòng khách, không được rộng rãi và tráng lệ như phòng khách ở Gateshead, nhưng cũng khá đủ tiện nghi. Tôi đang ngắm nghía bức tranh treo trên tường thì cánh cửa bật mở, một người cầm nến bước vào, và một người nữa đi theo sau. Đi trước là một quý bà cao lớn, tóc sẫm, mắt đen, trán rộng và xanh xao. Bà khoác trên mình một chiếc khăn choàng, con người bà toát lên một vẻ


nghiêm trang. - Ai lại để con bé đi một mình thế này, – vừa nói, bà vừa đặt cây nến lên bàn. Bà chăm chú nhìn tôi chừng hai phút, rồi nói tiếp: - Tốt hơn hết là cho cô bé đi ngủ đi, trông nó có vẻ mệt mỏi lắm. Em có mệt không? – Bà hỏi và đặt tay lên vai tôi. - Thưa bà, hơi mệt ạ. - Còn đói nữa chứ! Cô Miler này, trước khi đưa cô bé đi ngủ, phải cho nó ăn một chút gì đã. Có phải đây là lần đầu tiên em xa cha mẹ để tới trường không? Tôi giải thích cho bà biết là tôi không còn cha mẹ. Bà hỏi họ mất từ bao giờ, năm nay tôi bao nhiêu tuổi, tên gì, tôi có biết đọc biết viết không, và đã khâu vá được chưa. Bà vuốt nhẹ ngón trỏ lên má tôi và bảo bà “hy vọng tôi sẽ trở thành một cô bé chăm ngoan”, rồi giục tôi đi theo cô Miller. Quý bà hỏi chuyện tôi chạc hai mươi chín tuổi, còn người phụ nữ đi cùng tôi trẻ hơn độ vài tuổi. Điều đầu tiên tôi có ấn tượng về con người này là giọng nói, ánh mắt và dáng vẻ bề ngoài. Cô Miller chỉ là một người bình thường, nước da hồng hào, nhưng vẻ mặt vẫn mệt mỏi vì lo lắng, dáng dấp hành động tất bật như người con mọn. Trông cô có dáng một nữ trợ giáo – quả thực về sau tôi biết đúng là như vậy. Tôi theo cô qua hết buồng này đến buồng khác, hết hành lang này đến hành lang khác, trong một khu nhà rộng rãi và khấp khểnh không đều. Thoạt đầu, khu nhà như chìm trong bầu không khí im lặng đến ghê người, nhưng sau đó, chúng tôi đến một nơi có những tiếng rì rầm của nhiều giọng nói. Chúng tôi bước vào một căn phòng chạy dài, ở mỗi đầu kê một chiếc bàn lớn, trên mỗi bàn có hai cây nến sáng tù mù, và ngồi trên hàng ghế dài quây xung quanh những cô gái chạc tuổi từ chín mười đến hai mươi, ánh sáng lờ mờ của ngọn nến khiến tôi tưởng trong phòng có nhiều người lắm, nhưng thực ra không đến quá tám mươi nữ sinh. Tất cả đều mặc cùng một kiểu: áo váy dài không tay kiểu Hà Lan, vải nâu, trông rất lạ mắt. Chúng tôi đến đúng vào giờ nghiên cứu, họ đang chuẩn bị bài ngày mai, và tiếng rì rầm tôi nghe được chính là tiếng họ lẩm nhẩm đọc bài. Cô Miller ra hiệu cho tôi ngồi xuống một chiếc ghế gần cửa, rồi bước lên đầu phòng nói thật to:


- Các lớp trưởng, thu sách lại xếp vào chỗ đi nào! Bốn nữ sinh lớn từ các bàn khác nhau cùng đứng dậy đi một vòng thu lượm sách vở và xếp lại một chỗ. Cô Miller tiếp tục ra lệnh: - Các lớp trưởng đi dọn khay ăn tối đi! Mấy nữ sinh lớn lập tức đi ra và quay trở lại ngay, trên tay mỗi người bưng một chiếc khay có chia suất một từng món ăn gì đó tôi không biết, giữa khay là một bình lớn và một chiếc cốc vại. Họ đi một vòng chia từng phần cho từng bàn, ai khát thì lấy cốc mà uống chung nước trong bình. Đến lượt mình, tôi chỉ uống cho đỡ khát chứ không đụng đến phần ăn. Cảm giác mệt mỏi và xúc động khiến tôi không muốn ăn. Tuy nhiên, tôi cũng có dịp được thấy khẩu phần ăn của mỗi người là một chiếc bánh lúa mạch mỏng manh, được cắt sẵn làm nhiều phần. Sau bữa ăn, cô Miller nán lại tụng kinh, còn các nữ sinh thì đi lên gác theo hàng đôi. Người mệt mỏi rã rời, tôi chẳng hơi đâu để ý xem phòng ngủ như thế nào, chỉ thấy nó cũng dài y như phòng học. Đêm nay tôi phải ngủ chung giường với cô Miller. Cô giúp tôi cởi áo ngoài. Ngả lưng rồi tôi mới đưa mắt nhìn qua một lượt: mỗi giường đều có hai người nằm. Tôi nằm được khoảng mươi phút thì ngọn đèn duy nhất trong phòng phụt tắt. Tôi ngủ thiếp đi trong bóng tối câm lặng. Đêm trôi qua nhanh, tôi mệt đến nỗi chẳng còn mơ được gì, chỉ tỉnh giấc có một lần khi nghe thấy tiếng gió gào rít từng hồi giữa cơn mưa như trút và cảm giác cô Miller vẫn nằm bên cạnh. Lúc tôi bừng tỉnh một lần nữa cũng là lúc một hồi chuông réo vang, các nữ sinh đều đã dậy và đang mặc quần áo. Một ngày mới chưa đến, căn phòng chỉ được chiếu sáng nhờ một hai ngọn đèn leo lét. Tôi miễn cưỡng trở dậy, trời rét căm căm buộc tôi mặc quần áo cho thật nhanh và đi vội ra chỗ chậu rửa mặt, nhưng tôi cũng không thể rửa ngay được, bởi sáu người mới có một chiếc chậu đặt ở giữa phòng.Tiếng chuông lại réo vang như một hiệu lệnh buộc tất cả nữ sinh phải xếp hàng đôi để xuống cầu thang, vào phòng học lạnh run và tối như hũ nút. Cô Miller đứng đọc kinh rồi ra lệnh: - Ngồi vào lớp đi! Mấy phút đầu giờ học, các học sinh nói chuyện rất ồn ào nhốn nháo,


khiến cô Miller phải luôn mồm hô “yên lặng!” và “trật tự đi!”. Khi những tiếng ồn ào đã lắng xuống, tôi thấy các nữ sinh ngồi vào dãy bàn quây theo hình bán nguyệt, đối diện là bốn cái ghế tựa đặt bên bốn cái bàn nhỏ, ai cũng cầm trên tay một quyển sách. Bàn học sinh nào cũng đặt một cuốn sách to như cuốn Kinh thánh. Yên lặng được một lát, phòng học lại rộ lên những tiếng nói chuyện riêng. Cô Miller phải đến từng lớp để dẹp những tiếng rào rào như cái chợ đó. Lại một hồi chuông nữa réo lên từ xa. Ngay lập tức có ba phụ nữ bước vào, mỗi người tìm đến một chiếc bàn và ngồi vào ghế. Cô Miller ngồi vào chiếc ghế còn lại kê gần cửa nhất, ngồi xung quanh cô là những nữ sinh nhỏ nhất. Tôi được xếp ngồi ở hàng cuối cùng của lớp dưới này. Chúng tôi bắt đầu buổi học bằng một bài tụng kinh thường nhật, tiếp đến là đọc Thánh kinh, thủ tục này kéo dài đến một tiếng đồng hồ. Đọc Thánh kinh xong thì trời cũng vừa sáng rõ. Tiếng chuông nhẫn nại vang lên lần thứ tư, các lớp học lại xếp hàng sang một phòng khác ăn điểm tâm. Khỏi phải nói tôi vui như thế nào khi nghĩ đến viễn cảnh được một chút gì vào bụng! Tôi thấy đói lả vì hôm qua chẳng ăn được mấy tí. Nhà ăn là một căn phòng lớn âm u, trần thấp tịt, trên hai mặt bàn dài đặt những chiếc chậu đựng một món gì nong nóng, nhưng mùi vị tỏa ra chẳng có gì là ngon lành khiến tôi thấy không khỏi ngán ngẩm. Tôi nhận thấy ai cũng có vẻ bất bình khi phải ngửi cái mùi thức ăn xộc ra khắp phòng ấy. Bắt đầu rộ lên tiếng xì xào từ những học sinh lớn đứng hàng đầu lớp nhất: - Tởm quá! Lại cháo khê rồi. - Trật tự đi! – Tiếng ai quát to. Không phải giọng cô Miller, mà là giọng một cô giáo lớp trên, một người nhỏ nhắn, da ngăm đen, ăn mặc nhã nhặn, nhưng vẻ mặt khó đăm đăm, đang ngồi ở đầu bàn, ngồi ở đầu kia là một cô giáo trông có vẻ dễ chịu hơn. Tôi đưa mắt tìm người phụ nữ tôi gặp lần đầu tối qua nhưng không thấy. Cô Miller ngồi ở cuối bàn tôi, và một phụ nữ đứng tuổi mang dáng dấp người ngoại quốc – người sau này tôi được biết là một cô giáo dạy tiếng Pháp – ngồi ở cuối một bàn khác. Sau một bài đọc kinh dài dằng dặc, rồi đến một bài thánh ca, một chị người hầu bưng khay trà lên cho các cô giáo và bữa ăn bắt đầu. Bụng đói cồn cào, người mệt rã rời, tôi húp luôn mấy thìa khẩu phần ăn của mình mà chẳng cần biết đến mùi vị thức ăn ra sao, nhưng khi cảm giác


đói khát vừa dịu đi một chút, tôi nhận ngay ra cái lờm lợm của món ăn: cháo đã khê thì chớ, khoai tây lại còn thối nữa, ngay đến người chết đói nuốt vào cũng sớm phát ốm. Tôi lặng lẽ ngắm những chiếc thìa khuấy khuấy uể oải và thấy nữ sinh nào cũng nhăn mặt nếm thử rồi cố nuốt lấy một miếng, nhưng rồi hầu hết đều phải bỏ dở. Bữa điểm tâm thế là xong, rốt cuộc chẳng ai ăn được gì nhiều. Chúng tôi lại ca vang bài thánh ca để cám ơn cái bữa ăn mà chẳng ai nuốt được gì ấy, rồi tất cả phải rời nhà ăn để vào phòng học. Tôi là một trong những nữ sinh ra sau cùng; lúc đi qua dãy bàn, tôi thấy một cô giáo nếm thử thìa cháo và liếc nhìn các đồng nghiệp khác. Tất cả đều tỏ thái độ khó chịu, và một người cao lớn trong bọn họ lẩm bẩm: - Đúng là một thứ hổ lốn tởm lợm! Thật đáng xấu hổ! Mười lăm phút trước khi bắt đầu giờ học mới, phòng học lại trở nên rào rào như chợ vỡ. Trong khoảng thời gian ấy; các học sinh được phép nói chuyện thoải mái, nên ai nấy đều ra sức tận dụng bằng hết cái đặc ân của mình. Và thế là mọi chuyện đều dồn cả vào bữa ăn sáng. Tất cả cùng ra sức lăng mạ cho bõ tức. Lúc này chỉ có một mình cô Miller trong phòng: quây xung quanh cô là một nhóm học sinh lớn, chúng nó đua nhau phàn nàn với điệu bộ nghiêm trọng và ủ ê. Tôi nghe thấy mấy đứa nhắc đến tên ông Brocklehurst, khiến cô Miller lắc đầu không bằng lòng, nhưng cô cũng chỉ ngăn cản cơn phẫn nộ của đám nữ sinh một cách chiếu lệ. Xem ra cô cũng đang chia sẻ nỗi niềm cùng chúng. Đồng hồ trong lớp học ngân dài chín tiếng, cô Miller rời đám nữ sinh ra đứng giữa phòng và hô to: - Trật tự nào! Ai về chỗ nấy đi! Kỷ luật nhanh chóng được lập lại, chỉ trong vòng có năm phút, đám học sinh lộn xộn lại đâu vào đấy. Mấy cô giáo lớp trên cũng trở về vị trí của mình, nhưng dường như tất cả đang chờ đợi một điều gì đó. Đám nữ sinh ngồi sắp hàng trên những chiếc ghế băng đặt dọc theo các bức tường, tám mươi đứa ngồi im phăng phắc trong phòng: trông đứa nào cũng kỳ kỳ, tất cả đều trải ngược ra sau, cấm có thấy một lọn tóc quăn nào. Họ mặc toàn màu nâu, cổ áo bó sát cổ, vạt áo váy có may những túi vải nhỏ (trông như hầu bao của người miền núi Xcôtlen) dùng cho tiện trong một số việc; tất cả đều đi bít tất len và giày móc khóa đồng phục được đóng ở nhà quê. Khoảng hai chục nữ sinh ăn mặc theo lối này là những cô gái đã trưởng thành, hoặc nói một cách


chính xác là những phụ nữ trẻ, trông họ ăn mặc có vẻ không hợp nếu không muốn nói là trông buồn cười, ngay cả những người xinh đẹp nhất cũng vậy. Tôi vẫn chú ý quan sát chúng và thỉnh thoảng lại quay ra nhìn các cô giáo – thú thực là tôi chẳng thấy có cảm tình với cô nào cả. Cái cô được vóc người cao lớn thì lại lỗ mãng, cô có nước da ngăm đen trông có vẻ hơi dữ tợn, cô ngoại quốc thì tàn nhẫn và thô thiển. Còn cô Miller trong mới thật khắc khổ, người lúc nào cũng đỏ ưng ửng, sạm sương gió và mệt mỏi. Tôi đang mải quan sát nét mặt từng người thì tất cả học sinh bỗng nhất loạt đứng bật dậy như một chiếc lò so. Sao thế nhỉ? Lạ thật, có nghe thấy một câu ra lệnh nào đâu! Tôi chưa kịp hiểu sự thể ra sao thì tất cả lại ngồi xuống như cũ, nhưng khác ở chỗ mọi con mắt đều đổ dồn về một hướng, khiến tôi phải nhìn theo. Thì ra là người phụ nữ đã tiếp tôi đêm hôm qua. Bà đứng ở cuối phòng, bên lò sưởi, nghiêm nghị bao quát hai hàng học sinh. Cô Miller tiến lại gần người phụ nữ mới đến như muốn hỏi một điều gì đó, và khi đã nhận được câu trả lời, cô quay về chỗ cũ và cao giọng nói: - Lớp trưởng lớp nhất, về lấy mấy quả địa cầu đến đây! Trong lúc cô nữ sinh đi lấy học cụ, người phụ nữ vừa được hỏi ý kiến ấy chậm rãi bước lên đầu lớp một. Tôi cho rằng tôi đã mắc phải cái tính sùng bái, vì tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi cái cảm giác kinh sợ tôn kính khi nhìn theo bước chân bà. Bây giờ, giữa ban ngày ban mặt, trông bà mới thật cao lớn, dễ chịu, cân đối, đôi mắt nâu ánh lên vẻ hiền hậu, đôi hàng mi đen kẻ dài thanh tú, nổi trên vầng trán rộng trắng ngần, mái tóc nâu thẫm được uốn thành những lọn quăn tròn hai bên thái dương rất hợp mốt. Bà ăn mặc cũng rất hợp thời, áo vải tím biếc điểm thêm một dải nhung đen Tây Ban Nha, bên thắt lưng đeo một chiếc đồng hồ vàng lóng lánh (ngày ấy đồng hồ còn chưa phổ biến như bây giờ). Xin để độc giả tự thêm vào cho hoàn chỉnh bức chân dung của bà: nét mặt phong nhã, nước da sáng nhưng hơi xanh, dáng vẻ uy nghi đường bệ. Như vậy là bạn đọc đã có một ý niệm đúng – ít ra là trong chừng mực ngôn ngữ có thể mô tả được – về vẻ bề ngoài của cô Temple (cụ thể là Maria Temple, một cái tên tôi thấy trong một cuốn sách kinh mà có lần bà đã nhờ tôi cầm đến nhà thờ). Bà giám thị trường Lowood (chính là người phụ nữ tôi đang nhắc tới) ngồi xuống trước hai quả địa cầu vừa được đặt trên một chiếc bàn, mời các


nữ sinh lớp nhất đến xung quanh, và bắt đầu một bài giảng về địa lý. Các lớp dưới được các cô giáo cho học ôn lịch sử, ngữ pháp… trong một giờ đồng hồ, tiếp đó là tập viết và số học. Thời gian một số học sinh lớp nhất được bà Temple giao cho mấy bài học nhạc. Mỗi bài học được tính bằng tiếng chuông đồng hồ. Cuối cùng, khi chuông đồng hồ ngân mười hai tiếng, bà giám thị liền đứng dậy nói: - Tôi có một chuyện muốn nói với các học sinh. Vừa hết buổi học, tiếng nói chuyện lại bắt đầu nổi lên rào rào, nhưng nghe bà giám thị bảo, tất cả cùng lập tức im bặt. Bà bắt đầu: - Chắc là các em đã đói lả vì sáng nay chẳng ăn được gì, vì vậy tôi đã bảo nhà bếp chuẩn bị ít bánh mì và phó mát cho tất cả các em trưa nay. Mấy cô giáo nhìn bà ngạc nhiên. - Tôi chịu trách nhiệm về việc này. – Bà nói như để giải thích cho họ rồi lập tức rời khỏi lớp học. Chẳng phải đợi lâu, bánh mì và phó mát được bưng vào phân phát ngay khiến cả trường ai nấy đều hớn hở ra mặt. Rồi lại có lệnh “Ra vườn!”. Thế là các học sinh phải răm rắp đội lên đầu một chiếc mũ rơm thô thiển có dây buộc bằng vải chúc bâu sặc sỡ, và khoác lên người một chiếc áo choàng viền xám. Tôi cũng được trang bị như vậy trước khi đi theo dòng người ra ngoài. Vườn là một khoảng đất rộng xung quanh có tường cao bao bọc chắn hết cảnh quan bên ngoài, một hàng hiên có mái lợp chạy dài ở một bên, và có những lối đi rộng bao quanh một khoảng đất ở giữa được giao cho từng học sinh chăm bẵm vun trồng. Khi những bông hoa bắt đầu nở rộ, chắc hẳn những khoảnh vườn này phải đẹp mắt lắm, nhưng bây giờ đang là cuối tháng Giêng nên tất cả đều bị cái băng giá của mùa đông làm cho héo úa tàn tạ. Tôi run run đứng ngó nhìn xung quanh. Quả là một ngày xấu để có thể thực hành ngoài trời. Rõ ràng là trời không mưa, nhưng bầu trời vẫn bị che phủ bởi những hạt sương mù vàng vàng rơi liên tục như mưa phùn, đất dưới chân tôi còn ướt nhoét vì nước ngập hôm qua. Dù vậy, những nữ sinh thừa hơi vẫn chịu khó lăng xăng chạy chơi những trò động chân động tay, còn những đứa ốm yếu chỉ dám tụm năm tụm ba núp dưới hành lang cho ấm.


Nhưng tôi vẫn luôn nghe thấy chúng bật ra những tiếng ho khan, bởi màn sương mù dày đặc dường như đã ngấm sâu vào cái thân hình run rẩy của chúng. Tôi chưa nói chuyện với ai, và hình như cũng chẳng ai để ý đến tôi. Tôi đứng trơ trọi một mình, nhưng tôi đã tập làm quen với cảm giác đơn độc ấy, nó chẳng làm tôi phải nghĩ nhiều. Tôi đứng dựa vào một cột trụ ở hàng hiên, kéo áo choàng quấn chặt vào người, cố quên cái giá lạnh cắt da cắt thịt bên ngoài và cái đói cồn cào ruột gan bên trong để quan sát và suy nghĩ. Nhưng những ý nghĩ của tôi chỉ là một mớ mơ hồ và đứt đoạn, chẳng có gì đáng nói. Tôi không biết mình đang ở đâu, Gateshead và mảnh đời quá khứ của tôi dường như trôi về nơi xa lắm, hiện tại thì mơ hồ và xa lạ, còn tương lai thì mù mờ vô định. Tôi nhìn quanh mảnh vườn như vườn của một tu viện, rồi ngước mắt nhìn khu nhà, một tòa nhà lớn, một nửa màu xám xịt và có vẻ già nua lắm rồi, nửa còn lại thì như mới tinh. Phần nhà mới, gồm phòng học và ký túc xá, được chiếu sáng nhờ những khung cửa sổ có chấn song và lưới mắt cáo, khiến cho khu nhà trông như một nhà thờ, trên khung cửa chính được gắn một tấm biển đá khắc những hàng chữ: “Trường từ thiện Lowood – Khu nhà này được xây lại năm… bởi ông Naomi Brocklehurst, ở lâu đài Brocklehurst, thuộc tỉnh nhà”. “Hãy để cho hào quang của các con rạng rỡ trước mọi người, khiến cho họ có thể nhìn thấy rõ những việc thiện của các con, và tôn kính đức Cha ngự trên thiên đàng” – Thánh Matt, quyển 16. Tôi đọc đi đọc lại nhưng vẫn không sao hiểu hết ý nghĩa của những dòng chữ đó nếu như không có người giải thích giùm. Tôi đang loay hoay mãi với ý nghĩa của “Trường từ thiện” và cố tìm hiểu câu đầu tiên có liên hệ gì với câu Kinh Thánh sau, thì chợt có một tiếng ho ngay sau lưng khiến tôi [4] quay đầu lại. Tôi nhận ra một đứa con gái ngồi trên một băng ghế dài ngay cạnh mình đang cắm cúi đọc sách, vẻ rất chăm chú. Chỗ tôi đứng có thể nhìn [5] rõ đầu đề của cuốn sách là “Rasselas” , một cái tên rất lạ, khiến tôi bị cuốn hút ngay. Bất giác, cô gái ngẩng mặt lên nhìn tôi khi vừa lật một trang sách. Tôi mạnh dạn hỏi chuyện: - Quyển sách của chị có hay không? – Tôi chợt nảy ra ý định sẽ hỏi mượn cô có ngày.


- Tôi thích cuốn sách này. – Cô gái trả lời sau một thoáng im lặng ngắm nhìn tôi. - Cuốn sách nói về cái gì thế ạ? – Tôi hỏi tiếp và không hiểu sao mình lại đánh bạo bắt chuyện với một người lạ như vậy. Điều đó hoàn toàn trái ngược với bản chất và thói quen cố hữu của tôi, nhưng tôi nghĩ việc đọc sách của cô gái đã chạm vào một cung tình cảm đồng điệu nào đó, vì tôi cũng thích đọc sách, cho dù đó là những cuốn sách trẻ con và vô bổ. Hình như tôi không thể tiêu hóa và cảm nhận được những sách nghiêm túc và thiết thực thì phải. - Em có thể đọc thử được mà. – Cô gái trả lời và đưa cho tôi cuốn sách. Tôi đón nhận cuốn sách, đọc lướt qua mấy trang và thấy ngay rằng nội dung của nó chẳng lấy gì làm hấp dẫn so với cái tên ngoài bìa: “Rasselas” quả là một thứ thật nhạt nhẽo đối với sở thích tầm thường của tôi. Tôi không thấy trong đó nuhững nàng tiên, những vị thần vị thánh, tất cả chỉ tối om những chữ là chữ. Tôi trả quyển sách cho chủ nhân của nó: cô nhận lại và không nói nửa lời, mà cúi xuống định tiếp tục dán mắt vào những trang giấy, nhưng tôi vẫn bạo miệng quấy rầy: - Chị có thể giải thích họ em những dòng chữ ghi trên tấm biển đá kia không? “Trường từ thiện Lowood” nghĩa là thế nào? - Là ngôi nhà mà em đến ở đấy thôi. - Nhưng tại sao người ta gọi nó là “Trường từ thiện”? Nó có gì khác với trường học khác không? - Nó cũng kiểu kiểu như một trại tế bần ấy: chị và em, cũng như tất cả các nữ sinh còn lại ở đây đều là những đứa trẻ được nuôi làm phúc. Chị nghĩ chắc em cũng là một đứa mồ côi cả cha lẫn mẹ? - Cả hai đều mất trước khi em có thể nhớ được một điều gì đấy. - Ừ, tất cả bọn con gái ở đây đều mất cha hoặc mẹ, hoặc mất cả hai, và vì đây là nơi nuôi dạy trẻ mồ côi nên nó được gọi là trường từ thiện. - Thế mình có phải trả tiền không? Chẳng lẽ người ta nuôi không mình à? - Chúng ta có trả, hoặc bạn bè chúng ta phải trả. Mười lăm bảng mỗi


người mỗi năm. - Thế tại sao họ lại gọi chúng mình là trẻ nuôi làm phúc? - Bởi vì mười lăm bảng không đủ bù vào tiền ăn uống và học hành của chúng ta, phần thiếu hụt được bù bằng tiền quyên góp. - Ai quyên góp? - Các quý ông quý bà hảo tâm ở các vùng lân cận và ở Luân Đôn. - Naomi Brocklehurst là ai? - Là một bà xây nên khu mới của trường này như đã ghi trên tấm biển kia, và người trông nom cai quản mọi việc ở đây chính là con trai bà. - Tại sao? - Vì ông ta là thủ quỹ kiêm quản lý của nhà trường. - Thế ra nhà này không phải là của cái bà cao lớn đeo đồng hồ vàng, tức là người đã cho chúng ta ăn bánh và phó mát đấy ư? - Cô Temple chứ gì? Ồ không! Chị cũng mong như thế lắm chứ, cô Temple phải trình báo với ông Brocklehurst về mọi việc cô đã làm. Ông Brocklehurst mua tất tật mọi thức ăn, vật dụng và quần áo cho chúng ta. - Ông ta có sống ở đây không? - Không – cách đây hai dặm, trong một lâu đài lớn. - Ông ta có phải là người tốt không? - Ông ta là một tu sĩ, và nghe nói ông ta làm rất nhiều việc từ thiện. - Chị vừa bảo quý bà cao lớn ấy là cô Temple? - Đúng thế. - Còn những cô giáo khác tên là gì? - Người có đôi má hồng là cô Smith, phụ trách việc may vá và cắt quần áo cho chúng ta, vì ở đây chúng ta phải may lấy quần áo, áo dài, áo lông và


tất cả mọi thứ. Người có dáng vóc nhỏ nhắn tóc đen là cô Scatcherd, chuyên dạy lịch sử, ngữ pháp và phụ trách ôn tập ở lớp nhì. Còn người mang khăn choàng và có chiếc khăn tay thắt dây vàng bên mình là bà Pierrot, người từ Pháp sang đây dạy tiếng Pháp. - Chị có thích các cô giáo không? - Cũng vừa vừa phai phải thôi. - Thế chị có thích cô mái tóc đen, dáng người nhỏ nhắn, và bà…? Tôi không nói được tên bà ấy. - Cô Scatcherd nhanh nhảu chứ ai – em phải lưu ý đừng làm cô ấy phật lòng, còn bà Pierrot không phải là hạng người xấu. - Nhưng cô Temple vẫn là người tốt tính hơn cả, đúng không? - Cô Temple là người rất tốt và cũng rất khéo. Cô ấy trội hơn cả, bởi cô hiểu sâu biết rộng hơn những cô giáo còn lại. - Chị ở đây đã lâu chưa? - Hai năm. - Chị cũng là đứa mồ côi à? - Mẹ chị chết rồi. - Ở đây chị có thấy vui không? - Em hỏi nhiều quá. Từ nãy đến giờ chị trả lời em thế là đủ rồi. Bây giờ, chị đang muốn đọc đây. Nhưng đúng lúc ấy, tiếng chuông báo giờ ăn trưa bỗng réo vang. Vậy là tất cả phải trở về nhà. Mùi thức ăn tỏa khắp phòng, nhưng xem ra cũng chẳng có gì ngon lành hơn bữa điểm tâm sáng nay. Thức ăn được đựng trong hai chiếc chảo mạ thiếc lớn, tỏa sực một mùi mỡ ôi nồng. Quả thực thức ăn lại là một món nấu hổ lốn gồm khoai tây loại tồi trộn với những miếng thịt ôi. Tôi cố nhắm mắt ngậm ngùi nuốt thật nhiều trong chừng mực có thể, lòng tự hỏi không hiểu có phải thức ăn ngày nào cũng như thế này không. Chúng tôi phải sang phòng học ngay sau bữa ăn. Các bài học lại bắt đầu


và kéo dài đến tận năm giờ. Sự việc duy nhất chiều hôm đó khiến tôi chú ý là cô gái nói chuyện với tôi dưới hiên nhà lúc trước đã bị cô Scatcherd phạt trong giờ sử, phải ra đứng ở giữa phòng học rộng thênh thang. Tôi thấy dường như đó là một hình phạt thật ô nhục, nhất là đối với một người lớn như cô – trông cô ít nhất của phải mười ba tuổi trở lên. Cứ tưởng cô gái ấy sẽ buồn tủi và hổ thẹn; nhưng không, tôi rất ngạc nhiên khi thấy cô không khóc lóc, cũng chẳng đỏ mặt: cô vẫn bình thản nghiêm trang làm trung tâm điểm cho mọi ánh mắt đổ dồn vào. “Làm sao mà cô ta lại có thể thản nhiên kiên nhẫn chịu đựng được như vậy? – Tôi tự hỏi. – Nếu rơi vào địa vị của cô, hẳn là mình sẽ mong cho mặt đất nứt ra mà chui vào tọt xuống rồi. Trông cô ta cứ như đang nghĩ đến một điều gì vượt ra ngoài hình phạt, ngoài cảnh ngộ của mình, chứ chẳng hề để ý đến những điều đang diễn ra xung quanh hoặc trước mặt. Mình từng nghe nói về những giấc mơ giữa ban ngày – chẳng lẽ cô gái này đang ở trạng thái như vậy? Cô ta nhìn trân trân xuống sàn nhà, nhưng mình cam đoan cô ta không nhìn thấy gì sất. Cái nhìn của cô dường như hướng ngược vào trong cõi lòng, hẳn là cô đang mường tượng ra những gì cô nhớ lại được chứ chẳng phải một điều gì trong thực tại. Không hiểu cô ta là hạng người nào, tốt hay xấu?” Sau năm giờ chiều ít phút, chúng tôi lại có một bữa ăn nữa, gồm một tách cà phê nhỏ và nửa lát bánh mì đen. Tôi nhâm nhi từng miếng bánh rồi từng ngụm cà phê, trong lòng thầm ước được ăn thêm chừng ấy nữa, vì bụng tôi vẫn còn đói lắm. Sau đó, chúng tôi được ra chơi nửa tiếng trước khi tiếp tục học. Học xong lại được nhồi thêm vào bụng một cốc nước và một mẩu bánh kiều mạch, tiếp đó là đọc kinh và đi ngủ. Đó là ngày đầu tiên của tôi ở Lowood.



Chương 6 Ngày hôm sau lại được bắt đầu như ngày hôm trước, chúng tôi dậy mặc áo dưới ánh sáng mù mờ của những ngọn đèn đêm, có điều là sáng hôm nay chúng tôi đành phải bỏ qua cái nghi lễ rửa mặt, vì nước trong bình đã đóng băng hết cả. Từ chiều qua tới giờ, thời tiết đã thay đổi, gió đông bắc lạnh buốt tràn về không ngớt lùa qua các khe cửa sổ trong phòng ngủ, khiến chúng tôi trằn trọc suốt đêm vì rét run cầm cập và khiến cho nước trong bình đóng thành băng. Một tiếng rưỡi đồng hồ cầu nguyện và đọc kinh dài dằng dặc chưa trôi qua mà tôi đã cảm thấy mình sắp sửa chết cứng đến nơi. Cuối cùng thì giờ ăn sáng cũng đến, và cháo bữa nay không khê, có thể nuốt được, nhưng khổ một nỗi tôi cảm thấy phần của mình ít quá, chẳng thấm tháp gì! Tôi lại ước mình được ăn gấp đôi. Hôm ấy, tôi được ghi tên vào danh sách lớp bốn và được giao bài vở cũng như các công việc thường ngày giống như các học sinh khác. Trước đó, tôi chỉ là một khán giả trước các diễn biến ở Lowood, còn bây giờ, tôi đã thực sự là người trong cuộc. Lúc đầu, vì chưa quen thuộc lòng, nên tôi thấy các bài học vừa dài lại vừa khó, đã thế các môn học lại thay đổi luôn xoành xoạch khiến tôi càng lúng túng; tôi chỉ thấy vui vào khoảng ba giờ chiều, khi cô [6] [7] Smith đặt vào tay tôi một dải mútxơlin mỏng dài khoảng hai thước , một chiếc kim khâu và một cái đê… và dẫn tôi ngồi tới một chỗ yên tĩnh ở góc phòng để học khâu viền. Vào giờ này, hầu hết các nữ sinh đều mải miết ngồi khâu như vậy, nhưng vẫn còn một lớp đứng quanh cô Scatcherd để đọc bài, vì tất cả đều giữ trật tự nên có thể nghe rõ chủ đề bài học, những câu đối đáp của mỗi học sinh và những lời quở trách hoặc khen ngợi của cô Scatcherd. Đó là bài lịch sử Anh quốc. Trong số các nữ sinh đang đọc bài, tôi nhận ra cô bạn mới quen ở dưới hàng hiên. Lúc bài đọc bắt đầu, cô gái đứng ở hàng đầu, nhưng vì phạm lỗi phát âm hoặc lỗi không chú ý ngắt câu, nên đã bị đuổi xuống hàng cuối. Dù đã đẩy cô bạn tôi vào chỗ tối tăm đó, nhưng bà Scatcherd vẫn không quên để mắt lưu ý cô. Bà luôn mồm nhắc nhở những câu đại loại như thế này: “Burns (có vẻ như đấy là tên cô gái: các nữ sinh ở đây đều được gọi bằng tên họ, cũng như các nam học sinh ở nơi khác), Burns, đứng gì mà õng ẹo thế, đứng lại cho ngay ngắn đi”; “Burns, sao cứ hếch hếch cái hàm ra như thế kia, vô duyên quá, chỉnh lại đi”; “Burns, tôi xin


nhắc lại là phải ngẩng đầu lên: tôi không muốn trước mặt tôi cô cứ tỏ thái độ kiểu như vậy… Sau khi đọc xong hai lần một chương, các nữ sinh phải gấp sách lại để giáo viên kiểm tra. Bài học có một phần nói về triều đại Charles đệ Nhất, và có nhiều câu hỏi khác nhau về trọng tải của tàu thuyền, phương thức thanh toán theo trọng lượng và về thuế hàng hải, tóm lại toàn những câu hỏi hầu như không thể trả lời nổi. Vậy mà đến lượt Burns thì chẳng có khó khăn nào là không được giải quyết cả, dường như toàn bộ bài học đều ghi sâu trong trí nhớ của cô, nên cô sẵn sàng trả lời từng điểm. Những tưởng cô Scatcherd sẽ ngỏ lời khen ngợi sự chú ý nghe giảng của Burns, nhưng không, thay vì biểu dương thì cô lại bất ngờ quát tướng lên: - Đồ con gái ở bẩn! Sáng nay lại không rửa móng tay rồi! Burns không đáp lời, khiến tôi không thể hiểu nổi sự im lặng của cô. “Tại sao cô ta không cãi rằng cô không thể rửa móng tay cũng như rửa mặt vì nước đã đóng băng nhỉ?” – Tôi nghĩ bụng. Cô Smith chợt cắt ngang sự chú ý của tôi khi nhờ tôi cầm hộ một cuộn chỉ. Trong lúc quấn chỉ, thỉnh thoảng cô lại hỏi chuyện tôi, rằng trước đây tôi đã đi học bao giờ chưa, có biết thêu thùa đan lát gì không… Kể từ lúc đó, tôi không còn tiếp tục quan sát được cử chỉ hành động của cô Scatcherd nữa. Lúc tôi quay về chỗ ngồi cũng là lúc người đàn bà kia ra một mệnh lệnh mà tôi không hiểu ý nghĩa của nó ra sao, chỉ thấy rằng Burns lập tức phải bước khỏi lớp vào một buồng nhỏ phía trong, nơi cất sách vở, và lại bước ra khỏi đó sau nửa phút, tay cầm một bó rơm buộc túm ở một đầu. Cô gái lễ phép đưa cái dụng cụ quái gở ấy cho cô Scatcherd rồi lặng lẽ cởi tạp dề ra mà chẳng cần đợi bị nhắc. Bà giáo lập tức cầm bó roi quất lia lịa vào cổ cô mười hai cái thật mạnh. Nét mặt Burns vẫn đăm chiêu như thường ngày, còn đôi mắt thì ráo hoảnh như chẳng có chuyện gì xảy ra. Tôi ngừng khâu, các ngón tay run lên vì cảm xúc tức giận bất lực trước cảnh tượng ấy. - Đồ gái trơ trẽn! – Scatcherd sỉ vả. – Nói mãi cũng chẳng sửa được cái thói bẩn thỉu, nhếch nhác của cô, cầm cái roi cất đi! Burns ngoan ngoãn tuân lệnh. Tôi ngây người nhìn cô từ buồng sách bước ra, cất chiếc khăn tay vào túi, trên gò má mỏng manh của cô vẫn còn ngấn dấu vết long lanh của một giọt nước mắt.


Tôi thấy giờ ra chơi vào buổi chiều là có vẻ dễ chịu nhất trong ngày ở Lowood: một mẩu bánh mì và một ngụm cà phê vào khoảng năm giờ chiều làm cho người lấy lại sức nếu chưa đủ thỏa mãn cơn đói cồn cào gan ruột, sự quản thúc gò bó trong ngày được nới lỏng, không khí trong phòng học trở nên ấm áp hơn buổi sáng, lò sưởi được thêm lửa thay cho những ngọn nến chưa được đem vào phòng, ánh lửa hồng, cảnh ồn ào náo nhiệt và hòa âm tiếng nói của nhiều người đã tạo nên một cảm giác về một bầu không khí tự do. Buổi chiều cái hôm được chứng kiến cảnh cô Scatcherd sỉ nhục Burns, đứa học trò của cô ta, tôi đi thơ thẫn một mình giữa những dãy bàn ghế và những nữ sinh đang túm năm tụm ba cười đùa thuê thỏa nhưng trong lòng vẫn không hề cảm thấy cô đơn. Thỉnh thoảng, mỗi khi đi qua một ô cửa sổ, tôi lại vén rèm nhìn ra ngoài. Tuyết rơi không dứt, mang đến một lớp chất dày trên bậu cửa kính. Tôi ghé sát tai vào cửa sổ phân biệt tiếng cười nói râm ran trong nhà với tiếng gió hú thê thảm bên ngoài. Nếu như vừa phải rời xa một mái nhà ấm cúng với người cha, người mẹ tử tế, thì giờ phút này hẳn sẽ là lúc tôi cảm thấy tiếc nuối nhất cái buổi chia ly. Tiếng gió hú kia hẳn sẽ làm cho lòng tôi tê tái, và những tiếng ồn ào hỗn độn trong bóng tối kia sẽ làm xao động sự yên tĩnh trong lòng tôi. Vậy mà lúc này đây, tôi chỉ thấy ở cả bên trong lẫn bên ngoài một sự kích thích thật lạ lùng, tôi muốn những trận gió kia gào lên man rợ hơn nữa, bóng tối thêm mịt mùng và tiếng ồn ào trong lớp trở thành những tiếng gầm thét. Tôi hứng chí nhảy qua các dãy ghế, rồi bò xuống dưới các gầm bàn đến gần một lò sưởi. Ở đấy, quỳ gối bên cạnh tấm chắn lửa bằng thép, tôi chợt nhận ra Burns, cô lặng lẽ tách mình khỏi những gì đang diễn ra xung quanh, và mải mê đánh bạn với một cuốn sách dưới ánh lửa lờ mờ của lò sưởi. - Lại cuốn “Rasselas” đấy phải không? – Tôi hỏi và tiến đến sau cô. - Ừ, chị vừa mới đọc hết xong. – Cô gái nói. Khoảng năm phút sau, cô gấp sách lại. Tôi bỗng thấy vui vui. “Bây giờ mình có thể gợi chuyện cô nàng được rồi”. Tôi thầm nghĩ và ngồi xuống sàn, bên cạnh cô. - Ngoài tên Burns ra, chị còn tên là gì nữa?


- Helen. - Chắc là nhà chị xa đây lắm nhỉ? - Chị ở rất xa, về phía Bắc, ngay sát biên giới Xcôtlen. - Có bao giờ chị trở về nhà không? - Hy vọng là vậy, nhưng ai mà biết chắc được tương lai. - Hẳn là chị thích rời Lowood lắm nhỉ? - Không, tại đây chị phải như vậy chứ? Chị được gửi đến Lowood để tu dưỡng rèn luyện và nếu phải quay về nhà trước khi đạt được mục đích thì còn làm nên trò trống gì? - Nhưng bà giáo ấy, ý em muốn nói là cô Scatcherd, đối với chị thật là nhẫn tâm! - Nhẫn tâm ư? Hoàn toàn không phải! Cô ấy nghiêm khắc và không ưa các khuyết điểm của chị. - Nhưng nếu ở địa vị của chị thì em phải căm ghét cô ta, em sẽ phản kháng lại. Nếu cô ta cầm roi đánh em, em giằng lấy và bẻ ngay trước mũi cô ta cho mà xem. - Chắc là em sẽ không làm như thế đâu, mà nếu làm thì thế nào ông Brocklehurst cũng sẽ đuổi em ra khỏi trường, như thế thì gia đình chị sẽ buồn lắm. Thà cứ nhẫn nhục chịu đựng đau khổ một mình còn hơn là hành động bồng bột, gây hậu quả tai hại cho những người thân của mình. Vả lại, Kinh Thánh đã chẳng dạy chúng ta lấy cái thiện đáp lại cái ác đó là gì. - Nhưng bị ăn đòn và bị phạt đứng giữa phòng, trước con mắt của bao nhiêu người thì nhục lắm, hơn nữa chị còn là một nữ sinh lớn. Em bé hơn chị nhiều mà còn không thể nào chịu nổi nữa là. - Nhưng bổn phận của em là phải chịu đựng cảnh ngộ đó nếu như không thể tránh được. Chỉ có yếu đuối và thiếu khôn ngoan mới nói là không thể nào chịu nổi cái điều số phận đã buộc em phải chịu đựng. Tôi ngạc nhiên nghe Burns lý giải. Quả thực tôi không sao hiểu nổi cái


thuyết chịu đựng nhẫn nhục này, lại càng không thể hiểu và thông cảm với cái sự khoan dung của cô đối với người đã đánh đập cô. Nhưng tôi cũng cảm thấy rằng Helen Burns đã quan niệm sự việc dưới một ánh sáng mà mắt tôi không nhìn thấy được. Tôi đâm ngờ rằng có thể cô nói đúng và người nghĩ sai là tôi, nhưng tôi không muốn đào sâu thêm về chuyện khía cạnh đó. Cũng [8] như Felix , “tôi gác vấn đề lại đợi đến mùa thuận lợi hơn”. - Helen này, chị bảo rằng chị có khuyết điểm, nhưng là khuyết điểm gì chứ? Em thấy chị có vẻ là người rất tốt đấy chứ. - Thế thì phải nhìn vào con người chị, đừng nên đánh giá người khác theo cái vẻ bề ngoài. Đúng như cô Scatcherd nói, chị là một đứa con gái nhếch nhách, chẳng mấy khi chị sắp xếp các thứ cho ngăn nắp. Chị là đứa cẩu thả, chẳng nhớ nguyên tắc gì cả. Đáng lẽ học bài thì chị lại xem truyện. Chị không có phương pháp, và cũng y như em, thỉnh thoảng chị lại nói không thể chịu đựng việc mình bị đem ra làm mục tiêu của các nguyên tắc gò bó. Tất cả hành động của chị đều làm cho cô Scatcherd rất khó chịu, bởi bản chất của cô ấy là ngăn nắp, đúng mực và cặn kẽ tỉ mỉ. - Và trái tính trái nết và tàn nhẫn nữa chứ. – Tôi thêm vào, nhưng dường như Helen không định tán thành định kiến ấy, bởi tôi thấy chị không nói gì. - Cô Temple có khắc nghiệt với chị như cô Scatcherd không? Nghe nhắc đến cô Temple, khuôn mặt nghiêm nghị của cô gái chợt thoáng nở một nụ cười hiền dịu. - Cô Temple là người rất tốt, phải đối xử nghiêm khắc với ai, dù đó là một học sinh tồi tệ nhất trong trường cũng vậy, là một điều khiến cô ấy thực sự khổ tâm. Thấy chị có khuyết điểm, cô chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở, nhưng nếu chị làm được một việc gì đáng khen thì chẳng bao giờ cô tiếc lời biểu dương cả. Có thể nêu ra một chứng cớ rất rõ ràng về tật xấu của chị, ấy là ngay cả với những lời khuyên nhủ hợp tình hợp lý của cô Temple cũng không làm chị sửa chữa được các khuyết điểm. Thậm chí, ngay cả những lời khen của cô, dù chị rất coi trọng, cũng không khích lệ chị trở thành một đứa con gái có tính cẩn thận và biết lo xa. - Lạ thật, cẩn thận thì có gì là khó kia chứ. – Tôi nói. - Đối với em thì chẳng có gì phải nghi ngờ. Sáng nay chị quan sát em ngồi


học ở trong lớp và thấy em rất tập trung tư tưởng, có vẻ như chẳng lúc nào em nghĩ vu vơ khi nghe cô Miller giảng và hỏi bài. Còn chị, cho đến bây giờ chị vẫn cứ nghĩ thơ thẩn tận đẩu tận đâu. Trong lúc đáng lẽ phải chăm chú lắng nghe và tiếp thu bài giảng của cô Scatcherd, thì có khi chị chẳng còn biết đến giọng nói của cô ấy nữa, chị như bị chìm đắm vào một sự mơ màng miên man. Đôi khi chị còn tưởng mình đang ở Northumberland, và những âm thanh đâu đây xung quanh là tiếng róc rách của một dòng suối nhỏ chảy qua Deepden, gần ngôi nhà của mình. Và thế là khi đến lượt mình phải trả lời câu hỏi, chị mới giật mình trả lời lúng ta lúng túng, bởi có chú ý nghe giảng đâu mà biết. - Nhưng chiều nay chị trả lời cứ gọi là vanh vách đấy thôi! - Chỉ là gặp may hãn hữu thôi, bởi chủ đề của bài học cũng là chủ đề mà chị rất thích. Trưa nay, thay vì mơ về Deepden, chị lại nghĩ không hiểu sao một người chỉ mong làm được những điều tốt lại có thể hành động một cách dại dột và thiếu thông minh như vua Charles đệ Nhất thỉnh thoảng vẫn làm. Và chị nghĩ tới tính ngay thẳng và có lương tri, thật đáng thương hại nhà vua khi ông không thể nhìn thấy gì xa hơn những đặc quyền của vương miện. Giá như nhà vua có tầm nhìn rộng hơn và thấy được cái mà người ta gọi là tinh thần thời đại đang phát triển như một khuynh hướng thì hay biết nhường nào! Tuy vậy, chị vẫn thích vua Charles, vẫn tôn kính, thương hại ông như một vị hoàng đế bị sát hại! Phải, kẻ thù của người là những kẻ độc ác xấu xa nhất, chúng đã sát hại một người mà chúng không có quyền. Làm sao chúng lại dám cả gan sát hại ông? Dường như Helen đang nói cho chính mình nghe. Cô đã quên khuấy rằng tôi không mấy hiểu về cô – ý tôi muốn nói là tôi không biết, hoặc gần như không biết gì hết, về vấn đề mà cô bàn luận. Và tôi phải nhắc cô trở về thực tại của tôi. - Thế khi nghe cô Temple giảng bài, chị có mơ màng như thế không? - Không, chắc chắn là không thường xuyên như vậy, bởi vì cô Temple thường nói những điều mới mẻ so với suy nghĩ của riêng chị. Cách nói của cô cũng làm chị thấy dễ chịu, và những điều cô truyền đạt thường đúng với những điều chị muốn biết. - Thế thì với cô Temple, chị phải ngoan lắm nhỉ?


- Ừ, nhưng cũng thụ động thôi, vì chị chẳng phải cố gắng. Chị cứ buông theo khuynh hướng tự nhiên của mình. Có gì đáng khen đâu. - Đáng chứ, chị tốt với những người tốt với chị. Lúc nào em cũng muốn như vậy. Nếu lúc nào cũng tử tế và vâng lời những kẻ tàn nhẫn và bất công, thì sẽ càng làm cho kẻ xấu được thể làm bậy theo ý chúng. Chúng sẽ chẳng bao giờ e ngại gì nữa, và cứ như vậy thì bao giờ mới thay đổi được, chúng sẽ càng ngày càng trở nên quá quắt thôi. Khi nào bị ăn đòn một cách vô lý, chúng ta cần phản ứng thật dữ dội vào. Em nghĩ chắc chắn phải làm như thế – phải thật mạnh mẽ để dạy cho những kẻ đáp đập chúng ta phải chừa cái thói ấy đi. - Hy vọng là khi đã lớn hơn, em sẽ thay đổi cách nghĩ. Dẫu sao thì bây giờ em cũng chỉ là một cô bé còn ngây thơ lắm. - Nhưng em cảm thấy thế, chị Helen ạ. Em phải căm ghét những kẻ mà dù em có tìm mọi cách để làm vừa lòng họ, họ vẫn cứ nhất quyết ghét bỏ em. Em phải kháng cự lại những kẻ phạt em một cách vô lý. Điều đó cũng tự nhiên như thể em phải yêu người nào tỏ ra yêu thương em, và phải chịu đựng sự trừng phạt khi em thấy là xác đáng. - Những kẻ ngoại đạo và các bộ lạc man rợ vẫn theo cái thuyết ấy đấy, nhưng các tín đồ Cơ đốc giáo và các dân tộc văn minh thì không. - Sao cơ? Em không hiểu? - Bạo lực không phải là cách tốt nhất để chế ngự căm hận, và trả thù cũng không hoán cải được bất công. - Thế thì sao? - Hãy đọc kinh Tân ước, suy nghĩ những lời Chúa khuyên răn và nhìn nhận xem Chúa đã hành động ra sao. Hãy lấy lời Chúa làm mực thước và lấy cách xử sự của Chúa làm gương cho mình. - Chúa khuyên răn thế nào? - Yêu thương kẻ thù, cầu phước cho những kẻ chửi rủa mình, làm điều thiện cho những kẻ căm ghét và xem thường mình. - Thế chẳng lẽ em phải yêu bà Reed – một điều em không thể thực hiện


được hay sao? Hay là em phải cầu phúc cho thằng John, con bà? Đến lượt Helen bảo tôi phải giải thích cơ sự của mình, và tôi lập tức kể lại tất cả những chịu đựng và căm hận trong đoạn đường đã qua theo cách riêng của mình. Quá khứ như kích động tôi, khiến tôi nghĩ sao nói vậy, chẳng cần giữ ý tứ gì hết. Helen kiên nhẫn nghe tôi kể từ đầu đến cuối: tôi cứ chờ xem cô có nhận xét gì không, nhưng cô chẳng nói gì cả. - Thế nào, – tôi sốt ruột hỏi lại – chẳng phải bà Reed là một người đàn bà nhẫn tâm và xấu xa ư? - Tất nhiên là bà ấy không tử tế với em, bởi như em thấy đấy, bà ấy không ưa cái kiểu tính cách của em, cũng như cô Scatcherd không ưa tính cách của chị. Nhưng sao em lại nhớ tỉ mỉ lời nói và việc làm của bà ấy với em đến thế! Có vẻ như những sự bất công của bà ấy đã làm em bị tổn thương. Không có sự đối sử nhẫn tâm nào hằn sâu trong ký ức chị đến vậy. Nếu cứ cố quên đi cách xử sự ác nghiệt của bà ta và những cảm xúc bị kích động mãnh liệt, thì em sẽ chẳng sung sướng hơn sao? Cuộc đời đối với tôi thật quá ngắn ngủ để có thể cứ nuôi mãi hận thù và cố chấp mãi những điều sai trái. Chúng ta đang và sẽ là một trong số tất cả những người đang phải gánh chịu các lỗi lầm trên thế gian này, nhưng chị tin chắc rằng rồi thời gian cũng sớm trôi qua để tới lúc cái thể xác tầm thường và tội lỗi của chúng ta nằm xuống và trở về với cát bụi, để rồi chỉ còn lại ánh sáng của linh hồn là tồn tại như một nguyên lý siêu hình của cuộc đời. Linh hồn ấy thuần khiết như khi nó thoát khỏi đấng Tạo hóa để thổi sinh khí vào con người. Nó phải trở về nơi mà từ đó nó đã ra đi. Có thể nó sẽ lại được đầu thai vào một sinh vật nào đó cao cả hơn con người, cũng có thể nó sẽ đi qua những bước tiến hóa vinh quang, từ linh hồn mờ nhạt của con người làm rạng rỡ cho thiên thần tối cao. Và trái lại, chắc chắn nó sẽ không bao giờ bị thoái hóa từ con người thành con quỷ? Không, chị không thể tin điều đó, chị có một đức tin khác kia, đó là một đức tin mà chẳng bao giờ ai dạy chị và chẳng mấy khi được chị nhắc đến, nhưng không vì thế mà chị không thích thú và tỏ ra lơ là, vì nó đem lại hy vọng cho tất cả. Nó làm cho Cõi vĩnh hằng thành một nơi an nghỉ, một ngôi nhà chung vĩ đại chứ không phải là một sự khủng khiếp và một vực thẳm. Hơn nữa, đối với đức tin này, chị còn có thể phân biệt rất rõ ràng giữa kẻ phạm tội và tội lỗi hắn gây nên, chị có thể chân thành tha thứ cho kẻ phạm tội mà vẫn căm ghét tội lỗi của hắn. Đức tin này giúp chị chẳng bao giờ


phải nặng đầu bận tâm tới sự trả thù, phải quá kinh tởm sự suy đồi đạo đức, phải quỳ gối trước những bất công. Chị sống bình lặng và hướng về điểm kết. Trong lúc giãi bày tâm tưởng, Helen cúi gằm mặt xuống, và khi nói xong câu cuối cùng, tôi thấy cô còn cúi gục ủ rũ hơn. Nhìn ánh mắt cô, tôi hiểu cô không muốn nói chuyện với tôi nữa, mà dường như cô đang muốn chìm vào suy tưởng với riêng mình. Nhưng cô cũng chẳng có nhiều thì giờ để mà trầm tư mặc tưởng, bởi vừa có một chị lớp trưởng người thô kệch xuất hiện và cất tiếng gọi bằng cái giọng của người Cumberland: - Helen Burns, nếu chị không đi xếp ngay ngăn kéo và đồ khâu của chị lại cho ngăn nắp, thì tôi sẽ bảo cô Scatcherd đến đây cho mà xem! Helen buông một tiếng thở dài khi phải chia tay với giấc mộng dang dở của mình và lặng lẽ đứng ngay dậy theo lời người lớp trưởng.



Chương 7 Ba tháng đầu ở Lowood đối với tôi dài như cả một thế kỷ, và dĩ nhiên không phải là thế kỷ hoàng kim. Đó chính là những ngày tôi vật lộn chán nản với biết bao khó khăn trong việc thích nghi với những nguyên tắc mới và những công việc xa lạ. Tâm trạng sợ bị thất bại không khiến tôi lo lắng nhiều bằng những vất vả thiếu thốn về thể chất, mặc dù những thiếu thốn này không phải là không đáng kể. Trong suốt ba tháng Giêng, tháng Hai và cả một phần tháng Ba nữa, tuyết rơi dày đặc trên khắp các nẻo đường. Và rồi cũng đến lúc tuyết tan, chúng tôi chẳng thể bước đi đâu vượt ra quá mảnh vườn, trừ khi phải đi nhà thờ. Nhưng cũng trong cái giới hạn nhỏ hẹp ấy, mỗi ngày chúng tôi bắt buộc phải ra ngoài trời một giờ đồng hồ. Quần áo trên người không đủ che chở chúng tôi khỏi cái tiết trời băng giá khắc nghiệt. Không có ủng, chúng tôi phải xỏ giầy để rồi phải hứng trọn những cục tuyết tan nhoe nhoét ở bên trong. Không có găng, đôi bàn tay chúng tôi bị tê cóng và nổi cước đỏ tấy y như đôi bàn chân vậy. Tôi còn nhớ rõ tối nào cảm giác ngứa ngáy khó chịu ấy cũng làm tôi tức phát điên lên mỗi khi hơ chân vào lửa. Và sáng sáng, tôi lại như bị tra tấn khi phải xỏ những ngón chân sung tấy, cứng quèo vào đôi giày. Mà đã hết đâu, lúc nào tôi cũng thấy trong bụng đói vì thiếu ăn. Đang tuổi ăn tuổi ngủ, vậy mà chúng tôi chỉ được chia một phần thức ăn không đủ để nuôi sống một con mèo hen. Từ chỗ thiếu đói sinh ra bắt nạt lẫn nhau, đâm tội cho những đứa nhỏ: sểnh một cái là lại bị những đứa to đầu dỗ dành hoặc dọa nạt để chiếm thêm phần ăn. Đã nhiều lần tôi bị gạ gẫm phải chia những mẩu bánh mì đen quý giá của mình cho hai đứa lớn, và khi buộc phải sẻ đôi tách cà phê của mình cho đứa thứ ba, tôi đã rớt nước mắt, ngậm ngùi uống nốt những giọt còn lại, bụng vẫn thấy đói cồn cào. Chủ nhật luôn là những ngày buồn tẻ nhất trong cái mùa đông ấy. Chúng tôi phải lếch thếch đi bộ hai dặm đường đến nhà thờ Brocklebridge, nơi ông chủ của chúng tôi đang hành lễ. Lúc đi đã lạnh, lúc đến nhà thờ lại càng lạnh hơn. Trong suốt buổi lễ sáng, người chúng tôi gần như bị cứng đờ vì tê cóng. Đường đi xa quá để có thể quay về ăn trưa, nên giữa các buổi lễ, chúng tôi được chia bánh với thịt nguội, dĩ nhiên là khẩu phần cũng thiếu thốn như các bữa ăn thường ngsày. Lễ chiều xong, chúng tôi trở về theo đường đồi dốc và trống trải, từng


trận gió đông ào ào thổi tràn từ những ngọn núi tuyết phía bắc xuống như muốn lột da mặt chúng tôi. Tôi vẫn nhớ bóng cô Temple bước nhẹ nhàng thoăn thoắt dọc theo hàng học sinh ủ rũ chúng tôi với chiếc áo khoác bị gió thổi phấp phới cuốn chặt lấy người. Cô lựa lời động viên chúng tôi vững bước – nói như cô – “như những người lính dũng cảm”, không nao núng tinh thần và cô đã làm gương cho chúng tôi. Trong khi đó, các cô giáo khác trông lại thật thảm hại. Chính họ cũng bơ phờ mỏi mệt chứ chưa nói gì đến chuyện động viên người khác. Mong sao nhanh nhanh về bên bếp lửa hồng! Nhưng mong ước ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì với những nữ sinh thấp bé, bởi các lò sưởi trong phòng đều đã bị các học sinh lớn nhanh chân quây quanh thành hai lớp hàng rào, khiến những đứa nhỏ hơn chỉ còn biết túm tụm sau lưng chúng và thọc bàn tay tê dại vào tạp dề. May mà đến bữa trà, chúng tôi còn được một chút an ủi, khi khẩu phần bánh mì tăng gấp đôi – tức là được trọng cả một khoanh bánh thay vì nửa khoanh – và được thêm một mẩu bơ mỏng tang. Đó là khoản hậu đãi hàng [9] tuần mà chúng tôi mong ngóng từ ngày Xaba này sang ngày Xaba khác. Thường thường tôi vẫn có ý để dành cho mình một nửa bữa ăn hào phóng đó, nhưng cái của để dành đó lại cứ phải chia sẻ với bọn khác. Tối chủ nhật, chúng tôi phải dành thời gian học thuộc lòng các đoạn giáo lý vấn đáp của Giáo hội, và các chương năm, sáu và bảy của Kinh thánh Ma hew. Sau đó còn phải nghe cô Miller đọc một bài thuyết giáo dài lê thê. Những cái ngáp dài không cưỡng nổi của cô trong lúc thuyết giảng chứng tỏ cô cũng rất mệt mỏi. Các bài học luôn bị ngắt quãng bởi có đến nửa tá học sinh nhỏ buồn ngủ rũ rượi, có khi chúng còn ngã nhào xuống nền nhà vì ngủ gật. Cách điều trị tốt nhất là đẩy chúng ra giữa buồng học, bắt đứng im một chỗ cho đến khi kết thúc bài thuyết giáo. Nhưng khốn nỗi đứng cũng chẳng vững, có khi chúng ngã dụi vào nhau thành một đống lù lù giữa phòng học, đến nỗi chúng phải dựa vào những chiếc ghế đẩu cao của các lớp trưởng mới yên. Tôi vẫn chưa đả động gì đến những cuộc viếng thăm của Brocklehurst. Thực ra, ông có việc phải xa nhà trong phần lớn thời gian của tháng đầu tiên kể từ khi tôi đến đây, có lẽ ông ta nán lại thêm ở nhà người bạn phó tổng giám mục. Sự vắng mặt của ông ta làm cho tôi cảm thấy nhẹ cả người. Thiết


nghĩ chẳng cần phải nói tại sao tôi lại thấy chán ngán sự xuất hiện của ông ta, nhưng rốt cuộc thì ông cũng đã đến. Một hôm, vào buổi trưa (tôi đến Lowood đã được ba tuần), khi đang ngồi loay hoay với một phép tính dài dằng dặc trên tấm bảng đen, tôi bất giác ngẩng đầu nhìn ra cửa số và chợt bắt gặp một bóng người vừa đi qua. Tôi gần như nhận ngay ra cái bóng gầy nhẳng ấy như một bản năng; và sau đó khoảng hai phút, khi tất cả trường, kể cả các cô giáo, nhất loạt đứng dậy chào, tôi chẳng cần phải nhìn mới biết đích xác cái bóng lù lù bước vào ấy là ai. Những bước chân sải dài qua phòng học. và cũng cái cột đen từng đứng trên tấm thảm ở Gateshead cau mày nhìn tôi hôm nào ấy nay đang đến bên cạnh cô Temple. Tôi liếc nhìn cái tác phẩm kiến trúc ấy. Vâng, tôi đã không nhầm, đó chính là ông Brocklehurst, trông ông có vẻ dài ra, quắt lại và cứng đơ đơ hơn bao giờ hết bởi các kiểu áo cài khuy đến tận cổ trên người. Tôi có nhiều lý do riêng để mà mất tinh thần trước sự xuất hiện đường đột của ông: tôi còn nhớ rất rõ những lời bóng gió bạc tình bạc nghĩa của bà Reed về tính nết tôi..., cũng như việc ông Brocklehurst hứa sẽ nói lại với cô Temple và các giáo viên khác về bản chất xấu xa của tôi. Từ đó đến giờ, lúc nào tôi cũng lo ngay ngáy về các việc thực hiện lời hứa của ông ta. Ngày nào tôi cũng lo lắng chờ đợi cái “con người sắp đến” – người sẽ nói bằng hết cuộc sống quá khứ của tôi và sẽ vĩnh viễn dán cho tôi cái nhãn hiệu của một đứa trẻ hư hỏng. Và bây giờ ông ta đến thật! Ông đứng ngay bên cạnh cô Temple và nói nhỏ vào tai cô một điều gì đó. Còn nghi ngờ gì nữa, đúng là ông ta đang nói toạc ra cái hư đốn của tôi. Tôi lo lắng khổ sở nhìn vào đôi mắt người phụ nữ, những tưởng đôi mắt sâu thẳm của cô sẽ ném về phía tôi một cái nhìn ghê tởm và khinh bỉ bất cứ lúc nào. Tôi cũng căng tai nghe ngóng, và do tình cờ ngồi ngay ở hàng ghế đầu nên tôi đã nắm bắt được hầu hết câu chuyện giữa hai người, nội dung câu chuyện đã làm tôi nhẹ cả người. - Cô Temple ạ, tôi nghĩ số chỉ mua ở Lowton cũng tốt đấy. Tôi thấy nó đúng là loại đủ tiêu chuẩn để khâu áo sơ mi vải chúc bâu, và tôi đã chọn kiểm kim phù hợp với loại chỉ này. Cô có thể nói với cô Smith rằng tôi quên không mua kim mạng, nhưng thế nào tuần tới cô ấy cũng sẽ nhận được mấy gói, nhưng phải bảo cô ấy rằng vì bất cứ lý do gì thì cũng chỉ được phát cho mỗi học sinh mỗi lần một cái, bởi nếu phát nhiều, chúng sẽ lại buông quăng bỏ vãi mất thôi. Còn điều này nữa: tôi muốn chúng phải có ý thức giữ gìn bít tất len cẩn thận hơn nữa. Lần trước, tôi có ra vườn kiểm tra đống quần áo phơi trên dây và thấy có nhiều đôi bít tất bị vá víu cẩu thả quá: nhìn những lỗ


thủng to tướng. Tôi dám chắc chẳng ai để tâm đến chuyện thường xuyên sửa chữa khâu vá cả. Brocklehurst tạm ngừng một lát. - Thưa ông, các chỉ thị của ông sẽ được thi hành – Cô Temple nói. - Mà này, – ông chủ nói tiếp – chị thợ giặt cho tôi biết có một số học sinh được những hai chiếc cổ áo gấp nếp mỗi tuần. Như thế thì nhiều quá, vì theo nguyên tắc thì mỗi học sinh chỉ được một thôi chứ. - Tôi nghĩ tôi có thể trình bày về trường hợp này, thưa ông, hôm thứ năm tuần trước, Agnes và Catherine Johnston được mời đi dùng trà với mấy đứa bạn ở Lowton, nên tôi đã cho phép chúng thay một chiếc cổ áo mới. Ông Brocklehurst gật đầu. - Phải, một lần thôi thì được, nhưng làm ơn đừng để chuyện ấy xảy ra quá thường xuyên. Và còn điều này cũng khiến tôi không khỏi ngạc nhiên, khi quyết toán với chị quản lý, tôi thấy trong hai tuần qua. Có bữa học sinh được ăn những hai lần, lại cả bánh mì và pho mát nữa. Thế là thế nào? Trong nội quy nhà trường làm gì có khoản nào ghi ăn trưa kiểu như vậy. Ai bày ra các kiểu cách tân ấy? Mà lấy quyền hành gì chứ? - Trách nhiệm đó thuộc về tôi, thưa ông. – Cô Temple trả lời. – Bữa điểm tâm quá tệ, đến nỗi học sinh không thể nuốt nổi, nên tôi không dám để các em phải nhịn đói mãi đến bữa chiều. - Hãy cứ để tôi nói đã, thưa bà! Bà thừa biết phương pháp giáo dục học sinh của tôi là không để cho chúng quen với sự xa hoa và nuông chiều, mà phải dạy cho chúng quen với kham khổ, kiên nhẫn, không chỉ nghĩ đến bản thân. Đừng vì những việc tình cờ cỏn con trong ăn uống, ví như bữa sống bữa khê, đầu thừa đuôi thẹo mà bù vào đó một cái gì ngon lành hơn, bởi như vậy là quá nuông chiều cái thể xác tầm thường và làm sai mục đích của nhà trường. Điều quan trọng là phải bồi dưỡng tinh thần cho học sinh bằng cách động viên chúng can đảm chịu đựng sự kham khổ tạm thời. Có một bài lên lớp ngắn gọn vào những dịp này thiết tưởng cũng phù hợp đấy chứ, đó chính là dịp để ta nhắc lại những cơ cực của các tín đồ Cơ đốc giáo đầu tiên, những nỗi giày vò của những kẻ tử vì đạo, những lời cổ vũ của chính đức Chúa Trời kêu gọi đệ tử hãy mang cây thánh giá đi theo Người, những lời


Người răn rằng con người không chỉ sống bằng bánh mì, mà còn sống bằng từng lời Chúa truyền giảng; những lời an ủi thiêng liêng của Người rằng “nếu chịu đói chịu khát vì ta thì các con sẽ được sung sướng”. Thế đấy, thưa bà, nếu bà cho lũ trẻ ăn bánh mì và pho mát thay vì phải cháo khê, thì quả thực là bà dung dưỡng cái thể xác tầm thường của chúng mà hầu như quên mất rằng bà đã bỏ đói linh hồn bất diệt của chúng như thế nào! Ông Brocklehurst lại chợt ngừng thuyết giảng, có lẽ ông đang quá xúc động. Từ lúc ông Brocklehurst bắt đầu mở mồm lên lớp tới giờ, cô Temple vẫn cúi gằm mặt xuống, nhưng lúc này cô đã dám ngẩng mặt lên nhìn thẳng về phía trước. Gương mặt vốn dĩ đã xanh như cẩm thạch của cô dường như cũng đang biến thành cái vẻ cũng lạnh lùng và cứng rắn của loại đá đó, đặc biệc là khi miệng cô mím chặt lại, tưởng chừng phải dùng đến cái đục của nhà điêu khắc mới có thể cậy ra nổi, và đôi mày nghiêm trọng của cô cũng dần dần cứng như đóng băng. Trong khi đó, ông Brocklehurst đứng bên lò sưởi, tay chắp sau lung, oai nghiêm quan sát khắp trường. Đột nhiên mắt ông chớp chớp như thể bị chói hoặc bị sốc bởi một điều gì từ phía học sinh, ông quay ngoắt lại nói bằng một giọng gâp gáp mà từ nãy đến giờ tôi chưa được biết đến: - Cô Temple, cô Temple, thế nào, đứa bé tóc quăn kia là thế nào? Tóc đã đỏ quạch thì chớ, lại còn quăn tít hết cả lên thế kia à? Ông giơ cây batoong chỉ vào cái vật kinh khủng ấy, tay run run: - Đó là Julia Severn. – Cô Temple điềm nhiên trả lời. - Julia Severn ư! Thế tại sao nó, chứ không phải là một đứa nào khác để tóc quăn? Sao nó dám bất chấp mọi nội quy, nguyên tắc của nhà trường, của cái tu viện từ thiện Cơ đốc giáo này, để học đòi thói đời với mớ tóc tổ quạ thế kia? - Tóc Julia quăn tự nhiên. – Cô Temple trả lời, vẻ điềm nhiên hơn cả khi nãy. - Tự nhiên ư? Vâng, nhưng chúng ta không thể cứ tuân theo tự nhiên được, không thể để tóc dầy thế kia được. Tôi muốn các nữ sinh ở đây phải là những đứa con của Chúa. Tôi đã nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần rằng đầu tóc phải để gọn gang, mộc mạc thôi. Cô Temple ạ, mớ tóc của con


bé kia phải cắt trụi đi. Ngày mai tôi sẽ cho gọi ông thợ cạo tới đây. Mà đâu phải chỉ có con bé ấy để tóc dài và bù xù như thế chứ... Còn con bé to đầu kia nữa, bảo nó quay mặt lại đây xem nào. Bảo tất cả học sinh lớp thứ nhất đứa dậy quay mặt vào tường. Cô Temple đưa khan tay lên môi như muốn giấu một nụ cười sắp sửa bật ra khỏi miệng. Tuy nhiên cô vẫn chiều ý ông chủ, và khi đã hiểu mình phải làm gì, các nữ sinh lớp nhất răm rắp vâng lời. Ngồi hơi ngả người trên ghế, tôi trông thấy rõ những bộ mặt nhăn nhó, ánh mắt hậm hực của chúng trong lúc phải miễn cưỡng úp mặt vào tường. Thật đáng thương hại cho ông Brocklehurst! Dù không nhìn thấy thái độ ấy, song có lẽ ông cũng cảm nhận được rằng ông có thể buộc người khác làm bất cứ điều gì về hình thức bề ngoài, nhưng ý nghĩ bên trong của họ lại vượt xa tầm kiểm soát ngăn chặn của ông. Ông ta giương mắt nhìn vào gáy những chiếc mề đay sống này đến năm phút, rồi phán một câu cộc lốc, giọng như một hồi chuông kết tội: - Tất cả những mớ bòng bong kia đều phải cắt đi. Có vẻ như cô Temple không đồng tình. - Thưa bà, – ông ta nói tiếp – tôi có một Đức Chúa để phụng sự, mà vương quốc của Người không phải ở thế giới này. Bổn phận của tôi là phải kiềm tỏa dục vọng của những đứa con gái này, dạy cho chúng cách ăn mặc giản dị và trang nhã, chứ không phải cái kiếu tóc tết tết bện bện nhố nhăng và những bộ đồ xa xỉ đắt tiền. Trước mặt chúng ta, đứa nào đứa nấy đều để tóc bím do chính cái tính phù phiếm của chúng tết thành. Tôi xin được nhắc lại: phải cắt béng tát cả những mớ tóc đó đi; hãy nghĩ đến thì giờ để mất, đến... Ông Brocklehurst chợt im bặt. Có ba vị khách, ba người phụ nữ, bước vào phòng. Lẽ ra họ nên đến sớm chút nữa để mà nghe bài diễn thuyết của ông ta về cách ăn mặc mới phải, vì họ đang diện trên người toàn những đồ lộng lẫy, nào nhung lụa, nào lông thú... Hai người trẻ hơn trong số ba người (hai cô gái xinh đẹp, trạc mười sáu và mười bảy tuổi) đội mũ lông hải ly màu xám có cắm lông đà điểu đúng kiểu thời thượng. Xõa xuống dưới vành mũ duyên dáng là một làn tóc mây được uốn rất công phu. Người đứng tuổi khoác lên mình một chiếc khăn choàng bằng nhung quý, có viền thêm lông chồn. Bà còn đội một mớ tóc quăn giả kiểu Pháp.


Mấy vị khách, gồm Brocklehurst phu nhân và hai tiểu thư, được cô Temple đón tiếp trọng thị và được ngồi vào ghế danh dự ở đầu phòng. Hình như họ cùng đi một xe với ông chủ đáng kính và đã lên nhòm ngó khá kỹ các phòng trên gác, trong khi đức ông chồng trao đổi công việc với người quản lý, chất vấn người thợ giặt và khiển trách bà giám thị. Bây giờ đã đến lúc họ có thể đưa ra những lời bình phẩm này nọ và quở mắng cô Smith, người phụ trách trông nom quần áo, vải vóc và các phòng ngủ. Nhưng tôi chẳng hơi đâu mà nghe chuyện của họ, vì còn rất nhiều chuyện khác khiến tôi phải chú ý tới. Từ khi ông Brocklehurst nói chuyện với cô Temple đến giờ, tôi vẫn không quên dè chừng cho sự bình an của riêng mình. Tôi nghĩ nếu tránh được sự chú ý của mọi người thì sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra với tôi. Nghĩ vậy, tôi ngồi ngả người trên ghế, làm ra vẻ đang bận bịu với một phép tính và cố cầm cái bảng sao cho che khuất được bộ mặt đi. Lẽ ra tôi cũng chẳng làm ai chú ý, nếu như cái bảng đá chết giẫm kia không bất thình lình tuột khỏi tay tôi và rơi đánh độp một cái. Thế là mọi con mắt đều đổ dồn về phía tôi. Thôi, thế là hết! Tôi lấm lét cúi xuống nhặt hai mảnh bảng vỡ, cố lấy hết sức bình sinh để sẵn sàng chịu đựng cái điều tồi tệ nhất sắp xảy ra. Và điều đó đã xảy ra. - Một con bé cẩu thả! – Ông Brocklehurst phang luôn. – “Nó là đứa học sinh mới thì phải”. Và khi tôi còn chưa kịp thở, ông lại bồi tiếp một câu: “Lẽ ra tôi không được quên rằng tôi có điều cần nói về nó”. Rồi ông hét rống lên (tôi thấy giọng ông ta sao mà to thế không biết!): “Lôi cổ con bé đánh vỡ bảng lên đây!” Nếu nói tự giác thì tôi chịu, bởi toàn thân tôi đã bị tê liệt hoàn toàn. Nhưng có hai nữ sinh lớn ngồi hai bên đã xốc tôi dậy và đẩy tôi đến trước mặt viên quan tòa đáng sợ. Thấy thế, cô Temple đã nhẹ nhàng dìu tôi tới bên ông ta và thì thầm an ủi tôi: - Đừng sợ, Jane ạ, cô biết em chỉ vô tình thôi, em sẽ không bị phạt đâu. Lời an ủi dịu dàng ấy xoáy vào tim tôi như một nhát dao. “Chỉ một phút nữa tôi, – tôi thầm nghĩ – thế nào cô ấy chẳng khinh bỉ mình như khinh bỉ một kẻ đạo đức giả”. Nghĩ đến đây, trong huyết quản tôi lại trào dâng một sự căm phẫn bà Reed, ông Brocklehurst và cả những kẻ chung một giuộc với họ. Tôi không phải là Helen Burns.


- Mang cái ghế kia lại đây! – Ông Broklehurst ra lệnh và chỉ vào một chiếc ghế đẩu rất cao mà một cô lớp trưởng vừa đứng dậy. Chiếc ghế được mang đến ngay lập tức. - Đặt con bé lên đó. Tôi bị nhấc bổng lên chiếc ghế, nhưng ai nhấc thì tôi không biết. Làm sao tôi nhớ cặn kẽ được một điều gì cho ra hồn trong một cảnh ngộ như vậy. Chỉ biết là họ đã nhấc bổng tôi đến ngang mũi, chính xác là cách mũi ông [10] Brocklehurst chưa đầy ba bộ ; và dưới chân tôi là hình ảnh những chiếc áo lụa màu vàng cam và màu đỏ tía lòe xòe, uốn éo cùng một đám mây lông chim bạc bạc. Ông Brocklehurst hắng giọng: - Thưa các bà, – ông ta nói và quay lại phía người nhà – thưa cô Temple, các cô và các em học sinh, mọi người đề nhìn rõ đứa bé này chứ? Tất nhiên là họ không mù, vì tôi cảm thấy mọi ánh mắt đều hướng về tôi như những tấm gương sáng soi vào bộ mặt chín nhừ của tôi. - Mọi người đều thấy nó còn bé, và nó cũng có vẻ bình thường của một đứa trẻ. Chúa đã thương tình ban cho nó một hình hài giống như Người đã ban cho hết thảy chúng ta. Không có một dấu hiệu nào chứng tỏ nó có một tính cách đáng chú ý. Vậy mà ai có thể ngờ quỷ dữ đã tìm thấy một kẻ đày tớ và tay sai trong con người nó? Dù rất đau lòng, nhưng tôi vẫn phải nói ra sự thật ấy. Khoảng thời gian im lặng chóng vánh sau đó đã giúp tôi trấn tĩnh lại, tôi cảm thấy mình đã vượt qua giây phút khó khăn nhất. Nếu không thể tránh được thử thách, thì tốt nhất là hãy can đảm đương đầu với nó. - Các con thân mến, – ông thầy tu đen như một khối đá bị ám khói nói tiếp bằng một giọng thống thiết – đây quả là một sơ suất rất đáng phiền lòng, vì bổn phận của ta là phải báo cho các con biết rằng đứa con gái này, lẽ phải là một con chiên của Chúa, nhưng nay đã trở thành một đứa nhỏ rơi rớt. Nó không phải là một phần trong bầy chiên trung thành, mã rõ ràng là một kẻ xâm nhập vào đây, một con chiên ghẻ. Các con phải dè chừng nó, đừng theo gương nó, nếu cần thì nên lánh xa nó, không cho nó cùng chơi và cũng đừng


cho nó góp chuyện. Còn các cô giáo, các cô phải dõi theo nó, phải để mắt đến mọi cử chỉ của nó, cân nhắc kỹ những lời nó nói, xem xét cẩn thận mọi hành động của nó, bắt thể xác nó phải khổ hạnh để cứu lấy linh hồn nó. Ước gì việc cứu rỗi linh hồn này có thể trở thành hiện thực, vì (miệng lưỡi tôi cảm thấy như cứng lại khi nói điều này) đứa con gái này, đứa bé này, được sinh ở đất của Chúa mà xấu xa hơn nhiều kẻ ngoại đạo vẫn nỏ mồm cầu nguyện Brahma và quỳ gối trước Juggernaut... đứa con gái này là ... một đứa trí trá. Mười phút im lặng nữa trôi qua, thời gian ấy đủ làm tôi hoàn toàn trấn tĩnh trở lại. Tôi lặng lẽ quan sát vợ con ông Brocklehurst đang lấy khăn tay chấm lên khóe mắt, bà vợ già cả thì lắc lư người như lên đồng, còn hai cô con gái thì lẩm bẩm luôn mồm câu “Thật tệ quá!” Ông Brocklehurst kết thúc bài lên lớp: - Tôi được nghe điều này từ ân nhân của nó, từ một người phụ nữ nhân đức, ngoan đạo, thương cái cảnh côi cút của nó mà nhận nuôi nấng nó như con đẻ của mình. Thế mà rồi con bé khốn nạn ấy đáp lại lòng nhân từ và hào hiệp của bà bằng một sự vô ơn bội nghĩa đáng sợ, đến nỗi bà ấy phải cấm các con bà lại gần nó, bà sợ cái gương xấu xa của nó làm hoen ố sự trong trắng ngây thơ của chúng. Bà ấy gửi nó đến đây điều trị, cũng như ngày xưa người [11] Do Thái đã gửi các con bệnh của họ đến đầm Bethesda vậy. Còn các cô giáo và bà giám thị, xin mọi người hãy đừng để cho dòng nước tù hãm xung quanh nó. Với một câu kết thâm thúy này, ông Brocklehurst điệu bộ cài lại chiếc khuy cổ áo rồi nói nhỏ điều gì đó với vợ con, và họ đứng dậy cúi chào cô Temple, rồi những ông to bà nhớn ấy cùng nhau lướt nhẹ ra khỏi phòng. Quay ra đến cửa, ông quan tòa của tôi còn đứng lại nói: - Cứ để mặc nó đứng im trên ghế nửa giờ nữa, và đừng để ai nói chuyện với nó từ giờ cho đến hết ngày đấy. Vậy là tôi cứ phải đứng làm cảnh mãi trên ghế: tôi, người đã từng rêu rao không thể chịu được cái nhục hình đứng một mình giữa phòng học, nay lại đang bị trưng bày nhục nhã trên một cái bệ cao trước con mắt của bàn dân thiên hạ. Quả thực là không có lời nào có thể diễn tả được cảm giác của tôi lúc bấy giờ. Nhưng đúng vào lúc cảm xúc ấy trỗi dậy khiến tôi sắp chết nghẹn thi có một học sinh đi ngang qua và ngước mắt lên nhìn tôi. Kỳ lạ


chưa! Ánh mắt ấy đã chiếu vào tôi một cảm giác thật phi thường! Cảm xúc mới lạ ấy đã khích lệ tôi thật nhiều! Tựa như có một người tử vì đạo, một vị anh hùng đi qua mặt một kẻ nô lệ hay một kẻ hiến sinh, và truyền thêm sức mạnh cho anh ta. Tôi cố làm chủ mọi cảm nghĩ điên loạn trong lòng, ngẩng cao đầu và sửa lại thế đứng thật hiên ngang trên chiếc ghế đẩu. Helen Burns hỏi một câu gì đó về công việc của cô Smith, liền bị cô mắng té tát vì cái tội hỏi han vớ vẩn. Burns thản nhiên trở về chỗ ngồi, và lúc đi vòng qua chỗ tôi, cô lại mỉm cười nhìn tôi. Nụ cười của cô đối với tôi lúc này mới thật ý nghĩa làm sao! Cho đến bây giờ tôi vẫn không quên được nụ cười ấy, một nụ cười đến từ sự thông minh tế nhị, từ một lòng can đảm thật sự. Nó làm rạng rỡ khuôn mặt đăm đăm và mỏng manh, đôi mắt xám trũng sâu, như ánh lên từ gương mặt của thiên thần. Vậy mà lúc ấy trên cánh tay Helen Burns vẫn phải gắn cái “huy hiệu nhếch nhác”, và gần một giờ trước, tôi còn được nghe bà Scatcherd phạt Helen chỉ được ăn bánh mì với nước lã bữa trưa mai, vì trong lúc chép bài tập, cô đã làm giây mực vào vở. Âu đó cũng là bản chất chưa hoàn thiện của con người! Đó chỉ là tì vết nhỏ của hành tinh sáng ngời nhất, và những con mắt như con mắt của cô Scatcherd thì chỉ có thể nhìn thấy những khiếm khuyết nhỏ nhặt, chứ đâu nhìn thấu vầng sáng toàn vẹn của vì sao.



Chương 8 Tôi chịu hình phạt chưa được nửa giờ thì đồng hồ điểm năm tiếng, cá lớp đều đã tan, và tất cả các nữ sinh đều đã lục tục vào nhà ăn để dùng trà. Trời tối mịt, tôi liều mạng bước xuống ghế rồi lui vào một góc và ngồi bệt xuống sàn. Phép nhiệm màu khích lệ tôi ban nãy giờ bỗng tan biến đi đằng nào cả, thay vào đó là sự phản ứng, và không lâu sau đó là nỗi đau khổ giày vò trong lòng. Tôi gục mặt xuống nền nhà và bật khóc rung rức, mặc cho những giọt nước mắt cô đơn hờn tủi thấm ướt cả sàn nhà. Helen Burns không có ở đấy, chẳng còn ai an ủi vỗ về tôi. Vừa tới Lowood, tôi đã thầm hứa với mình là phải sống sao phải đạo, học hành thật chăm chỉ để có nhiều bạn, dành được sự tôn trọng và yêu mến của mọi người. Quả thực là tôi đã tiến bộ trông thấy. Chính buổi sáng hôm ấy tôi đã được xếp thứ nhất trong lớp và cô Miller đã nhiệt liệt biểu dương tôi. Cô Temple cũng mỉm cười tán thưởng tôi và hứa với tôi rằng hai tháng tới, nếu tôi tiếp tục tiến bộ như vậy, cô sẽ dạy vẽ và dạy cả tiếng Pháp cho tôi. Tôi được các bạn đồng môn đón nhận niềm nở, được các nữ sinh cùng trang lứa đối xử bình đẳng và không hề bị ai bắt nạt. Vậy mà bây giờ, tôi bỗng dung lại bị đè nén, bị chà đạp. Không biết đến bao giờ tôi mới ngóc đầu dậy được? “Chắc là chẳng bao giờ!”. Tôi nghĩ và chỉ mong chết quách đi cho rồi. Trong lúc tôi đang nức nở với cái mong muốn ấy thì có ai đó tiến lại gần. Tôi giật mình nhỏm dậy: thì ra lại là Helen Burns, ánh lửa tàn trong lò sưởi vừa đủ để tôi nhận ra cô đang bước qua căn phòng dài trống trải. Cô đem cà phê với bánh mình đến cho tôi. - Thôi, ăn một chút đi. – Helen an ủi tôi, nhưng tôi gạt phắt đi. Tôi có cảm giác rằng ở vào một nông nỗi như thế này, có lẽ chỉ một giọt nước hay một mẩu bánh thôi cũng đủ làm tôi chết tắc rồi. Helen nhìn tôi, vẻ ngạc nhiên lắm. Dù đã hết sức cố gắng nhưng tôi vẫn khóc nấc lên vì không thể kìm nén được nỗi lòng. Helen ngồi xuống bên tôi, hai tay ôm gối, đầu cúi gục xuống. Cô ngồi im, lặng lẽ như một người Ấn ngồi thiền. Tôi là người lên tiếng trước: - Helen, tại sao chị lại ngồi với một đứa mà tất cả mọi người đều tin là kẻ trâng tráo? - Tất cả mọi người ư, Jane? Sao lại thế? Chỉ có tám mươi người nghe nói về em như vậy thôi, trên đời này có cả hàng trăm triệu người kia mà!


- Nhưng hàng trăm triệu người ấy thì có liên quan gì đến em? Cái chính là tám mươi người mà em biết đã khinh bỉ em. - Jane, em lại nhầm rồi, chắc là chẳng có ai trong trường này khinh bỉ và ghét bỏ em đâu. Chị tin rằng thậm chí còn có nhiều người rất thương em nữa là đằng khác! - Làm sao họ thương được ems au những gì ông Brocklehurst vừa nói cơ chứ? - Brocklehurst không phải ông giời, cũng chẳng phải là một ông lớn đáng kính gì, ở đây có mấy người ưa ông ta đâu. Ông ta chưa bao giờ làm gì để mọi người quý mến. Nếu như ông ta có đối xử đặc biệt tốt với em thì chỉ càng làm cho em bị mọi người xung quanh khinh ghét thôi, cho dù là họ tỏ thái độ khinh ra mặt hay ghét ngấm ghét ngầm thì cũng thế. Nếu có thể bày tỏ sự thông cảm với em sau sự việc vừa diễn ra chiều nay thì cũng khối người dám lắm. Có thể một số giáo viên và học sinh sẽ nhìn em bằng ánh mắt lạnh nhạt trong một vài hôm, nhưng trong lòng hộ vẫn âm thầm ấp ủ những tình cảm thân thiên. Và nếu em kiên nhẫn chăm chỉ, thì những tình cảm ấy sẽ càng được bộc bạch rõ ràng hơn sau một thời gian tạm bị kìm nén. Với lại, Jane ạ... – Burns chợt im bặt. - Với lại làm sao, Helen? – Tôi hỏi và đặt tay vào bàn tay cô. Cô xoa nhè nhẹ để sưởi ấm cho những ngón tay tôi, rồi nói tiếp: - Kể cả khi tất cả mọi người đều khinh ghét em và tin là em xấu xa đi chăng nữa, nhưng nếu lương tâm em chấp nhận em, không kết tội em, thì em cũng sẽ chẳng phải sống mà không có bạn đâu. - Không, em biết em nên nghĩ tốt về mình, nhưng như vậy vẫn chưa đủ. Nếu không được mọi người yêu mến, thì em thà chết còn hơn. Em không thể chịu được cuộc sống cô đơn và bị khinh rẻ, Helen ạ! Chị cứ nghĩ mà xem, để dành được chút tình cảm chân thành của chị, của cô Temple hay của tất cả những người mà em thực sự yêu mến, thì dù có bị què gãy, hoặc bị voi giày ngựa đá, em cũng thấy sẵn lòng. - Nào, Jane! Em trông mong quá nhiều vào tình yêu của người đời đấy. Em cũng quá bồng bột và xốc nổi. Bàn tay thượng đế từng sáng tạo nên hình hài em ngày nào và thổi vào đó linh hồn của sự sống, còn ban cho em những nguồn sức mạnh khác ngoài cái thể chất yếu đuối của em hoặc của những số


phận yếu đuối như em. Ngoài thế gian này, ngoài loài người ra, còn có một thế giới vô hình và một vương quốc của những linh hồn. Đó là thế giới ở ngay xung quanh ta, vì nó có ở khắp mọi nơi, và những linh hồn ấy luôn theo dõi chúng ta, vì bổn phận của chúng là bảo vệ chúng ta. Nếu chúng ta chết trong đau đớn và tủi hổ, nếu chúng ta bị khinh bỉ, ghét bỏ ở mọi nơi, thì các thiên thần sẽ nhìn thấu những nỗi cơ cực và chứng giám cho sự vô tội của chúng ta (nếu chúng ta vô tội, như chị biết thì em nên nông nỗi này cũng chỉ vì ông Brocklehurst nhắc lại một cách kém cỏi và ngạo mạn những gì bà Reed đã kể, vì chị đọc được cái bản chất trung thực trong ánh mắt nhiệt thành và trên vầng trán sáng ngời của em). Thượng đế chỉ đợi khi nào linh hồ chúng ta thoát khỏi thể xác là đội lên đầu chúng ta một vòng nguyệt quế. Vậy thì vì lý gì chúng ta phải chìm ngập vào biển khổ, khi mà cuộc đời rồi cũng sớm qua đi, và cái chết mới là một cửa ngõ chắc chắn dẫn tới hạnh phúc, tới vinh quang? Tôi yên lặng, Helen đã làm cho lòng tôi dịu lại, nhưng trong cái điềm tĩnh mà Helen truyền sang tôi lại đượm một nỗi buồn khôn tả. Tôi có cảm giác trong những lời cô nói luôn phảng phất một nỗi niềm u hoài đau đáu không hiểu xuất phát từ đâu. Nói vừa dứt lời, hơi thở của cô bỗng trở nên hơi gấp gáp lẫn những ho khe khẽ. Tôi chợt quên đi nỗi day dứt của riêng mình để đến với một linh cảm lo lắng mơ hồ về Helen. Tôi ngả đầu vào vai Helen và vòng tay ôm lấy người cô. Cô cũng kéo ghì lấy tôi, và hai đứa cứ thế ngồi yên lặng bên nhau. Chúng tôi ngồi chưa được bao lâu thì có một bóng người bước vào. Một vài đám mây u ám bị gió cuốn giạt đi trên bầu trời để lộ ra vầng trăng đang lên, ánh trăng mờ tỏ tràn qua khung cửa sổ chiếu vào hai đứa chúng tôi và gương mặt người đang đi tới. Thì ra là cô Temple. - Cô đến đây là để tìm em, Jane Eyre. – Cô nói. – Cô muốn em về buồng cô, và tiện thể cả Helen Burns cũng cùng đi luôn. Chúng tôi đi theo bà giám thị. Phải qua mấy dãy hành lang ngoắt ngoéo và một cầu thang rồi mới tới phòng cô, ánh lửa bập bùng cháy làm cho căn phòng có vẻ thật ấm cúng dễ chịu. Cô Temple bảo Helen Burns ngồi xuống một chiếc ghế bành thấp bên lò sưởi, cô ngồi vào một chiếc khác và bảo tôi đến bên cạnh. - Mọi chuyện đã qua rồi chứ? – Cô hỏi và cúi nhìn vào mặt tôi. – Em đã


khóc hết nỗi buồn chưa? - Em sợ chẳng bao giờ hết được. - Sao thế? - Vì em đã bị kết tội oan uổng, và bây giờ cô cùng tất cả mọi người đều cho em là đứa xấu xa tội lỗi. - Không, mọi người nghĩ về em theo những việc mà em chứng tỏ thôi, cô bé ạ! Hãy tiếp tục chứng tỏ mình là một học trò chăm ngoan đi, như vậy cô sẽ rất hài lòng. - Liệu em có được như thế không, cô Temple? - Được chứ! – Cô vừa đáp lại vừa vòng tay ôm lấy người tôi. – Bây giờ em thử nói cho cô biết người mà ông Brocklehurst gọi là ân nhân của em là ai nào. - Là bà Reed, vợ của cậu em. Cậu em đã mất rồi, và cậu ấy đã để em cho bà mợ ấy chăm nom. - Thế hồi đó, bà ấy đã không khó chịu khi phải nuôi em chứ? - Có, thưa cô, bà ấy đã rất khó chịu khi phải làm việc ấy. Nhưng trước khi qua đời, như em vẫn thường nghe các gia nhân trong nhà nói, cậu em đã bắt bà ấy phải hứa sẽ cưu mang em suốt đời. - Thôi, được rồi, Jane ạ, chắc là em đã biết, hoặc ít nhất thì cô cũng phải bảo cho em biết rằng khi bị buộc tội, bao giờ người ta cũng có quyền nói để tự bào chữa cho mình. Em đã bị kết tội là dối trá, vì vậy em hãy hết sức tự bênh vực mình trước mặt cô. Em hãy cứ nói tất cả nhữn gì mà em nhớ là sự thực, nhưng đừng thêm thắt và phóng đại lên đấy nhé. Tự đáy lòng mình, tô quyết định sẽ cố gắng chứng minh mình là người khiêm tốn và trung thực. Sau vài phút suy nghĩ sắp xếp trình tự những điều phải nói, tôi bắt đầu kể cho cô nghe tất cả mọi chuyện về quãng đời thơ ấu buồn thảm của mình. Dù xúc động, nhưng tôi vẫn cố gắng từ tốn, dịu dàng, khác hẳn cái giọng thường ngày mỗi tôi phải nhắc đến những chuyện buồn tủi. Những lời khuyên của Helen đã nhắc tôi đừng để mình bị cuốn vào tình cảm điên cuồng bồng bột, tôi không dám nói bằng cái giọng chua cay như


thường ngày. Có lẽ cái cách nói giản dị và gò bó vào khuôn phép ấy của tôi đã làm cho câu chuyện có vẻ trung thực hơn chăng, bởi trong lúc kể lại cảnh ngộ của mình, tôi cảm thấy cô Temple hoàn toàn tin ở tôi. Câu chuyện của tôi có nhắc đến ông Lloyd, người đã đến thăm tôi sau lúc tôi bị ăn đòn, vì tôi không thể quên được cái chương hãi hùng trong căn phòng đỏ. Các chi tiết về câu chuyện hôm nào đã làm tôi xúc động thực sự, ít nhiều kích động tôi vượt ra khỏi cái ranh giới mà tôi vừa vạch ra cho cách ăn nói của mình, bởi không gì có thể làm cho nỗi sợ hãi ấy phai nhòa trong trí nhớ của tôi. Hình ảnh bà Reed không đoái hoài đến lời van xin tuyệt vọng của tôi, rồi lần thứ hai đang tâm nhốt tôi vào trong căn phòng có ma tối mù ấy luôn làm tim tôi thắt lại mỗi khi chợt nhớ đến nó. Nghe tôi kể xong, cô Temple im lặng nhìn tôi vài phút rồi nói: - Cô cũng có biết qua qua về ông Lloyd, vì vậy cô sẽ viết thư hỏi ông. Nếu ông ấy khẳng định những lời em vừa nói là đúng, thì em sẽ được hoàn toàm minh oan trước mặt mọi người. Còn đối với cô, ngay bây giờ em đã là người vô tội. Rồi cô hôn tôi và vẫn để tôi trong vòng tay (quả thực là tôi rất sung sướng khi được đứng bên cô, vì tôi có cái vui của con nít là được ngắm khuôn mặt, rồi quần áo cô, đồ trang sức, vầng trán trắng ngần, những lọn tóc quăn óng ả và cả đôi mắt thăm thẳm sáng ngời của cô). Cô quay sang hỏi Helen Burns: - Tối nay em thấy thế nào, Helen? Hôm nay em không lo nhiều đấy chứ? - Dạ, không nhiều lắm, thưa cô. - Thế còn cái trong ngực thì sao? - Cũng đỡ đỡ rồi ạ. Cô Temple đứng dậy cầm tay Helen bắt mạch, rồi lại quay về chỗ, cùng một tiếng thở dài. Cô đăm chiêu mất mấy phút, rồi lại đứng dậy, giọng vui vẻ: - Tối nay, hai em là khách của cô, vì vậy cô phải chiêu đãi một cái gì mới được. Nói dứt lời, cô rung chuông liền. - Barbara này, – cô bảo chị giúp việc vừa nghe chuông bước vào – tôi


chưa uống trà, vậy chị đem cho khay trà lên đây, và cả hai cái tách cho hai em nhỏ này nữa nhé. Khay trà được bưng vào ngay. Mấy cái tách sứ và chiếc bình trà bóng loáng đặt trên mặt chiếc bàn tròn nhỏ gần lò sưởi trông mới bắt mắt tôi làm sao! Thứ đồ uống tỏa hương thơm ngát cùng cái mùi ngọt ngào của bánh nướng cũng thật quyến rũ chứ! Nhưng thực lòng mà nói, tôi cũng thấy chán chán vì chỉ thấy có một khẩu phần ăn ít ỏi (trong khi tôi đã bắt đầu cảm thấy đói bụng). Có vẻ như cô Temple cũng có cùng cảm giác như tôi: - Barbara, – cô nói – chị có thể mang thêm một chút bánh mì và bơ nữa không? Thế này thì ai ăn ai đừng. Barbara lặng lẽ quay ra và gần như trở lại ngay: - Thưa bà, bà Harden bảo bà ấy đã cấp đủ khẩu phần thường ngày rồi. Đúng là chủ nào tớ nấy, bà quản gia Harden là một người chẳng khác gì ông Brocklehurst, toàn là đồ mọt ăn cứt sắt cả. - Thôi được, – cô Temple quay lại bảo – Barbara ạ, có khi chúng tôi phải xoay xở lấy vậy. – Và khi Barbara đã ra khỏi phòng, cô mỉm cười nói tiếp: “May quá, cô vẫn còn có cái để bù vào cho các em.” Sau khi mời tôi và Helen ngồi vào bàn, đặt trước mặt mỗi đứa một tách trà và một miếng bánh nướng ngon lành nhưng mỏng dính, cô đứng dậy mở ngăn kéo cầm một bọc giấy và giở ra: một chiếc bánh khá to có rắc một loại hạt. - Cô định cho mỗi đứa một miếng mà đem về, nhưng có lẽ hơi ít nên các em cứ ăn luôn ở đây cho tiện. – Cô nói và cắt bánh thành từng lát đẫy bàn tay. Phải nói là tối hôm ấy chúng tôi được ăn một bữa toàn cao lương mỹ vị nhưng điều làm chúng tôi càng vui hơn là bà chủ nhà đã mỉm cười ngắm nhìn chúng tôi nhai ngấu nghiến ngon lành thỏa thuê những miếng bánh nặng tình người, vẻ rất mãn nguyện. Xong tiệc trà, chiếc khay được dọn đi, cô Temple bảo chúng tôi đến ngồi cùng cô bên lò sưởi. Cô bắt đầu thủ thỉ trò chuyện với Helen. Quả thực tôi thấy mình như đang được hưởng một đặc ân khi được ngồi làm thính giả của hai người.


Con người cô Temple lúc nào cũng thật bình lặng trong cử chỉ dánh điệu, đàng hoàng trong phong cách và đúng mực trong cách ăn nói, và đương nhiên những nét rất riêng ấy sẽ giúp cô tránh khỏi tình trạng lệch lạc của những tình cảm nóng nảy, thiếu suy nghĩ và kích động, một cái gì đó kiềm chế sự hào hứng, bằng cái cảm giác e ngại chủ động, của những người được đối diện với cô và nghe cô nói, ấy chính là cảm tưởng của tôi lúc này, nhưng về phía Helen Burns, cô đã làm tôi hết sức ngạc nhiên. Bữa ăn thỏa thuê, ánh lửa đượm nồng, sự có mặt và tấm lòng nhân hậu của cô giáo đáng yêu kia, hoặc có lẽ còn hơn thế nữa, còn một điều gì đó trong tâm hồn rất riêng của Helen, đã làm trỗi dậy một sức mạnh tiềm ẩn trong con người nữ sinh của cô. Trước hết, sức mạnh ấy đã thức tỉnh, đã nhen nhóm lên một màu hồng tươi rói trên đôi má xưa nay vẫn tái xanh vì thiếu máu của Helen, rồi nó thắp sáng lên đôi mắt long lanh của cô, làm cho chúng đột nhiên trở nên tươi đẹp lạ thường, đẹp hơn cả đôi mắt cô Temple, ấy không phải là vẻ đẹp của màu sắc mỹ miều, của hai hàng mi dài cong, cũng chẳng phải của cặp lông mày thanh thoát như nét vẽ, mà là vẻ đẹp của trí tuệ, của sự sống động và trong sáng. Tâm hồn cô khẽ đọng trên làn môi, và lời cô nói tuôn trào như dòng chảy êm đềm mà tôi không hiểu nó bắt nguồn từ đâu. Không lẽ một cô bé mới mười bốn tuổi cũng mang trong mình một tâm hồn mênh mang đủ để ôm ấp một nguồn cội dạt dào của những lời hùng biện trong sáng, tràn trề và sôi nổi như vậy ư? Nhưng đó chính là những gì nổi bật mà tôi cảm nhận được ở lời nói của Helen trong cái buổi tối đáng ghi nhớ ấy. tinh thần của cô dường như đang khát vọng một cuộc sống gấp gáp trong một quãng thời gian ngắn ngủi nhưng không ít ý nghĩa hơn bao cuộc đời lê thê khác. Họ nói về nhiều chuyện mà tôi chưa bao giờ được nghe, về các dân tộc và các thời đại đã qua, những miền đất xa xôi, những bí ẩn của tự nhiên đã được khám phá hoặc đang được phỏng đoán. Họ nhắc đến những cuốn sách, phải công nhận là họ rất chịu đọc! Con người họ quả là một kho tàng kiến thức! Có vẻ như hai người rất thuộc các tên tuổi Pháp và các tác giả Pháp, nhưng tôi chỉ ngạc nhiên đến tột đỉnh khi thấy cô Temple hỏi có lúc nào Helen tranh thủ ôn lại vốn tiếng Latinh mà cha cô đã dạy cho không. Rồi cô với một cuốn sách trên giá xuống và bảo Helen đọc và dịch thử một trang tác phẩm của Virgil, và Helen đã cao hứng vâng lời. Cứ mỗi dòng ngâm nga là một lần tôi cảm thấy thêm thán phục người bạn đồng môn của mình. Lúc Helen đọc đến câu cuối cùng cũng là lúc tiếng chuông báo giờ ngân vang: chúng tôi không được phép nán lại. Cô Temple ôm hai đứa chúng tôi vào


lòng và nói: - Chúa sẽ phù hộ cho các em! Cô ôm Helen trong vòng tay lâu hơn, và buông cô nữ sinh tội nghiệp ấy cũng miễn cưỡng hơn. Cô nhìn theo Helen ra tận cửa và lại buồn bã thở dài. Tôi nhận thấy cô vừa lau vội giọt nước mắt lăn dài trên gò má. Chắc cô thương Helen lắm. Vừa đến buồng ngủ, chúng tôi đã nghe thấy tiếng cô Scatcherd: cô đang kiểm tra các ngăn kéo, nói chính xác là cô vừa mở ngăn kéo của Helen Burns xong; vì vậy, Helen vừa bước vào đã bị cô mắng như xối nước vào mặt, rồi cô bảo sáng mai sẽ ghim cả nửa tá quần áo gấp ẩu lên vai Helen cho nhớ đời. “Quả thực là đồ dùng của chị để rất lộn xộn, – Helen nói nhỏ vào tai tôi – chị đã định sẽ xắp xếp lại cho gọn, thế mà rồi lại quên khuấy đi mất”. Sáng hôm sau, bà Scatcherd viết hai chữ “nhếch nhác” to tướng vào một mảnh bìa và buộc nó như một tấm biển hiệu lên vầng trán rộng, dịu dàng và thông minh của Helen. Cô kiên nhẫn đeo tấm biển đến tận tối mà không hề tỏ ra căm hận, cứ như thể mình bị phạt thế là đúng. Lúc cô Scatcherd ra khỏi lớp sau buổi học chiều, tôi đã chạy đến bên Helen, giật tờ giấy xé toạc làm mấy mảnh và ném vào lò sưởi. Sự tức giận mà Helen không thể có được ấy đã nung nấu đầu óc tôi suốt ngày, và những giọt nước mắt nóng hổi cứ chảy hoài trên gò má tôi. Cảnh Helen nhẫn nhục cam chịu quả thực đã làm tôi rất đau lòng. Khoảng một tuần sau những chuyện vừa kể ở trên, cô Temple viết thư gửi ông Lloyd và đã nhận được thư trả lời, có vẻ như những điều ông nói đều chứng thực cho những gì tôi đã nói với cô. Cô Temple đã tập trung học sinh cả trường lại để tuyên bố kết quả cuộc điều tra về những lời buộc Jane Eyre. Cô nói cô rất vui khi báo cho mọi người biết rằng Jane Eyre đã hoàn toàn được minh oan, rồi cô chạy đến bắt tay tôi và ôm hôn tôi thắm thiết, và tôi còn nghe rất rõ những tiếng reo vui khe khẽ của những người bạn đồng môn. Được minh oan như trút được gánh nặng lo âu, nó giúp tôi làm lại từ đầu, quyết tâm vạch một hướng đi vượt qua mọi khó khăn cho mình. Tôi học hành cật lực, và sự cố gắng đó đã mang lại cho tôi một thành quả xứng đáng; trí nhớ của tôi, vốn cha sinh mẹ để không được tốt lắm, đã được cải thiện trông thấy. Sự tu dưỡng rèn luyện cũng làm trí tuệ của tôi trở nên sâu sắc


nhạy bén hơn. Chỉ trong có mấy tuần mà tôi đã được xếp lên lớp trên, và trong chưa đầy hai tháng, tôi đã bắt đầu được học tiếng Pháp và học vẽ. [12] Trong cùng một ngày, tôi được học hai câu đầu tiên với động từ Etre , và bắt đầu vẽ ngôi nhà đầu tiên (mà các bức tường còn xiêu vẹo hơn cả tháp nghiêng Pisa). Tối hôm đó, lúc đi ngủ, tôi quên không chuẩn bị tinh thần để [13] tưởng tượng ra cái bữa tối Barmecide với món khoai tây rán nóng, hoặc bánh mì trắng và sữa tươi – đó là thói quen thường ngày để tôi thỏa mãn sự đói khát của mình. Thay vào đó, tôi chiêm ngưỡng những cảnh hội họa lý tưởng mà tôi mường tượng ra trong bóng tối. Tất cả do chính tay tôi vẽ nên: những nét chì phóng khoáng ký họa nhà cửa cây cối, những mỏm núi đá những cảnh điêu tàn sinh động đặc sắc, những đàn gia súc mang phong cách [14] Cuyp , những cánh bướm nhởn nhơ trên nụ hồng chưa hé nở, những chú chim mổ vào trái anh đào chín mọng ... Tôi còn mơ tưởng đến ngày có thể dịch trôi chảy một cuốn truyện nhỏ bằng tiếng Pháp mà cô Pierrot cho tôi xem ngày hôm đó, nhưng tôi chưa kịp nghĩ được gì nhiều cho thỏa chí thì đã chìm vào giấc ngủ êm đềm. Salomon rất có lý khi nói: “Thà ăn một bữa toàn cỏ mà có tình thương yêu, còn hơn là ăn một con bò mộng mà bị ghét bỏ”. Bây giờ tôi sẽ chẳng chịu đổi cuộc sống bình dị ở Lowood lấy cái xa hoa thường nhật ở Gateshead.



Chương 9 Nhưng rồi sự thiếu thốn, hay nói đúng hơn là những khắc nghiệt ở Lowood cũng đỡ dần. Mùa xuân lại về với những lớp tuyết tan, cái sương giá của mùa đông cũng không còn nữa, những trận gió cắt da cắt thịt cũng hiếm khi xảy ra. Đôi bàn chân nứt nẻ sưng phồng, đi không được vì cái tiết trời khắc nghiệt tháng Giêng của tôi bắt đầu khỏi nhờ những làn gió tháng Tư thoang thoảng ấm áp. Những giờ ra vườn chơi đối với chúng tôi không còn là một cực hình nữa. Vào những ngày trời hửng nắng, chúng tôi còn cảm thấy những giờ phút ấy thật sự hào hứng và thú vị. Màu xanh mơn mởn đâm chồi nảy lộc trên những nệp đất nâu tươi rói đã gợi cho tôi một cảm nghĩ rằng mỗi khi đêm về, thần Hy vọng lại lướt qua đây và sáng sáng lại vương lại những [15] dấu chân tươi nguyên xán lạn của mình. Những bông hoa giọt tuyết , hoa nghệ, păngxê mắt vàng bắt đầu hé nở e ấp giữa những lớp lá non tươi mỡ màng. Chiều thứ năm (được nghỉ nửa ngày) chúng tôi nhởn nhơ dạo chơi ven đường, và chợt nhận ra rằng những đóa hoa lấp ló trên các bờ dậu còn tươi thắm và duyên dáng hơn nữa. Tôi cũng khám phá ra chân trời xa tít tắp với bao cảnh kỳ thú trải dài bên ngoài những bờ tường cao và có đóng cọc bao quanh mảnh vườn của chúng tôi, ấy là viễn cảnh những đỉnh núi uy nghi vây quanh một thung lung xanh hùng vĩ u buồn. Ngay gần tôi là một dòng suối trong vắt nhấp nhô những viên đá xám và những hòn cuội nhẵn bóng. Vậy mà phong cảnh ấy lại khác hẳn khi tôi đứng ngắm nó trải rộng dưới bầu trời đông ảm đạm một màu tuyết trắng, khi lớp lớp sương giá buốt như tử thần theo làn gió đông cuốn dọc theo những đỉnh núi chập chùng đỏ thẫm kia, rồi sà xuống hòa lẫn với màn sương mù lập lờ trên dòng suối. Con suối khi ấy còn là một thác đục ngầu và hung hãn, xét nát cánh rừng ra thành từng mảnh và dội lên những tiếng réo ầm ầm nhờ sự tiếp sức của những trận mưa rào hoặc mưa đá dữ dội. Vạt rừng mùa đông ven hai bờ suối chỉ là những thân cây xơ xác chẳng khác nào những bộ xương khô queo quắt. Tháng Tư qua, tháng Năm lại tới, bầu trời xanh chan hòa ánh nắng ấm áp và bình yên, làn gió từ phương tây hoặc phương nam dìu dịu thổi không ngừng. Cỏ cây hoa lá tràn đầy sức sống. Lowood lắc nhẹ mái tóc mùa đông, tất cả bỗng chốc trở thành một màu xanh mượt điểm thêm những mảng màu sắc của những đóa hoa sặc sỡ. Những khung xương khổng lồ của cây du, cây


trần bì, cây sồi lại hồi sinh sức sống tràn trề. Cỏ cây hoa lá đua nhau đâm chồi nảy lộc ở cả những khe núi, những hốc sâu rêu phong phủ dày dưới ánh nắng vàng êm dịu đầu mùa. Tôi được thưởng ngoạn cảnh vật một cách tự do, tùy thích, và hầu như chỉ có một mình mà không bị ai quấy nhiễu. Nhưng cái tự do vãn cảnh hiếm có ấy cũng có nguyên do của nó, mà bây giờ tôi thấy mình có bổn phận phải kể lại. Tôi đã miêu tả nơi mình nương thân, một chốn bồng lai nằm ngay bên bờ suối, giữa những ngọn đồi và một rừng cây là thú vị? Thú vị thì hẳn rồi, nhưng có trong lành hay không lại là một chuyện khác. Cái thung lung um tùm bao bọc Lowood là một chiếc nôi đầy sương mù phát sinh ra bệnh dịch. Cùng với tiết xuân, sương mù đã tràn về, len lỏi, gieo rắc bệnh sởi vào nhà ăn, phòng học lúc nào cũng đông người của cô nhi viện. Tháng Năm chưa tới mà nhà trường đã biến thành nhà thương. Ăn uống kham khổ và mặc không đủ ấm đã khiến hầu hết nữ sinh bị nhiễm bệnh dịch: bốn mươi nhăm trong số tám mươi học sinh nằm liệt giường cùng một lúc. Các lớp học như giã đám, nội quy bị buông lỏng. Những học sinh không mắc bệnh gần như muốn làm gì thì làm, chẳng bị ai cấm, vì thầy thuốc bảo học sinh cần vận động luôn để bảo vệ sức khỏe. Mà nếu như thầy thuốc không bảo như vậy thì cũng chẳng ai còn thì giờ đâu mà để ý đến chuyện cấm đoán. Cô Temple phải vắt sức trông nom các bệnh nhân, cô ở luôn trong phòng chúng và chẳng mấy khi dám rời khỏi buồng, trừ một vài giờ ngả lưng còn lại trong đêm. Các cô giáo còn phải tất bật chuẩn bị hành lý cho các nữ sinh sắp rời khỏi nhà trường, dù sao thì số này cũng là những người may mắn vì bạn bè và họ hàng thân thích của chúng nói chung đều có điều kiện và sẵn lòng đưa họ ra khỏi nơi có bệnh dịch. Tuy nhiên, có những học sinh mắc bệnh quá nặng, được đưa về nhà chỉ để chết thôi. Một số khác chết ngay tại trường và được chôn cất vội vàng, không kèn không trống, vì đặc tính của bệnh dịch không cho phép lưu xác lâu được. Trong khi bệnh dịch đã trở thành một cư dân ở Lowood, thần chết là một vị khách thường nhật, bầu không khí ảm đạm ghê rợn ngự trị giữa các bức tường, các buồng và các hành lang đều xộc lên một mùi đặc sệt của nhà thương và mọi phương thuốc chống lại thần chết đều trở nên vô hiệu, thì ngoài kia, bầu trời tháng Năm trong xanh không một gợn mây vẫn tỏa ánh nắng vàng xuống những đỉnh đồi trập trùng và cánh rừng xanh thăm thẳm. Ngay khu vườn của nhà trường cũng nở rộ những đóa hoa huệ, hoa quỳ và


hoa hồng nhung. Những dãy nhà cũng được diềm quanh bởi những bông hoa cẩm chướng, hoa uyên minh cúc nở trong các mảnh vườn nho nhỏ; rồi hương thơm ngọt ngào của hoa dã tường vi thoang thoảng sớm chiều như một mùi hương liệu hoặc mùi táo. Cái kho tàng hương thơm ngạt ngào này chẳng có ích lợi gì cho các nữ sinh ở Lowood, ngoài việc đem lại những nắm hoa tang đặt trên những chiếc quan tài. Nhưng tôi và những người còn lại chưa nhiễm bệnh, lại được tha hồ thưởng ngoạn cảnh đất trời và mùa xuân. Nhà trường mặc chúng tôi nhởn nhơ trong rừng suốt từ sáng đến tối như những kẻ lang thang, muốn làm gì thì làm, muốn đi đâu tùy thích. Cuộc sống đối với chúng tôi có thể nói là đầy đủ hơn. Không còn thấy bóng ông Broklehurst và vợ con ông bén mảng đến gần Lowood, cũng chẳng thấy ai đoái hoài đến các công việc quản lý trong nhà trường. Vì sợ lây bệnh dịch nên mụ quản gia ngang ngược đã chuồn mất tiêu. Đến thay mụ là một bà trước đây từng làm quản lý của trạm thuốc Lowood, vì chưa quen với cung cách làm việc của nhà trường nên thường cho chúng tôi ăn uống tương đối thoải mái. Vả lại cũng chẳng còn bao nhiêu miệng ăn, mà bệnh nhân thì chỉ ăn được rất ít. Suất điểm tâm của chúng tôi cũng đầy đặn hơn. Những khi không kịp chuẩn bị bữa thường lệ (mà việc này lại xảy ra thường xuyên), người quản lý mới lại cắt cho mỗi đứa một miếng bánh nướng rõ to, hoặc một lát bánh phết bơ dày dặn. Chúng tôi đem cả vào rừng, chọn một chỗ thích nhất rồi tha hồ ngồi ăn uống với nhau. Chỗ tôi thích nhất là một tảng đá khô ráo, phẳng lì và trắng phau nhô lên giữa một dòng suối. Cách duy nhất để đến với tảng đá là lội xuống nước. Tôi thường đi chân không lội ra đấy. Tảng đá khá rộng, đủ chỗ cho tôi và một người nữa ngồi thoải mái. Người bạn mà tôi chọn là Mary Ann Wilson, một cô bé có óc quan sát rất tinh tế. Tôi thấy rất vui khi được làm bạn với cô, một phần vị sự sáng dạ và tính dí dỏm của cô, hơn nữa cách xử sự của cô luôn làm tôi thấy dễ chịu. Mary hơn tôi vài tuổi, hiểu biết việc đời hơn và có thể kể cho tôi nhiều điều tôi muốn biết. Chơi với cô, tính tò mò của tôi luôn được thỏa mãn. Hơn nữa, chẳng mấy khi thấy cô để ý đến những khiếm khuyết của tôi, và không bao giờ thấy cô cắt ngang hoặc ngăn cản lời tôi nói. Mary có hứng thú kể chuyện, trong khi đó tôi lại thích phân tích. Cô thích mách bảo, còn tôi lại thích hỏi. Vì vậy hai đứa chúng tôi rất hợp cạ với nhau, nếu không cải thiện được gì nhiều thì cũng thấy đầu óc được thoải mái khi giao thiệp với nhau. Nhưng không hiểu giờ này Helen Burns đang ở đâu? Tại sao tôi không


cùng chia sẻ những ngày tự do êm đềm này với cô? Chẳng lẽ tôi đã quên cô, hay tôi không đáng được cô nhớ đến? Dù nói gì thì nói, chắc chắn là Mary Wilson, người tôi vừa nhắc đó, không thể bằng người bạn đầu tiên của tôi. Mary chỉ có thể kể cho tôi nghe những chuyện khôi hài và tầm phào với tôi bằng những câu chuyện chua chát mà tôi ưa thích, nhưng Helen lại khác. Phải thừa nhận rằng Helen có một phẩm chất là đem đến cho những người nói chuyện với cô sự cảm nhận của những điều cao đẹp hơn nhiều. Vâng, thưa bạn đọc, tôi cũng thực sự cảm nhận được điều đó. Và dù chỉ là một đứa nhiều khiếm khuyết, ít ưu điểm để bù lại, nhưng tôi cũng chưa bao giờ cảm thấy chán Helen Burns, chưa bao giờ trong lòng tôi xao động vì một tình cảm mạnh mẽ, âu yếm và đầy kính trọng như vậy. Làm sao có thể khác được khi mà bất cứ lúc nào, bất cứ hoàn cảnh nào Helen cũng đều tỏ ra có một tình bạn thầm lặng và chân thành đối với tôi – một tình bạn chưa bao giờ bị lay chuyển ngay cả khi cô có nỗi niềm buồn bực? Nhưng hiện giờ Helen đang ốm. Từ mấy tuần trước, cô được mang đến một phòng nào đó trên gác tôi cũng chẳng rõ. Tôi chỉ được biết rằng cô không được nằm ở khu nhà thương dành cho các bệnh nhân sốt dịch, vì cô chỉ bị đau ngực chứ không phải là bệnh sởi. Theo sự hiểu biết ngu muội của tôi, thì đó chỉ là một thứ bệnh nhẹ và được điều trị cẩn thận, thế nào nó cũng dịu đi theo thời gian. Niềm tin của tôi càng được khẳng định khi tôi trông thấy vào những buổi chiều nắng ấm áp, có một đôi lần Helen được cô Temple dìu dắt xuống vườn chơi. Có điều đó không phải dịp tôi được phép ra nói chuyện với Helen, tôi chỉ loáng thoáng nhìn thấy cô qua cửa sổ phòng học, vì cô trùm khăn kín và ngồi dưới một hàng hiên tít tận đằng xa. Vào một buổi chiều đầu tháng Sáu, tôi và Mary Ann chơi ở ngoài rừng rất muộn. Như thường lệ, chúng tôi rủ nhau đi chơi tách xa mọi người, lang thang xa quá đến nỗi lạc cả đường, phải vào một túp nhà tranh lẻ loi giữa rừng để hỏi thăm. Đó là nhà vợ chồng một người chăn lợn: họ chăn một đàn lợn gần như lợn lòi bằng những hạt dẻ rừng. Lúc chúng tôi về đến nhà cũng là lúc trăng lên. Tôi thấy ở cửa vườn có buộc một con ngựa non mà chúng tôi biết là ngựa của ông thầy thuốc phẫu thuật. Mary bảo chắc phải có người nào bị bệnh nặng lắm thì mới phải mời ông Bates vào lúc trời tối như thế này. Rôi cô vào nhà trước, tôi nán lại ở mảnh vườn của mình ít phút để trồng một nắm mầm cây đã đào ở trong rừng, vì sợ để đến sáng hôm sau chúng sẽ héo mất. Trồng xong, tôi còn thơ thẩn thêm một lúc nữa. Sương xuống làm cho các đóa hoa tỏa hương thơm ngát ngọt ngào. Đó là một buổi tối bình yên, ấm


nồng. Bầu trời phía tây còn vương lại chút ánh hồng của buổi hoàng hôn vừa tắt, như hứa hẹn một buổi sớm mai tuyệt đẹp. Phía đông, bầu trời thật huyền ảo với ánh trăng nhô lên lặng lẽ uy nghi. Tôi đang trầm ngâm thưởng ngoạn cảnh vật như một đứa trẻ thơ đích thực, thì trong đầu chợt lảng vảng một ý nghĩ – một ý nghĩ chưa bao giờ có trong tâm trí của tôi. “Thật đáng buồn biết bao khi phải nằm liệt trên giường bệnh lúc này, nhất là trong tình trạng nguy ngập gần kề với cái chết nữa! Thế giới này quả thực là thú vị – nhưng cũng thật thê thảm nếu bị gọi đi khỏi đó và đi rất xa mà không ai biết là phải đi về đâu!” Và rồi lần đầu tiên, tâm trí tôi ra sức tìm hiểu những điều mà mình đã láng máng hiểu về thiên đường và địa ngục. Lần đầu tiên cái tâm trí ấy của tôi thấy chán nản chùn bước, và cũng là lần đầu tiên khi ngó trước nhìn sau, nó thấy quanh mình như có một cái vực thẳm hun hút: nó chỉ cảm nhận được một điểm hiện hữu duy nhất – đó là hiện tại. Tất cả phần còn lại đều là những làn mây bất định và một vực thẳm trống rỗng; nó rùng mình với ý nghĩ có thể chơi vơi và sa vào cái chốn quay cuồng đó. Đang mải trầm tư suy tưởng về điều mới lạ này, tôi bỗng thấy cảnh cửa trước bật mở. Ông Bates bước ra cùng một nhũ mẫu. Đợi ông Bates lên ngực ra về, bà mới quay vào. Khi bà định đóng cửa thì tôi chạy bổ đến. - Bệnh tình của Helen Burns thế nào rồi ạ? - Rất nặng. – Bà trả lời. - Có phải ông Bates đến khám bệnh cho cô ấy không? - Phải. - Thế ông ấy bảo sao ạ? - Ông ấy bảo Helen sẽ không còn ở đây lâu nữa. Nếu câu này được nói vào ngày hôm qua thì tôi chỉ cho rằng Helen sắp sửa được đưa về nhà cô ở Northumberland và tôi sẽ không thể nghi ngờ rằng nói vậy có nghĩa là Helen sắp chết, nhưng bây giờ thì tôi hiểu ngay: tôi hoàn toàn hiểu rằng Helen Burns đang đếm những ngày cuối cùng của đời mình, và cô sắp được đưa tới cái xứ sở của những linh hồn, nếu như thế giới đó tồn tại thật. Tôi rùng mình khiếp nhược, trong lòng trào lên một cảm xúc đau


đớn xót xa, rồi một mong muốn... nhất định phải đến gặp cô. Tôi bèn hỏi Helen đang nằm ở buồng nào. - Cô ấy nằm trong buồng cô Temple. – Người nhũ mẫu trả lời. - Tôi có thể lên nói chuyện với Helen được không? - Ồ, không, cô bé ạ! Chưa chắc đã được đâu, mà cũng đến lúc em phải về phòng rồi, nếu cứ đứng phơi sương mãi ngoài này em sẽ bị cảm lạnh đấy. Bà nhũ mẫu đóng cửa trước lại. Tôi đi vào bằng lối cửa bên dẫn đến buồng học. Tôi về đúng lúc chuông đồng hồ điểm chín tiếng, và cô Miller đang gọi các học sinh đi ngủ. Nằm phải đến hai tiếng, hình như đã gần mười một giờ, mà tôi vẫn không sao chợp mắt được. Nhìn căn phòng lặng im phăng phắc, tôi đoán chắc mọi người đều đã chìm vào giấc ngủ say sưa, bèn nhẹ nhàng nhổm dậy.Tôi khoác thêm chiếc áo dài lên áo ngủ, rồi chẳng cần giày dép gì cả, rón rén bước ra khỏi buồng tìm đến phòng cô Temple. Đó là căn phòng nằm tận cuối dãy nhà, nhưng tôi đã thuộc đường, hơn nữa lại có ánh trăng hè không bị gợn mây nào che khuất rọi qua các ô cửa sổ, chiếu vào hành lang, nên tôi cũng chẳng phải mò mẫm. Mùi băng phiến xộc ra cùng mùi giấm đốt báo cho tôi biết sắp đến gần buồng người ốm. Tôi bước vội qua cửa phòng vì sợ người nhũ mẫu trực đêm có thể nghe thấy tiếng chân. Tôi chỉ sợ mình bị bắt gặp và bị đuổi cổ về phòng ngủ, vì tôi phải gặp bằng được Helen, tôi phải được ôm lấy cô bạn bất hạnh trước khi cô từ giã cõi đời, tôi phải hôn cô và nói chuyện với cô một lần cuối. Tôi bước lên cầu thang, đối diện với nó là phòng cô Temple. Vẫn còn ánh đèn hắt hiu chiếu qua lỗ khóa và qua khe dưới cửa: căn phòng chìm trong im lặng hoàn toàn. Lại gần, tôi thấy cánh cửa khép hờ như để cho không khí mát mẻ bên ngoài lọt vào căn phòng kín mít. Cảm thấy nóng lòng, tôi đẩy cửa nhìn vào mà chẳng cần nghĩ ngợi. Tôi hồi hộp đưa mắt tìm Helen, chỉ sợ nhìn thấy xác chết của người bạn. Gần ngay giường cô Temple là một chiếc giường nhỏ bị tấm rèm trắng che khuất một nửa, trên đó có một bóng người trùm chăn nhưng mặt lại bị lấp sau tấm rèm. Bà nhũ mẫu nói chuyện với tôi ngoài vườn hồi nãy đang ngồi ngủ gà gật trên một chiếc ghế bành. Một ngọn đèn cầy chưa ai gạt bấc leo lét cháy trên bàn. Không thấy cô Temple đâu cả! Về sau tôi được biết


người ta gọi cô đến trông coi một bệnh nhân mê sảng trong phòng bệnh sởi. Tôi bước vào, rồi dừng lại bên chiếc giường nhỏ, vén rèm lên xem, nhưng lại muốn lên tiếng trước, vì vẫn sợ phải nhìn thấy một xác chết. - Helen ơi! – Tôi khẽ gọi. – Chị còn thức không? Cô cựa mình, khẽ gạt rèm ra: tôi thấy mặt Helen xanh xao, héo mòn, nhưng vẫn hoàn toàn điềm tĩnh và không có gì thay đổi lắm, nên nỗi lo trong tôi tan biến ngay. - Không lẽ lại là em đấy ư, Jane? – Cô ngạc nhiên hỏi, giọng dịu dàng. “Ôi, không phải Helen sắp chết; – Tôi nghĩ bụng. – họ đã nhầm, bởi nếu sắp chết thì làm sao giọng nói và vẻ mặt lại bình tĩnh như vậy được!” Tôi cúi xuống hôn người bạn gái. Vầng trán cô lạnh ngắt, cả hai má và hai bàn tay cũng vậy, nhưng cô vẫn mỉm cười như mọi khi. - Đến đây làm gì vậy, Jane? Hơn mười một giờ rồi đấy, chị vừa nghe chuông đồng hồ điểm cách đây vài phút. - Em đến để thăm chị thôi, Helen ạ. Nghe nói chị ốm rất nặng, nên em không thể ngủ được nếu chưa đến nói với chị vài lời. - Vậy thì cũng thật đúng lúc, em có thể chào vĩnh biệt chị được rồi. - Chị sắp đi đâu phải không, Helen? Hay là chị về nhà? - Đúng đấy, về ngôi nhà vĩnh cửu... ngôi nhà cuối cùng của chị. - Không, đừng , Helen! – Tôi ngắt lời bạn, lòng đau đớn. Tôi đang cố kìm nén những giọt nước mắt, thì Helen bỗng lên cơn ho rũ rượi. Tuy vậy, tiếng ho cũng không làm bà nhũ mẫu thức giấc. Dứt cơn ho, Helen nằm thoi thóp mất vài phút, rồi cô thều thào: - Jane, sao lại đi chân đất thế kia? Vào đây nằm chung chăn với chị đi. Tôi chui vào chăn và rúc vào người Helen: cô quàng tay ôm xiết lấy tôi. Sau một hồi lâu im lặng, cô mới nói tiếp, giọng vẫn thều thào: - Chị đang rất vui, Jane ạ. Bao giờ nghe tin chị chết rồi, thì em phải tin và không được buồn đâu nhé. Chẳng việc gì phải buồn. Rồi sẽ tới một ngày tất


cả chúng ta đều phải chết, người bị bệnh như chị có chết cũng chẳng đau đớn gì: chị sẽ chết nhẹ nhàng, từ từ. Tâm hồn chị đang thanh thản lắm. Chị có ra đi cũng không có mấy ai thương tiếc. Chị chỉ có một người cha, ông mới lấy vợ lẽ nên sẽ chẳng thấy thiếu chị đâu. Chết trẻ, chị càng tránh được mọi nỗi cơ cực trên đời. Chị chẳng có phẩm chất và tài cán để làm gì cho ra hồn trên đời này, rồi tôi sẽ mắc khuyết điểm mãi thôi. - Nhưng chị đi đâu chứ, Helen. Chị có thể trông thấy không? Có thể biết được không? - Chị tin là có, chị có niềm tin và rồi chị sẽ lên với Chúa. - Chúa ở đâu? Chúa là cái gì? - Là Đấng đã tạo ra chị và em. Người sẽ không bao giờ hủy diệt những gì mà Người đã tạo nên. Chị hoàn toàn tin ở sức mạnh của Người và trông cậy ở lòng nhân từ của Ngài. Chị đếm từng giờ cho đến khi được trở lại với Người, và được thấy Người. - Thế chị có chắc rằng có một chỗ như chốn thiên đàng ấy không, Helen? Và có đúng là sau khi chết, linh hồn chúng ta sẽ được lên đó không? - Chị tin chắc là có một kiếp sau và có một đứa Chúa lòng lành. Chị có thể gửi gắm nơi Người cái phần bất diệt của mình mà không hề áy náy. Chúa là cha chị, là người bạn của chị. Chị yêu Người và chắc rằng Người cũng thương yêu chị. - Thế thì khi tôi chết, chắc là tôi cũng sẽ được gặp chị, phải không Helen? - Chị cũng sẽ được đến một chốn thiên đàng hạnh phúc, được cùng một đức Cha có quyền lực vạn năng đón nhận, chắc chắn là thế, Jane thân mến ạ. Tôi vẫn tiếp tục hỏi, nhưng lần này là hỏi thầm trong bụng: “Vậy thì cái chốn đó ở đâu? Liệu nó có tồn tại thật không?” Và tôi xiết chặt Helen hơn trong vòng tay, trong lòng cảm thấy cô thân thiết hơn bao giờ hết. Nằm úp mặt vào cổ Helen, tôi có cảm giác như mình phải có trách nhiệm không được để cô ra đi. Lúc ấy, cô nói với tôi bằng một giọng dịu dàng nhất của mình. - Chị có cảm thấy trong người thật dễ chịu! Cơn ho vừa rồi làm chị hơi mệt, có vẻ như chị lại có thể ngủ được. Nhưng cứ nằm đây, đừng đi đâu, Jane nhé! Chị muốn có em nằm bên cạnh.


- Em sẽ ở lại với chị, Helen thân mến ạ, không ai có thể bắt em xa chị lúc này. - Có ấm không, cưng? - Ấm. - Vậy thì, Jane, chúc ngủ ngon nhé. - Chúc Helen ngủ ngon. Tôi hôn cô một lần nữa, trong lòng vẫn mong người bạn có một đêm êm đềm. Cô cũng làm vậy để đáp lại tôi, và rồi hai chúng tôi ngủ thiếp đi. Tôi tỉnh dậy khi trời đã sáng: có một cử động lay lắc khác thường khiến tôi thức giấc. Mở mắt ra, tôi thấy mình đang nằm trong cánh tay một người. Thì ra tôi đang nằm trên tay bà nhũ mẫu, bà bế tôi qua hành lang về buồng ngủ. Tôi không bị quở mắng về cái tội đã trốn khỏi buồng ngủ. Mọi người còn rất nhiều việc phải làm ,vì vậy tôi hỏi rất nhiều nhưng chẳng ai trả lời. Một hai hôm sau tôi mới biết rằng cô Temple đã trở về phòng mình sáng sớm hôm ấy và thấy tôi nằm trên chiếc giường nhỏ, hai tay vẫn ôm lấy cổ, mặt úp vào vai Helen. Tôi vẫn ngủ rất say, trong khi Helen... đã chết từ bao giờ. Helen được chôn trong nghĩa địa của nhà thờ Brocklebridge. Mười lăm năm sau nơi cô an nghỉ vẫn chỉ là nấm mồ xanh cỏ, nhưng hiện giờ đã có một tấm bia đá chôn làm dấu mộ phần, trên đó có khắc tên cô và chữ [16] “Resurgam”



Chương 10 Vậy là tôi đã ghi lại chi tiết những việc xảy ra trong cái sự tồn tại vô nghĩa và cũng đã dành một số chương tương xứng để kể về mười lăm năm đầu đời của mình. Nhưng dù sao đây cũng không phải là một cuốn tự truyện đầy đủ, mà chỉ là sự gợi lại trong ký ức những sự kiện ít nhiều dính dáng đến tôi sau này. Bởi vậy,tôi hầu như không nhắc đến quãng thời gian dài suốt tám năm ở trường từ thiện. Có lẽ chỉ cần một vài dòng cũng đủ để giữ cho mạch chuyện liên tục. Khi đã hoàn thành sứ mệnh tàn phá ở Lowood, bệnh sởi cũng tan biến dần, nhưng hậu quả tai hại do nó gây ra đã khiến công luận phải chú ý đến nhà trường. Người ta đã tiến hành một cuộc điều tra về nguyên nhân gây ra thảm họa. Sự thực dần dần được đưa ra ánh sáng khiến cho dư luận bất bình đến cực độ. Nguồn nước độc hại và mất vệ sinh, khối lượng và chất lượng thức ăn, quần áo chằng đụp của học sinh, tiện nghi thiếu thốn, tất cả đều bị phát giác. Phát hiện này đã lật tẩy nhục nhã bộ mặt của ngài Brocklehurst, nhưng lại có lợi cho trại tế bần. Các Mạnh Thường Quân giàu có trong vùng đã quyên góp tiền của để xây dựng một tòa nhà đủ tiện nghi hơn ở một địa thế tốt hơn, nội quy mới được đề ra, chế độ ăn uống và cấp phát quần áo cũng được cải thiện, ngân quỹ của nhà trường được giao cho một ban quản trị. Nhờ lắm tiền nhiều của và lắm họ hàng vai vế, nên ông Brocklehurst không bị gạt ra rìa. Ông vẫn được giữ chân thủ quỹ, nhưng tất nhiên là phải có sự trợ giúp của mấy quý ông có đầu óc thoáng hơn. Ngay cả việc thanh tra của ông cũng được chia sẻ với những người biết kết hợp giữa tình và lý, giữa tiện nghi và tiết kiệm, giữa thông cảm và chính trực. Sự tiến bộ đã giúp nhà trường kịp thời trở thành một tổ chức thực sự cao quý và có ích. Sau cuộc hồi sinh đầy ý nghĩa ấy, tôi tiếp tục sống trong bốn bức tường của nhà trường thêm tám năm nữa: sáu năm làm học sinh và hai năm làm cô giáo. Và trong cả hai vị trí này, tôi chính là người đã làm chứng cho giá trị và sự quan trọng của nhà trường. Cuộc sống của tôi cứ đều đều trôi qua trong suốt tám năm ấy, nhưng không phải là không có hạnh phúc, bởi vì đó không phải là quãng đời thụ động. Tôi có đủ các phương tiên học tập và giáo dục trong tầm với của mình. Sự yêu thích một vài môn học và mong muốn giỏi tất cả các môn, cùng với ý thức muốn làm vừa lòng các cô giáo, đặc biệt là những cô mình yêu mến, đã


thôi thúc tôi rất nhiều. Tôi đã tận dụng mọi thuận lợi đến với mình. Kết quả là tôi vươn lên vị trí đứng đầu của lớp nhất, và sau đó được đưa lên làm giáo viên. Hứng thú với công việc mới được khoảng hai năm thì tôi bắt đầu thấy có sự thay đổi. Trải qua nhiều thăng trầm, cô Temple vẫn tiếp tục giữ cương vị giám thị của chủng viện. Phần lớn thành quả đạt được của tôi đều là nhờ cô dạy dỗ chỉ bảo mà có. Tình thân ái và tính dễ gần của cô luôn giúp tôi khuây khỏa nỗi lòng; cô lo cho tôi như thể một người mẹ hiền, một cô giáo và sau hết là một người bạn. Thế rồi cô đi lấy chồng và dĩ nhiên là theo chồng (một vị giáo sĩ, một người đàn ông tuyệt vời khá xứng đôi với một người vợ như cô) về một chốn xa xôi; kết quả là tôi đã mất cô. Từ ngày cô đi, tôi không còn được như trước nữa. Cô đã mang theo mình tất cả những cảm xúc mà nhờ đó, ở một mức độ nhất định, tôi thấy Lowood giống như nhà mình. Tôi đã tiếp nhận nơi cô một cái gì đó như bản chất và rất nhiều thói quen của cô, ấy là những nếp nghĩ hài hòa điều chỉnh cảm xúc đã ăn sâu vào đầu óc tôi. Tôi đã biết tuân thủ bổn phận và trật tự, đã trở nên điềm tĩnh hơn. Tôi hài lòng với chính mình. Trước con mắt của mọi người và thậm chí ngay cả đối với chính mình cũng vậy, tôi là người có kỷ luật và sống biết điều. Nhưng rồi số phận – mang hình hài giáo sĩ Nasmyth, chồng cô – đã bất ngờ xuất hiện giữa tôi và cô Temple. Tôi lặng lẽ trông theo bóng cô trong bộ đồ du lịch leo lên xe, sau đám cưới không lâu, cho tới khi chiếc xe khuất hẳn sau một đỉnh đồi. Trong tâm trạng hẫng hụt, trống vắng, tôi trở về căn phòng bé nhỏ của mình. Trong hầu hết quãng thời gian nhà trường cho nghỉ để tiễn biệt cô Temple, tôi cứ quanh quẩn một mình trong phòng. Tôi thẫn thờ nuối tiếc một cái gì đã mất và chỉ nghĩ làm cách nào để hàn gắn lại. Nhưng khi rút ra một kết luận cho các ý nghĩ của mình, và khi ngẩng mặt lên để rồi giật mình nhận ra rằng trăng đã lên, đêm đã xuống, tôi mới chợt khám phá ra một điều là trong lúc suy ngẫm, tôi đã trải qua một quá trình biến đổi, đầu óc tôi đã gạt đi tất cả những gì vay mượn của cô Temple – hay nói đúng hơn, cô đã mang theo mình cái không khí bình yên mà tôi được hít thở khi còn được gần cô – để bây giờ tôi lại quay về với bản ngã tự nhiên của chính mình, và trong lòng bắt đầu cảm thấy xao động với những cảm xúc xưa cũ. Có lẽ không phải vì tôi đã mất đi một chỗ dựa, mà đơn giản là vì tôi chẳng còn động cơ gì nữa.


Không phải là tôi không còn khả năng sống điềm tĩnh, mà chính là vì cái lý do cho sự tồn tại của nó đã không còn nữa. Trong ngần ấy năm trời, thế giới của tôi chỉ bó hẹp trong những bức tường của Lowood, sự từng trải của tôi cũng chỉ gắn với những nội quy, phương pháp giáo dục của nhà trường. Chỉ đến lúc này tôi mới chợt nhận thấy rằng thế giới hiện thực bên ngoài quả là bao la rộng lớn, rằng cái thế giới muôn màu của niềm hy vọng và sự hãi hùng, của cảm xúc và sự khích lệ, vẫn đang chờ đợi những người có can cảm dấn thân vào khoảng mênh mông ấy để tìm ra một cuộc sống đích thực giữa phong ba bão táp. Tôi mở toang cửa sổ nhìn ra ngoài: kia là hai chái nhà, một khoảng vườn và những bức tường bao quanh Lowood, là những đường đồi nằm chênh chếch tới chân trời. Tôi phóng tầm mắt về nơi xa nhất, những ngọn núi xanh thẫm, là nơi tôi khao khát vượt qua. Những ngọn núi, dải đất hoang kia đúng là một nhà tù, một nơi đầy ải đích thực đối với tất cả những gì nằm trong vòng vây của chúng. Tôi đưa mắt nhìn theo một con đường trắng nhờ nhờ, ngoằn ngoèo chạy vòng theo một chân núi và biến mất hút vào một khe nhỏ nằm giữa hai ngọn núi đá. Giá như tôi được dấn bước đi xa mãi trên con đường ấy thì hay biết bao! Tôi nhớ rằng đã có một lần mình ngồi xe ngựa đi trên chính con đường này. Tôi cũng nhớ mình đã xuống ngọn đồi kia vào cuối một buổi chiều buồn hắt hiu. Từ bấy đến nay, tôi ngỡ phải đến một thế kỷ rồi, vậy mà chưa bao giờ tôi thò chân ra khỏi chốn này. Tôi nghỉ hè luôn ở trường. Bà Reed chưa một lần cho gọi tôi về Gateshead, những người trong gia đình bà cũng chẳng có lần nào đến thăm tôi. Tôi chưa hề thư từ gì với thế giới bên ngoài. Tất cả những gì tôi biết về sự tồn tại là nội quy, bổn phận, thói quen và khái niệm của nhà trường, rồi lời ăn tiếng nói, nét mặt, cách ăn mặc và những tình cảm yêu ghét của những người sống xung quanh. Tôi nhận thấy rằng tất cả những thứ ấy là chưa đủ, và chỉ trong có một buổi chiều, tôi bỗng cảm thấy chán ngấy cái lối sống mòn của tám năm qua. Tôi ước ao, khao khát, cầu nguyện khoảng trời tự do. Hình như lời thỉnh nguyện của tôi đã cuốn theo chiều gió thoảng. Tôi từ bỏ ý nghĩ đó để mơ một điều hèn mọn hơn, ấy chỉ là một sự thay đổi, một tác nhân khích lệ, nhưng lời thỉnh cầu này như cũng rơi vào chốn hư vô. “Vậy thì ít ra cũng phải cho tôi đến với một phận tôi đòi khác chứ!” – Tôi thất vọng kêu lên. Tiếng chuông réo vang báo giờ ăn chiều gọi tôi xuống nhà dưới. Cho đến giờ đi ngủ, tôi cũng không được thoải mái nối lại những suy tưởng đã bị gián đoạn. Một cô giáo khác ngủ cùng buồng cứ lải nhải mãi


những chuyện trên trời dưới bể buộc tôi phải ậm ừ đáp lễ. Tại sao cô ta không ngủ đi cho tôi nhờ! Dường như chỉ đến khi ngó ra cửa sổ với cái ý nghĩ cuối cùng hiện lên trong đầu lúc trước, tôi mới nảy ra một ý định giúp tôi nhẹ nhõm đi phần nào. Cuối cùng thì Gryce cũng ngáy khò khò. Gryce là một phụ nữ xứ Wales có vóc người nặng nề. Từ trước đến nay, tiếng ngáy của cô luôn là điều khó chịu đối với tôi, nhưng đêm nay thì ngược lại, tự nhiên tôi cảm thấy thật dễ chịu khi phải nghe cái giai điệu ồ ồ ấy. Dòng suy tưởng của tôi không còn bị đứt mạch nữa, những ý nghĩ nửa vời khi nãy của tôi lặp tức được nối lại. “Phải đến với một phận tôi đòi mới! – Tôi lẩm bẩm với chính mình – Mình biết trong cái kiếp đời ấy luôn tồn tại một điều gì đấy, bởi nó chẳng có vẻ gì là ngọt ngào cho lắm. Nó cũng không giống những danh từ như: tự do, hào hứng, hưởng thụ: những từ chỉ mới nghe thôi đã thực sự cảm thấy thích thú, nhưng đối với mình thì đó chỉ là những tên gọi rỗng tuếch và khó nắm bắt. Nhưng kiếp sống mạt hạng phải là một thực tế, vì mình đã phục dịch ở đây suốt tám năm trời. Tất cả những gì mình muốn bây giờ là được phục dịch ở một nơi nào khác. Chẳng lẽ mình lại không thể làm được gì nhiều cho cái mong muốn ấy? Chẳng lẽ đó lại là một việc ngoài khả năng của mình? Không, không, đó không phải là một cái đích khó khăn, chỉ cần đầu óc năng động lên một chút là có thể đạt được”... Tôi ngồi dậy trên giường để cho đầu óc được minh mẫn. Đêm lành lạnh, tôi kéo chiếc khăn choàng lên vai rồi tiếp tục dòng suy nghĩ. “Thực ra mình muốn gì nhỉ? Một nơi chốn mới, trong một ngôi nhà mới, giữa những khuôn mặt mới, ở những hoàn cảnh mới? Mình chỉ cần có thế, vì có muốn hơn cũng chẳng được kia mà. Nhưng người ta phải làm gì để tìm được một chốn dung thân mới nhỉ? Có thể họ nhờ bạn bè. Nhưng mình làm gì có bạn bè? Có nhiều người cũng chẳng có bạn bè gì, phải tự mình xoay xở lấy. Vậy thì họ dựa vào nguồn nào không biết?” Tôi chẳng biết nói thế nào, không có gì cho tôi một gợi ý. Nhưng tôi vẫn bắt mình phải vắt óc tìm cho ra câu trả lời, tìm thật nhanh. Tôi nghĩ mỗi lúc một căng hơn, song trong suốt gần một tiếng đồng hồ quay cuồng với các ý nghĩ, đầu óc tôi vẫn chưa đưa ra được một giải đáp nào. Trong người bừng bừng như phát sốt, tôi đứng dậy đi một vòng quanh phòng rồi gạt rèm cửa nhìn lên bầu trời thấp thoáng mấy vì sao. Chợt thấy rùng mình ớn lạnh, tôi


lại chui tọt lên giường. Trong lúc tôi lẩn thẩn đi quanh phòng, hẳn phải có một nàng tiên đáng mến đã buông xuống gối tôi nằm một gợi ý thậy ý nghĩa, vì lúc tôi vừa ngả lưng thì ý nghĩ ấy đã lập tức hiện lên trong đầu một cách rất tự nhiên: “Nếu muốn có việc, hãy cứ nhắn tin trên báo! Mình phải đăng tin trên tờ báo địa phương... Herald. “Nhưng làm thế nào nhỉ? Mình có biết gì về quảng cáo đâu”. Lời giải đáp cũng hiện lên trong đầu tôi rất tự nhiên: “Mình phải bỏ nội dung tin nhắn vào trong một chiếc phong bì kèm theo lệ phí, rồi gửi cho ông chủ bút của tờ Herald. Mình phải bỏ thư vào bưu điện Lowton ngay trong cơ hội đầu tiên gặp được. Địa chỉ nhận thư trả lời sẽ đề J.E, bưu điện Lowton: sau khi gửi thư một tuần, mình sẽ quay lại đấy hỏi. Nếu có thư nhắn, mình cứ việc tùy theo đó mà xử trí”. Tôi lẩm nhẩm nhắc lại phương án ấy vài ba lần, cho đến khi nó ngấm sâu vào trí óc. Có lẽ đó sẽ là cách tốt nhất để tôi bắt đầu tìm ra một cuộc sống mới cho mình. Tôi thấy hài lòng và chìm đắm vào giấc ngủ. Sáng sớm hôm sau, tôi dậy biên vài dòng nhắn tin, bỏ vào phong bì và để lại địa chỉ như dự định. Nội dung quảng cáo như sau: “Một phụ nữ dạy học có kinh nghiệm (tôi đã chẳng làm cô giáo được hai năm rồi là gì?) cần một chỗ làm gia sư cho các em dưới mười bốn tuổi (tôi nghĩ mình mới mười tám, không nên nhận dạy những học sinh gần bằng tuổi mình). Có năng lực dạy các môn thông thường của hệ thống giáo dục Anh, cùng với những môn tiếng Pháp, hội họa và âm nhạc (thưa bạn đọc, so với bây giờ, ngần ấy môn vẫn là ít so với khả năng của một người làm thầy, nhưng dạo đó, như thế đã là hơi nhiều). Xin hỏi J.E, bưu điện Lowton.” Lúc tôi bỏ thư vào phong bì cũng là lúc tiếng chuông báo giờ học ngân vang. Tôi cất lá thư vào ngăn kéo rồi khóa chặt suốt cả ngày; sau giờ dùng trà, tôi xin bà giám thị mới cho phép đến Lowton để giải quyết một vài việc cho mình và một hai bạn đồng nghiệp nữa. Bà giám thị đồng ý cho tôi đi mà không cần vặn vẹo gì thêm. Tôi cặm cụi cuốc bộ suốt hai dặm đường. Chiều mưa rả rích, nhưng ngày vẫn còn dài. Tôi vào thăm một vài cửa hàng rồi mới đến trạm bưu điện bỏ thư. Lúc tôi về, trời đổ mưa tầm tã, người tôi ướt như


chuột lột, nhưng trong lòng lại cảm thấy thật nhẹ nhõm. Một tuần sau như kéo dài vô tận, nhưng có dài mấy thì rồi cuối cùng cũng phải hết. Vào một buổi chiều thu êm dịu, tôi một lần nữa trở lại Lowton. Con đường chạy dọc theo bờ suối, lượn cong cong vào lòng thung lũng êm đềm, trông đẹp như một bức tranh. Nhưng hôm đó, tôi nghĩ nhiều đến những lá thư có thể đang đợi mình ở cái thị trấn nhỏ kia hơn là dòng suối, đồng cỏ mượt mà ven đường. Lần này, tôi lấy lý do đi đóng đôi giày, nên trước tiên tôi phải làm việc ấy trước. Xong việc, tôi từ hiệu giày đi qua nẻo phố nhỏ sạch sẽ yên bình đến trạm bưu điện, nơi có một bà già đeo kính gọng sừng, tay đi găng đen đang ngồi. - Có bức thư nào gửi cho J.E không ạ? – Tôi hỏi. Bà giương mục kỉnh nhìn tôi chằm chặp, rồi mở ngăn kéo lục tìm một hồi lâu, lâu đến nỗi tôi đã bắt đầu cảm thấy thất vọng. Cuối cùng, bà cầm một chiếc phong bì đọc đến gần năm phút rồi mới thò tay ra ngoài quầy đưa cho tôi, ánh mắt soi mói nghi ngờ. Phong thư đề địa chỉ gửi J.E. - Chỉ có thế này thôi à, thưa bà? – Tôi hỏi lại. - Chẳng thế thì còn gì nữa. – Bà ta trả lời. Tôi bỏ thư vào túi và quay về luôn, không dám bóc thư ngay tại chỗ, vì nội quy nhà trường buộc tôi phải trở về trước tám giờ, mà bây giờ đã là bảy giờ rưỡi rồi. Còn rất nhiều việc đợi tôi ở nhà: tôi phải ngồi cùng các học sinh trong giờ tự học, rồi đến phiên tôi phải đọc kinh, trông nom chuyện học sinh đi ngủ, sau đó mới được ngồi ăn tối cùng các cô giáo khác. Nào đã hết, đến lúc được đi ngủ, tôi vẫn không thể tránh khỏi cô bạn Gryce. Chúng tôi chỉ còn mỗi một mẩu nến còm trên giá, chưa biết chừng cô ta lại nói huyên thuyên cho đến khi cháy hết nến cũng nên. Nhưng cũng may, bữa tối căng rốn đã khiến cô ta không cưỡng lại được giấc ngủ. Tôi chưa kịp thay quần áo đã thấy cô ta ngáy như sấm rồi. Mẩu nến vân cháy đủ để tôi đọc thư. Dấu bưu điện đóng chữ F. Tôi bóc ra xem, nội dung thư chỉ vẻn vẹn có vài dòng: “Nếu cô J.E – người đăng báo Herald tìm việc làm hôm thứ năm vừa rồi – thực sự có các điều kiện như đã rao, và có giấy chứng nhận về hạnh kiểm và năng lực, thì có thể được nhận làm gia sư dạy học cho một em gái dưới mười


tuổi với mức lương là ba mươi bảng mỗi năm. Đề nghị cô J.E gửi giấy chứng nhận, giới thiệu tên tuổi, địa chỉ, và tất cả những thứ cần thiết đến địa chỉ sau đây: “Bà Fairfax ở Thornfield, Millcote...” Tôi đọc đi đọc lại lá thư: nét chữ kiểu cũ và không chắc chắn như chữ viết của một bà già. Nếu thế thì càng dễ cho tôi, bởi tôi vẫn bị ám ảnh bởi một nỗi lo sợ thầm kín rằng việc tự tôi xoay sở, tự làm người dẫn đường cho mình, có thể sẽ đưa tôi sa vào một cạm bẫy nào đó. Nhưng nói gì thì nói, tôi chỉ mong kết quả những cố gắng của mình sẽ được đền đáp, hợp tình hợp lý và đúng đắn. Tôi cảm thấy một phụ nữ có tuổi sẽ không gây phiền phức cho cái công việc mà tôi kiếm được. Bà Fairfax! Tôi hình dung ra đó là một người mặc áo dài đen, đội mũ quả phụ, có thể hơi lạnh lùng nhưng không thiếu lịch sự theo mẫu hình dáng kính truyền thống của Anh quốc. Thornfield! Tôi tin chắc đó phải là tên ngôi nhà của bà, một nơi thật gọn gàng ngăn nắp; mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng tôi vẫn không mường tượng nổi bình đồ cụ thể của ngôi nhà. Millcote! Tôi nhớ lại bản đồ nước Anh. Vâng, tôi đã nhìn thấy địa danh đó. Nếu so với chỗ tôi đang ở thì quận này gần Luân Đôn hơn đến bảy mươi dặm, như thế càng tốt cho tôi hơn. Tôi mong đến một nơi có cuộc sống náo nhiệt thực sự. Millcote là một đô thị chế tạo lớn bên bờ sông A... Hẳn đó phải là một nơi khá nhộn nhịp. Nếu vậy thì càng tốt hơn nhiều, bởi ít nhất nó cũng làm cuộc sống của tôi thay đổi hoàn toàn. Nhưng không phải vì vậy mà trí tưởng tượng của tôi bị lôi cuốn bởi hình ảnh những ống khói cao ngất và những đám khói mù trời, tôi vẫn cho rằng Thornfield chắc phải nằm cách xa thị trấn lắm. Tôi nghĩ đến đây thì mẩu nến tắt ngấm. Những bước đầu tiên trong kế hoạch của tôi được thực hiện ngay vào ngày hôm sau, vì tôi không thể giấu trong lòng lâu hơn được, tôi phải nói ra để định lượng kết quả. Giờ giải lao buổi trưa, tôi đã tìm gặp và trình bày nguyện vọng của mình với bà giám thị. Tôi nói thẳng ra rằng tôi định xin đi làm việc ở nơi khác với số lương gấp đôi ở đây (vì lương tôi ở Lowood chỉ có mười lăm bảng một năm). Tôi cũng nhờ bà truyền đạt lại vấn đề với ông Brocklehurst hoặc một ai đó trong hội đồng, xem họ có đồng ý cấp chứng nhận cho tôi hay không. Bà nhận làm trung gian giúp tôi trong việc này. Ngày hôm sau, bà trình bày lại với ông Brocklehurst. Ông ta bảo phải viết thư hỏi ý kiến bà Reed, vì hiển nhiên bà ấy là người đỡ đầu của tôi. Nhà trường


đã gửi cho bà một lá thư, và bà gửi thư phúc đáp rằng tôi “muốn làm gì thì làm, bởi từ lâu rồi, bà chằng còn liên quan gì” đến việc riêng của tôi nữa. Thư của bà được chuyển hết lượt cho các vị trong hội đồng và cuối cùng, sau một thời gian trì hoãn khiến tôi sốt ruột chờ đợi đến phát chán, nó mới đến tay tôi với ý kiến chính thức cho phép tôi tìm một chỗ có điều kiện hơn nếu có thể. Nhà trường còn hứa cấp giấy chứng nhận (có đầy đủ chữ ký của các vị thanh tra trong của trường) rằng với tư cách là học sinh cũng như là cô giáo, tôi là người có đạo đức tốt và năng lực trong thời gian ở Lowood. Khoảng một tuần sau khi nhận được chứng chỉ, tôi gửi một bản sao cho bà Fairfax. Trong thư trả lời tôi, bà Fairfax nói bà rất hài lòng, và hẹn tôi sau hai tuần phải thu xếp đến nhận việc ở nhà bà. Và tôi sẽ phải tự lo liệu chuẩn bị mọi việc. Hai tuần trôi qua thật nhanh. Tôi không có nhiều quần áo, nhưng cũng đủ cho các nhu cầu tối thiểu, chỉ cần một ngày trước khi lên đường cũng đủ để tôi xếp hành trang vào hòm – vẫn cái hòm tôi đem từ Gateshead đến cách đây tám năm. Chiếc hòm được buộc dây cẩn thận và được gắn thêm một tấm danh thiếp bên ngoài. Nửa giờ sau sẽ có người đến chở nó tới Lowton. Tôi chuẩn bị mũ mão, bao tay, găng tay, bộ áo váy đen mặc đi đường, rồi kiểm tra thật kỹ các ngăn kéo xem còn bỏ sót gì không. Khi không còn phải làm gì nữa, tôi định ngồi xuống nghỉ một lát nhưng không thể vì quá sốt ruột, mặc dù suốt ngày hôm ấy tôi chỉ dùng đến đôi chân. Một quãng đời của tôi sẽ được khép lại vào đêm nay, và một giai đoạn mới sẽ được mở ra. Làm sao tôi có thể chợp mắt trong cái khoảng chuyển giao này! Vậy là tôi phải thức cho sự thay đổi được diễn ra trọn vẹn. - Thưa cô, – một chị giúp việc gọi tôi ngoài hành lang, khi tôi đang ngơ ngẩn như một kẻ tâm thần – có một người đang muốn gặp cô dưới nhà. “Chắc là người đánh xe.” – Tôi nghĩ và chạy xuống cầu thang mà không hỏi gì thêm. Khi đang đi qua phòng khách sau – nơi các giáo viên thường ngồi – để đi xuống bếp thì có một người bỗng chạy bổ ra. - Đúng là cô ấy rồi, tôi biết chắc mà! Không thể lẫn vào đâu được!” – người ấy vừa chặn tôi lại và nắm chặt lấy tay tôi kêu váng lên. Tôi ngỡ ngàng nhìn người đứng trước mặt mình: đó là một người đàn bà còn trẻ, rất ưa nhìn, mái tóc và đôi mắt đều màu đen, nước da hồng hào, ăn


mặc như một gia nhân. - Nào, thử xem ai đây nào? – Người phụ nữ hỏi bằng một giọng và tiếng cười khiến tôi ngờ ngợ. – Tôi nghĩ chắc là cô cũng chưa đến nỗi quên hẳn tôi, đúng không cô Jane? Sau một thoáng ngỡ ngàng, tôi ôm chầm lấy chị: “Chị Bessie! Chị Bessie! Chị Bessie!” – Tôi chỉ nói được có vậy. Chị vừa cười vừa khóc. Rồi chúng tôi kéo nhau vào trong phòng khách. Cạnh lò sưởi có một đứa nhỏ chừng ba tuổi, mặc áo xếp nếp và quần dài. - Thằng nhóc nhà tôi đấy! – Bessie khoe với tôi. - Thế có nghĩa là chị đã kết hôn rồi à, chị Bessie? - Vâng, đã gần năm năm nay rồi, với Robert Leaven, anh đánh xe ấy mà. Ngoài thằng Bobby này ra, tôi còn một cháu gái tên là Jane nữa! - Thế chị không ở Gateshead nữa à? - Có chứ, tôi ở nhà chòi, vì bác gác cổng cũ đã thôi việc rồi. - Tốt rồi, thế mọi người vẫn khỏe cả chứ? Kể cho em nghe mọi chuyện về họ đi, chị Bessie. Nhưng cứ ngồi xuống cái đã. Kìa, Bobby, lại đây ngồi lên lòng cô nhé? Nhưng Bobby vẫn không muốn rời mẹ một bước. - Trông cô chẳng cao hơn trước là mấy, mà người cũng không béo ra bao nhiêu, cô Jane nhỉ! – Bessie nói tiếp. – Chắc là ở trường, người ta ít chăm lo gì cho cô. Cô Reed cao hơn cô đến một đầu, vai cũng lẳn hơn cô; còn Georgiana thì cứ gọi là to gấp đôi cô ấy chứ! - Chắc là Georgiana xinh đẹp lắm, chị Bessie nhỉ? - Rất đẹp. Mùa đông mới rồi cô ta theo mẹ đi Luân Đôn, ở đấy mọi người đều trầm trồ than phục sắc đẹp của cô ta, có một vị quý tộc trẻ tuổi phải lòng cô ta, nhưng lại bị gia đình kịch liệt phản đối! Và rồi – cô biết không? – ông ta và cô Georgiana định rủ nhau bỏ nhà mà đi biệt tích, nhưng có người phát hiện được nên cả đôi đã bị giữ lại. Mà người phát hiện ra lại chính là cô Reed chứ ai. Tôi cho là cô Reed đã đố kỵ với cô em. Bây giờ hai chị em sống với


nhau như chó với mèo, cãi nhau luôn ấy! - Thế còn thằng John Reed thì sao rồi? - Ồ, cậu ấy chỉ toàn làm những việc mà bà mẹ không muốn một chút nào. Cậu ấy xin vào trường đại học nhưng thế nào lại bị... trượt – tôi nghĩ là người ta vẫn gọi như vậy. Sau đó, mấy ông chú muốn cho cháu trở thành thầy cãi nên đã cho cậu ta đi học luật. Nhưng John là một thanh niên chỉ biết chơi bời phóng đãng, tôi nghĩ họ chẳng bao giờ trông cậy được ở cậu ta đâu. - Bây giờ trông nó thế nào? - Cao lớn lắm, có người bảo là đẹp giai, mỗi tội môi cứ trề ra vì dày quá. - Còn bà Reed? - Trông thì vẫn khỏe mạnh thảnh thơi như thường, nhưng tôi nghĩ trong lòng bà chủ rất không được yên. Cách xử sự của cậu John không làm bà hài lòng, cậu ấy đã phá của bà không biết bao nhiêu tiền của rồi. - Có phải bà Reed bảo chị đến đây không, Bessie? - Thực ra thì không, nhưng đã từ lâu tôi muốn đến thăm cô, nên khi nghe nói có thư của cô gửi về và cô sắp chuyển đi một nơi khác, tôi nghĩ mình phải thu xếp đến gặp cô trước khi cô đi xa ngoài tầm với của tôi. - Chỉ sợ chị lại thất vọng khi gặp lại em thôi, Bessie ạ. – Tôi vừa nói vừa cười vì nhận thấy trong ánh mắt Bessie có một cái gì đấy như tôn trọng, chứ không có một chút khâm phục nào. - Không đâu, Jane ạ, cô nói vậy là không đúng rồi. Tôi trông cô cũng thanh lịch lắm chứ, lại có vẻ là một quý phụ nữa, và đó chính là điều tôi hằng mong đợi ở cô: hồi còn nhỏ, cô có xinh đẹp gì đâu. Tôi mỉm cười ý nhị trước câu nói chân thành của Bessie: tôi hiểu chị nói thật. Nhưng thú thực là không phải tôi hoàn toàn thờ ơ với lời nói đó. Đang tuổi mười tám đôi mươi, thử hỏi ai là người không thích được người khác khen kia chứ? - Nhưng tôi tin rằng cô là người khéo léo thông minh. – Bessie nói như để an ủi tôi. – Cô có thể làm được những gì? Cô chơi dương cầm được chứ.


- Cũng gọi là thôi. Trong phòng có một chiếc dương cầm, Bessie ra mở nắp đàn vào bảo tôi [17] chơi thử một bài cho chị nghe. Tôi chơi vài điệu luân vũ khiến chị ta xuýt xoa mãi. - Các cô Reed chẳng ai chơi hay được như cô! – Bessie hồ hởi nói. – Tôi vẫn thường bảo về việc học hành thì cô sẽ vượt hơn họ, thế cô cũng biết vẽ chứ? - Bức tranh treo trên tường lò sưởi kia là một trong những gì em đã vẽ được đấy! Đó là một bức phong cảnh vẽ bằng thuốc nước, em đề tặng và giám thị để tỏ lòng biết ơn bà đã làm trung gian nói với ban quản trị giúp em đi khỏi đây. Bà đã lồng kính và đóng khung để treo lên đó. - Ôi, bức tranh rất đẹp, cô Jane ạ! Nó có thể sánh với bất cứ bức vẽ nào của cái ông thầy dạy vẽ cho cô Reed ấy chứ. Mấy cô Reed kia thì ăn nhằm gì, họ chỉ đáng xách dép chạy theo cô thôi. Cô đã học tiếng Pháp chưa? - Rồi, chị Bessie ạ, em có thể đọc và nói được rồi. - Thế cô có thể khâu được cả vải mỏng lẫn vải thô chứ? - Được, chị ạ. - Ôi, vậy cô đã là một quý bà hoàn hảo rồi còn gì! Tôi biết thế nào cô cũng thành người như thế mà. Cô sẽ tiến tới, cho dù họ hàng thân thích của cô có nhìn nhận cô hay không cũng thế thôi. Cô có bao giờ nhận được tin tức gì của họ nội không? - Chẳng bao giờ. - Này, chắc cô cũng biết bà Reed thường bào họ đều là những kẻ khố rách áo ôm đáng khinh bỉ chứ? Có thể là họ nghèo thật, nhưng tôi nghĩ họ cũng là tầng lớp trung lưu như họ nhà Reed, vì một hôm cách đây đã gần bảy năm, có một ông tên là Eyre đến lâu đài Gateshead và bảo muốn gặp cô. Ông ấy có vẻ rất thất vọng, không thể nào nán lại được, ông sắp phải ra nước ngoài, mà con tàu của ông lại phải rời Luân Đôn trong có một hai hôm nữa. Trông ông ấy có vẻ sang trọng lắm, tôi nghĩ ông ấy đúng là anh em với cha


cô. - Thế ông ấy định đi nước nào, chị Bessie? - Một đảo cách xa nước Anh ngàn dặm, nơi sản xuất rượu vang, bác quản gia bảo tôi thế. - Hay là Madeira? – Tôi gợi ý. - Đúng rồi, đúng rồi... đúng là cái tên ấy đấy. - Ông ấy đi ngay à? - Vâng, ông ấy chỉ ở đó một lát, bà chủ đã tỏ ra rất kênh kiệu đối với ông. Sau khi ông đi rồi, bà bảo ông ta là một tay “buôn lậu đường biển”, còn Robert nhà tôi thì bảo ông ấy là một nhà buôn rượu vang. Bessie và tôi ôn lại chuyện xưa thêm một tiếng đồng hồ nữa, rồi chị phải giã biệt tôi. Sáng hôm sau, lúc đợi xe ở Lowton, tôi còn gặp chị thêm vài phút nữa rồi mỗi người đi một ngả. Chị lên dốc đồi Lowood đợi xe về Gateshead, còn tôi lên một chiếc xe đến với những bổn phận mới và một cuộc sống mới ở một nơi xa lạ nào đó vùng Millcote.



Chương 11 Một chương mới trong một cuốn tiểu thuyết cũng giống như một màn mới trong một vở kịch. Và lần này, thưa bạn đọc, khi tôi kéo màn lên, các bạn hãy tưởng tượng trước mắt mình là một căn phòng trong Quán trọ George ở Millcote. Các bức tường đều được dán giấy có in những bức chân dung lớn giống như trong các quán trọ khác, rồi đến các tấm thảm, thứ đồ đạc, vật trang trí trên mặt lò sưởi cũng tương tự như vậy. Tất cả được soi sáng bởi một ngọn đèn dầu treo trên trần và một ngọn lửa cháy đượm nồng cạnh nơi tôi đang ngồi. Vâng, tôi đang ngồi bên một ngọn lửa, người vẫn chưa hết cóng vì mười sáu tiếng đồng hồ liền đi ngoài trời tháng Mười khắc nghiệt. Tôi rời Lowton lúc bốn giờ sáng, và bây giờ chuông đồng hồ thị trấn Millcote vừa điểm tám tiếng. Thưa bạn đọc, mặc dù trông có vẻ thoải mái, nhưng trong lòng tôi chẳng yên tâm chút nào. Tôi cứ tưởng lúc xe ngựa đến nơi thế nào cũng sẽ có người ra đón. Lúc đặt chân lên chiếc bục gỗ để xuống xe, tôi nhớn nhác nhìn quanh xem có ai gọi tên mình và có chiếc xe nào đợi sẵn để đưa tôi về Thornfield không. Chẳng thấy gì cả. Và khi tôi hỏi một người hầu bàn trong quán trọ xem có ai lại tìm cô Eyre không thì anh ta chỉ lắc đầu. Tôi đành phải bảo anh ta dẫn vào một phòng trọ. Tôi ngồi đợi ở đấy trong một tâm trạng ngờ vực và lo ngay ngáy. Thật là một cảm giác kỳ lạ đối với một người con gái trẻ tuổi ít kinh nghiệm, sống giữa cảnh đời hoàn toàn đơn độc, bơ vơ không một người thân thích như tôi, chưa biết mình có tới đích được không và nếu có muốn quay về chốn cũ chẳng phải là điều hay ho gì. Sự hấp dẫn của cuộc phiêu lưu đã làm cho cảm giác khó lý giải ấy dịu bớt, và ngọn lửa tự trọng trong lòng đã sưởi ấm cho cảm giác ấy, nhưng rồi lại nhanh chóng bị nỗi lo sợ giày vò. Đợi khoảng quá nửa giờ vẫn không thấy ai, thì nỗi lo sợ bắt đầu hoàn toàn choán hết tâm trí tôi. Tôi quyết định kéo chuông gọi. - Quanh vùng này có chỗ nào gọi là Thornfield không? – Tôi hỏi người hầu bàn khi anh ta vừa chạy đến theo tiếng chuông. - Thornfield à? Thưa cô, tôi không biết, để tôi quay lại quầy rượu hỏi xem nào. – Anh ta chạy ù đi nhưng rồi lại quay về ngay. - Tên cô là Eyre, đúng không?


- Đúng. - Có người đang đợi cô ở ngoài kia. Tôi đứng bật dậy, cầm bao tay và chiếc ô rồi bước vội ra ngoài hành lang: có một người đàn ông đứng ngay cạnh cửa. Dưới ánh đèn ngoài phố, tôi lờ mờ nhận ra một chiếc xe một ngựa kéo. - Tôi đoán có lẽ đây là hành lý của cô? – Người lạ mặt hỏi luôn một câu khi vừa nhác trông thấy tôi, tay chỉ vào chiếc hòm đặt ở hành lang. - Vâng. [18] Anh ta bê hòm lên xe, một kiểu xe ca , rồi ra hiệu cho tôi bước lên xe. Trước khi cửa xe đóng lại, tôi hỏi anh ta đường đến Thornfield còn bao xa. - Khoảng sáu dặm gì đấy! - Chúng ta phải đi mất bao lâu mới tới nơi? - Có lẽ khoảng một tiếng rưỡi. Anh ta chốt chặt cửa xe rồi nhảy lên ghế ngồi riêng ở bên ngoài. Xe chúng tôi bắt đầu chuyển bánh. Chiếc xe túc tắc lăn bánh trên đường nên tôi có nhiều thời gian để suy nghĩ. Tôi cảm thấy vui vui, vì cuộc hành trình dù dài cuối cùng cũng sắp kết thúc. Chiếc xe tôi ngồi không có gì là lịch sự cho lắm, nhưng cũng đủ để tôi ngồi thoải mái với những suy nghĩ của riêng mình. “Cứ nhìn cái vẻ giản dị của người đầy tớ và chiếc xe – tôi nghĩ bụng – cũng đủ biết bà Faifax không phải là người thích màu mè. Như vậy càng tốt! Mình mới chỉ sống một lần với người giàu mà đã cảm thấy khổ sở lắm rồi. Không hiểu bà ấy sống một mình với cô bé kia hay là còn ai nữa. Nếu đúng là bà ấy sống một mình, và nếu bà ấy là người tử tế thì mình tin chắc vẫn có thể chung sống với bà được. Mình sẽ cố gắng hết sức, nhưng sẽ thật là buồn khi đã nỗ lực hết mình mà vẫn không bao giờ được đền đáp lại. Thực ra, ở Lowood mình cũng quyết tâm như vậy, đã cố gắng giữ gìn và làm vui lòng mọi người, vậy mà lúc nào bà Reed cũng chỉ đáp lại những cố gắng của mình bằng sự khinh bỉ. Mình nhớ lắm. Cầu Chúa cho bà Faifax không phải là một bà Reed thứ hai, mà kể cả khi bà Faifax có là như vậy đi nữa thì cũng chẳng


có gì ràng buộc mình phải ở với bà ta: đã tệ thì cho tệ luôn một thể, mình sẽ lại đăng quảng cáo một lần nữa. Không biết xe đã đi được đến đâu rồi nhỉ?” Tôi hạ cửa sổ xuống nhìn ra ngoài. Millcote đã lùi lại phía sau chúng tôi. Nhìn vào những ngọn đèn dọc đường, tôi đoán đó là một thị thành lớn, lớn hơn Lowton nhiều… Tôi cảm thấy mình đến một vùng khác hẳn Lowood: đông đúc hơn nhưng lại không sinh động bằng, náo nhiệt hơn nhưng lại kém phần thơ mộng. Đường khó đi, sương đêm phủ nhạt nhòa. Tay xà ích cứ mặc cho ngựa đi túc tắc suốt dọc đường, vì thế tôi tin chắc rằng đáng lẽ chỉ cần một giờ rưỡi. Chúng tôi đã phải đi mất đến hai giờ. Ngồi mãi mới thấy anh ta ngoái lại nói một câu: - Gần đến Thornfield rồi đấy. Tôi lại ngó nghiêng nhìn ra ngoài, chiếc xe đang đi qua một nhà thờ có cái tháp chuông to và thấp tịt in lên nền trời, rồi một hồi chuông ngân nga báo một khắc. Tôi nhận ra những ánh đèn thấp thoáng trên sườn một ngọn đồi như đánh dấu một thôn quê hay một ngôi làng nào đó. Khoảng mười phút sau, tay xà ích chợt nhảy xuống mở toang một cánh cổng phía trước mặt: xe chúng tôi chậm rãi đi vào trước khi hai cánh cổng từ từ khép lại. Chiếc xe tiếp tục lăn bánh trên một lối nhỏ dẫn đến một tòa nhà có mặt tiền rất rộng. Chỉ có ánh đèn cầu hắt ra từ một ô cửa sổ buông rèm; mọi ô cửa còn lại đều tối om. Chiếc xe đỗ ngay trước cửa chính; một người hầu gái bước ra mở cửa. Tôi xuống xe bước vào nhà. - “Cô làm ơn đi theo lối này.” – Người hầu gái nói và dẫn tôi qua một căn phòng rộng vuông vắn, bốn bên đều có cửa ra vào rất cao. Tiếp đó, tôi được dẫn vào một căn phòng được chiếu sáng bằng cả ánh lửa lò sưởi lẫn ánh nến, làm cho tôi bị chói mắt mất một lúc, vì tôi đã quen với bóng tối trong suốt hai giờ đồng hồ. Lúc đã quen với ánh sáng, tôi nhận thấy một cảnh tượng êm đềm đang bày ra trước mắt. Đó là một căn phòng nhỏ, ấm cúng, có một chiếc bàn tròn kê bên lò sưởi, một chiếc ghế bành kiểu cổ có lung tựa rất cao. Ngồi trên ghế là một phụ nữ luống tuổi, người nhỏ nhắn, đầu đội một chiếc mũ quả phụ, mặc áo dài lụa đen và đeo một chiếc tạp dề bằng vải mutxơlin trắng như tuyết, trông chẳng khác bà Fairfax trong trí tưởng tượng của tôi là mấy, chỉ có điều là không uy nghiêm, mà có vẻ dịu dàng hơn. Bà đang bận ngồi đan, một con


mèo to bự ngồi im như thóc dưới chân. Nói tóm lại, thật chẳng còn gì hơn để làm hoàn chỉnh một ý tưởng thật đẹp về cảnh sinh hoạt gia đình ấm cúng. Thật khó mà có một cảnh đón tiếp nào có thể khiến một gia sư mới như tôi yên tâm hơn. Vừa thấy tôi bước vào, bà vội vàng đứng dậy vồn vã ra đón. - Cô có được khỏe không, cô giáo thân mến? Tôi cứ lo chuyến đi sẽ làm cô mệt mỏi. John, sao để xe đi chậm thế? Chắc là cô lạnh lắm, vào gần lò sưởi cho ấm người lên một chút đi. - Vâng, bà là bà Fairfax? - Vâng, cô nói đúng. Cô ngồi xuống đây. Bà dẫn tôi đến chỗ ghế bà ngồi, rồi cởi khăn cởi mũ cho tôi. Tôi bảo bà không việc gì phải bận tâm đến tôi như vậy. - Ôi dào, có hề gì đâu, tôi đảm bảo là tay cô sắp cóng vì rét đến nơi rồi. Leah, đi hâm một ít rượu vang và cắt hộ tôi một hai lát bánh xăng-uých nhé. Chìa khóa buồng thức ăn đây này. Bà móc túi lấy một chùm chìa khóa to tổ bố đưa cho chị hầu gái, rồi nói tiếp: - Nào, xê xê lại gần lò sưởi đi… cô có đem theo hành lý đấy chứ, cô giáo thân mến? - Vâng, thưa bà. - Tôi sẽ cho đem cả vào buồng cô. – Bà nói và bước vội ra ngoài. “Bà ấy cư xử với mình như một vị khách. – Tôi nghĩ bụng. – Mình chẳng mong đợi được đón tiếp như vậy. Cứ tưởng thế nào mình cũng bị đón tiếp bằng một thái độ lạnh nhạt, nhưng đằng này lại khác hẳn với những gì mình vẫn nghe nói về cách xử sự với các nữ gia sư; nhưng cũng đừng nên vui mừng sớm quá.” Người phụ nữ quay vào và tự tay dọn dẹp mấy thứ đồ đan và mấy cuốn sách trên bàn để lấy chỗ cho chị Leah đặt cái khay vừa bưng vào, và chính bà lấy thức ăn mời tôi. Tôi bỗng bối rối vì chưa bao giờ được quan tâm ân cần đến như vậy, nhất là khi người quan tâm lại là một bà chủ, một người bề trên của mình. Nhưng dường như bản thân bà cũng không để ý rằng bà làm như


thế là không đúng với địa vị của mình, nên tôi nghĩ tốt hơn là cứ để bà được thể hiện phép lịch sự đó. - Liệu tôi có hân hạnh được gặp cô Fairfax đêm nay không? – Tôi hỏi sau khi ăn xong những gì bà mời. - Cô bảo sao cơ? Tôi hơi nặng tai đấy cô ạ. – Người đàn bà tốt bụng quay lại hỏi và ghé sát tai vào miệng tôi. Tôi nhắc lại câu hỏi cho rành mạch hơn. - Cô Fairfax? Ồ, ý cô muốn hỏi Varens chứ gì! Varens chính là tên đứa học trò tương lai của cô đấy. - Thế à! Vậy cô ấy không phải là con gái bà à? - Không, tôi không có gia đình. Tôi định hỏi tiếp xem Varens có quan hệ với bà như thế nào, nhưng lại thôi vì chợt nhận ra rằng hỏi nhiều quá là thiếu lịch sự, với lại trước sau thì tôi cũng biết cả thôi. - Tôi rất vui, – người phụ nữ ngồi đối diện tôi rồi ôm con mèo đặt lên đầu gối và tiếp tục – tôi rất vui vì cô đã tới. Cuộc sống rồi sẽ rất thú vị khi có thêm một người bạn ở bên cạnh. Tất nhiên là ở đây bao giờ cũng thú vị, vì Thornfield là một tòa lâu đài cổ rất đẹp; có thể là mấy năm gần đây, nó không được chú ý đến, nhưng dẫu sao cũng vẫn là một nơi đáng quý trọng. Tuy nhiên, cô biết đấy, về mùa đông thì dù có sống ở những nhà đẹp đến mấy người ta vẫn cảm thấy buồn vì cảnh hoàn toàn đơn độc. Tôi nói đơn độc… vì Leah, một cô gái chịu thương chịu khó, còn John và vợ anh cũng là những người rất đứng đắn, nhưng họ vẫn chỉ là những người giúp việc, không thể nào chuyện trò bình đẳng với họ được. Tôi luôn phải giữ khoảng cách với họ, nếu không sẽ chẳng còn uy quyền gì nữa. Mùa đông vừa rồi (nếu như cô còn nhớ thì đó là một mùa đông khắc nghiệt, lúc trời không có tuyết thì cũng lại có mưa gió), ngoài người bán thịt và người đưa thư ra, chẳng có ma nào thèm vãng lai đến ngôi nhà này suốt từ tháng Mười một cho tới tháng Hai. Tôi cảm thấy buồn đến não lòng khi cứ phải ngồi ru rú một mình hết đêm này qua đêm khác. Thỉnh thoảng tôi cũng gọi con Leah tới đọc một cái gì đó cho đỡ buồn, nhưng tôi không nghĩ con bé khốn khổ ấy lại thích cái công việc này cho lắm; nó có đọc cho tôi một lúc thì cũng chỉ là miễn cưỡng thôi. Mùa


xuân và mùa hè thì còn dễ chịu một tí; ánh nắng và ngày dài làm cho không khí thay đổi nhiều. Và rồi đúng vào dịp đầu thu này, cô bé Adela Varens cùng với chị bảo mẫu tới đây. Đứa bé làm nhà cửa vui hẳn lên. Bây giờ có thêm cô, tôi lại càng thấy vui hơn. Lòng tôi như ấm hẳn lên khi được nghe những lời nói chân thành của người đàn bà đáng quý ấy. Tôi kéo ghế ngồi gần bà thêm một chút, và ngỏ với bà ước nguyện chân thực của mình là sẽ làm cho bà dễ chịu như bà mong đợi. - Nhưng tôi sẽ không giữ cô ngồi đây mãi thế này đâu, – bà Fairfax nói – sắp mười hai giờ đêm rồi còn gì. Đi cả ngày trời, chắc là cô mệt lắm. Nếu chân cô ấm rồi thì tôi sẽ đưa cô tới một căn phòng ngay cạnh phòng tôi. Đó chỉ là một căn buồng nhỏ nhưng tôi tin chắc cô sẽ thích nó hơn những căn phòng lớn ở đằng trước nhà. Dĩ nhiên là đồ đạc ở những phòng đó sang trọng hơn, nhưng không khí lại buồn tẻ và hiu quạnh lắm, ngay cả tôi cũng chẳng bao giờ ngủ trong các phòng ấy. Tôi cảm ơn bà vì sự lựa chọn chu đáo ấy; cảm thấy mình thực sự mệt nhọc sau một chuyến đi dài nên tôi ngỏ ý sẵn sàng lui về nghỉ. Bà cầm cây nến dẫn tôi ra khỏi phòng. Trước hết, bà ra kiểm tra xem cửa phòng lớn đã khóa chưa rồi mới rút chìa khóa khỏi ổ và bước lên gác. Bậc cầu thang và các tay vịn đều được làm bằng gỗ sồi, cửa sổ cầu thang được làm rất cao và có chấn song hoa. Ô cửa này cùng với dãy hành lang dài, có cửa thông vào các phòng ngủ khiến cho ngôi nhà giống như một nhà thờ hơn là một ngôi nhà riêng. Không khí lạnh toát như trong nhà mồ bao trùm khắp hành lang và cầu thang, gợi nên một ý nghĩ về một không gian mênh mông và hẻo lánh. Nhưng cuối cùng, khi được dẫn vào phòng, tôi lại cảm thấy rất thích thú vì căn phòng xinh xắn có những đồ đạc thông thường hợp thời. Sau khi bà Fairfax chào tạm biệt với lời chúc một đêm tốt lành, tôi mới đóng cửa lại và khoan thai ngắm nhìn khắp căn phòng, gạt bỏ dần cái cảm giác huyền bí do căn phòng thênh thang, cái cầu thang âm u và dãy hành lang dài lạnh lẽo nọ để lại. Vậy là sau một ngày thể xác mệt mỏi, tinh thần lo lắng, cuối cùng tôi cũng đã đến chốn thiên đường an toàn. Lòng biết ơn trào dâng trong lòng, tôi quỳ xuống dâng Chúa lời cảm tạ, và trước khi đứng dậy, tôi cũng không quên cầu Chúa phù hộ và ban cho tôi một sức mạnh trên những nẻo đường sau này. Chiếc đivăng của tôi không có chông gai, căn phòng hiu quạnh của tôi không có gì đáng sợ, mệt mỏi nhưng mãn nguyện,


tôi chìm ngay một giấc ngủ say sưa. Khi tôi thức dậy, một ngày mới đã lên từ lúc nào. Căn phòng trở nên tươi tắn hơn khi những tia nắng mặt trời lọt qua ô cửa sổ qua bức rèm xanh lơ, đậu lên các bức tường phủ giấy và mặt sàn trải thảm. Trông chúng khác hẳn những mặt sàn trơ trọi và những bức tường nhem nhuốc ớ Lowood, khiến trong lòng tôi bỗng trào lên một cảm giác xốn xang. Hình thức bề ngoài thường có ảnh hưởng rất lớn đến tuổi trẻ. Tôi nghĩ một chương mới tươi đẹp hơn đang bắt đầu đến với cuộc đời tôi, một cuộc đời có những bông hoa thắm tươi và niềm vui hạnh phúc, nhưng cũng đầy chông gai và vất vả nhọc nhằn. Cảnh vật đổi thay, hy vọng chớm nở đã làm cho các năng lực cảm xúc trong con người tôi bừng tỉnh. Tôi không xác định chính xác các cảm xúc ấy đang chờ đợi một điều gì, chỉ biết rằng đó hẳn sẽ là một cái gì đó thật dễ thương, có thể không phải là dễ thương cho ngay ngày hôm ấy hoặc tháng năm ấy, mà cho một tương lai vô định. Tôi trở dậy và ăn mặc thật cẩn thận nhưng cũng thật giản dị – vì đơn giản tôi chỉ có những bộ đồ giản dị, hơn nữa tính tôi cũng rất thích gọn gàng. Ăn mặc luộm thuộm không phải là thói quen của tôi; ngược lại, bao giờ tôi cũng muốn mình dễ coi và được mọi người ưa nhìn nhất trong chừng mực có thể, cho dù tôi không phải là người có nhan sắc. Thỉnh thoảng cũng có lúc tôi lấy làm tiếc vì mình kém duyên, và khi đó tôi lại ước sao mình có một sắc má hồng, cái mũi thẳng và cái miệng hình trái anh đào nhỏ xinh. Tôi ước mình cao lớn hơn, chững chạc hơn với một thân hình đầy đặn hơn. Tôi cảm thấy thật bất hạnh vì sự bé nhỏ, xanh xao, với những nét thiếu cân đối lồ lộ của cơ thể mình. Vì sao tôi lại có những mong ước và nuối tiếc như vậy? Thật là khó nói, vì chính bản thân tôi cũng không thể hiểu rạch ròi được vấn đề, nhưng tôi có một lý lẽ – một lý lẽ lôgích và tự nhiên hẳn hoi. Tuy nhiên, khi đã chải đầu thật suôn và mặc một chiếc áo váy đen – ít ra trông cũng vừa vặn gọn gàng – và cài một chiếc cổ áo xếp nếp trắng tinh, tôi thấy mình cũng đáng mặt ra tiếp kiến bà Fairfax, và ít nhất cô học trò mới của tôi cũng không đến nỗi chùn bước vì ác cảm ban đầu đối với tôi. Sau khi mở toang ô cửa sổ và thấy các thứ trên bàn trang điểm đã được xếp dọn ngăn nắp gọn gàng rồi, tôi bạo dạn bước ra ngoài. Qua dãy hành lang dài trải thảm, tôi bước xuống những bậc thang gỗ sồi nhẵn bóng, rồi bước ra phòng lớn và dừng lại một phút ngắm mấy bức tranh treo trên tường (tôi vẫn nhớ một bức vẽ một người đàn ông mặc áo giáp, có vẻ mặt thật dữ tợn, và một phụ nữ tóc điểm phấn, cổ đeo một chuỗi hạt


ngọc), một ngọn đèn đồng buông xuống từ trần nhà, một chiếc đồng hồ lớn vỏ gỗ sồi đã chuyển màu đen bóng như sừng, được chạm trổ rất kỳ dị. Tất cả với tôi đều toát lên một vẻ uy nghi và thâm nghiêm. Cửa phòng – một nửa lắp kính – vẫn để ngỏ. Tôi bước qua ngưỡng cửa. Đó là một buổi sáng mùa thu đẹp trời; nắng sớm mai chiếu những tia sáng lung linh lên những lùm cây đã nhuốm vàng và những cánh đồng quê còn vương lại chút màu xanh. Tôi nhẹ bước trên thảm cỏ, ngước mắt nhìn mặt trước tòa nhà: một ngôi nhà ba tầng, không rộng nhưng cũng không thể nói là nhỏ. Hẳn đó phải là trang viên của một người lịch sự, chứ không phải lâu dài của một nhà quý tộc. Các lỗ châu mai quanh tường tạo cho ngôi nhà một vẻ thật mỹ miều. Nền màu xám của mặt trước ngôi nhà làm nổi bật một bầy quạ đang bay lượn loạn xạ với những tiếng kêu quang quác. Chúng sà cả xuống một bãi cỏ khá rộng có những bụi cây gai lớn cổ thụ, cứng cáp, có nhiều mấu mắt, tán rộng như [19] những cây sồi. Có lẽ cái tên Thornfield của ngôi nhà được xuất phát từ những bụi cây này. Xa hơn nữa là những ngọn đồi: chúng không cao như những ngọn đồi ở quanh Lowood, không nhiều sỏi đá bằng và cũng không giống như một bức tường rào ngăn cách với thế giới sống động bên ngoài. Tuy nhiên, chúng vẫn chỉ là những ngọn đồi côi cút âm thầm, và dường như chúng làm cho Thornfield bị biệt lập đến nỗi tôi cứ tưởng không thể có một thị trấn nhộn nhịp như Millcote ở ngay bên cạnh. Quả là có một xóm nhỏ, với những mái nhà nhấp nhô ẩn hiện giữa các lùm cây, nằm chênh chếch bên một sườn đồi. Nhà thờ xóm – nằm gần Thornfield hơn – đỉnh tháp cổ kính nhìn qua một gò đồi, giữa ngôi nhà và những lớp hàng rào. Tôi đang mải thưởng ngoạn phong cảnh yên tĩnh, hít thở cái không khí thanh bình mát mẻ, thích thú lắng nghe tiếng kêu của bầy quạ và nghĩ bụng một người đàn bà nhỏ bé, cô độc như bà Fairfax mà ở đây thì thật là quá rộng, thì bà chợt hiện ngay trước cửa. - Chà! Đã ra ngoài này rồi kia à? – Bà nói. – Tôi thấy cô cũng là người dậy sớm đấy chứ. Tôi bước lại gần bà đón nhận một nụ hôn và cái bắt tay thân ái. - Cô thích Thornfield đấy chứ? – Bà hỏi. Tôi trả lời rằng tôi rất thích. - Ừ, đây quả là một nơi rất đẹp, nhưng tôi chỉ sợ nó sẽ bị bỏ mặc mà không có sự chăm nom, trừ phi ông Rochester đến ở thường xuyên, hoặc ít nhất cũng phải chịu khó về thăm nom hơn, bởi những ngôi nhà lớn và những


khuôn viên đẹp lúc nào cũng cần sự có mặt của người chủ. - Ông Rochester à! – Tôi thốt lên. – Ông ấy là ai thế ạ? - Là chủ nhân của Thornfield. – Bà điềm nhiên trả lời. – Thế cô không biết tên ông ấy là Rochester à? Dĩ nhiên tôi không biết – tôi chưa hề nghe nói đến ông ta, vậy mà người đàn bà luống tuổi ấy nói cứ như thể ai cũng biết sự có mặt trên đời của ông ta không bằng. - Vậy mà tôi cứ nghĩ Thornfield là của bà kia đấy, – Tôi nói tiếp. - Của tôi ấy à? Chúa ban phước cho cô! Chết thật, ai lại nghĩ thế! Là của tôi? Tôi chỉ là một quản gia – quản lý thôi. Thực tình mà nói, tôi cũng có họ xa về đằng nhà ngoại với ông Rochester, hay nói đúng hơn, ông nhà tôi mới là người có họ với ông ấy. Nhà tôi là mục sư của cái làng có tên là Hay nằm trên lưng ngọn đồi kia kìa – và nhà thờ nằm gần dãy hàng rào ấy chính là của ông ấy đấy. Bà cụ sinh ra ông Rochester là người họ Fairfax, chị em họ xa với ông nhà tôi. Nhưng tôi chẳng bao giờ quan tâm đến chuyện họ hàng cả, bởi thực ra nó chẳng có nghĩa lý gì đối với tôi. Tôi luôn tự coi mình như một người quản gia bình thường. Ông chủ bao giờ cũng đối xử tử tế với tôi, và chỉ cần thế là đủ. - Thế còn cô bé… học trò của tôi? - Nó là con nuôi của ông Rochester. Ông ủy thác cho tôi tìm cho nó một cô giáo. Tôi nghĩ có lẽ ông ấy định dạy bảo nó ngay trong quận nhà. Kìa, con bé đến kia kìa. Nó đi cùng với chị “vú” – nó vẫn gọi chị bảo mẫu như vậy đấy. Vậy là điều bí ẩn đã được giải thích: bà quả phụ nhỏ nhắn, tử tế này không phải là một bà lớn nào cả, mà chỉ là một người sống phụ thuộc như tôi. Nhưng không phải vì thế mà tôi xem thường bà. Trái lại, tôi còn cảm thấy dễ chịu hơn bao giờ hết. Sự bình đẳng giữa bà và tôi là có thực chứ không phải là sự hạ cố của bà. Như vậy thì càng tốt, bởi địa vị của tôi càng được thoải mái hơn. Tôi đang nghĩ về khám phá của mình thì một cô bé chạy ào qua bãi cỏ, theo sau là một chị hầu gái. Tôi ngắm nhìn đứa học trò của mình. Hình như lúc đầu nó không chú ý đến sự có mặt của tôi. Đó là một cô bé khoảng bảy


tám tuổi, dáng người mảnh khảnh, khuôn mặt nhỏ nhắn và hơi xanh, mái tóc dày buông xuống ngang lưng. - Chào Adèle, bà Fairfax nói – đến chào cô ấy đi, cô giáo đấy; cô ấy sẽ giúp cô sau này nên người đấy. Cô bé chạy lại gần chúng tôi. - C’est là, ma gouvernante? - Mais oui, certainement!

[20]

– Cô bé chỉ tôi và hỏi chị bảo mẫu.

[21]

- Họ là người nước ngoài à? Tôi ngạc nhiên hỏi khi nghe thấy hai người nói tiếng Pháp. - Chị bảo mẫu là người ngoại quốc, còn Adéle sinh ở lục địa. Tôi tin rằng khoảng sáu tháng trước, con bé chưa hề bao giờ rời khỏi lục địa. Khi mới đến đây, nó không biết một chữ tiếng Anh bẻ đôi, nhưng bây giờ nó đã bập bõm được một ít. Thấy tôi nghe không hiểu, nó đá lẫn cả tiếng Pháp vào. Nhưng tôi tin là cô cũng dễ hiểu thôi. Cũng may tôi có thuận lợi là đã được học tiếng Pháp do chính một cô người Pháp dạy và tôi cũng rất chịu khó rèn kỹ năng bằng cách đối thoại với bà Pierrot mỗi khi có dịp. Hơn nữa, suốt bảy năm trời, ngày nào tôi cũng học thuộc lòng một bài khóa tiếng Pháp. Sự chịu khó luyện cách phát âm và cố gắng bắt chước giọng cô giáo dạy tiếng Pháp đã mang lại cho tôi một trình độ nhất định, có thể nói nhanh và chính xác thứ tiếng đó. Bởi vậy, khi tiếp xúc với Adéle, tôi đã không hề bị bối rối. Adéle bắt tay tôi khi đã biết tôi là cô giáo của nó. Lúc dắt cô học trò vào ăn điểm tâm, tôi nói với nó vài câu bằng tiếng Pháp. Lúc đầu, nó chỉ đáp lại vắn tắt, nhưng khi đã ngồi vào bàn và ngước đôi mắt to màu hạt dẻ dò xét tôi đến mươi phút, cô bé đột nhiên tuôn ra một tràng: - A! – Nó kêu bằng tiếng Pháp. – Cô nói tiếng của em không kém gì ông Rochester. Em có thể nói chuyện với cô như nói với ông ấy, và cả Sophie cũng sẽ có thể nói với cô như vậy. Chắc là chị ấy sẽ thích lắm, vì ở đây chẳng ai hiểu chị ấy nói gì. Bà Fairfax hoàn toàn là một người Anh. Còn Sophie là vú nuôi của em. Chị ấy cùng em vượt biển trên một chiếc tàu lớn có ống khói phun mù mịt! Em và chị Sophie bị say sóng, cả ông Rochester cũng vậy. Ông


Rochester nằm trên một chiếc ghế sôfa trong một gian phòng xinh xắn được gọi là phòng khách, còn Sophie và em thì nằm trên những chiếc giường nhỏ tẹo kê ở chỗ khác. Em suýt bị ngã vì chiếc giường nhỏ như một cái giá sách. À, cô… cô tên là gì ạ? - Eyre, Jane Eyre. - Aiire à? Eo ôi, tên khó đọc quá! Thế là vào một buổi sáng còn chưa có ánh nắng mặt trời, tàu chúng em cập bến một thành phố lớn – một thành phố khổng lồ, có những ngôi nhà ám khói đen sì, khác hẳn cái thành phố xinh xắn sạch sẽ nơi em ra đi. Ông Rochester bế em trong tay, bước lên phiến gỗ bắc làm cầu vào bờ, còn Sophie đi theo sau. Tất cả chúng em đi xe ngựa đến một ngôi nhà thật đẹp và rộng, rộng hơn ngôi nhà này nhiều, gọi là khách sạn. Chúng em ở đây đến gần một tuần lễ. Em và Sophie ngày ngày vẫn đến một nơi cây cối um tùm gọi là công viên. Ở đấy nhiều trẻ con lắm nhé, còn có cả một cái chuồng lớn nhốt những con chim rất đẹp, em toàn vứt những mẩu bánh cho chúng nó ăn thôi. - Cô bé nói nhanh như thế liệu cô có hiểu được gì không? – Bà Fairfax hỏi. Tôi hiểu hết, vì tôi cũng đã quen nghe bà Pierrot nói rất nhanh. - Tôi định bảo cô thử hỏi nó một vài câu về cha mẹ nó xem sao, – bà Fairfax nói tiếp – bởi tôi chẳng hiểu là nó có còn nhớ gì đến họ không? - Adéle à, – tôi hỏi – thế em sống với ai trong cái thành phố xinh đẹp mà em vừa nói? - Trước đây, em ở với mẹ, nhưng rồi mẹ lại đi theo Đức mẹ đồng trinh. Mẹ thường dạy em múa hát và ngâm thơ. Có rất nhiều ông bà sang trọng tới thăm mẹ em, và em thường múa cho họ xem hoặc ngồi vào lòng họ hát cho họ nghe. Em rất thích được như vậy. Bây giờ em hát cho cô nghe nhé? Thấy cô bé đã xong bữa điểm tâm, tôi bèn cho phép nó trổ tài một chút. Nó nhảy khỏi ghế và xà vào lòng tôi, rồi nghiêm trang chắp hai bàn tay nhỏ xíu trước ngực, hất mái tóc ra sau, ngước mắt nhìn lên trần nhà và bắt đầu hát một bài trong một vở nhạc kịch. Đó là lời than thở của một người đàn bà bị bỏ rơi, một kẻ sau khi oán trách người tình nhân bội bạc, đã kêu gọi lòng kiêu hãnh mang sức mạnh đến cho mình. Nàng muốn người hầu gái trang


điểm cho mình bằng những hạt cườm rực sáng nhất và những tấm áo dài lộng lẫy nhất, rồi ngay đêm ấy quyết đến gặp con người đểu giả kia tại một buổi khiêu vũ để chứng tỏ – bằng phong thái điềm nhiên của lòng kiêu hãnh – cho gã hiểu rằng hành động bạc bẽo của gã chẳng hề khiến nàng xúc động. Adèle biểu đạt thật hài hòa giai điệu trữ tình bằng cái vẻ ngây thơ của lứa tuổi mình. Nhưng để một đứa trẻ như nó hát những bài kiểu như vậy thì quả là hơi kỳ. Hát xong, nó nhảy tót xuống đất và nói: “Thưa cô, bây giờ em sẽ đọc cho cô nghe một bài thơ nhé.” Nó chuẩn bị tư thế và bắt đầu bài La Ligue des rats, fable de la [22] Fontaine . Nó đọc và rất chú ý đến cách ngắt câu, nhấn từ, luyến giọng và thể hiện cử chỉ điệu bộ rất không hợp với lứa tuổi. Điều đó chỉ chứng tỏ một điều là con bé đã được dạy bảo thật công phu. - Có phải mẹ em đã dạy em bài thơ đó không? – Tôi hỏi. - Vâng, mẹ em thường chỉ đọc bài ấy như thế này: “ Qu’avaez vous donc? [23] Lui dit un de ces rats; parlez !” Mẹ còn bảo em giơ tay lên… thế… thế… để nhắc em phải lên giọng đọc lúc đọc câu hỏi. Bây giờ em múa cho cô xem nhé? - Thôi, sau này em múa cũng được, nhưng sau khi mẹ em đi rồi, như em vừa nói đấy, thì em sống với ai? - Với bà Frédéric và chồng bà ấy. Bà trông nom em, nhưng không có họ hàng gì với em cả. Em nghĩ chắc bà ấy nghèo, vì nhà bà không đẹp như nhà của mẹ em. Em ở đấy không lâu, vì ông Rochester hỏi em có muốn theo ông về ở bên nước Anh không, và em đã trả lời có, vì em còn biết ông Rochester trước cả bà Frédéric cơ. Ông Rochester lúc nào cũng tử tế với em, cho em toàn quần áo và đồ chơi đẹp lắm. Nhưng cô biết đấy, ông ấy chẳng giữ lời gì cả. Ông ấy mang em sang nước Anh rồi lại bỏ đi một mình, và chẳng lúc nào em thấy mặt ông ấy đâu cả. Sau bữa điểm tâm, tôi và Adèle rủ nhau vào phòng thư viện. Có vẻ như ông Rochester có ý bảo lấy căn phòng này làm phòng học. Hầu hết các cuốn sách đều được cất trong tủ kính khóa kín, nhưng vẫn còn một ngăn để ngỏ những cuốn sách cần cho trình độ sơ đẳng, rồi mấy bộ về văn chương, thơ, tiểu sử, truyện phiêu lưu và vài quyển tiểu thuyết… Tôi đoán chắc rằng ông Rochester quan niệm rằng đó là tất cả những thứ cần thiết cho một gia sư.


Thú thực là lúc này tôi cũng cảm thấy thế là đầy đủ cho mình, vì so với số kiến thức ít ỏi mà tôi có thể thu lượm trong vài cuốn sách mà tôi mang đi từ Lowood, thì ngăn sách kia cũng giống như cả một mùa gặt đầy hứa hẹn cho giải trí và tri thức. Trong phòng còn đặt một chiếc dương cầm mới tinh có chất lượng âm thanh hảo hạng, một cái giá vẽ và hai quả địa cầu. Tôi thấy tuy Adèle là đứa hơi lười, nhưng cũng dễ bảo. Nó chưa có thói quen chuyên tâm đều đặn tới bất cứ việc gì. Tôi cảm giác nếu cứ ép con bé ngay từ đầu là không khôn khéo. Bởi vậy, khi đã nói chuyện rất nhiều với nó và kèm nó học chiếu lệ một chút, tôi bèn cho phép nó về với chị bảo mẫu, hơn nữa trời cũng sắp trưa rồi. Còn lại một mình, tôi định phác phác một vài bức tranh cho nó học. Lúc tôi đang đi lên gác lấy chiếc cặp và bút chì thì bà Fairfax gọi lại: “Tôi đoán buổi làm việc sáng nay của cô chắc là xong rồi.” Bà đang đứng trong một căn phòng cửa mở. Nghe tiếng bà gọi, tôi quay gót bước vào. Đó là một căn phòng rộng và thâm nghiêm, rèm cửa và vải bọc ghế bành đều màu đó, sàn trải thảm Thổ Nhĩ Kỳ, tường dán gỗ, ô cửa sổ rộng gắn những tấm kính đã ngả màu, trần nhà cao vút đắp phù điêu khá tinh xảo. Bà Fairfax đang phẩy bụi cho những chiếc bình đá đỏ đặt trên chiếc tủ bát đĩa. - Căn phòng đẹp ghê nhỉ! – Tôi thốt lên và ngắm nghía khắp phòng. Quả thực là chưa bao giờ tôi được chiêm ngưỡng một căn phòng nào uy nghi bằng nửa như thế này. - Vâng, đây là phòng ăn. Tôi vừa phải mở cửa để cho ánh nắng lọt vào và cho nó thoáng một chút, vì trong những gian phòng ít có hơi người, cái gì cũng ẩm ghê cơ. Còn phòng khách đằng kia thì chẳng khác nào một cái nhà mồ. Bà chỉ cho tôi một chiếc cửa vòng cung lớn tương hợp với ô cửa sổ, có treo rèm nhưng đã được vén lên. Bước qua hai bậc rộng trước vòm cửa và nhìn vào bên trong, tôi ngỡ mình đang đứng trước một chốn tiên cảnh! Trước đôi mắt quê mùa của tôi là một căn phòng rộng, lộng lẫy và sang trọng, được chia làm hai gian. Cả hai đều trải thảm trắng tinh, trên mặt thảm dường như được trang trí bằng những tràng hoa óng ánh, trên trần có đắp nổi những chùm nho và lá nho trắng như tuyết, trái ngược với những chiếc ghế nằm và ghế tràng kỷ đỏ thắm thắm. Vật trang trí trên kệ lò sưởi đá sứ màu trắng nhạt là những đồ vật bằng thủy tinh Bôhêm loại sủi tăm mờ hoặc đỏ như hồng


ngọc, và giữa các ô cửa sổ là những tấm gương phản chiếu cái hình ảnh nhạt nhòa của các đồ vật màu tuyết và màu lửa. - Bà giữ những căn phòng này gọn gàng thật đấy, bà Fairfax ạ! – Tôi khen người quản gia. – Không cần dùng vải phủ mà vẫn cấm có thấy một hạt bụi nào, nếu không vì cái không khí lãnh lẽo trong phòng thì ai cũng có thể tưởng rằng hàng ngày phòng này vẫn có người ở. - Thế đấy, cô Eyre ạ, mặc dù ít khi ông Rochester về đây, nhưng đã về thì bao giờ cũng rất đột ngột và bất ngờ; tôi để ý rằng nếu cứ để vội vội vàng vàng sắp đặt đối phó với ông ấy về hoặc phủ vải lên các đồ đạc trong phòng thì thế nào ông ấy cũng sẽ rất bực mình. Vì vậy tôi nghĩ cứ giữ cho các phòng lúc nào sẵn sàng là tốt nhất. - Ông Rochester có phải là một người khó tính và ưa chính xác không? - Không hẳn thế, nhưng ông là một người có những sở thích và thói quen của tầng lớp trên. Lúc nào ông ấy cũng muốn mọi thứ đều phải được sắp đặt cho hợp với sở thích và thói quen ấy. - Bà có quý ông ấy không? Ông ấy có được mọi người yêu mến không? - Ồ, có chứ, họ nhà ông rất được kính nể ở đây. Từ lâu đời lắm rồi, tôi cũng chẳng nhớ nữa, hầu hết đất đai ở các vùng phụ cận đều thuộc dòng họ Rochester. - Vâng, nhưng nếu không bàn đến chuyện đất đai thì bà có thấy quý ông ấy không? Ông ấy có được mọi người yêu mến bởi chính con người của ông ấy không? - Tôi chẳng có lý do gì để không quý mến ông ấy cả, và tôi tin rằng những người thuê đất của ông cũng luôn coi ông là một điền chủ hào phóng và công bằng; nhưng ông chẳng sống gần gũi với họ đâu. - Thế tính ông ấy không có gì đặc biệt à? Tóm lại, tính cách ông ấy ra sao? - Chà! Tôi cho rằng tính cách ông ấy chẳng có gì đáng chê trách. Có thể là ông hơi đặc biệt một chút. Ông đi nhiều, và biết rất nhiều nơi trên thế giới, tôi tin là vậy. Tôi dám nói ông ấy là một người thông minh khéo léo, nhưng thực tình tôi cũng ít khi nói chuyện lâu với ông.


- Bà bảo ông ấy đặc biệt là sao ạ? - Tôi không rõ – không dễ tả đâu – chẳng có gì nổi bật cả, nhưng khi nào nói chuyện với ông ấy cô sẽ thấy. Không phải lúc nào cô cũng có thể biết là ông ấy hài lòng hay phật ý, nói chơi hay nói nghiêm túc. Tóm lại, cô khó có thể hiểu hết được con người ông ấy… ít nhất là tôi thấy mình như vậy. Nhưng chẳng hề gì đâu, ông ấy là một ông chủ rất tốt mà. Đó là tất cả những gì tôi đã moi được từ bà Fairfax về ông chủ của bà và cũng là ông chủ của tôi. Hình như trên đời này vẫn có những người chẳng có khái niệm gì về cách mô tả một tính cách, hoặc cách quan sát và miêu tả những nét độc đáo của một người hay một sự vật. Rõ ràng người đàn bà chân chất kia phải thuộc vào loại người này. Các câu hỏi của tôi khiến bà lúng túng và không nói rõ thêm được gì. Trong con mắt bà thì ông Rochester chỉ là ông Rochester, một người thượng lưu, một vị địa chủ – không hơn không kém. Bà chẳng việc gì phải tìm hiểu xa hơn. Rõ ràng là bà rất ngạc nhiên khi thấy tôi cứ gặng hỏi cặn kẽ hơn về nhân thân ông chủ. Khi chúng tôi ra khỏi phòng ăn, bà đề nghị dẫn tôi đi xem khắp mọi nơi trong tòa nhà. Tôi theo bà lên gác rồi lại xuống gác, trong lòng không khỏi thầm thán phục vì thấy chỗ nào cũng ngăn nắp và sạch đẹp. Tôi nhận thấy các phòng rộng phía mặt tiền có vẻ đặc biệt bề thế hơn, còn mấy phòng trên tầng ba, mặc dù thấp và tối, cũng đáng chú ý vì cái vẻ cổ kính của chúng. Các đồ đạc bày dưới nhà, một khi bị lỗi mốt sẽ dần dần được chuyển lên đây. Thứ ánh sáng yếu ớt lọt qua các ô cửa nhỏ cũng đủ chiếu rõ những khung giường cổ hàng trăm năm, rồi những chiếc tủ gỗ sồi hay gỗ gụ được trạm khảm bằng đủ các hình thù kỳ lạ – những cành lá cọ và đầu các vị thiên sứ – trông giống như những chiếc hòm dựng pháp điển gốc của người Do Thái; những hàng ghế tôn nghiêm có lưng tựa cao và hẹp; những chiếc ghế đẩu trông còn cổ xưa hơn, trên đệm chỉ còn mờ mờ dấu vết của những bức hình thêu tay từ hai thế kỷ trước. Mọi di vật đều góp phần làm cho tầng ba của lâu đài Thornfield mang dáng vẻ của một chốn thuộc về thời xa xưa, một ngôi đền của kỷ niệm. Ban ngày, tôi rất thích cái câm lặng, u buồn và những hình bóng kỳ dị của chốn ẩn dật này, nhưng chắc là tôi chẳng muốn nghỉ đêm ở đây, trên những chiếc giường rộng thênh và nặng nề kia. Có mấy chiếc kê sau những tấm cửa gỗ sồi; những chiếc chiếc còn lại bị phủ kín bởi những tấm trướng cổ của Anh, tấm nào tấm nấy đều thêu những bông hoa xa lạ, những bóng chim cổ quái và những hình người kỳ dị nhất. Tất cả những hình thù


đó, nếu nhìn dưới ánh trăng nhợt nhạt, hẳn sẽ quái đản lắm. - Mấy người giúp việc có ngủ trong các phòng này không? – Tôi hỏi. - Không, họ ngủ ở dãy phòng nhỏ hơn phía sau nhà, chẳng bao giờ có người ngủ ở đây cả. Có thể nói rằng nếu ở lâu đài Thornfield này mà có ma, thì đây chính là chỗ nó ám. - Tôi cũng nghĩ thế, vậy ở đây không có ma chứ? - Tôi chưa nghe nói là có bao giờ. – Bà Fairfax mỉm cười trả lời tôi. - Thế cũng không có chuyện ma nào được lưu truyền lại à? Chuyện đồn đại hoặc truyền thuyết ấy? - Tôi tin là không. Nhưng cũng nghe người ta bảo rằng trước kia, những người Rochester vẫn được coi là một dòng họ hung tợn chứ không hề thầm lặng, có lẽ vì thế mà bây giờ họ mới lặng lẽ yên nghỉ dưới mồ đấy. - Vâng, thường là sau cuộc đời dữ dội, người ta lại nằm yên ở thế giới bên kia. – Tôi khẽ nói. – Bà định đi đâu thế? – Tôi hỏi khi thấy bà bước ra ngoài. - Lên sân thượng, cô có muốn lên đấy ngắm phong cảnh không? Tôi theo bà bước lên một chiếc cầu thang rất hẹp dẫn tới một phòng xép nhỏ, rồi trèo thang chui qua một ô cửa hẹp ra mái nhà. Bây giờ tôi đã đứng ngang tầm với lãnh địa của bầy quạ và có thể nhìn rõ tổ chúng. Đứng tì vào lỗ châu mai nhìn xuống phía dưới xa tắp, tôi thấy cảnh dưới mặt đất trông như một bức họa đồ; thảm cỏ non tơ mượt như nhung viền sát nền tường xám xịt của tòa nhà; cánh đồng, rộng mênh mông như một công viên, mọc đầy những cây cổ thụ; cánh rừng âm u úa vàng bị chia cắt bởi một lối đi nhỏ phủ đầy rêu phong, trông còn xanh hơn cả những vòm cây; nhà thờ nằm ngoài hàng rào, con đường và những ngọn đồi lặng lẽ, tất cả đều ngả bóng êm đềm dưới ánh thu vàng óng ánh; đường chân trời chạy dài dưới bầu trời xanh thẳm có đôi chỗ điểm thêm các đường vân màu trân châu. Cảnh vật không có gì lạ thường, nhưng không vì thế mà mất đi sự thú vị. Lúc đi xuống và chui qua ô cửa hẹp, tôi không nhìn rõ lối đi ở cầu thang. Căn phòng xép nằm sát mái tối như dưới nhà mồ, chẳng bù cho vòm trời thăm thẳm, những lùm cây, thảm cỏ, ngọn đồi xanh tươi dưới ánh nắng vàng mà tôi vừa đứng


ngắm. Bà Fairfax đi sau đóng cửa. Tôi mò mẫm ra khỏi căn phòng tối tăm và lần xuống chiếc cầu thang hẹp, rồi thơ thẩn dọc hành lang tiếp giáp cầu thang, ngăn giữa hai dãy phòng phía trước và phía sau của tầng ba. Đó là một dãy hành lang dài, hẹp, thấp và u tối, có duy nhất một ô cửa sổ nhỏ ở phía cuối. Các cửa phòng hai bên hành lang đều màu đen, cái nào cũng đóng im ỉm, trông giống như dãy hành lang trong tòa lâu đài của một con yêu Râu xanh nào đó. Tôi đang nhẹ bước trên dải hành lang u tối thì nghe thấy một âm thanh bất chợt vang lên xoáy thẳng vào tai tôi: một tiếng cười mơ hồ, kỳ quá, rành rọt, kiểu cách và giễu cợt. Tôi đứng lại, âm thanh ấy cũng vụt tắt, nhưng chỉ được một lát, nó lại chợt vang lên, thậm trí còn to hơn. Chuỗi tiếng cười vang lên man rợ như muốn đánh thức tất cả những căn phòng cô tịch, mặc dù nó chỉ được phát ra từ một phòng và tôi có thể chỉ rõ cảnh cửa đã phát ra thứ âm thanh ấy. - Bà Fairfax ơi! – Tôi gọi to, vì tôi đã nghe thấy tiếng chân bà bước trên cầu thang gác xép. – Bà có nghe thấy tiếng cười không? Ai đấy? - Chắc lại đứa gia nhân nào đấy thôi. – Bà trả lời. – Có khi là Grace Poole đấy. - Bà có nghe thấy không? – Tôi hỏi lại một lần nữa. - Có, nghe thấy rồi, thỉnh thoảng tôi vẫn được nghe nó cười như thế. Nó ngồi khâu ở một trong những căn phòng kia, có khi cả cô Leah cũng đến ngồi với nó. Lúc nào mà chúng nó chẳng làm ầm ĩ cả nhà lên. Tiếng cười lại vẳng lên, nhỏ hơn, ngắt quãng, rôi kết thúc bằng những tiếng rì rầm là lạ. - Grace! – Bà Fairfax gắt lên. Thú thực là tôi chẳng tin sẽ có một cô Grace nào đó trả lời, vì đó là một tiếng cười thê thảm, siêu thực mà tôi chưa từng được nghe. Không thể có chuyện ma quỷ hiện hình theo tiếng cười quái đản ấy, bởi bây giờ đang là buổi ban trưa, cả thời gian lẫn không gian nơi đây đều không thể làm ai sợ hãi, nếu không, tôi sẽ mê tín mà sợ phát khiếp. Song cảm giác ngạc nhiên


trước sự việc cũng đủ chứng tỏ một điều rằng tôi đúng là một con ngốc. Cánh cửa gần tôi nhất bỗng bật mở, một người hầu – một phụ nữ chừng ba bốn mươi tuổi, người vuông vức, tóc hung đỏ, mặt mũi thô kệch và khắc khổ – lù lù xuất hiện. Thật không còn sự xuất hiện nào lãng mạn và ma quái hơn như vậy! - Mất trật tự quá đấy, Grace ạ! – Bà Fairfax gắt gỏng. – Làm gì cũng phải biết điều một tí chứ! Grace cúi đầu đáp lễ rồi lại im lặng lui vào phòng. - Cô ta là người chuyên khâu vá và giúp chị Leah trong các công việc dọn dẹp; bả quả phụ nói tiếp – không phải là cô ta không có những điểm đáng trách, song cô ta cũng là người làm được việc. Mà này, sáng nay cô thấy cô học trò mới của mình thế nào? Cuộc nói chuyện bắt đầu quay sang Adèle cho đến lúc chúng tôi xuống đến tầng dưới sáng sủa và vui mắt hơn. Adèle chạy đến với chúng tôi trong phòng lớn và reo tướng lên: - Mesdames, vous êtes services! J’ai bien faim, moi!

[24]

Bữa ăn đã dọn sẵn chờ chúng tôi ở phòng bà Fairfax.



Chương 12 Dường như buổi đầu ở Thornfield đã hứa hẹn cho tôi một sự nghiệp phẳng lặng và sự hứa hẹn ấy có vẻ như không có gì trái ngược với cảnh vật và con người nơi đây. Bà Fairfax là người điềm tĩnh, bản chất tử tế, có văn hóa và thông minh vào loại trung bình, đúng như cái vẻ bề ngoài của bà. Còn học trò của tôi là một đứa trẻ hiếu động, được nuông chiều nên lắm lúc cũng tỏ ra ngang bướng. Nhưng khi được giao toàn quyền trông nom nó và nhờ chương trình dạy dỗ của tôi không bị ai can thiệp bừa bãi vào, tôi đã rèn cho con bé chừa hẳn cái tính đỏng đảnh và trở nên ngoan ngoãn, dễ bảo hơn. Adèle không có năng khiếu gì, không có nét tính cách gì đáng chú ý, cũng chẳng có ham muốn hoặc sở thích gì để vượt lên một đứa trẻ bình thường. Được cái nó cũng không mắc phải những khiếm khuyết và thói hư tật xấu nào để rồi thua chị kém em. Adèle thường nhau nhảu nghe lời tôi và đã có những tiến bộ vừa phải. Nó quý tôi nhiệt thành nhưng không sâu sắc lắm; song cũng phải nói rằng cái tính hồn nhiên, nhí nhảnh và luôn cố gắng làm vui lòng tôi của nó đã khiến tôi có cảm giác về một sự ràng buộc nào đó đủ để khiến chúng tôi muốn ở bên nhau. Tiện thể cũng xin được nói luôn rằng điều này có thể gợi lên những ý nghĩ lãnh đạm ở những kẻ ủng hộ cái thuyết trịnh thượng về bản chất như thiên thần của trẻ nhỏ và về bổn phận của những người dạy dỗ chúng là phải kính trọng sùng bái chúng. Nhưng tôi viết không phải để mơn trớn thói vị kỷ của những bậc làm cha làm mẹ, để hưởng ứng thói đạo đức giả hoặc ủng hộ sự lừa dối. Tôi chỉ nói đúng sự thực. Trong thâm tâm, tôi cảm thấy lo lắng cho hiện trạng và sự tiến bộ của Adèle. Tôi thầm lặng yêu quý Adèle bé bỏng và tôn trọng bài Fairfax vì sự đứng đắn, tâm hồn nhân hậu và tính điềm đạm của bà. Ai muốn trách tôi thì trách, tôi vẫn phải nói thêm rằng thỉnh thoảng, khi tha thẩn ở ngoài vườn một mình, khi đến gần hàng rào nhìn ra ngoài đường, hoặc khi leo lên tầng ba mở cửa xép lên sân thượng – trong lúc Adèle đi với chị bảo mẫu và bà Fairfax đang làm mứt thạch trong buồng – để phóng tầm mắt ra xa, nơi có những cánh đồng, những ngọn đồi trùng điệp và đường chân trời mờ ảo, tôi lại thầm ước có ngày mình được tới một thế giới nhộn nhịp, những đô thành, những vùng sôi động mà tôi đã từng nghe nói đến nhưng chưa một lần được trông thấy. Tôi muốn mình từng trải hơn, được giao thiệp và làm quen với nhiều hạng người hơn ở đây, nơi nằm trong tầm


với này. Tôi đánh giá đúng những gì là tốt trong con người bà Fairfax, những gì là tốt ở Adèle, nhưng tôi vẫn tin rằng còn có những tấm lòng nhân hậu kiểu khác sinh động hơn, và tôi rất muốn sẽ có ngày được tận mắt chứng kiến những điều mình tin tưởng ấy. Ai trách tôi nhỉ? Chắc hẳn là rất nhiều người, và tôi sẽ bị gọi là một đứa bất mãn. Tôi chẳng thể làm gì khác được, vì bản chất của tôi là đứng ngồi không yên, thỉnh thoảng chính cái tính ấy đã làm khổ tôi. Và cách duy nhất tôi có thể tự an ủi mình những lúc như vậy là đi đi, lại lại trên hành lang tầng ba, nó giúp tôi cảm thấy mình yên tĩnh trở lại và thả hồn theo những ảo ảnh xán lạn hiện ra trước mắt giữa cảnh vật tĩnh mịch. Tôi cứ mặc cho con tim thổn thức rộn ràng, bởi nhịp đập ấy, dù có làm cho lòng tôi rối bời, nhưng lại khiến nó như được tiếp thêm sức sống. Và điều thú vị hơn cả là tôi có thể lắng nghe tự đáy lòng mình một câu chuyện không bao giờ có đoạn kết – một câu chuyện do trí tưởng tượng của tôi tạo ra và được kể mãi không thôi. Nó trôi qua gấp gáp với tất cả những biến cố, cuộc đời, ánh lửa hồng và những cảm xúc mà tôi mong muốn nhưng chưa thể có được trong sự tồn tại của mình. Thật vô ích khi nói rằng con người nên thỏa mãn với cuộc sống an phận thầm lặng, vì phàm đã làm người thì phải năng động, và nếu chưa năng động thì phải tìm cách mà tạo ra. Trê đời này có hàng triệu người cam chịu cảnh an bài hơn tôi, nhưng cũng có hàng triệu người âm thầm cưỡng lại số mệnh. Không ai biết ngoài những cuộc nổi loạn về chính trị còn có bao nhiêu cuộc nổi loạn khác đang lên men trong đám quần chúng sống trên chốn hồng trần này. Phụ nữ thường bị coi là những người quen an phận, nhưng thực ra học cũng cảm nghĩ y như những người đàn ông. Họ cần thể hiện những phẩm chất thiên phú của mình và cần có đất cho các nỗ lực của mình như những người anh em nam giới. Họ đau khổ vì những gò ép ác nghiệt, vì sự trì trệ tù túng như những người đàn ông phải đau khổ. Thật là hẹp hòi khi nói rằng phụ nữ thì chỉ nên quanh quẩn với chuyện bếp núc, khâu vá thêu thùa và dạo dương cầm. Chỉ những kẻ không biết nghĩ mới kết tội hoặc chê cười phụ nữ khi thấy họ cố gắng hoặc học giỏi để vượt ra ngoài những quan niệm thông thường về giới tính. Mỗi khi đứng một mình như vậy, chẳng hiếm khi tôi được nghe tiếng cười của Grace Poole, vãn là một chuỗi những tiếng ha, ha, trầm và chậm khiến tôi bủn rủn khi nghe thấy lần đầu tiên, rồi tiếp đó lại là những tiếng rì rầm lạ lùng, quái đản hơn cả tiếng cười của chị ta. Có những hôm chị hoàn


toàn câm lặng, nhưng cũng có những hôm tôi không sao hiểu nổi những âm thanh chị phát ra nữa. Thỉnh thoảng tôi lại gặp chị ta từ trong phòng bước ra, khi thì cầm cái chậu, khi thì cái khay, cái đĩa trên tay, đi xuống bếp rồi lại trở lên ngay; nhưng thường thì (vâng, thưa bạn đọc có tân hồn lãng mạn, xin lỗi vì đã kể lại sự thật không đâu vào đâu này!) tay cô ta bưng một bình bia đen. Sự xuất hiện của Grace bao giờ cũng phá tan sự tò mò về tiếng cười kỳ quái của chính chị ta. Nét mặt khắc khổ và trầm ngâm của chị ta chẳng có điểm nào đáng để người ta chú ý. Tôi đã mấy lần thử bắt chuyện nhưng chẳng ăn thua gì: chị ta là kẻ rất kiệm lời, có trả lời thì cũng cộc lốc khiến tôi cụt hứng ngay lập tức. Các thành viên khác trong lâu đài là anh John và vợ anh là chị Leah – người quét dọn nhà cửa, và Sophie – chị bảo mẫu người Pháp; họ đều là những người tử tế, nhưng không có gì đặc biệt. Với Sophie, tôi thường nói chuyện bằng tiếng Pháp, và thỉnh thoảng tôi lại hỏi thăm vài câu về quê hương chị. Nhưng cũng phải nói thật là về khiếu ăn nói, chị cũng lại là người rất kém: chị ta thường trả lời bằng những câu vô vị, lộn xộn như thể cố tình làm như vậy để tôi đừng hỏi nữa. Tháng Mười, tháng Mười một rồi Mười hai trôi qua. Mội buổi chiều tháng Giêng, bà Fairfax xin cho Adèle nghỉ học vì nó bị cảm lạnh. Trước cái vẻ rối rít của Adèle khi nghe thấy lời thỉnh cầu của bà quản gia – bộ dạng của cô bé khiến tôi nhớ lại hồi còn nhỏ, những ngày nghỉ đột xuất đối với tôi cũng thật quý giá – tôi đồng ý ngay vì nghĩ rằng mình làm vậy vào lúc này là đúng. Hôm ấy trời đẹp và lặng gió, dù rất lạnh. Thú thực là tôi cảm thấy hơi mệt vì từ sáng đến giờ cứ phải ngồi lì trong phòng thư viện. Tiện thể bà Fairfax vừa viết xong một lá thư muốn mang đi gửi, tôi liền đội mũ, mặc áo và ngỏ ý đến xóm Hay bỏ hộ bà. Được lóc cóc cuốc bộ hai dặm đường dưới chiều đông quả cũng là điều thú vị ra phết. Nhìn Adèle ngồi thọt lỏm trong ghế bành nhỏ cạnh lò sưởi trong buồng bà Fairfax, tôi lấy một con búp bê bằng nhựa (con búp bê tôi vẫn bọc bằng giấy thiếc để trong ngăn kéo) đưa cho nó chơi và một cuốn truyện để lúc nào nó thích thì xem, và sau khi đặt lên trán nó một nụ hôn để nhận được câu đáp lại: “Revenez biêntôt, ma bonne [25] amie, ma chère Mdlle Jeannette ”, tôi yên tâm lên đường. Mặt đất khô cứng, không gian tĩnh lặng như tờ, đường đi vắng tanh vắng ngắt; tôi bước thật nhanh cho người ấm lên, rồi lại đi chầm chậm lại để tận hưởng và lắng nghe cái thú vị đang bao trùm lên mình giữa cảnh trời mây


êm ả. Vậy mà cũng ba giờ chiều rồi, chuông nhà thờ vừa ngân lên ba tiếng đúng vào lúc tôi đi ngang qua tháp chuông. Cái quyết rũ mê hoặc của trời đất lúc này được tiềm ẩn trong cảnh chiều tà, dưới ánh nắng vàng ngả bóng liêu xiêu. Tôi đã đi cách Thornfield một dặm, trên một nẻo đường được ghi chép rằng có những đóa hồng dại nở rộ về mùa hè, có những cây hạt dẻ và cây dâu đen đậu quả về mùa thu, và bây giờ vẫn còn vài cây san hô nằm len lỏi giữa các bụi hồng và gốc táo gai. Nhưng thơ mộng nhất vẫn diễn ra vào mùa đông, khi con đường chìm trong cảnh cô liêu tuyệt đối, cỏ cây xơ xác không còn một chiếc lá trên cành. Nếu có một cơn gió thoảng thì cảnh vật nơi đây cũng không hề xao động, bởi chẳng còn một cây nhựa ruồi, một cành vạn niên thanh nào lao xao; những cây táo gai và những bụi hạt dẻ xác xơ vẫn im lìm như những hòn đá trắng trơ giữa đường. Xa xa, hai bên vệ đường, chỉ thấy toàn những cánh đồng bát ngát, không một bóng gia súc gặm cỏ, và họa hoằn lắm mới có vài chú chim nâu động đậy trên bờ giậu, nhưng trông chúng cũng chẳng khác gì mấy chiếc lá vàng quên chưa rụng. Cả đoạn đường đến xóm Hay đều dốc lên thoai thoải. Leo được nửa đường, tôi ngồi nghỉ trên một bục hàng rào gần cánh đồng. Kéo áo kín người, ủ tay vào bao, tôi không còn cảm thấy rét nữa, mặc dù trời vẫn lạnh thấu xương thịt, cứ nhìn lớp băng phủ trên mặt đường thì biết. Ngồi đây, tôi có thể nhìn xuống Thornfield. Tòa lâu đài có lỗ châu mai nổi bật giữa thung lũng xanh thẫm phía dưới chân tôi. Những cánh rừng và tổ quạ đen ngòm cũng hiện rõ trên nền trời tây. Tôi ngồi nán lại cho đến khi ánh chiều tà đổ bóng đỏ rực sau những lùm cây và bất giác quay lại nhìn về phương Đông. Trên đỉnh đồi tôi đang ngồi, vầng trăng nhô lên nhợt nhạt như một bóng mây, nhưng mỗi lúc một sáng dần. Chị Hằng Nga nghiêng nghiêng liếc nhìn xóm Hay lấp ló sau những tán lá cây có một làn khói lam tỏa ra từ mấy ống khói. Còn một dặm nữa mới đến nơi, nhưng tôi vẫn nghe thấy những tiếng rì rào nhè nhẹ của cuộc sống từ cái nơi tĩnh lặng hoàn toàn ấy. Giữa buổi chiều bình yên, bên tai tôi văng vẳng có tiếng róc rách cũng những dòng suối gần nhất, tiếng rì rầm của những dòng chảy xa nhất, chính xác ở đâu thì tôi không rõ; nhưng ở phía bên kia xóm Hay có rất nhiều ngọn đồi, vì thế nơi đó hẳn phải có nhiều dòng suối lượn qua. Rồi có một tiếng động thô bạo bất ngờ nổi lên phá tan chuỗi âm thanh róc rách, rì rào đều đều êm dịu đó, tiếng động tựa hồ rất xa nhưng cũng rất rõ: đó hẳn phải là tiếng những bước chân nặng nề, đúng hơn là tiếng gõ lộp cộp đều đều của kim khí xóa nhòa tiếng reo của những dòng chảy êm đềm.


Không gian tựa như trong bức tranh, cái bóng sừng sững của một khối đá lởm chởm, hoặc những thân sồi lớn xù xì gồ ghề, nổi bật lên như một cận cảnh làm mờ nhạt khoảng cách đến cái nền xanh thẳm của những ngọn đồi, cái nền đỏ chói của trời hoàng hôn cùng những đám mây ngũ sắc hòa quện vào nhau loang lổ. Tiếng động vẫn gõ những tiếng lộp cộp đều đều trên mặt đường đắp cao như bờ đê. Một ngựa đang tiến lại gần, nhưng tôi vẫn chưa nhìn thấy bóng dáng nó vì khúc quanh của con đường. Tôi đứng dậy khỏi chỗ ngồi, nhưng vì đường quá hẹp, nên lại phải ngồi xuống nhường lối cho ngựa đi qua. Hồi ấy tôi vẫn còn ngây ngô trẻ dại, nên đầu óc thường hay tưởng tượng ra những điều vừa tươi đẹp lại vừa u tối. Trong tôi còn nặng hồi ức về những câu chuyện mà các chị vú nuôi ngày xưa đã kể cho nghe và những câu chuyện phi lý vô nghĩa khác. Nhưng bây giờ, cũng vẫn với những câu chuyện hoang đường ấy, cái tuổi trưởng thành của tôi lại tiếp thêm một sức mạnh mới, một ý nghĩa sinh động hơn nhiều – điều mà tuổi thơ ấu không thể nào làm được. Ngồi nghe tiếng vó ngựa tiến lại gần và đợi nó hiện giữa ánh hoàng hôn, tôi chợt nhớ lại những câu chuyện mà chị Bessie đã kể cho tôi nghe ngày xưa, trong đó có chuyện kể về một bóng ma ở miền Bắc nước Anh, tên gọi là [26] “Gytrash” , thường hiện hình thành một con ngựa, con lừa hay con chó to và hay lảng vảng trên những đoạn đường vắng vẻ, đôi khi nó cũng bén mảng đến những khách bộ hành đi khuya, kiểu như con ngựa kia đang đến gần tôi vậy. Tiếng vó ngựa đã đến rất gần, nhưng tôi vẫn chưa trông thấy bóng dáng nó đâu cả. Rồi ngoài những tiếng nện lộp cộp đều đều, tôi còn nghe có tiếng chạy huỳnh huỵch bên hàng rào. Tôi đã nhận ra rồi: ngay trước mặt tôi, dưới những bụi hạt dẻ, một con chó đang lướt qua, đó là một con chó lớn có bộ lông đen vá trắng nổi bật giữa những lùm cây. Đích thị là cái lốt của Gytrash trong chuyện kể của Bessie rồi, trông nó lừng lững như một con sư tử, lông dài, đầu to tướng. Nhưng lạ thật! Nó chỉ lẳng lặng lướt qua tôi, thậm chí còn [27] chẳng buồn đứng lại giương đôi mắt dị thường lên nhìn tôi như tôi vẫn tưởng. Sự xuất hiện của con ngựa – một con ngựa to lớn lực lưỡng – ngay sau đó đã lập tức đánh tan ảo tưởng của tôi. Làm gì có chuyện có người cưỡi Gytrash kia chứ, lúc nào nó cũng chỉ đi có một mình thôi. Theo quan niệm của tôi thì lũ yêu tinh chỉ có thể hiện hình thành các con vật, chứ tuyệt nhiên không thể thành người được. Đây không thể là Gytrash, mà chỉ là một du


khách đi đường tắt về Millcote mà thôi. Đợi vị khách lướt qua, tôi mới tiếp tục lên đường. Nhưng chỉ được vài bước, tôi phải ngoái cổ lại vì một tiếng trượt chân và tiếng chửi đổng: “Đồ chết tiệt, biết làm thế nào bây giờ?”, tiếp đó là tiếng ngã đánh huỵch làm tôi chú ý. Cả người lẫn ngựa đều ngã lăn chiêng; họ bị trượt chân vì lớp băng phủ trên mặt đường. Con chó nhảy dựng ngược trở lại. Thấy chủ bị mắc kẹt và nghe tiếng con ngựa hý vang, nó liền sủa ầm lên, tiếng sủa gầm vang thật ương xứng với thân hình lừng lững của nó. Đáp lại nó là những tiếng vang vọng mãi không dứt từ mọi hang hốc núi đồi về chiều. Con chó lăng xăng đánh hơi quanh người và ngựa, rồi chạy đến chỗ tôi, đó là tất cả những gì nó có thể làm, bởi làm gì còn ai khác để mà cầu cứu kia chứ. Tôi nghe theo nó bước đến bên vị du khách, khi ông ta đang ra sức gỡ mình ra khỏi con ngựa. Nhìn ông ta cử động, tôi nghĩ chắc ông ta cũng không đến nỗi bị đau lắm, nhưng tôi vẫn hỏi: - Ông có bị thương không, thưa ông? Tôi không rõ ông ta có bị xây xát gì không, chỉ biết rằng ông ta đang chửi thề thì phải. Nhưng dù sao thì ông cũng đang làu bàu, nên không trả lời tôi ngay được. Tôi có thể làm gì giúp ông không, thưa ông? – Tôi hỏi một lần nữa. - Cô phải đứng sang một bên. – Ông ta vừa trả lời vừa nhỏm dậy, mới đầu là bằng hai đầu gối, sau đó mới đứng thẳng dậy được. Tôi đứng sang một bên theo ý ông ta. Tiếng thở hổn hển, tiếng chân chệch choạc, tiếng lách cách của dây dợ yên cương và những tiếng chó sủa ầm ĩ khiến tôi phải lùi lại mấy bước, Nhưng tôi không thể bỏ đi trước khi biết rõ kết cục của sự việc. Cuối cùng thì mọi chuyện cũng kết thúc, con ngựa đã đứng dậy được, con chó cũng im bặt sau tiếng quát “Pilot, câm ngay!”. Vị khách cúi xuống sờ sờ nắn nắn hai chân như muốn kiểm tra xem mình có việc gì không. Có vẻ như ông ta đã bị thương, bởi tôi thấy ông ta chợt dừng lại ở chỗ bệ gạch – chỗ tôi vừa đứng dậy – rồi ngồi bệt xuống. Có lẽ là muốn tỏ ra là người có ích, hoặc ít nhất cũng là kẻ thích ra tay giúp người khác, tôi nghĩ vậy, nên tôi bước lại gần và bảo ông ta: - Thưa ông, nếu ông bị thương và cần sự giúp đỡ, tôi có thể đi gọi một người nào đó, ở lâu đài Thornfield hoặc ở xóm Hay cũng được, về đây cho ông.


- Cảm ơn, tôi có thể tự đi được; tôi chỉ bị trật khớp chứ không bị gãy xương. – Người đàn ông trả lời và đứng dậy đi thử, nhưng kết quả là ông phải buột miệng thốt lên một tiếng “úi chà”. Những dấu tích của buổi ban ngày vẫn còn vương lại và ánh trăng sớm tròn vành vạnh giúp tôi nhìn khá rõ khuôn mặt người đàn ông. Ông ta khoác một chiếc áo choàng đi ngựa cổ viền lông thú, đính khuy thép. Dù không nhìn rõ từng đường tơ kẽ tóc, nhưng tôi vẫn nhận ra cái bộ dạng tổng thể của ông ta, một con người tầm thước, ngực nở nang, khuôn mặt toát lên một vẻ nghiêm nghị và khó hiểu, vầng trán nặng nề. Đôi mắt và hai lông mày nhíu lại cho thấy ông ta đang bực bội và tức giận. Trông ông ta đã qua cái thời trẻ trung, nhưng cũng chưa đến mức luống tuổi, có lẽ khoảng băm nhăm gì đó. Tôi không thấy sợ ông ta, nhưng cũng hơi dè chừng. Nếu ông ta là một anh chàng đẹp trai, trẻ trung quý phái như một vị anh hùng thì có lẽ tôi đã không dám đứng đấy mà hỏi lung tung và tự dưng đề nghị giúp đỡ vô duyên khiến ông ta bực dọc như thế. Trong đời, tôi chưa một lần được gặp và nói chuyện với một anh chàng trẻ tuổi đẹp trai nào. Tôi có lòng sùng bái và tôn kính một cách rất lý thuyết đối với sắc đẹp, sự thanh lịch, vẻ galăng và sự quyến rũ. Nhưng nếu có gặp một người đàn ông có đủ những phẩm chất như thế thật, thì chắc chắn tôi sẽ cảm thấy anh ta không thể hợp với bất cứ một nét gì trong con người tôi, và rồi tôi sẽ lại phải xa lánh anh ta như xa lánh ngọn lửa thiêu đốt hoặc bất cứ một cái gì khác chói lòa như vậy. Nếu khi tôi hỏi, người khách đi đường kia mỉm cười tươi tỉnh với tôi, cảm ơn tôi và vui vẻ từ chối sự giúp đỡ của tôi thì có lẽ tôi chỉ việc bỏ đi và cảm thấy chẳng cần phải quay lại hỏi thêm làm gì. Nhưng lạ thật, cái vẻ nhăn nhó, lỗ mãng của ông ta lại làm cho tôi thấy dễ chịu. Lúc ông ta vung tay ra hiệu cho tôi cứ việc đi, thì tôi lại đứng ì một chỗ và bảo: - Thưa ông, tôi nghĩ là mình không thể bỏ đi trong lúc trời tối, đường vắng vẻ như thế này được một khi chưa thấy ông ngồi lên mình ngựa. Nghe tôi nói vậy, ông ta ngước mắt nhìn tôi. Quả thực là đến bây giờ ông ta mới buồn đưa mắt về phía tôi. - Thiết tưởng nếu cô có một mái nhà ở quanh đây thì vào cái giờ này, cô đã về rồi mới phải chứ. Thế cô từ đâu đến? - Ngay phía dưới kia thôi, tôi chẳng sợ gì đi ngoài đường khuya như thế này vì đã có trăng. Tôi sẵn sàng chạy đến Hay tìm người giúp ông, nếu ông


muốn, thực ra tôi cũng đang định đến đó để bỏ một lá thư. - Cô ở ngay phía dưới kia? Cô định nói ở cái nhà có lỗ châu mai kia phỏng? – Ông ta chỉ tay về phía lâu đài Thornfield lúc này ngập tràn dưới ánh trăng bàng bạc, nổi bật lên giữa cánh rừng đen thẫm và bầu trời tây. - Vâng, thưa ông. - Tòa nhà đó là của ai? - Của ông Rochester. - Cô có biết ông Rochester không? - Không, tôi chưa bao giờ gặp ông ta. - Thế ông ta không ở đấy sao? - Không. - Cô có thể nói cho tôi biết hiện ông ta đang ở đâu không? - Tôi không thể. - Thế thì cô không phải là gia nhân ở đó, đúng không? Cô là… – Ông chợt im bặt, đưa mắt nhìn cách ăn mặt của tôi – vẫn chiếc áo choàng len màu đen và một chiếc mũ trùm cũng màu đen giản dị như mọi khi, chẳng có thứ nào giống với cách ăn mặc của người hầu gái của một quý bà. Thấy ông ta có vẻ vẫn lúng túng chưa đoán được tôi là hạng người nào, tôi bèn đỡ lời: - Tôi là một gia sư. - À, thì ra là cô giáo! – Ông ta nhắc lại. – Quỷ tha ma bắt tôi đi, thế mà tôi không nhớ ra! Cô giáo à! Ông ta lại trố mắt nhìn quần áo trên người tôi. Khoảng hai phút sau, ông ta nhỏm dậy bước thử, mặt nhăn nhó vì đau. - Tôi không thể bảo cô đi gọi ai cả, – ông ta nói – nhưng nếu là người tử tế như vậy, tự cô cũng có thể giúp tôi được ít nhiều đấy. - Vâng, thưa ông.


- Cô có cái ô nào cho tôi mượn làm gậy chống một lát? - Không có. - Vậy thì cô làm ơn ra cầm cương dắt con ngựa lại đây hộ tôi một chút; cô không sợ đấy chứ? Nếu để tự nhiên thì có lẽ tôi chẳng dám bén mảng lại gần con ngựa, nhưng vì ông tà nhờ, nên tôi đồng ý ngay… Tôi đặt bao tay xuống bệ gạch và tiến lại gần con ngựa cao lớn và tìm cách nắm lấy dây cương, nhưng con ngựa hung hăng không chịu cho tôi lại gần. Tôi lóng ngóng mãi cũng chẳng được, đã thế con ngựa lại liên tục nện cồm cộp hai chân trước xuống đất khiến tôi sợ phát khiếp. Người đàn ông nhìn tôi, chờ đợi. - Tôi thấy có lẽ cô chẳng bao giờ đem được núi lại cho Mahomet, – ông ta phì cười bảo tôi – vậy tất cả những gì cô có thể làm bây giờ là giúp Mahomet lại gần ngọn núi thôi. Có lẽ tôi phải nhờ cô lại đây vậy. Tôi đành phải bước lại gần ông ta. - Xin lỗi, tôi buộc phải nhờ đến sự giúp đỡ của cô. – Ông ta nói và đặt một bàn tay nặng trịch lên vai tôi rồi tì mạnh vào đó và tập tễnh tiến lại gần con ngựa. Khi đã nắm được dây cương, ông làm chủ được ngay con ngưa trước khi nhảy lên yên. Nỗ lực thái quá lại khiến ông nhăn nhó vì vết thương ở khớp chân. - Xong rồi, cô đưa giúp tôi cái roi vứt cạnh hàng rào kia kìa. – Ông ta bảo tôi khi không còn cắn răng nữa. Tôi tìm nhặt chiếc roi. - Cảm ơn, bây giờ cô nhanh nhanh đến lên xóm Hay mà bỏ thư đi rồi về cho sớm sủa. Dứt lời, ông thúc gót giầy khiến con ngựa giật mình nhảy dựng lên và lao thẳng về phia trước, con cho cuống quýt chạy theo sau. Cả ba biến mất hút. Tôi nhặt bao tay và tiếp tục đi nốt chặng đường còn lại. Sự việc đã xảy ra và chấm dứt đối với tôi, ở một khía cạnh nào đó thì sự việc chẳng có gì quan trọng, lãng mạn hay thú vị cả, song dẫu sao nó cũng đã đánh dấu một sự thay đổi ngắn ngủi trong cuộc sống đều đều đơn điệu của tôi. Đã có người


cần và kêu gọi sự giúp đỡ của tôi, và tôi đã có dịp đáp lại. Tôi cảm thấy vui vì làm được một việc có ích, dù nhỏ bé và thoáng qua, nhưng nó vẫn là một việc làm chủ động, vì tôi đã chán đến tận cổ cái sự tồn tại hoàn toàn thụ động của mình. Khuôn mặt mới mẻ kia chẳng khác nào một bức tranh mới lạ được đưa vào bộ sưu tập trong trí nhớ của tôi, nó không hề giống những bức tranh khác được lưu chứa trong đó; trước hết, vì đó là hình ảnh của một người đàn ông, tiếp đến, đó là một hình ảnh còn bí ẩn, mạnh mẽ và nghiêm nghị. Cho tới lúc tôi tới Hay bỏ thư, hình ảnh đó vẫn như đang hiện lên trước mắt. Tôi còn nhìn thấy nó suốt dọc đường đồi trở về nhà. Về đến chỗ bệ gạch lúc nãy, tôi dừng lại một phút, nghe ngóng, nghiêng ngó nhìn quanh, tưởng rằng tiếng vó ngựa sẽ lại nện lộp cộp trên mặt đường, và người cưỡi ngựa khoác áo choàng cũng sẽ xuất hiện lần nữa cùng một con chó Tân đảo trông giống như con ma Gytrash. Nhưng tôi chỉ thấy trước mặt mình là dãy hàng rào chơ vơ và một cây liễu cụt ngọn khẳng khiu dưới ánh trăng mờ tỏ. Còn một dặm nữa mới về tới Thornfield, tôi chỉ nghe tiếng những cơn gió nhè nhẹ thoảng qua các ngọn cây quanh lâu đài. Và khi phóng tầm mắt về phía có tiếng rì rào đó, tôi chợt nhận ra một ánh đèn le lói qua một ô cửa sổ mặt trước tòa lâu đài, nó nhắc nhở tôi rằng đã muộn rồi, cần phải rảo bước mà về cho thật nhanh. Tôi không thích bước ngay vào lâu đài Thornfield. Chỉ cần bước qua ngưỡng cửa kia là tôi lại quay về với cuộc sống tù túng: bước qua phòng lớn im ắng, lên bậc cầu thang u tối, tìm về căn phòng bé nhỏ cô quạnh, và rồi gặp cái bà Fairfax trầm tư, ngồi với bà và chỉ một mình bà suốt cả tối mùa đông… những việc làm ấy sẽ dập tắt ngấm cái cảm hứng vừa được thức tỉnh trong tôi sau cuộc dạo chơi ngắn ngủi vừa rồi. Cuộc sống trong kia sẽ lại trói buộc các cảm xúc của tôi, bằng những chiếc cùm vô hình, vào cuộc sinh tồn đơn điệu và trì trệ, một cuộc tồn tại mà tôi không sao chấp nhận nổi bất chấp cả những đảm bảo an toàn của nó. Có lẽ sẽ tốt hơn nếu tôi được ném vào một cuộc sống đầy phong ba bão táp để phải vật lộn với sinh tồn, được nếm trải những sóng gió phũ phàng, bởi chỉ có vậy tôi mới biết quý trọng cái êm ả của cuộc sống hiện tại. Vâng, nó giống như trường hợp một người chán ngấy cái cảnh phải ngồi lì mãi trên một chiếc ghế quá ấm êm và thèm muốn có một cuộc đi bộ thật dài. Có thể ví sự thèm muốn ấy với trường hợp của tôi. Tôi nấn ná mãi ngoài cổng, tha thẩn trên bãi cỏ, đi đi lại lại trên vỉa hè. Các cánh cửa chớp đều đã đóng kín khiến tôi không còn nhìn thấy gì bên trong. Dường như ánh mắt và đầu óc tôi đều đang muốn rời khỏi ngôi nhà u buồn – khỏi cái tổ xám xị tđầy những cái ngăn tăm tối như tôi có cảm giác lúc


này – để hướng về bầu trời đang trải rộng phía trước kia – một biển xanh thăm thẳm không gợn một bóng mây, nơi có vầng trăng tròn đang lặng lẽ nghiêm trang tiến bước, có những vì sao lung linh xa tít khiến tim tôi thổn thức. Nhưng có những điều rất nhỏ cũng đủ làm chúng ta bừng tỉnh để trở về với thực tại, ví dụ như tiếng chuông ngân nga trong tòa lâu đài. Thế cũng đủ để tôi tạm biệt chị Hằng và các vì sao. Tôi mở cửa bên và lặng lẽ bước vào nhà. Trong phòng lớn không tối, dù chỉ có một chiếc đèn đồng treo cao được thắp lên; ánh lửa ấm nồng đủ chiếu sáng cả căn phòng và mấy bậc cuối cùng của chiếc cầu thang gỗ sồi, ánh lửa hồng ấy được hắt ra từ phòng ăn có hai cánh cửa đang rộng mở, soi rõ cả những thảm dạ đỏ và những đồ đạc bóng loáng, khiến cho tất cả càng trở nên lung linh rạng rỡ hơn, ánh lửa còn cho thấy một nhóm người đang ngồi quây quần bên lò sưởi; tôi chưa kịp nhìn và nghe rõ những tiếng cười nói râm ran, trong đó hình như có cả tiếng Adèle, thì cánh cửa đóng lại. Tôi đi nhanh về phía phòng bà Fairfax: trong phòng cũng có ánh lửa, nhưng không thắp nến và cũng chẳng thấy bà Fairfax đâu. Thay vào đó, tôi chỉ trông thấy một con chó lớn, lông dài, màu đen pha trắng, giống hệt con Gytrash đi ngoài đường, đang ngồi chồm chỗm nhìn ngọn lửa một mình trên thảm. Trông nó giống như con chó ban chiều đến nỗi tôi phải tiến lại gọi: - Pilot! – Con chó lập tức đứng dậy và chạy lại gần tôi để đánh hơi. Tôi vuốt ve con vật. Nó ve vẩy cái đuôi xu đáp lại, nhưng trông nó có vẻ là một con vật quá bí hiểm để có thể đứng gần nó một mình, hơn nữa tôi cũng chưa biết nó từ đâu đến. Tôi giật chuông vì muốn có một cây nến và cũng muốn biết rõ về vị khách này. Leah bước vào. - Con chó nào thế này? - Nó về cùng với ông chủ đấy. - Cùng với ai? - Cùng với ông chủ… ông Rochester… ông ấy vừa về xong. - Thế à! Chắc là bà Fairfax đang nói chuyện với ông ấy? - Vâng, cả cô Adèle nữa, tất cả hiện ở trong phòng ăn; còn anh John vừa


đi tìm thầy thuốc, vì ông chủ vừa bị một tai nạn, con ngựa của ông bị ngã, khiến ông bị sai khớp mắt cá chân. - Có phải con ngựa bị ngã trên đường đi Hay không? - Đúng, nó bị xảy chân trên mặt băng lúc xuống đồi. - À, chị Leah này, đem giúp cho tôi một cây nến nhé. Leah mang nến vào, bà Fairfax theo sau. Bà nhắc lại tin ông chủ về và cho tôi biết thêm rằng ông bác sĩ Carter đã đến và hiện đang ở chỗ ông Rochester. Chỉ nói được có vậy, bà lại vội vội vàng vàng bước ra gọi người pha trà, còn tôi lên gác thay quần áo.



Chương 13 Hình như theo lời đề nghị của ông bác sĩ, tối hôm đó ông Rochester đi ngủ từ rất sớm, song hôm sau ông vẫn cứ dậy muộn. Khi ông xuống nhà bắt đầu công việc, nhân viên của ông và mấy người thuê đất đã ngồi chờ gặp ông từ lúc nào. Adèle và tôi hôm đó phải rời khỏi thư viện vì căn phòng đã được ông chủ dùng làm chỗ tiếp khách hàng ngày. Một căn phòng trên gác đã được nhóm lò sưởi để tôi mang sách vở lên làm phòng học. Tôi nhận thấy sáng hôm ấy lâu đài Thornfield có rất nhiều thay đổi: nó không còn im ắng như một nhà thờ nữa, cứ độ một hai tiếng lại có người đến rung chuông gọi cửa và rồi lúc nào cũng có tiếng bước chân trong phòng lớn, tiếng người lạ nói giọng khác nhau ở dưới nhà. Dòng chảy của cuộc sống bên ngoài đã tràn vào trong nhà, ở đây đã có một vị chủ nhân thực sự. Về phần mình, tôi cảm thấy thích như thế hơn. Ngày hôm ấy thật không dễ cho việc kèm cặp Adèle một chút nào. Nó không còn để ý gì đến chuyện học tập, mà hết chạy ra cửa ngó xem có thấy bóng ông Rochester không rồi lại tìm đủ lí do để xuống phòng thư viện, nơi tôi biết chẳng có ai cần đến nó. Khi tôi tỏ thái độ bực mình bắt nó ngồi im một chỗ thì nó lại huyên thuyên không dứt về cái “ông bạn Edouard Fairfax de Rochester” – nó đặt biệt danh cho ông như vậy – của nó (từ trước đến giờ tôi chưa từng nghe thấy tên họ của ông). Nó còn đoán xem ông Rochester sẽ đem về cho nó những món quà gì, vì hình như tối hôm trước, ông đã bóng gió với nó rằng khi nào có hành lí từ Millcote về, ông sẽ có một gói quà rất thú vị dành cho nó. - Et cela doit signifier – nó bảo – qu’il aura la dedans un cadeau pour moi, et peut être pour vous aussi, mademoiselle. Monsieur a palé de vous, il m’a demandé le nom de ma gouvernante et si elle n’etait pas petite personne, assez mince et un peu [28] paale. J’ai dit qu’oui: car c’est vrai, n’est ce pas, mademoiselle? Như thường lệ, tôi và Adèle vẫn ăn trong phòng ăn bà Fairfax. Chiều hôm ấy trời nổi gió và có tuyết rơi, nên chúng tôi ngồi suốt trong phòng học. Tối đến, tôi bảo Adèle nghỉ và cho phép nó xuống dưới nhà, vì lúc ấy đã tương đối yên tĩnh, không còn tiếng chuông gọi cửa nữa. Có lẽ ông Rochester đã nghỉ rồi. Còn lại một mình, tôi bước lại gần cửa sổ, nhưng chẳng có gì để


mà ngắm nhìn, nếu không phải là những bông tuyết rơi rơi khiến trời đất càng tối tăm mù mịt. Tôi đành kéo rèm xuống và quay vào bên lò sưởi. Trong ánh lửa hồng, tôi đang hình dung lại khung cảnh của lâu đài Heidelberg trên bờ sông Ranh mà tôi nhớ mình đã được xem, thì bà Fairfax chợt xuất hiện, làm vỡ tan những hình ảnh lung linh tôi đang ghép nối trong đầu và xua đi những ý nghĩ nặng nề, không chờ đợi vừa ùa tới giữa cảnh cô quạnh. - Ông Rochester mời cô và cô học trò xuống dùng trà với ông tối nay. – Bà bảo tôi. – ông ấy bận việc cả ngày hôm nay nên không lên gặp cô sớm hơn được. - Thế ông dùng trà vào mấy giờ? – Tôi hỏi lại. - Vào khoảng sáu giờ gì đó, vì ở quê, ông làm gì cũng sớm hơn. Bây giờ, có lẽ cô nên chuẩn bị áo váy đi được rồi đấy. Tôi sẽ giúp cô một tay. Nến ở đây này. - Tôi có nhất thiết phải thay bộ đồ vào người không? - Có chứ, cứ thay đi thì hơn. Một khi ông Rochester đã về đây rồi, bao giờ tôi cũng ăn mặc nghiêm chỉnh vào buổi tối. Dù thấy cái nghi thức ấy có vẻ hơi trịnh trọng, nhưng tôi vẫn về phòng thay bộ đồ với sự trợ giúp của bà Fairfax. Tôi thay chiếc áo dài vải đen đang mặc bằng chiếc áo lụa cùng màu. Dẫu sao thì đó cũng là tấm áo đẹp nhất và độc nhất mà tôi có, trừ một tấm áo màu xám nhạt, mà theo quan niệm về cách ăn mặc của tôi hồi còn ở Lowood thì nó sang quá, chỉ có thể mặc vào những trường hợp đặc biệt mà thôi. - Có khi cô phải cài thêm một cái trâm đi. – Bà Fairfax bào tôi. Tôi chỉ có một đồ trang sức bằng ngọc mà cô Temple tặng làm kỉ niệm ngày chia tay: tôi cẩn thận cài lên ve áo rồi xuống dưới nhà cũng bà quản gia. Chẳng mấy khi tiếp xúc với người lạ, nên việc đến gặp mặt ông Rochester theo cách trịnh trọng như thế này đối với tôi chẳng khác nào một thử thách. Vào đến phòng ăn, tôi nhường đường cho bà Fairfax đi trước, còn tôi khép nép theo sau bóng bà cho đến khi bước qua căn phòng. Bước qua một khung cửa tò vò có rèm buông rủ, chúng tôi vào căn phòng lịch lãm liền bên.


Trên mặt bàn và mặt lò sưởi đều được thắp sáng bằng hai cây nến. Con Pilot nằm dài sưởi ấm bên bếp lửa hồng; Adèle quỳ gối bên cạnh nó. Ông Rochester ngả người lên một chiếc ghế, chân gác lên một chiếc đệm vải, mắt nhìn Adèle và con chó. Dưới ánh sáng lung linh tôi nhận ra người khách đi đường với đôi lông mày rậm rịt, mái tóc đen xén ngang phía trước làm cho vầng trán đã vuông lại càng vuông hơn. Tôi nhận ra cái mũi nghiêm nghị gây chú ý nhiều đến tính cách hơn là vẻ đẹp; lỗ mũi rộng chứng tỏ ông ta là một người nóng nảy; mồm miệng, cằm và hàm cho thấy ông ta là một người dữ dằn, tôi cam đoan như vậy, không thể nào nhầm được. Thân hình không mặc áo choàng của ông trông thật vuông vức và rất hợp với khuôn mặt. Tôi cho đó là một thân hình lý tưởng cho cái nghĩa đẹp của một lực sĩ, ngực nở, sườn thon, dù không cao lớn và hấp dẫn cho lắm. Hẳn là ông Rochester đã biết tôi và bà Fairfax bước vào, nhưng ông vẫn tỏ vẻ không chú ý gì đến chúng tôi, vì không thấy ông ngẩng đầu lên một chút nào khi chúng tôi lại gần. - Thưa ông, đây là cô Eyre. – Bà Fairfax nói với cái vẻ trầm lặng thường ngày. Ông hơi gật đầu nhưng mắt vẫn không rời Adèle và con chó. - Mời cô Eyre ngồi. – Ông ta bảo. Tôi có cảm giác dù giọng nói không có vẻ bực mình, nhưng trong cách chào cứng nhắc của ông ấy vẫn có ý một cái gì đó như muốn nói thêm: “Cô Eyre có ở đấy hay không thì chẳng dính dáng gì đến tôi! Bây giờ không phải lúc tôi muốn nói chuyện với cô ta”. Tôi điềm nhiên ngồi xuống. Một cử chỉ đón tiếp lịch thiệp đôi khi lại làm tôi bối rối. Về phần tôi, tôi không biết làm dáng để đáp lại. Cách đón tiếp lạ lùng phớt đời này không làm tôi thấy gò bó khiên cưỡng, mà trái lại, nó khiến tôi như làm chủ được chính mình. Hơn nữa, tôi cũng muốn xem ông ta sẽ đi đến đâu với cách xử sự như vậy. Ông ta vẫn ngồi im như một pho tượng, không nhúc nhích mà cũng chẳng nói chẳng rằng. Dường như đang nghĩ cần phải có một người tỏ ra nhã nhặn trước, nên bà Fairfax bắt đầu lên tiếng, Vẫn với cái vẻ ân cần như mọi khi- và cũng như mọi khi, còn có vẻ sáo rỗng nữa – bà chia sẻ với ông sự bận rộn suốt cả ngày, chuyện ông bị sai chân, rồi bà ca ngợi sự kiên nhẫn và sức chịu đựng của ông.


- Bà già ạ, có lẽ cho tôi xin tí trà đi. – Đó là câu trả lời duy nhất mà bà nhận được. Bà Fairfax vội rung chuông gọi. Lúc khay trà được mang tới, bà bày biện chén tách, thìa lên bàn, vẻ rất cần mẫn. Tôi và Adèle đến ngồi vào bàn, nhưng ông chủ vẫn không thèm rời khỏi đi văng. - Cô đưa giúp ông Rochester tách trà được chứ? – Bà Fairfax bảo tôi. – Tôi sợ Adèle cầm sẽ đánh đổ mất. Tôi vâng lời. Trong lúc ông chủ cầm tách trà trên tay tôi, Adèle nghĩ đây là dịp thuận lợi để nói một lời cho tôi: - N’est ce pas monsieurs, qu’il y a un cadeau pour mademoselle Eyre, dans [29] votre petit coffre? - Ai bảo quà bánh gì? – Ông chủ cáu kỉnh vặn lại. – Cô có hi vọng mình có quà không, cô Eyre? Cô có thích quà biếu lắm không? Vừa nói, ông vừa nhìn xoáy vào mắt tôi bằng ánh mắt tối sầm, bực bội và soi mói. - Tôi cũng chẳng biết, thưa ông, chẳng mấy khi tôi được tặng quà, nhưng bình thường, ai mà không nghĩ đó là điều được mong muốn kia chứ. - Bình thường ai cũng vậy à? Nhưng còn cô, cô nghĩ thế nào? - Thưa ông, tôi cần phải suy nghĩ một lát mới có thể đưa ra câu trả lời lọt tai ông được. Một món quà bao giờ cũng có nhiều mặt, đúng không ạ? Và người ta nên cân nhắc tất cả mọi mặt trước khi đưa ra ý kiến theo đúng bản chất của món quà. - Cô Eyre ạ, cô khôn khéo hơn Adèle, nhiều lúc thấy tôi là nó lại đòi quà ầm ĩ cả lên, còn cô thì vòng vo quá. - Bởi vì địa vị của tôi khác. Adèle có thể lấy lí do biết ông từ lâu, hơn nữa, nó vẫn bảo ông thường cho nó đồ chơi như một thói quen. Còn tôi, nếu phải bày tỏ ý kiến về trường hợp của mình, tôi sẽ rất bối rối, vì đơn giản tôi là một người lạ, làm gì có tư cách để mà đòi quà bánh gì kia chứ. - Ồ, đừng quá khiêm tốn như vậy! Tôi đã kiểm tra Adèle và thấy rằng cô đang rất khó nhọc vì nó. Nó không phải là đứa sáng dạ, cũng chẳng có năng


khiếu gì, thế mà đã có rất nhiều tiến bộ trong một thời gian ngắn. - Thưa ông, như vậy có nghĩa là ông đã cho tôi một món “quà” rồi đó; còn phần thưởng nào được những người làm thầy mong mỏi hơn những lời khen của mọi người đối với học trò của mình. - Hừm! – Ông Rochester khẽ hắng giọng rồi im lặng nhấm nháp tách trà. - Mọi người đến cả bên lò sưởi đi! – Ông chủ gọi khi khay trà được dọn đi và bà Fairfax đã ngồi ra đan ở một góc nhà, còn Adèle thì đang cầm tay tôi dắt đi quanh căn phòng, chỉ cho tôi xem những cuốn sách đẹp và những đồ vật trang trí đặt trên giá tường và trong các ngăn tủ. Chúng tôi vâng lời như một bổn phận. Adèle định ngồi vào lòng tôi, nhưng ông Rchester ra lệnh cho nó ra chơi với con Pilot. - Cô đến ở nhà tôi đã được ba tháng? - Vâng, thưa ông. - Thế trước đó cô từ đâu tới? - Từ trường Lowood, quận... - À, đó là một trường từ thiện. Cô ở đó được bao lâu? - Tám năm. - Tám năm kia à! Cô cũng bền gan đấy chứ. Tôi nghĩ chỉ cần một nữa quãng thời gian đó cũng đủ làm bất cứ ai hỏng người rồi! Mà trông cô cũng như người từ một thế giới khác đến thật, có gì lạ đâu. Tôi rất lấy làm ngạc nhiên vì không hiểu cô lấy ở đâu được khuôn mặt như thế. Chiều tối hôm qua, lúc gặp cô trên đường đến xóm Hay, tự nhiên tôi lại nghĩ đến những câu chuyện cổ tích và đã định hỏi có phải cô đã làm mê hoặc con ngựa của tôi không. Đến bây giờ tôi vẫn chưa biết rõ thực hư thế nào. Thế cha mẹ cô là những ai? - Tôi chẳng còn ai cả. - Cô còn nhớ họ không? - Không.


- Tôi lại không nghĩ như vậy. Cô ngồi ở cái bục gạch ấy để đợi người nhà phải không? - Người nhà nào, thưa ông? - Thì mấy kẻ xanh lét toàn thân ấy chứ ai. Đêm trăng sáng thích hợp với chúng quá còn gì. Có phải vì tôi phá vỡ cuộc vui hẹn hò của cô, nên cô đã trải cái mảng băng khốn kiếp ấy lên đường không? Tôi lắc đầu. “Bọn quỷ áo xanh ấy đã biến khỏi nước Anh từ một trăm năm nay rồi. – Tôi đáp lại, giọng cũng trịnh trọng như ông chủ. – Trên nẻo đường đến xóm Hay cũng như các cánh đồng quanh vùng, ông không tìm ra các dấu vết của chúng. Tôi không nghĩ vào mùa hè, hoặc vào mùa gặt hay dưới ánh trăng mùa đông, người ta lại thấy những cuộc liên hoan của chúng.” Bà Fairfax ngừng khâu, nhướn mày lên, vẻ không hiểu chúng tôi đang nói chuyện gì nữa. - Được rồi, nếu như không còn cha mẹ, ít ra cô cũng phải có họ hàng chứ, như cô dì chú bác chẳng hạn? - Không, tôi chưa bao giờ thây ai như thế. - Còn ở nhà cô? - Tôi không có nhà. - Thế anh chị em cô sống ở đâu? - Cũng không có anh chị em gì sất. - Ai giới thiệu cô đến đây? - Tôi tự đăng báo quảng cáo, và thế là nhận được thư của bà Fairfax. - Phải rồi! – Người đàn bà chất phác nói xen vào, từ nãy đến giờ mới hiểu chúng tôi đang nói chuyện gì. – Và ngày nào tôi cũng cám ơn Chúa đã giúp tôi chọn được người mình cần tìm. Cô Eyre là người bạn vô giá đối với tôi, và là một cô giáo tủ tế tận tâm đối với Adèle. - Chẳng cần bà phải gán cho cô ấy một tính cách đâu. – Ông Rochester


trả lời. – Những lời tán dương chẳng có tác dụng gì đối với tôi cả, tôi biết tự đánh giá mà. Cô ấy đã bắt đầu bằng việc đốn ngã con ngựa của tôi đấy. - Ông bảo sao ạ? – Bà Fairfax thốt lên. - Tôi phải mang ơn cô ấy vì cái vết thương này đây. Bà quả phụ ngơ ngác không hiểu. - Cô Eyre, đã bao giờ cô sống ở một đô thành chưa? - Chưa, thưa ông. - Cô cũng va chạm nhiều với xã hội chứ? - Tôi chẳng giao thiệp với ai ngoài các học trò và các giáo viên ở Lowood, và bây giờ là những người ở lâu đài Thornfield này. - Cô có đọc nhiều không? - Chỉ những cuốn sách tôi gặp trong cuộc sống của mình, nhưng số ấy lại không nhiều, và cũng chẳng có gì sâu sắc lắm. - Vậy là cô đã sống cuộc sống của một tu sĩ, và hẳn là cô đã được giáo dục theo cách của nhà thờ. Ông Brocklehurst, người tôi hiểu có vị trí cao nhất trong nhà trường, chính là một mục sư, có phải không ạ? - Thưa ông, đại loại là như vậy. - Còn cô và đám học sinh thì ra sức tôn thờ ông ta hệt như những người trong tu viện tôn thờ bậc bề trên của mình?. - Ồ, không. - Cô thản nhiên gớm nhỉ! Không! Không là không cái gì chứ! Chẳng nhẽ một tín đồ lại không tôn sùng thầy tu sao? Thế thì có khác nào là giọng của kẻ báng bổ Chúa kia chứ? - Tôi không thích cái ông Brocklehurst ấy, mà cũng chẳng riêng gì mình tôi như vậy. Ông ta là một kẻ tàn nhẫn, ngạo mạn và hay chĩa mũi vào chuyện của người khác. Ông ta từng bắt chúng tôi cắt trụi cả mái tóc, rồi mua cho chúng tôi toàn những kim chỉ rẻ mạt khiến chúng tôi không thể khâu vá


được. - Chết thật, bần tiện như thế là không được. – Bà Fairfax bình phẩm một câu khi một lần nữa nắm bắt được câu chuyện của hai chúng tôi. - Và đó là những biểu hiện cho con người sai trái của ông ta? – Ông Rochester hỏi. - Trước khi hội đồng nhà trường được thành lập, ông ta được toàn quyền cung ứng mọi thứ, tuần nào ông ta cũng làm chúng tôi chán ngấy với những bài diễn thuyết dài dằng dặc. Và tối tối, ông át lại bắt chúng tôi đọc những cuốn sách do chính tay ông ta viết về những cái chết bất ngờ và những cuộc phán xử vớ vẩn, khiến chúng tôi sợ hãi không dám đi ngủ nữa. - Cô đến Lowood lúc bao nhiêu tuổi? - Khoảng mười tuổi. - Cô ở đó tám năm, như vậy bây giờ đã là mười tám? Tôi gật đầu. - Cô thấy không, học toán học cũng có cái lợi đấy chứ. Nếu không có nó, tôi khó mà đoán được tuổi cô. Thật là khó mà đoán được tuổi của một con nguời có nét mặt và vóc dáng như cô. Mà cô đã học những gì ở Lowood nhỉ? Cô có biết chơi đàn không? - Biết tí ti thôi. - Tất nhiên, đó là câu trả lời tôi có thể đoán trước. Vào thư viện đi... ý tôi muốn nói là nếu cô vui lòng... (Xin lỗi vì cái giọng ra lệnh của tôi; tôi đã quen cái kiểu nói “Hãy làm việc này đi” và thế là cái việc ấy lập tức được thực hiện. Tôi không thể sửa được thói quen của mình chỉ vì một người mới gặp như cô). Thôi, cô vào đi, nhớ cầm theo cây nến và đừng có đóng cửa. Cô ngồi dạo một bài bằng dương cầm xem nào. Tôi lặng lẽ làm theo lời ông. - Thôi đủ rồi! – Ông gọi sau đó vài phút. – Tôi thấy cô cũng chỉ biết chơi “tí ti” như mọi nữ sinh người Anh khác, có thể khá hơn một vài người, nhưng nói chung chẳng có gì là điêu luyện cả.


Tôi đậy nắp đàn, quay về chỗ ngồi nghe ông Rochester nói tiếp: - Sáng nay, Adèle có cho tôi xem mấy bức tranh, mấy bức phác họa mà nó bảo là của cô. Tôi không biết có phải do cô tự vẽ lấy hết không, hay lại có một ông thầy nào giúp nữa? - Ồ, đúng là do tôi vẽ hết! – Tôi phản ứng. - Ái chà! Chắc lại bị chạm lòng tự ái rồi phỏng! Thôi được, nếu có thể chứng minh những bức vẽ ấy chính là nguyên bản của cô thì đêm cái cặp giá vẽ ra đây, nhưng chớ có quá lời nếu như cô dám chắc là mình vẽ được, tôi đủ sức phân biệt được các mảnh vải đấy nhé. - Đã thế tôi sẽ không nói nữa, ông phán xét thế nào là tùy, thưa ông. Tôi vào phòng thư viện lấy cặp giá vẽ. - Cô mang cái bàn lại gần đây đi. – Ông ta bảo. Tôi kéo cái bàn lại gần chiếc đi văng ông ta đang nằm, trong khi bà Fairfax và Adèle sán lại gần để xem tranh. - Đừng có xúm xít lại thế, – ông Rochester nói, – cứ để tôi xem trước cái đã, sau đó tôi sẽ đưa cho mà xem, mà đừng có gí sát mặt vào mặt tôi như vậy có được không. Ông ta soi mói từng bức phác họa và từng bức tranh màu, rồi để riêng ba bức sang một bên; còn những bức khác, ông gạt cả đi khi vừa xem xong. - Bà Fairfax này, mang hộ tôi mấy cài này ra cái bàn kia rồi gọi Adèle ra đấy mà xem, còn cô (đưa mắt nhìn thẳng vào mặt tôi) trở lại chỗ ngồi và trả lời mấy câu tôi hỏi đây. Tôi thấy những bức tranh này đúng là đều do tay một người vẽ, nhưng có phải tay cô không? - Phải. - Cô lấy thì giờ đâu ra mà vẽ? Những bức vẽ ấy hẳn phải ngốn rất nhiều thời giờ, mà có cả những bức còn phải tư duy nữa chứ. - Tôi vẽ trong hai vụ nghỉ hè cuối cùng ở Lowood, khi tôi không phải bận việc gì cả.


- Cô lấy mẫu ở đâu? - Ở trong đầu tôi. - Cái đầu tôi đang nhìn thấy trên đôi vai cô chứ gì? - Vâng, thưa ông. - Liệu cái đầu ấy có thể bày biện được gì khác cùng thể loại như thế này không? - Tôi nghĩ là có, thậm chí tôi hy vọng còn có thể khá hơn nữa kia. Ông ta lại trải những bức tranh ra trước mặt để ngắm lại một lần nữa. Trong lúc ông ta chúi mũi vào như vậy, tôi xin được kể với bạn đọc về những bức vẽ của mình, cũng xin được nói trước rằng chúng không phải là một cái gì xuất sắc cả, cho dù các đề tài đều đã thể hiện lên trên óc tôi một cách cực kì sinh động. Quả là khi tôi chiêm ngưỡng chúng bằng một con mắt tinh thần trước khi tô điểm chúng thành hiện thực, chúng đều là những hình khối rất bắt mắt. Nhưng khổ một nỗi bàn tay của tôi không đủ tài để ghi lại trí tưởng tượng, và kết quả là trong từng chủ đề, tôi chẳng mô tả được một điều gì cho ra hồn ngoài chân dung mờ nhạt của cái điều mà tôi cảm nhận trong đầu. Đó là những bức họa được vẽ bằng màu nước. Bức đầu tiên thể hiện những làn mây thấp màu xám xịt, cuồn cuộn bay trên mặt biển nổi sóng nhấp nhô khiến cho hậu cảnh bị nhạt nhòa trong bóng tối; mặt nền trước cũng vậy, hoặc nói đúng hơn là chỉ thấy những đợt sóng cuồn cuộn nơi gần nhất, chứ không thấy bóng dáng của đất liền đâu cả. Một tia sáng yếu ớt đủ làm nổi bật một cột buồm đã chìm đi một nửa, trên đó là một chú chim cốc biển to bự, lông đèn xì, hai cánh dính đầy bọt nước, mỏ ngậm một chiếc vòng tay bằng vàng nạm đá quý được tôi thể hiện bằng những chấm màu rực rỡ nhất trong bảng pha màu và được tô cho thật nét bằng các đường bút chì. Phía dưới cánh chim cốc và chiếc cột buồm là một xác người chết đuối nổi lập lờ dưới làn nước biển xanh, chỉ còn nhìn rõ một cánh tay không còn chiếc vòng đâu nữa. Bức vẽ thứ hai có cận cảnh là một đình đồi lờ mờ, cỏ cây hoa là đứng liêu xiêu như bị gió thổi. Hậu cảnh trên cao mênh mông một bầu trời xanh


thẫm như đang buổi hoàng hôn. Nổi lên giữa nền trời xanh là chân dung của một người đàn bà được tôi vẽ bằng một thứ màu pha trầm lắng. Trên vầng trán mờ mờ của nàng được điểm lấp lánh một vì sao, nét mặt nàng mơ hồ như ẩn sau một làn mây sương chờn vờn, đôi mắt nàng thăm thẳm và hoang dã, còn mái tóc thì lòa xòa đổ bóng phất phơ, trông như một đám mây đen kịt bị bão rung chớp giật hoặc một tia lửa điện chói lòa; cổ nàng hắt hiu phản chiếu một chút ánh sáng bàng bạc như ánh trăng. Những áng mây chiều mỏng manh cũng ánh lên như vậy nhưng lại được tô điểm thêm bởi vì sao Hôm lấp lánh. Bức tranh thứ ba cho thấy một đỉnh núi băng nhô lên trên bầu trời giá lạnh của mùa đông Bắc cực. Một chùm tia sáng Bắc cực trắng mờ tỉa lên tua tủa như những chiếc lao cắm san sát nhau phía chân trời. Cận cảnh của bức vẽ là một cái đầu – một cái đầu khổng lồ ngả vào tảng băng. Hai bàn tay gầy guộc đan vào nhau đặt trước trán và giữ một mảnh vải đen xòa xuống dưới mặt. Bờ trán nhợt nhạt như xương, một con mắt trông như thủy tinh nhưng trống rỗng, đờ đẫn và tuyệt vọng là tất cả những gì có thể thấy được trên khuôn mặt ấy. Bên trên thái dương, giữa những nếp khăn đen mơ hồ như mây khói, hắt hiu một ánh bạc yếu ớt của chiếc vòng lửa cùng một chút ánh màu pha chói lọi hơn ở ngoài vành. Hình lưỡi liềm mờ mờ ấy chính là phiên bản của một chiếc Vương niệm; và thứ mang chiếc Vương niệm ấy là “một hình thể vô hình”. - Khi vẽ những bức tranh này, trong lòng cô có vui không? – Ông Rochester chợt hỏi tôi. - Tôi cứ vẽ miệt mài, vâng, thưa ông, tôi thực sự thấy vui trong lòng. Tóm lại. Vẽ những bức tranh này là một trong những niềm vui lớn nhất mà tôi từng có. - Điều ấy cũng chẳng nói được gì nhiều. Cô vừa nói cô có rất ít niềm vui, nhưng tôi dám chắc rằng cô đã sống trong một thế giới mộng mơ của một người nghệ sĩ khi pha chế và bố cục những mảng màu dị thường này. Ngày nào cô cũng ngồi lì với những bước vẽ này à? - Tôi chẳng có việc gì để làm vì khi đó là dịp nghỉ hè, tôi có thể ngồi vẽ từ sáng đến trưa, rồi từ trưa đến tối. Ngày dài tháng rộng giữa hè quả thực rất thuận lợi cho khuynh hướng chuyên tâm của tôi. - Thế cô có cảm tấy tự hài lòng với thành quả do sức lao động miệt mài


của mình mang lại không? - Còn lâu mới hài lòng. Tôi luôn day dứt về sự trái ngược giữa ý tưởng và thành quả công việc. Tôi hoàn toàn bất lực trong việc thể hiện điều mình đã thể hiện trong từng bức vẽ. - Chưa hẳn là như vậy, vì cô đã nắm được cái thần của ý nghĩ, nhưng chắc là cũng chẳng có gì hơn. Cô không có đủ kĩ năng và phương pháp khoa học của một họa sĩ để thể hiện đầy đủ ý tưởng của mình, nhưng cũng phải thừa nhận rằng đối với một nữ sinh như cô thì những bức họa này quả thật xuất sắc. Xét về tư tưởng, những bức tranh của cô có một vẻ gì đó rất yêu ma. Hẳn là cô đã thấy đôi mắt trong bức họa Ngôi Sao Hôm trong một giấc mơ. Cô đã vẽ nên một đôi mắt trong veo, nhưng tai sao lại không có một chút gì gọi là long lanh cả? Vì ngôi sao ở phía trên đã làm lu mờ tất cả. Cái sâu thẳm nghiêm trang ấy có ý nghĩa gì chứ? Mà ai đã dạy cô vẽ nên những ngọn gió? Quả thực là có một trận cuồng phong trên bầu trời và đỉnh đồi ấy. Cô đã thấy Latmos ở đâu nhỉ? Vì đó chính là đỉnh Latmos. Vậy đấy... thôi, cất những bức vẽ này đi được rồi đấy. Tôi vừa kịp buộc xong chiếc giá vẽ thì ông Rochester nhìn đồng hồ và bảo: - Chín giờ rồi đấy, cô nghĩ thế nào mà lại để Adèle ngồi lâu như vậy, cô Eyre? Cho nó đi ngủ đi chứ còn gì nữa. Adèle bước đến ôm hôn ông ta trước khi đi về phòng. Ông nhẫn nại đón nhẫn nại đón nhận cử chỉ vuốt ve ấy, vẻ không mặn mà gì hơn cái cử chỉ ông dành cho con Pilot nếu nó được phép làm vậy. - Thôi, chúc mọi người ngủ ngon nhé. Ông nói và giơ tay về phía cửa nhưu thể đang chán chường và muốn xua đuổi tất cả chúng tôi. Bà Fairfax vội thu dọn đồ khâu vá khi tôi cầm cái cặp giá vẽ. Sau khi cúi chào và được ông đáp lại bằng một vẻ dửng dưng, chúng tôi lui ra ngoài. - Bà từng bảo tôi rằng ông Rochester chẳng có gì đặc biệt cả, đúng không? – Tôi theo bà Fairfax vào phòng bà sau khi đã cho Adèle đi ngủ. - Ừ. Thế không phải như vậy là gì? - Tôi thấy có khi như thế thật, tính ông ấy quả thật thất thường.


- Ừ, nếu gặp ông lần đầu, chắc là ai cùng cảm thấy như vậy, nhưng tôi lại khác, vì quá quen tính ông ấy nên tôi chẳng bao giờ để ý đến điều đó. Mà nếu tính khí ông ấy có gì đặc biệt đi chăng nữa tì cũng nên chấp nhặt làm gì. - Tại sao? - Một phần vì đó là bản chất ông ấy, chẳng ai thay đổi được. Hơn nữa, chắc là vì ông ấy có nhiều nỗi đau dày vò khiến cho tính khí thất thường. - Về chuyện gì vậy? - Chắc những gì rắc rối trong gia đình ấy mà. - Nhưng ông ấy làm gì có gia đình? - Bây giờ thì đúng là không có thật, nhưng đã từng có… hoặc ít nhất là chuyện anh em trong nhà. Người anh cả của ông đã mất cách đây mấy năm. - Người anh cả à? - Đúng thế, ông Rochester được thừa hưởng gia sản này cũng chưa lâu, mới khoảng chín năm nay thôi. - Thế thì cũng khá lâu rồi còn gì. Chẳng nhẽ ông ấy thương nhớ người anh đến nỗi bây giờ vẫn chưa nguôi ngoai được ư? - Ồ, không! Chắc là không phải như vậy. Tôi tin rằng giữa hai người có sự hiểu lầm nào đó. Ông Rowland Rochester đã xử sự hoàn toàn không phải với ông Edward, và hình như còn xúi giục cha ghét bỏ ông em nữa. Ông bố đẻ của hai anh em nhà này là một người rất thích tiền, lúc nào cũng chỉ lo tiền bị sứt mẻ. Ông ta không muốn chia bớt gia tài cho con cái và cũng không thích ông Edward trở nên giàu có vì sợ mất thể diện của mình. Không lâu sau khi ông con Edward trưởng thành, ông bố đã có những việc không được đẹp cho lắm nên đã gây ra nhiều chuyện không vui. Lấy cớ là tạo điều kiện để con ông trở thành người giàu có, ông già Rochester và cậu con cả Rowland đã câu kết với nhau đưa ông Edward đến một chỗ đen tối khiến ông rất đau đớn. Cho đến giờ tôi vẫn chưa rõ cái chỗ ấy là như thế nào, nhưng nó đã làm cho ông Edward không chịu nổi thì phải. Ông không phải là một người dễ tha thứ nên đã từ cả nhà. Và từ bấy đến nay, đã bao năm trôi qua rồi mà ông vẫn lang bạt kỳ hồ khắp nơi. Từ ngày ông anh qua đời mà không để lại di chúc cho Edward, chưa bao giờ tôi thấy ông ở cái lâu đài Thornfield này lâu tới


nửa tháng. - Tại sao ông ấy cứ muốn bỏ đi như thế? - Có thể là ông cảm thấy lúc nào nó cũng u ám quá. Câu trả lời chẳng khác nào một cách đánh trống lãng. Tôi vài ba câu nữa, nhưng bà Fairfax không thể – hoặc không muốn – cho tôi biết rõ thêm nguyên do và thực chất những gì mà ông Rochester phải trải qua. Bà bảo đó vẫn là một bí ẩn đối với chính bà và những điều bà biết là nhờ phỏng đoán mà thôi. Rõ ràng là bà muốn tôi đừng nhắc đến chuyện ấy nữa, nên tôi đành phải chiều theo vậy.


Chương 14 Mấy hôm sau, tôi ít có dịp gặp ông Rochester. Có vẻ như sáng nào ông cũng bận công việc, rồi đến chiều lại tiếp các quý ông từ Milco e hoặc các vùng lân cận đến thăm và đôi khi còn ở lại dùng bữa tối với ông. Khi vết thương ở cổ chân vừa đỡ và có thể ngồi lưng ngựa được, đã thấy ông lượn suốt mấy ngày. Có thể ông đi thăm đáp lễ các ông khách vừa thăm mình, chỉ đến khuya mới thấy ông về. Trong khoảng thời gian đó, thậm chí đến Adèle cũng ít khi được gặp mặt ông. Về phần mình, thỉnh thoảng tôi mới tình cờ gặp ông ở đại sảnh, trên cầu thang hoặc ngoài hành lang: lúc thì ông phớt đời, lạnh lùng bước qua trước mặt tôi với một cái gật đầu ra chiều cũng biết tôi đang có mặt ở đấy, lúc lại thấy ông cúi chào hoặc mỉm cười thật ga-lăng. Tính khí thất thường của ông làm tôi khó chịu, vì tôi thấy mình chẳng làm gì nên tội cả, cái kiểu sớm nắng chiều mưa của ông là do những nguyên nhân chẳng dính dáng gì đến tôi. Thế rồi một hôm có khách đến nhà dùng bữa tối, ông bảo người cầm tập tranh của tôi xuống, có lẽ để khoe với khách. Theo bà Fairfax kể thì sau đó, mấy ông khách đã về sớm để đi dự một cuộc họp công cộng gì đó ở Milco e. Tối hôm đó, trời ẩm ướt và mưa gió lắm, ông Rochester không đi theo họ. Khách vừa về, ông rung chuông cho người gọi tôi và Adèle xuống dưới nhà. Tôi chải đầu cho Adèle và thay quần áo cho nó, rồi sửa lại cách ăn mặc của mình cho thật gọn gàng và cùng cô bé xuống dưới nhà. Adèle cứ thắc mắc [30] không hiểu cái petit coffre của nó đã được gửi đến hay chưa, bởi một sự nhầm lẫn nào đó đã khiến món quà của nó đến chậm. Con bé đã được toại nguyện, vì lúc bước vào phòng ăn, chúng tôi thấy trên bàn có một cái bìa nhỏ bằng bìa cứng. Có lẽ như linh tính đã mách bảo Adèle biết. [31] - Ma boite! Ma boite! – Nó mừng quýnh reo lên và chạy về phía cái hộp. - Vâng, hộp của cô đấy, đem ra góc nhà kia mà chơi, đúng là con gái Paris có khác. – Ông Rochester nói bằng một giọng trầm trầm, vẻ như chế nhạo, ông ngồi trong chiếc ghế bành rộng kê bên lò sưởi. – Nhưng nhớ là mở ra thấy gì thì thấy, đừng có quấy rầy tôi đấy, nghe chửa? Cứ ngồi yên một chỗ mà xem, nghe chửa, cô nhóc?


Có lẽ chẳng cần phải nhắc nhở Adèle như vậy, bởi vì nó cầm cái kho tàng quý giá của mình và lui vào một chiếc ghế tràng kỷ, chăm chú cởi chiếc dây buộc quanh chiếc hộp rồi. Vừa mở nắp hộp và lột tờ giấy thiếc bọc ngoài, [32] nó đã kêu toáng cả lên: “Oh! Ciel! Que c’est beau!” rồi nó ngây người ra ngắm. - Cô Eyre có đầy không nhỉ? – Đến bây giờ mới thấy ông chủ hỏi và quay người ra cửa, phía tôi đang đứng. - À! Tốt rồi, cô ngồi xuống đây. – Ông kéo một chiếc ghế lại gần chỗ tôi đang ngồi. – Tôi không thích nghe con nít huyên thuyên, bởi một người có tuổi độc thân như tôi chẳng có cía thú ngồi nghe chúng ngọng líu ngọng lo nói chuyện. Tôi sẽ không thể chịu đựng nổi nếu phải ngồi cả bữa tối với một đứa con nít. Đừng kéo ghế ra xa như vậy, cô Eyre, cứ ngồi đúng chỗ tôi vừa đặt đi… nếu cô vui lòng. Cái kiểu cách khách sáo thế sao mà rối rắm thế? Thế đấy, lúc nào tôi cũng có thể quên cái lễ tiết xã giao ấy được. Mà tôi cũng đặc biệt không những bà già có đầu óc nghèo nàn cằn cỗi. Đấy, suýt nữa thì lại quên mất bà ấy, đãng trí thế không biết nữa! Bà ấy là một người trong họ Fairfax hoặc nói đúng hơn, bà ấy đã cưới một người của họ nhà này. Dù sao [33] thì giọt máu đào cũng hơn ao nước lã mà. Ông rung chuông cho mời bà Fairfax đến, và bà đã đến ngay với chiếc giỏ đựng đồ đan trên tay. - Chào bà, tôi kêu bà đến vì một việc có đức đây. Tôi đã cấm Adèle nói gì với tôi về món quà của nó, mà nó thì đang mừng cuống cả lên. Bà làm ơn chịu khó ngồi nghe và nói chuyện với nó hộ tôi, âu đó cũng là một trong những cử tốt đẹp nhất mà bà từng làm. Quả nhiên, vừa trông thấy bà Fairfax, Adèle đã gọi ầm lên, nó bảo bà ngồi xuống ghế và cuống quýt xếp đầy vào lòng bà mấy thứ đồ chơi bằng sứ, bằng ngà và bằng sáp vừa moi trong hộp ra, rồi líu lo giải thích một thôi một hồi bằng thứ tiếng Anh sai be bét. - Thế đấy, tôi đã làm được phần nào cái việc của một ông chủ nhà tốt nết. – Ông Rochester nói tiếp – để cho các vị khách của mình được ngồi vui chơi với nhau, vì vậy tôi cũng phải được thảnh thơi để nhấm nháp niềm vui của mình chứ. Cô Eyre này, kéo ghế về phía trước một chút nữa đi, cô vẫn lùi


ra sau quá nhiều thì phải. Tôi không thể nhìn cô mà cứ phải ngồi im như ông phỗng trên chiếc ghế bành ấm êm này; thú thực là tôi không nghĩ mình phải làm như vậy. Dù muốn ngồi lui lui một chút vào bóng tối, tôi vẫn phải ngoan ngoãn làm theo đề nghị. Ông Rochester luôn có cái kiểu ra lệnh thẳng tuột như vậy, và dường như việc người khác lập tức phải tuân theo lệnh của ông là điều đương nhiên. Như tôi đã nói, chúng tôi ở trong phòng ăn. Chùm đèn trên trần được thắp từ bữa tiếp khách vẫn tỏa sáng khắp phòng, ngọn lửa hồng trong lò sưởi cũng bập bồng cháy đượm, những tấm rèm rộng đỏ tía buông trước khung cửa sổ dưới những ô cửa tò vò. Tất cả đều không một tiếng động, trừ những tiếng thì thào của Adèle (nó không còn dám nói to). Và mỗi khi nó ngớt lời, tôi lại nghe thấy tiếng những hạt mưa mùa đông đập lộp độp vào cửa kính. Rochester ngồi trên chiếc ghế bọc lụa Đa-mat, trông ông không còn cái vẻ nghiêm nghị và buồn bực như tôi đã gặp những lần trước. Trên môi ông còn đọng một nụ cười, đôi mắt sáng long lanh, không hiểu có phải là do ông vừa uống rượu hay không, nhưng tôi nghĩ chắc là như vậy. Tóm lại, trông ông đúng là đang trong tâm trạng của một kẻ vừa xong bữa, cởi mở và vui vẻ hơn, chứ không còn lạnh lùng cứng nhắc như buổi sáng, song không vì thế mà ông mất đi cái vẻ dữ dằn vốn có. Ông ngả cái đầu to tướng vào lưng ghế tựa, đẻ mặc cho ánh lửa soi rõ những nét mặc như đá tạc và đôi mắt đen sâu thẳm, quả thực là ông có một đôi mắt to, và cũng rất đẹp nữa. Thỉnh thoảng trong đôi mắt sâu thẳm ấy cũng ánh lên một cái gì đó khang khác, nếu không hẳn là sự dịu dàng thì ít nhất cũng gợi cho bạn cái tình cảm ấy. Ông chăm chú ngồi nhìn ngọn lửa khoảng hai phút, rồi bất ngờ quay lại và bắt gặp ánh mắt tôi, - Định kiểm tra tôi đấy à, cô Eyre? – Ông nói. – Cô có nghĩ là tôi đẹp trai không? Nếu suy nghĩ một chút, chắc là tôi đã đáp lại câu hỏi ấy bằng một câu chung chung và lịch sự, nhưng chẳng hiểu thế nào tôi lại buộc miệng trả lời luôn trước khi ý thức được sai lầm của mình. - Không, thưa ông.


- Chà chà! Được đấy! – Ông bảo. – Cô quả là khác người đấy, lúc nào cũng có cái vẻ của một nữa tu sĩ trẻ, là lạ, lặng lẽ, nghiệm trọng và giản dị, như khi cô ngồi đặt hai tay trước gối và đôi mắt thường nhìn xuống thảm dưới chân (tất nhiên là trừ những lúc đôi mắt ấy nhìn chòng chọc vào mặt tôi, như bây giờ chẳng hạn), hoặc khi có người nào hỏi một câu hay đưa ra một bình phẩm nào đó buộc cô phải trả lời thì cô lại buông ngay ra một câu tròn xoe, nếu không phải là nói cùn thì ít nhất cũng là một lời thô bạo. Cô trả lời tôi như vậy là như thế nào? - Thưa ông, tôi đã quá thật thà, mong ông thứ lỗi cho. Lẽ ra tôi phải bảo rằng quả là không dễ khi trả lời một câu hỏi bất chợt về hình thức bề ngoài, rằng sở thích mỗi người một khác, và sắc đẹp đâu phải là một điều gì quá quan trọng, hoặc một câu trả lời nào đó tương tự. - Lẽ ra cô đừng nên trả lời bằng một câu như vậy. Sắc đẹp không phải là điều gì quá quan trọng! Vậy là với cái cớ muốn làm dịu bớt cái câu xúc phạm ấy, muốn vuốt ve an ủi cho nỗi lòng tổn thương của tôi, tình cờ cô đã đâm thêm cho tôi một nhát vào tai! Cô cứ nói tiếp đi, cô thấy tôi có những khiếm khuyết gì nào? Tôi cho rằng mình cũng có đủ tứ chi và đường nét như bất cứ một người đàn ông khác đấy chứ? - Ông Rochester, cho phép tôi được quên câu trả lời ban đầu của mình. Tôi đã không khéo, nhưng dù sao đó cũng chỉ là một sự sai lầm. - Đúng thế, tôi cũng nghĩ thế, nhưng dù sao thì cô cũng phải chịu trách nhiệm về sự sai lầm đó. Cô cứ việc phê bình tôi. Có phải cô không ưa vầng trán tôi không? Ông hất ngược mái tóc đen ra sau, để lộ một vầng trán thông minh cương trực, nhưng lại thiếu cái vẻ hiền hậu của một tấm lòng nhân tử. - Thế nào, cô trông tôi có giống một thằng ngu không? - Còn lâu mới như vậy, thưa ông chủ. Nhưng có thể ông sẽ nghĩ tôi là một đứa thô lỗ nếu tôi hỏi lại rằng ông có phải là một người bác ái không? - Lại thế rồi! Lại thêm một nhát dao nữa đâm vào tai tôi rồi, chỉ vì tôi nói tôi không thích gần trẻ con và bà già thôi đấy. Đúng thế, nói chung thì tôi không phải là một người có lòng nhân ái, nhưng tôi có lương tâm, cô em ạ. –


Nói đến đây, ông đưa tay chỉ vào những cục bướu trên đầu như để chứng minh cho cái gọi là lương tâm đó, cũng may đó chỉ là những cục bướu về đủ nhìn thấy. – Vả lại, hồi trước tôi cũng là người có tấm lòng đấy chứ. Hồi bằng tuổi cô, tôi là một anh chàng hơi một tí là xúc động, biết thông cảm với kẻ nghèo hèn thiếu may mắn. Nhưng rồi số mệnh đã đánh tôi ngã gục, để đến bây giờ tôi có thể tự tâng bốc mình là kẻ cứng rắn và dẻo dai như một quả bóng cao su Ấn Độ, cho dù cũng còn một hai kẽ hở thấm qua được và chỉ có một điểm cảm xúc trong lòng. Thế đấy, liệu có còn hy vọng cho tôi nữa không? - Hy vọng gì, thưa ông? - Hy vọng rằng cuối cùng quả bóng cao su ấy sẽ lại trở thành da thịt. “Chắc là ông ta đã nốc quá nhiều rượu.” – Tôi nghĩ thầm, nhưng không biết trả lời câu hỏi kì quặc của ông ta như thế nào. Làm sao nói được rằng ông có thể biến thành như cũ hay không kia chứ? - Trông cô có vẻ bối rối lắm, cô Eyre ạ. Mặc dù cô cũng chẳng đẹp so với cái vẻ bề ngoài của tôi chút nào, nhưng cái vẻ bối rối đó lại rất hợp với cô. Nhưng có khi như thế lại hay, vì nó buộc ánh mắt soi mói của cô phải tránh mặt tôi mà nhìn xuống những bông hoa in trên thảm, vậy thì cứ bối rối tiếp đi. Cô em ạ, tối nay tôi muốn đàn đúm để chuyện trò. Ông vừa nói vừa rời khỏi ghế và ra đứng tì tay lên mặt lò sưởi. Lúc này tôi đã có thể nhìn thấy rất rõ nét mặt và thân hình ông. Bộ ngực rộng khác thường của ông trông chẳng mấy cân xứng với chiều dài của chân tay. Tôi cho rằng nếu thấy ông, chắc chắn sẽ có nhiều người bảo ông là kẻ xấu xí, ấy vậy mà ông vẫn không ý thức được điều đó thì phải, bởi lúc nào cũng thấy ông tỏ ra chẳng quan tâm gì đến hình thức thiếu hấp dẫn của mình. Vì vậy, khi nhìn ông, người ta cũng rất dễ phải chia sẻ cái vẻ thờ ơ đó, thậm chí còn rơi vào tình cảnh tin tưởng mù quáng như ông. - Tối nay tôi muốn đàn đúm để chuyện trò, – ông nhắc lại – và đó là lí do giải thích tại sao tôi cho mời cô đến đây. Lò sưởi và chùm đèn không đủ làm bạn với tôi, cả con Pilot cũng vậy, tất cả những thứ đó đều không biết nói chuyện. Adèle có hơn đấy, nhưng còn xa mới đạt được yêu cầu, cả bà Fairfax cũng chẳng hơn gì. Đến lượt cô, tôi thấy mình bị thuyết phục; cô có thể thích hợp với tôi nếu như cô muốn. Cô đã làm tôi bối rối vào cái buổi đầu tiên tôi mời cô xuống đây. Nhưng có rất nhiều ý tưởng đã xua tôi ra khỏi đầu óc tôi.


Nhưng tối nay, tôi quyết phải thư giãn, gạt bỏ mọi sự bực bội trong lòng và chỉ nhớ lại những điều vui vẻ. Bây giờ tôi sẽ rất vui nếu có thể hiểu thêm về cô… bởi vậy cô cứ nói chuyện cho thoải mái đi. Thay vì đáp lại, tôi chỉ mỉm cười, một nụ cười không ra tự mãn mà cũng chẳng ra phục tùng. - Nào, nói đi chứ. – Ông giục. - Về chuyện gì, thưa ông? - Bất cứ chuyện gì cô thích. Tôi để cô được tùy ý lựa chọn chủ đề và cách nói chuyện. Tôi chẳng nói chẳng rằng và ngồi im một chỗ. “Nếu tưởng mình nói chỉ để mà nói và để khoe mẽ thì thế nào ông ta cũng thấy là đã chọn nhầm người cho mà xem.” – Tôi nghĩ. - Cô không biết nói sao, cô Eyre? Tôi vẫn ngồi im như thóc. Ông hơi nghiêng người về phía tôi, mắt nhìn chòng chọc. - Ngang bướng ghê nhỉ? – Ông nói. – Và lại còn khó chịu nữa chứ! Mà cũng phải thôi. Cách ăn nói của tôi thật là lố bịch và có khi còn xấc xược nữa. Cô Eyre ạ, xin cô thứ lỗi cho. Trước sau tôi cũng xin được nói một lần rằng thật ra tôi không hề muốn đối xử với cô như một kẻ dưới, ý tôi muốn nói (tự sửa lại) tôi hơn cô hơn hai mươi năm tuổi và một thế kỷ về kinh nghiệm mà thôi. Đó là điều xác đáng. Và chính vì cái hơn ấy, và chỉ thế thôi, mà bây giờ tôi mong cô hãy vui lòng nói chuyện với tôi một lúc, để tôi được nhẹ đi những suy nghĩ trong lòng, những suy nghĩ bị chốt cứng tại một điểm, đang ruỗng mục như một chiếc đinh gỉ lâu ngày. Ông đã hạ cố giải thích với tôi như một lời xin lỗi. Thú thực là tôi cảm thấy xúc động trước sự hạ mình của ông, chỉ có điều tôi không muốn để lộ cái cảm xúc của mình. - Tôi rất muốn, hoàn toàn muốn làm cho ông vơi nhẹ nỗi lòng nếu như có thể, nhưng quả thật tôi chẳng biết phải nói gì cả, bởi tôi đâu biết ông quan tâm đến vấn đề gì kia chứ? Xin ông cứ việc đặt câu hỏi, rồi tôi sẽ cố gắng hết sức cố gắng trả lời.


- Vậy thì trước tiên, cô hãy đồng ý với tôi rằng tôi có quyền tỏ ra là một người độc đoán bề trên đã. Có thể đôi khi cũng đúng thế thật nếu căn cứ vào những lời tôi đã nói với cô. Dù sao thì tôi cũng đáng tuổi cha cô, tôi đã lăn lộn từng trải với đủ hạng người ở những mảnh đất khác nhau, và đã từng lang bạt trên khắp nửa quả đất này, trong khi cô chỉ biết sống âm thầm với một vài người trong một ngôi nhà thôi, cô có đồng ý thế không? - Xin ông cứ làm theo ý mình. - Đó chưa phải là một câu trả lời, hoặc đúng hơn đó chỉ là một câu nói khiến tôi khó chịu, vì nó là cái kiểu nói lảng… hãy trả lời thật rõ cho tôi xem nào. - Thưa ông, tôi không nghĩ rằng ông có quyền ra lệnh cho tôi chỉ vì ông nhiều tuổi hơn tôi, hoặc vì ông biết nhiều điều trên đời này hơn tôi. Cái quyền đòi làm bề trên của ông phải tùy thuộc vào việc ông đã sử dụng thì giờ và kinh nghiệm của ông như thế nào. - Hừm! Đối đáp nhanh ghê nhỉ? Nhưng tôi không đồng như thế, vì thấy nó không khiến tôi thỏa mãn. Vậy là tôi đã sử dụng vô ích, nếu không nói là sử dụng tồi, cả hai điểm ưa thế đó. Thôi, hãy quên cái chuyện trên trên dưới dưới ấy đi, nhưng cô vẫn phải đồng ý thỉnh thoảng nghe tôi nói bằng cái giọng ra lệnh mà không tự ái chứ? Tôi mỉm cười và nghĩ bụng: “Cái ông Rochester này kể cũng kỳ cục thật, ông ta nói cứ như thể ông ta quên mất rằng ông ta trả mình 30 bảng mỗi năm chỉ là để mình phải tuân lệnh ông ta rồi ấy”. - Cười duyên lắm, – ông ta nói như nắm bắt được suy nghĩ thoáng qua ấy của tôi – nhưng kể ra nói được một chút thì hay hơn. - Thưa ông, tôi đang nghĩ rằng chẳng có mấy ông chủ tỏ ra áy náy đến nỗi phải hỏi những kẻ làm thuê ăn lương xem học có bị tổn thương khi nghe mình ra lệnh hay không. - Những kẻ làm thuê ăn lương! Sao, cô là người làm thuê ăn lương của tôi à? Ừ nhỉ, tôi quên khuấy cả chuyện lương bổng! Được đấy, thế nếu lấy điều này làm cơ sở, cô sẽ đồng ý để tôi được bắt nạt cô một chút chứ? - Không, thưa ông, không phải trên cơ sở đó, mà là trên cơ sở ông đã


quên mất điều đó để rồi cứ phải lo không biết kẻ làm thuê đó có cảm thấy thoải mái với cái địa vị phụ thuộc của mình không, và nếu vậy thì tôi sẽ hoàn toàn đồng ý. - Thế cô có vui lòng bỏ qua những cử chỉ hình thức và lời nói xã giao và không nghĩ rằng tôi đã xấc xược vì lại quên những điều hình thức xã giao đó không? - Thưa ông, tôi dám chắc mình sẽ chẳng bao giờ có chuyện nhầm lẫn giữa lời ăn tiếng nói tự nhiên với sự xấc xược được. Tôi thích điều thứ nhất, còn điều thứ hai là không thể chịu được đối với một con người tự do, kể cả đối với một người làm thuê vì tiền cũng vậy. - Bịp bợm nào! Hầu hết những kẻ gọi là tự do ấy đều quy phục trước bất cứ một điều gì để được trả tiền. Bởi vậy, cô nên giữ mức độ, đừng nói liều về những điều chung chung mà mình không biết. Tuy nhiên, tôi cũng đồng ý với câu trả lời của cô, cho dù đó không phải là một câu chính xác, và cũng tán thành cả cái cách thể hiện và nội dung của lời nói đó. Đó là cách nói rất thẳng thắn và thành thực. Không phải lúc nào người ta cũng bắt gặp cách xử sự như vậy mà ngược lại, có khi sự giả dối, hời hợt, hoăc sự hiểu lầm ngu xuẩn về ý nghĩa của câu trả lời lại thường là những cái được gọi là phần thưởng cho tính bộc trực. Trong ba nghìn cô giáo, may lắm mới có ba cô trả lời tôi như cô vừa trả lời. Nhưng đừng vội nghĩ là tôi nịnh bợ cô nhé. Nếu cô được rèn giũa trong một khuân mẫu khác hẳn mọi người thì cô cũng đừng nên hãnh diện, vì đó là điều xứng đáng với cô. Và muốn nói thì gì thì nói, như vậy là tôi đã quá vội đưa ra kết luận, bởi theo tôi hiểu thì có thể cô cũng chẳng hơn gì những người còn lại, biết đâu cô chẳng có những lỗi lầm không thể tha thứ được bên cạnh một vài điểm tốt. “Ông cũng có thể như vậy lắm chứ.” – Tôi nghĩ bụng và bất chợt bắt gặp ánh mắt của ông. Có vẻ như ông đã đọc được ý nghĩ ấy trong ánh mắt tôi, nên đã nói với tôi như thể ánh mắt tôi đã thốt ra thành lời cái ý nghĩ của mình. - Đúng, đúng, cô có lý lắm, – ông nói – tôi biết bản thân tôi cũng có nhiều điều đáng chê trách lắm chứ, và tôi cũng không hề có ý định tìm cách che đậy những lỗi lầm đó, tôi đảm bảo với cô như vậy. Chúa muốn tôi đừng nên quá ác nghiệt với người khác. Tôi có một quá khứ đầy ắp sự kiện để mà suy nghĩ trong lòng, sắc màu cuộc sống ấy của tôi đã khiến tôi không tránh


khỏi sự nhạo báng đàm tiếu của người sống quanh mình. Tôi bắt đầu, hoặc nói đúng hơn (cũng như tất cả những kẻ phạm lỗi lầm, tôi thích trút một nửa sai trái cho hoàn cảnh và cho số phận tồi tệ) là đã bị xô đẩy vào con đường lỗi lầm hồi hăm mốt tuổi, và kể từ đó tôi không còn trở lại được con đường chính nghĩa nữa. Lẽ ra tôi cũng là người tốt như cô. Sao tôi thèm cái tâm hồn thanh thản, cái lương tâm trong sạch, cái dĩ vãng không hề bị hoen ố của cô đến thế. Cô bé ạ, một dĩ vãng không vết nhơ, không ô uế là một kho báu – một nguồn vui thuần khiết mát lành không bao giờ cạn, đúng thế không? - Thưa ông, thế dĩ vãng tuổi mười tám của ông như thế nào? - Hoàn toàn tốt đẹp và trong trẻo, không một chút cặn bẩn biến nó thành vũng nước hôi thối. Hồi đó, tôi cũng như cô tuổi mười tám, hoàn toàn như cô thôi. Nói chung, tôi được tạo hóa sinh ra là để làm một con người tốt, cô Eyre ạ. Vậy mà, như cô thấy đấy, tôi không phải là một con người như thế. Chắc cô lại sắp nói rằng cô không thấy như vậy, hoặc ít nhất là tôi đang tự lừa phỉnh rằng tôi đã đọc được một điều như vậy trong mắt của cô (lạ thật, không hiểu sao những gì hiện lên trong ánh cô đều bị tôi nhanh chóng nhận ra hết). Hãy cứ tin ở tôi, cô bé ạ, tôi không phải là một kẻ xấu xa độc ác. Đừng nên cho tôi là một người như vậy, đừng nên gán ghép tôi là một người nổi trội ở cái tính xấu xa. Tôi dám chắc rằng mình hư thân mất nết là do hoàn cảnh hơn là do khuynh hướng tự nhiên. Vâng, tôi chỉ là một kẻ phạm phải những lỗi lầm bình thường, những chuyện chơi bời nhỏ nhặt đáng thương mà tất cả những kẻ giàu có, những thằng vô công rồi nghề vẫn làm trong cuộc sống của họ. Cô có thắc mắc tại sao tôi lại thú nhận điều đó với cô không? Cô nên hiểu rằng trên đoạn đường đời tương lai của mình, cô sẽ luôn thấy cái cảnh mình bị những người xung quanh buộc phải nghe những lời tâm sự thầm kín. Theo mách bảo của bản năng, người ta sẽ cảm thấy, cũng như cảm nhận của tôi đây, rằng cô không có khiếu nói về bản thân mình mà chỉ biết nghe người khác nói về họ thôi. Họ cũng sẽ cảm thấy rằng cô nghe họ tâm sự mà không tỏ vẻ khinh miệt ác ý, thay vào đó là sự thông cảm thiên bẩm, như muốn khích lệ và an ủi họ vì đó là những biểu lộ tự nhiên, không hề ngượng ngịu miễn cưỡng. - Làm sao ông biết được? Chẳng lẽ ông có thể đoán được tất cả những điều đó, thưa ông? – Tôi biết rất rõ, vì vậy tôi đã thoải mái nói chuyện với cô như thể đang viết những dòng suy tưởng của mình lên một cuốn nhật kí. Chắc là cô lại


định nói lẽ ra tôi phải vượt lên trên hoàn cảnh mới phải, lẽ ra tôi nên làm như thế này... nên làm như thế kia. Nhưng, cô thấy đấy, tôi đã không làm được. Khi bị số mệnh đổ ập lên đầu, tôi đã không đủ bình tĩnh khôn ngoan để chịu đựng, mà lại rơi vào tâm trạng tuyệt vọng, rồi suy đổ, xuống dốc. Bây, nếu có một kẻ xấu xa ngu xuẩn nào lấy sự thô tục tầm thường để kích động tôi, khiến tôi kinh tởm, thì bản thân tôi cũng chẳng dám tự ru lòng rằng mình là kẻ tốt đẹp hơn hắn, mà tôi buộc phải thú nhận rằng hắn và tôi đều cùng một giuộc. Tôi ước gì trước kia mình có bản lĩnh – Chúa biết tôi đang mong ước điều đó! Nên biết sợ sự ăn năn hối lỗi khi thấy mình bị cám dỗ vào con đường lầm lạc, cô Eyre ạ, hối hận quả là một thứ độc dược của cuộc đời. - Ăn năn hối tiếc luôn được coi là liều thuốc giải độc, thưa ông. - Đó không phải là một thứ thuốc giải độc. Sửa chữa mới có thể là thuốc giải, và lẽ ra tôi đã có thể sửa chữa, tôi đủ sức để thực hiện điều đó... nếu... nhưng một kẻ tồi tệ, đáng nguyền rủa như tôi, thì nghĩ đến chuyện đó làm gì chứ? Hơn nữa, khi hạnh phúc cứ nhất định lánh xa tôi, thì tôi cũng có quyền hưởng thú hoan lạc ở đời chứ. Tôi sẽ tận hưởng cái hoan lạc đó cho dù phải trả giá như thế nào. - Và rồi ông sẽ lại suy đồi thêm thôi, thưa ông. - Cũng có thể, nhưng tại sao tôi phải từ chối nếu như tìm được cái hoan lạc tươi mát ngọt ngào chứ? Tôi có thể tìm được một cái thú vui cũng ngọt ngào, tươi mát như mật hoa rừng mà những con ong đã cần mẫn hút được. - Mật ấy sẽ có vị đắng đấy, thưa ông. - Làm sao cô biết? Cô đã nếm thử bao giờ đâu. Trông cô nghiêm trang, trịnh trọng chưa kìa! Về vấn đề ấy, cô chẳng biết hơn gì cái đầu đá này (tay cầm một cái đầu bằng đá tạc đặt trên bệ lò sưởi)! Cô không có quyền lên lớp tôi, bởi vì cô chỉ là một cô gái chưa từng bước qua ngưỡng cửa của cuộc đời và hoàn toàn chưa hiểu gì về những điều bí ẩn của nó. - Tôi chỉ nhắc ông nhớ lại những lời chính ông vừa nói thôi, thưa ông: ông nói rằng sự lầm lạc dẫn đến hối hận, và ông đảm bảo rằng hối hận là thuốc độc của cuộc sinh tồn. - Nhưng bây giờ ai nói về sự lầm lạc? Tôi không nghĩ cái ý niệm thoáng qua trong đầu tôi lại là một sự lầm lạc. Tôi tin đó là một cảm hứng hơn là một


sự cám dỗ, nó thật dễ chịu, dịu êm... tôi biết mà. Đấy, tôi đảm bảo với cô rằng nó chẳng phải là ma quỷ, và nếu có là yêu ma đi nữa thì nó cũng đã khoác lên mình một bộ áo của thiên thần ánh sáng. Tôi nghĩ mình phải đón nhận một vị khách như vậy khi hắn muốn bước vào trái tim tôi. - Đừng tin ở hắn, thưa ông, đó không phải là một thiên thần chính trực đâu. - Lại một lần nữa, sao cô biết? Nhờ bản năng gì mà cô phân biệt được giữa vị thần đổ dồn của vực thẳm với vị thiên sứ đến từ chốn vĩnh hằng, giữa người dẫn đường và kẻ cám dỗ? - Tôi phán đoán nét mặt của ông, nó có vẻ rất bối rối khi ông bảo cái ý niệm kia đã trở lại với ông. Tôi cảm thấy nó sẽ làm ông khổ sở hơn nếu ông nghe theo nó. - Hoàn toàn không phải như vậy... nó đem lại cho tôi một thông điệp từ bi nhất đời. Mà cô đâu phải là người gìn giữ tâm tưởng của tôi, vì vậy đừng nên đau đầu làm gì. Nào, hãy vào đây, hỡi kẻ lang bạt kỳ hồ dễ mến ơi! Ông nói như đang trò chuyện với một ảo ảnh mà chỉ riêng mắt ông mới nhìn thấy được, rồi hơi dang tay vòng lại trước ngực, như thể đang ôm chặt lấy một người vô hình nào đó. - Bây giờ, – ông nói tiếp – tôi đã đón chào kẻ hành hương – người tôi tin là một vị thần cải trang. Vị khách đó đã ban phước lành cho tôi. Trái tim tôi trước đây là chốn một địa, nay nó sẽ trở thành nơi thờ phụng. - Thưa ông, thực ra tôi không hiểu ông một chút nào, tôi không theo kịp câu chuyện vì nó vượt ra ngoài tầm hiểu biết của tôi. Tôi chỉ biết có một điều: ông nói ông không được tốt như mong muốn, và ông hối tiếc vì những sai lầm của mình. Tôi chỉ có thể hiểu được một điều: ông ám chỉ rằng việc mang một dĩ vãng dơ bẩn sẽ là mối phiền muộn vĩnh cửu. Tôi thấy có vẻ như nếu nỗ lực hết mình, ông vẫn kịp trở thành một người như chính ông mong mỏi, và nếu ông quyết tâm uốn nắn mọi ý nghĩ và hành động của mình bắt đầu từ ngày hôm nay, thì chỉ trong một vài năm nữa ông sẽ có nhưng hồi ức mới mẻ, trong sáng để có thể thanh thản nhớ lại. - Eyre ạ, cô nghĩ và nói đúng lắm. Ngay từ lúc này, tôi sẽ bắt đầu rải địa ngục bằng nghị lực của mình.


- Ông bảo sao, thưa ông? - Tôi đang trải rộng những ý định tốt đẹp của mình, những ý định mà tôi tin là rất bền vững. Chắc chắn những người bạn và hoài bão của tôi sẽ phải khác trước nhiều. - Và tốt hơn chứ? - Và tốt hơn... như thể khoáng thạch nguyên chất tốt hơn những chất cặn bã ô hợp ấy. Hình như cô vẫn nghi ngờ tôi thì phải? Tôi biết rõ mục đích động cơ của mình là thế nào, và bây giờ tôi sẽ ra một điều luật, một quy định bất biến như luật của người Medes và người Ba-tư, để xác nhận sự đúng đắn của cả cái mục đích và động cơ của mình. - Thưa ông, không thể gọi là đúng đắn nếu mục đích và động cơ của ông đòi hỏi một pháp lệnh mới để hợp pháp hóa. - Cô Eyre ạ, đúng đắn lắm chứ, dù chúng hoàn toàn cần có một định chế mới. Sự ghép nối các sự kiện đặc biệt luôn cần những luật lệ đặc biệt. - Thưa ông, điều đó nghe chẳng khác nào một câu châm ngôn tai hại, bởi bất cứ ai cũng cơ thể nhận ra ngay rằng nó dễ dẫn con người ta đến chỗ lạm dụng. - Chà, nghe như giọng một thánh hiền ấy! Cúng có thể là như vậy, nhưng xin thề là tôi sẽ không lạm dụng nó. - Ông đúng là một con người, nhưng là một con người yếu đuối. - Tôi, đúng, và cô cũng vậy... thế thì sao nào? - Cái con người và cái yếu đuối không thể tùy thích đòi hỏi một quyền lực mà chỉ những bậc thần thánh và sự toàn năng mới được ủy thác. Tôi nói và đứng dậy vì thấy rằng sẽ chẳng ích lợi gì nếu cứ tiếp tục cuộc tranh cãi kểu như vậy, ông chủ đã nói toàn những điều tối nghĩa khiến tôi tối mắt tối mũi. Đã thế tính cách của người đối thoại cũng làm tôi thấy rất khó hiểu. Tôi có cảm giác về một sự thiếu chắc chắn, mơ hồ bất ổn, khiến tôi thấy mình là một kẻ dốt nát.


- Cô định đi đâu thế? - Tôi phải đưa Adèle đi ngủ, đã quá giờ ngủ của nó rồi. - Cô sợ tôi, vì tôi nói chuyện giống như một kẻ bí hiểm quái đản chứ gì? - Những lời ông nói quả thật khó hiểu, thưa ông, nhưng không vì thế mà tôi phải sợ. - Cô đang sợ... lòng tự ái của cô khiến cô sợ sẽ phạm phải sai lầm. - Vâng, quả thực là tôi lo ngại... nhưng tôi cũng không muốn nói toàn những chuyện vô nghĩa. - Nếu đúng là toàn chuyện vô nghĩa thì đó hẳn cách nói chuyện nghiêm túc, điềm tĩnh, khiến tôi tưởng lầm là những chuyện có lý. Cô có bao giờ cười không, cô Eyre? Cô không việc gì phải bối rối khi trả lời tôi... Tôi biết ít khi cô cười, nhưng cô có thể cười rất tươi. Hãy tin ở tôi, về bản chất cô không phải là người khổ hạnh, cũng như bản chất của tôi không phải là kê xấu xa. Sự tù túng ở Lowood ít nhiều vẫn ảnh hưởng đến cô. Cô đang điều khiển nét mặt, đang kiềm hãm lời nói và gò ép cử chỉ của mình, và cô sợ không dám cười quá tươi, nói năng quá thoải mái, hoặc cử động quá nhanh trước mặt một người đàn ông, một người anh – hoặc một người cha, một ông chủ hoặc một ai đấy tùy cô. Hy vọng rằng thời gian sẽ làm cô trở nên tự nhiên hơn đối với tôi, cũng như tôi thấy không thể khách sáo với cô được. Và rồi ánh mắt, cử chỉ của cô sẽ hoạt bát và muôn màu muôn vẻ hơn bây giờ. Tôi biết, thỉnh thoảng tôi cũng thoáng nhận thấy cô giống như một con chim trong lồng đầy sức sống, bồn chồn và cương quyết. Nếu được sổ lồng, cánh chim ấy sẽ bay vút lên nèn trời bao la. Cô vẫn định bỏ đi đấy à? - Đồng hồ vừa điểm chín giờ, thưa ông. - Không việc gì phải bận tâm cả, hãy đợi thêm một phút. Adèle vẫn chưa sẵn sàng đi ngủ. Cô Eyre ạ, tôi đưng quay lưng về phía lò sưởi và nhìn vào giữa phòng nên tiện quan sát lắm. Tuy nói chuyện với cô, nhưng thỉnh thoàng tôi vẫn để ý đến Adèle (tôi có lý do riêng để nghĩ rằng nó cũng là một đứa đáng để tôi để ý, có thể sẽ có một ngày tôi nói cho cô biết lý do đó). Cách đây mười phút, nó lôi trong hộp ra chiếc áo váy bằng lụa màu hồng, trông nó có vẻ hớn hở lắm. Thói làm đỏm đã ngấm vào máu nó, ăn sâu vào đầu óc và [34] xương tủy nó. Nó đã reo lên: “Il faut que J’essaie, et à-J’instant même!” rồi


nó líu ríu chạy ra khỏi phòng. Bây giờ nó đang thử áo cùng với Sophie, chỉ vài phút nữa nó sẽ quay vào thôi. Và tôi đã đoán trước mình sẽ nhìn thấy gì: một Céline Varens thu nhỏ, giống hệt như mẹ nó những lúc xuất hiện trên sân khấu... nhưng đừng bao giờ để ý đến chuyện đó. Tuy nhiên, những tình cảm êm đềm nhất của tôi lại sắp sửa phải trải qua một cú sốc rồi đấy, cô hãy nán lại một chút xem điều đó có trở thành hiện thực hay không. Chẳng phải đợi lâu đã có tiếng chân Adèle bước qua phòng. Nó ào vào với bộ dạng đã thay đổi đúng như ông Rochester đoán trước: một chiếc áo satanh màu hồng cắt rất ngắn và chiếc váy thật rộng thay cho bộ đồ màu nâu khi trước, một chiếc bờm đính hoa hồng ôm ngang vầng trán, chân đi tất lụa xỏ trong đôi xăng đan bằng satanh trắng muốt. - Est-ce que ma robe va bien? – Adèle vừa reo vừa chạy ào đến. – Et mes [35] souliers? Et mes bas? Tenez, je crois que je vais danser! Và nó nhảy thật, chân lướt qua phòng, váy xòe rộng; khi đến gần ông Rochester, nó kiễng chân quay tròn một vòng trước khi quỳ xuống trước mặt ông. - Monsieur, je, vous remercie mille fois de cotre bonté. – Nó liến thoắng rồi [36] nhỏm dậy. – C’est comme cela que maman faisait, n’est-ce pas, Monsieur? [37] - Đú... ú... úng! Comme cela , – ông Rochester trả lời, – bà ấy đã quyến rũ những đồng tiền vàng Anh quốc từ những cái túi người Anh của tôi. Tôi cũng một thời trẻ trai, cô Eyre ạ. Vâng, cái sắc xuân tươi trẻ của cô bây giờ cũng chẳng hơn gì cái tuổi xuân của tôi hồi ấy. Cái thời son trẻ của tôi đã qua rồi, nhưng dẫu sao thì nhó cũng để lại trên tay tôi “bông hoa Pháp bé nhỏ” này, một bông hoa mà có nhiều lúc tôi chỉ muốn tống khứ đi cho rồi. Bây giờ, tôi chẳng ưa gì cái cội rễ đã sinh ra bông hoa đó, bổi tôi đã nhận ra rằng nó chẳng thể tồn tại được bằng cái gì khác ngoài những đồng tiền vàng. Vì vậy tôi cũng chẳng tha thiết gì với đóa hoa, nhất là những lúc trông nó giả tạo như bây giờ. Tôi gìn giữ và vun xới cho nó chẳng qua là tuân theo nguyên tắc đạo đức của Thiên Chúa giáo La mã, lấy một việc tốt chuộc lại bao nhiêu tội lỗi, dù lớn nhỏ cũng vậy. Sẽ có hơm tôi kể rõ đầu đuôi câu chuyện cho cô nghe. Chúc cô ngủ ngon.



Chương 15 Sau này, có một dịp ông Rochester đã kể rõ cho tôi nghe ngọn ngành câu chuyện. Đó là vào một buổi chiều, ông tình cờ gặp tôi và Adèle chơi ở ngoài vườn. Trong khi cô bé mải chơi với con Pilot, ông đề nghị tôi cùng đi dạo trên một lối nhỏ có trồng những cây dẻ gai để nói chuyện. Ông kể cho tôi nghe rằng Adèle là con một vũ nữ nhạc kịch người Pháp tên là Céline Varens, người từng có thời ông yêu thương bằng tình cảm mà [38] ông gọi là một grande passion . Đáp lại mối tình say đắm đó, Céline tỏ ra còn nồng thắm hơn nhiều. Ông tự nghĩ ông là thần tượng của nàng mà quên mất cái hình thức xấu xí của mình; ông tin rằng – như ông bảo – nàng thích [39] cái taille d’athlèth của ông hơn là cái vẻ lịch lãm của tượng thần Apollo Belvidere. - Và cô Eyre ạ, nàng tiên gió xứ Gallic đã làm tôi mê mẩn tự nguyện thuê khách sạn cho cô ta với đủ thứ tiện nghi, kẻ hầu người hạ, xe ngựa, khăn quàng, kim cương, đăng ten... Nói tóm lại, tôi bắt đầu cái đà khuynh gia bại sản của mình theo đúng cái kiểu dại gái thông thường, như bất cứ thằng dại gái nào khác. Có vẻ như tôi đã không tìm được một con đường mới nào đi đến sự nhục nhã và tự hủy diệt tất cả, mà chỉ loanh quanh ngu xuẩn đi theo đúng cái lối mòn cũ, không hề chệch một ly. Tôi phải – cũng xứng đáng thôi – chịu chung số phận của những kẻ dại gái. Một buổi tối, không đợi Céline mời, tôi tình cờ đến thăm, nhưng cô ta lại đi vắng. Đó là một buổi tối ấm áp, tôi tha thẩn dạo bộ trên các nẻo phố thành Paris. Thấy mệt mỏi, tôi bèn ngồi nghỉ trong phòng cô ta và cảm thấy rất vui khi được hít thở cái mùi thơm thiêng liêng của cô ta còn vương lại trong phòng. Không... đấy là tôi phóng đại thế thôi, chứ thực ra trong phòng chẳng có gì là thiêng liêng cả, hoặc nói đúng hơn thì đó là mùi thoang thoảng của một loại kẹo thơm còn rớt lại, và mùi xạ hương hổ phách chứ chẳng phải một cái gì thánh thiện. Tôi bắt đầu thấy ngột ngạt vì cái mùi hương nên phải mở cửa sổ ra và đứng chơi ngoài ban công. Cảnh vật thật bình yên dưới ánh trăng và ánh đèn khí đốt. Ngoài ban công có đặt một hai chiếc ghế tựa, tôi lặng lẽ ngồi xuống và châm một điếu xì gà... Xin lỗi nhé, nếu cô cho phép thì bây giờ tôi cũng sẽ châm một điếu.


Ông ngừng lời, rút một điếu ra châm. Sau khi rít một hơi, thở ra một làn khói đặc mùi thơm của loại xì gà La Habana tỏa ra trong bầu không khí giá lạnh vắng bóng mặt trời, ông kể tiếp: - Hồi đó, chính tôi cũng rất thích ăn kẹo, cô Eyre ạ, tôi đang vừa nhá kẹo sôcôla (cô bỏ quá cho cách dùng từ thô lỗ này) vừa hút thuốc, vừa ngắm nhìn những chiếc xe ngựa đang chạy thong dong theo những dãy phố hướng về nhà hát kịch gần đó, thì một chiếc xe hai ngựa kéo – một cặp tuấn mã Anh tuyệt đẹp – xuất hiện dưới ánh đèn phố. Tôi chợt nhận ra đó chính là “cỗ xe” tôi đã tặng Céline. Cô ta đã về. Tất nhiên là trái tim tôi lại bắt đầu hồi hộp thổn thức khi tôi đứng tì vào chiếc lan can sắt. Đúng như tôi mong đợi, chiếc [40] xe đỗ lại trước cửa khách sạn. Ngọn lửa của tôi (đó chính là cách gọi trong một vở nhạc kịch của người Ý) nhẹ nhàng bước xuống. Mặc dù nàng khoác trên mình một chiếc áo choàng kín mít – chiếc áo khoác có vẻ rất không cần thiết giữa một buổi tối tháng Sáu ấm áp như thế – nhưng khi đôi chân nhỏ nhắn lộ ra dưới tấm áo, tôi vẫn nhận ngay cô ta khi cô ta vừa bước xuống bậc xe. Tôi đang định nhoài người ra ban công gọi “thiên thần của tôi ơi” bằng cái giọng thì thầm của một thằng đang yêu, thì chợt có một người cũng mặc áo choàng từ trên xe bước xuống theo. Nghe tiếng gót giày nện trên mặt đường và nhìn cái mũ trùm trên đầu vị khách đang cùng đi với cô ta vào cổng khách sạn, tôi biết đó là một gã đàn ông. “Cô chưa bao giờ cảm thấy ghen tuông, đúng không Eyre? Tất nhiên là đúng, tôi chẳng cần phải hỏi, vì cô đã bao giờ yêu đâu mà ghen với chả tuông. Nhưng rồi cô sẽ trải qua cả hai tình cảm đó thôi. Tâm hồn cô vẫn đang yên bình trong giấc ngủ, nhưng rồi sẽ có ngày, một cú sốc nào đó sẽ thình lình đến đánh thức nó dậy. Cô nghĩ rằng cuộc đời cô, từ thủa ấu thơ cho đến bây giờ, cứ lặng lẽ trôi đi như một dòng chảy êm đềm. Cô lững lờ trôi theo cuộc sống, mắt nhắm tịt, tai điếc đặc, đâu có thấy những mỏm đá lởm chởm mọc giữa dòng, đâu có nghe thấy tiếng sóng nước sôi sục xung quanh. Nhưng tôi nói để cô biết rằng – và cô có thể nhớ những gì tôi đã nói đây – rồi sẽ có một ngày cô tới một khúc sông lởm chởm đá ngầm, để rồi bị hất tung lên thành một vòng xoáy thét gầm mờ mịt, điên đảo quay cuồng. Khi đó, hoặc là cô sẽ bị xé tan thành những hạt bụi mờ bắn tung tóe, hoặc sẽ bị cuốn phăng theo dòng chảy trước khi đến một khoảng lặng hơn, như tôi hiện giờ đây này. “Tôi thích ngày hôm nay, thích cái bầu trời xám xịt màu thép, thích sự u


ám câm lặng của thế giới dưới màn sương giá buốt này. Tôi yêu Thornfield vì cái vẻ xưa cũ cổ kính, vì những ngọn cây cổ thụ đầy tổ quạ và những gốc cây sồi già của nó. Tôi yêu cái màu xám của tiền sảnh lâu đài với những ô cửa sổ u tối. Vậy mà bấy lâu nay, tôi ghê tởm đến cả ý nghĩ về nó, xa lánh nó như xa lánh một ổ dịch hạch! Sao tôi vẫn còn ghê tởm nó đến thế...” Ông nghiến răng ken két, lặng im, rồi dừng bước, nện gót giày xuống nền đất khô cứng. Hình như ông đang bị một ý nghĩ căm hận giữ chặt lấy đôi chân, khiến ông không thể cất bước được nữa... Chúng tôi đang bước ngược lên lối đi thì ông dừng bước, tòa lâu đài đứng ngay phía trước. Ngước nhìn những lỗ châu mai, mắt ông chợt sáng lên vẻ căm hờn mà từ trước đến nay tôi chưa từng thấy. Sự đau đớn, tủi nhục, giận dữ, bồn chồn, ghê tởm, căm ghét như cùng lúc ào đến giằng xé nhau kịch liệt trong con ngươi mở to dưới cặp lông mày đen rậm của ông. Cuộc vật lộn hẳn sẽ quyết liệt đến đỉnh điểm nếu như không có một tình cảm khác bất ngờ nổi lên và thắng thế, một cái gì đó cứng rắn, vị kỷ, ngang tàng và cương quyết. Nó làm ông dịu bớt nỗi lòng và khiến vẻ mặt ông trơ ra như đá. Rồi ông kể tiếp: - Cô Eyre ạ, tôi yên lặng một lúc chẳng qua là để dàn xếp một điểm với số mệnh của tôi đấy. Số mệnh ấy đứng kia kìa, ngay cạnh thân cây sồi ấy; một mụ phù thủy giống như những kẻ đã hiện lên gặp Macbeth ở giữa cánh đồng Forres. Mụ giơ ngón tay lên hỏi tôi: “Ngươi có thích lâu đài Thorfield không?”, rồi mụ viết vào không khí, dọc phía trước tòa nhà, ở giữa hai hàng cửa sổ tầng trên và tầng dưới, toàn những chữ ma quái: “Hãy cứ thích nó nếu ngươi có thể! Hãy cứ thích nó nếu ngươi dám!” Tôi trả lời luôn: “Ta sẽ thích nó, dám thích nó đấy” và (ông nói tiếp, vẻ rất bực bội) tôi sẽ giữ lời, tôi sẽ bẻ gẫy mọi trở ngại của hạnh phúc và sự tốt đẹp – đúng thế, sự tốt đẹp. Tôi mong mình sẽ trở thành một người tốt hơn cái tôi của trước kia và cả bây giờ – giống như con vật khổng lồ của Job bẻ gãy những ngọn giáo mác; những trở ngại mà mọi người coi như sắt thép, sẽ chỉ là rơm rạ, củi mục đối với tôi. Adèle không biết từ đâu cầm quả cầu chạy đến ngay trước mặt ông, khiến ông bực mình gắt lên: “Đi chỗ khác chơi đi, đồ con nít, không thì vào trong nhà mà chơi với Sophie!” Tiếp tục lặng lẽ bước theo ông, tôi đánh bạo nhắc ông kể tiếp câu chuyện bỏ dở.


- Thế lúc cô Varens vào, ông vẫn cứ đứng ở ban công à? Tôi cứ tưởng ông sẽ gắt ầm lên sau câu hỏi hơi không đúng lúc đó, nhưng trái lại, ông đã bừng tỉnh sau một hồi suy tưởng miên man và đưa mắt nhìn tôi, và cái bóng u uất dường như cũng tan biến trên vầng trán ông. - Ồ, tôi quên khuấy đi mất, chuyện Céline! Được rồi, để tôi kể tiếp. Khi nhìn cô nàng duyên dáng của mình bước vào nhà cùng kẻ lạ mặt kia, tôi thấy dường như mình đang nghe thấy tiếng rít phì phì, rồi con rắn ghen tuông xanh lè bỗng ngóc đầu dậy khỏi cái ban công tràn ngập ánh trăng, nó luồn vào trong lớp áo gi-lê của tôi và chỉ trong hai phút nó đã luồn vào đến tận sâu thẳm trái tim tôi. Kỳ lạ thật! – Ông bỗng kêu lên và nói sang chuyện khác. – Thật là lạ khi tôi dốc hết chuyện này kể cho một người con gái như cô, rồi cô lại lặng lẽ lắng nghe tôi nói cứ như thể việc một người như tôi đem chuyện tình ái với các ả đào của mình ra kể với một cô gái kỳ cục, ít từng trải như cô là điều thường tình nhất trên đời vậy. Nhưng như tôi đã nói với cô rồi, cái vẻ nghiêm trang, thận trọng và cảnh giác của cô cho thấy rằng cô đúng là một người sinh ra để nghe những chuyện riêng tư thầm kín của người khác. Tôi hiểu mình đang đặt tâm hồn của mình kết nối với một tâm hồn như thế nào. Đó là một tâm hồn không dễ bị lây nhiễm, một tâm hồn đặc biệt và độc nhất. Cũng may là tôi không có ý định làm hại nó, mà nếu tôi có muốn đi chăng nữa thì nó cũng sẽ chẳng bị ảnh hưởng gì từ tôi. Tôi và cô càng nói chuyện bao nhiêu lại càng tốt bấy nhiêu, bởi trong khi tôi không thể làm cho cô bị tổn hại thì cô lại có thể làm cho tôi tu tỉnh trở lại. Sau một lúc nói chuyện lạc đề, ông mới trở lại câu chuyện tình của mình: - Tôi vẫn đứng trên ban công, bụng thầm nghĩ: “Thế nào chúng nó cũng vào phòng ả, mình phải chuẩn bị mai phục mới được”. Và tôi thò tay qua ô cửa sổ kéo kín rèm lại, chỉ để hé một chút để nhòm vào bên trong, rồi đóng hờ hai cánh cửa sổ, chừa một kẽ hở đủ để nghe những lời thề thốt của “cặp tình nhân”. Sau đó tôi rón rén về ghế ngồi, đúng vào lúc đôi uyên ương bước vào phòng. Tôi vội ghé mặt nhòm qua khe hở. Bà hầu phòng của Céline bước vào, thắp đèn để trên bàn rồi quay ra. Đôi tình nhân hiện ra rõ ràng trước mặt tôi. Cả hai cởi áo choàng. Verens như bừng sáng trong bộ đồ satanh và nắm đồ nữ trang – tất nhiên toàn là những món quà tôi đã tặng. Gã tình nhân của ả mặc sắc phục sĩ quan. Tôi biết gã là một tử tước xảo quyệt – một thanh niên đầu óc rỗng tuếch và tàn bạo mà thỉnh thoảng tôi vẫn gặp trong những cuộc giao du; tôi chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện căm ghét gã vì thấy


gã là một thằng tôi tuyệt đối khinh bỉ. Khi nhận ra gã, nanh con rắn ghen tuông của tôi lập tức gãy lìa, bởi vì cùng lúc đó, tình yêu của tôi đối với Céline cũng tan biến. Một mụ đàn bà có thể phản bội tôi vì một gã như vậy thì chẳng nên giành lại làm gì, ả chỉ đáng khinh bỉ. Nhưng thực ra ả cũng không đang khinh bỉ bằng tôi, kẻ đã bị nó lừa gạt. “Chúng bắt đầu nói chuyện, câu chuyện thật dễ chịu: nó phù phiếm, tham lam, vô tình, vô nghĩa, khiến người nghe thấy mệt mỏi chứ không bị khùng lên. Tấm danh thiếp của tôi vứt giữa bàn tự nhiên biến thành chủ đề để câu chuyện nhắc đến tên tôi. Cả hai, không đứa nào đủ nghị lực và trí thông minh để đánh gục tôi, nhưng chũng cũng lăng mạ tôi hết sức thô bỉ theo cái cách nhỏ mọn của chúng. Nhất là Céline, ả ngoạc mồm kể vanh vách những khiếm khuyết của con người tôi, khiến tôi bỗng chốc trở thành một kẻ đầy những nét quái thai. Vậy mà trước đó ả vẫn leo lẻo nói khâm phục cái [41] mà ả gọi là beauté male của tôi. Rõ ràng là ả hoàn toàn không giống cô – người đã không ngại ngần nói toạc ra trong lần thứ hai gặp tôi rằng tôi chẳng có gì gọi là đẹp trai cả. Quả thực là đó, sự đối lập ấy đã làm tôi rất xúc động và... Bỗng Adèle lại từ đâu chạy đến: - Thưa ông, John vừa đến và bảo rằng có người đại diện đến tìm gặp ông. - Lại thế nữa! Nếu vậy thì tôi lại phải kể tóm tắt vậy. Tôi mở toang cửa sổ, bước đến trước mặt hai đứa, tuyên bố không “bao” Céline nữa và bảo ả phải rời khỏi khách sạn ngay lập tức. Tuy nhiên tôi cũng chẳng bạc bẽo đến mức không cho nó mấy đồng để chi tiêu cho những việc trước mắt. Tôi chẳng thèm đếm xỉa đến những lời van xin, mếu máo và cái kiểu giãy giụa ra vẻ đau khổ của nó. Và sau đó, tôi hẹn với gã tử tước kia một cuộc gặp trong rừng Boulogne. Sáng hôm sau, tự nhiên tôi cảm thấy vui khi chạm trán với gã và biếu gã một phát đạn vào cánh tay tôi nghiệp, ẻo lả, lòng khòng như cánh gà mắc dịch của gã. Tôi nghĩ thế là mình đã thanh toán được món nợ với cái bọn đểu giả ấy. Nhưng khốn nạn thay, sáu tháng trước đấy. Varens đã sinh hạ ra con bé Adèle này và già mồm bảo rằng đó chính là con gái tôi. Cũng có thể như vậy, mặc dù tôi thấy con bé chẳng mang nét nào giống tôi cả, trông con Pilot có khi còn giống tôi hơn ấy chứ. Tôi cắt đứt quan hệ với Céline được vài năm thì ả đang tâm bỏ đứa bé lại để bám chân một chàng nhạc sĩ, hay ca sĩ gì đó sang Ý. Sau khi ả bỏ đi, tôi vẫn không thừa nhận Adèle là con mình,


nhưng nghĩ đến cái cảnh côi cút cơ cực của con bé, tôi đâm ra động lòng và đã kéo nó ra khoải cái cảnh nhớp nhúa của Paris, rồi đem nó về đây nuôi nấng để nó được lớn lên trên mảnh đất lành mạnh của một miền quê nước Anh này. Bà Fairfax đã mời được cô về đây để dạy dỗ nó; nhưng bây giờ có thể cô sẽ thay đổi thái độ và cách xử sự đối với con bé. Biết đâu một ngày nào đó, cô lại chẳng bảo với tôi rằng cô đã tìm được một chỗ làm khác, rồi đòi tôi tìm một cô giáo khác thay chân và v.v... đúng không? - Không, Adèle không phải chịu trách nhiệm gì về những lỗi lầm của mẹ nó hoặc của ông. Tôi tôn trọng nó và bây giờ, khi biết nó là đứa không cha mẹ, bị bỏ rơi và bị ông vô thừa nhận, tôi lại càng thấy mình phải gần gũi nó hơn trước. Làm sao tôi có thể thích một đứa trẻ được nuông chiều trong một gia đình giàu có, khinh rẻ người dạy dỗ mình như một thứ của nợ hơn một đứa bé bơ vơ mồ côi, hy vọng trông cậy ở tôi như một người bạn kia chứ? - Ồ, quan điểm của cô cũng sáng đấy chứ! Thôi, tôi phải vào nhà đây, và cả cô nữa, cô cũng nên đi vào đi, trời tối rồi còn gì. Nhưng tôi vẫn nán lại vài phút để chơi với Adèle một ván cầu. Vào đến nhà, tôi cởi bỏ mũ áo cho Adèle và ôm nó vào lòng suốt một giờ đồng hồ, để mặc nó huyên thuyên nói chuyện. Tôi không nỡ quở trách con bé dù có lúc nó nói năng hơi lôm côm. Bình thường nó vẫn như vậy, nhất là khi được người khác để ý tới. Điều đó cho thấy cái tính hời hợt mà có lẽ nó được thừa hưởng từ mẹ nó, cái tính vốn rất khó phù hợp với cách nghĩ của người Anh. Tôi có tìm ở nó xem có nét gì giống ông Rochester không, nhưng tuyệt nhiên không thấy, không có bất cứ một đặc điểm nào, một cử chỉ nào chứng tỏ nó có quan hệ máu mủ với ông. Tội nghiệp con bé quá! Nếu nó có một cái gì đó chứng tỏ là nó giống Rochester thì có lẽ ông đã nghĩ đến nó nhiều hơn. Chỉ đến lúc về phòng riêng, tôi mới ngẫm lại thật kỹ câu chuyện mà ông Rochester đã kể. Đúng như ông bảo, nọi dung câu chuyện chẳng có gì là đặc biệt: cũng chỉ là một người Anh giàu có mê mẩn một vũ nữ Pháp rồi bị ả phản bội, một câu chuyện bình thường lúc nào cũng có thể xảy ra trong xã hội. Nhưng nhất định phải có một điều gì không bình thường trong cái cảm xúc bất chợt trào dân trong ông, khi ông bày tỏ sự hài lòng về tâm trạng hiện tại của mình và cái thú được trở lại sống trong tòa lâu đài với những cảnh vật xưa cũ. Lúc đầu, tôi rất ngạc nhiên, nhưng rồi dần dần cũng thôi. Cảm thấy có nghĩ nữa cũng không thể hiểu nổi, tôi bắt đầu quay sang nhìn nhận cách sử sự của ông chủ đối với chính mình. Tôi thấy niềm tin mà ông nghĩ có thể


gửi gắm nơi tôi dường như chỉ là một sự đền đáp đối với tính kín đáo của tôi. Tôi nghĩ và đón nhận nó với ý nghĩ như vậy. Cách xử sự của ông đối với tôi mấy tuần nay có vẻ cũng bình đẳng hơn lúc ban đầu. Tôi không còn thấy ông lạnh lùng làm cao nữa. Những khi tình cờ gặp tôi, ông có vẻ hồ hởi hơn với một câu chào hỏi nhẹ nhàng, hoặc đôi khi còn mỉm cười thân thiện với tôi. Mỗi khi chính thức mời tôi đến gặp mặt, ông đều tỏ ra niềm nở, khiến tôi cảm thấy mình thực sự có khả năng làm cho ông hào hứng. Và những buổi tối trò chuyện ấy quả thực đã đem lại niềm vui cho ông cũng như sự hứng khởi cho tôi. Thực ra tôi không nói nhiều, mà chỉ chú ý ngồi nghe ông nói chuyện. Có vẻ như thích giãi bày là bản tính của ông. Ông thích mở ra cho một tâm hồn chưa từng trải với đời như tôi những ngõ ngách loáng thoáng của cuộc sống (tôi không muốn nhắc đến những tấn trò đời xấu xa và kiểu cách thủ vai đồi bại, mà là những điều đáng quan tâm rút ra từ cái phạm vi bao hàm rộng lớn của tấn trò đời và những điều mới lạ được thể hiện trong đó). Và tôi đã cảm thấy thật thích thú khi được lĩnh hội những ý tưởng mới mẻ mà ông đã truyền đạt, được hình dung những bức tranh khác lạ mà ông đã mô tả, hoặc được tưởng tượng theo ông đi qua những xứ sở xa xôi mà ông đã trải rộng ra bằng lời nói, trong khi không hề có lúc nào bị giật mình hoặc bối rối vì một lời bóng gió độc hại nào. Sự tự nhiên trong cách xử sự của ông khiến tôi không cảm thấy gò bó khiên cưỡng nữa, và sự thẳng thắn theo cách vừa thân mật vừa đúng mức lại càng làm cho tôi thấy ông có sức lôi cuốn hơn. Nhưng lúc như vậy, tôi cảm thấy ông giống như một người thân của mình hơn là một ông chủ. Dẫu có những lúc ông vẫn còn cái giọng hách dịch, nhưng không vì thế mà phải để tâm, tôi hiểu con người ông là vậy. Niềm vui và sự toại nguyện khiến tôi cảm thấy cuộc sống như có ý nghĩa hơn, tôi không còn sầu não vì cái cảnh không có bà con thân thích nữa. Số phận mỏng manh của tôi dường như đang được trải rộng ra, những khoảng trống trong cái tồn tại của tôi dường như cũng được lấp đầy, và cái thể xác của tôi cũng bắt đầu tràn trề nhựa sống với một làn da tươi trẻ và khỏe mạnh hơn trước. Và trong mắt tôi, liệu ông Rochester có còn là một người đàn ông xấu xí nữa không? Không, thưa bạn đọc, sự tri ân và những điều liên tưởng, tất cả đều một mực thân ái và dễ chịu, khiến tôi thấy khuôn mặt ông trở thành một thứ mà tôi muốn nhìn nhất trên đời. Sự có mặt của ông trong bất cứ căn phòng nào cũng hân hoan hơn tất cả những ngọn lửa sáng ngời nhất. Nhưng không phải là tôi đã quên những khiếm khuyết của ông, quả thực là tôi không thể quên vì ông luôn bộc lộ ngay trước mặt tôi. Ông kiêu ngạo, mỉa


mai, khắt khe đối với sự thấp kém theo đủ kiểu. Tự đáy lòng mình, tôi biết cách xử sự tử tế của ông đối với tôi cũng chẳng khác với sự bất công nghiệt ngã mà ông dành cho nhiều kẻ khác là mấy. Ông cũng là người sầu muộn và khó hiểu. Hơn một lần được gọi đến đọc sách cho ông nghe, tôi thấy ông ngồi đơn độc trong phòng thư viện, đầu gục trên hai cánh tay khoanh trước ngực. Khi ông ngẩng mặt lên, tôi thấy ông có vẻ buồn nhiều hơn là giận dữ. Tôi cho rằng cái trầm lặng và nghiệt ngã trong tính tình của ông, cũng như những sai lầm ngày xưa (tôi nói ngày xưa vì hiện nay, hình như ông đã sửa chữa) đều bắt nguồn từ sự ngang trái trớ trêu của số phận. Về bản chất, có lẽ ông là người mang những khuynh hướng tốt hơn, tuân thủ những nguyên tắc cao đẹp hơn và những sở thích lành mạnh hơn, chứ không phải như hoàn cảnh, nếp giáo dục hay số phận đã tạo nên cho ông. Tôi nghĩ trong con người ông vốn có những chất liệu rất tốt, mặc dù hiện tại chúng vẫn đang bị pha tạp hổ lốn. Tôi không thể phủ nhận rằng tôi đau khổ vì nỗi đau khổ của ông cho dù nó được thể hiện dưới hình thức như thế nào, và tôi sẽ cố gắng để làm nguôi dịu đi cái tình cảm day dứt đó. Mặc dù đã tắt nến lên giường đi ngủ, nhưng tôi vẫn không sao chợp mắt được vì nhớ lại cái nhìn của ông hồi chiều, khi ông chợt dừng bước trên lối nhỏ ngoài vườn và bảo tôi rằng số mệnh đã sừng sững hiện lên trước mặt ông và thách ông sống hạnh phúc trong lâu đài Thornfield. “Sao lại không nhỉ?” – Tôi tự hỏi. – Có cái gì ngăn cách ông với ngôi nhà kia chứ? Liệu ông có bỏ nhà mà đi nữa không? Bà Fairfax từng bảo chẳng mấy khi ông lại ở lâu đài quá hai tuần, vậy mà kể từ khi về đây, ông đã ở lại tám tuần rồi. Nếu ông lại bỏ đi thì đó sẽ là một thay đổi đáng buồn. Giả sử ông vắng mặt suốt cả ba mùa xuân, hạ và thu thì những ngày nắng đẹp đối với mình chắc cũng chẳng còn nghĩa lý gì!” Sau một hồi suy nghĩ miên man, không thể hiểu tôi có ngủ thiếp đi hay không, chỉ biết rằng tôi đã giật mình choàng tỉnh khi nghe có tiếng rì rầm mơ hồ, là lạ và thê lương mà tôi nghĩ được phát ra từ ngay phía trên mình. Lẽ ra tôi phải để nến cháy mới phải, vì trời tối đen như mực khiến tôi chẳng nhìn thấy gì. Sợ bủn rủn cả người, tôi rúm ró nhỏm dậy, ngồi trên giường nghe ngóng. Tiếng rì rầm bỗng tắt lịm. Tôi cố ngủ lại nhưng không được vì tâm trạng bồn chồn lo lắng, vì sự bình yên trong lòng tôi bị xáo động. Chuông đồng hồ dưới đại sảnh văng vẳng ngân hai tiếng. Đúng lúc ấy, hình như ai đó chạm vào cửa phòng tôi


giống như tiếng những ngón tay rờ rẫm trên mặt gỗ để tìm lối ra ngoài hành lang tối om bên ngoài. Tôi đánh bạo hỏi: “Ai đấy?” Không có tiếng trả lời. Người tôi lạnh toát vì sợ. Nhưng tôi cũng sực nhớ ra rằng có lẽ đó là con Pilot. Mỗi khi cửa bếp mở ngỏ, cu cậu thường mò đến nằm ở ngưỡng cửa phòng ông Rochester, vì thế nên sáng dậy, tôi vẫn thấy nó nằm bẹp ở đấy. Nghĩ vậy nên tôi lại yên tâm ngả lưng ngủ tiếp. Sự im ắng khiến tôi dịu bớt căng thẳng. Bầu không khí câm lặng lại tiếp tục ngự trị lên toàn bộ lâu đài cổ kính, và tôi cũng bắt đầu cảm thấy buồn ngủ trở lại. Nhưng số mệnh lại muốn rằng tôi không được ngủ vào đêm đó. Giấc mơ vừa thấp thoáng hiện lên trong đầu tôi đã nhanh chóng vụt biến mất vì một sự việc khủng khiếp đến lạnh gáy. Sự việc mà tôi nói chính là một tiếng cười ma quái, trầm trầm, nghèn nghẹt, xa thẳm và mơ hồ, hình như được phát ra từ ngay lỗ khóa cửa phòng tôi. Đầu giường tôi ở gần cửa, nên lúc đầu tôi cứ tưởng con quỷ thốt ra tiếng cười đó đứng ngay cạnh giường, hoặc nói đúng hơn ngay sát bên gối tôi. Nhưng khi tôi hốt hoảng ngồi dậy, mắt lấm lét nhìn quanh thì chẳng thấy gì cả. Trong lúc tôi đang giương mắt nhìn vào bóng tối, tiếng cười quái đản ấy lại nổi lên, lần này tôi biết ngay là nó phát ra từ phía ngoài cánh cửa. Phản ứng đầu tiên của tôi là đứng dậy cài chặt then cửa, và kêu lên lần nữa: “Ai ở ngoài đó thế?” Có tiếng gì ùng ục, rên rỉ, rồi ngay sau đó là tiếng bước chân lui xa dần ngoài hành lang, đi về phía cầu thang tầng ba – nơi có một cánh cửa vừa được dựng thêm. Tôi nghe tiếng cánh cửa đó kẹt mở, rồi đóng sập lại trước khi tất cả lại trở về với im lặng. “Chẳng lẽ lại là Grace Poole? Chị ta đã bị ma ám?” Tôi nghĩ bụng. Thấy không thể ở lại trong phòng một mình thêm một phút nào nữa, tôi bèn quàng khăn và khoác thêm chiếc áo, rồi run run ra mở cửa: tôi phải đi tìm bà Fairfax. Ngoài hành lạng, đặt ngay trên mặt thảm là một cây nến đang leo lắt cháy. Ngọn nến làm tôi rất kinh ngạc, nhưng tôi còn sửng sốt hơn khi thấy trước mắt mình là một ảo ảnh mù mịt như khói tỏa. Tôi đang ngơ ngác nhìn quanh xem làn khói từ đâu bốc ra thì bỗng ngửi thấy có mùi cháy khét. Chợt có tiếng kẽo kẹt khẽ rít lên rờn rợn như tiếng cửa mở: đó chính là cửa phòng ông Rochester. Làn khói cuồn cuộn mà tôi đang thấy cũng từ đó mà ra. Tôi không còn nghĩ gì đến bà Fairfax, đến Grace Poole và đến tiếng


cười quái gở ấy nữa, mà chạy bổ vào phòng. Lưỡi lửa đã liếm xung quanh thành giường, và những tấm màn cũng đang bắt lửa. Giữa khói lửa mịt mù, ông Rochester vẫn nằm vô cảm trong giấc ngủ miên man. “Dậy đi! Dậy đi!” – Tôi gào lên và cuống cuồng lay gọi ông dậy, nhưng ông chỉ lẩm bẩm ú ớ rồi lại trở mình sang hướng khác, có lẽ khói đã làm ông lịm đi rồi. Không thể chậm chễ thêm một chút nào nữa, bởi cả đến khăn trải giường cũng đã bén lửa rồi. Tôi lao đến chỗ cái chậu và cái bình; thật may là cả hai đều đựng đầy nước (đó là một cái chậu khá to và cái bình khá cao). Tôi bê cả hai dội ào lên giường và cả người nằm, rồi hộc tốc chạy về lấy nốt cái bình nước ở phòng mình sang cứu hỏa. Ơn Chúa, tôi đã dập tắt được ngọn lửa đang chuẩn bị bùng lên dữ dội. Tiếng ngọn lửa gặp nước xèo xèo, và tiếng bình nước do tôi tuột tay làm vỡ khi vừa hắt hết nước, và nhất là khi bị làn nước lạnh tưới ướt sũng người cuối cùng cũng đã làm ông Rochester thức dậy. Dù tối mờ mịt, tôi vẫn biết là ông đã tỉnh, vì nghe thấy ông nổi giận tuôn ra một tràng những lời chửi rủa thậm tệ khi thấy mình nằm giữa một vũng nước. - Lụt hay sao thế này? – Ông kêu lên. - Thưa ông, không phải lụt, mà là hỏa hoạn. – Tôi đáp lại. – Ông dậy đi, người ông đang ướt như chuột lột ấy, để tôi đi lấy cho ông một cây nến. - Nhân danh quỷ thần, chẳng lẽ lại là Jane Eyre đấy ư? – Ông hỏi. – Cô định làm gì tôi đấy hả cô phù thủy? Ngoài cô ra còn ai trong này nữa không? Cô định âm mưu dìm chết tôi đấy phỏng? - Để tôi mang đến cho ông một cây nến, thưa ông. Nhân danh Chúa Trời, ông hãy dậy đi. Có kẻ nào đã âm mưu chuyện gì đó, ông không thể sớm tìm ra thủ phạm và âm mưu của nó đâu. - Đây, tôi dậy rồi đây, bây giờ có nguy hiểm thì cô cũng phải đi lấy cho tôi một cây nến. Nhưng hãy đợi tôi hai phút để tôi lấy quần áo khô thay đã, chẳng biết còn có cái nào khô không. A! đây rồi, áo ngủ của tôi đây rồi. Giờ thì cô chạy đi được rồi đấy! Tôi chạy vội ra và cầm luôn cây nến đang cháy ngoài hành lang vào và đưa cho Rochester. Ông cầm cây nến soi lên giường, thấy tất cả đều đen nhẻm và ướt nhớt nháp, cả tấm thảm trên sàn nhà cũng sũng nước.


- Sao lại thế này? Ai đã gây ra chuyện này? Tôi vắn tắt lại những gì đã được biết, nào là tiếng cười quái đản ngoài hành lang, tiếng bước chân lên cầu thang tầng ba, rồi làn khói cuồn cuộn và mùi cháy khét lẹt khiến tôi phải nhảy bổ vào phòng ông để trông thấy cảnh tượng hãi hùng ra sao, và chuyện tôi cứu hỏa bằng tất cả những gì đựng nước mà tay tôi vớ được như thế nào... Ông lặng người nghe tôi nói, nét mặt lộ vẻ suy nghĩ hơn là ngạc nhiên. Ông không đáp lại ngay khi tôi kể xong câu chuyện. - Tôi có nên gọi bà Fairfax không? – Tôi hỏi. - Bà Fairfax ư? Không, cô định gọi bà ta làm gì? Bà ấy có thể làm được gì nào? Cứ để cho bà ấy ngủ. - Thế thì tôi đi tìm Leah và đánh thức vợ chồng anh John dậy vậy. - Cũng chẳng cần đâu, cứ từ từ đã. Nếu cô choàng khăn mà chưa đủ ấm thì khoác thêm cái áo của tôi và ngồi xuống cái ghế bành kia. Cứ việc gác chân lên chiếc ghế đẩu cho khỏi ướt. Tôi sẽ cầm nến ra ngoài khoảng vài phút. Cô cứ ngồi một chỗ cho đến khi tôi quay trở lại, nhớ là phải ngồi im đấy. Tôi phải lên tầng ba xem có vấn đề gì không. Tôi dặn lại là đừng có cử động và đừng gọi ai cả. Dứt lời, ông bước ra ngoài. Tôi nhìn theo ánh đèn đi xa dần. Ông bước như một con mèo qua hành lang, rồi nhẹ nhàng mở cửa lên cầu thang. Cánh cửa khẽ khép lại sau lưng ông, ánh đèn tối hẳn. Tôi ngồi một mình giữa bóng tối tuyệt đối, dỏng tai nghe ngóng, nhưng không có một tiếng động nhỏ nào. Ngồi được một lúc, tôi bắt đầu thấy mệt mỏi và lạnh gai người, dù đã khoác lên mình chiếc áo choàng. Quả là rất khó chịu khi phải ngồi lì như vậy mà không được đánh thức cả nhà dậy. Tôi đang định không tuân lệnh ông Rochester, tất nhiên sẽ làm ông phiền lòng, thì lại có ánh đèn loang loáng hắt lên tường hành lang, tiếp đó là tiếng chân trần khe khẽ bước trên thảm. “Cầu mong đó là ông Rochester – tôi thầm khấn – và đừng có thêm điều gì tồi tệ xảy ra với ông.” Ông xuất hiện trở lại với bộ mặt tái dại và rầu rĩ. “Tôi đã biết hết cả rồi, – ông nói và đặt cây nến lên giá khăn mặt – thật đúng như tôi đã nghĩ.”


- Sao cơ, thưa ông? Ông không trả lời, mà đứng khoanh tay nhìn xuống đất. Phải đến mấy phút sau mới thấy ông nói, giọng hơi lạ: - Quên mất, có phải cô bảo lúc mở cửa phòng mình, cô đã nhìn thấy một cái gì không? - Không, thưa ông, chỉ có một cây nến đặt ở trên mặt sàn. - Nhưng cô đã nghe thấy tiếng cười quái gở? Tôi nghĩ trước đây cô cũng đã nghe thấy tiếng cười ấy, hoặc thấy một cái gì đại loại như vậy? - Vâng, thưa ông, có một người làm việc khâu vá trong nhà, tên là Grace Poole, chị ta thường có kiểu cười như vậy. Chị ta quả là một người kì cục. - Đúng rồi, Grace Poole, cô nói đúng đấy. Chị ta, đúng như cô nói, là một người thật kì cục, rất kì cục. Được, tôi sẽ suy nghĩ về chuyện này. Nhưng dù sao thì tôi cũng rất hài lòng khi thấy ngoài tôi ra, chỉ có cô là người duy nhất biết rõ chi tiết sự việc đêm nay. Cô không phải là người thích buôn chuyện, vì thế đừng có nói gì đấy nhé. Tôi sẽ lo giải quyết cái hậu họa này (nói và chỉ tay vào chiếc giường). Bây giờ cô về nghỉ đi. Tôi sẽ nằm tạm trên đi-văng trong phòng thư viện cho hết đêm. Cũng gần bốn giờ rồi còn gì, chỉ hai tiếng nữa là bọn gia nhân sẽ dậy thôi. - Vậy thì chúc ông ngon giấc. – Tôi nói và bước ra ngoài. Rochester có vẻ rất ngạc nhiên. Thật vô lý, vì chính ông vừa bảo tôi đi ra. - Cái gì! – Ông thốt lên. – Cô về thật đấy à? Mà bỏ đi như thế sao? - Ông vừa bảo tôi về mà, thưa ông. - Nhưng không phải theo cái kiểu như thế, không phải không có một vài câu tạm biệt thân ái. Tóm lại, không phải là theo cách cộc lốc và khô khan như thế. Cô đã cứu mạng tôi! Đã kéo tôi ra khỏi một cái chết thảm thương! Vậy thì tại sao lại bước qua trước mặt tôi như một người xa lạ chứ! Ít nhất cũng phải bắt tay một cái mới được! Ông chìa tay ra, buộc tôi phải đáp lễ; mới đầu ông bắt bằng một tay, nhưng sau đó đã nắm chặt lấy tay tôi bằng cả hai tay.


- Cô đã cứu mạng tôi, thú thật là tôi rất vui khi phải chịu cô cái ơn mênh mông trời biển đó. Tôi không thể nói gì hơn. Có lẽ sẽ chẳng bao giờ tôi phải chịu ơn ai mà lại thấy mãn nguyện như vậy nữa. Cô là người không giống ai cả, tôi thấy mang ơn cô không phải là một gánh nặng, Jane ạ. Rồi ông nhìn thẳng vào mắt tôi, môi mấp máy định nói một điều gì đó nhưng chẳng nên lời. - Một lần nữa chúc ông ngon giấc. Có gì đâu mà nói chuyện nợ nần, ân huệ, gánh nặng kia chứ. - Tôi biết, – ông nói tiếp – thế nào cũng có ngày cô làm điều tốt cho tôi bằng cách này hay cách khác, vào lúc này hay lúc khác mà. Tôi đã nhận ra điều đó trong mắt cô ngay từ lần gặp đầu tiên. Không phải tự nhiên ánh mắt biết cười của cô đã làm... (chợt ngừng lại)... làm tôi... (vội vàng nói tiếp) trào dâng một tình cảm xốn xang từ nơi sâu thẳm trong cõi lòng. Người ta thường nhắc đến những cảm tình tự nhiên. Tôi cũng đã từng nghe người ta nhắc đến những thiên thần, quả thực là trong những câu chuyện ngụ ngôn hoang đường nhất cũng luôn có những mầm mống sự thật. Vị ân nhân thân mến của tôi ơi, xin cầu chúc một giấc ngủ an lành nhé! Trong giọng nói của ông có cái gì đó toát lên một cảm xúc kì lạ, cả ánh mắt ông cũng lóe lên một ánh lửa khác thường. - Tôi rất vui khi phải tình cờ thức giấc! – Tôi nói và định bước ra. - Thế nào, cô định đi đấy à? - Tôi thấy lạnh, thưa ông. - Lạnh à? Ừ... đứng giữa một vũng nước thế này thì làm gì chả lạnh! Vậy thì về đi, Jane ạ, về nhé! – Dù nói vậy, nhưng ông vẫn nắm chắt tay tôi, khiến tôi không thể đi được. - Hình như có tiếng bà Fairfax thì phải, thưa ông. – Tôi nói để đánh lừa. - Thôi được, cô về nhé. – Ông nói và buông tay tôi ra, chỉ đến lúc này tôi mới đi được. Tôi trở về giường nằm, nhưng không nghĩ đến chuyện ngủ nữa. Từ bấy


đến lúc rạng đông, tôi cứ chao đảo trên một mặt biển không bình lặng, giữa những đợt sóng ưu tư xô lẫn những làn sóng của niềm vui mênh mang trong lòng. Có lúc tôi tưởng mình đã thấy một bến bờ êm đềm như miền ngọn đồi [42] Beulah sau những con sóng hung hãn. Và thỉnh thoảng, một luồng gió mát lành được đánh thức bởi niềm hy vọng lại đưa tâm hồn tôi đến với bến bờ ấy. Nhưng tôi không thể đến đích, dù chỉ là trong tưởng tượng, bởi luôn có một trận gió từ lục địa thổi ngược ra và đẩy tôi lui trở lại. Những cảm xúc mâu thuẫn, trái ngược trong cơn mộng mị khiến tôi bồn chồn không ngủ được. Tôi dậy ngay khi một ngày mới vừa bắt đầu.



Chương 16 Sau cái đêm không ngủ đó, tôi vừa muốn lại vừa sợ gặp ông Rochester. Tôi mong được nghe giọng ông một lần nữa, nhưng lại sợ gặp ánh mắt của ông. Buổi sớm, cũng có lúc tôi hy vọng ông đến. Bình thường, chẳng mấy khi ông vào phòng học, nhưng thỉnh thoảng ông cũng ngó vào vài phút. Hôm ấy cũng vậy, không hiểu sao tôi cứ có cảm giác thế nào ông cũng ló mặt vào. Nhưng cũng như mọi ngày, buổi sáng hôm ấy không có gì xảy ra khiến buổi học của Adèle bị gián đoạn cả. Chỉ đến sau bữa điểm tâm, tôi mới nghe thấy tiếng ra tiếng vào ở gần phòng ông Rochester, đó là giọng bà Fairfax, Leah và chị đầu bếp – vợ anh John, và cả giọng khàn khàn của anh John nữa. Tôi nghe rõ nhưng tiếng cảm thán: “May mà ông chủ không bị chết cháy trên giường!”, “Đốt nến suốt đêm nguy hiểm lắm đấy”, “Ơn Chúa, cũng may mà ông ấy nghĩ ngay đến bình nước!”, “Tôi cứ thắc mắc không hiểu tại sao ông ấy không đánh thức ai dậy cả”, “Hy vọng ông ấy không bị cảm lạnh vì ngủ ghế trong thư viện”... Sau những lời bàn tán xôn xao là những âm thanh dễ thấy của cái công việc dọn dẹp lau chùi. Lúc xuống phòng ăn dùng bữa trưa, khi đi qua cửa phòng ông, tôi thấy đồ đạc đã được xếp lại đâu vào đấy, chỉ có chiếc giường là đã được tháo hết màn trướng. Leah đang đứng trên bậu cửa sổ lau chùi những ô kính bị ám khói. Tôi định hỏi xem chị ta kể lại sự việc ra sao thì chợt thấy một người đàn bà đang ngồi trên chiếc ghế đặt cạnh giường, cắm cúi đính vành khuyên vào những bức màn mới. Người đàn bà đó chẳng ai khác ngoài Grace Poole. Chị ta mặc áo nâu, đeo tạp dề kẻ carô, đầu đội mũ ngủ, trông vẫn trầm lặng, lầm lì như mọi khi, tâm trí như đang bị hút vào cái công việc khâu vá của mình. Trên vầng trán nhọc nhằn và nét mặt thô thiển của chị ta không thấy có cái vẻ tai tái hoặc căng thẳng mà người ta vẫn mong đợi trên bộ mặt của một người đàn bà vừa âm mưu giết người, một kẻ ngay đêm qua đã bị nạn nhân của mình theo đến tận hang để (theo tôi nghĩ) lột trần tội ác bất thành. Tôi bỗng thấy ngạc nhiên và bối rối. Biết có người đang nhìn mình, chợt chị ngẩng đầu lên, nhưng không giật mình, không biến sắc mặt, không có dấu hiệu gì chứng tỏ chị ta bị xúc động hoặc có ý thức về tội ác của mình, hoặc lo sợ bị phát hiện. Chị ta nói “Xin chào cô” vẫn bằng cái giọng điềm nhiên và cộc lốc như thường lệ, rồi lại cúi xuống khâu tiếp.


“Mình sẽ thử chị ta xem thế nào. – Tôi thầm nghĩ. – Thật không thể hiểu tại sao chị ta lại thản nhiên như vậy.” - Chào chị Grace. – Tôi nói. – Ở đây vừa xảy ra chuyện gì vậy chị? Hình như vừa nãy mọi người đã bàn tán cái gì thì phải? - Chuyện là thế này, đêm qua, ông chủ để nến trên giường rồi nằm đọc sách, thế rồi ngủ quên, để lửa bén vào màn mà không biết. May mà chăn đệm và giường chưa bén lửa thì ông đã tỉnh và kịp thời lấy bình nước dập tắt. - Chuyện lạ thật! – Tôi hạ giọng và nhìn thẳng vào mặt chị ta. – Thế sao ông chủ không đánh thức ai dậy? Mà chẳng lẽ không ai nghe thấy gì hay sao? Chị ta lại ngẩng mặt nhìn tôi, lần này thì không phải là không có nỗi niềm trong ánh mắt. Có vẻ như chị ta đã quan sát tôi rất kỹ trước khi trả lời: - Cô biết đấy, các gia nhân đều ngủ xa phòng ông chủ nên khó có thể nghe thấy gì. Chỉ có phòng bà Fairfax và phòng cô là gần hơn cả; nhưng cả bà Fairfax cũng bảo chẳng nghe thấy gì hết, bởi khi đã về già, người ta thường ngủ mê mệt như chế. – Chị ta chợt im lặng một lát rồi lại nói tiếp, vẻ vẫn thản nhiên, nhưng giọng lại mang nhiều hàm ý: “Còn cô thì trẻ lắm, nên tôi nghĩ là cô sẽ tỉnh ngủ hơn, có lẽ cô đã nghe thấy một cái gì đó?” - Có, tôi có nghe thấy. – Tôi khẽ nói cốt để chị Leah (vẫn đang cặm cụi lau cửa kính) không nghe thấy được. – Thoạt đầu tôi cứ tưởng đó là con Pilot, nhưng con Pilot không thể cười được, mà tôi thì chắc chắn nghe thấy tiếng cười, một tiếng cười quái đản. Chị ta rút một sợi chỉ mới, vuốt sáp cẩn thận và luồn qua lỗ kim, vẻ rất thành thạo, rồi bình mọt câu thản nhiên như không: - Tôi nghĩ làm sao ông chủ có thể cười được trong cảnh nguy khốn như vậy, chắc là cô mê ngủ đấy thôi. - Không thể mê ngủ được. – Tôi cãi lại, giọng bắt đầu bực vì cái vẻ mặt lạnh như tiền của Poole, trong khi chị ta một lần nữa đáp lại tôi bằng ánh mắt đầy hàm ý. - Cô có bảo ông chủ là cô đã nghe thấy tiếng cười không? – Chị ta hỏi.


- Từ sáng đến giờ, tôi chưa có dịp nào nói chuyện với ông ấy. - Thế chẳng nhẽ cô không nghĩ đến chuyện mở cửa và nhìn ra ngoài hành lang à? Hình như chị ta cố tình hỏi đột ngột như vậy để tôi sơ hở và nói ra một điều gì đó. Tôi chợt hiểu rằng nếu tôi nghi ngờ chị ta hoặc đã rõ tội lỗi của chị ta, rất có thể chị ta sẽ chơi ác tôi bằng một ngón nghề xảo quyệt nào đó. Vì vậy, cứ nên đề phòng là tốt hơn cả. - Ngược lại, – tôi nói – tôi cài chặt cửa. - Như vậy là chị không có thói quen cài cửa vào buổi tối, trước khi đi ngủ, đúng không? “Đồ gian giảo! – Tôi nghĩ bụng. – Chị ta muốn biết thói quen của mình để dễ bề sắp đặt kế hoạch đây!” Tôi lộn ruột trả lời mà quên mất cả chuyện giữ ý: “Từ trước đến giờ, tôi vẫn thường chểnh mảng chuyện cài cửa, bởi tôi nghĩ nó không cần thiết. Tôi không thấy có điều gì nguy hiểm hoặc đáng lo ngại ở cái lâu đài Thornfield này, nhưng từ nay trở đi (tôi nhấn giọng), tôi sẽ phải kiểm tra cẩn thận mọi thứ trước khi đi nằm.” - Làm thế là khôn ngoan đấy. – Chị trả lời. – Xung quanh đây cũng yên bình như bất cứ nơi nào khác mà tôi biết, và tôi chưa bao giờ nghe chuyện lâu đài này bị kẻ cướp bén mảng tới kể từ khi nó được gọi là cái nhà, mặc dù ai cũng biết ở đây có nhiều đồ đạc đáng giá cả trăm bạc. Cô thấy đấy, một tòa nhà rộng mênh mông như vậy mà chỉ có rất ít người làm, bởi ông chủ chẳng mấy khi ở nhà, mà nếu có về thì ông cũng chẳng cần nhiều người hầu hạ, bởi ông là người độc thân. Nhưng theo tôi thì cẩn thận vẫn hơn. Tôi còn đang đứng chết lặng vì cái vẻ mặt lì lợm trơ tráo khó lường của chị ta thì chị đầu bếp bước vào. - Bà Poole, – chị ta bảo Grace – bữa của gia nhân sắp dọn xong rồi đấy, bà sẽ xuống ngồi chứ? - Không, chị cứ để giúp vại bia và mẩu bánh ngọt vào khay cho tôi, để tôi mang lên đây ăn cũng được. - Bà có ăn thịt không.


- Chỉ cần một miếng và một mẩu pho mát thôi. - Thế còn món sago? - Đừng bận tâm đến món ấy ngay bây giờ, tôi sẽ xuống đó trước giờ uống trà và sẽ tự làm lấy! Sau đó, chị đầu bếp quay sang bảo tôi rằng bà Fairfax đang ngồi đợi, tôi bèn đi xuống ngay. Suốt bữa trưa, tôi hầu như không nghe thấy bà Fairfax nói gì ngoài chuyện cái màn bị cháy, bởi đầu óc tôi còn mải nghĩ về cái tính cách khó hiểu của Grace Poole và nhất là cái vị trí của chị ta ở Thornfield. Chuyện sáng nay chị ta không bị tống giam hoặc ít nhất là bị ông chủ đuổi việc khiến tôi không thể hiểu nổi. Đêm qua, gần như ông chủ đã nói thẳng ra rằng ông tin chị ta là thủ phạm, vậy thì nguyên nhân bí ẩn nào khiến ông không dám kết tội chị ta? Tại sao ông lại bảo tôi giữ kín chuyện? Lạ thật! một người can đảm, hay thù hằn và ngạo mạn như ông mà lại có vẻ như đang chịu nhún nhường trước sức mạnh của một kẻ thấp hèn nhất trong số những kẻ đang sống lệ thuộc vào mình, đến nỗi ngay cả khi ả ra tay sát hại ông, ông cũng không dám công khai kết tội chứ chưa nói gì đến chuyện trừng phạt ả nữa. Giá như Grace Poole là một phụ nữ trẻ trung xinh đẹp, thì tôi còn có thể nghĩ rằng Rochester xử sự như vậy là vì những tình cảm xốn xang trong lòng, chứ không phải là do thận trong hoặc e ngại. Khổ một nỗi chị ta chẳng được nét nào cho ra hồn, cho nên không thể có chuyện đó được. “Nhưng dẫu sao thì chị ta cũng từng có một tuổi xuân xanh, – tôi thầm nghĩ – mà cái thời son trẻ của chị ta lại trôi qua cùng thời với tuổi trẻ của ông chủ, bởi bà Fairfax từng có lần bảo mình rằng chị ta sống ở đây cũng nhiều năm rồi. Mình tin là chị ta chưa bao giờ xinh đẹp, nhưng cũng có thể cái mạnh mẽ và độc đáo trong tính cách của chị ta đã phần nào bù đắp cho những khiếm khuyết của cái vẻ bề ngoài, mà ông Rochester lại là một kẻ thích cái tính ngang tàng và lập dị nữa. Grace ít nhất cũng là một người đàn bà kiểu như vậy. Biết đâu ngày trước Rochester đã có một sự sơ sảy nào đó (đối với một người có tính bốc đồng và cứng đầu cứng cổ như ông thì dám lắm) khiến ông bị chị ta chi phối, để đến bây giờ mọi hành động của ông vẫn phải chịu một ảnh hưởng thần bí nào đó của chị ta? Có thể đó là hậu quả tai hại của những việc làm dại dột của ông, mà cho đến tận bây giờ ông vẫn không sao rũ bỏ được và cũng chẳng dám coi thường nữa.” Nhưng tôi phỏng đoán đến đây thì cái bộ


mặt vuông vuông, bẹt bẹt, cứng nhắc và thô kệch của Poole lại chợt hiện lên trong trí óc tôi, khiến tôi chột dạ nghĩ: “Không, không thể được! mình giả định như vậy là không đúng.” Rồi một tiếng nói thầm kín bỗng văng vẳng vọng lên từ trong tim tôi: “Chính mày cũng có xinh đẹp gì cho cam, vậy mà ông Rochester cũng có vẻ ưng mày đấy. Chẳng phải mày vẫn thường linh cảm thấy thế là gì? Hãy nhớ lại lời nói, ánh mắt, âm giọng của ông ta đêm hôm qua đi.” Tôi nhớ lại tất cả. Lời nói, ánh mắt, âm giọng của ông dường như đang sống lại trong tâm trí tôi. Lúc bấy giờ tôi đang ở trong phòng học cầm tay Adèle kèm nó học vẽ nét chì. Đang ngồi, nó chợt giật mình ngẩng mặt nhìn tôi. - Qu’avez vous, Mademoiselle? – Nó hỏi – Vos doigts tremblent comme la [43] feuille, et vos joues rouges: mais rouges comme des cerises! - Cô thấy nóng vì cúi người lâu quá đấy thôi, Adèle ạ! – Sau đó, cô bé tiếp tục bài học vẽ, còn tôi tiếp tục theo đuổi ý nghĩ của mình. Tôi vội xua đuổi khỏi đầu óc cái ý niệm đáng ghét vừa hình thành về Grace Poole, quả thực là nó làm tôi thấy ghê tởm. Tôi tự so sánh với chị ta, và thấy mình khác hẳn. Chị Bessie Leaven đã chẳng bảo tôi giống một quý bà là gì. Chị ấy nói rất đúng, hồi ấy, tôi cũng có vẻ giống với một phu nhân lắm chứ. Còn bây giờ, trông tôi còn khá hơn hồi gặp chị Bessie nhiều: hồng hào và tươi trẻ hơn, sức sống hơn bởi đơn giản là tôi có những niềm vui vả hy vọng mạnh mẽ hơn. “Trời sắp tối rồi. – Tôi thầm nghĩ và đưa mắt nhìn qua cửa sổ. – Suốt ngày hôm nay mình không nghe thấy giọng nói và tiếng bước chân ông Rochester ở trong nhà, nhưng chắc chắn là mình sẽ gặp ông ấy trước khi trời tối. Sáng nay mình ngại gặp ông; bây giờ mình lại muốn gặp, bởi mong đợi nhiều quá khiến mình đâm ra sốt ruột.” Khi màn đêm buông xuống, Adèle bỏ vào chơi với Sophie, tôi lại càng muốn gặp ông Rochester. Tôi mong ngóng hoài tiếng chuông rung dưới nhà, tiếng Leah gọi tôi với một thông điệp nào đó. Có lúc tôi tưởng mình đã nghe thấy tiếng bước chân ông Rochester thật, nên đã quay ra cửa, đợi nó mở để mời ông vào. Nhưng cánh cửa vẫn đóng im ỉm, chỉ có bóng tối tràn vào qua ô cửa sổ. Dẫu sao thì bây giờ cũng mới sau giờ, vẫn còn sớm lắm, ông ấy


thường hay cho gọi tôi vào khoảng bảy, tám giờ kia. Tối nay, tôi không nên thất vọng hoàn toàn như vậy trong khi có biết bao nhiêu chuyện muốn nói với ông! Tôi rất muốn một lần nữa đưa ông vào chủ đề Grace Poole xem ông trả lời ra sao. Tôi sẽ hỏi xem ông có thực sự tin là Grace Poole đã làm cái việc ghê tởm đêm qua không, và nếu thực sự như vậy thì tại sao ông lại giữ kín tội lỗi của chị ta? Sẽ không có vấn đề gì nếu như sự tò mò của tôi khiến ông bực mình. Tôi đã biết cái thú chọc tức ông rồi sau đó lại làm cho ông nguôi dịu, đó là điều khiến tôi thú vị nhất. Bản năng vững vàng luôn giúp tôi không đi quá xa, liều lĩnh vượt quá giới hạn thành ra khiêu khích ông, nhưng tôi cũng thích đến sát giới hạn để thử tài ứng xử của mình ra sao. Tôi có thể tranh luận với ông mà vẫn giữ đúng địa vị của mình, vẫn tôn trọng ông, không sợ bị lung túng dè dặt vì chuyện khuôn phép. Cuối cùng thì cũng có tiếng chân bước ngoài cầu thang. Leah xuất hiện, nhưng chỉ để bảo tôi rằng trà đã pha xong ở phòng bà Fairfax. Tôi xuống ngay, ít nhất cũng là thích được xuống dưới nhà, như vậy sẽ càng gần ông Rochester hơn. - Chắc là cô muốn uống trà lắm, bởi chiều này cô ăn ít quá.- Bà Fairfax bảo khi vừa thấy tôi bước vào. – Tôi e hôm nay cô không được khỏe, mặt cô đỏ như bị sốt ấy. - Ồ, tôi vẫn bình thường đấy chứ! Chưa bao giờ tôi cảm thấy dễ chịu như bây giờ. - Vậy thì cô phải chứng tỏ bằng cách ăn nhiều vào. Cô có thể đổ trà vào ấm giúp, để tôi đan nốt đường này cho xong. – Đan xong, bà nhỏm dậy hạ chiếc mành mành cửa sổ xuống. - Đêm nay không có sao, nhưng vẫn rất đẹp trời. – Bà nói khi nhìn qua một tấm kính cửa. – Ông Rochester chọn đêm nay đi chơi thì hay quá rồi còn gì. - Đi chơi! Ông ấy đi đâu thế ạ? Vậy mà tôi không biết đấy. - À, ông ấy đi ngay từ lúc ăn điểm tâm xong. Ông đến lâu đài Leas, nhà ông Eshton, cách đây mười dặm về phía bên kia Millcote. Tôi tin là ở đó lại có một hội họp gì. Huân tước Ingram, ngài George, Lynn, đại tá Dent và nhiều vị khác nữa.


- Bà có chờ ông ấy về tối nay không? - Không, cả ngày mai cũng vậy; có lẽ ông ấy còn ở đó một tuần nữa là ít. Khi những nhà quý tộc lịch lãm đó gặp nhau, họ thiếu gì thú vui để tiêu khiển, việc gì mà phải vội xa nhau kia chứ. Đặc biệt là trong những dịp như vậy, không thể không có các quý ông được. Mà ông Rochester nhà ta lại là người có tài và rất hoạt bát trong buổi xã giao, nên tôi tin rằng thế nào ông ấy cũng được mọi người yêu thích, nhất là các bà các cô thì còn phải nói! Cho dù cô không nghĩ cái dáng vẻ bề ngoài của ông là đẹp trước con mắt của họ, nhưng tôi thì tôi cho rằng các tri thức, năng lực, và có lẽ cả gia sản và dòng máu của ông nữa, cũng đủ bù đắp cho những khiếm khuyết nhỏ nhặt về hình thức bề ngoài. - Lâu đài Leas cũng có các quý bà à? - Có bà Eshton và ba cô con gái – họ quả là những tiểu thư lịch lãm trẻ trung. Ngoài ra còn có Blanche và Mary Ingram, hai cô gái mà tôi cho là đẹp nhất trần đời. Khoảng sáu, bảy năm trước, tôi đã có lần thấy Blanche, hồi ấy cô ta mười tám tuổi. Cô ấy tới đây dự buổi khiêu vũ đêm Giáng sinh do ông Rochester tổ chức. Giá như cô được trông thấy phòng ăn hồi ấy nhỉ... Úi chà, cứ gọi là trang hoàng lộng lẫy và sáng trưng! Cả thảy dễ có đến năm chục quý ông, quý bà, họ toàn là những gia đình quyền thế bậc nhất, và cô Ingram được coi là người đẹp trong buổi dạ hội đó. - Bà Fairfax, bà nói đã nhìn thấy cô ta, vậy trông cô ta thế nào? - Vâng, tôi đã trông thấy cô ta. Các cửa phòng ăn đều mở toang, và vì đang là dịp Nô-en nên các gia nhân đều được phép có mặt ở đại sảnh để được nghe các quý bà đàn hát. Ông Rochester gọi tôi vào phòng, và tôi đến một góc yên tĩnh ngồi ngắm họ. Chưa bao giờ tôi thấy một cảnh tượng nào tráng lệ hơn: các bà đều mang trên mình những bộ đồ thật diêm dúa, lộng lẫy, phần lớn – ít nhất là các quý phụ còn trẻ, trông đều rất đẹp! Nhưng chắc chắn cô Ingram phải là nữ hoàng trong số họ. - Nhưng trông cô ta như thế nào mới được chứ? - Thế nào à? Cao lớn, nhưng mảnh mai, vai thon lẳn, cổ yêu kiều; nước da màu ô-liu, nét mặt quý phái, mắt gần giống mắt ông Rochester: to và đen lánh như những viên ngọc. Cô ấy có mái tóc thật tuyệt: đen nhánh, được chải chuốt gọn gàng, tết bím đằng sau, đằng trước là những lọn tóc uốn quăn


thật dài và bóng mượt mà tôi chưa thấy ở ai bao giờ. Cô mặc bộ đồ trắng tinh, quàng một chiếc khăn màu hổ phách qua vai, bắt chéo trước ngực và thắt nơ ở một bên sườn, tua rủ xuống tận gối. Cô ấy còn cái trên mái tóc một đóa hoa cũng màu hổ phách, đóa hoa có vẻ càng nổi bật hơn trên mái tóc đen nhánh. - Chắc là phải có nhiều người thán phục cô ta lắm nhỉ? - Vâng, quả thực là như vậy, không chỉ vì sắc đẹp mà còn vì tài năng của cô ấy nữa. Cô ấy là một trong số các quý bà biết hát, và có một quý ông đệm dương cầm. Cô ấy còn song ca với ông Rochester một bài nữa. - Ông Rochester à! Tôi không nghĩ là ông ấy lại có thể hát được đấy. - Ồ, ông ấy có một giọng hát trầm hay đáo để, và còn có khiếu thẩm mỹ tuyệt vời nữa. - Thế giọng cô Ingram thì thế nào? - Một chất giọng rất khỏe và sinh động. Phải nói cô ấy hát rất truyền cảm, nghe đã lắm. Mà đã hết đâu, sau đó cô còn chơi được cả dương cầm nữa kia. Tôi là dạng chẳng biết gì về âm nhạc, nhưng ông Rochester lại rất sành. Tôi nghe ông ấy bảo rằng cô ta chơi tốt lắm. - Thế quý phụ tài sắc vẹn toàn ấy đã có chồng chưa? - Hình như chưa thì phải, tôi còn cho tằng gia sản của hai chị em cô ấy cũng không phải là lớn lắm. Tài sản của cụ huân tước Ingram gần như đều để lại hết cho người con trai lớn. - Nhưng tôi không hiểu tại sao không có một quý ông giàu có hay quý tộc nào hỏi cô ấy, như ông Rochester chẳng hạn. Ông ấy cũng giàu đấy chứ? - Ồ, vâng. Nhưng, cô thấy đấy, tuổi hai người chênh nhau không phải là ít. Ông Rochester gần bốn mươi rồi, trong khi cô Ingram mới có hăm nhăm. - Thế thì có sao đâu? Có khối người tuổi tác chênh nhau hơn thế nhiều vẫn kết hôn với nhau đấy thôi. - Phải, nhưng tôi không chắc là ông Rochester cũng có ý định như vậy. Mà này, hình như từ lúc uống trà đến giờ, cô vẫn chưa ăn gì thì phải.


- Không, tôi chỉ thấy khát thôi. Bà sẽ cho tôi một tách nữa chứ? Tôi đang định trở lại với khả năng đi đến một cuộc nhân duyên giữa ông Rochester và người đẹp Blanche thì Adèle chạy vào, vậy là câu chuyện lại phải chuyển sang hướng khác. Khi chỉ còn một mình, tôi bắt đầu ngẫm nghĩ lại những thông tin vừa được biết, tôi nhìn thẳng vào lòng mình, chiêm nghiệm lại các ý nghĩ và tình cảm, rồi cố gắng đưa chúng – đang điên đảo trong thế giới của những tưởng tượng mờ mịt – trở lại với những cảm xúc thường nhật của mình. Tại tòa án lương tâm của chính mình, tên Hồi ức đã được đưa ra làm nhân chứng cho những hi vọng, mong ước và tình cảm của tôi ấp ủ từ đêm qua, cho tâm trạng chung chung của tôi suốt gần nửa tháng nay. Rồi sau đó, tay Lý trí xuất hiện và – theo cái cách bình lặng vốn có của nó – kẻ lại một câu chuyện mộc mạc, không tô hồng để chứng minh tôi đã chối bỏ thực tế và mù quáng rồ dại gặm nhấm cái ảo tưởng của mình như thế nào. Cuối cùng, tòa án lương tâm phán rằng trên thế gian này, không có ai điên rồ hơn Jane Eyre, rằng một kẻ ngu muội kỳ cục hơn cũng chẳng bao giờ tự ních đầy mình những lời dối trá ngọt ngào, rồi nốc ừng ực vào mình các độc tố như thể nốc rượu quý. “Mày cũng đòi là người được ông Rochester ưa chuộng ư? – Tôi tự chất vấn. – Mày mà cũng đủ sức làm cho ông ấy vừa lòng ư? Mày quan trọng gì đối với ông ta chứ? Thôi đi! Rồ dại thế là đủ rồi. Mới thế mà mày – một kẻ tôi đòi khờ dại – đã tưởng người ta – một quý ông dòng dõi quý tộc chai sạn – thích rồi sao? Sao mày dám nghĩ như vậy? Mày đúng là một kẻ bị lừa gạt, ngu ngốc tôi nghiệp! Ngay cả đến cái ích kỷ cũng không thể làm cho mày khôn ngoan lên được sao? Sáng nay, hà cớ gì mà mày phải hồi tưởng lại cảnh ngắn ngủi đêm qua ấy? Hãy che mặt đi, và phải biết xấu hổ chứ! Ông ta đã nói gì để tán dương đôi mắt của mày phải không? Đúng là đồ mù! Hãy mở to mắt ra mà nhìn cho rõ cái sự điên rồ đáng nguyền rủa của mày! Được một kẻ bề trên tâng bốc tán tụng mà không hề có ý lấy làm vợ thì đâu phải là tốt kia chứ. Mà cũng thật là điên khùng với những người đàn bà cứ để mặc cho tình yêu thầm kín nhen lên trong lòng, để rồi bị thiêu rụi cả cuộc đời khi nó không được đoái hoài hoặc đền đáp lại, và nếu có được đáp lại thì cái tình cảm ấy cũng dẫn tới một chốn mê cung không có lối ra mà thôi.” “Jeane Eyre, hãy dỏng tai lên mà nghe bản án của mày. Ngày mai, hãy


đặt trước mặt mình một cái gương, rồi lấy chì ra mà tự vẽ nên cái bản mặt của chính mình cho trung thực vào, đừng bớt đi một khiếm khuyết nào, đừng bỏ sót một đường kệch cỡm nào, cũng đừng xóa nhòa đi một nét bất cân đối nào, rồi viết ở phía dưới dòng chữ: Chân dung của một cô giáo không cha không mẹ, không họ hàng thân thích, nghèo hèn và quê mùa.” “Hãy lấy một tờ giấy ngà thật phẳng phiu mà bấy lâu nay mày vẫn cất trong hộp đồ vẽ, lấy bảng màu ra pha những màu tươi nhất, mịn màng nhất và sáng nhất, rồi chọn chiếc bút mềm mại nhất vẽ thật cẩn thận một khuôn mặt đáng yêu nhất mà mày có thể tưởng tượng được. Hãy tô tậm nét mặt bằng những gam màu thật dịu êm đúng như lời bà Fairfax đã tả về cô Blanche Ingram. Nhớ đừng quên những lọn tóc quăn đen nhánh và đôi mắt phương Đông của cô ta. Mày định trở lại mẫu hình của ông Rochester ư? Nín lặng đi nào! Đừng có sụt sùi than vãn như thế! Đừng có bộc trực tình cảm và nuối tiếc mà làm gì! Nào, nhớ lại những đường nét nghiêm nghị nhưng cân đối, cái cổ và thân hình của cá bức tượng Hy lạp đi, và nhớ thể hiện cánh tay sao cho thật tròn trịa với bàn tay nuột nà tinh tế vào, cũng đừng quên chiếc nhẫn kim cương và chiếc vòng đeo tay vàng. Hãy trung thực vẽ lại bộ y phục có dải đăngten mềm mỏng như lông hồng, chiếc áo satanh lóng lánh, chiếc khăn quàng yêu kiều và một bông hồng vàng... rồi đặt tên cho bức chân dung đó là “Bà Blance, một cô gái quý phái hoàn thiện”. “Sau này, nếu bao giờ nghĩ ông Rochester đang mong nhớ mày thì hãy đem hai cái chân dung đó ra mà so sánh và nói: “Nếu muốn, ông Rochester hoàn toàn có thể chinh phục được tình yêu của người phụ nữ quý tộc đó. Chắc gì ông ấy hoài hơi phí sức để nghĩ đến đứa con gái nghèo hèn vô nghĩa như mày?” “Mình sẽ làm như vậy!” – Tôi quả quyết. Quyết tâm ấy đã giúp tôi thanh thản trong lòng để có thể chìm vào giấc ngủ. Và tôi đã giữ đúng lời hứa với chính mình. Chỉ cần một, hai tiếng đồng hồ cũng đủ để tôi dùng chì làm nên bức chân dung tự họa mình, và chưa đầy mười lăm hôm sau, tôi đã hoàn thành bức chân dung tưởng tượng của cô Blance Ingram trên giấy ngà. Trông khuôn mặt ấy thật đáng yêu, và khi đem so nó với bộ mặt vẽ bằng bút chì của tôi thì sự tương phản phải nói là rất đạt so với yêu cầu mà con mắt tự chủ của tôi đã đưa ra. Hai tác phẩm đã mang lại cho tôi một cái lợi: nó đã khiến đầu óc và tay tôi phải được vận dụng, đồng thời làm tăng thêm sức mạnh cho những ấn tượng mới mẻ mà tôi muốn


khắc sâu trong lòng. Chẳng phải đợi lâu tôi mới tìm được lý do để tự khen mình về cái kỷ luật lành mạnh mà tôi đã buộc tình cảm của mình phải tuân theo. Chính nhờ cái kỷ luật ấy mà tôi có thể đương đầu với những sự việc sắp xảy ra bằng sự điềm tĩnh đúng mực. Nếu tôi không chuẩn bị trước, có lẽ tôi đã rơi vào tình trạng mất thăng bằng mất rồi, cho dù đó chỉ là vẻ bề ngoài.



Chương 17 Một tuần trôi qua, không có tin tức gì của ông Rochester. Rồi mười ngày, vẫn chưa thấy ông về. Bà Fairfax bảo nếu ông có đi thẳng từ lâu đài Leas tới Luân Đôn, rồi lại từ đấy sang lục địa và một năm sau mới quay về lâu đài Thornfield thì cũng chẳng lấy làm ngạc nhiên, vì không phải là ông không thường xuyên bỏ đi một cách đột ngột và bất ngờ như thế. Nghe bà nói mà lòng tôi tê tái và tràn trề thất vọng. Nhưng tôi chỉ tự cho phép mình thất vọng thoảng qua thế thôi, chứ khi nhớ lại tình cảnh khôi hài và các nguyên tắc kỷ luật đã đề ra, tôi lại lập tức đưa tình cảm của mình vào trật tự. Thật là tuyệt khi tôi nhanh chóng khắc phục được sự sai phạm nhất thời và gạt bỏ được cái ý nghĩ sai lầm rằng mọi sự đi lại của ông Rochester đều là chuyện ít nhiều có liên quan đến lợi ích sống còn của mình. Tôi không đã tự hạ mình bằng cái khái niệm nô lệ của kẻ dưới mà trái lại, tôi chỉ tự nhủ: “Mày chẳng có dính dáng gì đến ông chủ lâu đài Thornfield ngòai việc nhận số tiền lương dạy học cho đứa bé mà ông ấy nhận đỡ đầu, và tỏ long biết ơn vì cái cách xử sự tôn trọng, tử tế của ông mà mày có quyền được hưởng nếu làm tròn bổn phận của mình. Hãy tin đó là mối quan hệ duy nhất mà ông chủ có thể công nhận giữa mi và ông ta, vì vậy đừng nên coi ông ta là đối tượng cho những cảm xúc mong manh, khoái cảm mãnh liệt và những ưu phiền của mình... Ông ta với mày đâu có cùng tầng lớp, phải biết than phận chứ! Hãy biết tự trọng khi phung phí tình yêu của cả con tim, tâm hồn và sức mạnh vào cái nơi nó có thể bị rẻ rúng, khinh miệt!” Tôi vẫn bình lặng tiếp tục công việc hàng ngày, nhưng thỉnh thoảng đầu óc tôi lại vẩn vơ với những ý nghĩ mà theo đó thôi thấy mình nên rời khỏi Thornfield. Nhiều lúc đang yên đang lành, tôi bỗng nghĩ đến những lời đăng báo tìm việc và những tình cảnh mới. Tôi thấy chẳng việc gì phải kìm chế những ý nghĩ ấy. Nếu có thể, chúng cứ việc nảy mầm kết trái. Ông Rochester vắng mặt được hơn nửa tháng thì viên bưu tá cầm đến cho bà Fairfax một lá thư. - Thì ra thư của ông chủ. – Bà Fairfax nhìn phong bì và nói. – Bây giờ thì chúng ta có thể biết có nên hy vọng ông ấy trở về hay không rồi. Trong lúc bà bóc thư ra đọc, tôi vẫn tiếp tục uống cà phê ( vì chúng tôi đang dùng điểm tâm). Cà phê nóng quá, khiến tôi nghĩ mặt tôi chợt đỏ bừng


lên là vì thế. Tại sao tay tôi run run, tại sao tôi vô tình đánh đổ nửa tách cà phê ra đĩa, tôi cũng chẳng buồn tìm hiểu nữa. - Hừm, thỉnh thoảng tôi cứ nghĩ ở đây, chúng ta sống âm thầm quá, nhưng chúng ta sắp sửa phải bận tối mắt tối mũi lại rồi đấy, ít nhất cũng trong một thời gian. – Bà Fairfax nói trong khi tay vẫn cầm lá thư giơ ra trước gọng kính. Tôi đang định hỏi tại sao thì chiếc áo thun của Adèle bất chợt bị tuột dây, buộc tôi phải thắt lại cho nó. Sau khi đưa cho nó một cái bánh và một cốc sữa, tôi hỏi bâng quơ: - Tôi nghĩ chắc ông Rochester cũng chẳng về sớm? - Có chứ, ông ấy bảo khoảng ba hôm nữa ông ấy sẽ về, chừng thứ năm gì đó, và không phải chỉ về một mình. Không biết còn bao nhiêu người quyền quý ở lâu đài Leas sẽ cùng về với ông nữa. Ông dặn tất cả các phòng ngủ đều phải được chuẩn bị thật chu đáo, các phòng thư viện và phòng khách cũng phải dọn dẹp sạch sẽ. Tôi phải đi mướn thêm mấy đầu bếp ở quán George ở Millcote, hoặc ở bất cứ chỗ nào khác có thể. Rồi thế nào các quý ông, quý bà sẽ chẳng dẫn theo một lô người hầu của mình, và thế là lâu đài sẽ chật như nêm cho mà xem. Dứt lời, bà Fairfax vội vàng ăn nốt phần điểm tâm, rồi lật đật ra khỏi phòng để chuẩn bị bắt tay vào chiến dịch dọn dẹp nhà cửa. Đúng như bà tiên đoán, quả thực ba ngày sau ở Thornfield rất bận rộn. Tôi cứ tưởng bình thường tất cả các phòng ở đều đã gọn gàng, sạch đẹp lắm rồi, nhưng không, hình như tôi đã lầm. Bà Fairfax phải gọi thêm ba phụ nữ đến giúp việc, nào là lau chùi đồ đạc, đánh bóng các đồ sơn nhũ, giũ thảm, hạ các bức tranh xuống để phủi bụi rồi lại đóng lên, lau mặt gương, rồi nhóm lửa phòng ngủ, hong khăn trải giường và đệm lông bên lò sưởi. Đúng là từ trước đến nay, tôi chưa bao giờ bắt gặp một cảnh náo nhiệt như thế. Adèle cứ tung tăng chạy qua chạy lại, rõ ràng việc chuẩn bị đón khách và viễn cảnh được thấy các vị khách đến đã làm cho nó háo hức. Nó cứ đòi Sophie chuẩn bị các “toilette” (nó gọi áo trẻ con là như vậy), chải chuốt lại những bộ đã cũ, rồi đem những bộ mới ra hong gió và gấp lại cho ngay ngắn. Còn nó thì chẳng làm gì ngoài việc hết chạy tíu tít trong các phòng mặt tiền, leo lên giường, nhảy xuống nằm dài lên đệm, rồi lại chồng gối lên thành từng đống trước những lò sưởi đang đượm nồng ánh lửa. Vì bà Fairfã giao việc cho cả


tôi, nên tôi phải cho nó nghỉ học. Suốt ngày tôi ở trong nhà kho để giúp việc (đúng hơn là làm vướng chỗ) bà và chị nấu bếp. Tôi học cách làm kem sữa bột ngô, bánh pho mát kem, rồi nhồi bột kiểu Pháp và cách bày biện các món tráng miệng. Buổi liên hoan dự kiến sẽ được tổ chức vào chiều thứ năm, khoảng sáu giờ. Từ giờ đến lúc ấy, tôi chẳng còn lúc nào rảnh để mà nuôi những ý nghĩ ngông cuồng nữa, mà tôi tin mình cũng háo hức và bận bịu như tất cả mọi người, tất nhiên là không kể Adèle. Tuy nhiên, thỉnh thoảng tôi cũng cảm thấy mình chán nản và dù không muốn, tôi vẫn bị đẩy vào một vùng tối của những hoài nghi và những ý nghĩ tồi tệ, hoặc những dự đoán đen tối. Cảm giác ấy thường xuất hiện vào những lúc tôi tình cờ thấy cánh cửa cầu thang lên tầng ba (gần đây vẫn đóng im im) từ từ hé mở và Grace Poole hiện ra, đầu đội mũ, người mang tạp dề trắng, tay cầm một chiếc khăn. Lúc chị ta đi như mèo dọc hành lang, không gây bất cứ một tiếng động nào vì chân đi giày đế êm, lúc lại ngó vào các phòng ngủ đang bận rộn – nói vài lời, có lẽ với chị dọn phòng, về cách cọ sạch đáy lò sưởi, lau rửa mặt đá lò sưởi hoặc lau những vất bẩn trên giấy dán tường – rồi lại bỏ đi. Ngày nào cũng vậy, chị ta xuống bếp ăn, ngồi ngậm tẩu bên cạnh lò sưởi, rồi lại quay lên gác với một bình bia đen mà theo tôi thì đó có lẽ là niềm an ủi duy nhất của chị ta trong căn phòng hiu quạnh trên tầng lầu. Suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ trong ngày, chị ta chỉ ghé qua chỗ các bạn làm ở dưới nhà chỉ một tiếng. Khoảng thời gian còn lại, chị ta rút trong một căn buồng lát gỗ sồi, trần thấp nào đó ở tầng ba. Hẳn đó phải là nơi chị ta lầm lũi ngồi khâu vá và cất lên tiếng cười kỳ quái với chính mình, một kẻ đơn độc như một tù nhân trong ngục tối. Điều lạ nhất là trừ tôi ra, tất cả mọi người trong nhà chẳng ai quan tâm hoặc lấy làm ngạc nhiên về thói quen của Poole. Chẳng ai bàn tán đến địa vị hoặc công việc của chị ta và cũng chẳng ai tỏ vẻ thương hại trong cuộc sống thui thủi, cô độc của người đàn bà kỳ lạ ấy. Có một lần, tôi thoáng nghe thấy Leah và một chị quét dọn nhắc đến Grace Poole. Leah nói những gì thì tôi không rõ, nhưng thấy chị kia bảo: - Tôi đoán tiền công của chị ấy cao lắm, đúng không? - Đúng, Leah trả lời – tôi mong mình cũng được như vậy. Tôi nói chị đừng bảo tôi là tôi hay than vãn: tiền công ở lâu đài Thornfield kể cũng cao thật, nhưng tôi chỉ được trả chẳng bằng một phần năm lương của Grace Poole. Vì thế chị ta đã dành dụm được kha khá, vì cứ ba tháng lại thấy chị ta


cầm tiền đến gửi ngân hàng ở Millcote. Tôi nghĩ nếu muốn rời khỏi đây, chị ta có thể sống tự lập nhờ món tiền đã đành dùm được, điều ấy chẳng có gì lạ. Nhưng tôi cho rằng chị ta đã sống quen ở đây rồi, với lại chị ta cũng chưa đến bốn mươi, lại là người khỏe mạnh, có thể làm được mọi việc. Bây giờ mà thôi việc thì sớm quá. - Tôi dám chắc chị ta là một tay cừ. – Chị quét dọn phán. - Ừ! Chị ta luôn hiểu những việc mình phải làm, – Leah trả lời, giọng đầy ý nghĩa – và nếu có được trả lương như vậy thì cũng chẳng ai làm tốt hơn chị ta. - Lại không phải như thế sao! Tôi cứ thắc mắc không hiểu tại sao ông chủ... Chị quét dọn chỉ nói được có vậy, bởi Leah bất giác quay lại và nhìn thấy tôi, liền hích nhẹ vào người chị ta một cái. - Chắc là cô ấy không biết gì chứ? – Tôi nghe thấy chị này thì thầm. Leah lắc đầu, và tất nhiên câu chuyện ngắt quãng ở đấy. Cứ như những gì tôi vừa lõm bõm nghe được thì ở Thornfield hẳn phải có một chuyện bí ẩn nào đó mà tôi chưa được biết. Cuối cùng thì ngày thứ năm cũng đã tới. Mọi việc đều đã được thu xếp đâu vào đấy từ chiều hôm trước. Các tấm thảm được trải kín nền nhà, màn trướng kết tràng hoa được treo ngay ngắn, khăn trải giường trắng tinh trải phẳng phiu, bàn trang điểm được bài trí gọn gàng, mọi đồ đạc được lau bóng loáng, các bình sứ cũng được cắm đầy hoa. Tất cả phòng ở và phòng khách đều được trang hoàng sáng sủa và mát mắt. Đại sảnh cũng được quét dọn kỹ càng, chiếc đồng hồ lớn chạm trổ cũng như các bậc cầu thang và lan can đều được lau chùi bóng như gương. Trong phòng ăn, các tủ giá được bày rất nhiều đĩa sứ đầy hoa văn. Trong các phòng khách nhỏ, đâu đâu cũng thấy những đóa hoa nhập ngoại nở e ấp trên các bình sứ. Chiều buông, bà Fairfax diện bộ đồ satanh đen đẹp nhất, tay xỏ găng và đeo đồng hồ vàng. Bà diện như vậy là để đón khách và đưa cách phu nhân về phòng... Adèle cũng muốn ăn diện, mặc dù tôi nghĩ chắc gì nó đã được giới thiệu với khách, ít nhất là ngay hôm ấy. Tuy nhiên, để làm vừa lòng con bé, tôi cũng bảo Sophie khoác cho nó bộ áo váy ngắn bằng vải mỏng. Về


phần mình, tôi thấy chẳng cần phải sửa soạn để làm gì. Có lẽ tôi sẽ chẳng bị gọi khỏi chốn thiêng của mình – tức là phòng học, vì bây giờ nó đã trở thành chốn riêng của tôi, một “nơi ở ẩn rất thú vị trong những lúc nhốn nháo”. Ấy là một ngày xuân bình yên, một trong những ngày cưới tháng Ba, đầu tháng Tư, bầu trời quang đãng báo hiệu một mùa hè sắp tới. Lúc ấy, ánh chiều ta đã buông lên khắp cảnh vật, nhưng trời chiều còn ấm áp, tôi ngồi làm việc trong phòng học, cửa sổ mở ngỏ. - Cũng muộn rồi đấy, – Bà Fairfax bước vào nói với tôi – tôi rất vui vì đã chuẩn bị xong bữa chiều đúng một giờ sau khi ông Rochester bảo, vì bây giờ cũng đã hơn sáu giờ rồi. Tôi vừa bảo John ra cổng ngóng xem có thấy gì trên đường không, vì đứng ở đấy, người ta có thể nhìn khá xa về phía Millcote. – Vừa nói, bà vừa bước đến bên cửa sổ. – Kìa, anh ta kia rồi! Này, John (bà cúi xuống hỏi), có thấy gì không? - Họ đang về đấy, thưa bà, khoảng mươi phút nữa thì họ về tới đây. Adèle nháo nhào chạy ra cửa sổ. Tôi cũng bước theo và thận trọng đứng nép vào một bên, sau rèm cửa, để có thể nhìn ra bên ngoài mà không bị ai trông thấy. Cái mươi phút của anh chàng John sao mà dài thế không biết, nhưng cuối cùng thì tôi cũng nghe thấy tiếng bánh xe lăn lạo xạo trên đường. Có bốn người cưỡi ngựa đi trước, theo sau là hai cỗ xe mui trần với những dải khăn phấp phới cùng những chiếc mũ lông nhấp nhô bên trên. Hai trong số bốn người cưỡi ngựa trông thật trẻ trung và bảnh bao, người thứ ba cưỡi ngựa ô Mescrour chính là ông Rochester, chạy lăng xăng trước ông là con Pilot. Cưỡi ngựa đi song song với ông là một quý phu nhân. Cô ta khoác một chiếc áo choàng đỏ chói dài gần quét đất, khăn mạng che mặt phất phơ theo gió, lẫn với những nếp gấp khăn mỏng là những lọn tóc quăn đen nhánh. - Cô Ingram! Bà Fairfax reo lên và chạy vội về vị trí của mình ở dưới nhà. Đoàn ngựa mất dạng sau khúc quanh ở góc lâu đài. Adèle cứ nằng nặc đòi xuống dưới, tôi phải ôm nó vào lòng và lựa lời nói cho nó hiểu rằng nó không được bén mảng đến gần các quý bà vì bất cứ lý do gì nếu không được gọi xuống, rằng ông Rochester sẽ giận lắm... Nghe vậy, nó nước mắt ngắn dài, nhưng khi thấy tôi nghiêm mặt lại, nó đành phải im.


Không khí ồn ào, náo nhiệt, giọng ồm ồm của các ông và giọng thanh thoát của các bà vang lên từ đại sảnh thành một bản hòa âm hỗn độn. Và nổi bật hơn tất cả, mặc dù không to lắm, là giọng nói âm vang của ông chủ lâu đài Thornfield chào mừng các vị khách lịch lãm và vô tư. Rồi có tiếng những bước chân nhè nhẹ trên cầu thang ngoài hành lang, những tiếng cười dịu dàng và hân hoan, tiếng cửa đóng và mở. Một lát sau, tất cả đều im lặng. “Elles changent de toile es – Adèle nói và khẽ thở dài. Từ đầu tới giờ, nó rất chăm chú nghe ngóng và theo dõi từng cử chỉ của mọi người – Chez maman, quand il y avail du monde, je les suivais partout, au salon et à leurs chambres; souvent je regardais les femmes de chamber coiffer et habiller les dames, [44] et c’etait si amusant: comme cela on apprend” - Em không thấy đói à, Adèle? - Mais oui, mademoiselle, voila cing ou six heures que nous n’avons pas [45] mange. - Thôi được, trong lúc các quý bà ấy còn đang ở trong phòng, cô sẽ liều xuống lấy cho em cái gì ăn nhé! Tôi e dè rời khỏi phòng theo cầu thang đằng sau và đi thẳng xuống bếp. Quả là ở đây vẫn nhộn nhịp lắm. Các món xúp và cá đều sắp chín, khiến chị đầu bếp cắm cúi dán mắt vào những cái chảo vì sợ các thứ trong chảo bất chợt cháy xém. Trong phòng gia nhân, hai tay xà ích và ba người hầu của các vị khách đang đứng, ngồi lố nhố quanh lò sưởi. Còn những người hầu gái, tôi cho là đang ở trên gác với các quý bà. Các gia nhân mới thuê từ Millcote về cũng tất tưởi ngược xuôi khắp nơi. Len lỏi qua đám người lộn xộn ấy, cuối cùng tôi cũng mò được đến chạn đựng thức ăn. Tôi lấy một con gà đã nguội, một lát bánh mì, vài chiếc bánh nướng có nhân, một hai cái đĩa và dao, dĩa trước khi bước vội ra. Đến cuối hành lang, tôi đang đóng cửa cầu thang lại sau lưng thì chợt nghe thấy những tiếng nói chuyện rộ lên. Có lẽ là các quý bà sắp sửa rời khỏi phòng riêng. Tôi không thể về phòng học mà không đi qua cửa phòng họ. Vì sợ bị họ bắt gặp mình đang cầm đồ ăn, nên tôi đành phải đứng im một chỗ. Hành lang tối như hũ nút vì không có cửa sổ, hơn nữa, mặt trời đã lặn để nhường chỗ cho hoàng hôn. Trước mắt tôi là các quý khách mỹ miều đang lần lượt bước ra khỏi mấy căn phòng. Trong những bộ đồ lộng lẫy giữa khung cảnh chạng vạng, trông


ai nấy đều vui vẻ và ung dung lắm. Họ đứng xúm lại ở đầu bên kia hành lang để trò chuyện, rồi tất cả cùng nhẹ nhàng xuống cầu thang, bước chân hầu như không tiếng động, chẳng khác nào một làn sương sáng láng lan tỏa xuống sườn đồi. Sự xuất hiện của các quý bà để lại trong tôi một ấn tượng về cái vẻ thanh lịch thượng lưu mà chưa bao giờ tôi cảm nhận được. Tôi chợt nhận ra Adèle đang hé cửa ngó nhìn ra ngoài phòng học. “Các quý bà trông đẹp thế chứ! – Nó reo lên bằng tiếng Anh. – Ôi, ước gì em được lại gần họ nhỉ! Cô có nghĩ sau bữa tối, ông Rochester sẽ gọi chúng ta không?” - Không, cô không nghĩ như vậy, ông Rocheter còn bận nhiều chuyện lắm. Tối nay, em đừng nghĩ đến các bà khách làm gì, chắc là mai em sẽ được gặp họ thôi mà. Đây, bữa tối của em đây. Con bé quả là rất đói, vì thế con gà và mấy chiếc bánh đã làm nó không chú ý đến điều gì nữa. May mà tôi đã liều mạng xuống bếp lục lọi, nếu không thì cả nó và tôi, và Sophie nữa – tôi có dành phần cho chị ta – đều phải nhịn đói mất, vì mọi người ở dưới nhà đều bận tối mặt, chẳng ai nghĩ đến chúng tôi. Mãi tới hơn chín giờ, mọi người mới bắt đầu ăn tráng miệng và đến mười giờ, bọn người hầu vẫn còn tất bật chạy đi chạy lại mang cà phê cho khách. Tôi cho phép Adèle thức khuya hơn thường ngày, vì nó bảo nó không thể ngủ được khi ở dưới nhà, mọi người cứ nói chuyện râm ran, thỉnh thoảng các cánh cửa lại đóng mở rầm rầm. Vả lại, nó còn bảo biết đâu ông Rochester lại chẳng cho gọi chúng tôi xuống khi nó trót thay quần áo mất rồi! “Etalors quell [46] dommage!” Tôi kể chuyện cho Adèle nghe chừng nào nó còn muốn nghe, rồi để thay đổi không khí, tôi phải dẫn nó ra ngoài hành lang. Đèn đại sảnh bây giờ được thắp sáng trưng, khiến con bé cứ nhoài người ra ngoài lan can, nhìn đám gia nhân ra ra, vào vào. Đêm về khuya, một giai điệu êm đềm vẳng tới từ phòng khách, thì ra chiếc dương cầm đã được đem vào đó. Tôi và Adèle ngồi xuống bậc thang trên cùng lắng nghe. Một giọng hát âm vang chan hòa trong điệu nhạc trầm lắng, đó là giọng hát của một quý phu nhân, một giọng hát rất đỗi ngọt ngào, êm dịu. Giọng đơn ca vừa dứt thì đến song ca, rồi đồng ca. Những lúc đàn ca tạm lắng, tiếng chuyện trò rì rầm lại nổi lên. Lặng im ắng nghe một hồi lâu, tôi bỗng nhận ra mình đang cố phân biệt giọng nói của ông Rochester giữa những tiếng ồn ào ấy. Tôi phân biệt được ngay, và khi đã nhận ra giọng ông – điều không mấy khó khăn – tôi lại căng tai phân biệt các âm điệu mơ hồ (vì khoảng cách xa quá) thành những lời nói.


Chuông đồng hồ ngân mười một tiếng. Tôi quay sang nhìn Adèle, thấy nó gục đầu lên vai tôi, hai mắt nhắm tịt. Tôi phải bế nó về giường. Mãi đến gần một giờ sáng các vị khách mới trở về phòng riêng. Ngày hôm sau cũng đẹp trời như hôm trước. Đám khách quyết định rong chơi ở các vùng phụ cận. Họ lên đường từ trước buổi trưa. Vài người cưỡi ngựa, số còn lại đi xe. Tôi được chứng kiến họ cả lúc đi lẫn lúc về. Cũng như hôm trước, chỉ có cô Ingram là người phụ nữ duy nhất đi ngựa. Và cũng như hôm trước, ông Rochester cưỡi ngựa đi bên cạnh cô. Hai người đi hơi cách xa số còn lại. Thấy bà Fairfax đứng cạnh mình bên cửa sổ, tôi chỉ tay về phía họ. - Bà bảo chắc gì họ đã nghĩ đến chuyện lấy nhau, – tôi nói – nhưng bà thấy chưa, rõ ràng là ông Rochester thích cô ấy hơn những người phụ nữ còn lại. - Ừ, cũng có thể, chắc là ông ấy cũng quý mến cô gái. - Và cô ta cũng có vẻ thích ông ấy. – Tôi nói thêm. – Cứ nhìn thì biết, cô ta đang ngả hẳn đầu về phía ông như đang thổ lộ tâm tình. Giá như tôi được nhìn mặt cô ta nhỉ, vì tôi vẫn chưa được thấy rõ cô ta lần nào. - Rồi chiều tối nay cô sẽ được thấy cô ấy. – Bà Fairfax đáp lời. – Tôi đã có dịp nhắc ông Rochester là Adèle nó chỉ mong được giới thiệu với các quý bà. Nghe vậy, ông ấy bảo: “Ồ, ăn chiều xong, cứ cho nó vào phòng khách đi, và nhớ bảo cả cô Eyre cùng xuống với nó”. - Vâng, chắc là ông ấy chỉ xã giao thế thôi, chứ tôi xuống đấy làm gì. - Ừ, tôi cũng bảo ông ấy là cô không quen chỗ đông người, nên sẽ không thích có mặt ở giữa đám khách vui vầy như vậy, họ toàn là người lạ cả. Nhưng ông đã bác lại ngay: “Không sao hết! Nếu cô ta từ chối, bà hãy bảo đó là ý muốn của cá nhân tôi. Và nếu cô ta vẫn tiếp tục không chịu, bà cứ nói là tôi sẽ đích thân lên tìm cô ta đấy”. - Tôi sẽ không để ông Rochester phải bận tâm đến thế đâu. Tôi sẽ xuống nếu không còn cách nào tốt hơn, nhưng thực ra tôi cũng chẳng thích. Bà cũng sẽ xuống dưới ấy chứ, bà Fairfax? - Không, tôi đã xin được cáo lui và ông chủ đồng ý rồi. Tôi sẽ bảo cô


tránh lúng túng như thế nào khi phải xuất hiện trước mắt bọn họ, vì tất cả chỉ có điều ấy là khó chịu nhất. Cô phải vào phòng khách ngay từ lúc chưa có ai, tức là lúc các quý bà vẫn chưa rời bàn ăn. Sau đó, cô sẽ tìm một chỗ thật yên mà ngồi. Sau khi các quý ông bước vào, cô chẳng cần phải ngồi lâu nếu như không muốn, chỉ cần để ông Rochester trông thấy cô có mặt rồi lựa chiều mà lủi ra... Sẽ chẳng ai để ý đến cô đâu. - Bà có nghĩ mọi người sẽ lưu lại đây lâu không? - Chắc cũng chỉ đôi ba tuần thôi, không lâu hơn đâu. Sau dịp lễ Phục sinh, ông George Lynn sẽ phải về thị trấn để nhậm chức vì vừa trúng cử nghị viện ở Milllocte. Thế nào ông Rochester chẳng đi cùng. Tôi thấy ai chứ ông ấy mà chịu ở lại Thornfield lâu thế thì quả cũng là lạ lắm rồi. Tôi bỗng cảm thấy lo lo khi nghĩ đến chuyện phải vào phòng khách. Adèle cứ rối cả lên khi biết buổi tối sẽ được giới thiệu với khách, mãi đến lúc Sophie bắt đầu mặc áo cho nó, nó mới chịu yên. Sự hệ trọng của buổi gặp mặt đã nhanh chóng làm cho con bé trở nên bình tĩnh hơn. Khi đã được chải đầu óng mượt, mặc áo váy lụa hồng, thắt dây lưng dài, đeo găng tay đan, trông nó trịnh trọng chẳng khác nào một vị quan tòa. Chẳng cần đợi người lớn dặn phải giữ gìn quần áo, nó ngồi yên trên ghế nhỏ của mình, cẩn thận vén váy lên vì sợ bị nhầu, và hứa chỉ rời khỏi chỗ khi tôi đã chuẩn bị xong. Tôi trang điểm rất nhanh, mặc bộ áo váy đẹp nhất (bộ đồ màu xám bạc tôi mua để dự lễ cưới cô Temple, và vẫn để nguyên từ bấy đến giờ). Chải đầu qua quýt, cài trâm nạm ngọc (đồ trang sức duy nhất của tôi) xong, tôi dắt Adèle xuống dưới nhà. Cũng may mà ngoài lối đi qua phòng lớn, nơi các vị khách đang ngồi ăn, còn có một lối nữa đi vào phòng khách nhỏ. Khi chúng tôi vào, phòng khách vẫn chưa có ai, chỉ có ngọn lửa im lặng cháy trong lò sưởi bằng đá cẩm thạch và những ngọn nên soi sáng cảnh cô tịch với những bông hoa đặt trên các mặt bàn. Tấm rèm đỏ thắm buông trước vòm cửa dẫn sang buồng ăn. Dù chỉ ngăn cách với phòng lớn bằng tấm vải ấy, nhưng chúng tôi vẫn không nghe thấy các vị khách nói những gì ngoài những âm thanh rì rầm đều đều vì họ nói rất nhỏ. Với vẻ mặt vẫn rất hệ trọng, Adèle im lặng ngồi vào chiếc ghế bên cửa sổ và với tay lấy một cuốn sách đặt trên chiếc bàn gần đấy. Adèle lôi ghế ngồi dưới chân tôi. Một lát sau, nó lấy tay lay lay đầu gối tôi.


- Có chuyện gì đấy, Adèle? - “Est-ce que je ne puis pas prendre une seule de ces fleurs magnifiques, [47] Mademoiselle? Seulement pour completer ma toilette . - Em nghĩ đến chiếc áo nhiều quá đấy, Adèle à. Thôi được, cô có thể lấy cho em một bông. – Tôi nói và rút một bông hồng trong bình hoa cài vào thắt lưng cho nó. Con bé thở phào, vẻ vô cùng thỏa mãn, như thể niềm hạnh phúc đang tràn ngập trong lòng nó. Tôi quay mặt đi giấu một nụ cười không kìm nén được. Quả là có một cái gì đó vừa khôi hài, lại vừa đáng thương trong cái khát khao hồn nhiên, thiên bẩm được làm đẹp của cô bé thành Ba Lê này. Tôi đã có thể nghe rõ tiếng đứng dậy lục đục của các vị khách. Tấm rèm cửa được vén lên trên cửa vòm, ngọn đèn treo trong phòng tỏa ánh vàng xuống các bộ đồ ăn bằng bạc và thủy tinh bày kín một chiếc bàn dài. Mấy quý bà xuất hiện dưới vòm cửa, và khi họ bước ra, mảnh rèm lại buông xuống. Cả thảy chỉ có tám người, vậy mà khi họ bước vào phòng, tôi cứ tưởng phải có nhiều người lắm. Trong số họ có mấy bà thật cao lớn và phần nhiều mặc đồ trắng. Bộ đồ của tất cả các bà đều tha thướt, bồng bềnh, trông như những làn sương tô điểm cho mảnh trăng diễm lệ. Tôi đứng dậy cúi chào, chỉ có một hai bà nghiêng mình đáp lễ, các quý bà còn lại đều giương mắt nhìn tôi. Họ tản ra trong phòng, dáng điệu nhẹ nhàng và khoan thai của họ làm tôi liên tưởng đến những cánh thiên nga trắng phau. Mấy vị ngồi ngả người trên những chiếc xôpha và tràng kỷ không tay vịn, mấy vị khom khom đứng ngắm hoa và sách đặt trên bàn, số còn lại túm tụm vây quanh lò sưởi. Tất cả nói chuyện với nhau đều bằng một giọng thủ thỉ, như thể họ đã quen nói với nhau như vậy. Về sau tôi mới được biết tên các nữ khách, vì vậy bây giờ tôi có thể gọi rõ tên từng người. Trước hết là bà Eshton và hai cô con gái. Những đường nét còn giữ được trên gương mặt và cơ thể bà cho thấy trước kia, hẳn bà phải là một phụ nữ rất đẹp. Cô con gái lớn của bà tên là Amy, người nhỏ nhắn, có nét mặt và dáng điệu ngây thơ như trẻ con, nhưng thân hình lại khá hấp dẫn trong bộ váy áo mỏng màu trắng và chiếc thắt lưng màu xanh. Cô con gái thứ hai tên


là Louisa, trông cao hơn và cũng lịch lãm hơn cô chị, có khuôn mặt rất xinh [48] mà nói như người Pháp là minois chiffonne . Cả hai chị em cùng non tươi như những đóa hoa lan. Lynn phu nhân là một phụ nữ khoảng bốn mươi tuổi, có dáng người cao lớn, đẫy đà và một vẻ thật kiêu kỳ. Bà mặc một chiếc áo satanh láng bóng đổi màu. Mái tóc bà đen nhánh dưới những chiếc lông chim màu thiên thanh và một dải băng dính đá quý. Bà đại tá Dent có vẻ ít lòe loẹt hơn, nhưng tôi thấy không vì thế mà bà mất đi vẻ quý phái. Bà là người có vóc dáng mảnh dẻ, khuôn mặt đôn hậu, trắng xanh dưới mái tóc sáng màu. Cách ăn mặc của bà, áo satanh đen, quàng khăn đan ngoại, đeo đồ nữ trang óng ánh sắc cầu vồng làm tôi thấy dễ chịu hơn là cái kiểu màu mè của bà Lynn. Nhưng có ba người dễ nhìn ra nhất – có lẽ một phần do họ cao lớn hơn cả – là bà quả phụ Ingram và hai cô con gái Blanche và Mary. Cả ba đều cao ngất. Trông bà quả phụ khoảng hơn bốn mươi, dáng người còn gọn gàng, tóc vẫn đen (ít ra dưới ánh đèn), hai hàm răng cũng vậy, trông có vẻ vẫn khỏe lắm. Phải nói so với lứa tuổi, trông bà còn rất đẹp, ít nhất là ở cái thân hình, có điều các điệu bộ của bà đều không giấu nổi sự kiêu căng đến mức khó chịu. Khuôn mặt mang nét người La mã, cái cằm đôi và cái cổ đơ đơ như cột nhà khiến tôi có cảm giác bà không chỉ hơi tối tăm, mà còn vênh váo nữa. Đôi mắt dữ tợn và khắc nghiệt của bà khiến tôi nhớ đến đôi mắt của bà Reed. Khi nói, bà dằn từng tiếng, giọng trầm trầm và ngạo mạn, rất khó chịu. Cái áo dài bằng nhung đỏ, chiếc khăn choàng Ấn Độ đính kim tuyến mà bà mang trên người càng khiến bà có cái vẻ uy nghi của một bà hoàng thực thụ (tôi cho là bà nghĩ như thế). Blanche và Marry cũng có cùng dáng vóc, cao lớn và thẳng đuỗn như cây bạch dương. Nếu so với chiều cao thì Mary quá mảnh mai, còn Blanche thì chẳng khác nào tượng nữ thần Dian. Tất nhiên, Blanche là người đã khiến tôi chăm chú nhất. Trước hết, tôi muốn xem cô ta có đúng như bà Fairfax tả không; thứ hai, cô ta có giống bức chân dung mà tôi đã vẽ theo tưởng tượng không; cuối cùng, cô ta có hợp với ông Rochester hay không. Về cái thân xác bề ngoài thì rõ ràng, cô ta đã trả lời từng điểm cụ thể cho cả bức chân dung tôi vẽ lẫn những lời miêu tả của bà Fairfax. Thân hình thanh thoát, đôi bờ vài xuôi thon thả, cái cổ yêu kiều, đôi mắt huyền và


những lọn tóc quăn đen nhánh. Nhưng còn khuôn mặt? Khuôn mặt cô ta rất giống bà mẹ, cũng vầng trán thấp, đường nét kiêu kỳ, khác chăng là còn trẻ trung, không có nếp nhăn và không cau có. Cô ta cười luôn miệng, nụ cười đầy vẻ mỉa mai, và đấy chính là nét thường trực trên bờ môi cong tớn và kiêu căng của cô ta. Có người bảo rằng bậc minh anh thường có ý thức về bản thân, tôi không biết cô Ingram có phải là minh anh hay không, nhưng quả thực là cô ta rất có ý thức giá trị của mình. Cô ta bắt đầu nói chuyện về thực vật học với bà Dent hiền dịu. Hình như quý bà này không nghiên cứu gì về bộ môn khoa học đó, mặc dù bà nói là bà rất yêu hoa, đặc biệt là “hoa đồng nội”. Còn Ingram thì khác, vì đã nghiên cứu rồi nên cô ta dễ dàng tuôn ra một tràng vốn kiến thức của mình. Tôi nhận ngay thấy cô ta đang lòe (tiếng địa phương) bà Dent và đùa cợt với sự dốt nát của bà. Có thể cách lòe của cô ta rất thông minh, nhưng rõ ràng cô ta không phải là người có bản chất tốt. Cô ta chơi dương cầm rất điêu luyện, hát rất mượt mà, nói chuyện với mẹ bằng tiếng Pháp khá lưu loát và đúng âm điệu. Marry có khuôn mặt đôn hậu và cởi mở hơn Blanche, nước da cũng sáng hơn (Blanche Ingram có nước da ngăm ngăm như người Tây Ban Nha), nhưng lại kém tài, nét mặt cũng ít biểu cảm, còn ánh mắt thì không mấy linh hoạt. Cô không có gì để nói và khi đã ngồi, trông cô cứ như một bức tượng im lìm. Cả hai chị em đều mặc những bộ đồ trắng tinh. Nhưng liệu tôi có nghĩ cô Ingram phù hợp với lựa chọn của ông Rochester không? Tôi không thể nói được, đơn giản là vì tôi không biết cái gu về phụ nữ của ông ra sao. Nếu ông thích vẻ uy nghi thì cô ta chính là một mẫu hình của vẻ uy nghi, đã thế cô ta lại hoạt bát nữa. Tôi nghĩ đã là đàn ông thì đa số ai cũng ngưỡng mộ cô, còn Rochester thì hẳn là như vậy rồi. Tôi thấy dường như mình đã có bằng chứng. Để xua tan chút nghi ngờ cuối cùng, chỉ cần nhìn hai người ngồi bên nhau là biết thôi. Thưa độc giả, bạn đừng tưởng trong khoảng thời gian đó, Adèle chịu ngồi im trên chiếc ghế đẩu dưới chân tôi. Không, vừa thấy các quý bà bước vào, nó vội nhỏm ngay dậy, tiến đến trước mặt họ để cúi chào và nói một vẻ trang trọng: - Bonjour mesdames

[49]

.


Cô Ingram cúi nhìn con bé, cười nhạo: “Ôi, con búp bê kìa, trông ngộ ghê cơ!” Lynn phu nhân thì bảo: “Tôi đoán chắc nó là đứa con nuôi của ông Rochester đấy, con bé người Pháp mà ông vẫn kể ấy.” Bà Lynn dịu dàng cầm lấy tay con bé và tặng nó một nụ hôn. Amy và Louisa Eshton cùng thốt lên: - Ôi, cô bé trông thật đáng yêu! Rồi họ kêu con bé lại một chiếc ghế xôpha. Chỉ đợi có vậy, con bé ngồi lọt vào giữa các nữ khách, lâu lâu nói chuyện bằng cả tiếng Pháp và thứ tiếng Anh bập bõm. Không chỉ các quý cô, mà cả bà Eshton và Lynn phu nhân cũng chú ý đến nó. Con bé có vẻ mãn nguyện lắm. Cuối cùng, các quý ông cũng được mời vào khi cà phê đã được chuẩn bị xong. Tôi ngồi khuất bóng – nếu có thể gọi như vậy trong căn phòng lung linh ánh đèn ấy, vì tôi bị rèm cửa sổ che khuất một nửa người. Tấm rèm ở cửa vòm lại được kéo lên nhường đường cho các ông bước vào. Sự xuất hiện cùng lúc của các quý ông, có một cái gì đó thật trang trọng. Tất cả các ông đều mặc áo đen, hầu hết đều cao lớn, một vài vị còn trẻ. Henry và Frederick Lynn trông mới thật sáng ngời, trong khi đại tá Dent lại mang phong thái của một quân nhân thực thụ. Ông Eshton, một viên quan hành chính quận, thì đúng là một bậc thượng lưu với mái tóc ông bạc trắng, dù cặp lông mày và hàng ria mép vẫn còn đen, khiến ông có nét gì đó thật giống một “vị cha quý tộc của sân khấu”. Cũng như mấy cô chị, Ingram công tử rất cao lớn và điển trai, nhưng lại chia sẻ với cô chị Marry với tính lãnh đạm và ánh mắt lờ đờ. Có vẻ như anh chàng thuộc loại người to xác nhưng lại trì độn thì phải. Còn ông Rochester không hiểu đã biến đi đằng nào rồi? Ông vào sau cùng. Dù không nhìn ra vòm của, nhưng tôi vẫn biết ông bước vào. Tôi cố tập trung chú ý vào những chiếc kim đan và chỉ muốn nghĩ đến cái công việc trên tay mình, vậy mà tôi vẫn cứ thấy rõ dáng hình ông. Và tôi cũng không thể không nhớ lại lúc cuối cùng gặp ông, ngay sau lúc tôi giúp ông một việc mà ông gọi là “đặc biệt”. Khi ấy, ông nắm tay tôi, cúi xuống nhìn mặt tôi bằng ánh mắt chứa chan nỗi lòng, và tôi đã chia sẻ cảm xúc cùng ông. Lúc ấy, sao tôi cảm thấy gần gũi ông đến thế! Từ bấy đến giờ đã xảy ra chuyện gì khiến địa vị của chúng tôi thay đổi nhanh đến như vậy? Giờ


đây, giữa chúng tôi đã có một khoảng xa lạ quá! Xa lạ đến nỗi tôi không còn dám mong ông đến nói chuyện với mình nữa. Nhưng tôi cũng không thắc mắc tại sao ông không thèm nhìn tôi, mà lại đi thẳng vào ngồi một chỗ ở phía bên kia phòng để bắt đầu cuộc trò chuyện với một vài quý bà. Không lâu sau khi ông mải nói chuyện với các bà và khi tôi có thể nhìn ông mà không bị ông để ý, tôi đã vô tình nhìn thẳng vào mặt ông. Thú thực là lúc ấy, tôi không còn điều khiển được đôi mắt của mình, bởi chúng cứ nhướn lên, long lanh nhìn xoáy vào ông. Tôi giương mắt lên nhìn, trong lòng cảm thấy một niềm vui khôn tả lẫn chút buồn tủi. Một niềm vui giống như vàng ròng bị một khôn tả lẫn chút buồn tủi. Một niềm vui giống như vàng ròng bị một vật nhọn khốn kiếp cào nát, một kẻ chết khát lết được đến giếng nước trong, dù biết nguồn nước nhiễm độc vẫn cúi xuống ừng ực như được uống những ngùm nước thánh linh thiêng. Thật chẳng ngoa khi nói “đẹp hay không là tùy mắt từng người”. Nước da không màu của ông chủ tôi, rồi gương mặt màu ô liu và gân guốc, vầng trán rộng và vuông, hai hàng lông mày rậm, đôi mắt sâu hun hút, cái miệng cương nghị và nghiệt ngã: tất cả đều toát lên cái nghị lực, ý chí và sự quả quyết - dù không đẹp theo nghĩa của tạo hóa, nhưng lại hơn cả đẹp đối với tôi. Chúng hoàn toàn chinh phục được tôi. Tôi không còn làm chủ được cảm xúc của mình, mà để mặc cho nó bị cuốn theo tình cảm của ông. Tôi không có ý định yêu ông. Độc giả đã biết tôi khó khăn khi phải gạt bỏ những mầm mống của tình yêu mới nhen nhóm trong lòng. Vậy mà vừa được gặp lại ông, các cảm xúc trong tôi bỗng nhiên lại trỗi dậy, xao xuyết và mãnh liệt! Ông đã khiến tôi yêu ông mà không cần phải để mắt đến tôi. Thế rồi tôi so sánh ông với các vị quý khách. Cái dáng vẻ duyên dáng hào hiệp của ông Lynn, cái từ tốn lịch thiệp của công tử Ingram, thậm chí cả cái dáng nhà binh khác biệt của đại tá Dent nữa, tất cả sao mà trái ngược với cái dáng dấp tự nhiên và cái sức mạnh đích thực của ông Rochester đến thế! Cái mã bề ngoài và điệu bộ của họ thật không để lại cho tôi một chút thiện cảm nào cả. Nhưng tôi có thể dễ dàng hiểu được rằng hầu hết những ai nhìn thấy họ cũng sẽ bảo họ là những người quyến rũ, đẹp trai và đường bệ, còn ông Rochester sẽ bị coi là thô kệch và khổ sở. Nhìn họ cười hay mỉm cười, tôi thấy thật vô nghĩa. Có khi những ngọn nến lung linh hay tiếng chuông ngân còn có hồn hơn là tiếng cười của họ. Nhìn Rochester cười, tôi thấy những nét thô kệch trên con người ông bỗng nhòa đi, đôi mắt ông bỗng trở nên long lanh và hiền lành, ánh lên sâu thẳm và êm dịu đến lạ thường. Lúc ấy, ông


đang nói chuyện với Louisa và Amy Eshton. Tôi không hiểu tại sao họ lại có theẻ vô cảm trước cái nhìn mà tôi thấy là sâu thẳm ấy của ông. Tôi cứ tưởng mắt họ sẽ cụp xuống, còn đôi má sẽ ửng đỏ, nhưng không, họ không hề xúc động. Điều đó làm tôi thấy vui. Tôi thầm nghĩ: “Chẳng như đối với mình, ông ấy không có nghĩa lý gì đối với họ cả. Ông không cùng loại người với họ. Mình tin là ông ấy có nhiều nét giống mình. Mình có thể hiểu ý nghĩa mọi thái độ và cử chỉ của ông. Cho dù về tiền tài và địa vị, mình và ông ấy có một khoảng cách rất lớn, nhưng từ trong mạch máu, con tim, thớ thịt, mình vẫn cảm thấy giữa mình và ông ấy có cái gì đó thật đồng điệu về tâm hồn. Nhưng chẳng phải đã có lần mình nói rằng quan hệ giữa ông ấy với mình chỉ là quan hệ ông chủ và kẻ làm thuê đó sao? Chẳng phải mình đã tự trói buộc mình khi chỉ coi ông là một ông chủ trả lương là gì? Thật là một sự báng bổ lại lẽ tự nhiên! Mọi cảm xúc tốt đẹp, chân thành và mãnh liệt của mình đều hướng về ông. Mình biết là phải giữ kín những tình cảm ấy, phải dồn nén niềm hy vọng, phải nhớ rằng ông ấy sẽ không thể bận tâm nhiều tới mình. Vì khi tự nhận mình đồng điệu với ông ấy, mình không thể đánh đồng rằng mình có đủ khả năng gây ảnh hưởng và sự quyến rũ như ông. Mình chỉ có thể nghĩ rằng mình với ông có những sở thích và cảm xúc giống nhau mà thôi. Hãy luôn tự nhủ rằng mình với ông sẽ mãi mãi có sự cách biệt... nhưng chừng nào còn thở và còn suy nghĩ được, mình vẫn cứ yêu ông ấy!” Cà phê được bưng vào. Từ lúc các quý ông bước vào, các quý bà bỗng trở nên tíu tít như một bầy sơn ca, câu chuyện vì thế mà rôm rả hẳn lên. Đại tá Dent và ông Eshton bàn về chính trị, hai bà vợ ngồi yên lắng nghe. Lynn phu nhân và Ingram phu nhân, hai bà quả phụ kiêu ngạo, ngồi tán gẫu với nhau. Ngài George, một điền chủ rất to béo, tươi tắn – mà tôi quên chưa nhắc đến lúc nãy – đứng trước ghế xôpha của hai bà, tay cầm tách cà phê, thỉnh thoảng lại chêm vào một câu vô duyên. Ông Frederick Lynn ngồi cạnh Mary Ingram và chỉ cho cô xem những bức tranh khắc in trong một quyển sách. Cô gái chăm chú nhìn những bức vẽ, thỉnh thoảng lại mỉm cười, nhưng có vẻ rất kiệm lời. Công tử Ingram, cao lớn, lúc nào cũng trầm ngâm, khoanh tay đứng tựa vào ghế bành của cô Amy Eshton bé nhỏ. Cô nàng ngước mắt nhìn chàng công tử và nhí nhảnh trò chuyện như con chim hồng tước, cô nàng có vẻ thích chuyện với anh chàng hơn ông Rochester. Henry Lynn cùng ngồi với Adèle trên chiếc ghế tràng kỷ không lưng tựa dưới chân Louisa. Anh chàng cố nói chuyện bằng thứ tiếng Pháp trọ trẹ với Adèle, khiến Louisa phải phì cười. Nhưng Blanche Ingram thì cặp đôi với ai? Cô ta đang cắm cúi đứng xem một cuốn album đặt trên bàn, vẻ như đang chờ đợi ai. Chắc đứng lâu sốt


ruột, nên cô phải đi tìm một người để bắt chuyện. Ông Rochester, sau khi rời khỏi chỗ mấy chị em nhà Eshton, bỏ ra đứng một mình cạnh lò sưởi như cô Blanche vừa nãy. Sau khi rời khỏi bàn, Blanche lựa một chỗ đối diện với ông, phía bên kia lò sưởi như cô Blanche vừa nãy. Sau khi rời khỏi bàn, Blanche lựa một chỗ đối diện với ông, phía bên kia lò sưởi. - Ông Rochester, tôi nghĩ ông không thích trẻ con thì phải. - Vâng, đúng thế. - Thế thì tại sao (chỉ về phía Adèle) ông lại nuôi con búp bê kia? Ông nhặt được nó ở đâu vậy? - Không phải là nhặt, mà là người ta đã đẩy nó vào tay tôi. - Ông nên gửi con nhóc ấy đến trường nội trú đi. - Tôi không đủ điều kiện vì gửi nó đến trường tốn kém lắm. - Sao cơ, hình như ông đã thuê cho nó một cô giáo thì phải? Tôi vừa trông thấy một người vào đây cùng con bé kia mà, cô ta biến đi đằng nào rồi nhỉ? Ồ, không! Cô ta vẫn đang ngồi sau rèm cửa sổ kia kìa. Tôi nghĩ việc ông trả lương cho cô ta có phải rẻ hơn đâu... Có khi còn tốn kém hơn nữa ấy chứ, vì ông phải bỏ tiền cho cả hai. Tôi sợ – hoặc đúng hơn là hy vọng – câu nói của cô Ingram sẽ làm ông Rochester nhìn về phía tôi, vì vậy tôi càng thu người vào bóng tối. Nhưng ông không hề ngoảnh lại. - Tôi lại không cân nhắc đến điều đó. – Ông nói và nhìn thẳng vào mặt cô Ingram, giọng bình thản như không. - Không, đàn ông các ông chẳng bao giờ để ý đến chuyện tiết kiệm và những chuyện tưởng chừng như rất bình thường. Có lẽ ông phải nghe mẹ tôi nói chuyện về các nữ gia sư mới được. Tôi nghĩ tôi và Mary ít nhất cũng phải có đến hàng tá gia sư, mà quá nửa trong số đó là đáng ghét, còn lại là toàn những kẻ lố bịch. Tóm lại, tất cả đều chướng tai gai mắt, con nói thế đúng không, mẹ?


- Con bảo gì cơ, con gái? Cô con gái bà quả phụ nhắc lại câu hỏi một lần nữa. - Con thân yêu nhất của mẹ, – bà mẹ đáp lời – thôi đừng nhắc đến cô giáo cô diếc gì với mẹ nữa, mới nghe mẹ đã thấy lộn ruột rồi. Mẹ khổ vì cái bọn bất tài và rách việc ấy lắm rồi. Ơn Chúa, may mà mẹ đã dứt được bọn chúng! Nhìn bà Dent cúi xuống thì thầm vào tai người đàn bà ngoan đạo kia, tôi đoán bà bảo cho người bạn biết rằng trong phòng hiện đang có mặt một người thuộc hạng người bị bà nguyền rủa. - Tant pis! tốt nết hơn.

[50]

– quý phu nhân độp lại. – Tôi hy vọng điều đó sẽ làm cô ta

Rồi bà nói nhỏ hơn, nhưng đủ để tôi nghe được: “Tôi đã để ý cô ta, vì tôi là bậc thầy của các thầy tướng số. Nhìn cô ta, tôi thấy chẳng thiếu một thói hư, tật xấu nào của hạng người đó.” - Là những thói hư, tật xấu nào đấy, thưa bà? Ông Rochester hỏi oang oang. - Tôi sẽ nói chuyện này riêng với ông. Bà ta vừa trả lời vừa lắc lư cái khăn trên đầu ba lần, vẻ trịnh trọng. - Nhưng tôi lại muốn thỏa trí tò mò ngay bây giờ kia. - Cứ hỏi Blanche thì biết, nó ngồi gần ông hơn tôi. - Ơ kìa! Mẹ đừng nói thế mà mang tiếng cho con! Con chỉ có một câu để nói về cái hạng người ấy: họ toàn là những kẻ tai ương! Chẳng phải là con đã bao lần khổ sở vì họ đó là gì, nhưng quả cũng đỡ tức khi không ít lần con đã giáng trả lại họ. Con và Theodore đã chơi không biết bao nhiêu vố các cô Wilsons, bà Greys và bà Jouberts rồi! Vì quá ngố nên Mary không thể thăm gia cùng chúng con được. Chơi bà Joubert là khoái nhất. Cô Wilson thì ốm yếu, khổ sở, hơi một tí là chảy nước mắt, đã thế lại trì độn. Tóm lại, có trêu trọc cô ta cũng chán thấy mồ. Còn bà Grey thì mặt trơ trán bóng, lỗ mãng một cục, có trêu cũng bằng không. Chỉ khổ cho bà Joubert thôi! Đến bây giờ con vẫn còn nhớ như in cái cảnh bà ta uất ức đến phát rồ, phát dại khi chúng


con hắt nước chè, bóp vụn bánh mì lẫn bơ, tung sách lên trần nhà, đập thước kẻ chan chát vào bàn học, vào tấm chắn và thanh sắt lò sưởi. Theodore này, cậu còn nhớ những ngày thú vị ấy không? - Có chứ, quên thế nào được! – Công tử Ingram dài giọng đáp lại. – Và cái bà già tội nghiệp ấy thường gào lên. “Trời ơi, toàn là đồ mất dạy!” Và bọn mình bắt đầu giảng giải cho bà ta biết rằng bà ấy quá dốt nát để có thể dạy bảo những người thông minh như bọn mình. - Đấy, đấy, cậu nói đúng rồi đấy. Mà Tedo này, cậu có nhớ không, hồi ấy tôi còn giúp cậu hành hạ ông thầy của cậu nữa, cái ông Vining mà bọn mình vẫn thường gọi là cha xứ mặt bủng ấy? Thế mà ông lão và cô Wilson lại quá trớn đến mức phải lòng nhau mới chết chứ! Thì ít nhất tôi và cậu cũng nghĩ như vậy. Bọn mình đã chẳng trợn tròn mắt khi bắt quả tang chàng và nàng liếc mắt đưa tình, rồi trao nhau những tín hiệu ái tình mà sau đó, bọn mình đã giải mã là “tình nồng cháy” đó là gì. Và tôi dám khẳng định với cậu rằng chẳng bao lâu sau, tôi đã nói toạc ra cho mọi người khám phá ấy của bọn mình. Tôi đã dùng chuyện đó làm đòn bẩy đẩy đôi uyên ương rởm ấy ra khỏi cửa. Có mẹ thân yêu ở đây làm chứng, hồi ấy, khi vừa được biết chuyện, mẹ đã bảo ngay đó là một chuyện đồi bại. Có phải thế không, mẹ? - Chắc chắn là như vậy, cưng ạ. Và mẹ nghĩ là mẹ đã xử sự rất đúng, vì ở bất cứ một gia đình gia giáo nào cũng có hàng ngày lý do giải thích tại sao người ta không thể tha thứ cho sự tằng tịu lén lút giữa một cô giáo dạy trẻ với một anh gia sư. Trước hết... - Ôi, thưa quý mẹ hiền dịu của con! Mẹ nên nhẫn nhịn một chút, đừng phải kể lại chừng ấy lý do làm gì! Vả lại chúng con cũng biết cả rồi, đó là một tấm gương nguy hại cho tuổi trẻ trong trắng, khiến chúng chểnh mảng mà quên cả bổn phận. Cấu kết với nhau rồi ỷ lại vào nhau, thành ra nhốn nháo, lộn xộn, chẳng ra thể thống gì cả. Con nói thế có đúng không, thưa Ingram nam tước phu nhân? - Đóa hoa lan của mẹ, con nói lúc nào cũng đúng mà. - Vậy thì chẳng cần nói thêm gì nữa, ta chuyển sang chuyện khác đi. Amy Eshton, không nghe thấy hoặc không quan tâm đến câu nói đó, góp chuyện với cái giọng như trẻ con: “Louisa và tôi cũng thường hay làm phiền cô giáo dạy mình. Nhưng cô ấy tốt quá, cam chịu hết, chẳng có gì làm


cho cô ấy nổi giận cả. Chẳng bao giờ thấy cô ấy bực mình với chúng tôi, đúng thế không, Louisa?” - Đúng thế, chẳng bao giờ cô ấy như vậy cả. Bọn mình có làm gì cô ấy cũng mặc, kể cả lục lọi bàn giấy và hòm đồ, rồi bới tung các ngăn kéo của cô ấy lên. Cô ấy là người quá tốt, bọn mình có xin cái gì cô ấy cũng cho. - Hình như chúng ta đang định ôn lại kỷ niệm về tất cả các cô giáo trên đời hay sao ấy. – Cô Ingram bĩu môi nói giễu cợt. – Để tránh những chuyện vớ vẩn ấy, một lần nữa tôi đề nghị mọi người nên chuyển sang chủ đề khác đi. Rochester, ông có tán thành ý kiến của tôi không? - Vâng, thưa cô, tôi đồng ý với cô về điểm ấy cũng như về mọi vấn đề khác. - Vậy thì tôi xin được mở đầu nhé. Tôn ông Eduardo, tối nay ngài có tốt giọng không? - Thưa công nương Bianca, nếu cô có lời đề nghị, tôi xin vui lòng chiều ý cô. - Vậy, thưa tôn ông, nhân danh vương quyền của tôi, tôi đề nghị ngài chuẩn bị giọng hát để phục vụ công việc vương triều của tôi. - Ai không muốn làm Rizzio của một Mary nghiêng nước nghiêng thành như thế chứ? [51] - Thèm vào cái anh Rizzo !– Cô ta ngúng nguẩy kêu lên và đến bên chiếc dương cầm. – Theo ý tôi thì anh chàng David bịp bợm ấy cũng đúng là [52] một kẻ nhạt nhẽo. Tôi thì tôi lại thấy thích cái ông Bothwell da đen hơn. Tôi nghĩ đã là đàn ông thì phải quái quái một chút, nếu không sẽ chẳng là cái gì cả. Lịch sử có thể nói thế nào về James thì nói, nhưng tôi vẫn luôn nghĩ ông ta là một tay hảo hán yêng hùng và hoang dã. Tôi rất sẵn lòng chìa tay đón nhận một người như ông ta. - Thưa quý vị, quý vị chắc đã nghe thấy chưa! Ai trong số quý vị là người giống Bothwell nhất nào? – Ông Rochester kêu lên. - Tôi có thể nói người đó chính là ông thôi. – Đại tá Dent lên tiếng.


- Chà, thế thì vinh dự qúa. Tôi buộc phải cám ơn ông rồi. Lúc bây giờ cô Ingram mới điệu bộ ngồi vào đàn, váy áo xòe rộng trắng muốt như áo một bà hoàng. Cô ta vừa nói chuyện vừa dạo một khúc nhạc dặt dìu. Tối nay, trông cô ta thật nổi. Dường như lời nói, câu cười lẫn dáng điệu của cô ta đều nhằm khơi dậy sự ngưỡng mộ và cả sự ngạc nhiên của các thính giả. Quả thực là cô ta đang định tỏ ra mình là một cái gì đấy thật mạnh mẽ và táo bạo để tạo ấn tượng với họ. “Vâng, tôi muốn phát ốm khi nhìn thấy đám thanh niên thời nay! – Cô ta giãi bày, tay lướt trên các phím đàn. – Những anh chàng tội nghiệp, yếu đuối ấy thậm chí chẳng đủ can đảm để bước một bước ra khỏi cổng vườn nếu không được mẹ cho phép hoặc có người đi kèm! Chúng còn bận sửa sang gương mặt duyên dáng, đôi bàn tay trắng và đôi bàn chân nhỏ nhắn cơ, cứ như đàn ông chẳng còn việc gì để làm ngoài việc chăm sóc sắc đẹp ấy! Như thể vẻ yêu kiều không còn là một đặc quyền, một cái quyền chính đáng, một cái di sản của riêng phụ nữ nữa! Đành rằng một người đàn bà kém nhan sắc là một tì vết trên gương mặt của tạo hóa, nhưng đã là một quý ông thì phải biết tạo ra sức mạnh và giá trị mới phải chứ. Họ phải biết đi săn, biết bắn súng và chiến đấu, tất cả những gì còn lại đều không đáng kể. Tôi sẽ như vậy nếu tôi là đàn ông.” “Khi nào cưới chồng, – sau một lát im lặng không bị ai ngắt lời, cô ta nói tiếp – nhất định tôi không muốn chồng tôi là đối thủ của tôi, mà phải là một người biết làm thế nào để tôi nổi bật. Tôi sẽ không chịu một sự ganh đua bên ngai vàng, mà tôi muốn chồng tôi phải nhất nhất nghe theo tôi, và lòng trung thành của anh ta không bị chia sẻ giữa tôi và cái bóng mà anh ta nhìn thấy trong gương. Ông Rochester, bây giờ thì ông hát đi, tôi đệm đàn cho.” - Xin vâng. - Đây là một bài hát của bọn cướp biển. Ông biết là tôi rất thích bọn cướp [53] biển mà, vì thế ông hãy hát sao cho có hồn vào đấy. - Mệnh lệnh từ đôi môi cô Ingram khiến ai nghe cũng thấy vui. - Cẩn thận nhé, nếu ông hát không hay, tôi sẽ hát lấy cho ông phát ngượng đấy, có thế ông mới hiểu nên phải hát như thế nào. - Đó là phần thưởng cho sự bất tài. Tôi sẽ cố gắng để được thất bại.


- Coi chừng đấy! Nếu ông cố tình hát sai, tôi sẽ có một hình phạt thích đáng cho coi. - Cô Ingram nên tỏ rõ tấm lòng nhân ái, vì trong cô có một sức mạnh trừng phạt vượt ra sức chịu đừng của người khác. - A! Ông cứ nói rõ ra tôi xem nào! – Quý cô ra lệnh. - Xin lỗi nhé, việc gì phải giải thích kia chứ, cảm nhận tinh tế của cô đủ hẳn sẽ giúp cô biết rằng chỉ một cái cau mày của cô cũng đủ để gọi là một bản án tử hình rồi. - Thôi, hát đi! – Cô gái chốt lại và bắt đầu điệu đà đệm đàn. “Có lẽ phải rút khỏi đây thôi.” – Tôi nghĩ bụng. Nhưng giọng hát ngân lên đã níu tôi lại. Có lần bà Fairfax bảo tôi rằng ông Rochester có một giọng hát thật mượt mà. Bà ấy đã nói đúng, quả thật ông có một chất giọng ngọt ngào, trầm hùng, chứa đựng cả tâm tình và sức mạnh, thẩm thấu vào sâu lắng lòng người, khiến làm người nghe xúc động một cách diệu kỳ. Đợi đến lúc những âm hưởng cuối cùng tắt hẳn, tiếng nói chuyện lao xao trở lại sau một hồi im lặng, tôi mới rời khỏi góc khuất và đi ra theo cửa bên. Cũng may ô cửa nằm ngay gần đấy. Đi qua một dãy hành lang hẹp dẫn tới phòng lớn, tôi nhận ra một chiếc xăngđan bị tuột dây, buộc tôi phải dừng lại ở chân cầu thang để buộc lại. Chợt cánh cửa phòng ăn bật mở, một người đàn ông bước ra. Tôi vội đứng dậy: trước mặt tôi là ông Rochester! - Cô vẫn khỏe đấy chứ? – Ông hỏi. - Vâng, thưa ông. - Tại sao ở trong phòng, cô không đến nói chuyện với tôi? Tôi nghĩ mình phải lấy ngay câu đó để hỏi lại, nhưng rồi lại thôi. Tôi chỉ trả lời: - Tôi không muốn làm phiền ông, vì hình như lúc ấy ông đang bận, thưa ông. - Cô thường làm những gì trong thời gian tôi đi vắng!


- Không có gì đặc biệt, tôi vẫn dạy học Adèle như mọi khi. - Và để cho làn da tái hơn trước chứ gì? Nhác trông thấy cô, tôi đã nhận ra ngay mà. Có chuyện gì vậy? - Không có chuyện gì cả, thưa ông. - Cái đêm làm tôi suýt chết đuối, cô có bị cảm lạnh không? - Không hề sao hết! - Quay vào phòng khách, cô bỏ đi sớm quá. - Tôi thấy mệt, thưa ông. Ông nhìn tôi một phút: - Và có vẻ hơi buồn nữa. Sao vậy, nói cho tôi biết đi nào. - Có gì đâu, thưa ông. Tôi không buồn mà. - Nhưng tôi cam đoan là cô đang buồn, đến nỗi chỉ nói vài câu nữa là cô sẽ khóc òa lên. Đúng là mắt cô đang rưng rưng lệ kia kìa, những giọt nước mắt long lanh đang chuẩn bị trào ra. Mà có một giọt vừa lăn từ hàng mi xuống nền nhà rồi đấy. Nếu có thời giờ, và không ngại lời nói ra nói vào của một tên gia nhân nào đó đi ngang qua đây, thì tôi sẽ tìm cho ra nhẽ. Thôi vậy, tối nay tôi miễn cho cô, nhưng cô cũng nên hiểu rằng chừng nào các vị khách của tôi còn lưu lại đây, tôi còn mong tối nào cô cũng góp mặt ở phòng khách. Đó là mong muốn của tôi, xin cô đừng bỏ qua. Nào, bây giờ thì đi đi, và bảo chị Sophie gọi Adèle về. Chào nhé, cô... của tôi. Ông chợt ngừng lời, cắn môi và đột ngột bỏ đi.



Chương 18 Những ngày vui ở lâu đài Thornfield cũng là những ngày thật bận rộn, khác hẳn với ba tháng đầu lặng lẽ, đơn điệu và cô đơn của tôi trong tòa lâu đài. Mọi cảm xúc u buồn dường như đã lùi xa ngôi nhà, mọi sự liên tưởng tăm tối cũng đi vào quên lãng. Nhịp sống bừng tỉnh nơi nơi như một dòng chảy không ngừng suốt ngày dài. Bạn không thể đi qua dãy hành lang từng có những ngày âm thầm, cũng không thể bước vào các căn phòng mặt trước lâu đài vốn trước đây lúc nào cũng vắng lặng, mà không gặp một chị người hầu trang nhã hay một gia nhân ăn mặc chải chuốt nào. Nhà bếp, phòng quản gia, phòng gia nhân, tiền sảnh lúc nào cũng náo nhiệt, và các phòng khách chỉ vắng lặng vào những buổi bầu trời xanh thẳm và ánh nắng dịu dàng của tiết trời xuân ấm gọi mời các vị khách ra thăm vườn. Ngay cả những khi tiết trời thay đổi, trời mưa không dứt suốt mấy ngày liền dường như cũng không làm mất đi cái không khí vui tươi. Những cuộc vui trong nhà chỉ càng thêm nhộn nhịp và phong phú khi không được hưởng các thú vui ngoài trời. Nghe họ nói đến thay đổi trò tiêu khiển, tôi không hiểu họ sẽ làm gì vào cái buổi tối đầu tiên. Họ bàn chuyện “chơi đố chữ”, nhưng vì không biết nên tôi chẳng hiểu cách chơi thế nào. Đám đầy tớ được gọi vào, bàn ăn được chuyển đi nơi khác, đèn đóm được bài theo một vị trí khác, những chiếc ghế bành cũng được sắp xếp theo hình bán nguyệt trước vòm cửa vòng cung. Trong lúc ông Rochester và các quý ông khác chỉ đạo việc thu xếp đồ đạc thì các quý bà cứ hối hả chạy lên, chạy xuống cầu thang, rung chuông gọi đám người hầu của mình. Bà Fairfax được gọi lên để các bà hỏi chuyện về các loại khăn choàng, quần áo, thổ cẩm trong lâu đài. Các tủ quần áo ở tầng ba bị bới tung cả lên. Thế rồi đám người hầu phòng phải ôm hàng đống nào áo gấm, váy hoa, nào khăn lụa... xuống nhà dưới. Những thứ vừa mắt được đưa vào căn phòng nằm sát phòng khách. Trong lúc ấy, ông Rochester mời các bà lại quanh mình và chọn lấy vài người làm một bè. “Tất nhiên là cô Ingram sẽ cùng bè với tôi.” – Ông nói và gọi thêm hai chị em cô Eshton, rồi bà Dent. Ông quay sang nhìn tôi. Lúc đó tôi tình cờ đứng ngay cạnh ông, vì tôi vừa cài lại cho bà Dent chiếc vòng cườm bị tuột.


- Cô sẽ cùng chơi chứ? – Ông hỏi tôi. Tôi lắc đầu. Không thấy ông gặng mời. Tôi chỉ lo ông nài nỉ, nhưng không, ông cứ để mặc tôi lặng lẽ trở về chỗ ngồi cũ. Ông và bạn cùng bè lui vào sau tấm màn, trong khi bè còn lại, do đại tá Dent cầm đầu, kéo nhau ngồi xuống dãy ghế xếp theo hình bán nguyệt. Có một người trong số các quý ông, ông Eshton, để ý đến tôi và hình như định đề nghị tôi vào bè cùng với họ, nhưng Ingram phu nhân đã gạt phắt đi. - Không, – bà ta bảo – trông cô ta đần thế kia thì chơi thế nào được trò này. Ngay sau đó là một hồi chuông rung ầm ĩ và tấm màn được kéo lên. Dưới vòm cửa, ông George Lynn, một người béo ục ịch được ông Rochester lựa chọn, xuất hiện với một tấm khăn trắng toát trùm kín người. Trước mặt ông ta là một cuốn sách khổ rộng, giở sẵn, đặt trên một cái bàn. Đứng bên cạnh ông là Amy Eshton, khoác cái áo choàng của ông Rochester, tay cầm một cuốn sách. Ngoài ra còn có một người không ai thấy mặt, đứng rung chuông rộn rã. Rồi Adèle (con bé cứ nằng nặc đòi vào cùng bè với người đỡ đầu nó) nhảy cẫng ra trước, tay xách một giỏ hoa và rắc hoa quanh mình nó. Sau đó tiểu thư Ingram xuất hiện lộng lẫy trong bộ đồ trắng, đầu trùm một mảnh vải mạng dài gắn một tràng hoa hồng ôm vòng quanh trán. Ông Rochester đi bên cạnh, hai người sánh vai bước đến gần chiếc bàn. Cả hai cùng quỳ xuống. Bà Dent và Louisa Eshton, cũng mặc toàn đồ trắng, bước lại sau lưng họ. Một nghi lễ bắt đầu y như kiểu kịch câm. Có thể dễ dàng nhận ra đấy là một lễ cưới. Nghi lễ được thực hiện xong, đại tá Dent và bè của ông thì thầm trao đổi chừng hai phút, rồi ông Dent nói to: - Cô dâu! – Ông Rochester cúi chào, và tấm màn được hạ xuống. Phải một lúc sau tấm màn mới lại được kéo lên. Sang màn thứ hai, sân khấu được sửa soạn công phu hơn màn đầu. Phòng khách, như tôi nhận thấy từ trước, cao hơn phòng ăn hai bậc, ở bậc trên, lui vào trong phòng độ một hai thước, đặt một cái bể đá to, tôi nhận ra cái bể vẫn để trưng bày ở nhà ươm cây. Xung quanh cái bể được trồng toàn những loại cây cảnh hiếm có, trong bể thả cá vàng. Hẳn khối người phải mửa mật mới khênh nổi cái bể to và nặng như thế lên tới đó. Ông Rochester ngồi trên mặt thảm, cạnh cái bể đá, khăn choàng trùm


kín người. Đôi mắt đen, nước da ngăm ngăm và vẻ mặt đăm đăm rất thích ứng với bộ quần áo, trông ông chẳng khác nào một ông vua Hồi giáo hoặc một nạn nhân bị kết tội treo cổ ở Thổ Nhĩ Kỳ. Cô Ingram xuất hiện. Cô cũng ăn mặc kiểu Đông phương, một dải khăn đỏ thắm quấn ngang lưng, một chiếc khăn tay thêu buộc nút ở hai bên thái dương. Đôi tay để trần, nõn nà. Một cánh tay giơ lên, như đang đỡ một bình gốm đặt trên đầu, trông thật duyên dáng. Cả hình dáng, nét mặt, nước da, điệu bộ của cô đều gợi nhắc người khác liên tưởng đến một công chúa Do Thái nào đó trong thời kì gia trưởng. Rõ ràng là cô đang định đóng vai ấy. Cô bước lại gần bể đá, cúi xuống như để vục nước đầy bình rồi lại đặt lên đầu. Người ngồi trên miệng bể từ bấy đến giờ bèn đứng dậy tiến lại gần như hỏi cô câu gì đó. Cô vội vàng hạ bình xuống và đưa cho người kia uống. Rồi anh ta lôi trong ngực áo ra một cái hộp và mở nắp, để lộ ra những chiếc vòng cườm và hoa tai lộng lẫy. Cô gái ngây người ngắm nghía, vẻ rất ngạc nhiên. Người con trai quỳ xuống, đặt cái kho báu dưới chân cô. Cử chỉ và ánh mắt của cô gái cho thấy có vẻ thích thú và nghi ngờ. Người lạ mặt đeo chiếc vòng cườm vào hai cổ tay cô gái và đính những chiếc hoa tai vào tai cô. Đó là chàng Eliezer và nàng Rebecca, chỉ có thiếu những con lạc đà mà thôi. Bè đoán chữ lại chụm đầu vào nhau, có vẻ như họ chưa thống nhất chữ hoặc vần điệu được hàm chứa trong màn kịch vừa diễn. Đại tá Dent, người phát ngôn của họ, đề nghị được xem lại hoạt cảnh cuối cùng. Vì vậy tấm màn lại được buông xuống. Màn thứ ba chỉ được diễn ở một phần phòng khách, phần còn lại bị che lấp bởi một tấm bình phong da thú sẫm màu. Bể đá đã được khênh đi chỗ khác, thay vào đó là một cái bàn và một chiếc ghế lấy từ trong bếp. Các đồ vật chỉ được chiếu sáng nhờ ánh đèn lồng, vì tất cả các ngọn nến đều đã bị tắt. Giữa cảnh nhập nhoạng đó là một bóng người ngồi im, hai tay nắm chặt đặt trên đùi, mắt nhìn xuống đất. Tôi nhận ra ông Rochester, cho dù bộ mặt bất đắc dĩ và chán chường nhờ những nếp nhăn hóa trang, đầu tóc bù xù, quần áo xộc xệch (tay áo rách toạc hở cả một bên vai như bị xé sau một cuộc ẩu đả) đã làm ông khác đi nhiều. Tay ông bị trói bằng dây xích. Khi ông cử động, sợi dây xích kêu loảng xoảng, khô khốc. - Bridewell

[54]

chứ gì! – Đại tá Dent reo lên, và trò đố chữ kết thúc.


Sau một quãng thời gian đủ để các vai diễn thay lại thường phục, tất cả lại bước vào phòng ăn. Ông Rochester dẫn cô Ingram vào. Cô ta khen tài diễn kịch của ông. - Ông có biết không, – cô ta nói – trong ba hoạt cảnh, tôi thích vai diễn cuối cùng của ông nhất. Nếu ra đời sớm hơn vài năm thì thế nào ông cũng trở thành một tay cướp đường siêu hạng cho mà xem! - Cô xem mặt tôi đã sạch son phấn chưa? – Rochester quay lại hỏi. - Ôi dào, hết rồi! Thật chẳng có gì hợp với ông hơn là bộ mặt đó của một tên lưu manh. - Cô có vẻ thích những tay cướp đường nhỉ? - Một tên cướp đường người Anh sẽ tiếp bước những tay hảo hán người [55] Ý và chỉ có tướng cướp biển xứ Levantine là qua mặt được thôi. - Thôi được, dù tôi có là cái gì thì xin cô cũng nhớ cho rằng cô là vợ tôi, vì chúng ta vừa làm lễ cách đây một giờ, trước sự chứng kiến của mọi người ở đây. Cô Ingram cười khúc khích, mặt đỏ ửng. Khi bè kia lui vào sau sân khấu, ông Rochester và những người cùng bè với ông bèn ngồi vào các ghế trống. Cô Ingram ngồi bên phải ông, số còn lại ngồi ở những chiếc ghế đặt hai bên họ. Tôi không để ý đến các diễn viên nữa, cũng chẳng đợi tấm màn kéo lên, mà chỉ quan tâm đến các khán giả. Mắt tôi khi nãy chỉ chăm chăm nhìn vào vòm cửa, bây giờ lại như bị hút vào hàng ghế kê theo hình bán nguyệt. Trò đố chữ mà ông Dent đóng với những người cùng bè đều không đọng lại một chút nào trong đầu tôi, nhưng tôi vẫn nhớ như in cảnh thảo luận diễn ra ngay sau mỗi hoạt cảnh. Tôi thấy ông Rochester quay lại phía cô Ingram, và cô Ingram quay lại phía ông Rochester. Tôi trông thấy cô ngả đầu vào gần ông, mặc cho những lọn tóc gần như buông xõa trên vai ông, mơn man má ông. Tôi nghe thấy tiếng hai người thì thầm. Tôi nhớ rõ họ đưa mắt nhìn nhau, và đến tận bây giờ tôi vẫn còn chưa quên cảm xúc rạo rực của mình trước những cảnh đó. Thưa bạn đọc, tôi đã nói với các bạn rằng tôi cảm thấy yêu ông


Rochester. Bây giờ tôi không hteer không yêu ông được, kể cả khi thấy ông không chú ý đến tôi, không một lần đưa mắt nhìn tôi cho dù tôi có đứng trước mặt ông hàn giờ, hoặc khi thấy ông chỉ chú ý đến một phụ nữ quý phái – kẻ đã tỏ vẻ khinh bỉ và sợ chạm vạt áo dài phải người tôi khi đi ngang qua chỗ tôi, kẻ có đôi mắt đen láy và kiêu kỳ, nếu có tình cờ nhìn thấy tôi thì cũng vội quay ngoắt đi, cứ như tôi là một đồ vật mạt hạng không đáng để mắt tới. Tôi không thể không yêu ông, bởi tôi cảm thấy rằng chắc chắn ông sẽ sớm kết hôn với chính người đàn bà ấy, bởi ngày ngày tôi vẫn đọc được trong con người cô ta một sự kiêu ngạo bất biến về sự quan tâm của ông đối với cô ta, bởi hàng giờ tôi vẫn được chứng kiến cách tán tỉnh của ông – nó giống như mọt sự vô tư khiến người khác phải tìm đến mình chứ không phải là mình đi tìm người khác, và phong thái ấy luôn có một cái gì đó thật khó cưỡng lại. Chẳng có gì làm nguội lạnh hoặc tan biến được tình yêu trong những tình cảnh như vậy, cho dù tất cả đều gây cho tôi sự tuyệt vọng. Thưa bạn đọc, hẳn bạn đọc sẽ nghĩ rằng có quá nhiều điều dẫn đến ghen tuông, nếu một người đàn bà ở vào địa vị của tôi có quyền ghen với một phụ nữa ở địa vị cô Ingram. Nhưng tôi không ghen, hoặc rất ít ghen. Bản chất nỗi đâu mà tôi đang chịu đựng trong lòng không thể lý giải bằng cái chữ ấy. Ingram không đáng để tôi ghen, vì cô ta quá tầm thường để có thể gợi nên cảm xúc ấy của tôi. Xin lỗi vì cái điều có vẻ nghịch lý ấy, nhưng tôi hiểu lời tôi nói. Trông cô ta quả là rất lộng lẫy, nhưng lại không chân thực. Cứ cho là cô ta xinh đẹp, có năng khiếu đi, nhưng tâm hồn thì thật nghèo nàn, trái tim cằn cỗi từ nhỏ. Làm sao có gì có thể nảy chồi xanh, rồi đâm hoa, kết trái một cách tự nhiên từ cái nơi khô cằn ấy chứ. Cô ta không tốt, cũng chẳng có gì là thông minh cả, chẳng qua chỉ biết nhắc lại những lời lẽ thật khéo trong sách, chứ có bao giờ đưa ra được ý kiến nào của riêng mình đâu. Cô ta cố uốn giọng để thể hiện tình cảm,nhưng với cô ta thì sự cảm thông và tình thương là gì chứ? Hẳn là lòng nhân hậu và sự chân thành cũng chẳng có ở con người cô ta. Khiếm khuyết ấy thường bị bộc lộ khi cô tỏ ra khinh miệt con bé Adèle. Cô ta xua đuổi con bé bằng những lời thóa mạ nếu nó vô tình đến gần. Lúc nào cô ta cũng lạnh lùng và cay nghiệt với nó, thậm chí còn đuổi thẳng cổ nó ra khỏi phòng. Không chỉ mình tôi, mà cả những ánh mắt khác cũng để ý đến cách xử sự của cô ta – thậm chí còn để ý một cách kỹ càng và có soi xét nữa. Vâng, người chồng tương lại của cô ta, tức là ông Rochester, luôn có ý định theo dõi cô ta. Và chính vì ông tỏ ra khôn ngoan, thận trong, sáng suốt nhìn nhận các khiếm khuyết của người bạn đời tương lai, và chính vì ông không có sự say đắm trong cái tình cảm dành cho cô ta mà nỗi đau trong tôi lại càng dội lên.


Tôi thấy ông Rochester định cưới Ingram là vì gia đình, hoặc giả là những lý do chính trị nữa, vì đẳng cấp và họ hàng nhà cô ta đều hợp với ông. Tôi có cảm giác ông không yêu cô ta, và mọi phẩm chất của cô ta cũng chẳng đáng được hưởng cái kho báu đó. Đó chính là điểm khiến tôi phải nghĩ, là nguồn cội khiến tôi phải bồn chồn không yên: cô ta không thể quyến rũ được ông. Nếu cô ta giành được tình yêu của ông và nếu ông chân thành dâng trọn trái tim cho cô ta, thì tôi hẳn sẽ phải che mặt, quay vào tường và (nói một cách bóng bẩy) đành biến mình thành kẻ chết rồi đối với họ. Nếu Ingram là một người phụ nữ tốt bụng, cao quý, nhiệt thành và thùy mị, có thể tôi đã phải lao vào một cuộc chiến sống mái với hai con cọp – ghen tuông và tuyệt vọng, để rồi khi con tim héo hon, tan nát, tôi sẽ thán phục cô ta, thừa nhận sự hoàn mỹ của cô ta và có thể sống thực sự thanh thản hơn trong chuỗi ngày còn lại. Cô ta càng là người có phẩm hạnh bao nhiêu thì tôi càng khâm phục cô ta và càng sống thanh thản bấy nhiêu. Nhưng sự thực là tôi đã theo dõi những cố gắng quyến rũ ông Rochester của cô Ingram và chứng kiến hết thất bại này đến thất bại khác của cô ta. Chính cô ta cũng không nhận ra là mình thất bại, nên cứ tưởng mũi tên nào mình bắn ra cũng đều trúng đích và tiếp tục mải mê chìm đắm với những thành công của mình, trong khi hoàn toàn không biết cái tính kênh kiệu đã làm cho con người mà cô đang muốn chinh phục tách xa mãi, xa mãi. Chứng kiến cảnh đó quả là phải chịnh đựng một sự kích động không ngừng, một sự kìm nén ghê gớm nỗi lòng. Bởi vì khi cô ta thật bại, tôi lại thấy có cách để cô ta có thể thành công. Những mũi tên bay như mưa vào ngực ông Rochester đều vô dụng và rơi lả tả dưới chân ông. Tôi biết nếu vào một cánh tay cứng cáp hơn, những mũi tên ấy có thể cắm sâu vào trái tim kiêu ngạo của ông, gợi dậy tình yêu trong ánh mắt nghiêm nghị đến vô cảm và sự dịu dàng trên gương mặt mỉa mai của ông. Hoặc tốt hơn là đừng dùng vũ khí gì cả, mà chỉ cần thầm lặng thôi cũng có thể chinh phục được ông. “Tại sao cô ta không thể gây nhiều ảnh hưởng hơn đối với ông, trong khi cô ta có ưu thế được gần gũi như vậy? – Tôi tự hỏi. – Chắc chắn là cô ta không yêu mến ông, hoặc không yêu mến ông với một tấm lòng chân thành! Bởi nếu chân thành thì việc gì cứ phải phung phí những nụ cười, liếc mắt đưa tình, làm bộ duyên dáng một cách lộ liễu và thái quá như thế. Mình nghĩ giá như cô ta cứ lặng lẽ ngồi cạnh ông, ít nói, bớt đánh mắt đi, thì có khi lại dễ đến gần trái tim ông hơn. Có lúc mình vẫn thấy nét mặt ông bộc lộ cảm


xúc khác hẳn cái vẻ cứng nhắc những lúc bị cô ta tích cực sán lại gần tán chuyện, ấy là một vẻ mặt tự nhiên chứ không phải do những mánh khóe điệu nghệ hoặc những cử chỉ tính toán gợi nên. Cô ta chỉ khiêm tốn trả lời các câu hỏi và khi nào thật cần mới nên vui vẻ hỏi lại ông, đừng cau mày nhăn nhó, thì thế nào nét mặt ông cũng sẽ hiền dịu, rạng rỡ hơn, và sẽ ấm áp như ánh mặt trời vậy. Không hiểu cô ta sẽ làm gì để chồng vui khi hai người đã cưới nhau rồi chứ? Mình không nghĩ là cô ta có thể làm được điều đó. Nhưng nếu điều đó trở thành hiện thực, nếu vợ ông làm được, mình tin chắc rằng cô ta sẽ là người đàn bà hạnh phúc nhất trên đời.” Tôi chưa hề nói gì kết tội ông Rochester dự định lấy vợ vì vụ lợi và quan hệ. Tôi đã rất ngạc nhiên khi lần đầu tiên khám phá ra đó chính là ý định của ông. Vậy mà tôi cứ tưởng ông không phải là người chọn vợ vì những động cơ tầm thường đó. Nhưng về sau, càng ngẫm về địa vị, giáo dục của hai bên, tôi càng thấy không nên phán xét và kết tội cả ông lẫn cô Ingram, vì dẫu sao họ cũng xử sự theo nếp nghĩ và những nguyên tắc đã ngấm sau vào máu thịt họ ngay từ thủa ấu thơ. Ai là người trong giai cấp họ không giữ gìn những nguyên tắc ấy? Tôi nghĩ họ có lý riêng để mà duy trì nguyên tắc mà tôi không thể hiểu được. Giả sử tôi là một người cũng thuộc giai tầng như ông Rochester, có vẻ như tôi sẽ chỉ chọn một người mà tôi có thể yêu được làm vợ. Nhưng đứng trước những lợi ích phơi bày trước mặt, rất có thể lại xui khiến nhiều người nghĩ khác và làm khác hẳn. Chắc gì người ta đã xử sự như tôi. Nhưng ở những điểm khác, tôi cũng rất khoan dung với ông chủ của mình. Tôi đã bỏ qua tất cả những nhược điểm mà trước đây tôi rất chú ý ở ông. Tôi đã từng ra sức tìm hiểu tính cách con người ông, cả cái hay, cái đẹp lẫn tật xấu, để sau đó đưa ra một đánh giá thật công bằng. Lúc này tôi không thấy tật xấu nào trong con người ông. Cái mỉa mai từng làm tôi khó chịu, cái thô kệch từng khiến tôi tấm tức, lúc này lại chẳng khác nào những đồ gia vị làm món ăn thêm đậm đà. Có chúng thì cay nồng, nhưng nếu thiếu thì lại thật nhạt nhẽo. Còn cái điều mơ hồ khó xác định – phải chăng là sự ác nghiệt hay phiền muộn, một biểu hiện của sự toan tính hay thất vọng? – đôi khi cũng hiện lên trước mắt một người quan sát thận trọng, nhưng rồi lại lập tức biến mất trước khi anh ta có thể nắm bắt được cái sâu thẳm kỳ lạ mới hé lộ một phần nào. Cái điều mơ hồ ấy thường làm tôi sợ hãi rúm ró, như thể tôi đang đi lang thang trên những ngọn núi lửa và bất chợt nhận thấy mặt đất rung chuyển, nứt toác ra. Thỉnh thoảng tôi lại nhận ra cái điều mơ hồ ấy, để rồi tim lại đập rộn lên, nhưng may mà thần kinh không bị tê liệt. Thay vì phải


bỏ chạy, tôi lại muốn liều lĩnh đối mặt ước đoán. Tôi nghĩ Ingram là người hạnh phúc, vì sẽ có ngày cô ta sẽ tha hồ được nhìn vào cái vực thẳm không đáy, được khám phá những bí ẩn trong đó và phân tích bản chất của chúng. Trong khi tôi chỉ nghĩ miên man đến ông chủ và cô dâu tương lai của ông, chỉ mải nghe họ diễn thuyết và nhìn họ, quan sát các cử chỉ của họ, thì các vị còn lại vẫn cứ bận chia sẻ những nỗi nhiềm và vui thú riêng. Hai vị phu nhân Lynn và Ingram vẫn trịnh trọng tiếp tục các cuộc bàn luận của họ. Thỉnh thoảng họ lại gật gù, khoa chân, múa tay, tỏ thái độ kinh ngạc, bí hiểm hay hãi hùng, giống như hai con rối lượn theo nội dung câu chuyện. Bà Dent dịu dàng nói chuyện với bà Eshton hiền hậu, thỉnh thoảng hai người lại cười hoặc lịch sự nói với tôi một câu. Ngài George Lynn, đại tá Dent và ông Eshton bàn luận về chính trị, những việc thường ngày ở quận, hoặc chuyện luật pháp. Anh chàng Ingram thì mải tán tỉnh tiểu thư Amy Eshton. Louisa vừa đàn vừa hát với một người nhà bà Lynn, còn Mary Ingram thì uể oải ngồi nghe những câu diễn thuyết tình ái của cậu con trai kia. Thỉnh thảng, như cùng bảo nhau, mọi người lại im bặt để quan sát và lắng nghe các nhân vật chính, vì nói cho cùng, ông Rochester và cô Ingram – bởi cô có quan hệ mật thiết với ông – vẫn là linh hồn của cuộc vui. Chỉ cần ông rời khỏi phòng một tiếng đồng hồ thôi, thì các vị khách sẽ thấy mất hứng thú ngay lập tức. Chỉ đến khi ông quay về, câu chuyện mới lại rộn ràng lên được. Sự thiếu vắng ông làm cho các cuộc vui chùng xuống được thể hiện rất rõ vào cái hôm ông có việc phải đi Millcote và phải về muộn. Chiều hôm ấy, [56] trời ẩm ướt, nên cuộc dạo bộ đến thăm một khu trại gipxy vừa được dựng lên ở ngoài xóm Hay mà đám khách định tổ chức đã phải hoãn lại. Một vài ông đang phải vào xem các chuồng ngựa, đám thanh niên chơi bi-a trong phòng với các tiểu thư. Hai bà quả phụ Ingram và Lynn lặng lẽ ngồi chơi bài. Cô Blanche Ingram tỏ thái độ khinh khỉnh khi các bà Dent và Eshton ra sức kéo cô ta vào câu chuyện của họ. Lúc đầu, cô ta ngồi vào dương cầm, vừa bấm phím đàn vừa lẩm bẩm mấy khúc tình ca. Sau đó, cô ta vớ một cuốn truyện trên tủ, rồi ngả mình trên tràng kỷ, vẻ rất kênh kiệu. Cô ta muốn làm vậy để đánh lừa những giờ phút trống vắng tẻ nhạt. Căn phòng và cả tòa nhà im lặng, thỉnh thoảng mới có tiếng cười của những người đang chơi bi-a từ trên gác vọng xuống. Trời tối nhá nhem, chuông báo giờ chuẩn bị bữa chiều đã điểm. Vừa lúc đó, Adèle reo lên, nó đang quỳ cạnh tôi ở chỗ khung cửa sổ.


- Voilà Monsieur Rochester qui revient!

[57]

Tôi quay ngoảnh mặt nhìn ra ngoài, cô Ingram cũng bật dậy khỏi trường kỷ, và rồi tất cả người còn lại cũng ngẩng đầu lên nhìn. Quả thực là có tiếng bánh xe lạo xạo và tiếng vó ngựa gõ mạnh trên con đường rải sỏi ướt sũng, làm nước bắn lên tung tóe. Một cỗ xe trạm đang tiến lại gần. “Không hiểu sao ông Rochester lại về với bộ dạng thế kia nhỉ? – Ingram lẩm bẩm. – Chẳng phải là lúc đi, ông ấy đã cưỡi con ngựa ô đó là gì? Và dắt theo cả con Pilot nữa chứ. Không hiểu mấy con vật ấy đâu rồi? Vừa nói, cô ta vừa dịch cái thân hfinh cao lớn với bộ đồ lòa xòa lại gần cửa sổ, khiến tôi phải ngả người ra sau, tưởng gãy xương sống đến nơi. Lúc đầu, vì vội nên cô ta không để ý đến tôi, nhưng khi nhận ra tôi, cô ta bèn bĩu mội, nguýt dài một cái và bỏ sang cửa sổ khác. Cỗ xe ngựa đỗ lại, tay xà ích rung chuông cửa, rồi một quý ông mặc bộ đồ du lịch bước xuống. Nhưng đó không phải là ông Rochester, mà là một người xa lạ, cao lớn, trông có vẻ sành điệu lắm. - Rõ là lộn ruột. – Ingram quay sang nhìn Adèle, tru tréo. – Đồ con khỉ rách việc! Ai bế mày lên cửa sổ để báo tin láo lếu như vậy, hả? – Rồi cô ta bực tức lườm tôi, cứ như tôi là người có tội. Có tiếng nói trong đại sảnh, liền đó vị khách lạ bước vào. Ông ta cúi chào Ingram phu nhân, coi bà như người cao tuổi nhất trong đám. - Thưa bà, hình như tôi đến thật không đúng lúc, khi ông bạn Rochester của tôi vắng nhà. Nhưng tôi đến đây sau một cuộc hành trình khá dài, và tôi nghĩ vì tôi và ông ấy là chỗ thân tình, nên tôi có thể ở lại đây đợi cho đến khi ông ấy về. Tôi thấy lạ, vì cử chỉ lịch thiệp và cách phát âm của vị khách có một cái gì đó không bình thường, không phải giọng ngoại quốc, nhưng cũng không hẳn là giọng của người Anh. Trông ông ta cũng chạc tuổi ông Rochester, khoảng ba, bốn chục gì đó. Nếu không phải vì cái nước da vàng ệch, ông ta sẽ là một người đẹp mã ra phết, nhất là lúc mới trông. Nhưng nếu nhìn kỹ hơn, người ta sẽ nhận ra một cái gì đó thật khó chịu trên khuôn mặt ông ta, hoặc đúng hơn là không làm cho người ta thích được. Ông ta có nét mặt đều đặn, nhưng lại có vẻ nhũng nhẽo. Còn đôi mắt thì to, sắc nét, nhưng lại đờ


đẫn, vẻ thiếu sức sống – ít nhất là theo cảm nhận của tôi. Tiếng chuông báo giờ thay đồ làm cho mọi người tản cả đi. Mãi đến sau bữa chiều tôi mới gặp lại ông ta, trông ông ta có vẻ thoải mái lắm. Nhưng tôi lại cảm thấy ghét bộ mặt ông ta hơn lúc đầu, vì nó vừa đờ đẫn vừa ù lì. Ông ta cứ ngơ ngơ, ngác ngác như một kẻ vô hồn, nom đến kỳ cục. Quả là một bộ mặt tôi chưa từng thấy bao giờ. Kể ra ông ta cũng thật đẹp trai và không phải là không dễ thương, nhưng không hiểu sao tôi cứ thấy ghê ghê. Chẳng có gì là nghị lực trên cái khuôn mặt bầu bầu hình trứng và nhẵn thín, là cương nghị trên cái mũi diều hâu và cái miệng nhỏ hẹp, là tư duy trên cái vầng trán phẳng và thấp tịt, là uy nghiêm trong cái cặp mắt nâu trống rỗng của ông ta. Vẫn ngồi ở chỗ mọi khi, tôi lặng lẽ ngắm ông ta dưới ánh đèn chùm đặt trên lò sưởi và so sánh ông với ông Rochester. Thú thực, tôi nghĩ sự tương phản giữa một con ngỗng đực lông bóng mượt và một con diều hâu hung tợn, hoặc giữa một con cừu non hiền lành và con chó lông xù cũng chỉ đến thế mà thôi. Ông ta nhắc đến ông Rochester như một người bạn cũ. Nhưng tình bạn của họ mới kỳ lạ làm sao! Quả thực, có chẳng khác nào một sự minh họa đích thực của một câu ngạn ngữ cổ: “Nơi hội tụ của những thái cực”. Có hai ba quý ông ngồi gần ông ta. Qua căn phòng, thỉnh thoảng tôi lại nghe được vài đoạn trong câu chuyện của họ. Lúc đầu tôi cũng chẳng hiểu họ nói gì, vì Louisa Eshton và Mary Ingram – hai người ngồi gần tôi hơn – làm tôi không nghe rõ những mẩu chuyện thỉnh thoảng lọt đến tai. Họ xì xào bàn tán về ông khách là và đều bảo ông ta “đẹp giai”. Louisa nói ông ta là “một mối tình của tạo hóa” và rất “rất mê ông ta”, còn Mary thì coi “cái miệng nhỏ nhắn, xinh xắn và cái mũi duyên dáng” là thần tượng của sự quyến rũ. - Mà vầng trán ông ta trông mới êm ái làm sao! – Louisa thốt lên. – Thật là mịn màng, không có những nếp nhăn cau có mà tôi ghét cay ghét đắng. Cả đôi mắt và nụ cười an lành nữa chứ! Nhưng rồi tôi cũng thấy nhẹ cả người khi ông Henry Lynn gọi hai người sang bên kia phòng để bàn chuyện đi thăm làng Hay. Bây giờ thì tôi đã có thể tập trung chú ý vào nhóm người đang ngồi bên lò sưởi kia được rồi. Tôi được biết vị tân khách là Mason, vừa mới từ một xứ


nhiệt đới nào đó tới nước Anh. Đó hẳn phải là lý do giải thích tại sao nước da ông ta lại vàng ệch như vậy. Ông ta ngồi sát lò sưởi, và dù đang ở trong nhà, ông ta vẫn cứ khoác lên mình tấm áo choàng. Rồi những cái tên Jamaica, [58] Kingston... cho thấy ông ta đã từng đến miền Tây Indies . Tôi không hề lấy làm ngạc nhiên khi nghê ông ta bảo trước đây đã từng gặp gỡ và quen biết ông Rochester ở đó. Ông ta kể bạn ông ta không thích cái nóng thiêu đốt, những trận bão tố và mùa mưa trong vùng. Tôi biết ông Rochester là một người thích phiêu lãng như bà Fairfax đã từng bảo, nhưng quả thực tôi cứ tưởng ông chỉ loanh quanh lục địa châu Âu. Chưa lần nào tôi nghe ai nói ông Rochester đi đến tận những bến bờ xa xôi hơn. Tôi đang mải nghĩ thì một việc bất ngờ xảy ra, cắt đứt dòng miên man trong đầu tôi. Ông Mason, cứ mỗi lần cửa mở lại run lên cầm cập, phải gọi người bỏ thêm than vào lò. Lúc ấy, lửa không còn bốc thành ngọn, mặc dù than vẫn hồng rực. Tên người hầu đem than vào, khi trở ra đã dừng lại gần ghế ông Eshton và nói nhỏ với ông ta điều gì, tôi chỉ nghe được mấy từ: “mụ già”, “phiền toái lắm”. - Hãy bảo cho mụ ấy biết, nếu không cút đi thì mụ sẽ bị tống vào ngục tù đấy. – Viên quan hành chính địa phương nói. - Không, khoan đã nào! – Đại tá Dent ngắt lời. – Đừng đuổi mụ ta đi như vậy, ông Eshton ạ. Chúng ta có thể tính lại được mà, tốt hơn hết là cứ để tôi hỏi ý kiến các quý bà xem sao đã. – Rồi ông lên giọng nói tiếp. – Thưa các bà, các bà đã bàn chuyện đến thăm trang trại người lang thang ở Hay. Anh Sam đây vừa nói có một mụ xem bói hiện đang ở trong phòng gia nhân và muốn được xem số cho mọi người. Các bà có muốn gặp mụ ta không nhỉ? - Thưa ngài đại tá, – Ingram phu nhân đáp lại – ngài đừng nên khuyến khích một con mụ lừa bịp mạt hạng như vậy có được không? Thôi, khỏi cần, tống cổ mụ đi ngay cho rảnh! - Nhưng, thưa phu nhân, – tay người hầu nói – tôi không sao bảo mụ già ấy đi được, các gia nhân khác cũng chịu. Bà Fairfax đang đuổi khéo mụ đi, nhưng mụ cứ ngồi ì trên một chiếc ghế ở góc lò sưởi và bảo chẳng có lý do gì khiến mụ phải rời khỏi lâu đài nếu mụ chưa được ló mặt vào đây. - Thế mụ ta muốn gì? – Bà Eshton hỏi.


- Thưa bà, mụ ta bảo muốn “xem bói cho họ”, và mụ thề rằng nhất định phải bói và bói bằng được mới thôi. - Trông mụ ta như thế nào? – Mấy chị em cô Eshton hồi hộp hỏi. - Thưa cô, một mụ già xấu kinh khủng, đen xì như than. - Hay đấy, đúng là một mụ phù thủy rồi! – Frederick Lynn reo ầm lên. – Cứ để cho mụ ấy vào đi! - Làm sao có thể bỏ lỡ dịp vui này kia chứ, lãng phí lắm! – Frederick em hùa theo. - Các con yêu của mẹ, các con nghĩ thế nào thế? – Bà Lynn kêu lên. - Tôi không thể đồng tình với chuyện vớ vẩn ấy. – Bà quả phụ Ingram lanh lảnh phụ họa. - Mẹ à, con biết thế nào mẹ cũng đồng ý mà. – Blanche ngoảnh mặt lại và cao giọng nói. Từ nãy đến giờ cô ta vẫn im lặng chơi đàn, vẻ như rất chú ý đến các bản nhạc. – Con tò mò muốn biết số mình rồi sẽ thế nào. Anh Sam, cứ dẫn mụ già ấy vào đây xem sao. - Blanche thân yêu của mẹ, con nên nhớ rằng... - Con nhớ rồi, nhớ tất cả những gì mẹ định nói rồi, nhưng con muốn biết... Mau lên, anh Sam! - Đúng đấy... đúng đấy... đúng đấy! – Cả bọn nam thanh nữ tú và các quý ông, quý bà đồng thanh hùa theo. – Cho mụ ta vào, kể cũng hay đấy chứ! Tay người hầu vẫn có vẻ chần chừ. “Mụ già trông ghê lắm.” – Anh ta nói. - Đi ngay! – Cô Ingram gắt lên, khiến tay người hầu phải quay đi ngay sau đó. Đám khách bỗng nhộn nhạo hẳn lên. Lúc Sam quay vào, những lời bỡn cợt và chế nhạo vẫn đang rất sôi nổi. - Mụ già ấy không muốn vào bây giờ. – Sam nói. – Mụ bảo sứ mệnh của


mụ không phải là xuất hiện giữa “bọn người thô tục” (đó là lời mụ). Tôi phải đưa mụ vào một phòng riêng, và ai muốn xem bói thì phải gặp mụ, nhưng từng người một thôi. - Con thấy chưa, nữ hoàng Blanche của mẹ, – Ingram phu nhân nhắc – mụ bắt đầu quá đáng rồi đấy. Con nên cân nhắc, nàng tiên của mẹ... - Thì cứ đưa mụ ta vào phòng thư viện đi. – “Nàng tiên” ngắt lời bà mẹ. – Sứ mệnh của tôi cũng chẳng phải là ngồi nghe mụ nói trước bọn người thô tục. Tôi muốn chỉ có tôi và mụ thôi. Mà trong thư viện có củi lửa gì không đấy? - Thưa cô, có, nhưng mụ già trông cứ như kẻ ăn mày ấy. - Thôi đi, đồ ngốc, cứ huyên thuyên mãi! Cứ làm như tôi nói đi. Sam lại biến mất. Một lần nữa, đám người trong phòng lại được dịp hồi hộp, bàn tán, đợi chờ. - Mụ đã sẵn sàng rồi. – Tay người hầu quay trở lại thông báo. – Mụ muốn biết ai là người vào đầu tiên. - Tôi nghĩ tốt nhất cứ để tôi vào trước xem mụ thế nào đã, các bà chịu khó vào sau vậy. – Đại tá Dent lên tiếng. – Sam này, anh hãy vào bảo mụ rằng có một ông sắp sửa vào đấy. Sam quay ra rồi trở lại ngay. - Thưa ngài, mụ bảo là không muốn tiếp các quý ông, các ngài đừng vào cho mất công. – Sam nói và cố giữ cho mình khỏi bật cười. Mụ cũng không muốn tiếp cả các quý bà nữa, chỉ trừ cô còn trẻ và chưa chồng thôi. - Chúa ơi, mụ già mà cũng đòi làm mình, làm mẩy kia đấy! – Henry Lynn kêu lên. Cô Ingram đứng dậy, vẻ trịnh trọng: “Tôi vào đầu tiên”. – Cô ta nói, giọng lạnh tanh. - Ơ kìa, con yêu nhất của mẹ! Gượm đã nào... Cứ nghĩ cho kỹ đi! – Bà mẹ kêu lên. Nhưng cô ta cứ thản nhiên qua mặt bà và bước qua ô cửa đại tá Dent mở sẵn. Chúng tôi chỉ nghe thấy tiếng chân cô ta bước vào phòng sách.


Bầu không khí bỗng tương đối im lặng. Ingram phu nhân thấy đã đến lúc bẻ khục các ngón tay, và bà làm như vậy. Cô Mary tuyên bố rằng cô chẳng bao giờ dám mạo hiểm thế. Còn Amy và Louisa Eshton chỉ dám cười khe khẽ, vẻ sợ sệt. Từng phút trôi qua thật chậm chạp, mười lăm phút sau mới thấy cửa phòng thư viện mở. Cô Ingram quay lại với chúng tôi qua ô cửa vòm. Cô ta cười? Và cho đó là một trò mua vui? Mọi ánh mắt giờ đều đổ dồn về phía cô ta với một vẻ tò mò hăm hở. Và cô ta đã đáp lại những ánh mắt ấy bằng một ánh mắt cự nự và lạnh lung. Trông cô ta chẳng có vẻ gì là xúc cảm, cũng chẳng có vẻ gì là vui vẻ cả. Cô ta bước thẳng về chỗ của mình và lẳng lặng ngồi xuống. - Thế nào, chị Blanche? – Công tử Ingram hỏi. - Mụ ấy bảo sao, chị? – Mary cũng hỏi. - Chị nghĩ sao? Chị cảm thấy thế nào? Mụ có đúng là thầy xem tướng không? – Đến lượt hai chị em Eshton hỏi. - Thôi nào, thôi nào, những con người tốt bụng, – cô Ingram đáp lại – đừng hỏi dồn tôi như thế. Mà sao mọi người dễ bị kích động thế không biết. Có vẻ như mọi người – và cả người mẹ hiền dịu của tôi nữa – đều trông mong vào chuyện này thì phải. Đừng tưởng chúng ta có ở trong nhà một mụ phù thủy chính cống, siêu phàm gì cả. Tôi đã gặp phải một mụ già du thủ du thực. Mụ xem ngó nghiêng lòng bàn tay tôi và phun ra toàn những lời nghe mòn lỗ tai mà loại người như mụ thường nói. Dẫu sao thì đòi hỏi của tôi cũng đã được đáp ứng. Tôi nghĩ sáng mai, ngài Eshton có thể tống cổ mụ vào nhà giam như ông đã dọa được rồi đấy. Cô Ingram vớ một cuốn sách, ngả người trên ghế và không thấy nói thêm câu nào nữa. Tôi ngắm cô ta gần nửa tiếng đồng hồ. Trong suốt quãng thời gian ấy, cô ta không hề giở một trang sách, còn mặt mày thì mỗi lúc một tối sầm, lộ rõ vẻ bất mãn và thất vọng. Bộ dạng chán đời ấy cho thấy rõ ràng là cô ta chẳng nghe được một điều gì hay ho cả. Tôi có cảm giác mặc dù cố ra vẻ điềm nhiên, nhưng cô ta đang quá nặng đầu vì những gì mụ thầy bói đã tiết lộ hồi nãy.


Trong khi đó, Mary Ingram, Amy và Louisa Eshton đều thú nhận không dám vào một mình, mà muốn gặp mụ thầy bói luôn thể. Thế là diễn ra một cuộc mặc cả mà Sam là người làm trung gian. Sau những lần chạy ra chạy vào như con thoi, anh chàng Sam hẳn đã mỏi rời cả chân. Và sau bao nhiêu khó khăn, cuối cùng mụ già oái oăm mới chịu để cả ba người vào gặp mụ cùng một lúc. Lần này, mụ già xem bói cho ba người không lặng lẽ như lần mụ tiếp cô Ingram. Chúng tôi không ngớt nghe thấy những tiếng cười khúc khích và những tiếng thốt lên khe khẽ từ phòng thư viện. Khoảng hai mươi phút sau, ba người bỗng mở toang cánh cửa chạy nháo nhào ra ngoài như kẻ mất hồn. - Chắc hẳn mụ không phải là người bình thường rồi! – Một người, rồi cả ba cùng kêu lên. – Mụ chỉ phán toàn những điều kinh khủng thôi! Mụ biết rõ mọi chuyện về chúng tôi! Nói đến đây, thở không ra hơi, cả ba ngồi phịch xuống những chiếc ghế do các quay ông vội mang tới. Bị thúc phải nói thêm, ba cô kể rằng mụ đã moi đủ mọi điều các cô từng nói và làm từ thời còn bé, gọi đủ tên những cuốn sách và những đồ trang trí trong phòng riêng của các cô ở nhà, rồi nêu từng kỷ vật mà người thân đã tặng các cô. Các cô quả quyết mụ già đã đọc được cả ý nghĩ trong đầu các cô, và mụ rỉ tai từng cô một, nói tên người được các cô yêu quý nhất trên đời. Mụ còn cho biết cả những điều mà các cô đang ước mơ nhất. Nghe như vậy, đám đàn ông cứ nài nỉ các cô nói cụ thể hơn về hai điểm sau cùng. Nhưng các cô chỉ đỏ mặt, bẽn lẽn cười và ấp a ấp úng đáp lại cái đề nghị thiếu tế nhị ấy. Trong khi đó, các bà mẹ chỉ còn biết đưa giấm xông và quạt cho các cô rồi lải nhải, càu nhàu rằng các cô không chịu nghe lời các bà khuyên. Các quý ông có tuổi thì cười ha hả, còn mấy chàng thanh niên thì xun xoe chăm sóc các cô gái đang rất căng thẳng. Trong lúc đang mải để ý quan sát cảnh ồn ào trước mặt, tôi chợt nghe có tiếng đằng hắng khe khẽ ngay bên cạnh mình. Ngoảnh lại, tôi nhận ra anh Sam. - Mụ thầy bói bảo còn một cô chưa chồng ở đây chưa vào gặp mụ và mụ thề rằng chỉ khi nào xem hết lượt thì mụ mới chịu đi. Tôi đoán người mụ nhắc chính là cô, vì làm gì còn ai nữa. Tôi phải bảo mụ thế nào bây giờ?


- Thế à, tôi sẽ vào gặp mụ vậy. – Tôi trả lời, trong lòng thấy vui vui vì bất ngờ có dịp thỏa trí tò mò đang bị kích động mạnh của mình. Tôi rón rén lẻn ra khỏi phòng, trong khi mọi người còn đang xúm quanh ba cô gái chưa hết run, rồi khẽ khép cửa lại. - Nếu cô muốn, Sam bảo – tôi sẽ đợi cô ở ngoài đại sảnh. Và nếu thấy sợ, cô cứ gọi tôi một tiếng, tôi sẽ vào ngay. - Không cần đâu, Sam ạ, anh cứ quay xuống bếp đi, tôi không sợ đâu. Quả thực là tôi không hề sợ, mà chỉ thấy thích thú và tò mò thôi.



Chương 19 Lúc tôi bước vào, thư phòng có vẻ khá yên tĩnh, và mụ Sybil – nếu mụ đúng là Sybil – ngồi bảnh chọe trên một chiếc ghế bành ở góc lò sưởi. Mụ khoác áo choàng đỏ, đội mũ đen, hoặc nói đúng hơn là một chiếc mũ rộng vành quen thuộc của kẻ sống lang thang, buộc dưới cằm bằng một chiếc khăn tay kẻ sọc. Trên bàn có một cây nến đã tắt. Mụ cúi sát mặt xuống lò sưởi, mồm lẩm nhẩm đọc một cuốn sách nhỏ bìa đen. Thấy tôi vào, mụ cũng chẳng buồn ngẩng lên, hình như mụ muốn đọc cho hết một đoạn. Tôi đứng trên thảm, giơ hai bàn tay trên ánh lửa hồng cho đỡ lạnh, vì hồi nãy ngồi xa lò sưởi quá. Quả thực là trong đời, chưa bao giờ tôi thấy mình bình tĩnh như lúc này. Mã ngoài của mụ thầy bói chẳng hề làm tôi bối rối. Mụ gấp sách lại, rồi từ từ ngẩng đầu lên, khuôn mặt mụ bị sấp bóng một phần bởi cái vành mũ. Song không vì thế mà tôi không nhận ra đó là một bộ mặt kỳ lạ. Trông nó nâu chẳng ra nâu, đen chẳng ra đen. Những mớ tóc bù xù thò cả ra ngoài dải khăn trắng quấn quanh cằm, che kín đến nửa bên má, nói đúng hơn là che kín cả quai hàm của mụ. Mụ lập tức nhìn thẳng vào tôi, ánh mắt không có vẻ gì là ngại ngần. - Tốt, cô có muốn tôi xem số cho không? – Mụ nói, giọng bất cần như ánh mắt và cũng nghiệt ngã như nét mặt mụ. - Tôi không quan tâm đến chuyện đó, thưa bà. Bà có thể bói nếu cảm thấy thích, nhưng xin báo trước là tôi không tin đâu. - Cách ăn nói của cô thật chẳng khác gì cái vẻ xấc xược của cô. Nhưng không sao, tôi đã biết trước điều đó rồi, nghe bước chân cô qua ngưỡng cửa là tôi biết ngay. - Thế à? Tai bà cũng thính đấy nhỉ! - Đúng thế, còn mắt tinh, và đầu óc cũng minh mẫn nữa chứ. - Có như vậy thì bà mới hành nghề được. - Đúng, nhất là tiếp những khách hàng như cô. Mà tại sao không thấy cô run nhỉ? - Tôi không lạnh.


- Tại sao mặt cô không tái? - Tôi đâu có ốm. - Tại sao cô không nhờ tôi xem số? - Tôi không phải là đồ ngu ngốc. Mụ già giấu một nụ cười dưới vành mũ và dải băng quấn mặt, rồi lấy một cái tẩu ngắn tũn màu đen, châm lửa và bắt đầu hút. Được một lát, mụ ưỡn thẳng cái lưng gù, bỏ tẩu thuốc xuống, và khi đang đăm đăm nhìn vào lò sưởi, mụ bỗng nói, giọng trầm ngâm: - Cô lạnh, cô ốm và cô là đồ ngu ngốc. - Vậy thì bà thử chứng minh xem nào! – Tôi đáp lại. - Được, tôi sẽ nói, chỉ vài lời thôi. Cô lạnh, vì cô sống cô đơn, chẳng có sự tiếp xúc nào để nhóm lên ngọn lửa trong lòng cô. Cô ốm, vì cô thiếu những tình cảm tốt đẹp nhất, cao cả nhất và ngọt ngào nhất của người đàn ông. Cô là đồ ngu ngốc, vì tuy chịu nhiều đau khổ, cô vẫn không chịu vẫy gọi cảm xúc ấy lại gần, cũng chẳng chịu nhích một bước để đón gặp nó ở cái nơi nó vẫn đang chờ đợi cô. Mụ lại đưa cái tẩu đen sì lên rít mạnh một hơi. - Bà có thể nói tất cả những điều vừa nói với gần như bất cứ ai mà bà biết là sống cô đơn, phụ thuộc trong một tòa nhà lớn như thế này. - Đúng, tôi có thể nói với bất cứ ai như vậy, nhưng có phải là hầu như với ai, điều đó cũng đúng không? - Thì ít nhất là trong trường hợp của tôi. - Đúng là như vậy trong trường hợp của cô, nhưng cô cứ tìm cho tôi một người khác có địa vị giống cô xem. - Có tìm cả ngàn người cũng không có gì là khó. - Cô khó mà tìm cho tôi được một người đấy. Giá như cô ý thức được thân phận đặc biệt của mình ra sao! Nó rất gần với hạnh phúc, ừ, chỉ với tay


là được. Mọi thứ đều sẵn cả rồi đấy, chỉ cần nhích một chút là xong. Sự tình cờ đã làm cho các điều kiện phần nào bị tách riêng rẽ với nhau, chỉ cần biết kết hợp chúng lại là thành công tốt đẹp thôi. - Tôi không hiểu những lời đầy ẩn ý đó. Từ bé đến giờ, đã bao giờ tôi đoán được một câu đố nào đâu. - Nếu muốn tôi nói cặn kẽ, thì cô cứ đưa tay đây tôi xem. - Và phải bỏ một đồng tiền vàng vào đấy chứ? - Dĩ nhiên. Tôi đưa cho mụ một đồng silinh. Mụ móc trong túi ra một chiếc bít tất cũ, bỏ đồng tiền vào, buộc chặt miệng lại, rồi lại nhét vào túi. Mụ bảo tôi chìa tay ra. Tôi làm theo. Mụ gí sát mặt vào tay tôi, không thèm cầm, mà chỉ nhìn chăm chú. - Lòng bàn tay mịn quá. – Mụ nói. – Tôi không thể xem gì ở một bàn tay như vậy, bởi nó gần như chẳng có đường nét gì. Mà lòng bàn tay thì có nghĩa lý gì kia chứ? Số mệnh con người ta không được ghi ở đó. - Tôi cũng nghĩ như bà. – Tôi nói. - Không, – mụ nói tiếp – số mệnh hằn trên mặt, trên vầng trán, quanh đôi mắt, chính ngay trong con mắt, ở những đường nét của mồm miệng. Quỳ xuống đi, và chịu khó ngẩng mặt lên. - Chà! Bây giờ bà mới chuẩn bị nói lời thực tế đây! – Tôi nói và làm theo lời mụ. Tôi sẽ cố gắng tin lời bà vậy. Tôi quỳ cách mụ chừng nửa mét. Mụ khêu bếp than hồng bốc lên thành ngọn, chỉ có điều ánh lửa khiến khuôn mặt mụ trong càng tối hơn do chỗ ngồi của mụ, trong khi lại chiếu rất sáng vào mặt tôi. - Tôi không hiểu khi vào đây gặp tôi tối nay, cảm xúc của cô ra sao. – Mụ nói sau khi ngắm tôi một lát. – Tôi chẳng hiểu cô nghĩ gì khi cứ ngồi lì như một cái bóng suốt mấy tiếng đồng hồ để nhìn ngắm bọn người quyền quý lượn lờ trước mặt ở căn phòng ngoài ấy. Giữa cô và họ quả thực chẳng có một chút thông cảm nào, giống như họ chỉ là những ảo ảnh chứ không phải là người.


- Tôi thường cảm thấy mệt mỏi, đôi khi buồn ngủ, nhưng chẳng mấy khi u sầu. - Vậy thì phải có một hy vọng thầm kín nào đó khiến cô phấn chấn và hẳn nó cũng làm cô vui bằng những lời thì thầm về tương lai của cô. - Không phải vậy, hy vọng lớn nhất của tôi là dành dụm được một món tiền kha khá, đủ để một ngày nào đó, tôi sẽ thuê hẳn một nếp nhà nhỏ rồi mở lớp học. - Đó chỉ là một món ăn nghèo nàn cho tâm hồn của cô và trong khi cô ngồi trên gờ cửa sổ (cô thấy đấy, tôi còn biết cả thói quen của cô)… - Bà đã dò hỏi bọn gia nhân. - Chà! Cô nghĩ cô là người sắc sảo. – Được đấy, cứ cho là tôi đã dò hỏi họ đi. Nói thật nhé, tôi cũng có quen một người trong đám đầy tớ ấy…chị Poole ấy mà… Tôi đứng bật dậy khi nghe nhắc đến cái tên ấy. “Thì ra là vậy… Thảo nào…? – Tôi nghĩ thầm. – Nói cho cùng, trong chuyện này hẳn phải có điều gì quỷ quái đây”. - Việc gì phải đứng dựng ngược lên như thế, – mụ già quái đản nói tiếp – chị Poole là người trầm lặng và kín đáo, bất cứ ai cũng có thể tin cậy ở chị ta. Nhưng cứ để tôi nói tiếp, trong khi ngồi ở cửa sổ, chẳng lẽ cô không nghĩ đến chuyện gì khác ngoài cái lớp học tương lại của cô ư? Chẳng lẽ cô lại không để ý đến người nào trong đám người ngồi bảnh chọe trên những chiếc ghế bành, ghế xôpha trước mặt cô ư? Chẳng lẽ không có bộ mặt nào đáng làm cô chú ý? Một bộ mặt mà cô có thể dõi theo từng biến chuyển, ít nhất cũng vì sự tò mò? - Tôi thích quan sát tất cả mọi khuôn mặt và mọi người. - Thế cô không hề chú ý đến một, hoặc có thể là hai người trong đám hỗn độn đó ư? - Tôi thường chú ý đến những cử chỉ, cái nhìn của cặp nào có những nét giống như trong một câu chuyện, tôi cảm thấy vui khi ngắm họ.


- Cô thích nghe chuyện gì nhất? - Ôi, tôi đâu có nhiều lựa chọn! Nói chung là họ chỉ hùa vào cùng một chủ đề là tán tỉnh nhau, và hứa hẹn đưa nhau đến một kết cục bi thảm, ấy là làm đám cưới. - Thế cô có thích cái chủ đề đơn điệu ấy không? - Đúng ra thì tôi chẳng buồn quan tâm, vì nó chẳng có nghĩa lý gì đối với tôi cả. - Chẳng có nghĩa lý gì đối với cô? Khi một thiếu nữ trẻ trung, tràn đầy sức sống, xinh đẹp, có duyên… mỉm cười với một người đàn ông mà cô… - Mà tôi làm sao? - Mà cô biết, và có lẽ còn có thiện cảm nữa. - Tôi chẳng biết một quý ông nào ở đây hết. Tôi hầu như chưa bao giờ xã giao một lời nào với họ. Còn về chuyện thiện cảm ấy mà, tôi thấy cũng có một vài ông đáng kính, đường bệ và đã đứng tuổi, những người khác thì trẻ trung, sôi nổi, đẹp trai và hoạt bát thật, nhưng chắc chắn họ có thể thoải mái đón nhận những nụ cười nào mà họ thấy ưng ý, mà chẳng cần phải cần nhắc đến sự có mặt của tôi làm gì. - Cô không biết các vị ở đây ư? Có thật là cô không nói với ai một lời nào không? Chẳng lẽ đối với ông chủ nhà cô cũng vậy? - Ông chủ làm gì có nhà. - Một lời nhận xét hay đấy! Một cách đánh trống lảng khéo gớm! Ông ta đi Millcote sáng nay và sẽ trở về vào tối nay, hoặc ngày mai. Có phải vì thế mà cô loại ông ta ra khỏi danh sách những người mà cô biết không? Có phải vì thế mà cô gạt ông ta ra khỏi cái sự tồn tại này không? - Không phải thế, nhưng tôi không cho rằng ông Rochester có liên quan đến điều bà vừa nói. - Tôi đang nói đến các quý cô mỉm cười trong con mắt của các quý ông và sau đó những nụ cười duyên ấy đã bị cuốn cả vào đôi mắt ông Rochester,


đến nỗi mắt ông cứ ứ lên như hai chén nước tràn đầy. Chẳng lẽ cô cũng không hề nhận ra điều đó? - Ông Rochester có quyền vui vầy cũng các vị khách của mình. - Có quyền hay không cũng chẳng thành vấn đề. Nhưng đã lúc nào cô nhận thấy trong tất cả những chuyện cưới hỏi được bàn tán ở đây, thì chuyện của ông Rochester vẫn được nhắc đến một cách liên tục và sôi nổi nhất không? “Sự háo hức của người nghe đã khiến người kể như càng bị hối thúc”. – Tôi lẩm bẩm như nói với chính mình chứ không phải nói với mụ già lang thang. Câu chuyện kỳ lạ, giọng nói và cách nói của mụ lúc này như đang đưa tôi vào một giấc mơ. Những câu nói liên tiếp đầy bất ngờ tuôn ra từ miệng mụ khiến tôi có cảm giác bị vướng vào một trận đồ bát quái huyền bí. Tôi tự hỏi không biết cái thần linh vô hình nào đã rình bên trái tim tôi từ hàng tuần lễ nay, quan sát từng cử động và ghi lại từng nhịp đập của nó. - Sự háo hức của người nghe à? – Mụ nhắc lại lời tôi. – Đúng, ông Rochester đã ngồi hàng giờ, lắng nghe đôi môi quyến rũ mang lại cảm xúc đê mê lúc trò chuyện. Ông Rochester rất muốn được tiếp chuyện với đôi môi ấy và trông ông có vẻ rất biết ơn vì được hưởng niềm vui đó. Cô có nhận thấy điều này không? - Biết ơn! Tôi không nhớ là mình có phát hiện được hàm ý ấy trên nét mặt ông không. - Phát hiện! Vậy là cô đã phân tích. Thế cô đã phát hiện ra điều gì, nếu đó không phải là sự biết ơn? Tôi không nói gì cả. - Cô đã nhìn thấy tình yêu, có phải thế không? Và nếu nhìn xa hơn, cô thấy ông ta lấy vợ và cô dâu hẳn phải là người hạnh phúc? - Hừ! Chưa hẳn đã là như vậy. Ngón nghề phù thủy của bà đâu phải lúc nào cũng đúng được. - Vậy thì cô nhìn thấy cái quái gì chứ? - Có lẽ đừng nhắc đến điều đó nữa đi, tôi đến đây để hỏi chứ không phải


để thú tội. Nghe nói ông Rochester sắp cưới vợ, có đúng thế không nhỉ? - Đúng, lấy cô Ingram xinh đẹp. - Trong một thời gian ngắn nữa thôi? - Mọi vẻ bề ngoài hình như đều báo hiệu kết luận ấy và chắc chắn (mà cô có vẻ táo tợn quá đấy, coi chừng đấy) họ sẽ là một đôi rất hạnh phúc. Đương nhiên ông ta phải yêu một phụ nữ xinh đẹp, quý phái, tế nhị và hoàn hảo như cô ta. Và có lẽ cô ta cũng yêu ông, hoặc nếu không phải yêu con người thì ít ra cũng yêu cái túi tiền của ông ta. Tôi biết cô ta đánh giá rất cao gia sản của ông Rochester, mặc dù (cầu Chúa tha lỗi cô) cô ta xịu mặt lại như cái bị, vẻ không hài lòng, khi tôi nói với cô ta vài câu về chuyện này cách đây một tiếng đồng hồ. Tôi muốn khuyên người cầu hôn đen bạc của cô ta nên thận trọng, vì chẳng may có một gã đàn ông khác, lắm của nhiều tiền hơn xuất hiện thì ông ta sẽ bị hắt ra rìa là cái chắc. - Nhưng thưa bà, tôi vào đây không phải là để nghe bà bói cho ông Rochester, mà là để nghe bói cho chính cái thân tôi, vậy mà chẳng thấy bà đả động gì đến chuyện ấy. - Số cô vẫn còn đáng ngờ lắm, cứ nhìn mặt cô là tôi thấy nét nọ mâu thuẫn với nét kia. Thần may rủi đã cân đong hạnh phúc cho cô. Tôi biết điều đó ngay trước khi đến đây chiều nay. Tôi thấy vị thần ấy đã thận trọng đặt niềm hạnh phúc ở ngay bên cạnh cô. Tất cả chỉ còn tùy vào cô. Cô có giơ tay với lấy nó hay không, đó mới là điều tôi đang chiêm nghiệm. Cô hãy quỳ xuống thảm một lần nữa đi. - Bà đừng giữ tôi lâu thế có được không, tôi đang sắp chết nóng vì bếp lửa đây này. Tôi quỳ xuống. Mụ không dí sát mặt vào tôi, mà ngả người trên ghế bành, nhìn tôi chằm chằm. Rồi mụ bắt đầu lẩm bẩm: - Những ánh lửa lung linh trong mắt, ánh mắt long lanh như những giọt sương, trông dịu dàng và chứa đầy cảm xúc. Nó mỉm cười vì những lời kỳ lạ của ta. Nó nhạy cảm quá, mọi cảm xúc cứ lần lượt trôi qua trong ánh sáng ấy. Khi ánh mắt hết cười, cái u buồn lại lập tức ập đến. Sự mệt mỏi vô thức đè nặng lên mi mắt, cho thấy ưu phiền của những chuỗi ngày sống trong cảnh chăn đơn gối chiếc. Nó quay đi, không nhìn ta nữa, vì không muốn bị


soi xét tỉ mỉ hơn. Có vẻ như cái nhìn nhạo báng, thách thức kia đang định phủ nhận cái sự thực mà ta đã khám phá, phủ nhận cả cái nhạy cảm và nỗi phiền muộn u hoài hằn sâu lên dáng dấp của nó. Vẻ kiêu hãnh và sự dè dặt của nó chỉ càng khẳng định ý nghĩ của ta là đúng mà thôi. Đôi mắt được lắm. “Còn cái miệng, đôi khi rất gợi cảm khi cười, có thể nói ra tất cả mọi quan niệm trong đầu, cho dù chưa chắc đã chịu nói ra những nỗi niềm trong tim. Nhưng nó cũng linh hoạt, uyển chuyển, chẳng bao giờ chịu kìm nén mãi trong sự câm lặng vĩnh cửu của cảnh cô đơn. Đáng lẽ đó phải là cái miệng nói nhiều hơn, cười cũng nhiều hơn, và có tình thương yêu nhân bản với người nói chuyện với nó. Cái miệng quả thật cũng rất nét. “Ta không thấy có kẻ thù nào cản trở đường may mắn trên vầng trán kia ra. Vầng trán như xác nhận: “Mình có thể sống cô đơn nếu lòng tự trọng và hoàn cảnh bắt mình phải làm như vậy. Mình đâu cần phải bán tâm hồn đi để mua hạnh phúc. Mình có cả một kho báu được sinh ra cùng với mình, có thể giúp mình tồn tại trên đời nếu mọi ham muốn khoái lạc không chính đáng đều không động chạm đến mình, hoặc chỉ đưa ra một cái giá mà mình không thể kham nổi”. Vầng trán ấy tuyên bố: “Lý trí ngồi thật vững vàng và cầm dây cương, không để cho cảm xúc bùng lên và xô đẩy nó xuống vực thẳm hoang tàn. Các dục vọng có thể lồng lộn cuồng loạn như những kẻ ngoại đạo chính cống. Và cho dù các ham muốn có thể tưởng tượng ra đủ chuyện hồ đồ, nhưng sự phán quyết bao giờ cũng vẫn cho lời kết thúc cuối cùng trong mọi cuộc tranh luận, và sẽ là tiếng nói có trọng lượng hơn cả trong mọi quyết định. Cuồng phong, trời rung đất chuyển, bão lửa tràn qua cũng chẳng hề gì, mình vẫn cứ tuân theo sự đưa đường chỉ lối của cái tiếng nói nho nhỏ mang thông điệp của lương tâm ấy”. “Vầng trán ấy nói thật đúng, lời tuyên bố của mày sẽ được tôn trọng. Ta sẽ có những kế hoạch của ta, những kế hoạch mà ta nghĩ là chính đáng, vì ta đã nghe theo lương tâm và những lời khuyên của lý trí. Ta biết tuổi xuân chóng tàn phai và thời rực rỡ nhất của đời người sớm úa heo như thế nào, nếu trong chén hạnh phúc được dâng tặng bỗng bị phát hiện một chút cặn bã của sự ô nhục, hoặc một dư vị của sự hối hận vì những việc làm sai trái… Ta không muốn hy sinh, phiền muộn, bế tắc. Đó không phải là sở thích của ta. Ta muốn nuôi dưỡng chứ không muốn gây mầm họa, muốn nhận tri ân chứ không muốn làm huyết lệ tuôn trào. Không, ngay cả khi những giọt lệ ấy là nước ao bèo cũng không. Mùa gặt của ta phải diễn ra trong những nụ cười, những lời âu yếm, ngọt ngào, phải như thế. Ta nghĩ mình đang chìm


đắm trong một cơn mộng mị tuyệt đẹp. Ta rất muốn kéo dài cơn mê ấy đến vô tận, nhưng ta lại không dám. Ta vẫn hoàn toàn chế ngự được suy tưởng của mình. Ta đã hành động đúng như ta đã thề nguyện từ trước, nhưng nếu kéo dài hơn nữa, có lẽ cái suy tưởng ấy sẽ vượt quá sức của ta mất. Đứng dậy được rồi đấy, cô Eyre ạ, hãy để tôi ngồi đây một mình, ‘màn kịch đến đây là [59] kết thúc’.” Tôi ở đâu thế này? Tôi đang thức hay đang ngủ đây? Chẳng lẽ tôi lại nằm mơ? Chẳng lẽ tôi vẫn còn mơ? Giọng mụ già thay đổi hẳn. Giọng nói, cử chỉ của mụ, tất cả đều quen thuộc với tôi như mặt tôi trong gương, như giọng nói của chính tôi vậy. Tôi đứng dậy, nhưng chưa đi. Tôi nhìn mụ, cời lửa, rồi lại nhìn mụ, nhưng mụ đã kéo xụp vành mũ xuống cùng với dải băng che mặt và ra hiệu cho tôi ra ngoài, ánh lửa soi rõ bàn tay đang chìa ra của mụ. Sự ngờ vực chợt thức dậy trong tôi, khiến tôi lập tức nhận ra bàn tay đó. Nó không còn là bàn tay nhăn nheo của một mụ già, mà là một bàn tay mềm mại, với những ngón tròn trịa, cân đối. Một chiếc nhẫn sáng lấp lánh trên ngón tay út, trên đó đính một viên ngọc mà tôi đã nhìn thấy hàng trăm lần. Tôi lại nhìn lên cái đầu: lúc này không quay đi nữa, mà trái lại, đã được bỏ mũ, cởi dải khăn vải đi, để lộ bộ mặt ra. - Thế nào, Jane, cô nhận ra tôi chứ? – Một giọng nói quen thuộc hỏi. - Chỉ việc cởi nốt tấm áo choàng đỏ ra thôi, thưa ông, và rồi… - Nhưng dây bị thắt nút rồi, cô giúp tôi một tay. - Giật đứt luôn cho xong, thưa ông. - Được, thế đấy… “Nào, trút bộ đồ vay mượn này đi nào!” – Và ông Rochester bước ra từ cái lốt thầy bói của mình. - Hay đấy, thưa ông, quả là một ý tưởng kỳ dị đấy! - Nhưng đóng cũng khá đấy chứ, hả? Cô không nghĩ thế à? - Ông quả là người đóng kịch rất giỏi trước mặt các quý bà. - Nhưng với cô thì không? - Ông đã không đóng vai mụ già lang bạt với tôi.


- Thế tôi đã đóng vai gì vậy? Vai của chính tôi sao? - Không, một vai nào đó không thể lý giải được. Tóm lại, tôi tin là ông cố tình làm tôi bị lung lay, ông nói những câu vô nghĩa để tôi cũng phải nói ra những câu vô nghĩa. Như vậy là không hay rồi, thưa ông. - Cô tha lỗi cho tôi chứ, cô Jane? - Tôi chưa thể trả lời chừng nào chưa suy nghĩ thấu đáo về điều đó. Sau khi đã suy nghĩ, nếu thấy mình không mắc phải một điều ngu ngốc tệ hại nào thì tôi sẽ cố gắng tha thứ cho ông. Nhưng tôi làm thế e cũng không đúng. - Ồ, không, cô đã xử sự rất đúng mực, thận trọng và nhạy cảm đấy chứ. Tôi xét lại từ đầu đến giờ và thấy quả là như thế thật. Chẳng có gì đáng day dứt cả, vì dẫu sao thì tôi cũng đã cảnh giác ngay từ đầu và nghi ngờ có một sự trá hình nào đó. Tôi biết những kẻ sống lang bạt kỳ hồ, những kẻ xem tướng số đều không có những biểu hiện người ngồi trước mặt tôi, đấy là chưa kể đến giọng nói giả tạo và cử chỉ giấu mặt của mụ. Nhưng thú thực tôi chỉ nghĩ đến Grace Poole, một câu đố sống, một bí ẩn của những bí ẩn như tôi vẫn bị ám ảnh trong đầu từ trước đến nay, chứ không hề nghĩ đến ông Rochester. - Nào, cô đang nghĩ gì thế? – Ông ta hỏi. – Cô cười là có ý gì vậy? - Thưa ông, tôi thấy buồn cười và cũng khéo khen cho mình, thế thôi. Bây giờ tôi có thể cáo lui được rồi chứ? - Khoan, ở lại thêm một lúc nữa đi! Cô có thể cho tôi biết mọi người đang làm gì ngoài phòng khách không? - Chắc là họ đang bàn tán về mụ thầy bói. - Ngồi xuống đi, ngồi xuống đi! Hãy kể cho tôi biết họ nói gì về tôi nào. - Thưa ông, có lẽ tôi không nên ở đây nữa thì hơn, chắc cũng gần mười một giờ rồi còn gì. À, thưa ông Rochester, sáng nay, lúc ông đi khỏi nhà, có một người lạ mặt đến đây tìm ông đấy, ông biết chưa ạ? - Một người lạ mặt à! Không, có thể là ai nhỉ? Tôi không chờ đợi ai cả. Ông ta đã đi chưa?


- Chưa, ông ta nói đã quen biết ông từ lâu, và bảo có thể ở lại chờ ông bằng được. - Quái lạ thật! Thế ông ta có nói tên là gì không? - Ông ta là Manson, thưa ông. Ông ta đến từ Tây Indies, thị trấn Tây Ban Nha, thuộc Jamaica thì phải. Rochester đứng ngay gần tôi, nắm lấy tay tôi như định dắt tôi đến một chiếc ghế bành. Nghe tôi nói, ông chợt bóp mạnh cổ tay tôi, nụ cười trên môi vụt tắt. Hình như ông đang tức giận. - Manson! Tây Indies! – Ông gằn từng tiếng, giọng khó tả như một cái máy chỉ biết nói đơn âm tiết: “Manson!... Tây Indies!”, rồi lẩm bẩm nhắc lại câu nói ba lần nữa. Càng nói, mặt ông càng tái đi như tro bếp, vẻ như không còn biết mình đang làm gì nữa. - Ông có cảm thấy khó chịu trong người không, thưa ông? - Tôi cảm thấy chóng mặt, chóng mặt quá, Jane à! Rochester bỗng lảo đảo. - Ôi, chết thật, thế thì dựa vào tôi đi, thưa ông. - Jane, trước đây, cô đã một lần đưa vai cho tôi vịn, bây giờ cô lại cho tôi vịn vai đi. - Vâng, thưa ông, vâng, vịn cả vào cánh tay tôi đây này. Ông ngồi xuống và kéo tôi ngồi bên cạnh, rồi cả hai tay nắm lấy tay tôi mà vuốt ve, trong khi mắt đăm đăm nhìn tôi, ánh mắt vẻ bối rối và buồn bã. - Cô bạn nhỏ của tôi! – Ông nói. – Ước gì tôi được sống trên một hòn đảo vắng lạnh với mình cô và trút bỏ được những kỷ niệm rối bời, ghê tởm thì hay biết mấy. - Thưa ông, tôi có thể làm gì giúp ông bây giờ? Tôi sẽ hy sinh cả cuộc đời để phục vụ ông. - Jane ạ, nếu cần sự giúp đỡ, tôi sẽ nhờ đến tay cô, tôi xin hứa với cô như


vậy. - Xin cảm ơn ông, hãy cho tôi biết tôi phải làm gì đi. Tôi sẽ cố gắng, ít nhất là hoàn thành công việc. - Jane à, làm ơn vào phòng ăn rót cho tôi một cốc rượu vang. Có lẽ bây giờ đám khách của tôi đang ngồi ăn tối cả ở đó. Cô để ý hộ tôi xem cái ông Manson ấy có ở đấy không, và đang làm gì nhé. Tôi bước ra. Quả là khách khứa đang ngồi cả ở phòng ăn đúng như lời ông Rochester vừa nói. Họ không ngồi vào bàn, mà đứng tụm năm tụm ba, tay cầm cốc và dĩa. Thức ăn được bày trên tủ buýp phê, ai thích gì thì lấy. Trông ai nấy đều có vẻ vui lắm, chuyện trò, cười nói râm ran. Ông Manson đứng gần lò sưởi nói chuyện với ông bà đại tá Dent, xem ra cũng vui chẳng kém ai. Tôi rót một cốc rượu đầy (trước ánh mắt gườm gườm khó chịu của cô Ingram, có lẽ cô ta nghĩ tôi là kẻ vô lễ) rồi quay về thư phòng. Vẻ xám ngoét trên khuôn mặt Rochester đã biến mất, thay vào đó là vẻ cương quyết và nghiêm nghị vốn có của ông. Cầm cốc rượu từ tay tôi. - Tôi uống vì sức khỏe của cô, một tâm hồn nhân hậu! – Ông nói và uống cạn cốc rượu rồi đưa trả lại tôi cái cốc. – Họ đang làm gì vậy, Jane? - Họ cười đùa, rồi trò chuyện, thưa ông. - Trông họ không có vẻ nghiêm trọng, bí mật, như thể vừa phải nghe toàn những điều gì kỳ lạ chứ? - Hoàn toàn không đâu, trông họ rất vui là đằng khác. - Thế còn ông Manson? - Ông ta cũng cười đùa. - Nếu tất cả bọn họ cùng nhổ toẹt vào mặt tôi thì cô sẽ làm gì, Jane? - Tôi sẽ đuổi họ ra khỏi nhà nếu có thể được, thưa ông. - Nhưng nếu tôi phải vào gặp họ, – ông mỉm cười và nói tiếp – và họ chỉ nhìn tôi bằng ánh mắt lạnh lùng, rồi xì xào với nhau, tỏ thái độ khinh bỉ tôi ra mặt, rồi từng người một bước ngang qua trước mặt tôi thì sao? Cô sẽ hùa vào


với họ chứ? - Tôi nghĩ có lẽ là không, thưa ông. Nên ở lại với ông thì hơn. - Để an ủi tôi? - Vâng, để an ủi ông, trong chừng mực có thể, thưa ông. - Thế nếu họ miệt thị cô vì cô trung thành với tôi thì sao? - Chắc là tôi chẳng hay biết gì đâu, và nếu có biết họ tỏ thái độ như vậy thì tôi cũng chẳng nên quan tâm đến mà làm gì. - Vậy là cô dám giơ đầu chịu báng vì tôi? - Tôi có thể dám giơ đầu chịu báng vì bất cứ người bạn nào xứng với lòng thành của tôi, cũng như ông vậy thôi, tôi tin chắc là như thế. - Bây giờ, cô hãy trở lại phòng ăn hộ tôi một việc: hãy nhẹ nhàng lại gần và nói nhỏ với ông Manson rằng ông Rochester đã về và đang muốn gặp ông ta, rồi cô chỉ lối cho ông ta vào đây, sau đó cứ để mặc tôi. - Thưa ông, vâng. Tôi làm theo lời ông chủ. Tôi lặng lẽ bước qua phòng ăn, mặc những ánh mắt tròn xoe của các thực khách. Tôi tìm ông Manson, nhắn lại lời ông chủ, rồi đi trước dẫn đường cho ông ta trước khi lên gác. Đêm đã về khuya, lên giường nằm được một lát, tôi nghe thấy các vị khách tìm về phòng riêng. Tôi nhận ra tiếng ông Rochester: “Đi lối này, Manson, phòng anh ở đây”. Giọng ông vui vẻ, khiến tôi cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng. Và rồi tôi chìm ngay vào giấc ngủ.



Chương 20 Tôi quên không kéo rèm cửa như tôi vẫn thường làm, và cũng không hạ mành xuống. Kết quả là trăng tròn như cái đĩa (ánh trăng vằng vặc khiến màn đêm thật đẹp quá) lở lửng trên bầu trời đối diện với cửa sổ phòng tôi, nhìn tôi qua những ô cửa sổ không che làm tôi tỉnh giấc. Bừng tỉnh giữa đêm khuya thanh vắng, tôi mở to mắt ngắm nhìn mặt trăng trắng như bạc và trong vắt như pha lê. Đẹp quá, nhưng cũng thật trang nghiêm. Tôi nhỏm dậy, với tay kéo rèm xuống. Lạy Chúa tôi! Tiếng ai kêu sao mà rùng rợn thế! Màn đêm tĩnh mịch bất ngờ bị xé tan bởi một âm thanh man rợ, lanh lảnh, rít lên khắp lâu đài Thornfield. Máu trong người tôi như đông lại, tim ngừng đập, cánh tay duỗi cứng đờ. Tiếng kêu vụt tắt và không thấy rít trở lại. Quả thật, cho dù kẻ đã phát ra tiếng kêu khủng khiếp là ai đi nữa thì cũng không thể rít lên ngay một lần nữa. Ngay cả con chim ưng vĩ đại nhất ở rặng Andes cũng không thể cất tiếng gào rít hai lần liên tiếp như thế từ những đám mây bao quanh tổ nó. Muốn làm được như vậy, nó phải nghỉ lấy hơi. Tiếng kêu phát ra từ tầng ba, vì nó rít qua đầu tôi. Và cũng ở phía trên đầu – vâng, ở ngay căn phòng trên phòng tôi – chợt có tiếng vật lộn, nếu suy từ tiếng động thì đó hẳn phải là một cuộc chiến sống mái. Tiếp theo là những tiếng kêu gào liên tiếp: “Cứu tôi với! Cứu tôi với! Cứu tôi với!”, nghe gấp gáp, ngột ngạt. “Không có ai đến ư?” – Vẫn giọng đó cất lên thảm thiết. Và trong khi những tiếng chân lảo đảo, huỳnh huỵch tiếp tục mạnh lên, tôi nghe rõ tiếng gọi thất thanh vọng qua ván trần nhà: - Ông Rochester! Ông Rochester! Lạy Chúa, lại đây mau! Có tiếng mở cửa, rồi tiếng ai đó chạy tức tốc hoặc lao dọc theo dãy hành lang. Tiếng một bước chân khác giẫm mạnh vào sàn nhà trên gác, và một vật đổ đánh rầm xuống. Rồi tất cả lại im lặng. Dù sợ run bần bật, tôi vẫn mặc áo, bước ra khỏi phòng. Tiếng động


trong đêm thanh vắng khiến những người đang ngủ giật mình thức dậy, hoảng hốt kêu la, rồi thì thào sợ hãi. Cửa các phòng lần lượt mở toang, mọi người thi nhau thò đầu nhòm ra ngoài hành lang đang lố nhố người, rồi thảng thốt, nhớn nhác hỏi nhau: “Lạy Chúa, cái gì thế?”, “Ai bị thương đấy?”, “Có chuyện gì vậy?”, “Thắp đèn lên đi!”, “Cháy à?”, “Trộm vào nhà hay sao mà ầm ĩ cả lên?”, “Chạy đi đâu bây giờ?”. Nếu không có ánh trăng thì mọi người hẳn đã chìm trong bóng tối tràn ngập. Họ chạy nháo nhác, rồi túm tụm lại với nhau, kẻ khóc thút thít, người ngã xiêu ngã vẹo. Tóm lại là một cảnh tượng hết sức hỗn loạn. - Ông Rochester đi đằng quái nào rồi? – Đại tá Dent càu nhàu. – Tôi vào giường ông ấy tìm cũng không thấy. - Tôi đây! Tôi đây! – Có tiếng đáp lại. – Tất cả hãy bình tĩnh cho, tôi đến đây. Cánh cửa cuối hành lang mở toang, ông Rochester bước tới, tay cầm một ngọn nến. Ông vừa từ trên gác xuống. Một người trong đám phụ nữ chạy sấn lại nắm lấy cánh tay ông: đó chính là cô Ingram. - Có chuyện gì mà khủng khiếp thế? – Cô ta hỏi. Ông nói đi! Cho chúng tôi biết ngay đi! - Kìa, mọi người đừng níu cả lấy tôi như vậy, ngã bây giờ, mà ngột ngạt quá đi mất! – Chủ nhà đáp lại, vì ngay lúc đó, mấy chị em Eshton đã túm lấy ông. Cả hai bà quả phụ mặc áo trắng rộng thùng thình cũng chạy về phía ông, trông như chiếc thuyền buồm no gió. - Không có chuyện gì đâu! Không có chuyện gì đâu! – Rochester phân bua. – Chỉ là diễn thử vở “Làm gì mà ầm kên như vậy” thôi mà. Thôi nào, các bà lui lui ra hộ tôi đi, kẻo tôi nóng lên thì nguy. Trông ông có vẻ bực mình thật, vì đôi mắt đen của ông có ánh lửa. Cố trấn tĩnh, ông nói tiếp: - Một chị giúp việc bị ác mộng, có thế thôi. Chị ta là người căng thẳng thần kinh và dễ bị kích động, ngủ mê bị ma đuổi, hay một cái gì đó đại loại như vậy, nên mới hoảng hốt lên. Bây giờ, xin mọi người về phòng cả đi, vì nếu ầm ĩ thế này thì làm sao vỗ về chị ta được. Các quý ông, xin hãy vui lòng làm gương cho các quý bà một chút. Cô Ingram ạ, tôi tin là cô sẽ vượt qua nỗi sợ


hãi ngớ ngẩn này. Amy và Louisa, các cô cũng nên quay về tổ của mình đi, đôi bồ câu ạ. Cả các bà nữa (quay về phía hai bà quả phụ), nếu cứ đứng thêm một lát ở cái hành lang lạnh lẽo này thì thế nào các bà cũng không tránh khỏi bị cảm lạnh đâu. Cứ như vậy, lúc thì dỗ ngọt, lúc thì ra lệnh, ông đã khéo léo xua các vị khách ai về phòng ấy. Không đợi ông phải ra lệnh, tôi trở về phòng lặng lẽ như khi xuất hiện vậy. Tuy nhiên, tôi không đi nằm, mà trái lại, cẩn thận mặc thêm áo vào. Những âm thanh vang lên sau tiếng kêu, và cả những tiếng kêu cứu sau đó nữa, có lẽ chỉ mình tôi nghe thấy, vì tất cả đều phát ra từ căn phòng ngay trên phòng tôi. Chúng khiến tôi tin rằng chắc chắn đó không phải là cơn mê ngủ của một chị giúp việc làm cho cả lâu đài hoảng sợ tán loạn, cũng chẳng phải lời phân bua của ông Rochester chỉ là một điều tưởng tượng để trấn an các quý khách của ông. Vì thế tôi phải mặc quần áo chỉnh tề để có thể sẵn sàng trước những tình huống cấp bách. Mặc quần áo xong, tôi ngồi một lúc lâu bên cửa sổ, nhìn ra khoảng không gian tĩnh mịch và cánh đồng ướt đẫm ánh trăng bạc, mà không hiểu mình chờ đợi điều gì. Tôi có cảm giác rằng sau tiếng kêu quái đản, cuộc vật lộn huỳnh huỵch và tiếng kêu cứu ấy, hẳn sẽ lại có một chuyện gì đó xảy ra tiếp theo. Nhưng không, tất cả lại trở về với im lặng, những tiếng rì rầm và tiếng bước chân đi lại của các vị khách cũng tắt dần. Khoảng một tiếng sau, lâu đài Thornfield lại im ắng như ở nơi sa mạc. Dường như giấc ngủ và đêm tối đã thâu tóm lại quyền lực trong đế chế của chúng. Trong khi ấy, vầng trăng đã bắt đầu nghiêng bóng giã biệt một đêm tàn canh. Chẳng có hứng thú gì với chuyện ngồi mãi trong bóng tối lạnh lẽo, tôi định cứ mặc nguyên bộ đồ như thế mà ngả lưng. Rời khung cửa sổ và nhẹ nhàng bước qua tấm thảm, trong lúc cúi xuống cởi giầy, tôi bỗng nghe có tiếng khẽ khẽ gọi cửa. - Ai đấy? – Tôi hỏi. - Cô thức đấy à? – Đáp lại là giọng mà tôi vẫn chờ đợi, giọng của ông chủ. - Vâng, thưa ông. - Cô vẫn quần áo chỉnh tế đấy chứ?


- Vâng. - Thế thì ra ngoài này đi, nhẹ nhàng thôi! Tôi vâng lời. Ông Rochester đứng ngoài hành lang, tay cầm đèn. - Tôi cần đến cô, – ông nói – đi đường này, từ từ thôi cũng được, nhưng nhớ là phải nhẹ nhàng thôi đấy. Vì đi giày đế mỏng, nên tôi có thể nhẹ bước trên thảm như một con mèo. Ông chủ tôi cũng rón rén đi dọc hành lang, leo cầu thang lên gác và dừng lại ở đầu hành lang tối om ở tầng ba đầy tai họa. Tôi bước theo sau và dừng lại ngay cạnh ông. - Trong buồng cô có miếng bọt biển nào không? – Ông thì thầm hỏi tôi. - Có, thưa ông. - Thế có muối không, muối xông hơi ấy? - Có. - Thế thì cô hãy chịu khó về phòng và mang cả hai thứ lên đây cho tôi đi. Tôi quay về phòng tìm miếng bọt biển trên giá để đồ vệ sinh, muối xông hơi trong ngăn kéo, rồi lại lặng lẽ theo lối cũ lên gác. Ông vẫn đợi tôi, tay cầm một chiếc chìa khóa. Thấy tôi trở lại, ông liền tiến lại gần một trong những ô cửa nhỏ, màu đen, và tra chìa khóa vào ổ. Nhưng ông không mở ngay, mà quay lại hỏi tôi: - Này, cô không sợ khi nhìn thấy máu đấy chứ? - Tôi nghĩ là không, dù tôi chưa thử bao giờ. Tôi rùng mình trả lời, nhưng không vì thế mà sợ muốn ngất xỉu. - Đưa tay cho tôi nào, không khéo lại ngất xỉu ấy chứ. Tôi đưa tay cho ông nắm. Ông bảo “tay ấm và bình tĩnh ra trò”, rồi xoay chìa khóa mở cửa. Tôi thấy một căn phòng mà tôi nhớ là đã có lần bà Fairfax chỉ cho tôi khi


dẫn tôi đi xem lâu đài. Buồng có trải thảm, nhưng bây giờ đã bị lật lên một phần, để lộ ra một ô cửa từ trước đến vẫn bị giấu kín. Cánh cửa mở ngỏ, ánh sáng phòng trong hắt ra. Tôi nghe trong ấy có tiếng gầm gừ, tiếng giằng giật như tiếng chó cắn nhau. Ông Rochester đặt cây nến xuống, bảo tôi “đợi một phút”, rồi ông đi thẳng vào trong. Tiếng một người rống lên chào đón ông, lúc đầu nghe váng cả óc, rồi kết thúc bằng chuỗi tiếng cười “ha! ha! ha!” ma quái của Grace Poole. Thì ra là chị ta ở đây. Rochester không nói không rằng, thu dọn một số thứ trong phòng. Mặc dù tôi nghe thấy có tiếng nói chuyện khe khẽ với ông, nhưng ông vẫn im lặng bước ra khỏi phòng và khép cửa lại. - Lại đây đi, Jane! – Ông gọi. Tôi lượn vòng qua phía bên kia một chiếc giường rộng có màn buông, che khuất một phần lớn căn phòng. Gần đầu giường đặt một chiếc ghế bành, trên ghế là một người đàn ông không mặc áo choàng. Ông ta ngồi im như tượng, đầu ngửa về phía sau, mắt nhắm tịt. Ông Rochester cầm cây nến soi vào người ông ta. Nhìn bộ mặt nhợt nhạt gần như không còn sinh khí, tôi nhận ngay ra ông Manson. Ngọn nến còn giúp tôi nhận thấy một bên vạt áo và một cánh tay ông ta ướt đẫm máu. “Cầm giúp tôi cây nến.” – Ông Rochester bảo tôi, rồi chạy lại giá vệ sinh lấy một chậu nước và nói: “Đỡ hộ tôi một cái”. Tôi im lặng làm theo. Ông lấy miếng bọt biển nhúng vào nước, xoa xoa lên bộ mặt nhợt nhạt như xác chết của ông Manson, rồi bảo tôi đưa cho lọ muối xông để gí vào mũi vị khách. Ông Manson hé mở mắt, rên rỉ, vẻ đau đớn. Rochester nhẹ nhàng cởi chiếc áo sơ mi của người bị thương ra. Mặc dù cánh tay và vai ông ta đã được băng bó, nhưng máu vẫn rỉ cả ra ngoài. - Có nguy kịch lắm không? – Ông Manson lẩm bẩm hỏi. - Ôi dào! Có gì đâu mà lo, chỉ là một vết trầy xước thôi mà. Đừng sầu não như thế, can đảm lên một chút đi! Tôi sẽ đích thân đi mời thầy thuốc cho ông ngay bây giờ đây. Hy vọng sáng mai ông sẽ đủ sức để rời khỏi đây. Này, Jane! - Thưa ông. - Có lẽ tôi phải nhờ cô ở đây với quý ông này chừng một hai tiếng đồng hồ. Nếu vết thương của ông ấy tiếp tục rỉ máu, cô cứ làm như tôi đang làm đây này. Nếu ông ấy lả đi, cô hãy lấy một cốc nước đặt lên môi ông ấy, rồi đưa muối xông vào sát mũi ông ấy cho tôi. Cô không được nói chuyện với ông ấy vì bất cứ lý do gì. Còn ông, Richard ạ, nếu mở miệng nói chuyện với cô ấy, thế nào tính mạng ông cũng gặp nguy cấp đấy. Ông mà hé môi, hay cử


động là tôi không chịu trách nhiệm về hậu quả đâu nhé. Người đàn ông khốn nạn lại rên rỉ đau đớn, hình như ông ta sợ không dám cử động thì phải. Tôi có cảm giác sự sợ chết hoặc sợ một điều gì đó đã làm người ông ta gần như bất động hoàn toàn. Tôi cầm miếng bọt biển từ tay ông Rochester và tiếp tục làm cái việc thấm máu như ông đã làm. Trước khi ra khỏi phòng, ông đứng trông tôi làm một vài giây rồi dặn lại: “Nhớ nhé, không được nói chuyện đâu đấy!” Tôi bỗng trải qua một cảm giác kỳ lạ khi nghe tiếng chìa khóa quay trong ổ. Tiếng bước chân ông xa dần, rồi tắt hẳn. Vậy là tôi đang ở trên tầng ba, bị nhốt vào một trong những căn buồng bí hiểm, giữa bóng tối mờ mịt xung quanh. Dưới mắt và tay tôi là một cảnh tượng máu me nhớp nhúa. Nghĩ đến chuyện chỉ cách biệt với Grace Poole bằng duy nhất một cánh cửa, rồi chuyện mụ sát nhân có thể nhảy bổ vào người tôi bất cứ lúc nào, tự nhiên tôi lại thấy rùn rợn. Ngoài điều đó ra, tôi có thể chịu đựng được hết. Tuy nhiên, tôi vẫn phải làm nhiệm vụ của mình, phải chiêm ngưỡng đôi môi nhợt nhạt cấm được hé, đôi mắt lúc nhắm lúc mở, lúc lấm lét nhìn khắp phòng, lúc lại nhìn tôi chằm chặp và luôn đờ đẫn vì khiếp đảm trên bộ mặt xám ngoét như người chết rồi kia. Tôi phải luôn tay nhúng miếng bọt biển vào chậu nước loang máu để thấm tiếp những giọt máu rỉ ra từ các vết thương, phải nhìn cái ánh sáng yếu ớt có nguy cơ tắt dần của ngọn nến mà không dám gạt bấc lấy ánh sáng cho công việc đang làm. Bóng tối càng tối hơn trên tấm thảm cổ xung quanh, tối đen dưới những mảnh màn treo trên chiếc giường rộng cũ kỹ, và rung rinh thành những hình thù quái dị trên những cánh cửa của chiếc tủ lớn nằm đối diện. Những cái đầu của mười hai tông đồ được chạm khắc tương ứng trên mười hai ngăn tủ trông mới khủng khiếp làm sao! Phía trên những cái đầu là hình một cây thánh giá bằng gỗ mun và hình đức Chúa bị đóng đinh, đang hấp hối. Bóng tối nhập nhoạng và ánh đèn cầy chập chờn vô định, tôi có cảm giác lúc thì gặp tông đồ Luke, một thầy thuốc rậm râu đang cúi đầu, lúc thì mớ tóc dài buông xõa phất phơ của thánh John, rồi bộ mặt gian ác của Judas nhô lên khỏi mặt tủ như đang sống lại và đe dọa biến thành tên lừa thầy phản bạn tinh quái – quỷ Satăng – đội lốt thuộc hạ của hắn. Trong cái cảnh ma quái ấy, tôi vừa phải để mắt dè chừng lại vừa phải dỏng tay lên nghe ngóng những cử động của con thú hoang dại hoặc con


quỷ cái trong căn phòng nhỏ bên kia. Những kể từ lúc ông Rochester xuất hiện, nó như đã bị yểm bùa. Suốt từ bấy đến giờ, tôi chỉ nghe thấy có ba tiếng động vang lên cách nhau khá lâu – một tiếng bước chân kẽo kẹt trên sàn gỗ, một tiếng gầm gừ ư ử như tiếng chó và một tiếng người kêu rền rĩ. Nhưng rồi chính những ý nghĩ của tôi lại làm tôi lo lắng. Không hiểu đó là tội ác gì mà lại hiện thân trong cái mạng sống đang ẩn náu trong tòa lâu đài cô liêu này? Để rồi ngay cả chủ nhân của nó cũng không thể xua đuổi hoặc khuất phục được? Đó là bí mật nào mà cứ bung ra, lúc thì thành lửa, lúc thì thành máu vào những giờ khắc im ắng nhất trong đêm? Tạo hóa ấy là gì mà lại đội lốt một người đàn bà bình thường, để thỉnh thoảng lại rống lên những tiếng kêu lúc thì như của một con quỷ đang cười cợt, lúc thì như của một con chim lợn tìm xác chết? Và cả người đàn ông bình thường lạ mặt đang ngồi trước mặt tôi này nữa? Ông ta có dính dáng gì đến mớ bòng bong khủng khiếp này? Tại sao cơn thịnh nộ lại giáng xuống ông ta? Điều gì khiến ông ta tìm đến đây vào cái giờ này, trong khi lẽ ra ông ta phải ngon giấc trên giường? Tôi đã nghe thấy ông Rochester chỉ cho ông ta một phòng ngủ ở dưới nhà kia mà, cái gì xui khiến ông ta lên đây? Và bây giờ, không hiểu tại sao ông ta lại chịu khuất phục như vậy trước những hành động hung bạo hay phản bội giáng lên đầu mình? Tại sao ông ta phải im lặng tuân theo ý muốn của ông Rochester? Tại sao ông Rochester lại bắt ông phải giữ im lặng về chuyện đã xảy ra? Vị khách của ông đã bị xúc phạm, bản thân ông cũng lại vừa bị mưu sát một lần nữa, vậy thì điều gì đã khiến ông lờ đi và cho vào quên lãng cả hai lần mưu hại này? Vừa nãy, tôi thấy ông Manson ngoan ngoãn nghe lời ông Rochester. Sự cương quyết của chủ nhà đã hoàn toàn chế ngự được cái ù lì của vị khách, chỉ vài lời trao đổi giữa hai người cũng đủ để tôi khẳng định điều đó. Rõ ràng là trong quan hệ xưa cũ giữa hai người, tính thụ động của ông Manson đã dần dần chịu ảnh hưởng của sự linh hoạt trong tính cách của ông Rochester. Vậy thì tại sao vừa nghe bảo ông Manson đến, ông Rochester lại hốt hoảng lên như thế? Tại sao chỉ cách đây ít giờ đồng hồ, riêng cái tên của người đàn ông yếu đuối kia, người mà bây giờ ông Rochester chỉ cần nói vài lời cũng đủ để ông Manson phải phục tùng răm rắp như một đứa trẻ, cũng đủ hạ gục ông Rochester như lưỡi tầm sét giáng xuống một cây sồi? Chao ôi! Làm sao tôi có thể quên ánh mắt và vẻ mặt tái xanh của Rochester khi ông thì thầm: “Tôi cảm thấy chóng mặt, chóng mặt quá, Jane à!”. Làm sao tôi có thể quên cánh tay run rẩy của ông khi ông vịn vào vai tôi.


Hẳn phải có chuyện gì thật nghiêm trọng mới khiến một người cương quyết, khỏe mạnh như ông Fairfax Rochester xúc động đến thế được. “Khi nào ông mới về? Khi nào ông mới về?” – Tôi thầm hỏi trong khi đêm vẫn dài lê thê và người bị thương vẫn tiếp tục mất máu, rên rỉ, kiệt sức. Không thấy ai đến cứu chữa, mà trời còn lâu mới sáng. Tôi vẫn phải luôn tay đưa muối kích thích lên mũi hoặc đưa cốc nước lên đôi môi nhợt nhạt của ông Manson, nhưng mọi cố gắng của tôi hầu như đều vô ích. Hoặc vì đau đớn, lo lắng, mất máu, hoặc vì cả ba nguyên nhân, người đàn ông đã nhanh chóng bị kiệt sức. Ông ta rên rỉ, trông thật yếu ớt, đờ đẫn, khiến tôi tưởng ông ta chết đến nơi. Vậy mà ngay cả hỏi chuyện ông ta thôi tôi cũng không được phép! Cuối cùng thì ngọn nến lụi dần và tắt hẳn. Nhưng vừa lúc ấy, tôi chợt nhận thấy một vệt sáng lờ mờ chiếu qua khe rèm cửa sổ. Vậy là cũng sắp sáng rồi! Ngay sau đấy, tôi nghe thấy tiếng sủa của con Pilot vẳng tới từ trong chiếc cũi đặt dưới sân. Niềm hy vọng lại sống lại. Và không phải là không có căn cứ, khoảng năm phút sau, tiếng chìa khóa xoay lách cách trong ổ báo cho tôi biết nhiệm vụ của tôi đến đây là kết thúc. Mới khoảng hơn hai tiếng đồng hồ trôi qua mà ngỡ cứ như cả tuần lễ! Rochester bước vào cùng một thầy thuốc mà ông vừa mời. - Nào, Carter, nhanh nhanh lên nhé, – ông nói với tay thầy thuốc – tôi chỉ cho ông cả thảy nữa tiếng để băng bó vết thương và dìu bệnh nhân xuống dưới nhà thôi đấy. - Nhưng liệu ông ta có đi được không, thưa ngài? - Chắc chắn là được, có gì nghiêm trọng lắm đâu. Cái chính là ông ta bị căng thẳng thần kinh, cần phải động viên tinh thần ông ta. Nào, bắt tay vào việc đi. Rochester vén màn, kéo rèm cho ánh sáng tràn vào. Tôi ngỡ ngàng và cảm thấy vui vui trước cảnh bình minh ló rạng rực hồng ở vầng trời đông. Vị chủ nhà bước lại gần ông Manson đang ở trong tay thầy thuốc. - Thế nào, ông bạn tử tế của tôi, ông thấy trong người thế nào rồi? – Ông hỏi.


- Lúc cô ấy chăm sóc, tôi thấy sợ quá. – Vị khách khốn khổ trả lời yếu ớt. - Có hề gì! Can đảm lên chứ! Chỉ cần hai tuần là ông lại thấy bình thường ngay ấy mà. Ông chỉ bị mất ít máu chứ có làm sao đâu. Carter này, ông hãy đảm bảo là không có gì nguy hiểm để ông ta yên tâm đi. - Tôi sẽ cố gắng hết mình để xử lý vết thương cho ông ấy. – Carter nói khi vừa cởi băng xong. – Chỉ tiếc là đến hơi muộn nên ông ấy đã bị mất nhiều máu quá. Nhưng làm sao thế này? Bờ vai này không chỉ bị chém, mà như bị cắn xé ấy. Rõ ràng không chỉ có vết dao băm, mà còn có cả vết cắn của răng người, đúng không ạ? - Cô ta đã cắn tôi. – Manson rên rỉ. – Lúc bị ông Rochester giằng lấy con dao trong tay, cô ta đã cắn xé tôi như một con cọp cái. - Lẽ ra ông không nên cả nể như thế, mà phải giữ chặt lấy cô ta ngay từ đầu mới phải. – Ông Rochester trách. - Nhưng trong tình huống như vậy, tôi có thể làm gì được? – Manson cãi lại và nói tiếp, giọng run run: “Ôi, ghê quá đi mất! Mà tôi cũng đâu có ngờ kia chứ, vì lúc đầu trông cô ta bình thường lắm.” - Tôi đã báo trước với ông là phải cẩn thận khi đến gần nó rồi mà. – Ông Rochester đáp lại. – Mà ông để đến mai cùng tôi đến gặp cô ta thì có làm sao nào? Đúng là điên mới một mình đến gặp cô ta vào đêm nay. - Thì tôi cứ tưởng mình có thể làm được việc tốt. - Tưởng! Tưởng! Tưởng cái con khỉ! Cứ nghe ông nói là tôi lại đâm khó chịu. Đấy nhé, ông thấy ông đã phải trả giá thế nào rồi nhé, mà có lẽ ông sẽ còn phải lãnh đủ vì tội không chịu nghe lời khuyên của tôi. Vậy tôi không nói gì nữa, Carter, nhanh nhanh lên! Nhanh tay lên! Mặt trời lên đến nơi rồi, mà tôi phải đưa ông ấy đi ngay đấy. - Xong ngay bây giờ đây, thưa ngài. Phần vai đã xong rồi, chỉ còn vết thương ở cánh tay nữa thôi. Hình như cô ta còn cắn cả vào đây thì phải. - Cô ta đã hút máu và bảo muốn hút sạch máu trong tim tôi. – Manson nói. Tôi thấy ông Rochester rùng mình, nhăn mặt lại vì ghê tởm, kinh sợ và


căm ghét, nhưng ông chỉ nói: - Thôi nào, Richard, ngồi yên đi, quan tâm làm gì đến những câu nói vớ vẩn của cô ta, đừng nhắc lại nữa. - Mong là tôi có thể quên được. - Rồi ông sẽ quên khi đã đi khỏi xứ này. Khi nào về đến thị trấn Tây Ban Nha, ông cứ nghĩ là cô ta đã bị chết chôn rồi – hoặc tốt hơn hết là đừng nên nghĩ tới cô ta làm gì cả. - Nhưng làm sao mà tôi quên được cái đêm nay! - Không phải là không quên được, vấn đề là phải có nghị lực, người đàn ông ạ. Cách đây hai tiếng đồng hồ, ông chẳng nghĩ là ông chết chắc rồi còn gì, thế mà bây giờ ông vẫn sống sờ sờ và còn nói um cả lên đấy thôi. Kìa! Carter đã băng bó cho ông xong rồi đấy. Tôi sẽ xỏ áo cho ông ngay bây giờ đây, Jane (từ lúc gọi thầy thuốc về, bây giờ ông mới quay sang nhìn tôi), cô hãy cầm chiếc chìa khóa này xuống phòng ngủ của tôi, mở ngăn trên cùng của tủ quần áo và lấy cho tôi một cái sơmi sạch và chiếc cổ viền lên đây, nhanh nhanh chân lên. Tôi làm theo lời ông chủ ngay lập tức. - Bây giờ thì cô hãy tránh qua mé bên kia giường để tôi thay đồ cho ông ta, – ông nói – nhưng đừng ra khỏi buồng nhé, có khi tôi lại cần đến cô đấy. Tôi lặng lẽ lượn sang một bên. - Lúc xuống dười nhà, cô đã thấy ai dậy chưa, Jane? – Ông Rochester lại hỏi. - Chưa, thưa ông, tất cả vẫn hoàn toàn im lặng. - Dick ạ, chúng ta phải lẳng lặng mà đưa ông rời khỏi đây thôi, vì chỉ có vậy mới có lợi cho ông và cho cả cái kẻ khốn nạn trong phòng kia nữa. Bây lâu nay tôi vẫn cố gắng giữ kín mọi chuyện,vì vậy tôi không muốn tất cả lại bị lộ toét ra vào cái lúc cuối cùng này. Đây, Carter, ông hãy mặc áo giúp ông ta đi. Mà cái tiết trời lạnh lẽo chết tiệt này, ông sẽ chẳng thể nào đi nổi một dặm mà không có cái thứ ấy trên người. Vẫn ở trong phòng ông chứ gì? Jane, cô lại chạy xuống lấy giùm tôi đi, ở ngay cạnh phòng tôi ấy.


Tôi lại tất tưởi chạy xuống tìm và mang lên một chiếc áo choàng rộng thùng thình có lót lông thú. - Bây giờ tôi lại nhờ cô một việc khác, – ông chủ không biết mệt của tôi nói – cô lại phải xuống dưới phòng tôi một lần nữa. May mà cô lại đi giày đế nhung! Nếu đi một đôi giày to tổ bố thì hỏng bét cả! Cô hãy xuống mở chiếc ngăn kéo giữa bàn của tôi, lấy một cái lọ và một chiếc cốc nhỏ đem lên đây, mau lên! Tôi chạy ù xuống và trở lại ngay. - Tốt rồi! Nào, ông thầy thuốc, tôi xin mạo muội cho ông bạn của tôi một liều nhé, tội vạ gì tôi xin chịu hết. Tôi đã mua thứ rượu bổ này ở thành Rôm của một tay người Ý, một gã mà nếu nhìn thấy, thế nào ông cũng muốn đá cho một phát, Carter ạ. Đây không phải là thứ có thể dùng vô tội vạ được, nhưng nó cũng rất tốt tùy từng trường hợp, như trường hợp này chẳng hạn. Jane, cô cho tôi ít nước. Tôi cầm lấy bình trên bàn rót nửa ly nước đưa ông. - Thôi đủ rồi, bây giờ cô hãy làm ướt cái miệng lọ hộ tôi. Tôi lặng lẽ làm theo. Tiếp đó, ông nhỏ đủ mười hai giọt rượu đỏ vào chiếc ly nhỏ và đưa cho ông Manson. - Chịu khó uống đi, Richard, nó sẽ bù đắp cho ông cái sức lực đã bị mất ít nhất trong một, hai tiếng đồng hồ. - Nhưng cái thứ ấy có hai không? Liệu có phải là chất kích thích không? - Uống đi! Uống đi! Uống đi! Manson ngoan ngoãn vâng lời, vì rõ ràng có cưỡng lại cũng không được. Ông ta đã mặc áo xong xuôi, trông mặt mũi vẫn tái mét, nhưng không còn máu me be bét, nhớp nháp nữa. Rochester để ông ta ngồi im khoảng ba phút sau khi uống thuốc, rồi cầm ta ông ta: - Tôi tin là bây giờ ông có thể đứng dậy được rồi đấy, thử một cái xem nào.


Bệnh nhân đứng dậy. - Carter, ông xốc hộ tôi nách bên kia. Nào, Richard, cố lên nào, bước đi… được rồi đấy! Manson nhận xét: - Tôi cảm thấy có khá hơn. - Tôi biết mà! Bây giờ, Jane, cô đi trước chúng tôi nhé, đi cầu thang sau ấy. Cô hãy mở cửa đầu hồi ra và ra bảo tay xà ích chuẩn bị trước đi, chúng tôi xuống ngay bây giờ đây. Ông ta đang đợi ở ngoài sân, hoặc ngay bên ngoài cổng ấy, vì tôi đã dặn ông ta đừng đánh xe lên mặt đường đá để khỏi gây ra tiếng động. Mà này, cô Jane này, nếu trông thấy có người, cô cố gắng chạy đến đầu cầu thang ra hiệu cho chúng tôi biết với nhé. Lúc ấy đã khoảng năm giờ rưỡi, mặt trời sắp mọc, nhưng nhà bếp vẫn tối mò và im lìm, cửa đầu hồi đóng im ỉm. Tôi cố mở cửa nhẹ nhàng nhất trong chừng mực có thể. Dưới sân, cảnh cũng im lặng như tờ, nhưng cánh cửa ngoài cổng đã mở toang từ bao giờ. Bên ngoài có một cỗ xe trạm đóng ngựa sẵn sàng, tay xà ích ngồi như tượng trên xe. Tôi lại gần bảo ông ta rằng những người đàn ông sắp ra đến nơi. Ông ta gật đầu, trong khi tôi phải dè chừng để mắt nhìn quanh, nghe ngóng. Sự im lặng của buổi bình minh bao trùm lên mọi cảnh vật. Rèm cửa sổ các phòng gia nhân còn buông kín. Những chú chim chích bông bắt đầu cất tiếng hót líu lo chào buổi sáng trên những cành cây buông rủ như những vòng hoa trắng đặt bên mặt tường bao quanh một phía sân. Mấy chú ngựa thỉnh thoảng lại nện móng cồm cộp trong tàu. Ngoài ra, tất cả đều im lặng. Ba người đàn ông đã xuất hiện. Được Rochester và ông thầy thuốc dìu hai bên, trông ông Manson đi có vẻ khá thoải mái. Hai người đỡ ông ta lên xe, sau đó ông Carter cũng đi cùng. - Hãy chăm sóc ông ta cho cẩn thận nhé. – ông Rochester dặn người thầy thuốc – và nhớ là cứ để ông ta ở nhà ông cho đến khi bình phục hoàn toàn. Một hai hôm nữa tôi sẽ tới thăm xem sức khỏe ông ta như thế nào. Richard này, ông thấy thế nào rồi? - Không khí trong lành làm tôi tỉnh hẳn, Fairfax ạ.


- Cứ mở cửa sổ bên phía ông ta ngồi ra, Carter ạ, không có gió đâu mà sợ. Dick, tạm biệt nhé. - Ông Fairfax… - Nào, lại còn chuyện gì nữa đây? - Hãy để mắt tới cô ta hộ tôi nhé, cố gắng đối xử nhẹ nhàng với cô ta, hãy để cô ta… – Nói được đến đấy, ông ta bỗng nghẹn ngào và khóc nấc lên. - Tôi sẽ cố gắng hết sức như tôi đã từng làm, và tôi sẽ tiếp tục làm như thế. – Rochester trả lời và đóng cửa xe lại. Chiếc xe chuyển bánh. “Cầu Chúa cho tất cả kết thúc ở đây!” – Ông vừa lẩm bẩm thêm một câu, vừa khép những cánh cổng nặng vào. Cài then ngang xong, ông chậm rãi bước đến một ô cửa nằm giữa bức tường bao quanh vườn cây ăn quả, vẻ rất trầm tư. Nghĩ ông chẳng cần đến mình nữa, tôi định quay vào nhà, nhưng lại nghe thấy ông gọi: “Jane!”. Rồi ông mở cửa vườn và đứng đợi tôi. - Vào đây một lúc đi, không khí trong lành lắm. – Ông bảo.- Trong nhà ngột ngạt chẳng khác nào một nhà tù, cô không cảm thấy thế à? - Thưa ông, tôi thấy nó có vẻ là một tòa lâu đài tráng lệ đấy chứ. - Sự ngây thơ, thiếu từng trải hiện rõ cả trong mắt cô. Cô đã nhìn ngôi nhà qua một lăng kính mê hoặc. Cô không thể thấy rằng vàng son chỉ là bùn đất và rèm lụa chỉ là mạng nhện, cẩm thạch chỉ là thứ đá bẩn thỉu và mặt gỗ bóng lộn chỉ là những mảnh phế thải đáng vứt bỏ. Nhưng ở đây (ông chỉ vòng lá xanh rì mà chúng tôi vừa bước vào), tất cả đều chân thực, dịu êm và trong sạch. Ông lững thững bước xuống một lối nhỏ giữa hai rặng cây, một bên trồng toàn táo, lê và anh đào, còn bên chỉ toàn là loài hoa thời thượng: hoàng anh, cẩm chướng râu, anh thảo, tử la lan… bên những thảm cỏ thơm ngát. Tất cả đều tươi roi rói nhờ những trận mưa rào và cái nắng tháng Tư. Quả là một buổi sáng mùa xuân đáng yêu. Ông mặt trời vừa lấp ló sau những làn mây trắng như bông, ánh bình minh tỏa rạng rỡ trên những ngọn cây còn đẫm sương đêm và sà cả xuống những lối nhỏ yên bình dưới các vòm cây. - Jane này, cô có muốn một bông hoa không?


Ông hái tặng tôi một đóa hồng đang chúm chím nở, đóa hoa đầu tiên trong bụi hồng. - Cảm ơn ông. - Cô có thích cảnh mặt trời mọc không, Jane? Cái cảnh lãng đãng những làn mây bồng bềnh trên bầu trời vời vợi, rồi sẽ tan đi trong cái ấm nồng của buổi ban ngày kia kia? Và cả cái không khí thanh bình và thơm ngát này nữa? - Có, thưa ông. - Hẳn là cô thấy đêm qua thật là kỳ lạ, cô Jane nhỉ? - Vâng, thưa ông. - Nó làm cho cô xanh hẳn đi. Khi phải ở lại một mình với ông Manson, cô có thấy sợ không? - Tôi chỉ sợ có người từ phòng khác bất ngờ xuất hiện. - Nhưng tôi đã khóa cửa và cất chìa khóa vào túi rồi. Tôi sẽ là một thằng chăn cừu vô tâm nếu để một chú cừu non – chú cừu mà tôi yêu quý – gần hang sói mà không đề phòng gì cả. Lúc đó, cô đã được an toàn rồi. - Grace Poole tiếp tục ở lại đây chứ, thưa ông? - Ồ, đúng thế! Nhưng cô bận tâm đến cô ta làm gì, quên chuyện ấy đi. - Nhưng tôi cứ có cảm giác là ông sẽ khó lòng yên thân nếu chị ta vẫn sống ở đây. - Cô đừng bận tâm, tôi sẽ cố gắng tự lo cho mình được mà. - Sự nguy hiểm đổ lên đầu ông đêm hôm qua hiện đã kết thúc chưa, thưa ông? - Tôi không thể biết chắc điều này, chừng nào ông Manson còn chưa rời khỏi Anh quốc, và ngay cả khi ông đi rồi cũng vậy. Sống đối với tôi, Jane ạ, là đứng trên miệng một ngọn núi lửa, nó có thể nứt toác ra và phun trào bất cứ lúc nào. - Nhưng tôi thấy ông Manson cũng là người dễ bảo đấy chứ. Rõ ràng là


ông có ảnh hưởng rất lớn đối với ông ta. Ông ta sẽ chẳng bao giờ dám thách thức hoặc cố tình làm ông bị tổn thương. - Ồ, không! Làm gì có chuyện Manson thách thức tôi bao giờ, và cũng chẳng có chuyện ông ta cố tình làm hại tôi đâu. Nhưng khốn một nỗi, kể cả là vô tình, ông ta vẫn có thể báo hại tôi chỉ vì một câu nói sơ ý trong một lúc nào đó, nếu không làm hại cuộc đời tôi thì ít ra cũng làm hỏng hạnh phúc của tôi. - Vậy thì ông phải dặn ông ta giữ mồm giữ miệng, phải bảo cho ông ta biết những lo ngại của ông và chỉ cho ông ta cách tránh nguy hiểm. Ông chợt nắm chặt lấy tay tôi, cười mỉa mai, rồi lại vội vàng buông ra. - Nếu có thể làm được như vậy thì làm gì còn nguy hiểm, nàng ngốc? Cũng tùy hứng lúc thôi. Từ khi biết Manson, tôi chỉ phải bảo ông ta “hãy làm việc này đi”, và thế là ông ta thực hiện ngay. Nhưng tôi không thể ra lệnh cho ông ta trong trường hợp này, tôi không thể bảo ông ta: “Cẩn thận, không lại báo hại tôi đấy, Richard ạ”, vì tôi không thể để ông ta biết là tôi có thể bị hại được. Trông cô có vẻ mơ hồ quá nhỉ, vậy thì tôi sẽ làm cho cô mơ hồ hơn nữa. Cô là người bạn nhỏ của tôi, đúng thế không? - Thưa ông, tôi chỉ muốn phục vụ ông và làm theo lời ông trong tất cả những việc mà tôi cho là đúng. - Đúng, tôi cũng nhận thấy như vậy, tôi thấy cô thật chân thành trong cử chỉ, thái độ, ánh mắt và nụ cười mỗi khi giúp tôi một việc gì đó. Cô luôn làm tôi vui lòng mỗi khi làm việc vì tôi, những việc mà cô cho là đúng như cô vừa nói. Bởi nếu tôi bảo cô làm một việc mà cô cho là sai trái, thì chắc là cô sẽ chẳng thể bước đi nhẹ nhàng, đôi tay cô sẽ không còn khéo léo và ánh mắt, nụ cười của cô cũng sẽ chẳng còn sáng ngời và tươi tỉnh như vậy nữa. Cô bạn của tôi thế nào cũng mặt tái dại mà quay sang cãi lại rằng “Không, thưa ông, không thể được, tôi không thể làm điều đó, vì nó sai trái”, và rồi cứ trơ trơ như một ngôi sao không thể đổi ngôi, một định tinh trên bầu trời. Thế đấy, ngay cả cô cũng có mãnh lực đối với tôi và có thể còn làm tôi bị thương tổn nữa. Nhưng thú thực là tôi không dám chỉ cho cô thấy tôi có thể bị tổn thương ở điểm nào, vì cho dù có chân thành và thân ái với tôi đi chăng nữa, cô vẫn có thể đâm xuyên qua người tôi bất cứ lúc nào. - Nếu ông cảm thấy sợ tôi hơn ông Manson, thì ông đang rất an toàn rồi


đấy, thưa ông. - Cầu Chúa ban cho con điều ấy! Này, Jane, ta ngồi xuống đây đi, dưới giàn cây này này. Giàn cây được tạo thành hình vòng cung đâm vào tường, phủ những cành trường xuân, phía dưới có đặt một chiếc ghế gỗ thô. Ông Rochester ngồi một bên, bên còn lại dành cho tôi, nhưng tôi vẫn đứng trước mặt ông. - Ngồi xuống đi, ghế dài đủ cho cả hai người ngồi mà. Hay là cô thấy ngại khi phải ngồi cạnh tôi? Như thế có gì sai không, Jane? Thay vì câu trả lời, tôi nhẹ nhàng ngồi xuống, vì cảm thấy từ chối là không đúng. - Cô bạn nhỏ của tôi này, trong khi ông mặt trời còn đang mải uống từng giọt sương mai, khi các loài hoa đang bừng tỉnh giấc nồng và xòe những đôi cánh sặc sỡ trong khu vườn cổ này, khi từng cánh chim háo hức bay khỏi [60] Cánh đồng gai tìm bữa sớm cho đàn chim non đang líu lo trong tổ, khi đàn ông cần mẫn bắt đầu một ngày làm việc mới của mình, thì tôi muốn nói với cô một chuyện và cô hãy cố gắng coi đó như chuyện của chính mình nhé. Nhưng trước hết, cô hãy nhìn tôi và nói cô thấy thật dễ chịu, chứ không phải là tôi đã làm một việc sai trái khi giữ cô ở đây, hoặc là cô đã làm một việc sai trái khi nán lại đây với tôi. - Không, thưa ông, tôi rất vui lòng. - Thế thì tốt rồi, Jane ạ, hãy chịu khó tưởng tượng một chút nhé. Giả sử cô không còn là một cô gái nền nếp và được giáo dục tử tế, mà là một thằng con trai chẳng chịu học hành gì và lại được nuông chiều từ nhỏ. Cô hãy tưởng tượng cô đến một xứ sở xa lạ, rồi phạm một sai lầm nghiêm trọng – hãy tạm không quan tâm đến bản chất của sự việc và nguyên nhân của nó – nhưng hậu quả của nó lại cứ bám riết lấy cuộc đời cô và làm hỏng cả cái sự tồn tại của cô. Nhớ nhé, tôi không nói đến một tội ác nào đâu nhé, không có chuyện đổ máu hoặc một bất cứ hành động tội lỗi khiến thủ phạm có thể bị đưa ra pháp luật nào cả, tôi chỉ nói là sai lầm. Sẽ có lúc hậu quả của việc cô đã làm khiến cô không thể nào chịu đựng nổi. Cô tìm cách làm vơi đi nỗi lòng, cái cách khác thường nhưng không phải là bất hợp pháp hoặc sai trái. Nhưng cô vẫn khổ sở, vì niềm hy vọng đã vụt tắt ngay ở ranh giới của cuộc


đời cô. Ông mặt trời của cô bỗng lu mờ vì nhật thực ngay giữa trưa, khiến cô cảm cuộc đời thật tối tăm cho đến khi cái hiện tượng nhật thực ấy biến mất. Ký ức của cô chỉ rặt những liên tưởng cay đắng và đê tiện. Cô lang thangnay đây mai đó, những mong tìm lại niềm tin trong kiếp sống tha hương, niềm hạnh phúc trong thú vui tiêu khiển, ý tôi muốn nói là những thú vui xác thịt vô hình, khiến cho đầu óc cô mụ mẫm, cảm xúc của cô ngày càng cùn đi. Con tim mệt mỏi, tâm hồn úa tàn, cô trở về nhà sau những năm dài tự khổ ải mình. Thế rồi một ngày kia, cô bỗng gặp được một người – quen thế nào, ở đâu, điều đó không quan trọng – và thấy ở con người ấy nhiều đức tính tốt đẹp mà cô đã tìm suốt hai mươi năm trời nhưng vẫn chưa gặp, ấy là những đức tính tươi trẻ, lành mạnh và trong sáng. Cuộc gặp mặt như làm cô sống lại với những ngày tươi sáng hơn, mơ ước thanh cao hơn và cảm xúc trong sáng hơn. Cô mong muốn làm lại cuộc đời, muốn dành một cách xứng đáng những gì còn lại cho một cuộc đời mà cô nghĩ không thể nào chết. Để làm được điều đó, liệu cô có đủ can đảm vượt qua cản trở của tập quán, một trở ngại thuần túy mang tính quy ước, trong khi lương tâm và óc phán quyết của cô đều không chấp nhận không? Rochester ngừng lại đợi câu trả lời, nhưng tôi biết trả lời thế nào chứ? Ôi! Giá như có một vị thần linh tốt bụng gợi nhắc tôi câu trả lời chí lý và thỏa đáng thì hay biết mấy! Đúng là một mong ước hão huyền! Một làn gió tây thoảng qua những ngọn trường xuân ngay gần tôi, nhưng không có vị thần linh nhân hậu nào mượn hơi thở của làn gió mang đến cho tôi những câu nói chân tình. Những chú chim vẫn hót líu lo trên cành, những tiếng hót của chúng, dù rất êm dịu, cũng chẳng nói với tôi được điều gì. Ông Rochester lại hỏi: - Người đàn ông sống lang bạt kỳ hồ và đầy tội lỗi kia, giờ đã biết hối hận và không còn thiết gì kiếp tha hương ấy, có được phép đương đầu với dư luận của người đời để gắn bó mình với người con gái nết na, đôn hậu và đáng yêu kia, để nhờ đó mà giữ thanh thản cho tâm hồn và làm sống lại cuộc đời mình không? - Thưa ông, – tôi trả lời – sự lui mình về một chỗ của một người quen sống lang bạt và sự làm lại cuộc đời của một tội đồ, đừng nên bao giờ để phụ thuộc vào một kẻ đồng loại. Dù là đàn ông hay đàn bà thì cũng đều phải chết, các triết gia thì phải thông thái, còn làm con chiên thì phải có lòng từ thiện. Người ông vừa kể, dù là bất cứ ai, nếu đã đau khổ và sai lầm, thì hãy


để anh ta nhìn cao hơn những người bình thường để tìm lại sức mạnh mà tự sửa chữa, tìm lấy nguồn an ủi để mà hàn gắn. - Nhưng còn công cụ… công cụ! Chúa, người sáng tạo ra lao động, đã định ra phương tiện. Thú thực, tôi – giống như kẻ đã nói trong câu chuyện ngụ ý vừa rồi – từng là một kẻ ăn chơi, phóng đãng, lang bạt kỳ hồ ấy. Và tôi tin rằng mình đã tìm được công cụ để thoát khỏi cảnh bế tắc ở … Ông ngừng lại, tiếng chim vẫn líu lo lẫn tiếng gió xì xào nhè nhẹ. Tôi bỗng thấy lạ là tại sao tiếng chim hót, tiếng lá xào xạc không ngừng để nghe những lời thổ lộ của ông. Cuối cùng, tôi ngước mặt nhìn người nói chuyện với mình, ông đang lặng lẽ nhìn tôi. - Cô bạn nhỏ ạ, – ông nói, giọng khác hẳn, cả vẻ mặt cũng vậy, mất hết những nét hiền hậu và nghiêm nghị, thay vào đó là sự cứng nhắc và mỉa mai – chắc cô cũng để ý thấy rằng tôi có thiên hướng nghiêng về cô Ingram, vậy cô có nghĩ rằng nếu tôi cưới cô ta thì cô ta có thể sẽ lại làm trỗi dậy trong tôi một sự hằn thù không? Ông bỗng đứng bật dậy, đi đến cuối lối nhỏ, rồi lại quay về, vừa đi vừa khẽ hát. - Jane à, – ông dừng lại trước mặt tôi – trông cô xanh hẳn đi vì thức đêm. Cô không nguyền rủa tôi vì đã làm cô mất giấc ngủ chứ? - Nguyền rủa ư? Không, thưa ông. - Thế thì phải bắt tay xác nhận chứ nhỉ? Sao tay cô lạnh thế! Đêm hôm qua, khi được nắm tay cô lúc đứng trước cửa căn phòng bí ẩn ấy, tôi thấy ấm áp hơn nhiều. Jane này, không biết có bao giờ cô lại thức đêm với tôi nữa không nhỉ? - Bất cứ lúc nào, nếu tôi thấy điều đó giúp ích cho ông. - Ví dụ như đêm trước ngày cưới của tôi! Chắc chắn là tôi sẽ không thể ngủ được. Cô hứa sẽ thức cùng với tôi cho có bầu có bạn chứ? Tôi có thể nói về tình yêu của tôi với cô, vì bây giờ cô đã nhìn thấy và đã biết cô ta. - Vâng, thưa ông. - Cô ấy là một người hiếm có, đúng không, Jane?


- Vâng, thưa ông. - Một người khỏe mạnh, khỏe mạnh thực sự, Jane ạ. Trông cô ta phốp pháp, nở nang, da nâu, có mái tóc dài như tóc của các quý cô ở Carthage. Chúa ơi! Ông Dent và Lynn đã ra chuồng ngựa rồi! Cô vào nhà đi, theo rặng cây um tùm mà vào ô cửa nhỏ kia kìa. Chúng tôi chia tay nhau, mỗi người đi một ngả. Khi vào nhà, tôi còn nghe thấy ông nói ngoài sân, giọng rất vui vẻ: - Sáng hôm nay, ông Manson đã dậy sớm hơn tất cả các vị và đã đi từ trước lúc mặt trời rồi. Tôi phải dậy từ bốn giờ để tiễn ông ta.



Chương 21 Linh cảm của con người quả là kỳ diệu! Cả sự giao cảm và điềm báo cũng vậy, cả ba hợp thành một sự huyền bí mà con người vẫn chưa tìm ra chìa khóa để lý giải. Từ nhỏ đến giờ, tôi chưa bao giờ dám coi thường linh cảm, vì bản thân tôi đã từng có những linh cảm kỳ lạ của riêng mình. Giao cảm cũng là điều tôi tin là có thật, nhưng nó vượt ra ngoài khả năng hiểu biết của chúng ta, còn điềm báo, theo như bản năng chúng ta biết, có thể chỉ là sự giao cảm của tự nhiên với con người. Hồi tôi mới lên sau, một đêm tôi nghe thấy chị Bessie Leaven bảo Martha Abbot rằng chị đã chiêm bao thấy một đứa trẻ và mơ thấy trẻ nhỏ chắc chắn là một dấu hiệu xấu; nếu không gở cho bản thân mình thì cũng gở cho người thân. Có lẽ tôi sẽ chẳng nhớ tới câu nói ấy nếu sau đó không xảy ra một chuyện hằn sâu vào đầu óc tôi đến tận bây giờ; ngay ngày hôm sau, chị Bessie bị gọi về nhà vì cái chết của đứa em gái. Gần đây, tôi bỗng rất hay nhớ đến lời nói và sự việc ấy, vì suốt cả tuần vừa rồi, hầu như không có đêm nào tôi không nằm mơ thấy một đứa trẻ. Lúc thì tôi ẵm nó trên tay, lúc đặt nó vào lòng, thỉnh thoảng lại ngồi nhìn nó chơi với những bông cúc trên thảm cỏ hoặc thấy nó thò tay xuống một dòng nước chảy. Đêm nay tôi chiêm bao thấy một hài nhi đang khóc, đêm mai lại mơ thấy một đứa trẻ đang cười, có lúc nó nép vào người tôi, có lúc lại chạy trốn tôi. Nhưng dù mơ thấy đứa trẻ ở một trạng thái nào đi nữa thì trong suốt bảy đêm liền, hễ tôi cứ bắt đầu thiếp đi là nó lại hiện ra. Tôi thật không thích cái sự lặp đi lặp lại mãi của một hình ảnh quái đản như vậy. Thú thực là tôi đâm ra lo sợ thực sự khi gần đến giờ đi ngủ, tức là khi ảo ảnh ấy lại sắp sửa hiện ra. Cái đêm trăng sáng có tiếng kêu khiến tôi choàng tỉnh cũng chính là một trong những đêm tôi mơ thấy con ma hài nhi ấy. Và đến trưa hôm sau, tôi phải xuống dưới nhà vì được báo có người đang đợi gặp tôi ở phòng bà Fairfax. Xuống tới nơi, tôi thấy một người đàn ông ra dáng một gia nhân của một quý ông sang trọng nào đó. Anh ta mặc đồ tang, chiếc mũ cầm trên tay cũng được quấn băng tang. - Thưa cô, chắc là cô chẳng nhận ra tôi, – anh đứng dậy nói khi thấy tôi bước vào – Tôi là Leaven đây. Tôi làm người đánh xa ngựa cho bà Reed từ hồi cô còn sống ở Gateshead. Đã tám chín năm trôi qua rồi, hiện tôi vẫn đang


sống ở đấy. - Ôi, anh Robert! Anh vẫn khỏe chứ? Tôi vẫn thừa sức nhận ra anh. Hồi còn ở đấy, thỉnh thoảng anh vẫn cho tôi cưỡi con ngựa non của Georgiana. Thế chị Bessie ra sao? Anh đã lấy chị Bessie phải không? - Vâng, thưa cô, vợ tôi vẫn khỏe. Cám ơn cô, hai tháng trước, cô ấy lại cho tôi thêm một cháu nữa, đều mẹ tròn con vuông cả. Vậy là bây giờ chúng tôi có ba đứa rồi đấy. - Thế còn gia đình bà chủ thì thế nào, anh Robert? - Tôi rất lấy làm tiếc vì không thể mang tới cho cô những tin tốt lành về gia đình ấy, thưa cô. Hiện giờ họ đang trong cơn bĩ cực, đang gặp họa lớn. - Mong rằng không có ai chết. – Tôi nói và liếc nhìn bộ đồ đen anh đang mặc, và anh ta cũng liếc nhìn xuống chiếc băng tang quấn quanh mũ, đáp lại: - Cậu John đã mất rồi, tại nhà của cậu ở Luân Đôn, tính đến hôm qua là tròn một tuần. - Cậu John ư? - Vâng. - Thế mẹ cậu ta chịu đựng thế nào với cái tin ấy? - Cô Eyre ạ, tôi xin được nói để cô hình dung tại sao đây không phải là một câu chuyện đau lòng thường tình. John sống thác loạn quá, suốt ba năm vừa rồi, cậu ta đã lao vào những kiểu ăn chơi quái dị và cái chết của cậu ta quả là một cú sốc. - Tôi cũng đã được nghe chị Bessie kể về tính hư đốn của cậu ta. - Hư đốn! Cậu ta không thể làm gì tồi tệ hơn được nữa. Cậu ta đã tự hủy hoại sức khỏe, rồi ném tiền của ra cửa sổ vì những bọn đàn ông, đàn bà đồi bại nhất. Nợ ngập đầu rồi bị đẩy vào tù, khiến bà mẹ phải hai lần lo lót cho thoát tội, thế mà rồi lại chứng nào tật nấy, lại giao du với bọn bạn cũ. John là một thằng đần độn, bị bọn lừa đảo nó lôi kéo mà chẳng biết gì cả. Khoảng ba tuần trước, cậu ta mò về Gateshead và đòi bà Reed phải đưa hết của cải cho mình. Bà chủ không chịu, vì của cải trong nhà đã cạn dần do cái thói chơi bời


phóng đãng thái quá của cậu ta. Thế là cậu ta lại bỏ đi, và sau đó có tin cậu ta chết. Chết ra sau thì chỉ có Chúa mới biết! Có người nói là cậu ta tự tử. Tôi lặng im. Những tin tức đến tai tôi sao mà khủng khiếp đến thế! - Thỉnh thoảng bà chủ lại ngã bệnh, – Robert Leaven nói tiếp – người bà béo mập nhưng lại rất yếu. Nỗi buồn mất tiền mất của và nỗi lo nghèo túng đã khiến bà quỵ hẳn. Tin về cái chết bất ngờ của cậu John chẳng khác nào sét đánh ngang tai bà. Suốt ba ngày liền bà không nói được câu nào, nhưng đến thứ ba vừa rồi bà có vẻ khá hơn một chút. Bà ra hiệu cho vợ tôi, miệng mấp máy thều thào như định bảo điều gì. Nhưng chỉ đến sáng hôm qua vợ tôi mới hiểu bà định nói đến cô, cuối cùng bà mới thều thào nói được một câu: “Gọi con Jane về đây, đi tìm Jane Eyre về đây, tôi muốn nói với nó”. Bessie không chắc đầu óc bà có minh mẫn hay không và cũng không hiểu bà nói thế là có ý gì, nhưng vẫn cứ nói lại cho cô Reed và cô Georgiana biết và khuyên họ cho người đi tìm cô. Lúc đầu các cô ấy gạt phắt đi, nhưng thấy bà mẹ nằm không yên, lại luôn mồm gọi “Jane”, “Jane”, nên cuối cùng đã đồng ý. Tôi rời Gateshead vào hôm qua, và nếu cô sẵn sàng thì sáng sớm mai, tôi xin phép được đưa cô về luôn thể, thưa cô. - Được, anh Robert ạ, tôi sẽ về, tôi thấy có lẽ mình phải về. - Tôi cũng nghĩ thế, thưa cô. Bessie bảo thế nào cô cũng sẽ không từ chối, nhưng tôi nghĩ cô còn phải xin phép ở đây trước khi về, phải không ạ? - Vâng, tôi xin phép bây giờ đây. Sau khi dẫn Robert vào phòng gia nhân và nhờ vợ chồng nhà John tiếp chuyện hộ, tôi đi tìm ông Rochester. Tôi đi khắp các phòng dưới nhà, rồi ngoài sân, chuồn ngựa và cả trong vườn cũng không thấy ông chủ đâu. Tôi hỏi bà Fairfax, bà cho biết là ông đang chơi bi-a với cô Ingram. Tôi vội vàng đến phòng bi-a. Có tiếng bi-a và vào nhau kêu đôm đốp và tiếng người rì rầm bên trong. Ông Rochester, cô Ingram, hai chị em Eshton và những người ngưỡng mộ họ đều đang mải mê với cuộc chơi. Phải can đảm lắm mới dám quấy nhiễu một cuộc chơi thú vị như vậy, nhưng vì không thể chậm trễ nên tôi cứ liều mạng tiến lại phía ông chủ khi ông đang đứng cạnh cô Ingram. Thấy tôi tới, cô ta quay ra nhìn tôi, vẻ ngạo mạn, ánh mắt xét nét như muốn hỏi: “Đồ sâu bọ, mày muốn gì nào?”. Và khi nghe tôi khẽ gọi: “Ông Rochester”, cô ta có một cử chỉ như


định đuổi tôi ra ngoài. Tôi vẫn nhớ điệu bộ cô ta lúc ấy, trông yêu kiều và nổi bật lắm! Vì say sưa với cuộc chơi nên những nét ngạo mạn trên khuôn mặt cô ta không bị làm lu mờ bởi cơn tức giận do sự xuất hiện đường đột của tôi gây ra. - Có phải người này muốn tìm ông không? – Cô ta hỏi ông Rochester. Ông quay lại xem “người này” là ai, rồi nhăn mặt lại một cách kỳ lạ – một trong những thái độ lạ lùng và không rõ của ông – trước khi quẳng cái gậy bia xuống đất và bước theo tôi ra khỏi phòng. - Có chuyện gì vậy, cô Jane? – Ông đứng tựa lưng vào cửa phòng học vừa được đóng lại và hỏi tôi. - Thưa ông, tôi muốn vắng mặt khoảng một vài tuần, được không ạ. - Để làm gì?... Mà đi đâu chứ? - Đi thăm một bà ốm, bà ấy vừa cho người đến gọi tôi. - Bà ốm nào?... Bà ta ở đâu? - Ở Gateshead, thuộc quận… - Quận…? Cách đây những một trăm dặm! Bà ta là gì mà lại cho người ở xa thế đến gặp cô? - Tên bà ấy là Reed, thưa ông,… bà Reed. - Reed ở Gateshead chứ gì? Có một người tên là Reed ở Gateshead, ông ta là quan hành chính địa phương. - Thưa ông, bà Reed chính là vợ góa của ông ấy! - Thế cô có liên quan gì đến bà ấy? Làm sao cô biết bà ta? - Ông Reed là cậu tôi, tức là em mẹ tôi. - Lạ thật đấy! Có bao giờ tôi thấy cô nhắc đến chuyện này đâu, cô chẳng bảo không còn họ hàng thân thích là gì? - Thưa ông, chẳng còn người bà con nào nhìn nhận tôi nữa. Sau khi ông Reed qua đời, bà vợ ông ấy đã đuổi tôi đi.


- Sao vậy? - Vì tôi nghèo nên là gánh nặng cho bà ấy, và vốn dĩ bà ấy cũng chẳng thích gì tôi. - Nhưng ông Reed có con kia mà… Cô phải có anh chị em họ nữa chứ? Hôm qua ông George Lynn cũng có nói về một người tên là Reed ở Gateshead. Người mà ông ta kể chuyện là một tay thuộc loại bất lương nhất trong thị trấn. Cô Ingram cũng có nhắc đến một người tên là Georgiana Reed nào đó ở đấy, và bảo khoảng một hai năm trước, ở Luân Đôn, người ta ca ngợi sắc đẹp của cô ta ghê lắm thì phải. - John Reed cũng chết rồi, thưa ông. Hắn không chỉ hủy hoại chính mình mà còn làm cho cả gia đình gần như bại sản nữa. Thấy đồn là hắn tự tử. Tin xấu ấy đã khiến bà mẹ bị sốc và nằm liệt giường luôn. - Nhưng cô về thì làm được cái gì cho bà ta chứ? Thật vô lý quá đi, cô Jane ạ! Tôi không thể tưởng tượng nổi chuyện phải chạy một trăm dặm đường để về thăm một bà già bị ốm, mà rất có thể là khi cô về đến nơi thì bà ấy đã chết rồi. Hơn nữa, cô vừa bảo là bà ta đã đuổi cô đi kia mà. - Vâng, thưa ông, nhưng chuyện xảy ra cũng lâu rồi, bây giờ hoàn cảnh của bà ta khác xa ngày trước. Làm sao tôi đành lòng bỏ qua ý nguyện của bà ấy dễ dàng như vậy được. - Cô sẽ ở lại đấy bao lâu? - Thưa ông, càng ngắn càng tốt. - Cô hãy hứa với tôi là chỉ ở lại một tuần thôi đi. - Tôi thấy tốt hơn hết là đừng nên hứa trước một điều gì cả, vì biết đâu tôi lại buộc phải thất hứa thì sao? - Dù thế nào đi chăng nữa thì cũng sẽ phải trở lại đây. Cô sẽ không ở lại mãi với bà ta vì bất cứ lý do gì chứ? - Ồ, không! Chắc chắn là thế nào tôi cũng quay lại nếu mọi chuyện được giải quyết ổn thỏa.


- Thế cô đi cùng ai? Cô không đi một thân một mình trên chặng đường dài như vậy chứ? - Không, thưa ông, bà ta đã cho người đánh xe ngựa đến tìm tôi mà. - Một người có đáng tin cậy không? - Có, thưa ông, anh ta sống với gia đình ấy đã mười năm rồi. Ông Rochester vẫn có vẻ chưa yên: “Thế cô muốn đi vào lúc nào?” - Sáng sớm mai, thưa ông. - Thôi được, nhưng cô phải cầm theo ít tiền, không thể đi xa mà không mang tiền được. Chắc là bây giờ cô cũng chẳng có bao nhiêu, vì tôi đã trả lương cho cô đâu. Cô có cả thảy được bao nhiêu, Jane? – Ông mỉm cười hỏi tôi. Tôi rút hầu bao nhẹ như không của mình ra. “Năm silinh, thưa ông”. Rochester cầm túi tiền, dốc cả vào lòng bàn tay và bật cười, vẻ rất thích thú khi trông thấy những đồng tiền ít ỏi của tôi. Rồi ông rút ví ra, lấy một tờ giấy bạc năm mươi bảng đưa cho tôi và bảo: “Đây!”. Nhưng ông chỉ phải trả tôi có mười lăm thôi! Tôi nói với ông rằng tôi không có tiền trả lại. - Cô biết đấy, tôi đâu cần tiền trả lại của cô. Cầm lấy tiền lương của cô đi. Tôi không chịu lấy quá số lương mà tôi được hưởng. Lúc đầu ông cau mặt lại, nhưng rồi như nhớ ra điều gì, ông lại nói: - Đúng rồi, đúng rồi! Tốt hơn hết là không nên đưa cả cho cô lúc này, nếu có năm mươi bảng, biết đâu cô lại ở lỳ cả ba tháng thì chết tôi. Có mười bảng đây rồi, như thế đủ không? - Thưa ông, đủ, nhưng bây giờ ông lại thiếu tôi năm bảng. - Vâng, thì khi nào quay lại đây tôi sẽ trả nốt. Tôi sẽ giữ quỹ hộ cô bốn mươi bảng. - Ông Rochester, nhân dịp này, tôi cũng xin được nói luôn với ông một công việc khác. - Công việc à? Tôi đang sốt ruột muốn biết đấy.


- Đã có lần ông bảo tôi là ông sắp lấy vợ, có phải không ạ? - Phải, thế thì sao? - Thì Adèle phải được gửi đến trường nội trú, thưa ông, tôi tin là ông cũng nhận thấy mức độ quan trọng của việc làm đó. - Để tránh cho Adèle khỏi vướng chân vợ tôi, nếu không vợ tôi lại làm khổ nó chứ gì. Cô nói hay đấy. Đúng rồi, Adèle phải đến trường như cô nói. Còn cô, dĩ nhiên cô sẽ biến thẳng đến một nơi… quái quỷ nào đó, phải không? - Tôi không nghĩ là như vậy, thưa ông, nhưng tôi phải tìm một công việc khác ở một nơi khác. - Tất nhiên rồi! – Ông kêu lên, giọng cao vống, mặt cau lại nom đến buồn cười, rồi im lặng nhìn tôi vài phút. - Chắc là cô lại cầu khẩn bà già Reed, hoặc mấy cô con gái bà tìm một chỗ mới cho cô chứ gì. - Không, thưa ông, quan hệ của tôi với bà con họ hàng chẳng tốt đến mức để tôi có thể nhờ vả họ như vậy được… nhưng tôi sẽ lại đăng báo. - Rồi cô sẽ được lên các đỉnh kim tự tháp Ai Cập! – Ông mỉa mai. – Cô không biết là đăng báo có thể sẽ đưa cô đến chỗ nguy hại sao! Biết thế thì lúc nãy tôi chỉ đưa cho cô một đồng thay vì mười bảng cho xong. Cô đưa trả lại tôi chín bảng đây, Jane. Tôi có việc phải dùng đến số tiền ấy. - Nhưng tôi cũng cần, thưa ông. – Tôi trả lời, tay cầm túi tiền giấu ra sau lưng. – Tôi không thể không cầm số tiền này vì bất cứ lý do gì. - Cô bé keo kiệt! – Có mấy đồng bạc mà cũng từ chối tôi! Đưa cho tôi năm bảng vậy, Jane. - Thưa ông, không phải là năm silinh, mà đến năm xu cũng không được. - Vậy thì cho tôi nhìn chỗ tiền ấy thôi cũng được. - Không, thưa ông, không thể tin được ông.


- Jane! - Thưa ông? - Hãy hứa với tôi một điều. - Tôi sẽ hứa với ông bất cứ điều gì mà tôi nghĩ mình có thể làm được. - Cô không được đăng báo tìm việc mà hãy để tôi đảm nhiệm việc ấy cho cô. Tôi sẽ kịp tìm cho cô một việc. - Vâng, tôi xin vui lòng hứa với ông như vậy nếu ngược lại, ông cũng hứa rằng cả tôi và Adèle được rời khỏi đây trước khi ông đón cô dâu về. - Rất tốt! Rất tốt! Tôi xin hứa. Thế ngày mai cô mới đi chứ? - Vâng, thưa ông, đi từ sớm. - Sau bữa chiều cô có xuống phòng khách nữa không. - Không, tôi phải chuẩn bị cho chuyến đi. - Vậy là cô và tôi phải chia tay nhau trong một thời gian ngắn? - Thưa ông, tôi cũng nghĩ thế. - Vậy thì người ta làm lễ tống biệt hành như thế nào nhỉ, Jane? Cô bảo tôi với, tôi chẳng biết gì về lễ tiết cả. - Người ta nói tạm biệt, hoặc bất cứ lời nào người ta cảm thấy thích. - Vậy thì cô nói đi. - Tạm biệt ông Rochester, chúng ta tạm chia tay nhau. - Còn tôi phải nói gì? - Ông cũng có thể nói như vậy nếu muốn, thưa ông. - Tạm biệt cô Eyre, chúng ta tạm chia tay nhau. Nhưng tất cả chỉ có thế thôi sao? - Vâng.


- Tôi thấy nếu chỉ có vậy thì khô khan, cụt ngủn và chẳng thân mật tí nào cả. Tôi muốn phải có một cái gì khác, một chút gì thêm vào cái nghi lễ ấy, như bắt tay nhau chẳng hạn. Nhưng không, như thế cũng chưa đủ để tôi hài lòng. Chẳng lẽ cô không thể nói gì hơn ngoài cái câu “tạm biệt” sao, Jane? - Thế là đủ rồi, thưa ông. Nói ra bằng sự chân thành tự đáy lòng mình thì đâu cần phải nhiều lời làm gì. - Rất có thể là như vậy, nhưng cái câu “tạm biệt” ấy có vẻ sáo rỗng và lạnh lùng lắm. “Không biết ông ấy định đứng dựa cửa như vậy đến bao giờ? – Tôi tự hỏi. – Mình còn phải chuẩn bị hành lý chứ”. Tiếng chuông báo giờ ăn chiều vang lên, và đột nhiên ông bỏ đi mà không nói thêm một lời nào. Thời gian còn lại ngày hôm ấy tôi không gặp ông nữa. Sáng hôm sau, tôi lặng lẽ ra đi khi ông còn chưa dậy. Tôi về đế nhà chòi của lâu đài Gateshead vào khoảng năm giờ chiều ngày mồng một tháng Năm. Trước khi lên phòng lớn, tôi vào thăm nhà chòi này trước. Căn nhà rất sạch sẽ và ngăn nắp, các ô cửa sổ trang trí đều được treo rèm trắng, sàn nhà không một vết nhơ, lò sưởi và que cời lửa cũng được đánh sáng bóng, lửa trong lò sáng rực. Bessie đang ngồi bên lò vỗ về đứa con út, còn Robert và đứa em gái thì lặng lẽ ngồi chơi ở một góc. - Cầu Chúa phù hộ cho cô! Tôi biết thế nào cô cũng về mà. – Leaven reo lên khi nhận thấy tôi bước vào. - Vâng, chào chị Bessie, – Tôi nói sau khi hôn đứa con chị – và em tin là em đã không về quá muộn. Bà Reed ra sao rồi? Hy vọng là bà ấy vẫn còn sống. - Vâng, bà ấy còn sống và có vẻ tỉnh táo, bình tĩnh hơn mấy hôm trước. Nhưng ông bác sĩ bảo bà chỉ còn sống được khoảng một hai tuần nữa thôi, không thể bình phục được đâu. - Gần đây bà ấy có nhắc đến em không? - Đến sáng hôm nay mới lại thấy bà ấy nhắc đến cô và mong cô về, nhưng bà ấy lại vừa mới ngủ được khoảng mười lăm phút. Gọi là ngủ chứ thực ra bà ấy cứ lịm đi, mê man suốt buổi chiều và chỉ tỉnh vào lúc sáu bảy


giờ. Cô cứ ngồi nghỉ tạm ở đây khoảng một tiếng, sau đó tôi sẽ đưa cô lên nhà, được không ạ? Robert bước vào, Bessie đặt đứa con đang ngủ vào nôi rồi ra đón chồng. Sau đó chị khẩn khoản bảo tôi bỏ mũ, ngồi uống trà, vì chị bảo trông tôi xanh xao, mệt mỏi lắm. Tôi vui lòng đón nhận sự chăm sóc ân cần của chị chủ nhà và cứ ngồi im để chị cởi giùm chiếc áo đi đường trên người, giống như hồi nhỏ tôi vẫn ngồi để chị thay áo cho. Những hình ảnh xưa cũ một thuở bỗng lập tức trở lại trong tâm tưởng của tôi khi tôi được ngồi ngắm cái dáng vẻ tất bật, vất vả với công việc của Bessie: chị bày tách sứ vào khay, cắt bánh, phết bơ, rồi thỉnh thoảng lại vỗ nhẹ một cái vào mông thằng nhóc Robert và cô bé Jane hoặc kéo chúng sang một bên, giống như chị vẫn thường làm với tôi ngày tôi còn bé. Chị vẫn giữ được cái tính sôi nổi, bước chân nhẹ nhàng và đôi mắt dễ nhìn của ngày xưa. Trà pha xong, tôi định bước lại chỗ bàn trà nhưng vẫn bằng cái giọng nghiêm nghị như hồi nào, chị ta ra lệnh cho tôi cứ ngồi yên tại chỗ. Chị bảo tôi phải ngồi uống trà ngay bên cạnh lò sưởi, rồi chị đặt một chiếc bàn tròn nhỏ trước mặt tôi, trên để một chén trà và một dĩa bánh nướng, y như trước kia chị vẫn đặt tôi ngồi ghế trong buồng trẻ và giấu kẹo bánh cho tôi ăn. Tôi mỉm cười vâng lời chị như hồi còn bé. Chị muốn biết ở lâu đài Thornfield, tôi có được dễ chịu không, bà chủ ở đấy là người thế nào. Khi tôi nói ở đó chỉ có ông chủ thôi, chị lại hỏi ông ta có tốt không và tôi có ưa ông ấy không. Tôi bảo ông chủ là người tương đối xấu trai, nhưng được cái lịch thiệp và đối xử rất tốt với tôi, khiến tôi rất hài lòng. Rồi tôi kể cho chị nghe chuyện ông chủ mời bạn bè, khách khứa đến vui vẻ ở lâu đài. Chị ngồi im lắng nghe từng chi tiết của câu chuyện, vẻ rất say sưa và thích thú loại chuyện này. Mải nói chuyện nên một giờ đồng hồ trôi qua cũng rất nhanh. Chị Bessie đưa mũ và các thứ cho tôi, rồi dẫn tôi lên phòng lớn. Gần chín năm trước, tôi đã cùng chị theo lối này đi xuống, cái lối mà hiện giờ chúng tôi đang cùng nhau đi lên. Tôi đã từng từ bỏ mái nhà thù ghét này vào một buổi sáng tháng Giêng mờ hơi sương, âm u và lạnh lẽo, trong một tâm trạng tuyệt vọng và cay đắng để tìm đến Lowood – một nơi hoàn toàn xa lạ. Cũng vẫn cái mái nhà thù ghét ấy giờ lại hiện ra trước mặt tôi, khi mà mọi viễn cảnh của đời tôi vẫn còn mờ mịt và lòng tôi còn chưa hết đi những nỗi đau. Tôi vẫn cản thấy mình


là một kẻ lang thang trên mặt đất này, chỉ có điều tôi đã biết trải nghiệm với một niềm tin vững chắc hơn ở bản thân và ở nghị lực của chính mình, không sợ hãi héo hon trước áp bức. Vết thương do những khiếm khuyết của tôi gây nên cũng đã lành lặn hoàn toàn và ngọn lửa căm hận trong tôi cũng đã tắt tự lúc nào. - Cô vào phòng điểm tâm trước đi. – Lúc dẫn tôi qua phòng lớn, Bessie bảo tôi. – Rồi các cô ấy cũng sẽ đến cả đấy. Tôi bước vào phòng. Mọi thứ vẫn y nguyên như buổi sáng tôi được giới thiệu với ông Brocklehurst lần đầu tiên. Tấm thảm đặt trước lò sưởi kia chính là chỗ ông ta đã từng đứng. Liếc mắt nhìn giá sách, tôi tin là mình vẫn nhận ra hai tập Lịch sử các loài chim Anh quốc của Bewick đặt nguyên chỗ cũ ở ngăn thứ ba và hai cuốn truyện Những cuộc phiêu lưu của Gulliver và Những đêm [61] Arập ở ngay bên trên. Những vật vô tri vô giác ấy vẫn y như hồi nào, vậy mà con người ở đây lại thay đổi nhiều quá, đến mức khó mà nhận ra được. Hai người con gái hiện ra trước mặt tôi. Một cô cao lớn gần bằng cô Ingram, nhưng cũng rất mảnh mai, khuôn mặt vàng bủng và khắc nghiệt. Trong ánh mắt cô có một cái gì đó thật khổ hạnh và sự khổ hạnh ấy càng bộc lộ rõ hơn vì cái áo dài đen cổ cứng quá ư là giản dị mà cô đang mặc trên người và mái tóc vén ra sau tai để lộ trơ cả hai thái dương, đã thế cô lại đeo chuỗi hạt có đính một cây thánh giá nhỏ. Tôi tin chắc đó là Eliza, cho dù tôi chẳng nhận ra mấy nét quen thuộc của ngày xưa trên khuôn mặt giờ có vẻ dài ra và nhợt nhạt của cô ta. Cô còn lại chắc là Georgiana, nhưng không phải hình ảnh Georgiana trong trí nhớ của tôi, một con bé mười một tuổi mảnh mai như một cô tiên mà là một thiếu nữ đã trưởng thành, với khuôn mặt hài hòa và xinh đẹp, đôi mắt xanh, mái tóc vàng uốn quăn, người cân đối và đầy đặn đẹp như một pho tượng bằng sáp. Cô cũng mặc áo đen, nhưng kiểu cách lại khác hẳn áo của cô chị – áo của cô em trông có vẻ sành điệu hơn, trong khi cô chị ăn mặc đúng như một tu sĩ khổ hạnh thực sự. Mỗi cô đều có một nét giống mẹ và chỉ có một nét thôi. Cô chị mảnh dẻ, có nước da tai tái được thừa hưởng từ mẹ đôi mắt nâu tối, còn cô em căng tràn sức sống thì mang dấu ấn của mẹ ở cái cằm và cái quai hàm – trong thì mềm mại hơn thật đấy, nhưng vẫn tạo cho cô ta một vẻ cứng nhắc khó tả nếu không muốn nói là có phần gợi dục.


Thấy tôi bước vào, cả hai người cùng đứng dậy đón chào và gọi tôi bằng cái tên “chị Eyre”. Eliza không cười, chào tôi bằng giọng cụt lủn rồi lại ngồi xuống, mắt nhìn đăm đăm vào ngọn lửa, vẻ như quên ngay sự có mặt của tôi. Georgiana thêm vào lời hỏi thăm “Chị vẫn khỏe chứ?” vài câu xã giao về chuyến đi của tôi và chuyện thời tiết… Cô ta kéo dài giọng và thỉnh thoảng lại liếc nhìn tôi từ đầu đến chân để cân đo những thứ tôi đang mang trên người. Hai chị em nhà này có cái kiểu rất khéo khi làm cho bạn biết họ đang nghĩ bạn là “nhà quê” mà chẳng cần phải nói ra nửa lời! Quả thực là ánh mắt lạnh lùng, thái độ khinh khỉnh và giọng nói hững hờ cũng đủ để họ bày tỏ cảm nghĩ của mình mà chẳng cần phải thể hiện bằng một lời nói hoặc hành động cụ thể nào. Tuy nhiên, cái kiểu cười khinh miệt ấy, dù kín hay lộ thì lúc này chẳng còn nghĩa lý gì đối với tôi, vì tôi đâu còn như xưa. Ngồi giữa hai người bà con của mình, tôi bỗng ngạc nhiên khi nhận thấy mình thoải mái chừng nào trước mặt một người hoàn toàn thờ ơ, còn một người ra cái vẻ rất quan tâm. Nói thẳng ra rằng thái độ của Eliza đã chẳng làm tôi thấy nhục, cử chỉ của Georgiana cũng không khiến tôi bực mình, vì thực ra tôi còn có nhiều chuyện khác phải suy nghĩ. Mấy tháng gần đây, mọi tình cảm trong tôi đều đã bị xáo động, cảm giác đau đớn và vui sướng trong tôi còn mạnh hơn những cảm xúc mà họ có thể gây ra cho tôi. Vì vậy, mọi cử chỉ và thái độ của họ, dù tốt hay xấu, đều không làm tôi phải bận tâm. - Mợ Reed sao rồi? – Tôi hỏi và điềm nhiên nhìn Georgiana. Có vẻ như cô ta đang thầm nghĩ rằng cần phải chặn ngay cái kiểu hỏi thẳng như một sự tự do quá trớn của tôi thì phải. - Mợ Reed ư? Thì ra cô muốn nhắc đến mẹ tôi. Mẹ tôi hiện đang cực kỳ yếu, tôi không biết là chị còn có thể được gặp mẹ tôi tối nay được không. - Giá như các cô vui lòng lên gác bảo bà là tôi đã đến, – tôi nói – thì tôi cảm ơn lắm. Georgiana gần như giật mình, đôi mắt xanh tròn xoe nhìn tôi. “Tôi biết bà đang có ý nguyện muốn gặp tôi, – tôi nói tiếp – vì vậy tôi không muốn làm bà mất vui quá mức cần thiết”. - Buổi tối mẹ không muốn bị ai quấy rầy. – Eliza lưu ý tôi.


Tôi đứng bật dậy, lặng lẽ bỏ mũ tháo bao tay và bảo rằng tôi muốn xuống gặp chị Bessie – tôi tin là chị đang ở dưới bếp – để nhờ chị hỏi hộ xem tối nay bà Reed có muốn cho tôi gặp hay không? Chẳng đợi người mời, tôi bỏ đi tìm chị Bessie để nhờ vả. Nhưng sau khi nhờ xong rồi, tôi lại đắn đo xem mình phải tiếp tục làm gì. Từ trước tới nay, tôi vẫn có thói bất cần trước sự ngạo mạn của người khác. Nếu một năm trước tôi bị khinh miệt như ngày hôm nay, thì thế nào tôi cũng quyết định ra khỏi cái lâu đài Gateshead này ngay lập tức. Nhưng bây giờ tôi lại thấy làm như vậy là ngu ngốc. Chẳng gì thì tôi cũng đã đi cả trăm dặm đường để về thăm một bà mợ, vì vậy tôi phải nán lại cho đến khi bà khá hơn – hoặc khi bà trút hơi thở cuối cùng, còn cái kiểu ngạo mạn hoặc điên rồ của mấy đứa con gái bà thì tôi phải tạm gạt sang một bên, chớ nên bận tâm làm gì. Nghĩ vậy, tôi gọi người quản gia lên và nói với bà rằng tôi là khách của gia đình, có thể ở lại đây một hai tuần, nhờ bà sắp xếp cho một phòng và mang giúp hành lý về đó. Trong lúc theo bà quản gia về phòng, tôi gặp chị Bessie ở đầu cầu thang. - Bà chủ đang thức, – chị bảo – tôi đã nói với bà là cô về rồi. Có lẽ chúng ta nên vào luôn đi, để xem bà ấy còn nhận ra cô không. Tôi thấy chẳng cần phải để chị Bessie dẫn đường đến căn phòng quen thuộc mà hồi trước tôi vẫn thường bị gọi đến đấy để hưng chịu bao điều oan ức. Tôi bước vội lên trước Bessie và nhẹ nhàng mở cửa. Trời đã tối, nên trong phòng được thắp một ngọn đèn cháy mù mờ đặt trên bàn. Vẫn còn đó cái giường lớn bốn chân trụ được che kín bởi những tấm màn màu hổ phách như ngày xưa, rồi cái bàn trang điểm, chiếc ghế bành và chiếc ghế đẩu mà tôi đã phải quỳ trên đó hàng trăm lần để xin được tha những tội lỗi mình không hề phạm phải. Tôi liếc nhìn một góc nhà như muốn tìm lại hình bóng cây roi từng làm tôi khiếp sợ một thời, nó thường lẩn lút trong đó chờ có dịp là nhảy xổ ra như một con tiểu quỷ để quất tới tấp vào bàn tay run rẩy và cái cổ co rúm của tôi. Tôi lại bên giường, vén màn lên và cúi xuống chồng gối xếp cao. Tôi nhớ rất rõ gương mặt bà Reed và sốt ruột muốn tìm lại hình ảnh quen thuộc của bà. Thật vui khi thời gian đã dập tắt những mong muốn trả thù và làm nguôi đi lòng căm giận và mối ác cảm. Ngày xưa tôi đã từ bỏ bà trong tâm trạng cay đắng và căm hận, giờ đây tôi quay về với bà khi trong lòng không còn một cảm xúc nào khác ngoài mong muốn tha thứ và quên đi những chuyện xưa, để hai mợ cháu có thể hòa giải và nắm tay nhau trong tình cảm thân ái.


Khuôn mặt quen thuộc kia rồi, vẫn khó đăm đăm và nghiệt gã như ngày nào với cặp lông mày xếch ngược, vẻ hống hách, độc đoán và ánh mặt đặc biệt không thể dịu hiền bởi bất cứ một điều gì. Khuôn mặt ấy đã bao lần trúc hăm dọa và căm thù lên đầu tôi! Giờ nhìn lại những nét ác nghiệt trên bộ mặt ấy, trong tôi bỗng lại dội lên những nỗi khiếp sợ và u buồn của một thời ấu thơ. Nhưng dù vậy, tôi vẫn cúi xuống hôn bà. - Có phải Jane Eyre đấy không? – Bà nhìn tôi, hỏi. - Vâng, mợ Reed ạ. Mợ thân mến, mợ thấy trong người thế nào rồi? Ngày trước, tôi đã từng có lần thề sẽ không bao giờ gọi bà Reed là mợ nữa, nhưng giờ tôi lại nghĩ quên lời thề cũ đâu phải là một tội lỗi. Tôi nắm chặt bàn tay đang thò ra ngoài chăn. Nếu bà ân cần nắm chặt tay tôi thì lúc đó, hẳn là tôi phải vui lắm. Song bản chất vô cảm đâu phải bỗng chốc mà thay đổi được, và những mối ác cảm tự nhiên cũng phải lúc nào cũng có thể bị nhổ tận gốc rễ. Bà Reed kéo tay lại, mặt quay đi chỗ khác và bảo rằng tối nay trời ấm áp. Rồi bà lại quay lại nhìn tôi, ánh mắt lạnh nhạt đến nỗi tôi bỗng cảm thấy ý nghĩa của bà về tôi – cảm xúc của bà trước tôi – vẫn chẳng có gì thay đổi và sẽ không bao giờ thay đổi được. Nhìn ánh mặt lạnh lùng vô cảm của bà – mờ đục và ráo hoảnh – tôi chợt hiểu rằng cuối cùng thì bà vẫn coi tôi là một đứa tồi tệ, vì nếu có coi tôi là người tốt thì bà cũng không thể tìm được niềm vui rộng lượng cho mình, mà như vậy thì chỉ càng làm cho bà bực mình thôi. Tôi cảm thấy đau và rồi thấy giận bà, nhưng rồi tôi cũng quyết định phải chinh phục bà cho dù bản chất và ý muốn của bà là vậy. Nước mắt tôi lưng tròng, nhưng như hồi còn nhỏ, tôi ra lệnh cho chúng không được trào ra. Tôi mang một chiếc ghế lại gần đầu giường và ngồi xuống. - Mợ cho gọi cháu, – tôi cúi xuống nói chuyện với bà – cháu đã về đây, cháu định sẽ ở lại cho đến khi mợ khỏe trở lại. - Ừ, tất nhiên rồi! Cô đã gặp mấy đứa nhà tôi chưa? - Gặp rồi. - Tốt rồi, cô có thể bảo chúng là tôi muốn cô ở lại cho đến khi tôi có thể nói với cô vài điều mà tôi vẫn giữ trong lòng. Tối nay thì quá muộn rồi, mà tôi cũng khó có thể nhớ lại tất cả. Nhưng có một điều tôi muốn nói… để tôi xem


nào… Giọng nói thều thào và ánh mắt lờ đờ cho thấy cái cơ thể tràn đầy sức sống ngày nào của bà đang đến hồi suy kiệt. Bà khó nhọc trở mình và kéo chăn quấn vào người, nhưng chẳng may bị một khuỷu tay tôi giữ chặt một góc, thế là bà bực mình ngay: - Đứng thẳng dậy đi! Đừng có giữ chăn khiến tôi bực mình nữa, mà cô là Jane Eyre phải không? - Cháu là Jane Eyre đây. - Không ai có thể tin con bé này từng gây bao phiền toái cho tôi. Nó là một gánh nặng đổ lên vai tôi, khiến tôi lộn ruột hàng ngày, hàng giờ vì cái tính thất thường, không thể hiểu nổi. Đã thế nó còn có cái thói rình rình mò mò từng hành động của người ta nữa chứ! Tôi vẫn nhớ có lần nó cãi lại tôi như một con điên, một con quỷ. Chẳng bao giờ thấy một đứa trẻ nào ăn nói và lườm người khác như nó. Tôi thấy vui khi đẩy được nó ra khỏi nhà. Không hiểu ở Lowood người ta đối xử với nó thế nào nhỉ? Thấy bảo ở đấy bệnh dịch ghê lắm, khiến khối học sinh chết thì phải. Thế mà rồi nó vẫn không chết mới lạ chứ! Nhưng tôi cứ bảo là nó chết rồi – tôi chỉ mong sao cho nó chết quách đi! - Mong ước của mợ quả là lạ, mợ Reed ạ. Tại sao bà lại ghét bỏ cô ta đến thế? - Ngày trước, có bao giờ tôi ưa mẹ nó đâu, vì mụ là người chị ruột duy nhất của chồng tôi, mà không hiểu tại sao chồng tôi lại quý mụ thế chứ? Ông ấy cứ nhất nhất bênh vực mụ, phản đối lại cả nhà khi mụ bị gia đình từ bỏ vì lấy một thằng chồng mạt hạng. Khi thấy người ta báo tin mụ chết, chồng tôi cứ khóc than như một thằng ngốc ấy. Ông ấy nằng nặc bảo đi tìm đứa con mụ về nuôi, mặc tôi sùi bọt mép nài nỉ là đưa nó cho một nhũ mẫu nuôi rồi trả tiền công cho bà ta. Ngay từ đầu tôi đã thấy ghét nó, một con ranh ốm đau, gào khóc ỉ eo suốt ngày không thể nào chịu nổi! Đêm đến nó cũng cứ rên rỉ trong nôi suốt thôi, nó không khóc váng lên như những đứa trẻ khác mà cứ thút tha thút thít, nỉ na nỉ non mới lộn ruột chứ! Ông Reed nhà này lại thương hại nó, thường nâng niu và chăm chút nó như chăm chút con đẻ vậy. Có khi ông còn chăm chút nó hơn cả đứa con đẻ cùng tuổi của mình nữa. Lúc nào cũng thấy ông ấy cố gắng làm cho các con mình thân thiện với cái con bé ăn mày ấy, nhưng bọn trẻ đáng yêu nhà này lại không hợp với con bé.


Cứ thấy chúng tỏ ý không thích con ranh là ông ấy lại nổi khùng ngay được. Trong trận ốm cuối cùng, suốt ngày ông ấy cứ nằng nặc đòi bế con bé đến bên giường, và một giờ trước lúc ra đi, ông đã bắt tôi thề phải trông nom nó. Thà nhặt một đứa ở trại tế bần về nuôi còn hơn, nhưng ông ấy yếu đuối lắm, bình sinh bản chất vốn đã yếu đuối rồi. Tôi rất mừng là thằng John không giống bố tí nào, nó được cái giống tôi và các anh em tôi – nó xứng đáng là con cháu họ Gibson. Ôi, giá như thằng ôn ấy đừng hành hạ tôi bằng những lá thư vòi tiền nữa thì hay biết bao! Tôi làm gì còn tiền mà quẳng cho nó, nhà này khánh kiệt hết rồi còn đâu! Tôi đến phải đuổi bớt một nửa số người làm, phải đóng cửa một phần lâu đài hoặc bỏ nhà mà đi thôi. Tôi chưa bao giờ chịu đầu hàng một cái gì cả, nhưng còn biết làm thế nào bây giờ? Thằng John nó đam mê cờ bạc lắm, mà chơi thì toàn thấy thua thôi, tội nghiệp nó quá! Nó bị quân lừa đảo săn đón, đâm ra thân tàn ma dại và sa đọa, trông mà phát sợ. Tôi cảm thấy thật là xấu hổ mỗi khi trông thấy cái thằng ấy. Bà Reed có vẻ bị kích động mạnh lắm. “Tôi nghĩ lúc này tôi nên tạm lánh đi thì tốt hơn.” – Tôi bảo chị Bessie lúc này vẫn đang đứng ở mé giường bên kia. - Có lẽ nên thế, cô ạ. Nhưng tối đến, bà ấy thường nói sảng như vậy mà, đến sáng bà ấy có vẻ tỉnh táo hơn. Tôi đứng dậy. “Gượm đã nào! – Bà Reed kêu lên. – Tôi vẫn còn một điều muốn nói, thằng John nó dọa tôi, lúc nào nó cũng mang chuyện nó chết hoặc tôi chết ra để dọa tôi. Thỉnh thoảng tôi lại ngủ mê thấy nó nằm thẳng cẳng vì một vết thương rộng toang hoác ở cổ, mặt phù lên và đen thủi đen thui. Tôi thấy mình có những thay đổi lạ lắm, không thể nào chịu nổi nữa. Biết phải làm gì bây giờ? Làm thế nào có tiền bây giờ? Bessie phải thuyết phục mãi bà ta mới chịu uống một viên thuốc an thần. Một lát sau, khi bà Reed đã hồi lại và bắt đầu thiu thiu ngủ, tôi mới bước ra ngoài. Hơn mười ngày trôi qua, tôi mới lại có dịp nói chuyện với bà Reed. Bà liên tục bị mê sảng hoặc ngủ lịm trên giường, vì vậy ông bác sĩ phải cấm mọi người không được làm gì kích động khiến bà đau đớn. Trong quãng thời gian đó, tôi hết sức cố gắng đối xử nhẹ nhàng với Georgiana và Eliza. Lúc đầu, cả hai chị em đều tỏ ra lạnh nhạt với tôi. Eliza thường dành cả nửa buổi cho công việc khâu vá, đọc hoặc viết, hầu như chẳng lúc nào nói chuyện với tôi


hoặc cô em gái, trong khi Georgiana thì mải nói những câu chuyện vô nghĩa với con chim hoàng yến cả tiếng đồng hồ mà không biết chán và cũng chẳng thèm để ý đến tôi. Nhưng tôi cũng quyết tỏ ra mình không phải là đứa ăn không ngồi rồi hoặc thiếu trò giải trí, vì tôi đã mang theo các dụng cụ vẽ. Tôi thường mang theo hộp bút chì và mấy tờ giấy, rồi tìm một chỗ gần cửa sổ cách xa hai chị em Eliza để hý hoáy ngồi vẽ lại những cảnh tưởng tượng thoáng hiện lên trong đầu, khi thì một cảnh biển hiện lên giữa hai hòn núi đá, khi thì một vầng trăng tròn vành vạch đang nhô và một con thuyền chạy cắt ngang, hoặc chân dung một nữ thủy thần đầu đội tràng hoa sen nhô lên giữa đám lau sậy, một nàng tiên ngồi trong một tổ chim chích dưới tán lá táo gai. Một buổi sáng, tôi đã vẽ một bức chân dung không theo khuôn mẫu định trước nào. Tôi lấy một chiếc bút chì mềm, để đầu tù mà vẽ. Chỉ một lát tôi đã phác họa được một vầng trán dô và một đường viền vuông vức làm khuôn mặt. Đường viền ấy quả thực đã tạo cho tôi niềm vui và sự hứng thú để phóng bút vẽ những đường nét tiếp theo. Dưới vầng trán dô, hẳn tôi phải vẽ một cặp lông mày ngang thật mạnh mẽ và đương nhiên, tiếp theo phải là một cái mũi thanh thoát, sống mũi thẳng, lỗ mũi rộng; rồi một cái miệng không nhỏ nhưng thật mềm mại, cái cằm chẻ hình trái tim trông thật cương nghị; dĩ nhiên là không thể không đặc tả thêm bộ ria mép đen nhánh, những sợi tóc lòa xòa trên trán và hai bên thái dương. Bây giờ đến lượt đôi mắt. Tôi phải vẽ đôi mắt sau cùng, vì đây là việc đòi hỏi phải cẩn thận nhất. Tôi vẽ một đôi mắt to, hàng mi dài và đen, con ngươi to và sáng. “Được! nhưng không hoàn hảo lắm. – Tôi vừa nghĩ vừa ngắm tác phẩm của mình. – Đôi mắt cần được tiếp thêm sức mạnh và có hồn hơn”. Và tôi tô cho các nét được đậm hơn khiến cho ánh mắt sáng ngời hơn – chỉ cần thêm một hai nét vui nữa là thành công! Thế là tôi đã có khuôn mặt của một người bạn. Hai chị em quý cô kia có quay mặt đi thì cũng có nghĩa lý gì đối với tôi chứ? Tôi ngắm bức vẽ và mỉm cười vì thấy nó giống quá. Vậy là đủ hài lòng rồi. - Cô vẽ chân dung một người quen của cô phải không? – Eliza hỏi tôi, cô ta lại gần tôi lúc nào không biết. Tôi trả lời đó chỉ là một khuôn mặt tôi tưởng tượng trong đầu và cất vội bức vẽ xuống dưới những tờ giấy khác. Tất nhiên là tôi nói dối, chứ thực ra bức chân dung đó giống hệt ông Rochester. Nhưng có nói thì ngoài tôi ra, điều đó đâu có can hệ gì với cô ta hay bất cứ một ai khác? Georgiana cũng bước lại gần xem. Cô ta rất thích những bức vẽ khác, còn bức chân dung thì cô ta chê là “một gã xấu trai”. Có vẻ như cả hai chị em


đều ngạc nhiên trước kỹ năng của tôi. Tôi đề nghị ký họa chân dung cho họ bằng bút chì. Sau đó Georgiana cho tôi xem cuốn album của cô ta. Tôi hứa sẽ vẽ tặng cô ta một bức tranh bằng màu nước, khiến cô ta vui lắm, rủ ngay tôi đi dạo ngoài vườn. Trong khoảng thời gian chưa đầy hai giờ đồng hồ, chúng tôi đã có thể nói chuyện tâm tình với nhau. Georgiana tả lại cho tôi nghe chuyện cô ta đã sống một mùa đông sáng láng ở Luân Đôn cách đây hai năm như thế nào, đã làm bao kẻ ngưỡng mộ và bị hút hồn ra sao, rồi còn bóng gió cho tôi biết chuyện cô ta đã chinh phục được một anh chàng quý tộc nữa chứ! Càng về chiều tối, những lời bóng gió của cô ta càng lộ hơn với một lô những chuyện tình ái ngọt ngào êm dịu, khiến tôi tưởng mình đang được nghe một tiểu thuyết lãng mạn về cuộc sống thời thượng. Các cuộc trò chuyện được tiếp xúc ngày qua ngày và chỉ xoay quanh một chủ đề – cái tôi, rồi những mối tình và nỗi lòng của cô ta. Có điều lạ là không thấy cô ta nhắc đến bệnh tình của bà mẹ, cái chết của anh trai, hoặc cảnh nhà tan cửa nát của gia đình lần nào. Có vẻ như đầu óc cô ta chỉ vướng víu với những hồi ức vui vẻ đã qua và những ham muốn chơi bời sẽ đến. Mỗi ngày cô ta chỉ thò mặt vào phòng bệnh của mẹ khoảng năm phút là cùng. Eliza vẫn kiệm lời như mọi khi, rõ ràng cô ta không có thì giờ để nói chuyện. Tôi chưa bao giờ thấy ai có vẻ bận rộn như cô ta, nhưng cũng khó mà nói được cô ta bận những việc gì, hoặc đúng hơn, khó mà biết được kết quả những việc cô ta đã làm. Cô ta có một chiếc đồng hồ báo thức để dậy sớm. Tôi không hiểu trước bữa điểm tâm, cô ta thường làm những việc gì, nhưng thời gian biểu sau đó lại rất đều và giờ nào cũng có một công việc được định trước. Mỗi ngày ba lần, cô ta lẳng lặng ngồi nghiên cứu một quyển sách nhỏ mà tôi để ý thấy là một quyển sách cầu kinh. Có lần tôi hỏi cô ta [62] thích điều gì nhất trong cuốn sách đó, cô trả lời: “Chuyên mục” . Ngày nào cô ta cũng dành ba tiếng đồng hồ thêu chỉ kim tuyến và khâu đường viền cho một mảnh vải đỏ vuông vắn, rộng gần bằng một tấm thảm. Tôi tò mò hỏi khâu tấm vải đó làm gì thì cô ta trả lời để phủ bàn thờ một giáo đường vừa được dựng gần Gateshead. Cô ta còn dành hai tiếng kết toán các khoản chi tiêu. Hình như cô ta không có bạn, cũng chẳng cần trò chuyện với ai thì phải. Tôi nghĩ cô ta cũng cảm thấy hạnh phúc theo cách của cô ta và thấy thỏa mãn với lối sống cổ hủ này, chẳng có gì khiến cô ta bực mình hơn việc bị một sự cố bất ngờ cắt ngang khiến cô ta phải thay đổi cái nhịp sống đơn điệu như một chiếc đồng hồ ấy. Một buổi tối, trong lúc bỗng dưng cởi mở hơn mọi ngày, cô ta bảo tôi


Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.