Góp phần vào hành trình tìm về dòng tộc

Page 1

TỈNH QUẢNG NAM HUYỆN ĐIỆN BÀN – XÃ ĐIỆN QUANG

TỘC PHAN BẢO AN

PHAN BÁ LƯƠNG (2/16)

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

1


MỤC LỤC 1.-Về Ngài Nghệ An trại chủ tước Quan nội hầu

trang 5

2.-Về gốc tích dòng tộc

trang 7

3.-Về niên bểu Phan tộc

trang 9, 53

4.-Về năm sinh và năm mất của Ông Phan Chính Nghị

trang 11

5.-Về lại bộ viên ngoại Phan Khảm và Quản cẩn tướng

trang 17

quân tả các môn sứ viên ngoại Phan Đa Lôi 6.-Về việc vào nam

trang 17

7.-Về đất Điện Bàn trong lịch sử

trang 24

8.-Về tam kiết hữu

trang 26

9.-Về đối chiếu vơi các giả thuyết vào nam khác

trang 26

10.-Về Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ

trang 28

Đô chỉ huy sứ Địch nghĩa bá Phan Nhơn Bàn 11.-Về ấm phong

trang 32

12.-Về Cai tổng Sùng lương bá Phan Văn Bài

trang 33

13.-Về tướng thần Phan Phước Hề và Thượng tướng quân

trang 34

tướng thần lão nhiêu quan Nghĩa lý tử Phan Long Lân 14.-Về các danh nhân Phan tộc

trang 35

15.-Về Khuyến nông quan Phan Văn Hàn, tổ phái nhì

trang 54

16.-Về Đặc tiến thượng tướng quân Cẩm y vệ Đô chỉ huy

trang 55

sứ chưởng vệ sự Chưởng kỳ Toàn đức hầu Phan Văn Du và Đặc tiến thượng tướng quân Cẩm y vệ Đô chỉ huy sứ ty Cai đội Liêm trực hầu Phan Văn Huyền

17.-Về Nhiêu học kiêm tri hương sự Phan Văn Kiết

trang 57

18.-Về các Quốc thủ Phan Văn Nghi, Phan Đức Trọng,

trang 58

Phan Đức Điều, Phan Đức Thành 19.-Về Ngũ đồn trung quân Thư ký Phan Ngọc Thức,

trang 59

các Chi trưởng Phan Văn Nhiều, Phan Văn Cân 20.-Về câu viết “Nhị bách dư niên” của ông Phan Khắc Nhu

trang 61

trong Phổ hệ nguyên tự năm 1857 21.-Linh phù tôn thần

trang 65

22.-Án sát

trang 68

23.-Anh danh Giáo dưỡng

trang 71

24.-Ấm sinh

trang 72

25.-Ấm thụ

trang 74

26.-Ấm tử

trang 81 Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

2


27.-Bá hộ

trang 81

28.-Biện

trang 82

29.-Cai đội

trang 83

30.-Cai tổng

trang 87

31.-Cẩm y vệ

trang 92

32.-Chánh đội trưởng

trang 94

33.-Cử nhân

trang 94

34.-Cửu phẩm

trang 106

35.-Chuyên biện

trang 130

36.-Dịch mục

trang 130

37.-Đô úy

trang 132

38.-Đô chỉ huy sứ

trang 132

39.-Đội trưởng và Chánh đội trưởng

trang 134

40.-Đội lệ

trang 136

41.-Giáo thọ (Giáo thụ)

trang 137

42.-Hàn lâm viện

trang 136

43.-Khuyến nông quan

trang 140

44.-Khóa sinh

trang 142

45.-Kinh binh thư lại

trang 144

46.-Lãnh binh

trang 144

47.-Lục sự

trang 145

48.-Nhiêu học

trang 147

49.-Ngũ đồn quân trung thư ký

trang 147

50.-Ngũ tước

trang 149

51.-Nội các

trang 151

52.-Phẩm trật

trang 153

53.-Phó quản cơ

trang 155

54.-Quốc thủ

trang 155

55.-Quan viên phụ

trang 155

56.-Quan viên tử

trang 157

57.-Quản cơ

trang 161

58.-Sắc tứ thọ dân

trang 161

59.-Tham tá

trang 162

60.-Thí sinh

trang 163

61.-Thư lại

trang 164

62.-Thứ đội trưởng

trang 165

63.-Thừa phái

trang 166 Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

3


64.-Tri huyện

trang 167

65.-Tri phủ

trang 173

66.-Trùm

trang 175

67.-Tú tài

trang 176

68.-Tướng thần

trang 178

69.-Xã trưởng hay Lý trưởng

trang 179

70.-Y sanh

trang 185

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

4


BÀI 1 Tôi sinh năm Canh dần 1950, là cháu đời 16 thuộc phái nhì tộc Phan Bảo An. Từ những năm 1971-1972 tôi đã được đọc Phổ hệ Phan nhì xuất bản tại Saigòn mùa thu năm Tân hợi 1971 và với tuổi trẻ lúc bấy giờ, tôi chỉ thấy thích thú khi được biết thêm một số người tưởng chừng xa lạ mà bỗng chốc trở thành thân thương vì cùng dòng tộc. Rồi thời gian trôi đi, khi nhà thờ tộc Phan được thành lập tại Thành phố Hồ Chí Minh, được tham dự những ngày giỗ Tổ tiên, được gặp các bậc ông bà, chú bác, anh chị em Phan tộc 5 phái, trong tôi những nỗi niềm bắt đầu phát sinh và ngày càng thêm lớn: chẵng lẽ một dòng tộc đã phát triển 18, 19 đời, trong đó có những người đã đạt được những thành tựu nhất định, đã được lưu danh vào sử sách mà lại chỉ còn đơn giản là những cái tên, nơi chôn cất và những ngày giỗ... bất động thôi ư, tiền nhân dòng tộc đã sống và phát triển ra sao trong tiến trình lịch sử của đất nước, còn gốc tích xã Ao Giản, huyện Nghi Xuân, phủ Đức Quang, thừa tuyên Nghệ An v.v...và v.v... May thay, đầu năm 1995, tôi được xem Phổ hệ Phan tộc do Ban Tục biên lập năm 1994 đã giải quyết được phần nào tâm tư, nỗi niềm đã có, nhưng càng đọc tôi lại càng thấy còn những vấn đề lớn cần tìm hiểu, bổ sung... - một việc làm đòi hỏi phải tốn nhiều công sức của nhiều người mới có thể thực hiện được - nhằm làm sáng tỏ công sức của tiền nhân đối với đất nước và đối với dòng tộc. Sử sách đất nước ta đã thất lạc hoặc mất mát nhiều qua những cơn binh lửa, nhưng với những gì còn sót lại, các nhà viết sử đã tái hiện được lịch sử, nhờ vậy ngày nay chúng ta mới biết được quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, mới biết được Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... và biết bao nhân vật lịch sử khác, và cùng với họ, tên tuổi của những nhà viết sử như Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, Phan Phù Tiên, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú... đã trở thành bất tử. Tất nhiên các nhà viết sử đã gặp không ít khó khăn trong công việc của mình, nhưng bằng tấm lòng thành cùng tinh thần trách nhiệm lớn lao đối với đất nước, với dân tộc, và nhất là đối với hậu thế, họ đã làm và đã thành công. Niềm tự hào Việt Nam qua mấy ngàn năm lịch sử có được một phần là nhờ ở công sức của họ vậy. Cũng giống như lịch sử đất nước, cũng bằng tinh thần trách nhiệm và tấm lòng thành đối với tổ tiên và con cháu đời sau mà các Ông Phan Phước Hề (4/4), Phan Long Lân (5/4), Phan Văn Du (5/6), Phan Văn Điện (5/6), Phan Văn Nghi (1/9) Phan Kim Huống (5/9), Phan Văn Sỹ (1/10), Phan Khắc Nhu (2/11), Phan Trân (2/12), Phan Thúc Luyện (2/12), Phan Nghiện (2/12), Phan Văn Thoại (1/13), Phan Mạch (2/13), Phan Xuân Cáo (2/13), Phan Quý Thuyên (2/13), Phan Niên (3/13), Phan Sô (4/13), Phan Du (3/13), Phan Văn Mua (5/13), Phan Thanh (1/14), Phan Văn Đợi (1/14), Phan Lượng (1/14), Phan Tui (1/14), Phan Bá Mạo (2/14), Phan Thóa (2/14), Phan Huy Tùng (2/14), Phan Xuân Huy (2/14), Phan Đức Mỹ (3/14), Phan On (5/14), Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

5


Phan Tiết (5/14),... và còn rất nhiều Ông nữa đã bỏ nhiều công sức làm nên, trùng tu Phổ hệ để con cháu đời sau hiểu biết được mà có tự hào về dòng tộc. Công ơn của các Ông, con cháu đời sau sẽ mãi mãi ghi nhớ. Đầu năm 1996, với lòng thành kính đối với Tổ tiên, tôi đã viết bài 1 "Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC" tìm hiểu bước đầu về Ngài Thuỷ tổ Nhơn Bàn và gởi Tộc. Thật cảm động là sau khi bài viết được gởi đi, tôi đã nhận được nhiều lời động viên, góp ý, trong đó có hai lá thư của các Ông Phan Sô (4/13) và Phan Đức Mỹ (3/14). Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả những lời động viên, còn những góp ý sẽ là kinh nghiệm giúp tôi khi viết tiếp những bài sau, và cũng vì vậy, sau khi thu thập thêm sử liệu, tôi quyết định gộp cả bài 1 (đã viết) và bài 2 (sắp viết) vào thành bài viết này. Nói như vậy không có nghĩa là bài viết này đã là hoàn chỉnh nhất, mà tôi nghĩ đây cũng chỉ là bước khởi đầu, cũng còn cần phải nghiên cứu, bổ sung thêm. Trước khi đi vào những vấn đề tìm hiểu chính của bài viết này, xin nêu lên một số cơ sở, đó là: 1.-Tôi chỉ như một người ghi chép sử liệu để kể lại cho mọi người trong Tộc cùng biết, vì vậy bài viết có hình thức dẫn chứng sử liệu là chính, qua đó, người đọc có thể so sánh, đối chiếu, rút ra được nhiều vấn đề mà có khi bài viết này cũng không đề cập đến. Sử liệu làm dẫn chứng cũng do nhiều sử gia viết nên có khi cùng một vấn đề mà hai hay nhiều sử liệu nói khác nhau, nếu tôi đã có đọc qua những sử liệu khác nhau này, tôi sẽ ghi chú ở bên dưới trang viết. 2.-Những vấn đề được nêu trong bài viết chỉ là những tham khảo và mang tính chất đề nghị. Việc sử dụng bài viết như một sử liệu của Tộc sẽ do Tộc quyết định theo ý kiến chung, nhất là ý kiến của những Ông lớn tuổi, lớn thế thứ, đức cao vọng trọng. 3.-Việc sử dụng các đại danh từ Ngài và Ông cũng cần được xác định vì nếu không sẽ gặp nhiều rắc rối và đôi khi sẽ trở thành thiếu khiêm tốn đối với các bậc tiền nhân, dù người viết không cố ý. Trong bài viết này, tôi sẽ sử dụng từ Ngài cho Ngài Nghệ An Trại chủ và Ngài Thuỷ tổ Nhơn Bàn cùng hai đời trên của Ngài Thuỷ tổ, còn đối với những trường hợp khác sẽ sử dụng từ Ông. Sở dĩ như vậy là vì Ngài Nghệ An Trại chủ là người khai sáng toàn tộc Phan của chúng ta, còn Ngài Thuỷ tổ Nhơn Bàn là người khai sáng tộc Phan Bảo An, và theo lễ nghi thì được tôn vinh hai đời nên tôi cũng sử dụng từ Ngài đối với Ngài Đa Lư và Ngài Nhơn Huyện. Xin hiểu cho rằng, đối với tôi, dù là Ngài hay Ông cũng đều được tôn kính. 4.-Các Phổ hệ và Hệ phổ nếu viết cho đầy đủ thì rất dài dòng nên sẽ sử dụng cách viết tắt, thí dụ thay vì phải viết Hệ phổ Phan Xá do Ông Phan Chính Nghị viết năm 1525-1527 thì sẽ được viết tắt là Hệ phổ 1525 mà người đọc vẫn có thể hiểu được ý nghĩa. Tương tự như vậy, Phổ hệ trùng tu lần một do Ông Phan Văn Du sai người em là Phan Văn Điện viết năm 1634 sẽ được viết tắt là Phổ hệ 1634, Phổ hệ Phan Cả do Ban Tục biên lập năm 1994 sẽ được viết tắt là Phổ hệ 1994, Phổ hệ Phan Phái nhì lập tại Saigòn mùa thu Tân hợi 1971 sẽ được viết tắt là Phổ hệ II-1971 (xin lưu ý rằng vì đây là Phổ hệ của phái nên có thêm một chữ số La mã đứng trước năm thành lập) ... và các trường hợp khác (nếu có) cũng vậy, sẽ áp dụng các viết tắt cho gọn và Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

6


không trùng lấp. 5.-Việc chú thích sử liệu sẽ được ghi bằng ký hiệu ( ) cộng với số thứ tự, thí dụ (1), (2), (3) và sẽ được nêu tại cuối từng trang viết. Bên cạnh những thuận lợi, tôi cũng còn gặp nhiều trở ngại trong công việc, đó là chưa có đủ thời gian để đọc được nhiều sử liệu hơn, đó là nguồn sử liệu có phần hạn chế, có những sử liệu mà ngày trước các tác giả đã sử dụng làm tư liệu nay không biết ở đâu mà tìm, đó là tôi chưa được nghe những Ông lớn tuổi kể chuyện, hoặc đi thực tế tại quê nhà, đó là tôi không được tiếp cận - mà có tiếp cận được thì cũng không đủ sức học - để đọc các Phổ hệ đời trước ghi bằng chữ Hán mà tôi nghĩ là rất quan trọng, đóng góp rất nhiều cho việc tìm hiểu lịch sử dòng tộc. Vì vậy, tôi mong mọi người trong Tộc bổ sung thêm những gì còn thiếu sót, chưa đúng để lịch sử dòng tộc thêm sống động hơn, chính xác hơn và con cháu đời sau càng tự hào hơn với quá khứ. Từ những suy nghĩ nêu trên, bài viết này nêu ra một số vấn đề đã tìm hiểu như sau: 1.-VỀ NGÀI NGHỆ AN TRẠI CHỦ, TƯỚC QUAN NỘI HẦU: Khi đọc Phổ hệ 1994, có lẻ không chỉ riêng tôi mà còn nhiều người đã hiểu chữ Trại theo ý nghĩa đời nay, theo đó Trại là lãnh thổ của một người chủ với một diện tích đất đai độ vài ba héc-ta trở lên. Trên lãnh thổ đó chủ yếu là khai thác nông nghiệp như chăn nuôi, trồng trọt (trại chăn nuôi heo, trại gà, trại bò, trại bông vãi...) và như vậy Trại đơn thuần chỉ là một đơn vị kinh tế tư nhân, không có liên quan đến hệ thống chính quyền Nhà nước. Từ suy nghĩ này, một câu hỏi đã được đặt ra là tại sao cả một vùng đất rộng lớn mang tên Nghệ An lại chỉ là một Trại với một trong những Trại chủ là Ngài Phan tướng công tước Quan nội hầu? Tước này ra sao vào thời bấy giờ ? Sách Đại nam nhất thống chí (1) ghi về tỉnh Nghệ An như sau: "...Xưa là đất Việt Thường, đời Tần thuộc Tượng Quận, đời Hán thuộc Cửu Chân, đời Ngô chia quận Cửu Chân mà đặt quận Cửu Đức, đời Tuỳ Khai Hoàng đặt châu Hoan, Đại Nghiệp đổi là quận Nhật Nam, đời Đường đặt 3 châu Hoan, Diễn, và Đường Lâm. Nước ta đời Đinh, Lê là châu Hoan, đời Lý năm Thuận Thiên 1 lấy châu Hoan làm Trại, năm Thông Thụy 3 đổi là châu Nghệ An (tên Nghệ An bắt đầu từ đây). Đời Trần năm Nguyên Phong 6 lại gọi là Trại, năm Long Khánh 3 đổi châu Diễn làm lộ Diễn Châu, châu Hoan làm lộ Nghệ An nam, Nghệ An trung, Nghệ An bắc, cũng gọi là phủ Nghệ An, sau đổi là trấn (chưa rõ đời nào)....". Sách Đại Việt sử ký toàn thư (2) thì ghi như sau: +Trang 192 tập 1: "...Canh tuất năm Thuận Thiên 1 (1010) đổi 10 đạo làm 24 lộ, châu

( 1) Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, Phạm Trọng Điềm phiên dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, Nhà xuất bản Khoa học xã hội 1969. T ỉnh Nghệ An, trang 102. ( 2)Đại Việt sử ký toàn th ư của Ngô Sĩ Liên, Cao Huy Giu dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, chú giải và khảo chứng. Nhà xuất bản Khoa học xã hội 1967. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

7


Hoan, châu Ái làm trại..." +Trang 26 tập 2: "...Bính thìn 1365, mùa xuân tháng 2, mở khoa thi chọn học trò, lấy Trần Quốc Lặc đỗ Kinh trạng nguyên, Trương Xáng đổ Trại trạng nguyên, Chu Hinh đỗ Bảng nhãn, Trần Uyên đỗ Thám hoa lang, lấy đỗ Thái học sinh 43 người ( kinh 42 người, trại 01 người) cho xuất thân theo thứ bậc khác nhau. Khi mới dựng nước, số người thi đỗ chưa chia ra kinh, trại, đỗ đầu gọi là Trạng nguyên, đến đây chia Thanh Hóa, Nghệ An làm trại cho nên có kinh, trại khác nhau...." +Trang 131 tập 2: "...Đinh sửu 1337 lấy Nguyễn Trung Ngạn làm An phủ sứ Nghệ An kiêm Quốc sử viện giám tu quốc sử, hành Khoái Châu lộ Tào vận sứ..." +Trang 256 tập 2: "...các trại có trại chủ..." Sách Lịch triều hiến chương loại chí (3) ghi: "...Thời nhà Lý ban tước, lấy tước vương, tước công đứng đầu các thân (thân tộc của vua), huân (người có công lớn) như Thái Tổ phong anh làm Vũ uy vương, chú làm Vũ đạo vương, Lý Thường Kiệt được tặng tước Việt quốc công, Tô Hiến Thành được phong tước vương. Ngoài ra thì được phong tước hầu (như Đào Cam Mộc được phong Tín nghĩa hầu). Lại có những bực Đại liêu ban, Nội thượng chế, và Minh tự để gia thưởng cho người có công. Thời nhà Trần thì người Tôn Thất được phong tước vương (cũng có người là cựu thần được phong tước vương như Trần Tá Chu được phong Hưng nhân vương), còn phong cho các quan văn võ thì có các bực như Quốc công, Thượng hầu, Quan nội hầu, Quan phục hầu, Khai huyện bá, Nội minh tự, và Thượng phẩm..." Qua những phần được liệt kê thuộc 3 cuốn sách nói trên cho thấy : a-Trại đích thực là một đơn vị hành chánh như các lộ, châu ở trung châu miền Bắc, tuy mức độ phát triển về mọi mặt của trại có thể chưa bằng được với lộ, châu. Lịch sử cho thấy có hai thời kỳ phần đất Nghệ An được gọi là Trại, đó là: *Từ năm Thuận Thiên 1 (1010) đời vua Lý Thái Tổ kéo dài đến năm Thông Thụy 3 (1036) đời vua Lý Thái Tông, cộng 27 năm, thời kỳ này phần đất Nghệ An có tên gọi chính thức là Trại Hoan. *Từ năm Nguyên Phong 6 (1256) đời vua Trần Thái Tông kéo dài đến năm Long Khánh 3 (1374) đời vua Trần Duệ Tông, cộng 119 năm (theo sách Đại nam nhất thống chí), hoặc chỉ kéo dài đến năm Khai Hựu 9 (1337) đời vua Trần Hiến Tông, cộng 82 năm (theo sách Đại việt sử ký toàn thư, vì sách này tuy không xác định năm chấm dứt tên gọi Trại, nhưng bằng vào việc năm 1337 cử Nguyễn Trung Ngạn làm An phủ sứ Nghệ An đã gián tiếp xác nhận rằng tên gọi Trại đã chấm dứt từ trước hoặc chí ít là cũng vào năm 1337 đó), thời kỳ này phần đất Nghệ An có tên gọi là Trại Nghệ An.

( 3) Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Viện Sử học phiên dịch và chú giải, Nhà xuất bản Sử học 1992. Quan ch ức chí trang 529. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

8


b-Một khi đã được xem là một đơn vị hành chánh thì lẽ đương nhiên triều đình phải cử quan lại đến cai trị mà người đứng đầu đơn vị hành chánh này là Trại chủ, trong đó có Ngài Phan tướng công của dòng tộc ta. c-Ngài Phan tướng công làm Trại chủ Nghệ An dưới thời Trần vì dưới thời này mới có danh xưng Trại Nghệ An và tước vị Quan nội hầu. d-Căn cứ vào năm sinh của Ông Phan Chính Nghị là năm 1476 (xem giải thích năm sinh này ở phần sau) mà tính lên 10 đời (vì Ông Phan Chính Nghị là cháu 10 đời của Ngài Nghệ An Trại chủ), mỗi đời tính bình quân là 20 năm thì có thể thấy Ngài Nghệ An Trại chủ sống và làm quan trong khoảng các đời vua Trần Anh Tông (1293-1314), Trần Minh Tông (1314-1329), Trần Hiến Tông (1329-1341), và điều này là phù hợp với sử liệu và Phổ hệ 1994. 2.- VỀ GỐC TÍCH DÒNG TỘC: Các Phổ hệ tộc Phan Bảo an đều ghi nhận gốc tích của Tộc ta là: "Dĩ tiền Nghệ An thừa tuyên, Đức Quang phủ, Nghi Xuân huyện, Ao Giản xã" (4). Thế nhưng chính Phổ hệ 1994 lại ghi: "...Ông tổ chúng ta là thủ lãnh ở xã Đa, huyện Thiên Lộc, làm quan đời nhà Trần đến chức Nghệ An Trại chủ...(5). Vậy thì đích thực gốc tích tộc Phan là ở đâu? Xã Ao Giản huyện Nghi Xuân hay xã Đa huyện Thiên Lộc? Hay xã Ao Giản và xã Đa chỉ là một mà có hai tên gọi khác nhau là do cách phân chia địa giới và đặt tên của chính quyền ngày trước? Sách Lịch triều hiến chương loại chí (6) ghi: "...Phủ Đức Quang có 6 huyện là Thiên Lộc, La Sơn, Chân Phúc, Thanh Chương, Hương Sơn, Nghi Xuân. Phủ ở giữa trấn Nghệ An, phía tây gần Ai Lao, phía đông giáp biển lớn. Huyện Thiên Lộc, huyện Nghi Xuân đất gần bãi biển, bờ cỏi cùng liền nhau, lấy núi Hồng Lĩnh làm giới hạn...". Sách Đại nam nhất thống chí (7) ghi: "...Huyện Nghi Xuân đông tây cách nhau 30 dặm, nam bắc cách nhau 20 dặm, phía đông đến biển 7 dặm, phía tây đến địa giới huyện La Sơn 26 dặm, phía nam đến núi Hồng Lĩnh giáp địa giới huyện Can Lộc 11 dặm, phía bắc đến địa giới huyện Chân Lộc 1 dặm, xưa là đất huyện Hàm Hoan, thời thuộc Minh là huyện Nha Nghi, đời Lê đặt tên hiện nay, nay vẫn theo như thế ..." và " ...Huyện Can Lộc đông tây cách nhau 49 dặm, nam bắc cách nhau 5 dặm, phía đông đến địa giới huyện Thạch Hà 25 dặm, phía bắc đến huyện Nghi Xuân 1 dặm, xưa là huyện Hà Hoàng, thời thuộc Minh là huyện Phi Lộc, đời Lê Quang Thuận đổi là huyện Thiên Lộc, bản triều vẫn theo như thế, năm Tự Đức thứ 15 đổi tên hiện nay...".

( 4) Phổ hệ 1994 trang 16, Phổ hệ II-1971 trang 5. ( 5) Phổ hệ 1994 trang 21. ( 6) Sách đã dẫn - Dư địa chí trang 63. ( 7)Sách đã dẫn - Tỉnh Nghệ An trang 110. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

9


Sách Khởi nghĩa Lam sơn (8) ghi: "...Phủ Nghệ An thời thuộc Minh là miền nam tỉnh Nghệ Tĩnh ngày nay; trừ Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn là đất châu Quỳ thuộc phủ Thanh Hóa; và Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Yên Thành là đất phủ Diễn Châu. Phủ Nghệ An gồm 8 huyện và 4 châu: *8 huyện là Nha Nghi (là miền huyện Nghi Xuân), Phi Lộc (là miền huyện Can Lộc), Cổ Đổ (là miền huyện Hương Sơn), Thổ Hoàng (là miền huyện Hương Khê), Chi La (là miền huyện Đức Thọ), Chân Phúc (là miền huyện Nghi Lộc ), Thổ Du (là miền huyện Thanh Chương và một phần huyện Anh Sơn). *4 châu là châu Nam Tỉnh (gồm 4 huyện: Hà Hoàng là miền huyện Thạch Hà, Bàn Thạch là miền huyện Thạch Hà, Hà Hoa là miền huyện Kỳ Anh, Kỳ La là miền huyện Cẩm Xuyên), châu Hoan (gồm 4 huyện: Thạch Đường là miền bắc huyện Nam Đàn, Sa Nam là miền nam huyện Nam Đàn, Đông Ngạn là miền huyện Anh Sơn, Lộ Bình là miền huyện Hưng Nguyên), châu Trà Long (là miền huyện Tương Dương, Con Cuông), và châu Ngọc Ma (là miền thượng lưu sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu trở lên phía tây)...". Sách Pháp chế sử (9) ghi: "...Vua Trần Thái Tông chia nước làm 12 lộ. Các lộ chia thành phủ và châu, địa phương nào ở miền đồng bằng mà dân cư là người Việt gọi là phủ, còn địa phương nào ở miền núi có lẫn dân tộc thiểu số với người Việt thì gọi là châu. Phủ cũng như châu đều chia thành xã...Cách tổ chức này được giữ nguyên dưới các đời vua kế nghiệp Trần Thái Tông, cho mãi đến năm thứ 10 đời vua Trần Thuận Tông (1398) nhà vua giáng chiếu lập thêm một phân hạt hành chánh nữa đặt tên là huyện. Theo tổ chức mới này, nước ta hồi đó chia ra lộ (sau đổi tên gọi là trấn), lộ chia thành phủ, phủ chia thành châu, châu chia thành huyện....". Qua ghi chép của các sử liệu trên cho thấy: 1.Đơn vị hành chánh địa phương có tên gọi là huyện chỉ bắt đầu có từ đời vua Trần Thuận Tông - năm 1398 - trở về sau, còn trước đó nước ta không có đơn vị hành chánh này. 2.Huyện Can Lộc ngày nay, xưa có tên gọi là huyện Hà Hoàng, từ 1407 đến 1468 là huyện Phi Lộc, từ 1469 đến 1862 là huyện Thiên Lộc và từ 1863 đến nay là huyện Can Lộc. 3.Huyện Nghi Xuân ngày nay, xưa có tên gọi là huyện Hàm Hoan, từ 1407 đến 1468 là huyện Nha Nghi, từ 1469 đến nay là huyện Nghi Xuân. 4.Ranh giới giữa hai huyện Can Lộc và Nghi Xuân là núi Hồng Lĩnh 99 ngọn (10). Đây là một trong những ranh giới thiên nhiên mà từ xưa đến nay con người vẫn thường sử dụng để ( 8) Khởi nghĩa Lam Sơn của Phan Huy Lê và Phan Đại Doãn, Nhà xuất bản KHXH 1977, trang 236. ( 9) Pháp chế sử của Vũ Quốc Thông, chư ơng trình cử nhân Luật khoa năm thứ nhất, tủ sách Đại học Sài Gòn 1968, trang 149. (

10

)Đại nam nhất thống chí, sđd, tỉnh Nghệ An trang 132: Núi Hồng Lĩnh ở giữa hai huyện Can Lộc và

Nghi Xuân, mạch núi từ Trà Sơn kéo đến, hình thế hùng vĩ rất đẹp, tương truyền có 99 ngọn, trong ấy có ngọn Am, ngọn Lậm, ngọn Sư Tử, ngọn Đông Dương (Hương Tích), ngọn Hồ Trung, ngọn Thiên Tượng. Năm Minh Mạng thứ 7 khắc tượng vào Anh đ ỉnh, năm Thiệu Trị thứ 3, khi b ắc tuần, nhà vua làm thơ vịnh có khắc vào bia. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

10


phân chia lãnh thổ. Có thể qua nhiều thời kỳ huyện Can Lộc và huyện Nghi Xuân có địa giới khác nhau, hoặc rộng hơn hoặc hẹp hơn, nhưng cũng chỉ có thể phát triển về các hướng khác, còn hướng ranh giới thiên nhiên này thì không thể vượt qua được để có thể sát nhập hoặc chồng lấp một phần lãnh thổ lên nhau, do đó có thể nói từ thời xa xưa hai huyện này vẫn là hai huyện riêng biệt ở sát nhau. 5.Sách Đại Nam nhất thống chí ghi huyện Can Lộc xưa là huyện Hà Hoàng, còn huyện Nghi Xuân xưa là huyện Hàm Hoan, vậy có thể đây là tên gọi huyện vào đời vua Trần Thuận Tông (1398) như đã nói ở trên? 6.Sách Nghệ An ký (11) nói về Ông Phan Chính Nghị cũng ghi rằng gia phả nhà Ông ghi tổ tiên ở xã Đa Hoạch, huyện Thiên Lộc, đến đời Ông Huy Tài do lấy con gái của Ông Phan Như Lê - người làng Phan Xá, huyện Nghi Xuân - nên mới làm nhà ở Phan Xá và tiếp tục ở từ đó cho đến nay. Nhưng từ những nhận định như trên lại phát sinh ra câu hỏi là thế thì tại sao các Phổ hệ từ trước đến nay vẫn ghi là xã Ao Giản, huyện Nghi Xuân? Theo tôi, cách giải thích có thể là sau đời Ngài Nghệ An Trại chủ, cũng không rõ được là đến đời Ông nào, có một số Ông đã di chuyển đến huyện Nghi Xuân, còn một số Ông vẫn còn ở lại huyện Can Lộc. Xem Phổ hệ 1994 ở phần ghi nhận Tông đồ thì có thể thấy rõ điều này vì từ Ông Khảm, Ông Thiên hiện nay con cháu vẫn còn ở huyện Nghi Xuân tại các xã Xuân Viên, Xuân Mỹ, Xuân Giang, Cổ Đạm, còn ba Ông là Ông Thiên, Ông Quế, Ông Thu thì không có ghi nhận Tông đồ, vậy phải chăng ba Ông vẫn còn ở lại tại huyện Can Lộc? Sách Nghệ An ký cũng không nói rõ Ông Huy Tài đã từ đâu chuyển đến làng Phan Xá, cho nên có thể nói các đời trước Ông Huy Tài đã chuyển đến ở đâu đó trong huyện Nghi Xuân, rồi sau đến Ông Huy Tài mới chuyển đến làng Phan Xá. Riêng đối với Ông Đa Lôi, việc Hệ phổ 1525 còn ghi nhận Ông và Ngài Đa Lư cũng là điều khẳng định Ông đã đi vào huyện Nghi Xuân, rồi sau đó từ Ngài Nhơn Huyện mới chuyển vào nam lập thành tộc Phan Bảo An hiện nay. Tôi cũng biết rằng trong lá thư của tộc Phan Phan Xá gởi cho tộc Phan Bảo An - được đính kèm trong Phổ hệ 1994 - đã xác nhận không tìm thấy hậu duệ của Ngài Nghệ An Trại chủ ở tại huyện Can Lộc, đây là điều dễ hiểu vì đã hơn 500 năm không liên hệ, đất nước lại trải qua nhiều cuộc chiến tranh, nhưng cũng không phải vì việc không tìm được hậu duệ này mà không ghi nhận quê tổ của tộc Phan Bảo An vẫn là xã Đa huyện Thiên Lộc, nay là huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh. 3.- VỀ NIÊN BIỂU PHAN TỘC: Do nhiều lý do khách quan, các Phổ hệ Phan tộc đã không ghi nhận được năm sinh, năm mất của các bậc tiền nhân, vì vậy việc tìm hiểu niên biểu Phan tộc, theo tôi là nên được làm (

11

)Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch, Nguyễn Thị Thảo dịch, Bạch Hào hiệu đính, Nhà xuất bản KHXH

1993. Xem nguyên văn ở trang 13 bài viết này về năm sinh và năm mất của Ông Phan Chánh Nghị. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

11


trước để có cở sở làm căn cứ cho những suy luận sau này. Việc tìm hiểu niên biểu Phan tộc dựa vào các điểm sau đây: a/ Ngài Nghệ An Trại chủ làm quan đời Trần. b/ Căn cứ vào năm sinh của Ông Phan Chính Nghị, vì đây là sử liệu duy nhất ghi nhận được năm sinh của người trong tộc. c/ Ông Huy Tài hệ Phan Xá làm quan đời vua Lê Thái Tổ vì như sách Lịch triều hiến chương loại chí (12) đã ghi :"... Thời Lê sơ, Thái Tổ khởi nghĩa phong tước cho các tướng thần, có các bực Á hầu, Thông hầu, Quan phục hầu, Trước phục hầu. Đến khi tiến đến Đông đô thì phong tước có các bậc Thượng phẩm, Hạ phẩm, Thượng trí tự, Hạ trí tự, Minh tự, Đại liêu ban, Á liêu ban...". Ta biết rằng vào thời Lý có tước Đại liêu ban, đến thời Trần không còn tước này, năm 1426 khi Lê Lợi tiến đến Đông đô thì mới khôi phục lại tước Đại liêu ban, nhưng đến năm 1428 khi quân Minh rút hết về nước và Lê Lợi lên ngôi với tên hiệu là Lê Thái Tổ thì cũng không còn tước này, mà Ông Huy Tài như gia phả đã ghi là có tước Đại liêu ban, vậy Ông phải làm quan với tước này trong khoảng từ 1426 đến 1428. d/ Ông Phan Nhân hệ Phan Xá làm Chuyển vận sứ huyện Phù Lưu vào năm 1435 đời vua Lê Thái Tông (1434 -1442) vì như Đại việt sử ký toàn thư (13) đã ghi: -Trang 100 tập 3: Ất mão 1435 lấy Chuyển vận sứ huyện Phù Lưu là Phan Nhân làm An phủ phó sứ lộ Thiên Trường. -Trang 147 tập 3: Mậu thìn 1448, tháng 9, cho Thượng hầu An phủ sứ Phan Nhân làm Đồng tri thẩm hình viện sự. -Trang 155 tập 3: Kỷ tỵ 1449, giáng Đồng tri thẩm hình viện sự Phan Nhân làm An phủ phó sứ Lỵ Nhân lộ. e/ Năm Quang Thuận 3 (1462) vua Lê Thánh Tông chỉ truyền cho các quan văn võ đang tại chức, đến 65 tuổi muốn về hưu cho đầu đơn cáo tại Lại bộ, kê tâu để thi hành (14). g/ Năm Hồng Đức 1 (1470) vua Lê Thánh Tông đặt hai vệ Kim ngô và Cẩm y (15). h/ Năm 1634 Ông Phan Văn Du sai người em là Phan Văn Điện trùng tu Phổ hệ, lúc này Ông đã là một cao quan với tước Toàn đức hầu. i/ Năm 1810 Ông Phan Kim Huống trùng tu Phổ hệ. k/ Phải căn cứ trên trực hệ. Từ những căn cứ trên, cách tính của tôi là xem xét thời gian cách nhau của mỗi đời, bắt đầu từ mỗi đời cách nhau 20 năm, rồi lại nâng lên hoặc lùi lại từng thời gian từ 5 đến 10 năm để

(

12

) Sách đã dẫn – Quan chức chí, trang 529.

(

13

)Sách đã dẫn , các trang 100, 147, 155 tập 3.

(

14

) Lịch triều hiến chương loại chí, sđd, Quan chức chí trang 556, và Tổ chức chính quyền trung

ương dưới triều Lê Thánh Tông của Lê Kim Ngân, tủ sách Viện khảo cổ Sài Gòn 1963, trang 154. (

15

) Lịch triều hiến chương loại chí, sđd, Binh chế chí trang 11. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

12


xem xét từng niên biểu một, qua đó tìm ra những niên biểu thích hợp nhất phù hợp với các căn cứ nêu trên. Ta lần lượt xem xét : A. Về năm sinh và năm mất của Ông Phan Chính Nghị: Sách Nghệ An ký khi viết về Ông Phan Chính Nghị đã ghi: "...Ông người xã Phan Xá, huyện Nghi Xuân. Theo Đăng khoa lục, năm 36 tuổi, Ông đổ Đồng tiến sĩ khoa Tân mùi đời Lê Tương Dực niên hiệu Hồng Thuận (1511) làm đến Đô ngự sử, tiết nghĩa và được phong phúc thần. Gia phả nhà Ông chép tổ tiên tại xã Đa Hoạch, huyện Thiên Lộc. Thuỷ tổ tên làng Thứ lĩnh thời Trần, làm Trại chủ Nghệ An tước Quan nội hầu, tổ tám đời tên Quang làm chức Thư viện, tổ bốn đời tên Hy Tái làm chức Đại toát hữu, tước Đại liêu ban, lấy con gái của Tuần kiểm sứ cửa biển Nam giới Phan Như Lê người làng Phan Xá huyện Nghi Xuân, nhân làm nhà ở tại đây. Cố của Ông tên Nhân làm An phủ sứ lộ Lỵ nhân, cha là Khắc Thần làm nho sinh. Khi họ Mạc cướp ngôi, Ông bỏ quan trốn đi, bị nhà Mạc cưỡng bức về, đến xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm thì Ông gieo mình xuống sông tự tử. Nay ở xã Phan Xá có đền thờ Ông, dân làng Bát Tràng cũng lập đền thờ. Con cháu Ông đông đúc các đời xuất thân văn học..." Như vậy, Ông Phan Chính Nghị sinh năm Hồng Đức 7 đời vua Lê Thánh Tông (1476), đổ Đồng tiến sĩ năm Hồng Thuận 3 đời vua Lê Tương Dực (1511) lúc 36 tuổi. B. Về niên biểu Phan tộc : Từ năm sinh và năm mất của Ông Phan Chính Nghị, có thể tính ra được niên biểu Phan tộc, ta lần lượt tính theo các trường hợp sau đây: a-Trường hợp 1: mỗi đời cách nhau 20 năm, ta có niên biểu sau (xin hiểu là sinh vào khoảng năm): 1.Ngài Nghệ An Trại chủ,

1296

2.Ô. Quang,

1316

3.Ô. Khảm,

1336

Ô. Đa Lôi,

1340

4.Ô. Trình,

1356

Ngài Đa Lư

1360

5.Ô. Tựu,

1376

Ngài Nhơn Huyện,

1380

6.Ô. Huy Tài

1396

Ngài Nhơn Bàn,

1400

7.Ô. Nhân,

1416

Ô. Văn Liêu,

1420

8.Ô. Trí Phụ,

1436

Ô. Văn Huyền,

1440

9.Ô. Khắc Đạn,

1456

Ô. Long Lân,

1480

10.Ô. Chính Nghị,

1476

Ô. Ích Tráng,

1480

Ô. Văn Du,

1500

11.

Niên biểu này có những điểm không phù hợp là: -Năm 1470 khi vua Lê Thánh Tông đặt vệ Cẩm y thì Ngài Nhơn Bàn đã 70 tuổi, mà theo luật thì đến tuổi 65 phải về trí sĩ, như vậy Ngài không thể đảm nhận chức vụ Cẩm y vệ Đô chỉ

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

13


huy sứ được. -Ông Văn Du đến năm 1634 khi trùng tu Phổ hệ đã 143 tuổi, điều này khó có thể xảy ra. b-Trường hợp 2: mỗi đời cách nhau 25 năm, ta có niên biểu: 1.Ngài Nghệ An Trại chủ,

1251

2.Ô. Quang,

1276

3.Ô. Khảm,

1301

Ô. Đa Lôi,

1305

4.Ô. Trình,

1326

Ô.Đa Lư,

1330

5.Ô. Tựu,

1351

Ngài Nhơn Huyện,

1355

6.Ô. Huy Tài,

1376

Ngài Nhơn Bàn,

1380

7.Ô. Nhân,

1401

Ô. Văn Liêu,

1405

8.Ô. Trí Phụ,

1426

Ô. Văn Huyền,

1430

9.Ô. Khắc Đạn

1451

Ô. Long Lân,

1455

10.Ô. Chính Nghị,

1476

Ô. Ích Tráng,

1480

Ô. Văn Du,

1505

11.

Niên biểu này cũng có những điểm không phù hợp tương tự như niên biểu 1 ở chỗ cả Ngài Nhơn Bàn và Ông Văn Du đều đã quá tuổi để đảm nhận công việc, Ngài Nhơn Bàn 90 tuổi vào năm 1470, còn Ông Văn Du 129 tuổi vào năm 1634. c-Trường hợp 3: Mỗi đời cách nhau 20 năm đối với hệ Phan Xá, còn hệ Bảo An thì từ Ông Đa Lôi đến Ngài Nhơn Bàn mỗi đời cách nhau 20 năm, từ Ông Văn Liêu đến Ông Văn Du mỗi đời cách nhau 25 năm, sở dĩ phải tính kéo dài thời gian giữa các đời là vì khi vào nam phải vừa khai hoang, vừa chiến tranh và nhất là phong tục tập quán phải thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Ta có niên biểu sau : 1.Ngài Nghệ An Trại chủ,

1296

2.Ô. Quang,

1316

3.Ô. Khảm,

1336

Ô. Đa Lôi,

1340

4.Ô. Trình,

1356

Ngài Đa Lư,

1360

5.Ô. Tựu,

1376

Ngài Nhơn Huyện,

1380

6.Ô. Huy Tài,

1396

Ngài Nhơn Bàn,

1400

7.Ô. Nhân,

1416

Ô. Văn Liêu,

1450

8.Ô. Trí Phụ,

1456

Ô. Văn Huyền,

1475

9.Ô. Khắc Đạn,

1456

Ô. Long Lân,

1475

10.Ô. Chính Nghị,

1476

Ô. Ích Tráng,

1500

Ô.Văn Du,

1525

11.

Niên biểu này cũng không phù hợp ở điểm Ngài Nhơn Bàn đã 70 tuổi vào năm 1470, và Ông Văn Du đã 109 tuổi vào năm 1634.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

14


d-Trường hợp 4: Giống như cách tính niên biểu 3, chỉ thay đổi từ Ông Văn Liêu đến Ông Văn Du, mỗi đời cách nhau 30 năm, ta có niên biểu (từ đây về sau vì hệ Phan Xá không thay đổi cách tính nên không viết nữa, còn nếu tính hệ Phan Xá theo 15 năm thì tôi e rằng quá trẻ để có người nối dõi, vã lại nếu tính 15 năm thì Ngài Nghệ An Trại chủ sẽ sinh vào khoảng năm 1341, lúc đó Nghệ An đã không còn tên gọi là Trại nữa và vì vậy Ngài cũng không làm Trại chủ Nghệ An được). Đời

3.

Ô. Đa Lôi,

1340

4.

Ngài Đa Lư,

1360

5.

Ngài Nhơn Huyện,

1380

6.

Ngài Nhơn Bàn,

1400

7.

Ô. Văn Liêu,

1430

8.

Ô. Văn Huyền,

1460

9.

Ô. Long Lân,

1490

10.

Ô. Ích Tráng,

1520

11.

Ô. Văn Du,

1550

Niên biểu này cho thấy có thể đúng với trường hợp của Ông Văn Du (84 tuổi vào năm 1634), nhưng vẫn không đúng với Ngài Nhơn Bàn (70 tuổi vào năm 1470). e-Trường hợp 5: Giống như cách tính niên biểu 4, nhưng lùi năm sinh của Ngài Nhơn Bàn lại 10 năm để thích ứng với chức vụ Cẩm y vệ Đô chỉ huy sứ (không thể lùi lại 5 năm vì như vậy đến năm 1470 Ngài đã 65 tuổi là tuổi đã trí sĩ), ta có niên biểu: Đời

3.

Ô. Đa Lôi,

1350

4.

Ngài Đa Lư,

1370

5.

Ngài Nhơn Huyện,

1390

6.

Ngài Nhơn Bàn,

1410

7.

Ô. Văn Liêu,

1440

8.

Ô. Văn Huyền,

1470

9.

Ô. Long Lân,

1500

10.

Ô. Ích Tráng,

1530

11.

Ô. Văn Du,

1560

Niên biểu này phù hợp với Ngài Nhơn Bàn (60 tuổi vào năm 1470) và Ông Văn Du (74 tuổi vào năm 1634), tuy khoảng thời gian chênh lệch giữa hai anh em Ông Khảm và Ông Đa Lôi là 14 năm, theo tôi thì điều này có thể chấp nhận được. g-Trường hợp 6: Giống như cách tính niên biểu 5, nhưng tiếp tục lùi năm sinh của Ngài Nhơn Bàn lại 15 năm, ta có niên biểu: Đời

3.

Ô. Đa Lôi,

1355

4.

Ngài Đa Lư,

1375

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

15


5.

Ngài Nhơn Huyện,

1395

6.

Ngài Nhơn Bàn,

1415

7.

Ô. Văn Liêu,

1445

8.

Ô. Văn Huyền,

1475

9.

Ô. Long Lân,

1505

10.

Ô. Ích Tráng,

1535

11.

Ô. Văn Du,

1565

Niên biểu này phù hợp với Ngài Nhơn Bàn (55 tuổi vào năm 1470) và Ông Văn Du (69 tuổi vào năm 1634), nhưng khoảng thời gian giữa hai anh em Ông Khảm và Ông Đa Lôi lại cách nhau quá xa, đến 19 năm là không phù hợp. Như vậy, trong 6 cách tính niên biểu như trên, chỉ có cách tính niên biểu thứ 5 là tương đối phù hợp, tôi viết niên biểu này lại đầy đủ như sau: 1.Ngài Nghệ An Trại chủ,

1296

2.Ô. Quang,

1316

3.Ô. Khảm,

1336

Ô. Đa Lôi,

1350

4.Ô. Trình,

1356

Ngài Đa Lư,

1370

5.Ô. Tựu,

1376

Ngài Nhơn Huyện,

1390

6.Ô. Huy Tài,

1396

Ngài Nhơn Bàn,

1410

7.Ô. Nhân,

1416

Ô. Văn Liêu,

1440

8.Ô. Trí Phu,

1436

Ô. Văn Huyền,

1470

9.Ô. Khắc Đạn,

1456

Ô. Long Lân,

1500

10.Ô. Chính Nghị,

1476

Ô. Ích Tráng,

1530

Ô. Văn Du,

1560

11.

h-Trường hợp 7: Tiếp tục xem xét đến lần trùng tu Phổ hệ kế tiếp do Ông Phan Kim Huống thực hiện vào năm 1810, cũng giống như cách tính niên biểu 6, ta có niên biểu sau đây: 6. Ngài Nhơn Bàn,

1410

7. Ô. Văn Liêu,

1440

8. Ô. Văn Huyền,

1470

9. Ô. Long Lân,

1500

10. Ô. Ich Tráng,

1530

11. Ô. Văn Du,

1560

12. Ô. Văn Linh,

1604

13. Ô. Ích Nghi,

1634

14. Ô. Kim Huống,

1664

Sở dĩ tính phần Ông Văn Linh cộng thêm 14 năm là vì Ông Văn Linh không phải là trực hệ của Ông Văn Du, và tính theo cách tương tự giữa Ông Khảm và Ông Đa Lôi. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

16


Niên biểu này không phù hợp với Ông Kim Huống vì vào năm 1810 Ông đã 146 tuổi. i-Trường hợp 8: Giống như cách tính 7 nhưng mỗi đời cách nhau 35 năm, ta có niên biểu: 6. Ngài Nhơn Bàn,

1410

7. Ô. Văn Liêu,

1445

8. Ô. Văn Huyền,

1480

9. Ô. Long Lân,

1515

10. Ô. Ích Tráng,

1550

11. Ô. Văn Du,

1585

12. Ô. Văn Linh,

1634

13. Ô. Ích Nghi,

1669

14. Ô. Kim Huống,

1704

Niên biểu này phù hợp với Ông Văn Du (49 tuổi vào năm 1634) nhưng lại không phù hợp với Ông Kim Huống (106 tuổi vào năm 1810). k-Trường hơp 9 : Giống như cách tính 8 nhưng mỗi đời cách nhau 40 năm, ta có niên biểu: 6. Ngài Nhơn Bàn,

1410

7. Ô. Văn Liêu,

1450

8. Ô. Văn Huyền,

1490

9. Ô. Long Lân,

1530

10. Ô. Ích Tráng,

1570

11. Ô. Văn Du,

1610

12. Ô. Văn Linh,

1664

13. Ô. Ích Nghi,

1704

14. Ô. Kim Huống,

1744

Niên biểu này không phù hợp với Ông Văn Du (24 tuổi vào năm 1634) tuy có thể phù hợp với Ông Kim Huống (66 tuổi vào năm 1810). l-Trường hợp 10: Như vậy ta phải chấp nhận cách tính 8 cho trường hợp của Ông Văn Du, và sẽ thay đổi từ Ông Văn Linh đến Ông Kim Huống, mỗi đời cách nhau 40 năm, ta có niên biểu: 11.Ô. Văn Du,

1585

12.Ô. Văn Linh,

1639

13.Ô. Ích Nghi,

1679

14.Ô. Kim Huống,

1719

Niên biểu này không phù hợp ở chỗ vào năm 1810 Ông Kim Huống đã 91 tuổi. m-Trường hợp 11: Giống như cách tính 10 nhưng mỗi đời các nhau 45 năm, ta có niên biểu: Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

17


11.Ô. Văn Du,

1585

12.Ô. Văn Linh,

1644

13.Ô. Ích Nghi,

1689

14.Ô. Kim Huống,

1734

Như vậy vào năm 1810, Ông Kim Huống được 76 tuổi. Tôi tạm dừng ở cách tính này vì nếu tính mỗi đời cách nhau 50 năm thì xa quá và khó có thể xảy ra vào thời bấy giờ. Và qua trình bày các cách tính niên biểu nêu trên, ta có một niên biểu có thể châp nhận được , đó là : 1.Ngài Nghệ An Trại chủ,

1296

2.Ô. Quang,

1316

3.Ô. Khảm,

1336

Ô. Đa Lôi

1350

4.Ô. Trình,

1356

Ngài Đa Lư,

1370

5.Ô. Tựu,

1376

Ngài Nhơn Huyện,

1390

6.Ô. Huy Tài,

1396

Ngài Nhơn Bàn,

1410

7.Ô. Nhân,

1416

Ô. Văn Liêu,

1445

8.Ô. Trí Phu,

1436

Ô. Văn Huyền,

1480

9.Ô. Khắc Đạn,

1456

Ô. Long Lân,

1515

10.Ô. Chính Nghị,

1476

Ô. Ích Tráng,

1550

11.

Ô. Văn Du,

1585

12.

Ô. Văn Linh,

1664

13.

Ô. Ích Nghi,

1689

14.

Ô. Kim Huống,

1734

Niên biểu được chấp nhận này có những điểm phù hợp sau đây: -Ngài Nghệ An Trại chủ sinh khoảng năm 1296 đời vua Trần Anh Tông (1293-1314), đến năm 1337 khi chấm dứt tên gọi Trại Nghệ An thì Ngài đã khoảng 42 tuổi, một cái tuổi có thể làm Trại chủ Nghệ An được. -Ông Huy Tài sinh khoảng năm 1396, đến năm 1426 khi Lê Lợi tiến vào Đông đô phong tước cho các tướng thần thì Ông khoảng 31 tuổi. -Ông Nhân sinh khoảng năm 1416, năm 1435 khi từ Chuyển vận sứ huyện Phù Lưu chuyển lên làm An phủ phó sứ lộ Thiên Trường thì Ông đã được khoảng 20 tuổi. Có thể nói Ông còn trẻ nhưng ta biết rằng cha của Ông là Ông Huy Tài vào năm 1426 đã giữ chức Đại liêu ban, là một công thần tham gia kháng chiến chống Minh thì ta có thể hiểu và chấp nhận được việc Ông là Chuyển vận sứ rồi An phủ phó sứ vào khoảng năm 20 tuổi. -Ngài Nhơn Bàn sinh khoảng năm 1410, vào năm 1470 Ngài được khoảng 61 tuổi đủ để đảm nhận chức vụ Cẩm y vệ Đô chỉ huy sứ và được phong tước Địch nghĩa bá.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

18


-Ông Văn Du sinh khoảng năm 1585, vậy vào năm 1634 lúc trùng tu Phổ hệ Ông đã khoảng 49 tuổi, đủ để đạt chức vị Toàn đức hầu. Ở đây cũng xin mở ngoặc nói thêm rằng, nếu có người hỏi tôi tại sao lại cho rằng Ông Phan Nhân ghi trong Đại việt sử ký toàn thư chính là Ông Nhân của hệ Phan xá thì tôi cũng đành phải xin người hỏi chấp nhận vì ngoại trừ chức vụ An phủ sứ (hoặc An phủ sứ phó sứ) lộ Lỵ Nhân là một điểm chung thì tôi chỉ còn lại một sự linh cảm mà thôi. 4.- VỀ LẠI BỘ VIÊN NGOẠI PHAN KHẢM VÀ QUẢN CẨN TƯỚNG QUÂN TẢ CÁC MÔN SỨ VIÊN NGOẠI PHAN ĐA LÔI: Sách Lịch triều hiến chương loại chí (16) ghi: "...Chức Viên ngoại bắt đầu từ đời Lý, thường dùng chức quan sung sứ bộ đi sứ (như năm Thuận Thiên 1 sai Viên ngoại lang là bọn Lương Văn sang Tống, năm thứ 2 lại sai Viên ngoại lang Lý Văn Nghĩa sang Tống, năm thứ 3 lại sai Viên ngoại lang là bọn Ngô Nhương sang Tống). Đến đời vua Thần Tông lại đặt chức Viên ngoại lang ở Thượng thư sảnh, dự bàn chính sự, danh vị cũng trọng, quan trong quan ngoài thường gia thêm chức ấy (như nội thị là bọn Phí Công Tín, Hàn Quốc Bảo cũng gia chức Viên ngoại lang, coi việc phủ Thanh Hoá là bọn Phạm Tín, Dương Chưởng cũng gia chức Viên ngoại lang). Nhà Trần theo đặt chức ấy, chức sự cũng thuộc về Trung Thư. Nhà Lê lúc mới dựng nước bắt đầu đặt chức Viên ngoại lang ở 6 bộ (lấy bọn Nguyễn Tôn Vỹ 6 người làm chức ấy). Đến đời Hồng Đức định lại quan chế, đặt phẩm trật Viên ngoại lang vào hàng tòng lục. Thời trung hưng về sau noi theo không đổi, nhưng chức danh hơi thấp, chỉ để trao cho những người tạp lưu trúng trường thôi...". Xem như vậy thì thấy rằng chỉ đến đời Lê trung hưng thì chức Viên ngoại lang mới có chức vị hơi thấp, còn trước đó đều là chức vọng trọng, giữ việc ngoại giao đại diện cho đất nước trong việc giao dịch với nước ngoài (thời Lý), hoặc giữ việc đề nghị các việc lên vua và vâng tuyên mệnh lệnh (thời Trần) (17), những công việc đòi hỏi người đảm đương chức vụ phải là người có tài, được nhà vua tin cẩn. Cả hai Ông Phan Khảm và Phan Đa Lôi đều sống và làm quan thời Trần khoảng các đời vua Trần Hiến Tông (1329-1341), Trần Dụ Tông (1341-1369), Trần Nghệ Tông (1370-1372), Trần Duệ Tông (1372-1377)... nên chức Viên ngoại lang của hai Ông cũng là trọng. Sở dĩ tôi ghi lại đây chức vụ Viên ngoại lang là vì tôi nghĩ có thể có người cho rằng đây là một chức thấp, điều này sẽ làm giảm mất uy tín và công sức của hai Ông đối với đất nước và đối với dòng tộc. 5.- VỀ VIỆC VÀO NAM:

(

16

(

17

) Sách đã dẫn, Quan chức chí trang 480. ) Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, tập 3 trang 256: Trung thư sảnh có Trung thư lệnh, Thị lang, Tả hữu gián nghị

đại phu, Tả hữu chính ngôn, Tả hữu tham nghị … giữ việc đề nghị các việc lên vua và vâng tuyên mệnh lệnh. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

19


Như phần niên biểu đã ghi nhận, đất nước ta bị đô hộ bởi nhà Minh vào lúc Ngài Thuỷ tổ Nhơn Bàn chào đời, nên tôi nghĩ đầu tiên là phải tìm hiểu tình hình chung thời bấy giờ, sau đó mới đề cập đến việc vào nam. A- Đất nước ta thời thuộc Minh và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn : a/ Nhà Minh với chính sách đô hộ tàn bạo (18): Năm 1407 sau khi bắt được cha con Hồ Quý Ly, nhà Minh đã thực sự bắt đầu cuộc đô hộ nước ta kéo dài 20 năm. Âm mưu của nhà Minh là không những chiếm nước ta làm thuộc quốc mà còn muốn thực hiện dã tâm đồng hóa, vĩnh viễn xóa bỏ nước ta, sát nhập hẳn vào lãnh thổ nhà Minh bằng việc đổi nước ta thành quận Giao Chỉ, coi như một địa phương của quốc gia phong kiến nhà Minh, đặt quan cai trị, lập ra nhiều cơ quan thu thuế nhằm mục đích vơ vét tài nguyên, của cải của nước ta, thiết lập các tổ chức văn hóa, tôn giáo xuống tận châu huyện để ràng buộc lòng người (19). Chính sách tàn bạo của nhà Minh đã được Nguyễn Trãi nêu rõ trong Bình ngô đại cáo: Thui dân đen trên lò bạo ngược Vùi con đỏ dưới hố tai ương Lừa chúng dối trời, kế dỡ đủ muôn nghìn khóe Động binh gây hấn, ác chứa gần hai mươi năm Đủ điều bại hoại nghĩa nhân, chẳng còn trời đất Hết cách vét vơ thuế má, nhẵn sạch núi đầm Lên núi đào vàng, xông lam chướng để phá rừng đãi cát Ra khơi mò ngọc, vấp giao long mà lặn biển dòng dây Nhiễu dân bẫy đặt bắt hươu đen Hại vật lưới đăng lùng trả biếc Dù thảo mộc côn trùng cũng không thỏa sống Đến khốn cùng quan quả cũng chẵng yên thân Rút máu mủ sinh linh, lũ kiệt hiệt miệng văng nhờn béo Đủ công trình thổ mộc, chỗ công tư nhà cửa nguy nga

(

18

(

19

) Tóm lược sách Khởi nghĩa Lam Sơn, sđd.

) Dã tâm cai trị bằng văn hóa và tư tưởng của nhà Minh của Hồ Bạch Thảo, www.talawas.com-

Tư tưởng lịch sử 3/2007. Các tổ chức này có thể tóm tắt như sau: -Nho học: 12 ty tại phủ, 19 ty tại châu, 62 ty tại huyện -Âm dương học: 6 ty tại phủ, 14 ty tại châu, 26 ty tại huyện -Phật học: 3 ty Tăng cang tại phủ, 14 ty Tăng chính tại châu, 56 ty Tăng hội tại huyện -Đạo học: 6 Đạo kỷ tại phủ, 15 Đạo chính tại châu, 37 Đạo hội tại huyện qua đó cho thấy các tổ chức này xen kẻ chằng chịt trong các địa phương như chân bạch tuột, dân ta lâm vào cảnh “lọt sàng xuống nia”, cuối cùng cũng bị một trong những tổ chức này khống chế. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

20


Chốn hương thôn sưu dịch nặng nề Trong làng xóm cửi canh bỏ phế... Tội ác đó: Tát khô nước Đông hải, không rữa sạch tanh hôi Chẻ hết trúc Nam sơn, khó ghi đầy tội ác Do đó: Thần nhân đều căm giận Trời đất lẽ nào dung tha Vì vậy, những cuộc khởi nghĩa giành độc lập đã liên tục nổ ra như các cuộc khởi nghĩa của Phạm Chấn, Phạm Tất Đại, Trần Nguyên Thôi, Trần Ngỗi (Giản định đế), Trần Quý Khoán (Trùng quang đế), Nguyễn Sư Cối, Đồng Mặc, Phạm Tuân, Hoàng Thiêm Hữu, Nông Văn Lịch, Nguyễn Liễu, Trần Quý Tảm, Nguyễn Trinh, Nguyễn Chích, Phan Liêu, Lộ Văn Luật,

Phạm

Ngọc, Lê Ngã... nhưng rồi trước sức mạnh của quân Minh, tất cả những cuộc khởi nghĩa hoặc thất bại hoặc gia nhập hàng ngũ nghĩa quân Lam Sơn. b/ Khởi nghĩa Lam Sơn (20): Vào một buổi sáng đầu tháng 2 năm Bính thân 1416, Lê Lợi cùng 18 người bạn thân tín nhất làm lễ tế cáo trời đất, kết nghĩa anh em quyết tâm đánh giặc cứu nước tại làng Lũng Nhai (tức Lũng Mi, tên nôm là làng Mé thuộc xã Ngọc Phụng, huyện Thường Xuân), rồi đến ngày 2 tháng giêng năm Mậu tuất (tức ngày 7/02/1418) trong không khí ngày Tết Nguyên đán cổ truyền của dân tộc, Lê Lợi và toàn thể nghĩa quân dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn. Lê Lợi tự xưng là Bình Định vương, truyền hịch đi các nơi kêu gọi nhân dân nỗi dậy giết giặc cứu nước. Buổi đầu khởi nghĩa gặp nhiều khó khăn, có lúc tuyệt lương phải tìm măng tre, nứa và các thứ cây, củ có thể ăn được sống qua ngày, Lê Lợi bị quân Minh quật cả mồ mã tổ tiên, vợ và con đều bị giặc bắt...Nhưng bằng tấm lòng yêu nước và biết chọn lối đánh thích hợp, thế lực của nghĩa quân Lam Sơn ngày càng lớn mạnh. Năm 1424, với kế hoạch chuyển hướng chiến lược vào nam, nghĩa quân bất ngờ đột kích thành Đa Căng (xã Thọ Nguyên, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá), hạ thành Trà Long (tương ứng với đất huyện Tương Dương, Con Cuông, tỉnh Nghệ An), rồi tiếp đó là các chiến thắng Khả Lưu (Vĩnh Sơn, Anh Sơn, Nghệ An), và Bồ Ải (có lẽ thuộc Đức Sơn, Anh Sơn, Nghệ An) đã làm cho quân địch bị tổn thất nặng, chỉ còn cố thủ trong thành Nghệ An. Nhân đó nghĩa quân đã giải phóng toàn bộ các châu huyện ở Nghệ An, xây dựng căn cứ địa ở Đỗ Gia rồi chuyển ra thành Lục Niên, rồi một mặt đưa một bộ phận nghĩa quân tiến ra Bắc giải phóng Diễn Châu, Thanh Hoá, và mặt khác một bộ phận nghĩa quân tiến vào nam giải phóng Tân Bình, Thuận Hoá, tạo nên những bước trưởng thành vượt bực của nghĩa quân trong hai năm 1424 - 1425. Tại những châu huyện được giải phóng, nhân dân vô cùng phấn khởi đem hết nhiệt tình ra đón tiếp và ủng (

20

) Tóm lược sách Khởi nghĩa Lam Sơn, sđd.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

21


hộ nghĩa quân, hàng vạn trai tráng đã đầu quân đánh giặc, lực lượng nghĩa quân vì thế không những được tăng cường về số lượng mà còn được nhanh chóng nâng cao về chất lượng. B- Vào nam: Phổ hệ 1994 (21) ghi: "... trong Phổ hệ tự tự (có Mục lục đồ tự) và Phổ hệ tiểu tự (có Cung lục thiệt lục) đều viết: Liêm Thuần nhị quận công tranh, Thăng Điện nhị phủ chi dân binh khách đại dân ly tán Nhân Huyện nãi sứ ngã...nghĩa là vào thời kỳ Sơ tổ và Thuỷ tổ chúng ta vào lập nghiệp ở Hòa Đa và Bảo An, hai quận Liêm Thuần còn đang đánh nhau, nhân dân rất khổ cực và ly tán...Từ đó, sau khi nghiên cứu Phổ hệ nhiều tộc, trong đó có tộc có mối quan hệ tam kiết hữu với tộc Phan, Phổ hệ 1994 xác định thời gian vào nam phải vào thời vua Lê Nhân Tông. Vào ở được một thời gian, Ngài Nhơn Bàn xin cha mẹ ra tham gia việc quân. Ngài làm tới chức Thượng tướng và được phong tước Bá, và do nhu cầu công vụ Ngài được cử trở về Quảng Nam trông coi việc thuế và lo việc quốc kế dân sinh, nên có câu liễn thờ: Trở lại đất nam vì nước vì dân công quá lớn Điềm lành ứng báo này con này cháu đức lâu dài Trở lại Bảo An, Ngài gặp mẫu thân và tìm phần mộ phụ thân từ Cồn Ông Bản ở làng Bất Nhị, cải táng về xứ Cồn nai hạ ở Bảo An. Tiếp tục sự nghiệp mở đất xây nền của phụ thân, Ngài cùng hai Ngài Nguyễn tổ và Ngô tổ khai khẩn mở mang thêm đất đai lập xã hiệu Phi Phú, triều Tây Sơn đổi Phú An, đến thời Minh Mạng đổi Bảo An. Ngài có công với nước, có hiếu với cha mẹ và giàu lòng tình nghiã, kính trên mến dưới, trọng đức tài, nên Ngài được sắc phong Tiền hiền khai khẩn, hai Ngài Nguyễn tổ và Ngô tổ cũng được sắc phong cùng lúc. Ngài được hai lần sắc phong: +Lần 1: Tiền hiền khai khẩn, Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ đô chỉ huy sứ Địch nghĩa bá. +Lần 2: Tiền hiền khai canh, Dục bảo trung hưng linh phò tôn thần. Phổ hệ II-1971 (22) ghi: "...Ngài Sơ tổ chúng ta đã cùng Ngài Tiền hiền Nguyễn Liệt (tổ họ Nguyễn) và Ngài Tiền hiền Ngô Văn (tổ họ Ngô) đều có chí khai hoang lập xã. Ba ngài kết bạn tâm giao mang vợ con vào nam sáng lập ấp Hòa Đa gần làng La Nan phía bắc sông Thu Bồn. Sau một thời gian cư trú tại đây, nhận thấy đất xấu, nước lại không tốt, không đúng với ý nguyện tác lập một cơ đồ vĩnh viễn để lại cho con cháu ngày sau, ba Ngài bèn ủy thác người canh thủ và đã vượt sông qua phía nam tìm được một nơi hoang nhàn, rộng rãi, đất đai phì nhiêu, cỏ cây tú mậu liền mang vợ con đến cư trú, đồng tâm hiệp lực, ngày thì khai phá, tối ngủ trên cây, công lao khó nhọc không sao kể xiết. Nhưng chưa được bao lâu thì đất nước loạn ly nhân dân phân tán, Ngài Nhơn Huyện mới bảo con là Ngài Nhơn Bàn về lại cố hương để lánh nạn. Vâng lời của thân phụ, Ngài Nhơn Bàn về tới cố hương thì bà con cũng bị cảnh loạn ly tản (

21

) Sách đã dẫn , trang 442.

(

22

) Sách đã dẫn, trang 5. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

22


mác điêu tàn. Trong hoàn cảnh tứ cố vô thân nên Ngài phải xin làm con nuôi một gia đình rồi kết duyên cùng bà Dương thị người Quảng Nam. Sau khi lập gia đình xong, Ông bà cùng nhau trở vào nam, khi vào thì thân phụ là Ngài Nhơn Huyện chẳng may đã qua đời, chỉ còn thân mẫu. Trong khi hàn huyên, bà thuật lại thân phụ vì lánh nạn mạng chung tại ấp Bác Nhị, mai táng tại đấy nhưng không biết đích xác nơi phần mộ, Ngài Nhơn Bàn bèn nhờ thầy soi môi tìm cốt và đã nhận thấy nơi ống chân có tật nên biết đây là di hài của thân phụ, bèn khâm liệm đem về làng chôn tại xứ Cồn nai hạ. Người ta nhìn thấy nơi mai táng có ong về làm tổ nên đều nghĩ rằng đó là điềm con cháu ngày sau đông đúc. Tống táng thân phụ xong, Ngài lo nối chí thân sinh, cùng hai Ngài Nguyễn, Ngô tiếp tục khai khẩn đất đai, lập thành xã Phi Phú gồm cả ấp Hòa Đa và sau đổi tên xã Phi Phú là Phú An. Vậy Ngài Nhơn Bàn là Thuỷ tổ tộc Phan chúng ta, Ngài tức là Tiền hiền tộc Phan kể là đời thứ nhất. Đến triều Tây Sơn tu bộ chia Phú An thành hai ấp, đến đời Minh Mạng thứ 17 đổi ra Bảo An đông, tây nhị xã. Khi lập xã xong, Ngài Thuỷ tổ chúng ta xuất sĩ làm quan đến chức Đặc tấn phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ đô chỉ huy sứ Địch nghĩa bá. Ngài sinh hạ được 7 trai, 3 gái đều được quý hiển, trong ấy 2 Ngài chết, còn lại 5 Ngài là Thế tổ 5 phái, tức là thế hệ thứ hai vậy... Từ việc ghi chép của hai Phổ hệ cho thấy : a/ Việc vào nam được xác nhận là thời kỳ ly loạn, nhân dân xiêu tán. Tôi ghi lại đây sử liệu từ thời kỳ 1407 đến 1471 để tiện việc giải thích thêm sau này : *Từ 1407 đến 1428 là thời kỳ thuộc Minh, nhân ta bị đô hộ tàn bạo, và cuộc kháng chiến của Bình Định vương Lê Lợi kéo dài từ 1418 đến 1428 có ảnh hưởng sâu rộng trên cả nước. *Từ 1434 đến 1471 là những cuộc xâm lấn của Chiêm Thành có ảnh hưởng đến Hoá Châu (23) gồm : +Tháng 4 năm Giáp dần 1434, Chiêm Thành vào cướp cửa Việt (Quảng Trị). +Tháng 5 năm Giáp tí 1444, vua Chiêm là Bí Cái đến cướp thành Hoá Châu, triều đình sai Lê Khả và Lê Bôi đem 10 vạn quân đi đánh. +Tháng 4 năm Ất sửu 1445, Chiêm Thành vào cướp Hoá Châu, triều đình sai Tư đồ Lê Thận và Đô đốc Nguyễn Xí đem quân đi đánh. +Tháng chạp năm Ất sửu 1445, Lê Khả đem quân đi đánh Chiêm Thành. +Tháng 3 năm Kỷ sửu 1469, Chiêm Thành quấy nhiễu vùng Hoá Châu. +Tháng 8 năm Canh dần 1470, vua Chiêm Thành là Trà Toàn đem 10 vạn quân vào đánh Hóa Châu. Vua Lê Thánh Tông điều 26 vạn quân, tự làm tướng đi đánh Chiêm Thành, vây thành Trà Bàn, bắt được vua Chiêm là Trà Toàn. +Tháng 11 năm Tân mão 1471, Chiêm Thành lại làm phản, nhà vua sai Lê Niệm đánh bắt được vua Chiêm là Trà Toại và đồng đảng đem về kinh.

( 23) Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam của Viện Sử học, Nhà xuất bản KHXH 1987, trang 255 269. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

23


Xem các cuộc chiến tranh giữa nước ta và các nước láng giềng được sử liệu ghi lại cho thấy, cuộc kháng chiến chống Minh của Bình Định vương Lê Lợi là một cuộc chiến đấu một mất một còn của kẻ yếu chống lại kẻ mạnh, nghĩa quân từ chỗ không có gì nhưng nhờ vào tấm lòng yêu nước, căm thù giặc tàn bạo và được lãnh đạo bởi một bộ chỉ huy tài trí đã lần lượt đi từ thắng lợi nầy đến thắng lợi khác và cuối cùng là chiến thắng kẻ thù, giải phóng đất nước sau 10 năm gian khổ. Trong khi đó những cuộc xâm lấn của Chiêm Thành xảy ra vào lúc đất nước chúng ta đã có chính quyền vững mạnh, tính chất của các trận chiến đánh Chiêm Thành không mang một ý nghĩa sống còn đối với dân tộc ta so với cuộc kháng chiến chống Minh, vì lúc đó tương quan lực lượng giữa ta và Chiêm Thành khác hẳn, ta là một nước mạnh còn Chiêm Thành là một nước yếu, như vậy thì có thể thấy câu Liêm Thuần nhị quận công tranh có ý nghĩa phù hợp với công cuộc kháng chiến chống Minh hơn là việc đánh Chiêm Thành. b/ Trở lại với việc chống quân Minh, năm 1424 nghĩa quân giải phóng các châu huyện ở Nghệ An, nhân dân nô nức, già trẻ trai gái đều hăng hái tham gia vào các công việc của nghĩa quân, hàng vạn trai tráng đã gia nhập hàng ngũ, vào lúc đó Ngài Nhơn Huyện được khoảng 36 tuổi và Ngài Nhơn Bàn được khoảng 16 tuổi. Ta cũng biết rằng vào lúc nghĩa quân giải phóng các châu huyện của Nghệ An, ở đây cũng còn những lực lượng kháng chiến chống Minh khác của Phan Liêu, Lộ Văn Luật, Cầm Quý, Nguyễn Biên, Trương Hán, Phan Đà, Nguyễn Tuấn Thiện v.v...và do uy tín rộng lớn của Lê Lợi và bộ tham mưu, do những chiến công vang dội của nghĩa quân, các lực lượng chống Minh này đều gia nhập nghiã quân Lam Sơn. Hiện nay ta không có tài liệu nhưng cũng có thể cho rằng Ngài Nhơn Huyện đã tham gia vào các lực lượng đó và đã cùng gia nhập hàng ngũ nghĩa quân Lam Sơn vào thời gian này, còn Ngài Nhơn Bàn thì vừa độ tuổi trai tráng, khí huyết phương cương, trong tình hình nô nức phấn khởi như thế, việc Ngài đầu quân vào cờ nghĩa Lam Sơn là một điều có thể khẳng định. Ta cũng nên biết thêm là chính nghĩa quân đã xây dựng căn cứ địa tại Nghệ An nên tình hình gia nhập nghĩa quân Lam Sơn ở tại Nghệ An cũng có khác so với các nơi, vì về mặt tâm lý ngoài lòng yêu nước mà bất cứ người dân Việt nào ở bất cứ nơi đâu cũng có, họ còn có niềm tự hào là nơi căn cứ địa của bộ chỉ huy nghĩa quân. Nhưng công việc chống Minh không ngừng lại ở Nghệ An, với kế hoạch mở rộng vùng giải phóng làm hậu phương vững chắc, Lê Lợi đã liên tục cho quân ra bắc, vào nam. Tháng 8 năm 1425, Lê Lợi phái Trần Nguyên Hản đem quân vào nam giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa, có thể tin rằng trong đạo quân này có cả Ngài Nhơn Huyện cùng Ngài Nhơn Bàn, Ngài Nguyễn Liệt, Ngài Ngô Bồ. Và như câu đối ở nhà thờ đã ghi "Bắc địa tùng Vương tam kiết hữu", trong lần vào nam này đã diễn ra cuộc kết nghĩa Đào viên của ba Ngài họ Phan, họ Nguyễn, họ Ngô. Cả ba Ngài trước đó ở các nơi khác nhau, không ai biết ai, nhưng cùng vào nam dưới lá cờ nghĩa, cùng hành động vì mục đích chung là giải phóng đất nước đã gắn liền ba Ngài làm một và họ đã kết nghĩa anh em. Từ đây, ta có thể xác định "tùng Vương" chính là theo lệnh Bình Định vương Lê Lợi, xét về mặt ý nghĩa và cả về mặt từ ngữ thì phù hợp hơn là theo lệnh các vua nào khác. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

24


Cuộc kháng chiến vẫn chưa kết thúc, miền bắc nước ta vẫn còn ở dưới ách thống trị của quân Minh, các lực lượng nghĩa quân lại được lệnh tập trung ra bắc giải phóng Đông đô, nhưng miền nam là nơi giáp giới với Chiêm Thành cũng cần phải lo vì lúc này Chiêm Thành ngã về phía nhà Minh, nhận chức tước của vua Minh, hơn nữa đây lại là vùng mới giải phóng nên chắc chắn tuy có đưa quân ra bắc nhưng một lực lượng nghĩa quân vẫn còn ở lại tại đây (Thuận Hóa) để vừa xây dựng hậu phương làm chỗ dựa vững chắc cho tiền tuyến vừa chống giặc phương nam. Và Ngài Nhơn Bàn đã theo quân ra bắc, còn ba Ngài Nhơn Huyện, Nguyễn Liệt, Ngô Bồ ở lại miền nam. Nhưng ở lại với mục đích là xây dựng hậu phương nên chắc chắn là lực lượng nghĩa quân đã tổ chức thành những “đồn điền" (một hình thức “ngụ binh ư nông” của tổ tiên ta bao gồm quân lính và nhân dân, quân để giữ trị an và cùng dân lo khai phá đất đai, mở rộng diện tích canh tác, bảo đảm và ổn định đời sống), rồi từ những đồn điền đã ổn định lại tiến lên xây dựng những đồn điền mới. Đây là lý do giải thích vì sao từ phía bắc sông Thu Bồn (ấp Hoà Đa) cả ba Ngài Phan, Nguyễn, Ngô đã tiến xuống phía nam sông Thu Bồn làm thành Bảo An hiện nay, nhờ công sức mở đất đó cả ba Ngài cùng được sắc phong Tiền hiền khai khẩn. Còn Ngài Nhơn Bàn như đã nói ở trên là đã theo đoàn quân tiến ra bắc giải phóng Đông Đô (Thăng Long), giải phóng đất nước, con đường chinh chiến này đã góp phần đưa Ngài từ một thanh niên trai tráng trở thành một tuớng lĩnh và sau này được phong tước bá. Ta biết rằng đến năm 1428, sau khi quân Minh rút hết về nước, Bình Định vương Lê Lợi lên ngôi lấy hiệu là Lê Thái Tổ, binh số lúc bấy giờ là 25 vạn, nhà vua cho 15 vạn về làm ruộng, chỉ lưu 10 vạn tại ngủ (24), trong số 10 vạn lưu tại ngũ có Ngài Nhơn Bàn là một tướng lĩnh, còn ba Ngài Nhơn Huyện, Nguyễn Liệt, Ngô Bồ lẽ đương nhiên là ở lại luôn Bảo An mà không quay ra bắc vì mảnh đất mới đã thấm bao công sức của các Ngài trong những ngày gian khổ trước đó. Rồi Ngài Nhơn Bàn cũng trở về nam và theo tôi, Ngài trở về nam vì công vụ, vì mặt nam vẫn là một điểm trọng yếu cần quân binh trấn thủ để giữ yên bờ cỏi đang còn nhiều khó khăn sau hơn 20 năm đô hộ của quân Minh và 10 năm kháng chiến của nghĩa quân. Điều này giải thích được tại sao Ngài Nhơn Bàn ra bắc rồi lại về nam, không phải như Phổ hệ II-1971 ghi là Ngài đi lánh nạn, vì một người đi lánh nạn thì không thể sau này được phong tước bá và chỉ huy vệ Cẩm y là cấm binh được. Ta biết rằng sau chiến thắng quân Minh giải phóng đất nước, nhiệm vụ quan trọng đặt ra cho vua Lê Thái Tổ là phải nhanh chóng khôi phục lại nền kinh tế đã bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, mà phía nam giáp giới với Chiêm Thành là nơi đất rộng người thưa, cho nên tiếp tục chính sách "đồn điền" là một phương cách vừa giữ yên bờ cỏi vừa thực hiện được nhiệm vụ kinh tế. Ngài Nhơn Bàn trở về nam là cũng để thực hiện chính sách đó (có thể đây là điều mà trong Phổ hệ 1994 ghi là điều quốc kế dân sinh), nên sau khi cải táng xong thân phụ, Ngài lại cùng hai Ngài Nguyễn, Ngô tiếp tục việc khai hoang mở đất, tạo nên vế đối "Nam thiên lập xã".

(

24

) Lịch triều hiến chương loại chí, sđd, Binh chế chí, trang 11. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

25


Công việc rất lớn, đòi hỏi công sức của nhiều người cùng tham gia, đây lại là chính sách của nhà nước nên không chỉ có ba Ngài mà còn rất nhiều người nữa cùng thực hiện, vì vậy mà sau này đã phải đổi câu đối lại thành "long hữu nghị" và "tác dân sơ" như các Phổ hệ đã ghi. Tuy nhiên nói gì thì nói, công sức của bốn Ngài đã được ghi nhận bằng những sắc phong Tiền hiền khai khẩn còn lưu lại đến ngày nay. Nhưng rồi việc quân lại gọi Ngài Nhơn Bàn ra đi... C-Về đất Điện Bàn trong lịch sử: Nói đến Bảo An là phải nói đến Điện Bàn vì Bảo An luôn là một bộ phận của Điện Bàn. Việc tìm hiểu lịch sử đất Điện Bàn cũng góp phần trong việc xác định các Ngài đã vào nam vào lúc nào. Trước hết nói về tên Điện Bàn. Sử liệu không xác định tên "Điện Bàn" do ai đặt và xuất hiện từ thời nào, nhưng theo Phổ chí họ Phan ở Đà Sơn thì Ngài Thuỷ tổ là Phan Công Thiên được vua Trần phong chức "Đô chỉ huy kinh lược chiêu dụ xử trí sứ" trông coi từ Hóa Châu trở vào nam. Sau thời gian cai trị, giáo hóa nhân dân chăm lo cày cấy, học hành, thấy dân trong xứ tiến hóa đã nhiều, Ngài dâng sớ xin vua Trần chia Hóa Châu từ Hải Vân (động Trà Ngâm) đến động Trà Khúc (nay là Tư Nghĩa) lập một huyện với tên là Đà Bàn. Vua chỉ dụ sửa tên là Điện Bàn. Địa danh Điện Bàn xuất hiện từ đó. Phổ chí Phan Đà Sơn không nói rõ đời vua Trần nào, nhưng lấy ngày Ngài Thuỷ tổ mất (14 tháng 4 năm Khai Đại 3, tức là năm 1405) trở lui khoảng 20 năm thì nhằm đời vua Trần Thuận Tông (1388-1398) (25). Phổ chí Phan Đà Sơn có mấy điểm cần xem xét như sau : *Xem nguyên văn chữ Hán "công thân thỉnh phân Hóa Châu tự Ải Vân Trà Ngâm động (kim Câu Đê xã) dĩ nam chí Trà Khúc động (kim Tư Nghĩa phủ) lập nhất Đà Bàn huyện, chỉ cải Điện Bàn huyện địa", ta thấy huyện Điện Bàn sẽ kéo dài từ xã Câu Đê đến phủ Tư Nghĩa tức là bao gồm một phần đất rộng lớn từ phía nam đèo Hải Vân đến huyện Tư Nghĩa tỉnh Quảng Ngãi ngày nay, diện tích như vậy là quá lớn không phù hợp với một dơn vị hành chánh mang tên là huyện. *Về lãnh thổ, biên giới nước ta vào đời Trần chỉ đến châu Hóa (gồm Thừa Thiên Huế và các huyện Hòa Vang, Đại Lộc, Điện Bàn ngày nay), mãi đến năm nhâm ngọ 1402 Hồ Quý Ly thân chinh đánh Chiêm Thành, buộc vua Chiêm dâng đất Chiêm Động và Cổ Lũy động lập thành bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, như vậy không thể có việc vào thời vua Trần Thuận Tông biên giới nước ta đã vào đến Tư Nghĩa. Dù sao, đây cũng là một phát hiện mới về tên đất Điện Bàn. Kế đến là lịch sử đất Điện Bàn. Sách Lịch triều hiến chương loại chí (26) ghi: "...Quảng Nam đời cổ là nước Việt Thường, Tần Hán là Châu Tượng, Tấn Đường là Lâm Ấp, sau là nước (

25

) Thư của Ông Phan Sô (4/13) ngày 24/3/1996.

(

26

) Sách đã dẫn, Dư địa chí, trang 164. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

26


Chiêm Thành. Đời Lý, Trần tuy đã được Hoá Châu, nhưng từ đèo Hải Vân trở vào nam vẫn còn là đất cũ của người Chiêm. Hồ Hán Thương đánh Chiêm Thành mới lấy đất động Cổ Lũy đặt ra bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, từ đó phủ Thăng Hoa trở vào trong mới vào bản đồ nước ta cùng với Tân Bình, Thuận Hóa là ba phủ. Khi thuộc Minh thì phủ Thăng Hoa lại mất vào nước Chiêm Thành. Buổi đầu đời Lê sơ, người Chiêm Thành thường sang quấy nhiễu vì Hóa Châu liền với đất Chiêm, triều đình thường sai một viên trọng thần đóng đó để phòng giữ. Trong đời Hồng Đức, Thánh Tông đi thân chinh bắt được chúa Chiêm Thành, mới lấy đất đặt thành Thừa tuyên Quảng Nam thống lĩnh 3 phủ 9 huyện. Đầu đời Hoằng Định, Thái Tổ hoàng đế (Nguyễn Hoàng) lại đặt thêm một phủ. Nay gồm 4 phủ, 14 huyện...". Sách này lại viết (27):"...Phủ Điện Bàn gồm 3 huyện Diên Khánh, Hoà Lạc, Duy Xuyên ở phía tây trấn Quảng Nam, tiếp giáp các núi Ải Vân, liền vào cỏi đất Thuận Hóa. Theo bản đồ và sổ sách vào đầu thời Lê, phủ này nguyên thuộc về châu Hóa. Sau trung hưng, Thái Tổ hoàng đế gây dựng cơ đồ ở miền nam bắt đầu lấy huyện Điện Bàn làm phủ cho lệ thuộc về Quảng Nam, lại chia những cõi đất bên cạnh Thăng Hoa làm 5 huyện cho thuộc vào Điện Bàn. Đất cũng tốt như Thăng Hoa. Các thứ lúa và sản vật hàng hóa tốt đáng gọi là bậc nhất ở Nam châu...". Sách Đại nam nhất thống chí (28) thì viết: "...Nước ta đời Trần Anh Tông năm Hưng Long thứ 14 (1306) lấy đất châu Ô, châu Lý đặt làm châu Thuận, châu Hóa, châu Thuận nay là Quảng Trị, châu Hóa nay là Thừa Thiên và phủ Điện Bàn thuộc Quảng Nam. Cuối đời Trần, thuộc nhà Minh, đổi đặt phủ Thuận Hóa, đem châu Thuận, châu Hóa lệ vào. Đầu đời Lê đổi làm lộ Thuận Hóa thuộc đạo Hải Tây, đặt Tổng quản và Tri phủ ở lộ, năm Quang Thuận thứ 10 (1469) đặt 3 ty ở Thuận Hóa thừa tuyên, lãnh 2 phủ Triệu Phong và Tân Bình. (Phủ huyện chí trong Thiên nam dư hạ tập đời Lê Thánh Tông chép phủ Triệu Phong thuộc Thuận Hóa thừa tuyên có 5 huyện là Kim Trà, Đan Điền, Hải Lăng, Võ Xương, Tư Vang, Điện Bàn và 2 châu Sa Bôi, Thuận Bình). Bản triều Thái Tổ Gia Dụ hoàng đế năm mậu ngọ (1558) gây cơ nghiệp ở miền nam có cả đất Thuận Hóa và Quảng Nam, bèn đặt dinh Ái Tử, sau đổi huyện Kim Trà thành huyện Hương Trà, huyện Đan Điền thành huyện Quảng Điền, huyện Tư Vang thành huyện Phú Vang, huyện Võ Xương thành huyện Đăng Xương, lại trích lấy huyện Điện Bàn thăng làm phủ lệ vào Quảng Nam..."). Sách Đại việt sử ký tục biên (29) viết: "...Xứ Thuận Hóa trước kia gồm hai phủ Tân Bình và Triệu Phong. Tân Bình gồm hai huyện là Khang Lộc, Lệ Thủy và hai châu là Minh Linh, Bố Chính. Triệu Phong gồm 6 huyện Vũ Xương, Đan Điền, Hải Lăng, Kim Trà, Tư Vinh, Điện Bàn và 2 châu Thuận Bình, Sa Bôi. Cộng 2 phủ có 8 huyện, 4 châu, 554 xã, 44 thôn, 3 trang, 12 nguồn, 10 động, 124 sách. Xứ Quảng Nam có 3 phủ Thăng Hoa, Tư Nghĩa, Hoài Nhân. Phủ Thăng Hoa (

27

) Sách đã dẫn, Dư địa chí trang 166.

(

28

) Sách đã dẫn, Thừa Thiên phủ chí trang 76.

(

29

)Đại Vi ệt sử ký tục biên 1676-1789, không rõ tên tác giả, Ngô Thế Long-Nguyễn Kim Hưng dịch và

khảo chứng, Nguyễn Đổng Chi hiệu đính. Nhà xuất bản KHXH 1994, trang 1774. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

27


có 3 huyện Lê Giang, Hà Đông, Hy Giang. Phủ Tư Nghĩa có 3 huyện Bình Sơn, Mộ Hoa, Nghĩa Giang. Phủ Hoài Nhân có 3 huyện Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn. Cộng 3 phủ, 9 huyện, 78 xã. Đó là thời Hồng Đức định bản đồ như thế. Từ khi họ Nguyễn chiếm đất này thì tên và số huyện có thay đổi. Xứ Thuận Hóa có 2 phủ: Tiên Bình đổi thành Quảng Bình có 3 huyện Minh Linh, Khang Lộc, Lệ Thủy và một châu là Nam Bố Chính cộng 200 xã, 20 thôn, 18 phường, 11 trang. Triệu Phong có 5 huyện là Hương Trà, Phú Vinh (Phú Vang), Quảng Điền, Hải Lăng, Đăng Xương cộng 398 xã, 23 thôn, 122 phường, 8 giáp, 5 sách, 1 châu, 1 ấp, 3 tộc (họ). Xứ Quảng Nam có 2 phủ là Điện Bàn và Thăng Hoa: Phủ Điện Bàn có 5 huyện Hòa Vinh (Hòa Vang), An La, Diên Khánh, Tân Phúc, Phú Xuyên cộng 197 xã, 19 thôn, 7 giáp, 205 phường, 86 châu. Phủ Thăng Hoa có 3 huyện là Lễ Dương, Hà Đông, La Xuyên có phân biệt chính và mới đặt cộng 228 xã, 27 thôn, 10 phường...". Xem tất cả các sách trên viết thì có thể biết được rằng Điện Bàn từ khi trực thuộc vào nước ta (1306) là phần lãnh thổ châu Hóa (thời Trần), phủ Thuận Hóa (thời thuộc Minh), phủ Triệu Phong của Thừa tuyên Thuận Hóa (thời Lê), đến năm 1604 thời chúa Tiên Nguyễn Hoàng mới đưa về trực thuộc Quảng Nam, và như vậy việc vào nam của hai Ngài Nhơn Huyện và Nhơn Bàn vào thời kỳ Bình Định vương Lê Lợi là có thể tin được (30). D-Về tam kiết hữu: Như mọi người trong tộc đều biết, trong việc vào nam có cuộc kết nghĩa Đào viên giữa ba Ngài Phan, Nguyễn, Ngô. Phổ hệ 1994 ghi nhận người kết nghĩa là Ngài Nhơn Huyện, và cũng ghi nhận rằng "...Họ Phạm làng Bảo An, con gái Ngài Thuỷ tổ họ Phạm là bà Tổ phái tư Phan Văn Yến (trang 438)..." và "..Việc vào khai khẩn làng Bảo An và Hoà Đa ấp, có thể không riêng ba Ngài Phan, Nguyễn, Ngô mà còn có các Ngài Thuỷ tổ họ Thái và họ Phạm (trang 440)...". Như vậy có thể thấy các Ngài Thuỷ tổ họ Phan (Nhơn Bàn), họ Nguyễn (Nguyễn Liệt), họ Ngô (Ngô Văn), họ Thái, họ Phạm, họ Trần v.v... là những người đồng trang lứa, vì vậy mà sau này các Ngài mới kết nghĩa thông gia với nhau (bà Phạm thị là bà Tổ phái tư, bà Trần thị là bà Tổ phái năm), còn Ngài Nhơn Huyện thì lớn tuổi hơn. Từ đó tôi cho rằng việc kết nghĩa Đào viên có thể là của ba Ngài Nhơn Bàn, Nguyễn Liệt, Ngô Bồ là đúng hơn và có lẽ cũng vì lý do này mà năm 1865 khi xây dựng Phổ hệ nguyên tự, Ông Phan Khắc Nhu đã ghi lại Ngài Thuỷ tổ Nhơn Bàn là đời thứ nhất. E-Về đối chiếu vơi các giả thuyết vào nam khác: (

30

) Bài Những trương đầu của hai xứ Thuận Quảng của Phan Khoang đăng trong Tập san Sử Địa số

11 năm 1968 tại Sài Gòn viết: “Lấy được Thăng, Hoa, quân Chiêm lại ra đánh Hóa Châu” và giải thích Hóa Châu đây có lẻ chỉ đất ở phía bắc núi Hải Vân tức là huyện Phù Vang, Phú Lộc, còn đất ở nam Hải Vân trong tỉnh Quảng Nam tiếp giáp với Thăng, Hoa đã bị người Chiêm chiếm cứ. Ở đây, theo các sách đã dẫn, cho các huyện Hòa Vang, Đại Lộc, và Điện Bàn vẫn thuộc Hóa Châu, tức là phần đất mà người Việt quản lãnh. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

28


Để việc tính niên biểu Phan tộc và việc vào nam của hai Ngài Nhơn Huyện và Nhơn Bàn như đã trình bày ở trên được chắc chắn hơn, tôi đem cách tính này đối chiếu với các giả thuyết vào nam khác đã có, thì thấy: a.Giả thuyết vào nam đời vua Lê Nhân Tông: Phổ hệ 1994 cho rằng hai Ngài Nhơn Huyện và Nhơn Bàn vào nam thời vua Lê Nhân Tông (1442-1459), cụ thể vào năm 1446, đem thời gian này đối chiếu với niên biểu Phan tộc thì xảy ra các trường hợp sau đây: *Nếu giữ nguyên tuổi của Ngài Nhơn Bàn như đã tính trong niên biểu Phan tộc thì đến năm 1446 Ngài đã khoảng trên 30 tuổi. Với tuổi này mà mới xuất sĩ thì tôi cho rằng đã quá lớn và do đó sau này khó có thể trở thành một Địch nghĩa bá, là tước quan đứng trên hàng chánh nhất phẩm của triều đình. *Nếu lùi tuổi của Ngài Nhơn Bàn lại 20-30 năm thì có những việc không phù hợp xảy ra như : +Ngài Nghệ An Trại chủ phải lùi lại 20-30 tuổi, tức là phải sinh vào khoảng năm 1316 hoặc 1326. Đem năm sinh này đối chiếu với năm 1337 khi Nguyễn Trung Ngạn được cử làm An phủ sứ Nghệ An thì Ngài Nghệ An Trại chủ chỉ mới có khoảng 21 tuổi (sinh 1316) hoặc khoảng 11 tuổi (sinh 1326), như vậy Ngài chưa đủ tuổi để làm Trại chủ Nghệ An với tước Quan phục hầu là tước quan đứng hàng thứ ba vào thời Trần, mà đó cũng là mới tính đến năm 1337, còn nếu Trại Nghệ An đã đổi thành lộ Nghệ An từ trước đó nữa thì lại càng chứng tỏ Ngài Nghệ An Trại chủ không đủ tuổi để đảm đương chức trách được. +Tương tự, các Ông Huy Tài cũng phải lùi lại năm sinh là khoảng 1416, như vậy đến 1426 Ông mới có 10 tuổi thì làm sao giữ được tước Đại liêu ban thời vua Lê Thái Tổ, và Ông Phan Nhân sinh khoảng năm 1436 thì không thể nào vào năm 1435 (trước khi sinh 1 năm) Ông đã là Chuyển vận sứ huyện Phù Lưu được thăng An phủ phó sứ lộ Thiên Trường được v.v... +Nếu chỉ lùi tuổi hệ Bảo An mà không lùi tuổi hệ Phan Xá thì ta sẽ có Ông Đa Lôi sinh khoảng năm 1370 trong khi Ông Khảm sinh năm 1337, hai Ông là anh em ruột mà cách nhau đến 33 tuổi là không phù hợp. b.Giả thuyết vào nam thời Chúa Tiên Nguyễn Hoàng: Mọi người đều biết rằng vào năm 1558 niên hiệu Chính Trị 1 đời vua Lê Anh Tông, Nguyễn Hoàng được vua Lê cử vào trấn thủ Thuận Hóa (31), như vậy nếu tính từ năm 1558 hai Ngài Nhơn Huyện và Nhơn Bàn vào nam đến năm 1634 khi Ông Văn Du trùng tu lại Phổ hệ lần thứ nhất thì thời gian chỉ có 76 năm, đem thời gian 76 năm này chia cho năm đời từ Ông Văn Liêu đến Ông Văn Du thì mỗi đời chỉ cách nhau có 15 năm, và Ông Văn Du sẽ sinh vào khoảng (

31

) Quảng Nam qua các thời đại của Phan Du, tủ sách Cổ học tùng thư- Đà Nẵng 1974, trang 53.

Việt Nam khai quốc chí truyện của Nguyễn Khoa Chiêm, Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga dịch, chú và giới thiệu, Nhà xuất bản Hội nhà văn 1994, trang 21. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

29


năm 1618, tính đến năm 1634 thì Ông mới vừa 15 tuổi, tuổi này thì chắc chắn không thể làm quan đến tước Toàn đức hầu và nghĩ đến việc trùng tu Phổ hệ được. Còn đối với Ông Văn Điện, năm 1634 Ông lại còn nhỏ tuổi hơn Ông Văn Du thì làm sao trùng tu Phổ hệ và viết Phổ hệ Tự tự. 6.- VỀ ĐẶC TIẾN PHỤ QUỐC THƯỢNG TƯỚNG QUÂN CẨM Y VỆ ĐÔ CHỈ HUY SỨ ĐỊCH NGHĨA BÁ PHAN NHƠN BÀN: 1-Những chiến công: Như đã ghi ở các phần trên, Ngài Thuỷ tổ Nhơn Bàn đã đầu quân dưới cờ nghĩa Lam Sơn tại Nghệ An, sau đó lại theo quân vào giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa và trở ra Bắc giải phóng Đông đô (Thăng Long), giải phóng đất nước hoàn toàn khỏi ách đô hộ của nhà Minh. Hòa bình được lập lại, Ngài lại trở vào Thuận Hóa với sứ mạng nặng nề hơn vì đây là nơi chiến tuyến giữa nước ta và Chiêm Thành, và vì lúc này Ngài đã không còn là một chiến binh mà đã giữ một chức chỉ huy sau 4 năm trong quân ngũ. Sử liệu và Phổ hệ không cho ta biết được bước đường xuất sĩ của Ngài Thuỷ tổ, nhưng Ngài là một tướng võ, vì vậy tôi ghi lại đây những trận chiến sau khi giải phóng để xem xét và tìm hiểu những chiến công mà Ngài Thuỷ tổ đã đạt được, đó là (32) : -Tháng 11 năm canh tuất 1430, vua đi đánh Bế Khắc Thiệu và Nông Đắc Thái ở châu Thạch Lam (thuộc tỉnh Cao Bằng ngày nay), hai người đã dấy quân chống lại triều đình. -Tháng giêng năm nhâm tí 1432, thổ tù châu Ninh Viễn (nay thuộc vùng đất Lai Châu) là Đèo Cát Hản làm phản. Nhà vua sai Quốc vương Tư Tề và Tư khấu Lê Sát đi đánh. Sau lại tự mình thân chinh đi đánh. Đèo Cát Hản chạy trốn. Nhà vua thắng trận trở về, đổi Ninh Viễn thành châu Phục Lễ. -Tháng 11 năm nhâm tí 1432, vua tự làm tướng đem quân đi đánh Ai Lao. -Tháng 2 năm giáp dần 1434, thổ tù Lạng Sơn là Hoàng Nguyên Ý làm phản, Lê Thái Tông sai Tư mã Bắc đạo Lê Văn An đi đánh dẹp được. -Tháng 4 năm giáp dần 1434, quân Chiêm Thành vào cướp cửa Việt (Quảng Trị). -Tháng 7 năm ất mão 1435, quân Ai Lao đánh vào Mường Viễn, dân địa phương tự đánh đuổi được. -Tháng giêng năm kỷ mùi 1439, người thiểu số họ Cầm ở miền tây bắc nổi loạn, đưa 3 vạn quân Ai Lao vào cướp phá châu Phục Lễ, vua thân đem quân đi đánh và dẹp yên được. -Tháng giêng năm canh thân 1440, vua thân đem quân đi đánh kẻ làm phản là Hà Lai ở huyện Thu Vật, tỉnh Tuyên Quang (huyện Yên Bình ngày nay). -Tháng 3 năm canh thân 1440, vua thân đem quân đi đánh tù trưởng Thuận Châu tên là Nghiễm vì tội làm phản và đưa người Ai Lao xâm lấn biên giới.

(

32

)Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam, sđd, trang 253 - 271. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

30


-Tháng 3 năm tân dậu 1441, bọn Nghiễm lại làm phản. Vua Thái Tông lại thân đi đánh, bắt được tướng Ai Lao và con gái Nghiễm, Nghiễm đầu hàng, vua đem quân về. -Tháng 5 năm giáp tí 1444, vua Chiêm là Bí Cái đến cướp thành Hóa Châu, triều đình sai Lê Bôi và Lê Khả đem 10 vạn quân đi đánh. -Tháng 4 năm ất sửu 1445, Chiêm Thành vào cướp Hóa Châu. Triều đình sai Tư đồ Lê Thận và Đô đốc Nguyễn Xí đem quân đi đánh. -Tháng chạp năm ất sửu 1445, Lê Khả đem quân đi đánh Chiêm Thành. -Tháng giêng năm bính dần 1446, triều đình sai Lê Thụ, Lê Khả và Lê Khắc Phục đem hơn 60 vạn quân đi đánh Chiêm Thành vì vua Chiêm Thành là Bí Cai nhiều lần đem quân vào cướp biên giới nước ta. -Tháng 11 năm mậu thìn 1448, một số tù trưởng ở Tuyên Quang làm phản, vua sai Lê Luân, Tổng quản Tuyên Quang đem quân đi đánh dẹp được. -Tháng giêng năm tân tị 1461, hạ lệnh cho Thái phó Đinh Liệt, Lê Lựu, và Thái bảo Lê Lăng đi đánh Bồn Man. -Tháng 2 năm đinh hợi 1467, sai Hành tổng binh là Khuất Đổ đem 5.000 quân đi đánh Ai Lao, vì trước đây Ai Lao chiếm động Cư Lộng, lấn cướp đất ngoài biên giới. -Tháng 11 năm mậu tí 1468, người Minh quấy nhiễu vùng biên giới Quảng Ninh. -Tháng 3 năm kỹ sửu 1469, nhà vua đem quân đi đánh Bồn Man. Chiêm Thành quấy nhiễu vùng Hoá Châu. -Tháng 8 năm canh dần 1470, vua Chiêm Thành là Trà Toàn đem 10 vạn quân vào đánh Hóa Châu. -Tháng chạp năm canh dần 1470, vua điều 26 vạn quân, tự làm tướng đi đánh Chiêm Thành vì Chiêm Thành quấy nhiễu biên giới. -Tháng 2 năm tân mão 1471, vua vây thành Chà Bàn, bắt được vua Chiêm Thành là Trà Toàn. -Tháng 11 năm tân mão 1471, nước Chiêm Thành lại làm phản, nhà vua sai Lê Niệm đánh bắt được vua nước Chiêm là Trà Toại và bộ đảng đem về kinh. -Tháng 9 năm giáp ngọ 1474, mộ quân đi đánh Sơn Man vì Sơn Man trước đây ở châu Bằng Tường nhà Minh hay quấy nhiễu vùng biên giới Lạng Sơn. Nhà vua định lệnh "chinh man" sai quân đi đánh, đuổi ra ngoài quan ải, đến đây lại sang quấy rối nơi biên giới. Nhà vua cho mộ quân và dân đến tháng 10 đi đánh . Chắc chắn rằng trong bấy nhiêu trận chiến được nêu trên, Ngài Thuỷ tổ tham gia một phần lớn và lập được nhiều công trận, cộng với công trận bình Ngô nên Ngài đã trở thành một võ quan cao cấp của triều đình .

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

31


Nhưng để trở thành một Cẩm y vệ đô chỉ huy sứ Địch nghĩa bá, tôi cho rằng Ngài đã tham dự vào việc lật đổ Nghi Dân, đưa Gia vương Tư Thành lên làm vua, tức là vua Lê Thánh Tông. Ta hãy xem sử liệu viết: (33): -Tháng 10 năm kỷ mão 1459, Nghi Dân, con trưởng Thái Tông, cùng bọn chỉ huy Lê Đắc Ninh đột nhập vào cung giết vua Lê Nhân Tông và Hoàng Thái hậu. Nghi Dân tiếm ngôi, xưng đế, đổi niên hiệu là Thiên Hưng. -Tháng 6 năm canh thìn 1460, các đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt xướng nghĩa, giết bọn phản nghịch là Phạm Đồn và Phan Ban, truất ngôi Nghi Dân, lập Tư Thành lên làm vua, tức là Lê Thánh Tông. Tư Thành lên ngôi vua ở điện Tường Quang, đổi niên hiệu là Quang Thuận, đại xá cho thiên hạ. Trị tội Đắc Ninh vì Đắc Ninh giữ cấm cung mà không bảo vệ xã tắc. Như vậy, năm 1470 khi vua Lê Thánh Tông lập Vệ Kim ngô và Vệ Cẩm y đã đưa Ngài sang làm Cẩm y vệ đô chỉ huy sứ vì đây là vệ quân canh giữ cấm thành, thân cận nhà vua, chỉ sử dụng họ hàng thân thuộc hoặc phải được nhà vua đặc biệt tín nhiệm, nhất là vừa qua cái họa Nghi Dân, rồi đến năm 1471, khi định quan chế, vì những cống hiến to lớn của Ngài, Ngài đã được phong tước Địch nghĩa bá và được thăng thụ Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân. 2/-Quan tước: Để dễ hình dung và so sánh quan tước của Ngài Thuỷ tổ hầu thấy hết công lao to lớn của Ngài đối với đất nước, đối với dòng tộc, tôi ghi lại đây các lệ về quan tước dưới triều Lê Thánh Tông như sau: a.Về phong tước, lấy họ nhà vua đứng đầu: thân vương thì hoàng tử được phong, lấy phủ làm hiệu (như Kiến xương vương là tên lấy từ phủ Kiến Xương), tự thân vương thì thế tử của thân vương được phong, lấy huyện làm hiệu (như Hải lăng vương là tên lấy từ huyện Hải Lăng), tước công thì các con của hoàng thái tử và thân vương được phong, dùng mỹ tự (chữ hay) làm hiệu (như Triệu khang công), tước hầu thì con trưởng của tự vương có tước công được phong, lấy mỹ tự làm hiệu (như Vĩnh kiến hầu), tước bá thì hoàng thái tôn, các con của tự vương có tước công và con trưởng của thân công chúa được phong, lấy mỹ tự làm hiệu (như Tỉnh cung bá), tước tử thì các con của thân công chúa và con trưởng của tước hầu tước bá được phong, lấy mỹ tự làm hiệu (như Diên xương tử), tước nam thì con trưởng của thân công chúa được truy tặng và các con của tước hầu tước bá được phong, lấy mỹ tự làm hiệu (như Quảng trạch nam). Thứ đến tước phong cho các công thần, nếu không phải là người có đức lớn công to thì không được dự, như tước quốc công, tước quận công, lấy phủ huyện làm hiệu, chỉ dùng một chữ (như Phú quốc công Lê Thọ Vực, Tỉnh quốc công Lê Niệm), tước hầu tước bá lấy xã làm hiệu, dùng cả hai chữ (như Nam xương hầu là tên lấy từ xã Nam Xương, Diên hà bá là tên lấy từ

(

33

) Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam, sđd.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

32


xã Diên Hà) (34). So với chín phẩm (cửu phẩm) thì: -Tước vương, công, hầu, bá đều đứng trên hàng chánh nhất phẩm. -Tước tử ngang hàng với chánh nhất phẩm. -Tước nam mgang hàng với tòng nhất phẩm.(35) b.Về hàm, võ ban thì Chánh nhất phẩm được thăng thụ là Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân, gia thụ là Đặc tiến khai quốc thượng tướng quân; Tòng nhất phẩm thì thăng thụ là Sùng tiến phụ quốc đại tướng quân, gia thụ là Sùng tiến trấn quốc đại tướng quân; Chánh nhị phẩm thì sơ thụ là Chiêu nghị tướng quân, thăng thụ là Chiêu hùng tướng quân, gia thụ là Chiêu dũng tướng quân; Tòng nhị phẩm (lần lượt sơ thụ, thăng thụ, gia thụ) là Võ huân tướng quân, Võ lược tướng quân, Võ nghị tướng quân; Chánh tam phẩm là Anh liệt tướng quân, Anh túc tướng quân, Anh vĩ tướng quân; Tòng tam phẩm là Minh dực tướng quân, Minh quyết tướng quân, Minh ý tướng quân; Chánh tứ phẩm là Hoài viễn tướng quân, Định viễn tướng quân, An viễn tướng quân; Tòng tứ phẩm là Trì oai tướng quân, Bỉnh oai tướng quân, Quảng oai tướng quân; Chánh ngũ phẩm là Kiện trung tướng quân, Quán trung tướng quân, Bảo trung tướng quân; Tòng ngũ phẩm là Tráng tiết tướng quân, Tận tiết tướng quân, Kính tiết tướng quân; Chánh lục phẩm là Phấn lực tướng quân, Quả lực tướng quân, Chấn lực tướng quân; Tòng lục phẩm là Quả cảm tướng quân, Hùng cảm tướng quân, Cường cảm tướng quân (Sơ thụ là danh hiệu được phong cho lúc mới nhận chức, thăng thụ là khi có công, cũng như cho vào biên chế ngày nay, gia thụ là khi thăng thụ rồi mà lại có công nữa) (36). c.Về chức, quân ngũ tại các đạo và tại kinh sư được định đặt như sau: +Quân ngũ tại các đạo: Quân phủ

Đứng đầu là Tả hữu đô đốc, Đô đốc đồng tri, Đô đốc thiêm sự.

Đô ty

Đô tổng binh sứ, Tổng binh đồng tri, Tổng binh thiêm sự.

(

34

(

35

Vệ

Tổng tri, Đồng tổng tri, Thiêm tổng tri.

Sở

Quản lãnh, Phó quản lãnh, Chánh võ úy, Phó võ úy.

) Lịch triều hiến chương loại chí, sđd, Quan chức chí trang 530. ) Tổ chức chính quyền Trung ương dưới triều Lê Thánh Tôn, sđd, trang 138. Lịch triều hiến

chương loại chí cho rằng, tước bá ngang hàng với chánh nhất phẩm, tước tử ngang hàng với tòng nhị phẩm, tôi thấy không đúng vì ngang hàng với chánh nhất phẩm thì không thể truy phong cho cha và ông là Thái bảo, tức là chánh nhất phẩm được. (

36

) Tổ chức chính quyền Trung ương dưới triều Lê Thánh Tôn, sđd, trang 111. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

33


+Quân ngũ tại kinh sư: Vệ

Đô chỉ huy sứ, Đô chỉ huy đồng tri, Đô chỉ huy thiêm sự.

Ti hoặc Sở

Chỉ huy sứ, Chỉ huy đồng tri, Chỉ huy thiêm sự.

Xem như vậy thì có thể thấy rằng Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ đô chỉ huy sứ Địch nghĩa bá Phan Nhơn Bàn là một quan công thần triều Lê Thánh Tông, cấp bực ở trên hàng chánh nhất phẩm. Tôi cũng xem thấy trong Phổ hệ 1994 có chỗ ghi là Đặc tấn phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ đô chỉ huy sứ ty Đô chỉ huy sứ Địch nghĩa bá, cách ghi này là không đúng vì dưới triều Lê chỉ có đơn vị là “vệ” có người đứng đầu là Đô chỉ huy sứ như đã nói ở trên mà không có đơn vị là “ty Đô chỉ huy sứ” để có được người đứng đầu là Đô chỉ huy sứ, (chức vụ Đô chỉ huy sứ ty Đô chỉ huy sứ chỉ có dưới thời các Chúa Nguyễn ở Đàng Trong và nhà Nguyễn sau này mà thôi, tức là sau thời vua Lê Thánh Tông đến 300 năm), vậy nên cũng ghi vào đây để được chính xác về chức vụ hơn. 7.- VỀ ẤM PHONG: Sách Lịch triều hiến chương loại chí (37) ghi :"...Quốc công thì cha và ông đều được phong tước Quận công, mẹ và bà đều được phong Quận phu nhân, vợ được phong Quốc phu nhân, con trưởng được phong Trung trinh đại phu, các con được phong Triều liệt đại phu, cháu trưởng được phong Hoằng tín đại phu...Tước bá thì cha và ông đều được phong Thái bảo, mẹ và bà được phong Liệt phu nhân, vợ được phong Tự phu nhân, con trưởng được phong Hiển cung đại phu, các con được phong Mậu lâm lang, cháu trưởng được phong Mậu lâm tá lang...". Cũng sách này, tại trang 531 có ghi: "...Tòng ngũ phẩm hàm Hiển cung đại phu, Chánh lục phẩm hàm Mậu lâm lang, Tòng lục phẩm hàm Mậu lâm tá lang...". Dựa vào trên, ta có thể xác định : 1-Ngài Tằng tổ Phan Đa Lư được truy phong Thái bảo (hàm chánh nhất phẩm), bà Tằng tổ Nguyễn Thị Bác được truy phong Liệt phu nhân. 2-Ngài Sơ tổ Phan Nhơn Huyện được truy phong Thái bảo, bà Sơ tổ Trần Thị Phận được truy phong Liệt phu nhân. 3-Bà Thuỷ tổ Dương Thị Thảo được ấm phong Tự phu nhân. 4-Ông Phan Văn Bài được ấm phong Hiển cung đại phu (tòng ngũ phẩm). 5-Các ông Phan Văn Hàn, Phan Văn Thiệu, Phan Văn Côn, Phan Văn Yến, Phan Văn Liêu được ấm phong Mậu lâm lang (chánh lục phẩm). 6-Ông Phan Văn Quyến, cháu trưởng, được phong Mậu lâm tá lang (tòng lục phẩm). Đây chỉ là những chức hàm, không thực thụ làm quan.

(

37

)Sách đã dẫn, Quan chức chí, trang 534.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

34


Vậy thì nên chăng, các Phổ hệ nên ghi chú thêm bên cạnh tên các Ngài và Ông, Bà nêu trên các phong ấm đã được xác định để làm rạng rỡ thêm công sức của dòng tộc. 8.- VỀ CAI TỔNG SÙNG LƯƠNG BÁ PHAN VĂN BÀI: Khi đọc Phổ hệ 1994, câu hỏi đặt ra trong tôi là được phong tước bá mà chức vụ chỉ là Cai tổng là sao?, hay là làm Cai tổng trước rồi sau được phong tước bá nên Phổ hệ đã ghi luôn là Cai tổng Sùng lương bá? Sách Lịch triều hiến chương loại chí (38) trong phần Duyên cách về tên chức quan chỉ thấy ghi các chức từ Tam công, Tam thiếu, Tư đồ, Tư mã...đến Đốc đồng, Đốc thị, Tri phủ, Tri huyện, Tri châu, Xã quan... nghĩa là ghi đầy đủ các chức quan từ nhỏ đến lớn mà không có chức Cai tổng, như vậy chứng tỏ rằng cho đến đời Lê Thánh Tông, trong bản đồ hành chánh nước ta chưa có phần đất gọi là Tổng gồm nhiều xã và nhỏ hơn huyện, cho nên không đặt chức quan để cai trị. Một điểm nữa là vào tháng 4 năm canh tuất 1490 định lại bản đồ trong cả nước thấy ghi gồm 13 xứ Thừa tuyên có 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36 phường, 6851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động, 30 nguyên, 30 trường (39), vẫn không thấy đơn vị hành chánh là Tổng. Xem tiếp sách Lịch triều hiến chương loại chí (40) thấy ghi: "...Đến giữa đời Cảnh Trị (1663-1672) lại sai chọn các con em nhà lương thiện cho làm xã trưởng để dạy dỗ nhân dân trong xã, hạn 3 năm được xét công việc thì thăng làm huyện quan...", điều này giúp xác định cho đến khoảng năm 1667 nước ta vẫn không có đơn vị hành chánh là tổng, vì xã trưởng làm tốt sau 3 năm thì được thăng ngay làm huyện quan. Vậy thì tổng đã xuất hiện vào lúc nào? Sách Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam (41) ghi: "...Từ năm 1744 chúa Nguyễn Phúc Khoát tự xưng vương và tiến thêm một bước trong việc hoàn thiện củng cố bộ máy nhà nước, chia lãnh thổ Đàng Trong ra làm 12 dinh, mỗi dinh quản hạt 1 phủ, dưới phủ là huyện, tổng, xã...". Như vậy đến năm 1744 ở Đàng Trong mới có đơn vị hành chánh là tổng và điều này là phù hợp với sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, khi Lê Quý Đôn vào làm hiệp trấn trấn Thuận Hóa năm 1776 (trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn đã

(

38

) Sách đã dẫn, Quan chức chí, trang 463 - 480.

(

39

) Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam, sđd, trang 276.

(

40

)Sách đã dẫn, Quan chức chí, trang 480.

(

41

) Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, tập bài giảng của trường Đại học pháp lý Hà Nội 1991,

trang 57. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

35


ghi rõ tên tổng ở các xứ Thuận Hóa và Quảng Nam, tổng cộng 63 tổng (42). Ông Phan Văn Bài là con trưởng của Ngài Thuỷ tổ, Ông đã được ấm phong Hiển cung đại phu từ khi chưa bước vào quan trường, sau này do có nhiều công lao đóng góp cho đất nước nên Ông đã được phong tước Sùng lương bá, tước vị ở trên hàng chánh nhất phẩm. Vì Ngài Thuỷ tổ làm quan dưới triều vua Lê Thánh Tông, nên Ông Văn Bài cũng có thể làm quan dưới các triều vua Lê Thánh Tông (1460-1497), Lê Hiến Tông (1497-1504)...mà như ta đã xác định ở trên, mãi đến năm 1744 đời chúa Nguyễn Phúc Khoát ở Đàng Trong mới có đơn vị hành chánh là tổng, nghĩa là sau thời Ông Văn Bài đến 200 năm, như vậy có thể khẳng định được rằng Ông Văn Bài không làm cai tổng. Chính cái chức vụ cai tổng ghi bên cạnh tước Sùng lương bá đã làm giảm mất nhiều uy tín và công lao của Ông đối với đất nước, đối với dòng tộc. Theo tôi, nên ghi lại cho chính xác là Sùng lương bá Phan Văn Bài, cũng không cần ghi ấm phong vì Hiển cung đại phu chỉ là một hàm nhỏ, không có ý nghĩa gì khi so với tước Sùng lương bá, và ở đây, cũng tương tự như Ngài Thuỷ tổ, vợ và con, cháu của Ông được phong ấm, cụ thể là : -Bà Nguyễn Thị Dự được ấm phong Tự phu nhân. -Ông Phan Văn Quyến (3/1) được ấm phong Hiển cung đại phu. -Ông Phan Văn Tiêu (4/1) được ấm phong Mậu lâm tá lang. 9.- VỀ TƯỚNG THẦN PHAN PHƯỚC HỀ VÀ THƯỢNG TƯỚNG QUÂN TƯỚNG THẦN LÃO NHIÊU QUAN NGHĨA LÝ TỬ PHAN LONG LÂN: Thường ta chỉ thấy sử dụng danh từ tướng thần khi nói chung đến các bề tôi của nhà vua, bao gồm cả văn lẫn võ như "Thời Lê sơ, Thái Tổ khởi nghĩa phong tước cho các tướng thần, có các bực á hầu, thông hầu, quan phục hầu, trước phục hầu", nhưng xem kỷ thì thấy ở trường hợp Ông Phan Phước Hề và Phan Long Lân, Tướng thần lại là một chức vụ, và đây là một chức lạ, như Phủ biên tạp lục (43) có ghi:"...Ở huyện Phù Ly có Tướng thần là Đào Phúc Chiêm thăng chức Ký phủ...". Vậy chức vụ này như thế nào? Sách Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt nam (44) ghi: "...Thời kỳ đầu (1558-1744) các chúa Nguyễn giữ nguyên tước phong của vua Lê như tước Thái bảo quận công, hay Thái phó quận công, Tổng trấn tướng quân, và Tiết chế thủy bộ chư dinh. Chính quyền Trung ương đóng ở Chính dinh (Huế), ngoài ra chia đất thành các dinh, đứng đầu dinh có chức Trấn thủ thường là

(

42

) Lê Quý Đôn toàn tập-Tập 1: Phủ biên tạp lục, Nhà xuất bản KHXH 1977, trang 78 - 93. Sách

Pháp chế sử của Vũ Quốc Thông cho rằng đơn vị hành chánh tổng chỉ xuất hiện dưới triều Tây Sơn ,

điều này không phù hợp vì năm 1776 khi Lê Quý Đôn được bổ làm Hiệp trấn Thuận Hóa và viết Phủ biên tạp lục đã ghi đủ tên 63 t ổng của xứ Thuận, Quảng trong khi triều Tây Sơn có niên đại từ 1788 đến 1802, tức là sau khi Lê Quý Đôn viết Phủ biên tạp lục đến 13 năm. (

43

) Sách đã dẫn, trang 150.

(

44

) Sách đã dẫn, trang 57. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

36


quan võ đảm nhiệm, dưới dinh là các phủ, huyện, châu, xã do Tri phủ, Tri huyện, Tri châu, Xã trưởng và Tướng thần đứng đầu..." Như vậy, Tướng thần cũng như Xã trưởng là người đứng đầu một xã. Sử sách không cho biết xã nào thì có tướng thần, xã nào thì có xã trưởng, nhưng xem các sách sau đây viết về tướng thần thì ta cũng có thể biết được, như: Phủ biên tạp lục (45) ghi:"...Năm Bảo Thái thứ 7, tra xét các phủ xứ Quảng Nam, những thuộc mới đặt chưa định chức lệ, như phủ Thăng Hoa 15 thuộc và phường, phủ Điện Bàn 4 thuộc, phủ Quảng Ngãi 4 thuộc, phủ Qui Nhơn 13 thuộc, phủ Phú Yên 38 thuộc, phủ Bình Khang 12 thuộc, phủ Diên Ninh 14 thuộc và nậu, phủ Bình Thuận 20 thuộc và phường, định cho từ 500 người trở lên được đặt Cai thuộc, Ký thuộc mỗi chức 1 người, từ 450 người trở xuống được đặt Ký thuộc 1 người, từ 100 người cho đến 10 người chỉ đặt 1 Tướng thần..." hoặc sách Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt nam (46) ghi: "...Những xã có 999 ngưòi trở xuống có 18 Xã trưởng và Tướng thần, xã có 400 người trở xuống có 8 Xã trưởng và Tướng thần, xã có 70 người trở xuống có 1 Xã trưởng hoặc Tướng thần...". Năm 1558 khi Chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào nam thì hai Ông Phan Phước Hề và Phan Long Lân cũng vào độ tuổi 45-55 tuổi nên việc hai Ông giữ chức vụ Tướng thần là có thể, nhưng ở đây chỉ đúng với riêng trường hợp của Ông Phan Phước Hề, còn đối với Ông Phan Long Lân, có thể vào thời kỳ đầu Ông giữ chức Tướng thần, nhưng sau đó do có nhiều công lao đóng góp Ông đã được phong tước Nghĩa lý tử và chức vụ Thượng tướng quân, còn đối với ba chữ lão nhiêu quan tôi nghĩ đây có lẽ là vì Ông làm quan khi đã lớn tuổi mà cũng có thể Ông làm quan rất lâu, rất lớn tuổi (lão nhiêu chỉ những người 60 tuổi trở lên), do đó tôi đề nghị trong chức vụ và tước vị của Ông Phan Long Lân chỉ ghi gọn là Thượng tướng quân Nghĩa lý tử Phan Long Lân, bỏ các chữ Tướng thần Lão nhiêu quan vì không cần thiết và vì có thể gây những hiểu lầm làm kéo chức tước của Ông xuống không xứng đáng với tài trí của Ông lúc bấy giờ. 10. - VỀ CÁC DANH NHÂN PHAN TỘC: Căn cứ vào ghi chép của Phổ hệ 1994 và dựa trên các sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (47) và sách Những ông nghè ông cống triều Nguyễn (48), tôi ghi nhận được như sau: a-Đời 9: Tiền phong doanh Võ vệ Cai đội tặng Võ công Đô uý Phan Văn Hòa (5/9). Doanh Tiền phong là 1 trong 5 doanh ở thị nội (tức là cấm binh ở kinh thành). Cai đội là chức quan võ thuộc hàng chánh ngũ phẫm, và theo quy định thì Ông được cáo thụ Võ công Đô uý, thụy Tráng nhuệ (Cáo thụ là sắc vua ban cho có bài chế, cáo và có trục để cuộn tờ sắc, thụy là (

45

)Sách đã dẫn, trang 147. Năm Bảo Thái thứ 7 là năm 1726.

(

46

)Sách đã dẫn, trang 57.

(

47

) Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ cùa Nội các triều Nguyễn, Nhà xuất bản Thuận Hóa 1993, các

trang 22-25 tập 2, 219-222 tập 3, 25-30 tập 7. (

48

) Những ông nghè và ông cống triều Nguyễn do Bùi Hạnh Cẩn, Nguyễn Loan, Lan Phương biên

soạn, Nhà xuất bản VHTT 1995, trang 856 ghi về ông Phan Trân (2/12) và trang 862 ghi về ông Phan Thành Tích (2/12). Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

37


lúc chết mới ban cho). Vậy nên chăng viết lại như sau: "Tiền phong doanh Cai đội, Chánh ngũ phẩm, cáo thụ Võ công Đô uý, thụy Tráng nhuệ". Ở đây bỏ hai chữ là Võ vệ và tặng vì trong 5 doanh thị nội không có vệ nào mang tên Võ (tên các vệ được dùng hai chữ như Nội hầu, Kỳ vũ, Thị tượng...) và chữ tặng tôi nghĩ như là lúc chết mới ban cho, trong khi về thực tế, cáo thụ được nhận ngay khi vừa được chức vị. Vợ được phong Nghị nhân. Cũng tương tự như vậy, ta có: b-Đời 10 : *Lãnh binh Phan Đức Liệu (3/10) nên viết lại thành: Lãnh binh, Chánh tam phẩm, cáo thụ Anh dũng tướng quân, thụy Anh túc. Vợ được phong Thục nhân . *Án sát sứ Phan Ngọc Trí (4/10) thành Án sát sứ, Chánh tứ phẩm, Cáo thụ Trung thuận đại phu, thụy Đoan cẩn. Vợ đựợc phong Cung nhân. c-Đời 11: *Cử nhân Án sát sứ Phan Khắc Nhu (2/11) thành Cử nhân, Án sát sứ, Chánh tứ phẩm, Cáo thụ Trung thuận đại phu, thụy Đoan cẩn. Vợ được phong Cung nhân. *Sắc thọ Đăng sĩ tá lang Phan Văn Học (2/11) thành Tòng cửu phẩm, sắc thụ Đăng sĩ tá lang, thụy Cung phác. Vợ được phong Nhụ nhân. Ở đây không biết chức vụ của Ông là gì nên không ghi, đồng thời sửa lại chữ "sắc thọ" thành "sắc thụ" cho phù hợp với chữ cáo thụ ở trên, dù hai chữ thọ và thụ trong trường hợp này là cùng một nghĩa. *Cử nhân lãnh binh Phan Đức Phụng (3/11) thành Lãnh binh, Chánh tam phẩm, Cáo thụ Anh dũng tướng quân, thụy Anh túc. Vợ được phong Thục nhân. *Hàn lâm viện Thị giảng Đại học sĩ Phan Ngọc Đức (4/11) thành Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ, Tòng tứ phẩm, Cáo thụ Triều liệt đại phu, thụy Đoan lượng. Vợ được phong Cung nhân. Ở đây bỏ chữ "đại" vì quan chế triều Nguyễn không có chức này. *Cử nhân tri huyện Phan Ngọc Thanh (4/11) thành Cử nhân, Tri huyện, Tòng lục phẩm, sắc thụ Văn lâm lang, thụy Đôn túc. Vợ được phong An nhân. d-Đời 12 : *Phó bảng Tri phủ Phan Trân (2/12) thành: Đậu cử nhân khoa Thi hương năm mậu tí Đồng Khánh thứ 3 (1888) tại trường Thừa Thiên. Đậu Phó bảng khoa ất mùi Thành Thái thứ 7 (1895), Tri phủ, Tòng ngũ phẩm, cáo thụ Phụng thành đại phu, thụy Đoan thận. Vợ được phong Nghị nhân. *Cử nhân Tri huyện Phan Tấn (2/12) thành Cử nhân, Tri huyện, Tòng lục phẩm, sắc thụ Văn lâm lang, thụy Đôn túc. Vợ được phong An nhân. *Cử nhân Giáo thọ Phan Thành Tích (2/12) thành: Đậu cử nhân khoa Thi hương năm mậu tí Đồng Khánh thứ 3 (1888) tại trường Thừa Thiên. Giáo thọ, Chánh thất phẩm, sắc thụ Trung sĩ lang, thụy Đôn giản. Vợ được phong An nhân. *Cử nhân Tri phủ Phan Đức Thạnh (3/12) thành: Cử nhân, Tri phủ, Tòng ngũ phẩm, cáo thụ Phụng thành đại phu, thụy Đoan thận. Vợ được phong Nghị nhân. *Cử nhân Tri phủ Phan Bá Cảnh (5/12) thành: Cử nhân, Tri phủ, Tòng ngũ phẩm, Cáo thụ Phụng thành đại phu, thụy Đoan thận. Vợ đựợc phong Nghị nhân.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

38


*Hàn lâm viện đãi chiếu Phan Đôn (2/12) thành: Hàn lâm viện đãi chiếu, Tòng cửu phẩm, sắc thụ Đăng sĩ tá lang, thụy Cung phác. Vợ được phong Nhụ nhân. e-Đời 13: *Hàn lâm viện thị độc Phan Đức Thuần (3/13) thành: Hàn lâm viện thị độc, Chánh ngũ phẩm, cáo thụ Phụng nghị đại phu, thụy Đoan trực. Vợ được phong Nghị nhân. *Hàn lâm cung phụng Phan Bá Tảo (2/13) thành: Hàn lân viện cung phụng, Chánh cửu phẩm, sắc thụ Đăng sĩ lang, thụy Cung mậu. Vợ được phong Nhụ nhân. Riêng đối với các Ông sau đây của đời thứ 13 vì có sử liệu nên tôi tách ra thành mục riêng để dễ tìm hiểu, đó là: g-Ông Phan Thanh (2/13): Sách Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam và sách Quảng Nam đất nước và nhân vật (49) ghi: Nhà hoạt động Cách mạng, nhà báo, đảng viên Đảng xã hội Pháp (chi nhánh Đông dương), sinh năm 1908, mất năm 1939, bút hiệu Trạc Anh, anh ruột nhà hoạt động Phan Bôi (Hoàng Hữu Nam), anh em thúc bá của nhà văn Phan Khôi, liệt sĩ Phan Thành Tài. Thưở nhỏ Ông học ở Quảng Nam, sau ra Huế học tại trường Quốc học từ các năm 1925. Tốt nghiệp Thành chung, Ông được bổ làm giáo viên tại châu Ngọc Lạc tỉnh Thanh Hóa, Ông say mê đọc sách báo văn chương cách mạng và cộng tác với các báo ở Hà Nội, viết bài cho các báo Le TravaiI, RassembIement, Notre voix, Demain, Tin tức, Thời thế, Đời nay...lên án chế độ thực dân của người Pháp ở Đông Dương. Ông bị Khâm sứ Trung Kỳ cách chức giáo học với lý do là viết báo và các hoạt động khác chống chính sách thực dân Pháp ở Đông Dương. Năm 1928, Ông ra Hà Nội dạy tư tại các trường trung học: Gia Long, Thăng Long của các nhóm trí thức thành lập. Cùng thời gian này Ông là cộng tác viên thường trực của các báo vừa nói trên, nhất là báo L'Annam của Phan Văn Trường (1875-1933) tại Sài Gòn. Năm 1937, Ông gia nhập chi nhánh của đảng Xã hội Pháp (SFIO) ở miền bắc Đông Dương ngay khi mới thành lập tại Hà Nội cùng với một số đồng chí như Hoàng Minh Giám, Phan Tư Nghĩa... nhưng thực tế Ông là một đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương đứng trong hàng ngũ những người xã hội. Trong những năm dạy học tại Hà Nội, Ông kết duyên với bà Lê Thị Xuyến, nguyên giáo sư trường Nữ học Đồng Khánh (Huế) bỏ dạy ra sống ở Hà Nội. Cùng trong thời điểm này Ông được tổ chức bí mật đưa ra ứng cử vào Viện dân biểu Trung Kỳ thuộc đơn vị hai huyện Đại Lộc và Hòa Vang tỉnh Quảng Nam. Ông trúng cử với số phiếp áp đảo. Tại nghị trường Ông tích cực hoạt động, tranh đấu đòi quyền tự do dân chủ cho nhân dân. Đặc biệt trong hội nghị lý tài Đông Dương nhóm tại Sài Gòn năm 1938, với cương vị một dân biểu Ông có bài tham luận về chuyên đề kinh tế Đông Dương khiến nhiều giới kinh tế, tài chánh (cả Pháp và Việt) phải nể trọng. Trong cuộc vận động thành lập Hội Truyền bá quốc ngữ, Ông được Đảng cộng sản Đông Dương đề cử cùng với Đặng Thai (

49

) Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của Nguyễn Q Thắng và Nguyễn Bá Thể, Nhà xuất bản KHXH

1991 trang 775, vả Quảng Nam đất nước và nhân vật của Nguyễn Q Thắng, Nhà xuất bản Văn Hóa 1996 trang 615. Ở đây ghi theo Quảng Nam đất nước và nhân vật. Phổ hệ 1994 trang 9 ghi ở Đà Nẵng có đường mang tên Ông, và ở Bảo An có tr ường học mang tên Ông. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

39


Mai (1902-1984), Võ Nguyên Giáp mời học giả Nguyễn Văn Tố (1889-1947) đứng ra nhận chức Hội trưởng. Trong khí thế phấn khởi, hăng say và lòng yêu mến tiếng mẹ đẻ của những người vận động thành lập hội, lúc ấy báo Trung bắc tân văn số ra ngày 28/05/1938 viết: "...Mới khoảng 8 giờ 30 tối hội quán phố Charles Culier đã đông nghịt người. Dưới hàng chục ngọn đèn mấy trăm nến, sân quần hội CSA đông đặc những người. Số người đông quá (...) Ông Phan Thanh, giáo sư trường Thăng Long, nói tiếng Pháp bằng một giọng rất hùng hồn, khúc chiết về sự truyền bá quốc ngữ cho dân ta và bài trừ nạn thất học ở xã hội Việt Nam". Vì hoạt động hăng say quên mình, Ông bị bệnh lao, mất ngày 01/05/1939 tại Hà Nội, hưởng dương 31 tuổi. Đề mộ Ông, một cố hữu viết: Là nghị viên đắc lực, là chiến sĩ tận tâm, trang sử tương lai tên bạn viết to hàng chữ trước. Vì hạnh phúc hòa bình, vì lợi quyền dân chúng, con đường tranh đấu hồn anh nâng mạnh bước người sau. h-Ông Phan Bôi: (2/13) (50), Sinh năm 1910 mất năm 1949, liệt sĩ hiện đại, nhà hoạt động cách mạng, tên thường dùng là Hoàng Hữu Nam, em ruột Phan Thanh. Ông xuất thân trong một gia đình khoa bảng vọng tộc, thuở nhỏ theo nho học và tây học, tính người cương nghị, nghiêm minh. Sau ra Huế theo học tại trường Quốc Học, học xong năm thứ ba trung học, Ông bỏ học ra Hà Nội làm thợ sắp chữ tại nhà in Ngô Tử Hạ. Tại đây Ông giác ngộ cách mạng, đứng trong hàng ngũ những người thuộc chi nhánh đảng Xã hội pháp (SFIO) ở miền bắc Đông Dương khi mới thành lập ở Hà Nội. Cũng thời điểm này Ông cũng tham gia các hoạt động bí mật của Đảng cộng sản Đông Dương (thuộc xứ uỷ Bắc Kỳ). Năm 1932 được tổ chức cách mạng chuyển vào hoạt động ở Sài Gòn, tại đây Ông tham gia viết các báo bằng tiếng Pháp như La Lutte, Le Peuple...Đến khoảng năm 1935, Ông bí mật trở về hoạt động tại Hà Nội. Các năm 1936, 1937 Ông làm việc tại báo Le Travail, đồng thời viết giúp các báo khác tại Hà Nội. Thời gian này báo Le Travail bị đóng cửa, Ông bị thực dân Pháp bắt xử đày sang Diégo thuộc đảo Madagasca ở Châu Phi (thuộc địa Pháp) vì các hoạt động chống Pháp. Sau khi Mặt trận Bình dân cầm quyền tại Pháp, Ông được trả tự do, trở về làm việc tại Hà Nội. Trong Cách mạng tháng 8 năm 1945 Ông là thành viên của Mặt trận Việt Minh, sau khi thành lập Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Ông giữ chức Chánh văn phòng bộ Nội vụ, rồi Thứ trưởng bộ Nội vụ trong Chính phủ Liên hiệp kháng chiến mà Bộ trưởng là chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng (1876 -1947). Thời gian này Ông là người quyết định nhiều việc hệ trọng trong khi thực dân Pháp cố tình đem quân ra tái chiếm Bắc bộ. Năm 1946 Ông là một trong các ứng cử viên đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Nam và đắc cử vẻ vang. Hồi đó ở địa phương có bài vè bầu cử, có đoạn nói về Ông:

(

50

) Giống (49) Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam trang 751, vả Quảng Nam đất nước và nhân

vật trang 619. Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam ghi sai khi cho rằng cha Ông từng làm tri phủ triều Nguyễn. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

40


Trung bộ có Trần Đình Tri Anh Lê Văn Hiến lại thì đồng song Phan Bôi một dạ một lòng Anh Huỳnh Ngọc Huệ vốn dòng đấu tranh Cứu tế có chị Phan Thanh Sau ngày 18/12/1946 quân đội Pháp tấn công Hà Nội, Ông chỉ huy mặt trận Ngả tư Sở Hà Nội. Khi đi thị sát mặt trận, ghé Thái Hà ấp thăm nhà người bà con (bà Hằng Phương - chị em cô cậu với Ông) Ông vẫn hồn nhiên vui tính, viết thư giữa lửa đạn: "Bây giờ Tây đã đến Ngả tư Sở, sau một tháng chiến đấu nhà anh chị vẫn còn nguyên. Tôi muốn phá khóa vào lấy sách mang đi, nhưng không phá được, tức mình tôi trả thù bằng cách ăn táo no bụng rồi mới ra về". Khi mặt trận Hà Nội vỡ, Ông cùng chính phủ rút lên chiến khu Việt bắc và vẫn tiếp tục công tác trong Hội đồng Chính phủ. Ông mất trong năm 1949 đang trên đường công tác tại Thái Nguyên. i-Ông Phan Khôi (2/13): (51), sinh năm 1887 mất năm 1960, nhà văn, nhà báo, chiến sĩ phong trào Duy Tân, hiệu Chương Dân, biệt hiệu Tú Sơn (phiên âm chữ Pháp Tout seul: cô độc) và có nhiều bút hiệu khác. Ông xuất thân trong một gia đình khoa bảng, thân phụ là Phó bảng

(

51

) Giống (49) Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam trang 768, vả Quảng Nam đất nước và nhân

vật trang 577. Bài thơ Tình già của Ông được đưa vào chương trình giảng dạy văn học bậc trung học ở miền nam trước 1975, nguyên văn như sau: Hai mươi bốn năm xưa Một đêm vừa gió lại vừa mưa Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ Hai mái đầu xanh kề nhau than thở “Ôi đôi ta tình thương nhau thì vẫn nặng Mà lấy nhau hẳn là không đặng

Để đến rồi tình trước phụ sau Chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau” “Hay, nói mới bạc làm sao chớ Buông nhau làm sao cho nỡ Thương được chừng nào hay chừng nấy Chẳng qua ông trời bắt đôi ta phải vậy Ta là nhân ngãi đâu có phải vợ chồng mà tính việc thủy chung” Hai mươi bốn năm sau Tình cờ nơi đất khách gặp nhau

Đôi cái đầu đều bạc Nếu chẳng quen lung đố có nhìn ra được Ôn chuyện cũ mà thôi Liếc đưa nhau đi rồi Con mắt có đuôi Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

41


Phan Trân (1862-1935) từng là Tri phủ Diên Khánh (Khánh Hòa), mẹ là con gái Tổng đốc liệt sĩ Hoàng Diệu (1828-1882) danh tiếng vì nước, lừng lẫy một thời. Năm 1905 thi hương tại Huế, Ông hỏng cử nhân (tức chỉ đậu tú tài) nên thường gọi là Tú Khôi. Từ đó Ông bỏ luôn khoa cử dấn thân vào sự nghiệp văn chương, báo chí. Lúc đương thời Phan Chu Trinh rất nể phục tài học của Ông, Phan thường hay bảo với bạn bè, đệ tử: Quảng Nam sẽ có hai tiến sĩ xuât sắc là Phan Khôi và Nguyễn Bá Trác (1881-1945). Lời tiên đoán của Phan Chu Trinh về Ông và Nguyễn Bá Trác tuy không là thực tế, nhưng thực chất rất đúng vì Ông nỗi tiếng là người xuất sắc về nhiều lĩnh vực của học thuật. Từ một nhà hoạt động duy tân, nhà báo, nhà thơ, nhà lý luận...ở bộ môn nào Ông cũng tỏ ra rất sắc sảo mà có lẽ một vị Tiến sĩ cũng khó bắt kịp tài năng, bút pháp và lý luận của Ông. Năm 1906 Ông ra Hà Nội học tiếng Pháp, tham gia phong trào Duy Tân tại trường Đông kinh nghĩa thục. Năm 1908 phong trào bị khủng bố trắng, Ông bị bắt ở Hà Nội giải về giam tại nhà lao Hội An (Quảng Nam) mãi đến năm 1911 mới được trả tự do, kể từ đó Ông góp mặt vào làng văn, làng báo Việt Nam và trở nên một cây bút, một nhân vật nổi tiếng nhất trên văn đàn Việt Nam với một ngọn bút sắc sảo có một không hai. Ông là người sớm say mê khoa luận lý (logique) trong triết học, văn chương, ngôn ngữ...và ngay trong đời thường nữa. Một dạo trên làng báo Việt Nam trước Cách mạng Tháng tám, Ông đóng vai "ngự sử trên văn đàn" khiến một số kẻ không thích, nhưng lắm người ca ngợi tài năng bút pháp Ông. Chính Ông là người mở ra chân trời mới cho văn chương Việt Nam nói chung và thơ mới nói riêng. Bài thơ Tình già và cả bài Dân quạ đình công của Ông là một tuyên ngôn khai sinh ra trường thơ hiện đại Việt Nam. Bài thơ này đã làm nên một cuộc cách mạng lớn đối với thơ ca hiện đại, góp phần cho sự hình thành lớn mạnh của thơ mới hồi giữa thế kỷ này. Bài thơ kể từ đó trở nên một thi thoại mà các Hợp tuyển thơ Việt Nam đều có trích đăng để chứng minh cho sự hình thành và lớn mạnh của thơ mới. Sau Cách mạng Tháng Tám Ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời từ Quảng Nam ra Hà Nội tham gia kháng chiến với cương vị một nhà văn hóa. Suốt 9 năm kháng chiến Ông công tác ở Hà Nội rồi chiến khu Việt bắc. Hòa bình lập lại (1954) Ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam, Ông từng làm giám khảo trong các giải văn học của Hội nhà văn Việt Nam. Ngoài một nhà văn, nhà báo, Ông còn là một nhà nghiên cứu sắc nét, phần lớn tác phẩm của Ông đều đăng trên các báo Sài Gòn, Huế, Hà Nội từ 1915-1945. Các tác phẩm chính của Ông đã in thành sách gồm: Chương Dân thi thoại (chuyện thơ). Trở võ lửa ra (tiểu thuyết). Việt ngữ nghiên cứu (biên khảo). Dịch Lỗ Tấn (dịch thuật). và rất nhiều bài phê bình học thuật sắc sảo đăng trên các báo trước thế chiến tại Sài Gòn. Thơ, văn Ông mang dấu ấn con người và tâm thức Ông, người đọc không thể nào có sự ngộ nhận đối với các tác giả khác. Những năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954) Ông có làm bài thơ Thăm bộ đội chứa chan tình cá nước quân dân thắm thiết. Ông mất năm 1960 tại Hà Nội, hưởng thọ

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

42


73 tuổi. Sự nghiệp sáng tác và trước tác của Ông có một chỗ đứng vinh quang trong thời kỳ chữ Quốc ngữ bắt đầu có tư thế trên văn đàn. k-Ông Phan Thành Tài (2/13): (52), sinh năm 1878, mất năm 1916, nhà yêu nước, liệt sĩ, đương thời gọi Ông là Ông Học Tài, hiệu Đạt Đức, con trai cử nhân giáo thọ Phan Thành Tích và bà Lê Thị Truyền (thứ nữ Ông Bùi Thân, tục gọi là Quảng Nghi, một hào phú ở Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên). Xuất thân trong một gia đình khoa bảng vọng tộc lâu đời tại Điện Bàn, thuở nhỏ Ông theo học nho học, lớn lên học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp tại Đà Nẵng đến bậc trung học. Năm 1899 Ông tốt nghiệp trung học được chính quyền Pháp bổ làm thông ngôn tại dinh Tổng đốc Bình Phú (Bình Định - Phú Yên) dưới thời Tổng đốc Dương Lâm (1851-1920) rồi làm thông phán tại Bác cổ học viện Nam kỳ ở Sài Gòn, Ông chỉ làm một thời gian rất ngắn rồi từ chức trở về quê Quảng Nam. Những năm 1902-1908 Ông tích cực tham gia phong trào Duy Tân tại Điện Bàn, từng làm giáo viên dạy Quốc ngữ và tiếng Pháp tại Nghĩa thục Diên Phong, trường này sau thành một trường tiểu học công lập đầu tiên ở Quảng Nam hồi đầu thế kỷ. Năm 1908 phong trào Duy Tân lên cao mà đỉnh cao là các cuộc biểu tình đòi giảm thuế bớt sưu khởi đi từ huyện Đại Lộc tỉnh Quảng Nam, sau lan khắp các tỉnh miền trung. Thực dân và Nam triều thẳng tay khủng bố, đàn áp, chúng bắt đi đày, đi chém các nhà lãnh đạo. Thời điểm này Ông thoát được cuộc khủng bố. Những năm 1912-1914, Ông là lớp người tiên phong tổ chức Việt Nam quang phục hội, từng tích cực tán trợ phong trào Đông Du hồi những năm 1906-1908. Việt Nam quang phục hội nguyên là một tổ chức cách mạng bạo động do sáng kiến của Phan Bội Châu (1867-1940) thành lập ở nước ngoài đứng đầu là Kỳ ngoại hầu Cường Để (1882-1951), sau năm 1915 Hội trở thành một đảng chống Pháp trong nước rồi lãnh đạo cuộc khởi nghĩa năm 1916 dưới danh nghĩa vua Duy Tân (1907-1916), Phan Thành Tài là một trong các nhân vật đầu não cuộc khởi nghĩa này, danh Ông gắn liền với lãnh tụ Trần Cao Vân, Thái Phiên, Lê Đình Dương...

(

52

) Giống (49) Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam trang 777, vả Quảng Nam đất nước và nhân

vật trang 547. Cả hai sách này đều nói đế n bà Bùi Thị Hậu vợ Ông (Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam trang 559, vả Quảng Nam đất nước và nhân vật trang 563), nội dung như sau: Bà sinh năm 1885 mất năm 1967, thứ nữ ông Quản Nghi quê làng Vĩnh Trinh huyện Duy Xuyên. Bà đã hết lòng hết sức cùng chồng góp công vào việc cứu nước cứu dân. Trong thời gian chồng chuẫn bị khởi nghĩa, bà lo sắp xếp việc quân nhu, dệt vãi may y phục cho nghĩa quân để một khi cuộc khởi nghĩa thành công sẽ dùng vào việc lớn. Đến khi chồng hi sinh vì nước, bà mới 35 tuổi, gia tài bị phát mãi, may nhờ có thân phụ là ông Bùi Thân (1842-1924) phái người giả làm người lạ đến mua rồi tặng lại bà để bà có điều kiện sinh sống. Bà đã trọn đời thủ tiết một lòng nuôi dạy 7 người con đều ăn học thành tài. Bà mất ngày 5/6/1967 an táng tại nghĩa địa đất thánh Đa Kao (Sài Gòn). Quảng Nam đất nước và nhân vật ghi sai khi cho rằng bà Lê Thị Truyền, mẹ ông, là con gái ông Bùi Thân. Phổ hệ 1994, trang 9, ghi ở Đà Nẵng có một con đường và ở xã Điện An huyện Điện Bàn có m ột trường học mang tên Ông. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

43


Trong bài Cuộc Duy tân khởi nghĩa 1916 và Phan Thành Tài(53), đã tường thuật cuộc khởi nghĩa này như sau: A-Trước ngày khởi nghĩa: Thế chiến thứ nhất đang nổ tại trời Âu, ngay trên đất Pháp. Cuối năm 1915 Pháp thua nhiều trận, quân Đức vừa vượt qua sông Seine và đang tấn công ồ ạt hướng về Paris. Tại Đông Dương, Pháp mộ binh ráo riết đưa thanh niên Việt sang bổ sung quân số, chính quyền bảo hộ đang bận rộn tại chính quốc, đảng Việt Nam quang phục hội nắm thời cơ ấy, muốn nỗi dậy khởi nghĩa quật Pháp cướp ngay chính quyền, dành độc lập cho Tổ quốc. Đại hội Đảng lần thứ nhất mở vào tháng 9 ất mão 1915 tại nhà Ông Đoàn Bỗng (một viên thư lại bộ Hộ) ở đường Đông ba-Huế, thành phần gồm có các đại biểu ở 5 tỉnh, do Ông Thái Phiên được cử làm chủ tọa, gồm có: -Quảng Bình: Nguyễn Chánh. -Quảng Trị: Phan Phú Tiên. -Thừa Thiên: Đoàn Bỗng. -Quảng Nam: Thái Phiên, Trần Cao Vân, Phan Thành Tài, Đỗ Tự. -Quảng Ngãi: Lê Ngung, Lê Triết, Nguyễn Thụy, Nguyễn Nậm (Mậu). Suốt mấy ngày thảo luận, Đại hội quyết định hai việc quan trọng là: *Rước hoàng đế Duy Tân tham gia vào cuộc khởi nghĩa để an lòng dân chúng. *Phân công tác mỗi người để gấp rút xúc tiến mưu sự khởi nghĩa như sau: +Ông Thái Phiên và Trần Cao Vân đảm nhận tiếp xúc vua Duy Tân và mời vua tham dự cuộc khởi nghĩa. +Ông Nguyễn Thụy và Lê Đình Dương giao thiệp với cố đạo Bản Gốc (Quảng Ngãi) để mật giao với Thiếu tá người Đức đang chỉ huy lính lê dương tại đồn Mang cáHuế. +Ông Lê Ngung lo việc thảo tờ hịch và chương trình hành động. +Ông Nguyễn Chánh làm ủy viên kiểm soát. +Tại các tỉnh phải cấp tốc vận động thêm binh lính hưởng ứng và tổ chức thêm đoàn ngũ dân chúng chờ đợi yểm trợ cuộc khởi nghĩa. Công tác khó khăn và quan trọng nhất là việc bí mật tiếp xúc với hoàng đế Duy Tân. Từ lâu Đảng đã hiểu được tâm ý và tính khẳng khái, cương nghị của vua. Mới 13 tuổi vua đã dám viết thư gởi cho Pháp trách việc Pháp không thi hành đúng đắn Hòa ước 1884 và yêu cầu duyệt lại các khoản bất bình đẳng trong hòa ước ấy. Vua đang mang uất hận về vua cha (Thành Thái) đang bị Pháp lưu đày tại đảo Réunion. Vua muốn đi đây đi đó để giải khuây nỗi lòng và để có dịp tiếp xúc các nghĩa sĩ cần vương. Chiều ý vua, triều đình Huế và bảo hộ Pháp lập một lương

(

53

) Cuộc Duy Tân khởi nghĩa 1916 và Phan Thành Tài của Đại Thạch Lê Ước đăng trong Tập san

Sử địa số 11 năm 1968, từ trang 81 đến trang 101. Bài này cũng nói đến bà Bùi Thị Hậu, nội dung cũng tương tự như ở (52). Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

44


đình ở cửa Tùng (Quảng Trị) để vua nghỉ mát. Tại đây, vua nhiều lần gặp ông Khóa Bảo ở chợ phiên Cam Lộ, ông này là một nhân sĩ cách mạng địa phương, nhờ vậy vua hiểu được thêm nỗi lầm than của dân tộc, tổ quốc. Đã có lần ngồi câu cá tại đây, vua tự than thở: "Ngồi trên nước mà không ngăn được nước, buông câu ra đã lỡ phải lần". Thái Phiên và Trần Cao Vân phải bỏ một số tiền lớn thương lượng người tài xế vua xin thôi việc và chịu đứng giới thiệu người khác thay thế, để đưa đồng chí Phan Hữu Khánh vào nội lái xe cho vua, Khánh là một đảng viên ưu tú dũng cảm, một thanh niên tài năng lỗi lạc, tốt nghiệp trường Bá công Huế. Sau hai tháng làm việc, Khánh được vua tin yêu. Một hôm vua ngự du ở cửa Tùng, Khánh dâng một phong thơ của Trần Cao Vân gởi, đại ý trong thơ nói về tình trạng lầm than của dân tộc, thảm họa của quốc gia và nêu lên ý định phục quốc. Lời lẽ trong thơ có nhiều đoạn rất lâm ly và cảm kích. Xem xong nhà vua bị cảm xúc mạnh, tim nảo nóng như lửa đốt, ruột gan đau như dao cắt. Vua yêu cầu được gặp người viết thư và chỉ định nơi sẽ gặp. Lời yêu cầu này được họp bàn kỹ giữa Trần Cao Vân, Thái Phiên và Phan Thành Tài, ba ông cẩn trọng từng ly từng tí kế hoạch vì đây là then chốt của cuộc khởi nghĩa. Theo đúng ước hẹn, ngày 14/04/1916 (nhằm ngày 12 tháng 3 bính thìn) vua Duy Tân ngự xem tập lính tại bãi Trường Thi. Duyệt binh xong vua thả bộ dọc theo con sông đào gần đó. Tại bến Ngự Hà, lính đội thị vệ Nguyễn Quang Siêu và tài xế Phan Hữu Khánh đã liên lạc hướng dẫn Trần Cao Vân, Thái Phiên xách giỏ ôm cần lẽn vào nội ngồi câu cá dưới gốc cây chờ vua. Lần hội kiến sơ khởi này, giữa ba người đã bày tỏ tình thế trong nước và hải ngoại, thời cơ đã đến tay, tấu trình trước sau việc tổ chức chuẩn bị khởi nghĩa, cùng hoạch định chương trình hoạt động với hai điểm chính yếu: +Chiếm ngay 3 tỉnh Thừa Thiên, Quảng Nam và Quảng Ngãi để làm căn cứ. +Tổng phát động khởi nghĩa khắp các tỉnh Trung kỳ, từ Quảng Bình vào đến KhánhThuận. Ngoài ra nhà vua còn hứa sẽ mật dụ với các đảng để tiện thực hiện khởi nghĩa và khuyên nên phát khởi gấp kẻo mất cơ hội tốt, nhà vua nài mãi nên Trần Cao Vân ưng thuận cho vua đúc 4 cái ấn kinh lược: Ấn Bình Trị (là Quảng Bình, Quảng Trị) Ấn Nam Ngãi (là Quảng Nam, Quảng Ngãi) Ấn Bình Phú (là Bình Định, Phú Yên) Ấn Khánh Thuận (là Khánh Hòa, Khánh Thuận)(54). Trước khi từ giã, vua còn dặn lại ngày khởi nghĩa nên chọn đúng 1 giờ sáng ngày mồng 2 tháng 4 bính thìn (3/5/1916) và dặn đêm ấy đảng sẽ cho người đến hộ giá vua lánh vào Quảng Ngãi ít lâu. Từ đấy về sau, giữa nhà vua và đảng được nhiều lần mật kế bàn thảo để gây nên một cuộc kinh thiên động địa sau này. Đã có lần, ngày 17/2/1916, vua phái bà Trương Thị

(

54

) Có lẻ viết sai, là Bình Thuận, chứ không phải Khánh Thuận.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

45


Dương (tục danh Bát Mang, quê làng Tân Điền huyện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị) vào tận làng Tư Phú ở Quảng Nam vời Trần Cao Vân ra Huế hội kiến. B-Chuẩn bị khởi nghĩa: Mọi việc hoạt động đều được thường xuyên bàn bạc giữa Thái Phiên, Trần Cao Vân, Phan Thành Tài, đã có lần tại nhà ông Lâm Nhĩ ở làng La Châu (Hòa Vang, Quảng Nam), ba người vẫn chưa có ý khởi nghĩa vội, cùng chọn khởi nghĩa vào ngày ngọ, giờ ngọ, tức là trưa ngày 2 tháng 5 bính thìn (8/6/1916). Để tiện mật truyền cho nhau giờ khởi nghĩa, Trần Cao Vân làm một bài thơ nhan đề: Hoả xa Huế - Hàn Một nỗi xa thư đã biết chưa? Bắc nam hai ngã gặp nhau vừa Đường rầy đã sẵn thang mây bước Ống khói căng cao ngọn gió đưa Sấm dậy tứ bề trăm máy chuyển Phút thân muôn dặm NỬA GIỜ TRƯA Trời sai ra dọn xong từ đấy Một nỗi xa thư đã biết chưa? Hoàn cảnh bên ngoài càng thúc giục thêm, một số lính mộ gần 1.000 người tình nguyện hưởng ứng khởi nghĩa nay sắp xuống tàu đưa sang Pháp, mặt khác, vua Duy Tân một mực hối thúc phát khởi sớm. Đảng vội mở hội nghị toàn kỳ lần thứ 2 vào trung tuần tháng 3 bính thìn tại chợ Cầu Cháy (làng Xuân Yên tỉnh Quảng Ngãi), thành phần là các nhân vật trọng yếu trong "Việt Nam quân chính phủ", mục đích đại hội là xúc tiến và chuẩn bị khởi nghĩa: -Nghe báo cáo về hiện tình tại các tỉnh. -Kiển điểm lại tiềm lực đảng ở các địa phương. -Thảo luận ý kiến của vua Duy Tân và quyết định ngày giờ khởi nghĩa. -Trù liệu kế hoạch phát triển lực lượng đảng và tích cực chuẩn bị khởi nghĩa. -Duyệt lại bản chương trình hoạt động, định lại kế hoạch khởi nghĩa. -Phân phối công tác các người phụ trách. a\Kiểm điểm tình hình chung của lực lượng khởi nghĩa tại các địa phương như sau: -Xét tổng quát, lực lượng cách mạng cũng tạm đủ. -Tại Huế, đồn Mang cá hiện có viên thiếu tá người Đức sẵn sàng hổ trợ khởi nghĩa với 1.000 lính mộ sẽ là lực lượng xung phong của cách mạng, đây là lực lượng chính của khởi nghĩa, còn 2.000 lính khố xanh khố vàng sẽ là lực lượng hưởng ứng. Ngoài ra, tại các vùng thôn quê và ngoại ô Huế sẽ có thêm một số lớn quan lại viên chức và dân chúng tham gia giúp đỡ khởi nghĩa. -Tại Quảng Nam Quảng Ngãi, lực lượng đảng mạnh mẽ hơn, cơ sở dân chúng kiên cố hơn hết, vì vậy đại hội lấy hai tỉnh này làm chủ lực trung kiên của khởi nghĩa. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

46


-Tại Quảng Bình chỉ có 3 đồng chí. -Tại Bình Định, hàng ngũ binh sĩ và dân chúng chưa được mạnh lắm, nên ít trông cậy, chỉ mong chờ hưỡng ứng khởi nghĩa với Quãng Ngãi. -Các tỉnh miền nam như Khánh Hòa, Khánh Thuận, Phú Yên lực lượng chẳng có bao nhiêu. b\Kế hoạch khởi nghĩa như sau : -Đại hội quyết định chấp thuận lời đề nghị của vua Duy Tân, tổng phát động khởi nghĩa toàn diện vào giờ tý ngày 2 tháng 4 bính thìn (lúc 1 giờ sáng ngày 3/5/1916). -Chọn Huế làm khởi điểm phát động, bắt đầu bằng tiếng súng thần công để báo hiệu cho kinh thành Huế và Quảng Trị, Quảng Bình. Lúc này ở đèo Hải Vân sẽ nổi lửa báo hiệu cho Quảng Nam , Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Hội An. -Tất cả các tỉnh và Huế lấy lính Việt hưởng ứng cách mạng làm lực lượng chính của cuộc khởi nghĩa, lính này cấp tốc quay súng cướp ngay chính quyền để làm chủ tình thế. Bên ngoài kéo các đạo dân quân và dân chúng vùng ngoại ô, vùng thôn quê (võ trang mã tấu, dao phạn, trái phá...) về hưởng ứng trợ lực khởi nghĩa. -Đặc biệt ở Quảng Nam và Quảng Ngãi dốc toàn lực của lính tập và dân chúng chiếm giữ cửa biển Đà nẵng để quân lực viện trợ ở Xiêm về nước đỗ bộ lên bờ và để mở đường giao thông suốt từ Đà Nẵng vào tận Đức Phổ. -Nếu khởi nghĩa bất thành thì các đạo quân sẽ rút về hướng tây, như Quảng Nam lui về chiếm vùng núi Bà Nà, Quảng Ngãi rút lên miền Gió Rút, Bình Định kéo lên miền Gia Rai (Pleiku)...toàn là những vùng địa thế hiểm trở để làm hậu thuẩn các cuộc phản công về sau, nếu có. -Vì lực lượng yếu kém nên các tỉnh miền nam chỉ nỗi dậy hưởng ứng khởi nghĩa lúc nào quân cách mạng kéo tới. c\Phân công phân nhiệm như sau: *Đại hội bầu một Ủy ban khởi nghĩa gồm : +Huế: Thái Phiên chủ tịch, Trần Cao Vân quân sư. +Quảng Nam : Phan Thành Tài, Đỗ Tự +Quảng Ngãi : Lê Ngung và phân công phân nhiệm từng người như sau: *Tại kinh thành Huế: +Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu đốc xuất lính thân binh thị vệ trấn giữ hoàng thành. +Nguyễn Đình Trứ, Lại Hà, Phạm Thanh Chương...công phá Bình đài (Mang Cá), tại đồn Mang Cá sẽ có viên thiếu tá lê dương người Đức làm nội ứng với 3.000 binh lính. +Lê Cảnh Hàn, Đặng Khánh Khải, Trần Đại Trinh... điều động lính tập quay súng chiếm ngay Tòa Khâm sứ Trung kỳ. Ngoài ra sẽ có một đội cảm tử Nam Ngãi hiệp cùng các đội Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

47


dân quân vùng phụ cận Huế trợ lực công hảm chiếm cho bằng được Tòa Khâm sứ này, áp đảo ngay đối phương. +Thái Phiên tổng chỉ huy phát khởi tại Huế, có sự trợ lực của Lê Cơ (lý trưởng, quê Quảng Nam) và Lê Cảnh Vận ( nổ súng phát lệnh) +Trần Cao Vân phụ trách hộ giá vua vào Quảng Ngãi ẩn tránh ít lâu, chờ khởi nghĩa thành công sẽ rước về. *Tại Quảng Trị, giao Tú Cơ, Khóa Bảo, Khóa Ngô, Quản Thiệu, Đào Duy Chánh...các tổ chức dân chúng do Khóa Bảo điều động, còn các đội lính khố xanh do Quản Thiệu xuất lĩnh. *Tại Quảng Nam, giao Phan Thành Tài, Tú tài Đỗ Tự, Tú tài Trương Bá Huy, Huỳnh Khâm, Huỳnh Phùng, Lê Văn Bính, Cử nhân Mai Dị, Ông Văn Long... *Tại Đà Nẵng, giao Lâm Nhĩ, Hồ Cẩm Vinh, Lê Tường, Trần Ngọc Đạm... *Tại Hội An, giao y sĩ Lê Đình Dương, Quản Thái... *Tại Tam Kỳ, giao huê kiều Thẩm Tường Vân, Út Pem... *Tại Quảng Ngãi, giao Lê Ngung, Cử Sụy, Phạm Cao Chẩm... Đấy là quân lực trong nước, ngoài ra cuộc khởi nghĩa sẽ được quân lực ở Xiêm về tiếp sức, chi bộ đảng tại Xiêm đưa lực lượng Việt kiều quang phục quân và quân lính Đức về nước bằng đuờng thuỷ và sẽ đổ bộ lên cửa biển Đà Nẵng. Hỏa lực tỉnh Quảng Nam do Phan Thành Tài, Đỗ Tự và Ông Văn Long điều động hiệp cùng lực lượng Đà Nẵng quyết chiếm giữ lập tức Đà Nẵng để chờ viện binh ở Xiêm về tràn vào đất liền, các đội dân quân của hai làng Nghi An, Phong Lệ ở ngoại ô Đà Nẵng phụ trách đốn ngã cây lăn ra đường tạo thành chướng ngại vật ngăn chặn quân Pháp tiếp cứu Đà Nẵng từ Quảng Nam ra hay ở Huế vào. Ngoài ra, Đại hội đảng còn giải quyết vấn đề khác như : -Huy động tiền của và nhân công để sắm quân nhu quân phục. -Tổ chức hờ sẵn một bộ máy hành chánh để chờ thay thế chính quyền Bảo hộ và Nam triều một khi khởi nghĩa thành công. -Loan truyền hịch khởi nghĩa đi khắp nơi (hịch này do tú tài Lê Ngung thảo). -Định cờ khởi nghĩa là 5 sao trắng trên nền đỏ, với ý nghĩa "ngủ tinh tụ tỉnh" ở kinh Dịch. -Đúc 4 ấn kinh lược dùng vào các giấy tở chỉ thị của khởi nghĩa. Ấn Nam Ngãi giao Phan Thành Tài giữ. -Giao Lê Đình Dương đảm nhận chức Tổng trấn tỉnh Quảng Nam, ngoài ra còn ban nhiều chức khác như nguyên soái, đề đốc, lan thuộc ...để tiện điều binh chỉ huy cuộc khởi nghĩa. Mọi quyết định của đại hội, mọi chuẩn bị khởi nghĩa sau này đều được đảng mật trình lên vua Duy Tân, tất cả được vua đồng ý hài lòng. Trước khởi nghĩa vài ngày, Thái Phiên, Trần Cao Vân và vài đồng chí bí mật đáp xe ra Huế, nằm chờ sẵn ngày khởi sự.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

48


C-Ngày khởi nghĩa: Từ lúc 11 giờ đêm, trước khởi nghĩa 2 tiếng, vua Duy Tân cải trang thường dân, mặc chiếc áo ngắn màu nâu sẫm, quần dài trắng, đội khăn đen, mang giày hạ, ngồi trên chiếc xe kéo ra khỏi hoàng thành hướng về bến Thương bạc. Bên cạnh có Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu là hai thị vệ phò tá. Tại đây đậu sẵn chiếc thuyền và Trần Cao Vân, Thái Phiên chờ rước vua bôn tẩu. Chuyện không may, khi vừa đến Thương bạc chưa kịp xuống thuyền, vua gặp Nguyễn Đình Trứ, một thông phán Tòa Khâm được đảng giao trọng trách tuyên truyền lính đồn Mang Cá, Trứ xuống đò sang sông Hương, vào thẳng Tòa Khâm sứ phi báo. Để đánh lạc hướng việc tầm đuổi, vua gói ấn bỏ lại trên cầu Tràng tiền rồi cùng Thái Phiên, Trần Cao Vân theo thuyền xuôi về bến Ngự, tạm trú tại làng Hà Trung, huyên Phú Lộc. Nào phe cách mạng có hay biết gì đâu, cơ mưu cách mạng đã bị bại lộ tại Quảng Ngãi, Pháp biết mưu sự khởi nghĩa từ chiều 1/5/1916, tức là chiều ngày 29 tháng 3 âm lịch. Tại kinh thành Huế, viên khâm sứ Charles ra lệnh giới nghiêm đề phòng vào đêm 2/5/1916, đêm này từ lúc 9 giời tối các yếu nhân như Thái Phiên, Lê Cơ, Lê Cảnh Vận đã tụ tập tại nhà ông Đề, chờ hiệu lệnh thần công nổ để khởi sự. Tình hình lính Pháp rầm rộ kéo đến, trong cung nội vang tiếng la khóc inh ỏi...biết ngay mưu sự không thành, Lê Cảnh Vận vội chạy báo hung tin đến vua. Được tin, vua liền nói: " Thôi việc như rứa thì hay rứa, chừ thầy đi tìm mời thầy Phó (tức Thái Phiên) đến đây". Mới đi một lúc Lê Cảnh Vận bị bắt. Chờ mãi đến 3 giờ sáng vẫn không có hiệu lệnh gì cả, liên lạc tới tấp báo tin về tình hình Huế đang bị giới nghiêm lính Pháp tuần tiểu khắp nơi đề phòng ráo riết...Trần Cao Vân và Thái Phiên biết cuộc khởi nghĩa đã thất bại. Đến 4 giờ sáng, các đồn linh Pháp thổi vang kèn tập binh, lính ky mã, mật thám và cảnh sát Pháp chạy nhốn nháo khắp ngã đường. Bọn mật thám bắt trọn các yếu nhân chỉ huy việc tiến đánh Tòa Khâm sứ và trấn Bình đài. Trần Cao Vân vội đưa vua lần theo đường núi đến địa điểm dự định ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, rồi sau này sẽ tùy cơ phân giải, nếu cần sẽ đưa vua ra khỏi nước. Rời khỏi làng Hà Trung cứ nhắm hướng nam mà đi, các nhà cách mạng phò vua theo đường mòn ở núi rừng, vì hành trình mệt nhọc quá nên đành tạm lưu vua nghỉ chân tại một ngôi chùa bên núi Ngũ Phong (gần vùng Nam Giao) ỏ phía nam Huế, nhưng sáng hôm sau (6/5/1916) lúc đang sửa soạn lên đường, chùa bị lính tráng vây đông nghẹt từ trong ra ngoài dưới sự điều khiển của Ngô Đình Khôi, có mặt cả Le Fol (chánh văn phòng Tòa Khâm sứ) và Leon Sogny (chánh mật thám) nữa. Gặp tình thế như vậy, mà vua Duy Tân vẫn thản nhiên không chút gì sợ hãi, vẫn nói chuyện như lúc còn ở triều. Các triều thần năn nĩ mời hồi cung, vua từ chối, cuối cùng vua bị điệu lên xe hơi, có hai viên chức cao cấp Pháp ngồi kèm hai bên, lái xe chạy rão khắp kinh thành cho dân chúng biết vua đã bị bắt, rồi giam vua vào đồn Mang Cá suốt 10 ngày liền. Triều đình Huế kết tội vua đã "Vọng thính sàm ngôn, khuynh nguy xã tắc" (nghĩa là nghe theo lời xu nịnh làm cho xã tắc khuynh nguy), Pháp đưa xuống tàu thủy và đầy sang đảo Réunion tận châu phi, lúc này vua Duy Tân mới 17 tuổi. Trần Cao Vân, Nguyễn Quang Siêu bị bắt, rồi Thái Phiên, Tôn Thất Đề, Phan Hữu Khánh... lần lượt bị sa lưới, tất cả bị tống giam vào ngục Thừa Thiên chờ ngày lĩnh án. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

49


Đêm ấy, tại các đồn lính, lính Việt chờ đợi khởi nghĩa đều đứng ngồi không yên, nhất là lính ở đồn Mang Cá nhốn nháo cả lên, nhưng tất cả đành chịu bó tay vì các lính Việt bị tước giữ tất cả súng ống, thu cất vào kho tất cả đạn dược, đóng chặc tất cả cửa đồn, cửa trại, riêng lính Pháp thì tuần tiểu khắp phố, kiểm soát các ngã đường sẵn sàng ứng phó đàn áp cuộc biến động. Cuộc khởi nghĩa tại Huế bị thất bại ngay từ lúc chưa báo động. Chờ mãi đến 1 giờ khuya vẫn không có phát lệnh, Huế im lặng, Quảng Bình, Quãng Trị cũng yên tĩnh theo, đèo Hải Vân cũng không đốt lửa báo hiệu, tại các tỉnh, các đội dân quân, các đoàn dân chúng kéo tụ tập về các phủ huyện, tất cả sẵn sàng khởi nghĩa, chờ mãi Huế chẳng có lệnh báo hiệu đành phải nằm im lìm, gần đến sáng mới lần lần tự giải tán. Riêng tại phủ Tam Kỳ (Quảng Nam) vốn oán hận sẵn bọn Pháp và quan lại hà khắc, bọn tổng lý tham nhũng nên dân chúng kéo đến vây chặc đồn Đại lý và phủ, bắt trói viên Tri phủ Tạ Thúc Xuyên và giết chết viên đại lý người Pháp. D-Cuộc khởi nghĩa thất bại và đảng Việt Nam quang phục hội bị tan rã: Khởi nghĩa định ngày 3/5/1916 mà cơ mưu bại lộ từ hôm 1/5, trước hết tại Quảng Ngãi, nguyên do là viên cai khố xanh tên Võ An, ngụ tại làng Năng An, nhưng quê làng Long Phụng, phủ Tư Nghĩa, có người anh tên Võ Huệ làm lính giản tại dinh Án sát Quảng Ngãi. Vì tình ruột thịt nên An tỏ bày cho anh biết và khuyên anh tìm cách tránh khỏi dinh vào đêm biến động. 2 giờ chiều ngày 1/5, Võ Huệ vào dinh xin phép về thăm nhau ít hôm. Mấy ngày gần đây thấy phe cách mạng gia tăng hoạt động làm viên Án sát rất e ngại, nay thấy Huệ xin phép, Phạm Liệu phát sinh nghi, vặn hỏi này nọ làm Huệ phát cuống, thấy vậy viên Án sát càng làm nồ và xoay qua hăm dọa làm Huệ sợ sệt nói ấp úng, cuối cùng đành phải khai thật lời dặn của em. Võ Huệ bị giữ, Võ An bị bắt, Võ An khai Trần Thêm đã tổ chức y theo cách mạng. Trần Thêm quê ở làng An Điền, phủ Bình Sơn, là viên thư lại khố xanh được biệt phái làm việc tại Tòa Khâm sứ, gia nhập đảng đảm nhận công tác chiêu dụ lính khố xanh. Trần Thêm bị bắt, một đảng viên quan trọng sa lưới, cơ mưu bí mật bị bại lộ, cuộc khởi nghĩa bất thành từ đây. Sau khi đi kinh lý phủ Bình Sơn về, viên công sứ De Taste và Tuần vủ Trần Tiển Hối được viên Án sát đến tấu trình sự việc, hai người vội mật điên báo cho viên khâm sứ Trung kỳ Charles ở Huế biết và lập tức ban lệnh ứng phó cuộc chiến biến động tại tỉnh lỵ Quảng Ngãi, tuy vậy tối 2/5 trước giờ khởi nghĩa, dân chúng ở phủ huyện vẫn kéo về các địa điểm tập trung chờ hiệu lệnh. Đội Luân và Cai Xứ điều động lính khố xanh từ phủ Nghĩa Hành về cách tỉnh lỵ Quảng Ngãi 2 cây số nằm chờ sẵn, đợi mãi gần đến sáng đành phải rút lính về. Trong mấy ngày liền Pháp khủng bố khắp nơi, phá vỡ các tổ chức cách mạng, nhiều nhà bị xét tịch biên, nhiều người bị bắt và tra tấn, 200 người bị án khổ sai đày đi Côn Đảo và Lao Bảo, 14 người bị chém (các người bị bắt được 10 ngày, Pháp dựng pháp trường tại bãi cát bờ sông Trà Khúc, gần quốc lộ 1 phía bắc tỉnh lỵ Quảng Ngãi gần 2 cây số, để hành quyết vào tháng 5/ 1916, trong số này có Lê Ngung, Lê Triết, Nguyễn Thụy, Cử Sụy, Trần Thêm...), nhất là hai liệt sĩ Lê Ngung và Cử Sụy đã tự vận bằng thuốc độc trong khám mà thi hài vẫn bị Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

50


đem đến pháp trường chém và bêu đầu ở làng Cam Lộ (Quảng Ngãi) vì cái án dã man “lục thi trảm niệu”. Về sau các nhà cách mạng đều bị triều đình Huế lên án tử hình vì tội xúi dục vua như sau : “Thủy nhi hậu hồ thùy điếu, thiện tả chiếu văn, nhi Thương bạc đình thuyền, yêu nghinh thánh giá, Hà Trung mạch phạn, Ngũ Phong kê thang, thánh thể phong trần, dai dĩ bối vi chi tội nghiệt” (nghĩa là: Ban đầu buông câu ở hậu hồ, tự chuyên quyền thảo tờ chiếu, kế đến neo thuyền bến Thương bạc chờ rước nhà vua, mời vua dùng cơm lạt làng Hà Trung, ăn cháo gà núi Ngũ Phong, mình rồng phải chịu dãi dầu sương gió, tội nghiệt này đều do bọn kia tạo nên). Bản án đã có, Tòa Khâm sứ phái người đến tận lao Hộ thành chụp hình các tử tội để lưu trữ hồ sơ. Ngày 17/5/1916 năm chí sĩ Trần Cao Vân, Thái Phiên, Phan Hữu Khánh, Tôn Thất

Đề và

Nguyễn Quang Siêu bị giải đến pháp trường tại cửa An Hòa phía tây bắc thành nội chỉ cách Huế vài cây số, các thi hài bị vùi chung một lỗ ngay nơi thọ hình, về sau đến năm 1925 bà Trương Thị Dương (tức Bát Mang) lén đào trộm hài cốt Trần Cao Vân và Thái Phiên về cải táng tại chùa Châu lâm ở ngoại ô Huế, hai ông cùng táng chung một nấm. Ở tỉnh Quảng Trị, cuộc khởi nghĩa bị bại lộ, các nhà cách mạng bị bắt, cụ Khóa Bảo bị tra tấn nhục hình. Ở tỉnh Quảng Nam, không những cơ mưu bại lộ, lại còn thêm lời tố giác của tên phản đảng là Tuần vũ Nguyễn Đĩnh, do hồ sơ Đĩnh cung cấp, Pháp bắt không sót một người : -Xã Mãi, người đúc 4 ấn kinh lược, quê làng Phước Kiều, phủ Điện Bàn. -Huê kiều tên Kim ở phủ Tam Kỳ vì đã cho dân chúng mượn súng. -Lưu đày nhiều nhà cách mạng, trong đó có y sĩ Lê Đình Dương (quản đốc bệnh viện Hội An, quê làng La Kham, Điện Bàn có công vận động thiếu tá người Đức) đày vào Khánh Hòa và bị chết tại lao Ban Ma Thuộc, có lý trưởng Lê Cơ một tay tranh đấu nổi tiếng, có tú tài Trương Bá Huy, Đỗ Tự, có cả Trần Chương (sau chết tại ngục Lao Bảo)... -Ông Thừa Phong (tên thật Nguyễn Đức Đạt, quê làng Miếu Bông – Hòa Vang) uống thuốc độc tự vận trong lao Quảng Nam. -Ông Lương Thái Hòa (quê làng Kim Bồng – Điện Bàn) trốn thoát được vào tỉnh Gia Định làm trụ trì chùa Cổ linh tại làng Bình Thắng. -Ông Phan Thành Tài bị soát xét nhà, từ Đà Nẵng lẻn trốn lên miền núi Hiên, Giằng ở phía tây Quảng Nam, được người thượng tên U They che giấu, nhưng chỉ được 7 ngày, hai người bị bắt áp giải về Vĩnh Điện, và ngày 9/6/1916 Ông bị hành quyết tại Chợ Củi (Điện Bàn – Quảng Nam). Tên Phan Thành Tài đi vào lịch sử, Ông chết nhưng danh Ông còn sống mãi với dân Việt.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

51


Vì mến tiếc hai nhà cách mạng Phan Thành Tài và Thái Phiên, một nhà vô danh (55) đã tặng một bài thơ sau đây: Khảng bả tây văn khứ tác nô Bất thành cam tự đoạn đầu lô Quốc trung tây học nhân như tức Thanh dạ môn tâm quý tử vô? Cụ Huỳnh Thúc Kháng đã dịch như sau: Âu học không đem rút của người Chã thành đời sống vứt như chơi Kìa phường học mới đông như kiến Đêm hỏi lòng chăng có hổ ngươi? Về sau tại ngôi mộ Ông, tú tài Hàn lâm cung phụng Phan Bá Thảo (Phổ hệ 1994 ghi là Phan Bá Tảo) có viết bài văn bia chữ Hán, cử nhân Lương Trọng Hối (cựu Quản đạo Ninh Thuận, cựu dân biểu) dịch ra chữ quốc ngữ khắc ở mặt sau bia: Ca chính khí vang vùng Vĩnh Điện Máu anh hùng xối sạch Quảng Nam Sông Thu Bồn mặt nước lênh đênh ứa dòng lệ thảm Tháp Bằng An làn mây sâm sẩm ủ giọt tình thâm Chạnh niềm nghĩ nỗi nước non, nhớ người thiên cổ Ngán nhẽ thương tình nòi giống, vì việc cận kim Giận giặc Pháp dày xéo non sông gấm vóc, lòng nào lòng lòng chẳng xót xa Tủi dân Nam thua thiệt số phận hẩm hiu, dạ để dạ dạ càng chua xót Kết nạp đồng chí Phan, Mai, Trần lập Đông kinh nghĩa thục đào tạo thanh niên Tổng tư lệnh Nam, Nghĩa, Bình quyết tổ chức nghĩa binh tẩy trừ quốc nạn Mưu cần vương chẳng rời một phút, ân cần đá tạt vàng ghi Chí phục quốc quyết vững mọi bề, khảng khái máu rơi thịt nát Công cả còn ghi tiếng thơm càng nức Sóng Duy Tân dồn dập, quốc hồn thức tỉnh, cuộc Đông du gỏ trống khua chuông Gió cách mạng ào ào, dân chí càng hăng, lớp Tây học cầm cân nảy mực Vẻ sương phụ vẹn tròn một tiết, khuôn khổ khuê nghi Chữ trượng phu ghi tạc nghìn thu, tấm bia Đạt đức. (

55

) Quảng Nam đất nước và nhân vật cho rằng nhà vô danh này chính là Hu ỳnh Thúc Kháng. Ở phần

mộ ông Phan Thành Tài và t ại nhà thờ Phan phái nhì có ghi bài dịch như sau: Tây học đâu cam chịu kiếp bồi Không thành nên chịu mất đầu thôi Kìa phường tây học đông như kiến

Đêm hỏi lòng chăng có hổ ngươi? Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

52


Trên đây là một số Ông với các chức vụ và công trạng đã được sử sách ghi nhận, còn những Ông khác xin sẽ bổ sung vào các bài viết sau, khi đã tìm được tư liệu. Nhân bài viết này, tôi cũng xin đề nghị với Tộc một số việc như sau: 1-Tôi không được học chữ Hán nên việc giải thích các câu đối xin dành cho những Ông tinh thông hán học, ở đây tôi xin lạm bàn đôi nét về hai câu đối: +Bắc địa tùng vương long hữu nghị – Nam thiên lập xã tác dân sơ. Tôi nghĩ từ trước đến nay Tộc ta quá quan tâm đến vế Nam thiên lập xã, mọi việc được qui vào Nam thiên lập xã, nói cách khác Nam thiên lập xã là mục đích, còn Bắc địa tùng vương chỉ là phương tiện, từ đó cho rằng Ngài Nhơn Huyện và Ngài Nhơn Bàn vào nam là để khai hoang lập nghiệp. Theo tôi, một câu đối không nhất thiết là vế trên phải chuyển ý cho vế dưới, là truyền tải mục đích cho vế dưới, làm như vậy câu đối không còn cái hay của câu đối nữa, hơn nữa trong thực tế, một người đi khai hoang lập nghiệp khó có thể làm đến một quan chức lớn như quan chức của Ngài Thuỷ tổ vì mọi công sức đều đổ vào chuyện khai hoang, không còn thì giờ để lo việc khác. Có thể các đời sau của đời đi khai hoang lập nghiệp đạt được những chức vụ lớn, nhưng cũng phải là các đời sau, khi việc khai hoang đã xong, đời sống ổn định. Vì vậy tôi đưa ra một giả thuyết vào nam như đã trình bày ở phần trên, xin Tộc cùng góp sức thêm để làm sáng tỏ công đức của Ngài Thuỷ tổ. +Tố nam Ao Giản, tố bắc Vinh Dương ba trụ tùng lai danh tứ hải – Như thạch Điện Bàn, như qua Diên Phước hồng cơ chung cổ ngật trung châu. Có thể khẳng định câu đối này chỉ xuất hiện từ sau năm 1822 (Minh Mạng 3) vì đến năm này vua Minh Mạng mới đổi tên huyện Diên Khánh thành huyện Diên Phước. Trong câu đối này có tên Vinh Dương nhưng từ xưa đến nay chưa thấy ai nhắc đến, mà chỉ nói đến Ao Giản (trong khi Vinh Dương cũng là một yếu tố cấu thành câu đối), vậy nên chăng tìm hiểu thêm về Vinh Dương cũng là một cách tìm ra được quê Tổ vì ý của câu này, theo tôi là “nhớ Ao Giản ở phía nam, nhớ Vinh Dương ở phía bắc” (chữ tố có nghĩa là: đi ngược dòng sông, và tưởng nhớ lại việc trước, ở đây tôi lấy ý nghĩa thứ hai). 2-Về các danh nhân Phan tộc, xin có xác định tiêu chuẩn một cách cụ thể, rõ ràng, vì Phổ hệ 1994 đã nêu lên một số Ông có phẩm hàm lục phẩm, thất phẩm, vậy thì ngày nay có những Ông đã đỗ thạc sĩ, tiến sĩ..., hoặc có Ông tuy không đỗ đạt cao nhưng lại có tiếng về một mặt nào đó như kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, giáo dục v.v...vậy có được đưa vào phần danh nhân hay không? 3-Dòng tộc ta là một dòng tộc rất quý trọng việc học, đời nay lại càng quý trọng việc học hơn để tiến kịp theo người khác và để xứng đáng với cha ông đời trước, vậy nên chăng Tộc thành lập một Bảng Vàng ghi lại danh sách những người này hầu làm gương cho con cháu. Với hai Phô hệ 1994 và Phổ hệ II-1971, tôi đã đếm được không dưới 20 người đạt được học vị từ cử nhân trở lên, mà đó là Phổ hệ 1994 chỉ ghi đến đời 13 và Phổ hệ II-1971 chỉ ghi đến năm

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

53


1971 mà thôi, cũng không ghi đến phái nữ. Ngày nay chắc chắn là còn nhiều hơn gấp bội khi ghi đầy đủ được 5 phái. 4- Các Phổ hệ đã làm thường không cập nhật hết các đời đã có vào lúc biên soạn, thí dụ Phổ hệ 1994 chỉ ghi đến đời 13 trong khi thực tế Tộc ta đã có đến đời thứ 19. Tôi là cháu đời 16 nên không được ghi nhận vào Phổ hệ 1994, do đó thật là buồn khi muốn chứng minh cho người nào đó biết rằng tôi là hậu duệ của một Tộc lớn, đã có những đóng góp cho lịch sử trong quá khứ thì lại không thể được vì trong Phổ hệ không thấy tên tôi đâu cả, niềm tự hào dòng tộc cũng vơi bớt. Vậy nên chăng trong những lần biên soạn sau nên cập nhật được đến đời đã có vào lúc đó để con cháu còn có niềm tự hào mình là người của dòng tộc. Như tôi đã trình bày ở phần trên, tôi chỉ là người đi sưu tầm lại sử sách và ghi nhận lại những gì có liên quan đến dòng tộc, đến những bậc tiền bối họ Phan và chép lại để cho mọi người trong tộc cùng có được niềm tự hào về quá khứ của cha ông. Vì chép lại từ sử liệu nên có khi dài, khi ngắn, có khi sử liệu này nói thế này mà sử liệu kia nói thế khác về cùng một vấn đề, lại có những sử liệu bây giờ nghe tên nhưng không biết tìm ở đâu, nên một mình tôi chắc chắn không thể làm nỗi, cũng không thể phát hiện được hết những cái khác nhau trong các sử liệu, do đó không thể tránh khỏi những sơ suất xảy ra trong bài viết này, tôi chỉ mong rằng bài viết này chỉ là một phần nhỏ trong cái vô vàn của quá khứ cần phải tìm, tôi mong được các nhà nghiên cứu của Tộc sửa chữa, bổ sung thêm, đó chính là ước muốn của tôi khi đặt bút viết những dòng chữ đầu tiên cho bài viết này. Viết tại Thành phố Hồ chí Minh trọng thu Bính tý - 9/1996 Phan Bá Lương (2/16)

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

54


BÀI 2 Tiếp tục vào việc góp phần làm sáng tỏ công sức của Tổ tiên Phan tộc, trong bài viết này tôi xin nêu lên một số vấn đề sau đây: 11.-VỀ NIÊN BIỂU PHAN TỘC: Trong bài trước, tôi đã dựa trên những tư liệu xác định của tộc Phan Phan Xá (Nghi Xuân – Hà Tĩnh ) để lập thành một niên biểu cho tộc Phan Bảo An, ở đây xin nêu thêm một số cơ sở để góp phần xác nhận niên biểu nầy, đó là: a.Sách “Tác gia hán nôm Nghệ Tĩnh (56) viết như sau: Phan Nhân (1401-?) tự là Yên Lạc, hiệu là Lạc Trai, người làng Phan Xá, nay là xã Xuân Thành, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, là tằng tổ hoàng giáp Phan Chính Nghị, học giỏi nhưng không đi thi, năm 1424 theo Lê Lợi đánh giặc Minh, sau làm đến Thẩm hình viện tri viện sự, tước Trung nghị đại phu, Vận kỵ uý, Á sự liêu ban, Yên phủ sứ lộ Lý Nhân. Tác phẩm: -Lạc trai tập (văn, đã mất) -Bài ký hành quân (theo Nghi Xuân huyện chí, đã mất) -Câu đối đáp học quan nhà Minh (chép trong Nghi Xuân huyện chí, quyển hạ). -Đề lỵ sở Lý Nhân (thơ, chép trong Nghi Xuân huyện chí, quyển hạ) b.Ghi nhận trong phổ hệ Phan Phan Xá: chưa bằng lòng với điều mà Tác gia hán nôm Nghệ Tĩnh viết, tôi đã viết thư cho Ông Phan Văn Tấn ở đội 7, xã Xuân Mỹ, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh và đã được Ông cho biết như sau : “...Trong phổ hệ của tộc Phan Phan Xá ghi chép rất đầy đủ về thân thế, sự nghiệp của Ngài Nhân, còn trong Nghi Xuân huyện chí thì chép sơ qua. Theo phổ hệ thì quá dài nên chỉ ghi phần ngày tháng năm sinh và ngày tháng năm mất của Ngài Nhân là: Ngài Nhân tự là An Lạc, hiệu là Lạc Trai tiên sinh, con trai trưởng Ngài Hy Tái, sinh ngày 26 tháng 4 năm tân tỵ (tức năm 1401) đời Hồ Thiệu Thành nguyên niên ở thôn Liên Đuờng, xã Phan xá ... Một buổi sáng ngủ dậy sai người nhà nấu nước hương tắm giặt, mặc áo đội mũ, cân đai chỉnh tề, đốt hương ngồi tỉnh lặng, mắt mờ như ngũ, suốt ngày không nói, đến giờ mão ngày 25 tháng 9 năm canh ngọ (1450) đời vua Nhân Tông niên hiệu Thái Hòa năm thứ 8 thì Ngài qua đời, xuân thu vừa 48...” Như vậy là điều mà trong bài 1 tôi vẫn chưa xác định được rõ ràng khi nói về Ông Phan Nhân thì nay đã được hai tư liệu này xác nhận. Qua tư liệu cho thấy:

(

56

) Tác gia hán nôm Nghệ Tĩnh do Thái Kim Đỉnh biên soạn, Thư viện Hà Tĩnh xuất bản năm 1996. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

55


-Ông Phan Nhân là đời 7 kể từ Ngài Nghệ An Trại chủ, còn Ngài Nhơn Bàn là đời 6 kể từ Ngài Nghệ An Trại chủ, tính về vai vế thì Ngài Nhơn Bàn là chú Ông Phan Nhân nhưng không phải là trực hệ . -Ông Phan Nhân sinh năm 1401, năm 1424 theo Bình Định vương Lê Lợi đánh giặc Minh, vậy thì Ngài Nhơn Bàn cũng sinh trong khoảng này và cũng có thể đã tham gia kháng chiến chống Minh như trong bài 1 tôi đã trình bày . Điều này cho thấy rằng Ngài Thuỷ tổ Nhơn Bàn vào nam từ rất sớm so với những thời điểm 1471, 1493, hay 1558 theo quan niệm của một số người, vì để đạt được chức vụ cao quý “Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân Cẩm y vệ Đô chỉ huy sứ Địch nghĩa bá” thì những thời điểm vào nam năm 1471, 1483, hay 1558 so với Ngài là đã quá trễ để có thể xuất sĩ. 12.-VỀ KHUYẾN NÔNG QUAN PHAN VĂN HÀN (2/2), TỔ PHÁI NHÌ: Các Phổ hệ hay Hệ phổ của Tộc và của Phái nhì đều ghi nhận Ông Phan Văn Hàn làm quan khuyến nông. Vậy chức vụ này có hay không và Ông Phan Văn Hàn có phải là quan khuyến nông hay không ? Sách Tổ chức chính quyền trung ương dưới triều Lê Thánh Tông của Lê Kim Ngân (57) có ghi như sau :”...Lần đầu tiên tại nước ta, vua Lê Thánh Tông đã tỏ ra hết sức quan tâm tới đời sống của dân chúng và chú trọng đặc biệt tới nông vụ. Ngài cho thiết lập nhiều cơ quan chuyên về nông nghiệp để giúp đỡ, khuyến khích dân trong việc đồng áng và để tìm cách phát triển ngành nông: 1-Sở đồn điền, chuyên trông coi về ruộng đất, xem xét đất tốt xấu thế nào, trù định và thực hiện việc dẫn thuỷ nhập điền ...Đứng đầu sở này là Đồn điền sở sứ (hàm tòng bát phẩm), giúp việc có quan Đồn điền phó sứ (hàm chánh cửu phẩm). 2-Sở tàm tang, chuyên trông coi việc trồng dâu nuôi tằm, đứng đầu là quan Tàm tang sở sứ (hàm tòng bát phẩm), thứ nhì là quan Tàm tang phó sứ (hàm chánh cửu phẩm). 3-Sở thực thái, coi việc trồng rau, có quan Thực thái sở sứ (hàm chánh cửu phẩm) đứng đầu . 4-Sở điền mục, là cơ quan chăm sóc việc chăn nuôi súc vật, có quan Điền mục sở sứ (hàm chánh cửu phẩm) đứng đầu. 5-Ngoài ra, vua Lê Thánh Tông còn đặt chức Khuyến nông sứ (hàm tòng cửu phẩm) để khuyên răn dân chúng chú trọng về nghề nông, và chức Hà đê sứ (hàm tòng cửu phẩm) để gìn giữ đê điều cho dân ...” Xem như vậy thì có thể thấy rằng đến đời vua Lê Thánh Tông mới có những cơ quan và chức quan chuyên về nông nghiệp cũng như nhiệm vụ của những chức quan đó. Riêng đối với Ông Phan Văn Hàn, chức vụ Khuyến nông quan được ghi trong các Phổ hệ có lẽ là chức Khuyến nông sứ như trong sách đã nêu, nhưng như tôi đã trình bày trong bài 1, về ấm phong thì các

(

57

) Sách đã dẫn, phần IV-Các cơ quan chuyên về nông nghiệp, trang 78. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

56


Ông Phan Văn Hàn, Phan Văn Thiệu, Phan Văn Yến, Phan Văn Liêu là các con thứ của Ngài Thuỷ tổ nên khi Ngài Thuỷ tổ được phong quan thì các Ông cũng được ấm phong là Mậu lâm lang, hàm chánh lục phẩm. Dù đây chỉ là những chức hàm, không thực thụ làm quan, nhưng có thể tin rằng không thể có chuyện một người đã được ấm phong chánh lục phẩm lại ra làm quan tòng cửu phẩm, ngay cả đối với triều đình cũng như cá nhân ngưòi đó, hơn nữa đây lại là con của công thần. Vậy thì với trường hợp của Ông Phan Văn Hàn chỉ có thể kết luận là Ông không phải là quan khuyến nông (được hiểu với danh nghĩa là được phong chức, có bằng sắc) thực thụ, mà có thể hiểu là Ông không vào quan trường, nhưng Ông đã đem sự hiểu biết của mình giúp mọi người hiểu được tầm quan trọng của nghề nông, làm cho nghề nông được chú trọng tại vùng đất mới khai phá này, từ đó mà làm cho ”nhà nhà no đủ “. Công sức của Ông trong lãnh vực này đã được con cháu đời sau quy vào chữ Khuyến nông quan và đã nghĩ là Ông làm quan thực sự. 13.-VỀ ĐẶC TIẾN PHỤ QUỐC THƯỢNG TƯỚNG QUÂN CẨM Y VỆ ĐÔ CHỈ HUY SỨ CHƯỞNG VỆ SỰ CHƯỞNG KỲ TOÀN ĐỨC HẦU PHAN VĂN DU VÀ ĐẶC TIẾN PHỤ QUỐC THƯỢNG TƯỚNG QUÂN CẨM Y VỆ ĐÔ CHỈ HUY SỨ TY CAI ĐỘI LIÊM TRỰC HẦU PHAN VĂN HUYỀN : Phổ hệ 1994 ghi chức trách của hai Ông như sau : -Ông Phan Văn Du (6/5), Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ Đô chỉ huy sứ Chưởng vệ sự Chưởng kỳ Toàn đức hầu (trang 7), hoặc Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ Đô chỉ huy sứ Chưởng kỳ Toàn đức hầu (trang 75). -Ông Phan Văn Huyền (7/5), Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ Đô chỉ huy sứ ty Cai đội Liêm trực hầu . Kể từ khi chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1614-1635) không chịu nộp thuế cho nhà Lê và đem quân chống giữ họ Trịnh ở châu Bắc Bố Chính, thì các chúa Nguyễn đã giữ riêng một cỏi ở phía nam. Việc chính trị, thuế lệ, binh lính, việc gì cũng tự ý sửa sang và xếp đặt như là một nước tự chủ, do vậy chức tước của hai Ông cũng là do các chúa Nguyễn ban cấp.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

57


Các sách Lê Quý Đôn toàn tập (58) – tập l - Phủ biên tạp lục; Đại Nam thực lục tiền biên và chính biên (59); Việt Nam sử lược (60); Việt sử xứ Đàng Trong (61) … sẽ cho ta một cái nhìn tổng quát hơn về quan chức dưới thời các chúa Nguyễn để từ đó thấy rõ hơn quan tước của các Ông. 1-Trước hết, tôi liệt kê tên gọi các quan chức đã có dưới thời các chúa Nguyễn, đó là: a-Văn ban : Quốc phó, Nha úy nội tán, Nội tán, Nội tả, Ngoại tả, Nội hữu, Ngoại hữu, Đô tri, Ký lục, Cai bạ, Nha úy, Tham chính, Tham chính chánh đoán sự, Tham nghị, Lại bộ, Lễ bộ, Binh bộ, Hình bộ, Hộ bộ, Văn chức, Hàn lâm viện, Cai hợp, Câu kê, Thủ hợp, Tri bạ, Tào vận sự, Tri phủ, Tuần phủ, Huấn đạo, Lễ sinh, Cai phủ, Cai tri, Chánh hộ, Khám lý, Chiêm hậu, Đề đốc, Phó đề đốc, Đề lĩnh, Tham khám, Tri huyện, Cai án, Ký thuộc, Đề lại phủ , Đề lại huyện, Thư ký huyện, Thông lại phủ, Thông lại huyện, Ký lục dinh, Ký lục phủ, Cai tổng, Cai thuộc, Đội trưởng kho, Cai trường, Cai thu, Duyện lại, Từ thừa, Khán thủ, Xã trưởng, Tri áp, Cai quan trấn tuần nguồn, Đề lĩnh kho, Tổng đốc, Chưởng thái giám... b-Võ ban : Hữu phủ chưởng phủ sự, Hữu quân đại đô đốc, Tả quân đại đô đốc, Điều khiển, Tổng binh, Chưởng dinh, Tham tướng, Chưởng cơ, Cai đội, Đội trưởng, Thứ đội trưởng, Thống binh, Thống suất, Giám chiến, Nội tả chưởng cơ, Ngoại tả chưởng dinh, Nội tả cai cơ, Nội hữu cai cơ, Nội hữu cai đội, Khâm sai chánh thống suất đốc chiến, Khâm sai tham tán, Tổng nhung, Tán lý, Thuộc nội cai đội, Nội đội trưởng, Thủ lăng thứ đội trưởng ... Ở đây, tôi chỉ làm nhiệm vụ liệt kê những tên gọi quan chức đã lần lượt xuất hiện trong những cuốn sách nói trên, do vậy liệt kê ở sau cũng không hẳn là đã kém thứ bậc hơn liệt kê ở trước, vì quan chức dưới thời các chúa Nguyễn theo một phương thức khác hẳn với quan chế đời vua Lê trước đó hay đời Nguyễn sau đó, với những tên gọi và chức chưởng rất khác lạ, thí dụ các sách đều cho bốn chức nội tả, ngoại tả, nội hữu, ngoại hữu là tứ trụ đại thần, nhưng sau đó ta lại thấy có nội hữu cai cơ, nội tả cai cơ, thậm chí nội hữu cai đội (cai cơ, cai đội chỉ là những chức quan võ thấp sau chưởng cơ, chưởng dinh lại đưa làm nội hữu, nội tả), chức Tổng đốc không phải là chức quan cầm đầu một tỉnh mà chỉ là một cấp cao của Chưởng thái giám (Chưởng thái giám là quan chức quản lĩnh các thái giám), chức Đề đốc, Phó đề đốc, Đề lĩnh, Phó đề lĩnh không phải là võ quan mà là bản đường quan tức là quan chức trông coi về việc thu thuế ...

(

58

(

59

) Sách đã dẫn )Đại Nam thực lục tiền biên (xuất bản 1962) và Đại Nam thực lục chính biên (xuất bản 1963)

của Quốc sử quán triều Nguyễn do Viện Sử học phiên dịch và xuất bản. (

60

)Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, Trung tâm học liệu thuộc Bộ Giáo dục Sài Gòn xuất bản

1971. (

61

)Việt sử xứ Đàng Trong của Phan Khoang, Khai trí Sài Gòn xuất bản 1970. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

58


2-Kế đến, tôi cũng ghi lại đây phong tặng khi chết của một số vị quan chức cấp cao như: -Hoàng tử thứ tư là Nguyên soái Hiệp mất, tặng Minh nghĩa tuyên lực công thần Khai quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ, Tả quân đô đốc phủ chưởng phủ sự Thiếu úy quận công. -Nha uý nội tán Đào Duy Từ chết, tặng Hiệp mưu đồng đức công thần Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu . -Chưởng dinh Nguyễn Hữu Dật chết, tặng Tán trị tỉnh mạn công thần Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ, Tả quân đô đốc phủ chưởng phủ sự Chiêu quận công . 3.-Đối chiếu những quan chức và phong tặng với Phổ hệ, tôi thấy: -Trong thời các chúa Nguyễn không có chức vụ Đô chỉ huy sứ Đô chỉ huy sứ ty, Chưởng vệ sự Chưởng kỳ... mà về võ ban chỉ có các chức vụ (chỉ ghi quân chính quy mà thôi) là Chưởng dinh (chỉ huy một quân đoàn gồm nhiều cơ, đội, thuyền), Chưởng cơ, Cai cơ (điều khiển cơ như cơ Trung hậu, cơ Tả trung bộ ở Chính dinh; cơ Trung, cơ Tả thuỷ ở Quảng Nam dinh), Cai đội, Đội trưởng (chỉ huy đội gồm nhiều thuyền như đội Tiền trung bộ có các thuyền Tả nhưng súng, Hữu nhưng súng, Trạch nhất, Tả súng, Hữu đao). Cấm quân lúc đó gọi là Thân quân, đến đời chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát mới đổi lại là quân Vũ lâm, và hoàn toàn không có vệ Cẩm y . -Phong tặng khi mất thường dùng câu Đặc tiến (Đặc tấn) phụ quốc Thượng tướng quân Cẩm y vệ . Như vậy có thể suy ra được chức tước và phong tặng khi mất của hai Ông: -Ông Phan Văn Du, chức vụ Chưởng cơ và phong tặng là Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ, như vậy cả chức tước và phong tặng của Ông sẽ là Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ Chưởng cơ Toàn đức hầu . -Tương tự như trên, Ông Phan Văn Huyền được phong là Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ Cai đội Liêm trực hầu. Có lẽ các chữ Đô chỉ huy sứ, Chưởng vệ sự là do con cháu đời sau lầm lẫn vào các chức vụ đã có từ đời Lê trước đó (Đô chỉ huy sứ ) và đời Nguyễn sau này (Đô chỉ huy sứ ty Đô chỉ huy sứ, Chưởng vệ sự) nên đã ghi vào trong quan chức của hai Ông, còn Chưởng kỳ tôi nghĩ có lẽ là Chưởng cơ mà do cách đọc khác nhau mà ghi nên. 14.-VỀ NHIÊU HỌC KIÊM TRI HƯƠNG SỰ PHAN VĂN KIẾT : Phổ hệ 1994 ghi Ông Phan Văn Kiết (3/9) là Nhiêu học kiêm tri hương sự. Dưới thời các chúa Nguyễn, chúa mở các khoa thi để chọn người tài giỏi ra giúp việc nước, có 6 loại khoa thi gồm : -Thi chính đồ, thi 3 ngày, ngày thứ nhất thi tứ lục (?), ngày thứ hai thi thơ phú, ngày thứ ba thi văn sách. Người thi trúng thì làm danh sách để tiến lên, định làm 3 hạng: Hạng Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

59


giáp là giám sinh bổ tri phủ, tri huyện. Hạng ất là sinh đồ bổ Huấn đạo. Hạng bính cũng là sinh đồ bổ lễ sinh hoặc cho làm nhiêu học mãn đại . -Thi hoa văn, thi 3 ngày, mỗi ngày đều viết 1bài thơ. Người trúng cũng chia làm 3 hạng bổ làm việc ở 3 ty Xá sai, Tướng thần lại, Lệnh sử, và cho làm nhiêu học . -Thi thám phỏng, thi 1 ngày, hỏi tình trạng binh dân và việc Lê Trịnh. Người trúng thì bổ vào làm ở Xá sai ty. -Thi văn chức, thi ở sân phủ chúa. Kỳ đệ nhất thi tứ lục, kỳ đệ nhị thi thơ phú, kỳ đệ tam thi văn sách. Người trúng được bổ làm Văn chức. Đình thí bắt đầu từ đấy. -Thi tam ty, thi Xá sai ty thì hỏi về số tiền thóc xuất nhập và việc ngục trung xử quyết trong vòng một năm. Thi hai ty Tướng thần lại và Lệnh sử thì viết 1 bài thơ . -Thi hương. Năm Mậu tí 1768 chúa Nguyễn Phúc Thuần (1766-1777) mở khoa thi hương, lấy Lê Chính Việp, Bạch Doãn Triều đỗ đầu, người đương thời cho là xứng đáng. Có lẽ đây là khoa thi thay thế cho các khoa thi trên . Xem như vậy thì có thể thấy rằng Ông Phan Văn Kiết đã trúng tuyển trong khoa thi chính đồ, hoặc khoa thi hoa văn và đã được bổ làm nhiêu học, đây cũng là một nhà khoa bảng của Tộc, tiếc thay hai chữ ”nhiêu học” vì thời gian không sử dụng quá lâu dài đã khiến con cháu đời sau đánh giá không đúng thực chất tài năng của Ông. Và chắc chắn với truyền thống hiếu học của người Quảng Nam, Ông đã được tiến cử tham gia việc làng xã vào thời bấy giờ, nên trong Phổ hệ 1994 đã ghi là “Kiêm tri hương sự” (tức là trông coi việc làng như các chức ngũ hương sau này). 15.-VỀ QUỐC THỦ PHAN VĂN NGHI, QUỐC THỦ PHAN ĐỨC TRỌNG, QUỐC THỦ PHAN ĐỨC ĐIỀU, VÀ QUỐC THỦ PHAN ĐỨC THÀNH: Phổ hệ 1994 ghi: -Ông Phan Văn Nghi (3/9) Tướng thần kiêm Quốc thủ. -Ông Phan Đức Trọng (3/9) Quốc thủ. -Ông Phan Đức Điều (3/9) Quốc thủ. -Ông Phan Đức Thành (3/9) Quốc thủ. Có lẽ mọi ngườit trong Tộc đều thấy chữ Quốc thủ ghi bên cạnh tên các Ông là một điều lạ, vì tra cứu hết cả sách lịch sử cũng không thấy tên gọi chức vụ này. Vì vậy, chữ Quốc thủ đã được nhiều người hiểu theo nhiều cách khác nhau. Có người cho đây là một chức vụ lớn, thân cận vua (vì có chữ quốc) tương tự như Quốc cựu, Quốc trượng, Quốc phó...Cũng có người cho rằng các Ông là những người chơi cờ nỗi tiếng v.v...Và hôm nay, trong bài viết này, tôi cũng xin đưa ra một lý giải về hai chữ quốc thủ này. Theo tôi, nếu cho rằng Quốc thủ là một chức vụ lớn, thân cận vua thì có lẽ chúng ta dễ dàng nhận thấy Quốc thủ đã xuất hiện trong quan chế của các triều vua chúa xưa, như chúng ta Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

60


đã từng thấy những chức danh Tể tướng, Hành khiển, Tham chính chánh đoán sự, Quốc phó ... Không lẽ nào có một chức tước lớn như Quốc thủ mà các nhà viết sử lại bỏ quên trong quan chế làm cho ngày nay chúng ta phải suy nghĩ, tìm tòi. Hơn nữa, nếu đã là chức quan lớn như thế thì chắc hẳn trong các Phổ hệ của tộc Phan từ trước đến nay phải có những ghi nhận đặc biệt hơn thay vì chỉ viết hai chữ Quốc thủ mà thôi. Do đó tôi cho rằng Quốc thủ không là một chức quan lớn được. Còn đối với quan niệm cho rằng Quốc thủ là một tay chơi cờ tướng nổi tiếng thì tôi nghĩ rằng đây là do chúng ta đã mượn tạm ý nghĩa của chữ kỳ thủ của thế kỷ 20 để diễn dịch cho ý nghĩa chữ Quốc thủ. Các Ông là những người sống trong khoảng thế kỷ 17, 18 và với quan niệm nho học thời bấy giờ thì cờ tướng chẳng qua cũng chỉ là một môn giải trí không hơn không kém, vậy thì cho dù là rất giỏi môn cờ tướng, tôi nghĩ rằng Phổ hệ chắc cũng không ghi nhận. May thay, trong một lần tình cờ, tôi được nghe các cụ già kể chuyện ngày xưa làng ta có những thầy thuốc nổi tiếng, tôi đã nghĩ rằng Quốc thủ đối với các Ông có thể theo ý nghĩa này nên Phổ hệ mới ghi nhận lại để con cháu đời sau biết đến, vì đây là một nghề cứu nhân độ thế, rất xứng đáng để được lưu lại. Rồi một lần tình cờ nữa khi xem phim Bao Công, tôi được nghe Bao Công dùng danh xưng "lão quốc thủ” khi nói đến một thần y đời Tống, từ đó tôi mới chắc chắn hơn nữa trong ý nghĩa chữ Quốc thủ này. Như vậy, các Ông Phan Văn Nghi, Phan Đức Trọng, Phan Đức Điều và Phan Đức Thành là những thầy thuốc nổi tiếng của Tộc ta tại làng, danh tiếng ấy có thể đã lan ra cả vùng Thuận, Quảng nên có thể các Ông đã được chúa Nguyễn ban cho hai chữ Quốc thủ. Cũng có thể vì danh tiếng ấy nên con cháu đời sau đã tôn xưng cho các Ông. Nhưng theo tôi, dù sao chữ Quốc thủ được dùng với ý nghĩa là danh y vẫn tỏ ra dễ được chấp nhận hơn. 16.-VỀ NGŨ ĐỒN TRUNG QUÂN THƯ KÝ PHAN NGỌC THỨC, CHI TRƯỞNG PHAN VĂN NHIỀU, VÀ CHI TRƯỞNG PHAN VĂN CÂN: Phổ hệ 1994 ghi như sau: -Ông Phan Ngọc Thức (4/9) Ngũ đồn trung quân thư ký. -Ông Phan Văn Nhiều (2/11) Chi trưởng. -Ông Phan Văn Cân (2/11) Chi trưởng. Đây là những chức vụ lạ so với những quan chức mà chúng ta đã biết được trong thời phong kiến. Sách Đại nam thực lục chính biên, đệ nhất kỷ (62) viết về chúa Nguyễn Phúc Ánh có đoạn ghi như sau: “ ... Năm dinh Trung quân, Tả quân, Hữu quân, Hậu quân, Tiên phong, mỗi dinh đều 5 chi, mỗi chi 5 hiệu, mỗi hiệu 3 đội, mỗi đội 4 thập...”, và “… kỷ mùi 1799, sai quản 5 đồn quân Thần sách là Phạm Văn Nhân, quản dinh Trung thủy là Võ Di Nguy và Công bộ Trần Văn Thái thống lãnh các hạng thuyền ghe theo Đông cung Cảnh về Gia Định. Đặt 5 đồn quân Ngự lâm, mỗi đồn 5 chi, mỗi chi 5 hiệu, mỗi hiệu 2 đội, lấy quân mới kén ở 4 thuộc An Nghĩa, Nhân An, Nghĩa Hòa và Sơn Điền trong ba huyện để chia bổ vào, còn hai thuộc Võng Nhi, Hà (

62

) Sách đã dẫn, trang 117 và trang 325.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

61


Bạc với các xã miền dưới thì bổ làm thủy quân. Nhân sắc cho 5 đồn từ Thống chế đến Trưởng hiệu, nếu ai có anh em ruột và con đẻ bổ ở đồn khác đều cho khai rõ để chuyển bổ về chi, hiệu, đồn mình cho được theo nhau, còn anh em cùng cha khác mẹ và con kế (con riêng của vợ mình nuôi như con), con nuôi thì không được. Lấy Khâm sai phó tướng tổng nhung cai đội Phan Tiến Hoàng làm Đô thống chế Trung đồn quân Ngự lâm, Thuộc nội vệ úy vệ Võ uy Trung đồn quân Thần sách là Huỳnh Công Thanh làm Thống chế, hàng tướng là Đại đô đốc Đoàn Văn Cát làm Đô thống chế Tiền đồn, Đô đốc Lê Văn Niệm làm thống chế, Đại đô đốc Lê Văn Chất làm Đô thống chế Tả đồn, Đại đô đốc Võ Đình Nhai làm Thống chế, Khâm sai thuộc nội cai cơ vệ úy vệ Dương võ Tả đồn quân Thần sách là Từ Văn Chiêu làm Thống chế Hữu đồn, Đại đô đốc Nguyễn Văn Điềm làm Phó thống chế, Khâm sai thuộc nội cai cơ vệ úy vệ Diệu võ Tả đồn quân Thần sách làm Thống chế Hậu đồn, Đô đốc Hồ Văn Viện làm Phó thống chế, Đô đốc Thái Văn Duật làm Trưởng chi Trung chi Trung đồn, Tham đốc Lê Văn Tuy làm Phó trưởng chi, Đô đốc chánh Tiền chi Tiền quân là Nguyễn Văn Thiệu làm Trưởng chi Tiền chi, Đô đốc Nguyễn Văn Hoa làm Phó trưởng chi, Chỉ huy Nguyễn Văn Tường làm Trưởng chi Tả chi, Đô đốc Võ Văn Tiến làm Phó trưởng chi, Cai cơ Trần Văn Giáo làm Trưởng chi Hữu chi, Đô đốc Nguyễn Công Túy làm Phó trưởng chi, Chưởng cơ Nguyễn Văn Tứ làm Trưởng chi Hậu chi, Đô đốc Trần Văn Nhụy làm Phó trưởng chi, Đô đốc Nguyễn Văn Trung làm Trưởng chi Trung chi Tiền đồn, Đô ty Nguyễn Văn Hậu làm Phó trưởng chi... Đối chiếu với Phổ hệ 1994 ta có: -Ông Phan Ngọc Thức là Thư ký ở Trung đồn thuộc Ngũ đồn quân thân binh (có thể là quân Thần sách hoặc quân Ngự lâm), là một chức vụ giống như văn phòng bây giờ. Ta biết rằng vào thời phong kiến, phần lớn binh lính, ngay cả một số ít võ quan có thể nói là không biết chữ hoặc chỉ biết rất ít chữ nghĩa, hơn nữa theo tôi thì đây là sự phân công xã hội, do đó thư ký là chức vụ ghi chép những sự việc, những mệnh lệnh chiến đấu v.v...tức là thuộc vào ban chỉ huy của đơn vị này. Năm Gia Long 1804 xếp Thư ký vào hàm Tản giai tòng ngũ phẩm. -Ông Phan Văn Nhiều và Ông Phan Văn Cân là Trưởng chi, là chỉ huy một đơn vị quân đội cấp cao chỉ sau cấp đồn và cấp dinh. Năm Gia Long 1804 xếp Trưởng chi vào hàm Chánh tứ phẩm. Rất tiếc vì đây là thời gian chiến tranh giữa chúa Nguyễn Phúc Ánh và nhà Tây Sơn, những tên gọi quan chức này chỉ sử dụng và tồn tại trong một thời gian ngắn nên lâu nay chúng ta hầu như chỉ biết đến những chức vụ như Chưởng cơ, Cai cơ, Cai đội, Đô chỉ huy sứ, Lãnh binh, Án sát sứ.v.v...là những chức vụ được tiếp tục đến các đời sau, mà chức vụ của ba Ông thì hầu như không được biết đến và không được trọng vọng bằng những Ông khác, tôi nghĩ đây cũng là dịp để chúng ta biết và chuộc lỗi với tiền nhân. Tôi cũng nghĩ rằng, khi đọc đến đây sẽ có ý kiến là Ông Phan Ngọc Thức đời 9/4, còn các Ông Phan Văn Nhiều, Phan Văn Cân đời 11/2, về thế thứ thì cách nhau 2 đời lại có thể ở cùng thời điểm với nhau được hay không ? Hay so sánh các Ông Phan Văn Nhiều, Phan Văn Cân và Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

62


Ông Phan Khắc Nhu (2/11), cả ba Ông đều cùng đời cùng phái, nhưng Ông Phan Khắc Nhu sống khoảng đời vua Tự Đức (1848-1883), vậy tại sao hai Ông Phan Văn Nhiều và Phan Văn Cân lại ở vào đời chúa Nguyễn Phúc Ánh ? Tôi nghĩ rằng các Ông không phải là trực hệ nên những việc này đều có thể xảy ra được, hơn nữa dẫn chứng nêu ra trong bài viết này tại chỗ Ngũ đồn trong sách ghi năm Kỷ mùi 1799, tính đến năm Tự Đức 9 (1857) là năm Ông Phan Khắc Nhu viết Phổ hệ nguyên tự, nói thì nghe xa nhưng thực ra chỉ cách nhau 58 năm, chưa hết một đời người. 17.-VỀ CÂU VIẾT “NHỊ BÁCH DƯ NIÊN” CỦA ÔNG PHAN KHẮC NHU TRONG PHỔ HỆ NGUYÊN TỰ NĂM 1857: Phổ hệ nguyên tự do Ông Phan Khắc Nhu viết vào năm 1857 ghi: “...Thuỷ tổ, Bắc địa tùng vương, Nam thiên lập xã, sáng nghiệp thừa thống nhị bách dư niên, vu tự thế đợi ký cửu, chi phái dư đa, khả dĩ khẩu truyền, nhi tâm ký gĩa..”, nghĩa là ”...Vị Thủy tổ ta từ bắc theo các Vương vào nam dựng làng lập nghiệp trải qua hơn hai trăm năm. Đến nay đời đời nối tiếp đã lâu, chi phái thêm nhiều, không phải do truyền miệng mà là do đã ghi nhớ trong lòng ...” Câu viết nhị bách dư niên – hơn hai trăm năm – của Ông đã khiến nhiều người trong Tộc lúng túng trong vấn đề xác định việc vào nam của Ngài Thuỷ Tổ. Có người dẫn chứng năm Ông viết Phổ hệ nguyên tự là năm 1857, Ông thuộc đời thứ 11/2, nếu tính mỗi đời là 20 năm thì 11 đời là 220 năm, như vậy Ngài Thuỷ Tổ phải vào nam khoảng 1857 – 220 = 1637, tức là thời chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào nam trấn thủ Thuận Quảng. Người khác lại dẫn chứng, Ông là một nhà khoa bảng, đã đậu Cử nhân, từng làm Án sát sứ thì khi Ông đã viết nhị bách dư niên thì phải hiểu là hơn hai trăm năm, và chỉ có hơn hai trăm năm mà thôi, vì nếu hơn ba trăm năm, hoặc hơn bốn trăm năm thì chắc chắn Ông đã viết “tam bách dư niên” hoặc “tứ bách dư niên” rồi. Nhưng cũng có người khác dẫn chứng ngược lại vì vào năm 1634 Ông Phan Văn Du đã có trùng tu Phổ hệ, Ông là đời thứ 6, trước Ông còn 5 đời nữa, vậy nếu nói vào nam khoảng 1637 thì sẽ đối nghịch với 5 đời trước Ông Phan Văn Du, hoặc nếu vào nam khoảng 1637 thì làm sao Ngài Thuỷ tổ lại được phong Tiền hiền của làng v.v... Khi đọc Phổ hệ 1994, tôi cũng đã nhiều lần đọc câu nhị bách dư niên, cũng từng có những suy nghĩ như trên, và tôi thấy rằng vấn đề ở đây là chúng ta đã suy nghĩ một câu viết cách đây 150 năm (tính tròn) theo cách nghĩ của chúng ta ngày nay, những năm cuối cùng của thế kỷ 20. Có lẽ chúng ta đều chấp nhận rằng ở vào thời điểm Ông Phan Khắc Nhu viết Phổ hệ nguyên tự, khoa học nói chung chưa được tiến bộ như ngày nay nhất là ở các bộ môn khoa học xã hội, đối với Việt Nam lại càng kém hơn nữa do chính sách bế quan tỏa cảng của nhà cầm quyền đương thời, do đó vào thời điểm 1857 ở nước ta chưa có những bộ môn như dân tộc học, xã hội học v.v... và chắc chắn là phương cách “tính đời” như chúng ta vẫn thường làm bây giờ lại càng không có (ngay cả cách tính đời ngày nay vẫn còn gây ra nhiều điều chưa thống nhất như cách tính vào nam năm 1637 theo mỗi đời 20 năm kể trên sẽ đối nghịch với 5 đời trước Ông Phan Văn Du...). Trong bối cảnh như vậy, tôi tin rằng Ông Phan Khắc Nhu vẫn biết Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

63


được rằng Ông Phan Văn Du đời 6/5 đã trùng tu Phổ hệ vào năm 1634, trước đó còn 5 đời nữa, và có lẽ bản thân Ông cũng biết cách tính đời như chúng ta ngày nay, nhưng lẽ dĩ nhiên, cách tính này vào thời kỳ ấy là không có hoặc không được chấp nhận, mà đem cái không có hoặc không được chấp nhận ấy vào trong Phổ hệ để lưu truyền cho con cháu đời sau là việc không nên làm, nên Ông đã không ghi vào trong Phổ hệ nguyên tự. Vậy thì tại sao Ông lại viết là nhị bách dư niên ? Tôi cho rằng câu viết của Ông dựa vào một cột mốc quan trọng là năm 1634, năm Ông Phan Văn Du trùng tu Phổ hệ. Năm 1634 là năm xưa nhất còn được lưu lại trong Phổ hệ, còn trước năm 1634 thì không có. Từ năm 1634 đến năm 1857 đúng là hơn hai trăm năm, mà Tộc thì chắc chắn là đã phát triển trước đó, nhưng trước đó là bao lâu, 300 năm, 400 năm, hay 500 năm ? Không có con số nào là chính xác cả. Vậy thì viết nhị bách dư niên hiểu theo cái nghĩa “hai trăm năm hơn” hoặc “ngoài hai trăm năm" là đúng, ở đây thể hiện tính khoa học đáng trân trọng của một nhà khoa bảng của Tộc. Chẳng qua lâu nay chúng ta đã gói gọn câu viết của Ông vào cái khung thời gian từ 201 đến 299 năm mà không được vượt qua, hay nói các khác là không được bước qua 300 năm nên đã gây ra nhiều lúng túng trong Tộc, và tôi tin rằng cách suy nghĩ "hai trăm năm hơn” hoặc "ngoài hai trăm năm" là phù hợp với cách suy nghĩ của Ông Phan Khắc Nhu khi viết Phổ hệ nguyên tự. Sàigòn mùa Vu lan đinh sửu 19/8/1997 Phan Bá Lương (2/16)

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

64


BÀI 3 Trong hai bài trước, tôi đã lần lượt trình bày với Tộc một số vấn đề về tộc Phan Bảo An, trong đó có những chức vụ mà lúc sinh thời một số Ông trong Tộc đã đạt được và đã được ghi trong các Phổ hệ. Để hiểu rõ hơn về những chức vụ này trong suốt cả chiều dài lịch sử đất nước, trong bài 3 này xin đi vào các chức chưởng và nhiệm vụ của quan chức đó mà trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú gọi là "duyên cách về tên chức quan". Vì vậy, bài viết này được ghi theo cách lần lượt trình bày từng quan chức một theo thứ tự các chữ cái để dễ tìm thấy, nhưng tôi không có tham vọng giới thiệu hết các chức quan trong lịch sử mà chủ yếu là giới thiệu những quan chức của những Ông trong tộc. Nói là trình bày theo thứ tự chữ cái, nhưng cũng có một ngoại lệ là phần Linh phù Tôn thần thay vì để ở phần chữ cái L thì vì đây là phần liên quan đến thần linh nên tôi đưa lên hàng đầu. Những phần nào đã được giới thiệu ở hai bài trước nhưng còn thiếu sẽ được bổ sung cho chính xác, những phần nào viết sai sẽ được sửa chữa, đính chánh lại. Rất tiếc, cũng còn một số chức vụ mà vì chưa đủ sử liệu để xác định nên chưa được đưa vào trong bài viết này, hoặc nếu có nhưng chưa đầy đủ tôi sẽ đưa ra dưới dạng giả thuyết, hy vọng sau này chính tôi hoặc người khác trong Tộc bổ sung thì cũng đã có sẵn một ít sử liệu để tham khảo. Bài viết cũng căn cứ vào Phổ hệ 1994 là chính nên chỉ ghi đến đời thứ 13 mà không ghi các đời tiếp sau đó. Ta cũng biết rằng, quan chức các đời trước cũng chỉ được ghi lại một cách đại lược, nhất là đối với những triều đại xa xôi trong lịch sử, ngay cả đối với những triều đại gần đây mỗi một đời vua lại có những thay đổi trong quan chức cho phù hợp với thời thế, cho nên trong bài viết sẽ sử dụng những cái đã được mọi người sử dụng từ trước đến nay. Việc tìm xem, đọc, và ghi chép, nghiên cứu sử liệu cũng còn chưa đầy đủ nên bài viết này cũng như hai bài viết trước không tránh khỏi những sơ sót, tôi mong được sự thông cảm và bổ sung của người đọc. Xin mời Tộc cùng tìm hiểu. 18.-LINH PHÙ TÔN THẦN: Cơ sở lý luận của triết lý phương đông dựa trên thuyết Thiên - Địa - Nhân, theo đó các Hoàng đế đều cho rằng mình có trách nhiệm thiên mệnh thay trời để cai trị thiên hạ. Thiên hạ ở đây không những chỉ ở cỏi nhân gian (nhân dân phải chấp hành, phục tùng nhà vua với tư cách Nhà nước và với tư cách thủ lãnh tôn giáo), mà còn ở cỏi linh thiêng (vua được quyền ban sắc phong cho các vị thần: nhân thần, phúc thần, anh hùng dân tộc...). Lịch sử đất nước ta có ghi lại nhiều lần nhà vua sắc phong cho các vị thần, tôi xin nêu ra đây một vài ví dụ để làm dẫn chứng:

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

65


-Đổng xung thiên thần vương (tục gọi Phù đổng thiên vương), vua Lê Đại Hành phong là thượng đẳng thần, vua Lê Thái Tổ phong là Xung thiên thần vương. -Tử đồng đế quân, vua Thiệu Trị phong là thượng đẳng thần. -Thần làng Ỉ La huyện Hàm Yên phủ Yên Bình tỉnh Tuyên Quang, vua Minh Mạng phong là Hiệp thuận chi thần (63). Ở Đàng Ngoài, vua Lê Thần Tông năm 1652 quy định lễ vật xuân tế (lễ tế mùa xuân), hạ lệnh cho các đền thượng, trung, hạ đẳng thì hoặc một tổng, hoặc hai tổng, hoặc mấy làng phải tế một đền. Huyện quan chuyển tư cho xã dân mua sẵn trâu dê lợn, cổ bàn các thứ, y theo lệ tế của nhà nước, sửa soạn chỉnh tề, đem đến đền thờ. Đến ngày tế, các quan phủ huyện huấn giáo và lại viên hai ty trai giới sạch sẽ, thành kính đến đền làm lễ. Tiền sắm lễ vật của đền thượng đẳng là 8 quan tiền 20 đồng tiền cổ tiền (64) (1 con trâu 5 quan tiền , 1 con lợn 7 tiền, 1 con dê 6 tiền, mâm cổ 4 đôi mỗi đôi 2 tiền 30 đồng cộng 1 quan, rượu 4 chĩnh 2 tiền 30 đồng, oản quả 4 mâm 5 tiền, cá thịt 4 mâm 5 tiền, hương nén tốt 40 nén to 10 đồng, gạo thơm 10 đấu 1 tiền 20 đồng, giấy tiền 1000 tờ 40 đồng, nến 4 đôi 40 đồng). Tiền sắm lễ vật ở đền trung đẳng là 2 quan 4 tiền 54 đồng tiền cổ tiền (1 con dê 7 tiền, 1 con lợn 7 tiền, mâm cổ 3 đôi 7 tiền 30 đồng, rượu 3 chĩnh 2 tiền, hương 30 nén to 10 đồng, gạo cơm 8 đấu 1 tiền 4 đồng, nến 3 đôi 30 đồng, tiền giấy 700 tờ 40 đồng). Tiền sắm lễ vật của đền hạ đẳng là 1 quan 4 tiền 33 đồng tiền cổ tiền (1 con lợn 7 tiền, rượu 2 chĩnh 1 tiền 50 đồng, mâm cổ 2 đôi 5 tiền, gạo cơm 6 đấu 48 đồng, hưong 20 nén to 10 đồng, nến 2 đôi 20 đồng). Triều Nguyễn quy định việc phong thần như sau: -Vua Gia Long năm thứ 3 (1804) định khai danh sách các thần hiệu, phàm các vị thần nguyên là người hiện có tên họ công trạng, các vị thần trên trời dưới biển hiện có sự tích, và các vị thần có tiếng ở núi sông, cùng là các vị thần có sắc phong rồi thì để vào bậc trên. Thứ đến nhân thần có họ tên mà công trạng chưa rõ rệt, sắc phong có quan tước mà tên họ lại thất truyền, hoặc là rõ rệt có quan tước có tên họ mà sắc phong bị thất lạc thì để vào bậc trung. Lại thứ nữa đến sắc phong tuy còn mà sự tích lại mờ mịt, chỉ chiểu theo danh hiệu cũng đẹp đẽ có thể gọi là chính thần thì để vào bậc dưới. Đến như các vị xét lúc đời sống xấu xa, cùng là những yêu tinh tà dâm, ma quỷ, yêu quái, thuộc về thần bất chính, thì đều bác bỏ hết. (

63

) Đại Nam nhất thống chí, sđd, tập 4, trang 357 viết: Đền thần Ỉ La ở huyện Hàm Yên. Tương

truyền đời trước có hai công chúa là Ngọc Lân và Phương Dung theo xa giá đi xem xét địa phương, đổ thuyền ở bờ sông, đến đêm nổi cơn mưa gió, hai công chúa vụt bay lên trời, người ta cho là linh dị, lập

đền để thờ. Đền Phương Dung công chúa ở phía hữu sông Lô thuộc địa phận xã Ỉ La, cùng đền Ngọc Hân công chúa ở xã Tĩnh Húc, cầu đảo phần nhiều ứng nghiệm. Năm Minh Mạng 14, tổng đốc Lê Văn Đức tiến quân đánh nghịch Vân, đi qua đền vào cầu đảo, lúc dẹp được giặc đem việc tâu bày, bèn phong cho thần làng Ỉ La là Hiệp thuận chi thần, văn bia nay vẫn còn. (

64

) Lê triều chiếu lệnh thiện chính, Nguyễn Sỹ Giác phiên âm và dịch nghĩa, Vũ Văn Mẫu đề tựa, nhà

in Bình Minh Sài Gòn 1961. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

66


-Vua Thành Thái năm thứ 3 (1891) định: Cùng một vị hiệu thần, xã kia đã được sắc phong mà xã này chưa được phong, đều ban mỗi xã một đạo sắc. Hai vị thần hiệu Câu mang (65) và Tam tòa nguyên trước có nơi được phong vào bậc trung hạ, có nơi chưa được phong, thì nay đổi phong vào bậc thượng đẳng. Các vị hiệu thần xét ra sự tích cũng đứng đắn, phong làm hạ đẳng. Các vị thần danh hiệu đã mai một hoặc là chưa xét rõ ràng đích xác, nhưng xem ra ở dân gian có nhiều linh ứng và sự tích thần cũng đứng đắn, vậy làm rõ rệt vị hiệu và phong là Linh phù tôn thần. Cùng một làng mà theo tập tục đã chia ra từng thôn, giáp, phường, khu, còn triện và địa bạ, hoặc chưa chia mà đình thờ thần thì đã riêng từng nơi, cấp cho mỗi đình một đạo sắc. Vị thần nào lúc sinh thời là bầy tôi triều Nguyễn, cùng là xét ra sự tích mập mờ, vị hiệu quê kệch thì ngừng ban sắc phong. -Giấy viết sắc thần dùng giấy sắc hạng ba, vẽ rồng bằng bạc, nửa trang giấy trên chia làm 13 hàng, nửa trang giấy dưới viết niên hiệu. Nếu vị hiệu thần có dài thì liệu chia số hàng cho vừa. Các vị đế vương những đời trước thì viết đài lên khoảng thứ nhất. Các Hoàng hậu đời trước, đức Thái thượng lão quân, đức Thánh Quan công, vị Cửu thiên huyền nữ, viết đài lên khoản thứ hai. Còn các vị thần âm dương thì cứ viết liền không phải đài lên khoảng trên. -Tiền cấp về việc tế: các tỉnh lớn như Hà Nội, Nam Định, Bắc Ninh, Sơn Tây, Hải Dương: 1.000 đồng tiền tế/tỉnh. Các tỉnh vừa như Hưng Yên, Ninh Bình, Thái Nguyên, Thái Bình, Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Phòng, Hưng Hóa: 600 quan tiền tế/tỉnh. Các tỉnh nhỏ như Cao Bằng, Tuyên Quang, Phương Lâm, Hà Nam, Quảng Yên: 300 quan tiền tế/tỉnh, Đạo Hải Ninh và đạo Yên Thế: 200 quan tiền tế/đạo. Xin ghi lại đây các lễ tế ở tỉnh Quảng Nam theo Đại Nam nhất thống chí (66): -Tế thần Xã tắc tại Đàn xã tắc, vào tháng trọng xuân (tháng 2) và trọng thu (tháng 8). -Tế thần Tiên nông tại Đàn tiên nông, đến tháng 5 ngày tịch điền. -Tế các vị thần núi cao sông lớn tại Đàn sơn xuyên vào tháng trọng xuân và trọng thu. -Tế tiên sư Khổng tử tại Văn miếu, vào tháng trọng xuân và trọng thu. -Tế các vị thần kỳ trong tỉnh tại Miếu hội đồng vào tháng trọng xuân và trọng thu. Cũng xin ghi lại đây các sắc phong thần thuộc tổng Đà Hòa, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam tại sách Thư mục thần tích thần sắc (67): -9995: Bảo An (làng), tổng Đà Hòa, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam-Quảng Nam ( ), 3 trang, 3 trang chữ Hán: 8 đạo sắc phong, 1 nhân thần: Bạch Mã (Q4(-18/XX,5). -9996: Bảo An đông (làng), tổng Đà Hòa, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam-Quảng Nam ( ), 4 trang, 1 trang chữ Hán, 1 đạo sắc phong, 1 nhân thần: Đại Lang.

(

65

) Thần Câu mang là thần coi giữ về mùa xuân.

(

66

) Sách đã dẫn, trang 383.

(

67

) Thư mục thần tích thần sắc, Nhà xuất bản Trung tâm khoa h ọc xã hội và nhân văn quốc gia - Viện

thông tin KHXH - Hà Nội 1996, trang 985. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

67


-9997: Bảo An đông (làng), tổng Đà Hòa, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam-Quảng Nam ( ), 5 trang, 1 trang chữ Hán, 1 đạo sắc phong, 1 nhân thần: Phan Đông Bàng. -9998: Bảo An tây (làng), tổng Đà Hòa, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam-Quảng Nam ( ), 4 trang, 1 trang chữ Hán, 1 đạo sắc phong, 1 nhân thần: Đại Lang. -9999: Bảo An tây (làng), tổng Đà Hòa, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam-Quảng Nam ( ), 5 trang, 1 trang chữ Hán, 1 đạo sắc phong, 1 nhân thần: Phan Đông Bàng. -10000: Bảo tây (làng), tổng Đà Hòa, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam-Quảng Nam ( ), 3 trang chữ Pháp, 1 thiên thần không rõ tên. Đây là nguyên văn tại sách mà tôi chép lại, các số 9995 và Q4(-18/XX,5 là ký hiệu của nhà xuất bản. Tôi cũng đã gởi một lá thư đến nhà xuất bản để xin sao lục các sắc phong mang tên Đại Lang và Phan Đông Bàng mà tôi tin rằng đây là sắc phong cho Ngài Thuỷ tổ tộc Phan chúng ta. Thư đã gởi đi và đã được Ban Giám đốc đồng ý nhưng đến nay tôi vẫn chưa nhận được sao lục các đạo sắc phong, khi nào nhận được bản sao lục tôi sẽ gởi ngay đến Tộc vì đây là một tài liệu quý. Đối chiếu với Phổ hệ 1994, ta được biết Ngài Thuỷ tổ tộc Phan cùng với hai Ngài Thuỷ tổ tộc Nguyễn, tộc Ngô, tức là "Tam kiết hữu" vào năm Khải Định 9 (1924) được sắc phong thần với vị hiệu là "Dục bảo Trung hưng Linh phù Tôn thần", đây chính là vị hiệu thần mà quy định ở đời vua Thành Thái là "các vị thần danh hiệu đã mai một hoặc là chưa xét rõ ràng đích xác, nhưng xem ra ở dân gian có nhiều linh ứng và sự tích thần cũng đứng đắn". Cũng có ý kiến là tại sao phải đến năm 1924, Ngài Thuỷ tổ mới được sắc phong thần trong khi Ngài vào nam từ thời Lê, tôi cho rằng việc phong thần, nhất là nhân thần, không phải là chuyện dễ dàng, trừ trường hợp đối với những người có danh tiếng, có những chiến công hiển hách được cả nước biết đến, nên thời gian chờ đợi mấy trăm năm để được công nhận cũng là điều dễ hiểu, hơn nữa, thời gian mấy trăm năm này lại có nhiều cuộc chiến tranh xảy ra, vùng đất Quảng Nam mấy lần thay đổi chủ cũng làm gián đoạn việc cứu xét để phong thần. Không riêng gì Ngài Thuỷ tổ, tôi thấy các làng Cẩm La, Trung Bản, Phong Cốc, Yên Đông thuộc huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh ngày nay, các vị Thuỷ tổ đến lập nghiệp, định cư từ những năm 1434 - 1439 nhưng cũng chỉ được sắc phong thần vào năm Khải Định 9 như trường hợp của Ngài Thuỷ tổ tộc Phan ta. 19.ÁN SÁT : Còn gọi là Án sát sứ, là chức quan đứng đầu Án sát sứ ty. Ở triều Trần, chức vụ này gọi là An phủ phó sứ, chức phó của An phủ sứ (quan đứng đầu một lộ). Thời thuộc Minh, nhà Minh đặt 3 ty ở Giao chỉ thống trị việc quân dân, 3 ty đó là: Ty Đô tổng binh có các chức Tổng binh sứ, Tổng binh thiêm sự - Ty Bố chánh có Bố chánh sứ, Tả hữu tham nghị - Ty Án sát có Án sát sứ. Nhưng chức chưởng không được rõ. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

68


Triều Lê sơ, vua Thái Tổ lại đặt An phủ phó sứ ở các lộ. Năm 1476, vua Lê Thánh Tông đặt 12 Thừa tuyên và Trung đô phủ, mỗi thừa tuyên đặt 2 ty Đô, Thừa. Năm 1471, sau khi dẹp yên nước Chiêm Thành, đặt thừa tuyên thứ 13 là Quảng Nam, nhà vua cho đặt 3 ty Đô, Thừa, Hiến ở khắp 13 thừa tuyên. Chức trách của 3 ty này như sau: Đô ty tức là chức Trấn thủ, bấy giờ phần nhiều lấy chức Tổng binh kiêm Thừa chính sứ, sau cho rằng quan võ không có học thức, vã lại kiêm coi Thừa ty thì có trở ngại đến việc quân, mới thôi không cho kiêm nữa. Thừa ty là chức phó của Trấn thủ, vua Lê Thánh Tông đổi Hành khiển các đạo làm Tuyên chính sứ ty, rồi sau lại đổi Tuyên chính sứ làm Thừa chính sứ trông coi việc thuộc về hộ tịch, tiền thóc, kiện tụng. Hiến ty chuyên giữ các việc nói bày, đàn hặc, khám đóan, xét hỏi, hội đồng kiểm soát, khảo khóa, tuần hành. Như vậy, Thừa ty thời Lê gần giống như Án sát sứ ty sau này. Đứng đầu Thừa ty là Thừa chính sứ, hàm tòng tam phẩm, có các chức Tham chính hàm tòng tứ phẩm, Tham nghị hàm tòng ngũ phẩm, Chủ sự và Thôi quan giúp việc. Ở Đàng Ngoài, năm Cảnh Hưng thứ 2 (1751), Minh vương Trịnh Doanh quy định chức vụ Thừa ty như sau (68): Làm tiêu biểu cho các nha môn phủ huyện châu hiệu trong hạt, hàng năm trình lên luận xét thành tích của các quan viên, nếu nha môn khuyết người chức nhiệm thì trong một tháng phải hội đồng ngay với quan Hiến ty làm giấy trình Lại bộ để chọn người có tài bổ dụng. Về các viên thuộc trong ty, người nào biết để ý thương dân, thanh liêm, tài cán, siêng năng, ngay thẳng, thì nên khai thực mà bảo cử, đề nghị thăng thưởng hoặc để nguyên chức, người nào khắc nghiệt tham bẩn, lười bỏ chức việc, lập tức xử biếm bãi để tỏ rõ sự khuyên răn. Còn các việc kiện thì đã qua các nha môn phủ huyện châu rồi mới được nhận để cốt phải xét rõ ràng hết lẽ, để cho việc kiện tụng đến đây là thôi, nếu có việc gì nhận bừa mà đến kiện thì nên theo phép công mà gở bác đi. Còn như số án để lại, có bao nhiêu án nên phạt quan xử trước thì đến kỳ khảo khóa phải ghi rõ nguyên do bị phạt, trong các án ấy do quan nào đã điều tra, cho lấy 5 án làm một kỳ chuyển trình lên nộp tại công điếm, trong tờ khải chua rõ ngày nào tố cáo, ngày nào điều tra, ngày nào trả về và lý do kiện nhau để bằng cứ vào đấy mà tra xét. Nếu bản nha môn một năm điều tra không đủ 5 án thì cho cuối năm khai nộp, không có án nào điều tra thì không khai. Lại nay đất nước vừa yên, cần phải trước hết ban bố những điều dạy dỗ, khiến cho nhân dân rửa sạch vết nhơ, trở về lương thiện, nên phải châm chước hiến chương cũ cùng là sự nghi ngăn phòng ngày nay, bản ty phải sức rõ cho các quan huyện châu trong hạt, gởi về dân các xã thôn, cho phép cứ đến những ngày lễ nguyên đán, kỳ phúc, xã điền, hội họp trai gái lớn bé, dẫn bảo hai ba lần, khiến cho kẻ ngu phu, ngu phụ, thiếu niên, thơ ấu, đều được tai mắt thấm nhuần, biết đường lui tới, để sửa chính phong hóa của dân. Đứng đầu Thừa ty là Thừa chính sứ hàm tòng tam phẩm. Ở Đàng Trong không thấy cơ quan hoặc chức vụ nào giống Thừa chính sứ. Đến triều Nguyễn, vua Gia Long đặt ở mỗi dinh, trấn Tả thừa ty (Thừa chính sứ ty thời Lê) và Hữu thừa ty (Hiến sát sứ ty), ngoài ra còn đặt 6 phòng tương ứng với 6 bộ phân bổ vào 2 (

68

) Lịch triều hiến chương loại chí, sđd, Quan chức chí trang 497. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

69


ty. Tả thừa ty gồm các phòng Lại-Binh-Hình. Hữu thừa ty gồm các phòng Hộ-Lễ-Công. Tả thừa ty và Hữu thừa ty đều đặt Tả hữu kinh lịch và Tả hữu thông phán đứng đầu. Năm 1831-1832, vua Minh Mạng cải tổ hành chánh, thành lập đơn vị hành chánh mang tên tỉnh (đến cuối năm 1832 cả nước bao gồm 30 tỉnh và 1 phủ Thừa Thiên). Chức quan đứng đầu tỉnh là Tổng đốc hoặc Tuần phủ, và các thuộc quan là Bố chánh, Án sát, Lãnh binh, Đốc học. Hai ty Tả thừa và Hữu thừa được đổi thành Bố chánh sứ ty (còn gọi là ty Phiên) do Bố chánh sứ đứng đầu, và Án sát sứ ty (còn gọi là ty Niết) do Án sát sứ đứng đầu. Thuộc quan ở 2 ty có Thông phán, Kinh lịch, Thư lại... Tỉnh do Tổng đốc hoặc Tuần phủ kiêm hạt thì đặt một Bố chánh, một Án sát. Tỉnh có Tuần phủ kiêm lãnh công việc Bố chánh thì đặt một Án sát. Công việc của Án sát sứ là giữ việc kiện tụng hình án, chấn hưng phong hoá kỷ cương, thanh trừng quan lại tha hóa, kiêm coi công việc bưu trạm, khi có việc trọng đại (giặc cướp, biên cương) trong hạt cùng với 2 ty Bố chánh, Án sát hội đồng bàn bạc với Tổng đốc hay Tuần phủ. Hai ty Bố chánh, Án sát có công việc nên tâu, nên tư đều phải báo cho Tổng đốc để phân biệt liệu làm, duy việc quan hệ lợi hại đến đời sống nhân dân mà ý kiến khác nhau hoặc bị quan trên (Tổng đốc, Tuần phủ) chèn ép thì cho đệ sớ niêm phong tâu thẳng về triều. Theo đạo dụ năm Minh Mạng 1834 về "Thỉnh an" (thực chất là một thứ báo cáo tình hình) thì quan đầu tỉnh hàng năm phải dâng tập thỉnh an vào 4 tháng mạnh (tức tháng đầu xuân, đầu hạ, đầu thu, đầu đông), Bố chánh và Án sát thì dâng 2 kỳ vào trọng xuân (tháng 2) và trọng thu (tháng 8). Năm đầu niên hiệu Thành Thái (1889), định ngạch về quan chức văn võ ở Bắc kỳ, chia làm 3 loại tỉnh lớn, trung, nhỏ. Tỉnh lớn có 1 quan Tổng đốc, 1 quan Bố chánh, 1 quan Án sát, và 1 quan Đốc học, ty Án sát ngoài Án sát sứ còn có 1 viên Kinh lịch, 1 Chánh bát phẩm, 1 Tòng bát phẩm, 1 Chánh cửu phẩm, 1 Tòng cửu phẩm, 8 Thư lại, 1 Thông ngôn biết chữ Pháp, ở dinh quan Án sát có 1 Đội lệ và 5 lính lệ. Tỉnh trung bình có 1 quan Tuần phủ, 1 quan Án sát, 1 quan Đốc học, ty Án sát có 1 Kinh lịch, 1 Chánh bát phẩm, 1 Chánh cửu phẩm, 5 Thư lại, ở dinh quan Án sát có 1 Đội lệ và 5 lính lệ. Tỉnh nhỏ có 1 quan Bố chánh, 1 quan Án sát, ty Án sát có 1 Chánh cửu phẩm, 3 Thư lại, ở dinh quan Án sát có 1 Đội lệ và 5 lính lệ (69). Cấp hàm của Án sát sứ là chánh tứ phẩm, cáo thụ Trung thuận đại phu, thụy Đoan cẩn. Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có các Ông: Phan Ngọc Trí (4/10) và Phan Khắc Nhu (2/12) đều là Án sát sứ. a/Về Ông Phan Ngọc Trí, chắc chắn rằng để được bổ làm Án sát sứ tỉnh Quảng Bình, Ông phải tiến thân bằng con đường khoa bảng tức là tối thiểu Ông phải đỗ cử nhân. Dù rằng hai tài liệu "Quốc triều hương khoa lục" và "Những ông nghè ông cống triều Nguyễn" không thấy ghi tên Ông, nhưng điều đó theo tôi chỉ có nghĩa là tài liệu bị thiếu. Ông là con Ông Phan Ngọc Thức (4/9) giữ chức vụ Ngũ đồn trung quân thư ký đời Gia Long, nên Ông Phan Ngọc Trí

(

69

)Đại Nam điển lệ toát yếu của Tiến sĩ Nguyễn Sỹ Gíac, Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh, trang 29-31. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

70


có thể làm quan đời Minh Mạng, chức hàm của Ông là: Cử nhân, Án sát sứ, Chánh tứ phẩm, cáo thụ Trung thuận đại phu, thụy Đoan cẩn. b/Về Ông Phan Khắc Nhu, còn có tên gọi là Phan Trinh, đỗ cử nhân ân khoa đinh mùi Thiệu Trị thứ 7 (1847) , làm Án sát sứ tỉnh Nam Định, vậy chức hàm của Ông là: Cử nhân khoa thi hương năm đinh mùi Thiệu Trị thứ 7 (1847) tại trường Thừa Thiên, Án sát sứ, Chánh tứ phẩm, cáo thụ Trung thuận đại phu, thụy Đoan cẩn. 20.-ANH DANH GIÁO DƯỠNG: Đây là chế độ tập ấm ở triều Nguyễn dành cho con, cháu các võ quan để họ nối nghiệp cha ông. Tuỳ theo chức vụ của cha và tài năng bản thân mà được phong chức võ quan khác nhau (70): -Tập ấm Kiêu kỵ đô úy, hàm tòng tam phẩm, cáo thụ Phấn dũng tướng quân, thụy Anh mại. -Tập ấm Phi kỵ úy, hàm tòng ngũ phẩm, cáo thụ Kiện công đô úy, thụy Tráng hiển. -Tập ấm Ân kỵ úy, hàm tòng lục phẩm, sắc thụ Tráng tiết tá kỵ úy, thụy Hùng tiết. -Tập ấm Phụng ân úy, hàm tòng thất phẩm, sắc thụ Hiệu trung tá kỵ úy, thụy Hùng cảm. -Tập ấm Thừa ân úy, hàm tòng bát phẩm, sắc thụ Trung tín tá hiệu úy, thụy Dũng mậu. Ngoài ra còn có ngạch Anh danh và ngạch Giáo dưỡng dành cho những võ quan cấp thấp hơn, theo đó, con cháu những người này được vào học theo như kiểu trường thiếu sinh quân, được huấn luyện và sát hạch theo chế độ không định kỳ. Người được chọn phải là người có thân thể cường tráng, mặt mũi khôi ngô, đủ 20 tuổi, học giỏi binh thơ, am hiểu thao lược, hoặc nghề võ tinh thông, súng ống giỏi dang, hoặc là sức lực hơn người, một tay có thể xách nỗi 200, 300 cân trở lên, nhưng còn lưu lạc trong hàng ngũ hay còn ở dạng dân đinh, đều cho phép đề cử đích danh. Con cháu quan văn không có học thức mà tình nguyện vào ngạch thì cũng được xét. Ngạch Anh danh thì đủ 3 năm sẽ được bổ thụ Đội trưởng thất phẩm, đủ 2 năm nữa sẽ thăng bổ Chánh đội trưởng cấm binh, gặp khi có chức khuyết sẽ bổ Suất đội cấm binh, đủ 2 năm nữa sẽ thực thụ. Ngạch Giáo dưỡng, con các quan từ tam phẩm thuộc viên (như Vệ úy, Phó vệ úy), con tứ phẩm ấn quan (Chánh, phó Lãnh binh), con chánh ngũ phẩm ấn quan và tứ phẩm thuộc viên được 3 người, con chánh ngũ phẩm thuộc viên được 2 người, con tòng ngũ phẩm thì được 1 người. Đủ hạn học tập 3 năm nếu qua kỳ sát hạch sẽ bổ thụ Chánh bát phẩm đội trưởng, đủ 2 năm nữa sẽ thăng bổ Cấm binh đội trưởng hàm tòng thất phẩm, khi có khuyết chức sẽ được bổ Tinh binh thí sai suất đội ở các tỉnh, sau 3 năm nữa sẽ thực thụ. Đối chiếu Phổ hệ 1994, có Ông Phan Hạnh (2/13), thí sanh giáo dưỡng. Ông là con Ông Phan Tấn (2/12), Tri huyện. (Điều này cho thấy rằng Ông Phan Tấn hoặc giữ chức cao hơn chức Tri huyện mà Phổ hệ đã ghi thiếu chức vụ này, vì Tri huyện có hàm chánh lục phẩm và tòng lục (

70

) Tìm hiểu quan chức nhà Nguyễn của Trần Thanh Tâm, Nhà xuất bản Thuận Hóa-Huế 1996, trang

194. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

71


phẩm không đủ điều kiện để Ông Phan Hạnh xin vào ngạch giáo dưỡng, hoặc Ông có hàm cao hơn nhưng vẫn giữ chức Tri huyện). 21.-ẤM SINH: Đây là chế độ tập ấm đối với con các quan văn triều Nguyễn. Ấm sinh được vào học ở Quốc tử giám. Ở triều Trần có Quốc tử giám giữ việc dạy học cho các hoàng tử do Quốc tử giám tư nghiệp đứng đầu, còn cơ quan giữ việc dạy học là Quốc học viện do Thượng thư lãnh đạo. Vua Lê Thái Tổ sau khi dẹp xong quân Minh, đặt Quốc tử giám có các chức Tế tửu, Tư nghiệp, Trực giảng, Bác sĩ, Trợ giáo, Giáo thụ, lại chia Thượng xá sinh, Trung xá sinh, Hạ xá sinh thuộc Quốc tử giám. Vua Lê Thánh Tông đặt Quốc tử giám là cơ quan giáo dục cao nhất nước. Quốc tử giám có nhiệm vụ trông coi nhà Văn miếu (nơi thờ Đức Khổng Tử, nơi tượng trưng cho nền văn học của đất nước), rèn tập sĩ tử, hàng tháng theo đúng kỳ cho tập làm văn để gây dựng nhân tài giúp việc cho đất nước. Quốc tử giám do Quốc tử giám tế tửu (hàm tòng tứ phẩm) đúng đầu, kế đến là Quốc tử giám tư nghiệp (hàm tòng ngũ phẩm), Ngũ kinh bác sĩ (không rõ hàm, gồm 5 vị, mỗi vị chuyên nghiên cứu một kinh để dạy học trò), Giáo thụ (hàm chánh bát phẩm) giữ việc giảng dạy các kinh sách. Những người học ở Quốc tử giám chia làm 2 loại: -Giám sinh, gồm con các quan viên đã thi đỗ 4 trường kỳ thi hương. -Học sinh, gồm quân hoặc dân đã thi đỗ 4 trường kỳ thi hương. Để khuyến khích và nâng đỡ con các quan viên hiếu học, nhà vua đặt ra lệ, nếu giám sinh thi hội mà: trúng 3 kỳ (tức là đỗ 3 trường) được sung làm thượng xá sinh mỗi tháng được cấp 1 quan tiền, trúng 2 kỳ được sung làm trung xá sinh mỗi tháng được cấp 9 tiền, trúng 1 kỳ được sung làm hạ xá sinh mỗi tháng được cấp 8 tiền. Đến khi bổ dụng, Quốc tử giám sẽ bảo cử và bộ Lễ lựa chọn, cất nhắc, đều cùng một luật về tuyển dụng, nhưng sự lựa chọn phải ở thượng xá sinh 3 phần, trung xá sinh 2 phần, hạ xá sinh 1 phần. Ở Đàng Ngoài, Quốc tử giám cũng giống như thời vua Lê Thánh Tông. Ở Đàng Trong, không thấy sử sách nói đến Quốc tử giám. Triều Nguyễn cũng giữ tên Quốc tử giám. Vua Gia Long đặt chức quan đứng đầu là Đốc học. Vua Minh Mạng đổi làm Tế tửu, có Tư nghiệp, Học chính, Giám thừa, Lại dịch...giúp việc, đến năm Minh Mạng thứ 14 (1833) mới có thể chế hoàn chĩnh, Quốc tử giám cùng với hệ thống trường ốc trong kinh thành như Tập hiền viện, Ba đường (Quảng học đường, Quảng thiện đường và Minh thiện đường chuyên dạy cho Hoàng tử, Hoàng tôn ở trong nội), Giáo dưỡng viện, Tôn học, Đông các, trường Hậu bổ, trường Y sinh... và hệ thống học chính ở các cấp trong cả nước tạo thành nền học chính của triều Nguyễn, đưa nền nho học phát triển một bước mới. Năm Minh Mạng 1833, các quan chức tại Quốc tử giám gồm: -Quốc tử giám tế tửu (hiệu trưởng), hàm chánh tứ phẩm. -Quốc tử giám tư nghiệp (hiệu phó), hàm tòng tứ phẩm. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

72


-Quốc tử giám học chính, hàm tòng lục phẩm, chuyên dạy tôn sinh. -Quốc tử giám kiểm khảo, hàm tòng lục phẩm, giám thị ở khu tôn sinh, kiêm giảng viên của trường. -Quốc tử giám giám thừa, hàm chánh thất phẩm. -Quốc tử giám điển bạ, hàm tòng thất phẩm. -Quốc tử giám điển tịch, hàm tòng cửu phẩm. -Thư lại vị nhập lưu. Các học sinh theo học tại Quốc tử giám gồm: -Tôn sinh là học trò được Tôn nhân phủ chọn trong con các vương công thế tử hoàng tộc ở Tôn học, sau 4 tháng học do quan Học chính dạy thì có một đợt sát hạch để xếp loại, ai trúng ưu, bình thì được chính thức là tôn sinh ở lại học tại Quốc tử giám, còn nếu hạng liệt (hạng không đủ điểm) thì bị trả về Tôn nhân phủ. -Ấm sinh do tuyển lựa trong các ấm tử, viên tử con cháu các quan. Phàm những người được khai ấm tử (con quan từ ngũ phẩm trở lên), tuổi đã 20, thì làng và họ người ấy làm tờ bẩm, quan sở tại làm danh sách xin khai ấm, sẽ được sát hạch một lần lúc đầu, nếu được sẽ cho vào hạng ấm sinh. -Cống sinh do các địa phương sát hạch 3 năm một lần trong số những tú tài, mỗi phủ lấy 1 người. Ngoài ra còn có cử nhân các khoa tình nguyện vào học để chuẩn bị thi hội. -Học sinh, chỉ áp dụng cho các tỉnh biên giới phía bắc như Cao Bằng, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, không kể trình độ văn hóa, nếu tìm được người học giỏi, địa phương đề nghị cho về học. Tất cả các giám sinh được nội trú, cấp học bỗng, cấp quần áo, miễn phu phen, tạp dịch, thuế đinh trong thời gian học ở Quốc tử giám. Các ấm sinh tuổi từ 35 trở lên đã dự hai khoa thi hương nhưng chỉ đỗ tú tài, giám sinh dự hai khoa thi hội mà được từ 1 kỳ trở lên, dự có phân số (71) thì cho là trung hạng, lại đem những bài khảo hạch trong suốt 6 năm ở giám ra mà xét, người nào học lực và tính hạnh xem ra có thể bổ làm quan lại thì làm danh sách, bộ Lễ sẽ chiếu lệ mà bổ dụng. Các ấm sinh, giám sinh nếu là hạng ưu, con của các quan có hàm nhất nhị tam phẩm, mới đầu cho hàm điển bạ, sau 3 năm được thăng bổ tri huyện hay tri châu. Nếu là hạng bình con quan nhất nhị tam tứ ngũ phẩm, mới đầu cho hàm đãi chiếu hay cung phụng, sau 1 năm thăng hàm điển bạ, sau 3 năm nữa thăng bổ tri huyện, tri châu.

(

71

) Thi hội văn bài được phê từ 1 phân đến 10 phân, nếu phê bất cập nhật phân là kỳ ấy hỏng. Song thi

hội khác thi hương là nếu mới bị 1 kỳ bất cập chưa bị loại hẳn, vẫn được vào kỳ sau. Quyển nào bị 2 kỳ bất cập mới bị loại không được vào kỳ sau. Quyển nào trong 4 kỳ bị 1kỳ bất cập mà 3 kỳ kia được 7, 8 phân trở lên cũng được đỗ trúng cách rồi vào thi đình sẽ định cho đỗ chánh bảng hay phó bảng. Nếu bị 1 kỳ bất cập mà 3 kỳ kia được có 6 phân trở xuống thì gọi là có phân số. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

73


Nhân tiện đây cũng xin phân biệt: Con quan từ tứ phẩm trở lên được 1 con cho ấm thụ phẩm hàm. Con quan từ ngũ phẩm trở lên được khai ấm, quan Tỉnh sát hạch rồi đệ vào bộ Lễ xem xét và phát bằng công nhận là ấm sinh. Con các quan từ ngũ phẩm trở lên nhưng không đỗ hoặc chưa đỗ kỳ hạch ấm sinh là quan viên tử. Đối chiếu với Phổ hệ 1994, có các Ông: -Phan Đức Mậu (3/12). Ông là con Ông Phan Đức Phụng, Lãnh binh. -Phan Diễn (2/13). Ông là con Ông Phan Tấn, Tri huyện. -Phan Đức Hạnh (3/13). Ông là con Ông Phan Đức Thạnh, Tri phủ. Phổ hệ ghi Ông là Tú tài ấm sinh (Ông Tú ấm) là do Ông là ấm sinh nhưng chỉ đỗ tú tài trong các kỳ thi hương. 22.-ẤM THỤ: Đây là lệ dựa vào ân trạch của cha ông mà được bổ vào một chức nào đó. Ấm thụ còn có tên gọi khác là ấm phong, ấm sung, tập phong, truy phong, truy tặng, phong tặng tùy theo từng triều đại, nhưng nội dung vẫn không thay đổi. Ấm thụ được dành cho ông, bà, cha, mẹ, vợ, con, cháu. Đời vua Trần Thái Tông (1267) định lệ phong ấm cho Tôn Thất, hoàng tôn, vương hầu và công chúa là chính phái ngọc diệp, phong ấm gọi là Kim chi ngọc diệp (cành vàng lá ngọc), cháu 3 đời phong tước Quận vương, cháu 4 đời phong tước Minh tự, cháu 5 đời phong tước Thượng phẩm. Còn lệ phong ấm cho các quan văn võ không thể tra cứu được. Vua Lê Nhân Tông (1449) định lệ miễn trừ cho những người được tập ấm, cháu những người có hàm lục phẩm trở lên và con trai những người có hàm thất phẩm, bát phẩm đều được miễn dao dịch, các hoạn quan cũng cho miễn một người thân thích. Vua Lê Thánh Tông (1471) định lệ: a/Đối với họ nhà vua: -Con trưởng phong Hoàng thái tử, các con phong Hoàng tử. -Con trưởng của Hoàng thái tử phong Hoàng thái tôn. -Con trưởng của Hoàng thái tôn phong Hoàng tằng tôn, các con phong tước bá, con gái phong Quận chúa. -Với thân vương, con trưởng phong Tự thân vương, các con phong tước công, con gái phong Quận thượng chúa. -Với tước hầu tước bá, con trưởng phong tước tử, các con phong tước nam, con gái phong Quận quân. -Với tước tử tước nam, các con phong Tá quốc sứ, con gái phong Á quận quân. -Với Tá quốc sứ, các con phong Phụng quốc sứ, con gái Huyện thượng quân. -Với Phụng quốc sứ, các con phong Dực quốc sứ, con gái Huyện quân. -Với Dực quốc sứ, các con phong Lượng quốc sứ, con gái Á huyện quân. b/Đối với ngoại thích (bên vợ) và phi tần: Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

74


-Hoàng thái hậu được truy phong 3 đời: cha phong Quốc công, mẹ phong Quốc phu nhân, ông phong Quận công, bà phong Quận phu nhân, ông cố phong hầu, bà cố phong Chánh phu nhân. -Hoàng hậu được truy phong 2 đời: cha Quận công, mẹ Quận phu nhân, ông tước hầu, bà Chánh phu nhân. -Ba bực phi truy phong 2 đời: cha Tả đô đốc, mẹ Đoan nhân, ông Đô đốc, bà Thuận nhân. -Chín bực cung tần truy phong 1 đời: Ba bực chiêu (chiêu nghi, chiêu dung, chiêu viên) thì cha Đô đốc đồng tri, mẹ Thuận nhân. Ba bực tu (tu nghi, tu dung, tu viên) thì cha Đô đốc thiêm sự, mẹ Thạc nhân. Ba bực sung (sung nghi, sung dung, sung viên) thì cha Đô chỉ huy sứ, mẹ Trinh nhân. -Sáu bực nữ quan được truy phong 1 đời: Tiệp dư thì cha Tổng tri, mẹ Huy nhân; Dung hoa thì cha Đồng tổng tri, mẹ Thục nhân; Tuyên vinh thì cha Thiêm tổng tri, mẹ Lệnh nhân; Tài nhân thì cha Quản lãnh, mẹ Cung nhân; Tương nhân thì cha Phó quản lãnh, mẹ Nghi nhân; Mỹ nhân thì cha Chánh võ úy, mẹ An nhân. c/Đối với công thần: -Quốc công thì cha và ông phong Quận công, mẹ và bà Quận phu nhân, vợ Quốc phu nhân, con trưởng Trung trinh đại phu, các con Triều liệt đại phu, cháu trưởng Hoằng tín đại phu. -Quốc thái phu nhân (mẹ Quốc công) thì cha Đồng tổng tri, mẹ Thạc nhân. -Quốc phu nhân (vợ Quốc công) thì cha Thiêm tổng tri, mẹ Lệnh nhân. -Quận công thì cha và ông tước hầu, mẹ và bà Chánh phu nhân, vợ Quận phu nhân, con trưởng Triều liệt đại phu, các con Hoằng tín đại phu, cháu trưởng Hiển cung đại phu. -Tước hầu thì cha và ông tước bá, mẹ và bà Tự phu nhân, vợ Chánh phu nhân, con trưởng Hoằng tín đại phu, các con Hiển cung đại phu, cháu trưởng Mậu lâm lang. -Tước bá thì cha và ông Thái bảo, mẹ và bà Liệt phu nhân,, vợ Tự phu nhân, con trưởng Hiển cung đại phu, các con Mậu lâm lang, cháu trưởng Mậu lâm tá lang. d/Đối với các quan văn võ: Quan võ thì cha mẹ kém con 1 bực, quan văn thì cha mẹ kém con 2 bực. *Võ quan: -Chánh nhất phẩm thì cha Tả đô đốc, mẹ Đoan nhân, vợ Huy nhân, con trưởng Mậu lâm lang. Tòng nhất phẩm thì cha Đô đốc đồng tri, mẹ Thuận nhân, vợ Thạc nhân, con trưởng Mậu lâm tá lang. -Chánh nhị phẩm thì cha Đô đốc thiêm sự, mẹ Thục nhân, vợ Lệnh nhân, con trưởng Cẩn sự lang. Tòng nhị phẩm thì cha Đô chỉ huy sứ, mẹ Trinh nhân, vợ Cung nhân, con trưởng Cẩn sự tá lang.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

75


-Chánh tam phẩm thì cha Tổng tri, mẹ Huy nhân, vợ Nghi nhân. Tòng tam phẩm thì cha Đồng tổng tri, mẹ Thạc nhân, vợ An nhân. -Chánh tứ phẩm thì cha Thiêm tổng tri, mẹ Lệnh nhân, vợ Nhụ nhân. Tòng tứ phẩm thì cha Quản lãnh, mẹ Cung nhân, vợ Tỉnh nhân. *Văn quan: -Chánh nhất phẩm thì cha Thiếu bảo, mẹ Thuận nhân, vợ Lệnh nhân, con trưởng Mậu lâm tá lang. Tòng nhất phẩm thì cha Thái tử thái bảo, mẹ Thục nhân, vợ Cung nhân, con trưởng Cẩn sự lang. -Chánh nhị phẩm thì cha Đô ngự sử, mẹ Trinh nhân, vợ An nhân, con trưởng Cẩn sự tá lang. Tòng nhị phẩm thì cha Tả dụ đức, mẹ Huy nhân, vợ Tỉnh nhân. -Chánh tam phẩm thì cha Tả trung doãn, mẹ Thạc nhân, vợ Túc nhân. Tòng tam phẩm thì cha Tham chính, mẹ Lệnh nhân, vợ Thận nhân. -Chánh tứ phẩm thì cha Tự khanh, mẹ Cung nhân, vợ Thận nhân. Tòng tứ phẩm thì cha Tham nghị, mẹ Nghi nhân, vợ Cẩn nhân. Phàm làm quan ở kinh đã được thực thụ phải làm việc đủ một khóa 3 năm xét là xứng chức mới cho phong tặng. Nếu làm quan ở ngoài thì phài hai khóa xét là xứng chức mới cho phong tặng. Người có tài năng lỗi lạc được hưởng đặc ân thì không theo lệ này. Con trưởng và các con quan văn võ nhất nhị phẩm, con trưởng các quan tam phẩm, nếu là người không biết chữ thì cho sung vào ngạch Tuấn sĩ vệ Cẩm y, nếu là người thông hiểu nghĩa sách thì sau khi được khảo hạch sẽ cho sung vào ngạch nho sinh ở Sùng văn quán (cơ quan trực thuộc Hàn lâm viện trông coi về những sách vỡ đồ thư để cung cấp tài liệu và chỉ bảo học sinh). Các con thứ của viên quan tứ ngũ lục thất bát phẩm, nếu người nào không thông hiểu nghĩa sách thì lựa chọn để bổ sung vào vệ Vũ lâm, nếu người nào thông hiểu nghĩa sách thì cho sung vào ngạch nho sinh ở Tú lâm cục (cơ quan trực thuộc Hàn lâm viện trông nom và dạy bảo con các quan viên), nếu người nào có tài làm "lại" (lại sử) thì được khảo hạch rồi cho sung vào ngạch lại điển ở các nha môn trong kinh hoặc ngoài các đạo. Các con của quan cửu phẩm và cháu của quan thất bát phẩm thì lựa chọn để bổ sung làm lính cũng như con của bách tính. Các con và cháu trưởng của tước công hầu bá cùng con trưởng các quan văn võ từ nhị đến bát phẩm, người nào ít tuổi chăm học thì sẽ được vào làm học sinh ở Chiêu văn quán (cơ quan trực thuộc Hàn lâm viện trông coi việc sao chép, sửa sang, hiệu đính tứ khố đồ thư (72) để học tập, cứ 3 năm một lần các viên Tư huấn, Điển nghĩa ở Chiêu văn quán phải tâu bày một cách đầy đủ về hạnh kiểm, tính nết, học vấn của con cháu các quan viên kể trên, rồi đưa sang

(

72

) Tứ khố đồ thư là 4 loại sách gồm: 1-Kinh là sách triết học của nho giáo. 2-Sử là sách chép những

việc đã xảy ra. 3-Tử là sách triết học của chư tử ngoài Khổng Tử và Mạnh Tử. 4-Tập là sách sáng tác c ủa văn gia thi sĩ (thơ, ca, phú). Tứ khố đồ thư như vậy khác với đồ thư chỉ gồm địa đồ và thư tịch. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

76


bộ Lễ để thi khảo gồm 1 bài ám tả, 1 bài kinh nghĩa, 2 bài tứ thư nghĩa, ai trúng tuyển sẽ được bổ vào các chức về văn ban. Còn người nào đã lớn mà tư chất lỗ độn, muốn tập nghề võ thì do vệ Cẩm y huấn luyện, mỗi năm vệ Cẩm y phải phái quan đi khảo sát việc ganh đua võ nghệ của học sinh rồi đưa qua bộ Binh thi khảo, ai trúng tuyển sẽ được bổ chức Võ úy. Đối với cháu các quan viên trên thì phép thi văn bao gồm 1 bài biểu, 1 bài toán, ai trúng tuyển sẽ được ấm bổ tùy theo tài học. Ở Đàng Ngoài, vua Lê Huyền Tông (1664) chuẩn định cho công thần khai quốc từ Tam thái Tam thiếu trở lên con cháu đời đời được là công thần tôn. Công thần trung hưng thì từ Tả hữu đô đốc, Tả hữu thị lang trở lên con cháu đời đời được quan viên tử. Năm Bảo Thái (1722 vua Lê Dụ Tông) định lệ tập ấm: Công thần khai quốc chỉ cho ngành trưởng đời đời được 1 người làm công thần tôn. Công thần trung hưng đã dự khảo xét công trạng đều cho đời đời được công thần tôn. Các quan văn võ được phong công thần thì cho con cháu được tập ấm 5 đời, 4 đời, 3 đời khác nhau. Các quan văn võ nhị phẩm trở lên thì con cháu được là quan viên tử, quan viên tôn, hàng chắt thì chỉ 1 chắt trưởng được là quan viên tôn. Tam phẩm, tứ phẩm thì con cháu đều được quan viên tử, quan viên tôn. Ngũ phẩm, lục phẩm các con là quan viên tử, chỉ 1 người cháu trưởng là quan viên tôn, còn các cháu khác đều được miễn dịch. Thất phẩm, bát phẩm thì các con được quan viên tử. Người mới bổ và cửu phẩm cùng tạp lưu thì con được 1 suất nhiêu nam. (73). Triều Nguyễn, vua Minh Mạng quy định rằng: -Với Tôn Thất, có 20 tước vị là: Thân vương, Quận vương, Thân công, Quận công, Huyện công, Huyện hầu, Hương hầu, Kỳ nội hầu, Kỳ ngoại hầu, Đình hầu, Trợ quốc khanh, Tá quốc khanh, Phụng quốc khanh, Trợ quốc úy, Tá quốc úy, Phụng quốc úy, Trợ quốc lang, Tá quốc lang, Phụng quốc lang. Cách đặt danh hiệu là lấy tên đất làm danh tước: Thân vương, Quận vương lấy tên một tỉnh hay tên một phủ - Thân công, Quận công lấy tên một huyện - Huyện công, Hương công lấy tên một xã - Huyện hầu lấy tên một làng. -Công thần tước công: con được tước hầu, cháu được tước bá, chắt được tước tử, cháu huyền tước nam, cháu lai được Cẩm y hiệu úy (5 đời). Công thần tước hầu: con được tước bá, cháu tước tử, chắt tước nam, cháu huyền Cẩm y hiệu úy (4 đời). -Công thần tước bá: con tước tử, cháu tước nam, chắt Cẩm y hiệu úy (3 đời). Công thần tước tử: con tước nam, cháu Cẩm y hiệu úy (2 đời). -Công thần tước nam: con Cẩm y hiệu úy (1 đời). -Đối với đời trên các quan chức văn võ thì nhất phẩm phong tặng 3 đời, nhị phẩm phong tặng 2 đời, tam phẩm phong tặng 1 đời, tứ phẩm văn ban phong tặng 1 đời. Cách phong

(

73

) Tạp lưu là những người làm quan không có xuất thân (nghĩa là không đỗ bằng cấp gì), chưa được liệt

vào chánh ngạch, và những người quyên thóc, quyên tiền mà được ban cho phẩm hàm. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

77


tặng thì cứ chiếu theo chức phẩm mà phong tặng kém 2 bậc, thí dụ con làm quan chánh nhất phẩm thì cha mẹ kém 2 bậc chỉ được phong tặng chánh nhị phẩm, ông bà lại phải kém 2 bậc nữa chỉ được chánh tam phẩm, cụ ông và cụ bà lại kém 2 bậc nữa chỉ được chánh tứ phẩm, cụ thể nếu con là chánh nhất phẩm thì mẹ được phong Đoan nhân (nhị phẩm), bà phong Thục nhân (tam phẩm), cụ bà phong Cung nhân (tứ phẩm), cha phong Thượng thư (chánh nhị phẩm), ông phong Thiêm sự (chánh tam phẩm), cụ ông phong Thị độc học sĩ (chánh tứ phẩm). Nếu đời trước đã có chức phẩm cao hơn hoặc ngang bằng với con thì không phải phong tặng nữa. -Đối với vợ các quan văn võ thì không kể chánh hay tòng: nhất phẩm là Phu nhân, nhị phẩm là Đoan nhân, tam phẩm là Thục nhân, tứ phẩm là Cung nhân, ngũ phẩm là Nghi nhân, lục phẩm thất phẩm là An nhân, bát phẩm cửu phẩm là Nhụ nhân. -Đối với con các quan có công đều cho 1 con được ấm thụ. Chánh nhất phẩm con ấm thụ chánh lục phẩm (văn hàm Chủ sự, võ hàm Suất đội), tòng nhất phẩm con tòng lục phẩm (văn Tu soạn, võ Cấm binh chánh đội trưởng), chánh nhị phẩm con chánh thất phẩm (văn Tư vụ, võ Tinh binh chánh đội trưởng),tòng nhị phẩm con tòng thất phẩm (văn Kiểm thảo, võ Tinh binh đội trưởng), chánh tam phẩm con tòng bát phẩm (Điển bạ), tòng tam phẩm con chánh cửu phẩm (Cung phụng). Đối chiếu với Phổ hệ 1994, có các Ngài và Ông Bà sau đây: -Ngài Tổ tổ Phan Nhơn Huyện truy phong Thái bảo, bà Tổ tổ Trần Thị Phận truy phong Liệt phu nhân. Ngài Tằng tổ Phan Đa Lư truy phong Thái bảo, bà Tằng tổ Nguyễn Thị Bác truy phong Liệt phu nhân. Bà Thuỷ tổ Dương Thị Thảo truy phong Tự phu nhân. Ông Phan Văn Bài (1/2) ấm phong Hiển cung đại phu (nhưng Ông đã có tước bá nên không cần ghi ấm phong). Ông Phan Văn Hàn (2/2), Ông Phan Văn Thiệu (3/2), Ông Phan Văn Côn, Ông Phan Văn Yến (4/2), Ông Phan Văn Liêu (5/2) ấm phong Mậu lâm lang. Ông Phan Văn Quyến (1/3) ấm phong Mậu lâm tá lang (nhưng do Ông được ấm phong Hiển cung đại phu theo cha là Ông Phan Văn Bài nên không phải ghi ấm phong Mậu lâm tá lang). (Phong theo Ngài Thuỷ tổ). -Bà Nguyễn Thị Dự (vợ) truy phong Tự phu nhân. Ông Phan Văn Quyến (con 1/3) ấm phong Hiển cung đại phu (Phong theo Ông Phan Văn Bài). -Bà Nguyễn Thị Quyên, bà Nguyễn Thị Ngôn vợ Ông Phan Văn Dũ (3/9) Cai đội thăng thụ Phó kỳ, phong tặng Cung nhân. -Bà Dương Thị Hòe vợ Ông Phan Văn Giáo (4/9) Đội trưởng, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Nguyễn Thị Trứ vợ Ông Phan Văn Hòa (5/9)

Tiền phong doanh cai đội,

phong tặng Nghi nhân. -Ông Phan Đức Định (3/9) phong tặng Quản cơ (chánh tứ phẩm), bà Nguyễn Thị Thoại (vợ) Ông Phan Đức Định phong tặng Cung nhân. Ông Phan Đức Phụng ấm thụ tòng bát phẩm nhưng Ông đã là Lãnh binh hàm chánh tam phẩm nên không ghi ấm thụ. Bà Ngô Thị Mai, Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

78


bà Nguyễn Thị Hoá vợ Ông Phan Đức Liệu (3/10), phong tặng Thục nhân (Phong theo Ông Phan Đức Liệu-3/10 Lãnh binh). -Bà Quý Nương, vợ Ông Phan Văn Thoại (3/10) Đô úy tinh binh, phong tặng Nghi nhân. -Bà Cao Thị Đằng, vợ Ông Phan Văn Đông (3/10) Đội trưởng, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Đoàn Thị Liễu, bà Huỳnh Thị Lý, bà Võ Thị Thận, bà Hà Thị Lợi vợ Ông Phan Ngọc Kỳ (4/10) Chánh đội trưởng, phong tặng Nghi nhân. -Ông Phan Ngọc Thức (4/9) phong tặng Hàn lâm viện thị độc (chánh ngũ phẩm), bà Phạm Thị Tạo vợ Ông Phan Ngọc Thức, phong tặng Nghi nhân (Phong theo Ông Phan Ngọc Trí -4/10 Án sát sứ). Ta biết rằng Ông Phan Ngọc Thức là Ngũ đồn quân trung thư ký hàm Tản giai tòng ngũ phẩm, có hàm nhỏ hơn Hàn lâm viện thị độc, nên ghi phong tặng cho Ông là Hàn lâm viện thị độc. -Bà Phạm Thị Chút vợ Ông Phan Văn Âu (5/10) Đội trưởng, phong tặng An nhân. -Ông Phan Văn Cam (2/10) phong tặng Hàn lâm viện thị độc, bà Nguyễn Thị Thống vợ Ông Phan Văn Cam, phong tặng Nghi nhân (Phong theo Ông Phan Khắc Nhu -2/11- Án sát sứ). Bà Thiều Thị Phức, bà Huỳnh Thị Nhuận, bà Trần Thị Biến, bà Đào Thị Son vợ Ông Phan Khắc Nhu, phong tặng Cung nhân. -Bà Võ Thị Đô, bà Lê Thị Đễ, bà Phạm Thị Tiềm, bà Nguyễn Thị Phái, bà Ngô Thị Hằng vợ Ông Phan Doãn Đức (2/11), Thị độc nội các, phong tặng Nghi nhân. Phổ hệ 1994 (74) ghi Ông Phan Doãn Đức là Cửu phẩm bá hộ, nhưng sách “Những ông nghè ông cống triều Nguyễn” ghi là Thị độc nội các, hàm chánh ngũ phẩm, ở đây ghi theo sách. -Bà Văn Thị Nhơn vợ Ông Phan Văn Học (2/11) Đăng sĩ tá lang, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Ngô Thị Ít vợ Ông Phan Văn Cáp (2/11) Đội trưởng, phong tặng Nhụ nhân. -Ông Phan Đức Liệu (3/10) đã là Lãnh binh nên không ghi phong tặng. Ông Phan Đức Thạnh (3/12) cũng là Tri phủ nên không ghi ấm thụ. Bà Thiều Thị Kế, bà Phan Thị Tạ, Bà Nguyễn Thị Túc, bà Nguyễn Thị Đông vợ Ông Phan Đức Phụng, phong tặng Thục nhân (Phong theo Ông Phan Đức Phụng -3/11- Lãnh binh). -Bà Phan Qúy Nương, bà Trần Thị Tại, bà Hồ Thị Hoằng vợ Ông Phan Văn Thoại (3/11) Bá hộ, phong tặng Nhụ nhân. -Ông Phan Ngọc Trí (4/10) đã là Án sát sứ nên không ghi phong tặng. Bà Nguyễn Thị Bộc vợ Ông Phan Ngọc Đức, phong tặng Cung nhân (Phong theo Ông Phan Ngọc Đức -4/10Hàn lâm viện thị giảng học sĩ).

(

74

) Những ông nghè ông cống triều Nguyễn, sđd, trang 835 ghi: Phan Doãn Đức, làng Bảo An

huyện Diên Phước, cử nhân khoa đinh ngọ Thiệu Trị 6 (1846) tại trường Thừa Thiên. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

79


-Bà Nguyễn Thị Nhạn, bà Cao Thị Cúc vợ Ông Phan Ngọc Thanh (4/11) Tri huyện, phong tặng An nhân. -Bà Nguyễn Thị Thoại vợ Ông Phan Công Vịnh (2/12) Đội trưởng, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Trần Thị Trinh, bà Nguyễn Thị Quý, bà Lê Thị Sử vợ Ông Phan Ngọc Thiều (2/12) Bá hộ, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Bá Tư vợ Ông Phan Doãn Cung (2/12) Bá hộ, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Lê Thị Thái vợ Ông Phan Duy Hinh (2/12) Bá hộ, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Huỳnh Thị Núc vợ Ông Phan Văn Quỳnh (2/12) Bá hộ, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Lương Thị Thành vợ Ông Phan Quý Tặng (2/12) Chánh tổng cửu phẩm, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Huỳnh Thị Lệ, bà Lê Thị Xử vợ Ông Phan Trân (2/12) Tri phủ, phong tặng Nghi nhân. -Bà Nguyễn Thị Bằng, bà Trần Thị Vinh vợ Ông Phan Doãn Tế (2/12) Bá hộ, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Trần Thị Nhẫn, bà Trần Thị Mai, bà Thân Thị Nga, bà Khách Ấm vợ Ông Phan Tấn (2/12) Tri huyện, phong tặng An nhân. -Bà Huỳnh Thị Hạt vợ Ông Phan Phương (2/12) Bá hộ, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Lê Thị Truyền, bà Nguyễn Thị Chí, bà Đinh Thị Tư vợ Ông Phan Thành Tích (2/12) Giáo thụ, phong tặng An nhân. -Bà Phan Thị Triết vợ Ông Phan Thành Danh (2/12) Bá hộ, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Nguyễn Thị Dư vợ Ông Phan Đôn (2/12) Hàn lâm viện đãi chiếu, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Lê Thị Hoa, bà Nguyễn Thị Đông, bà Lương Thị Phò vợ Ông Phan Tiết (2/12) Hàn lâm viện đãi chiếu, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Đỗ Thị Bách vợ Ông Phan Bá Tảo (2/12) Hàn lâm viện cung phụng, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Trần Thị Vạn vợ Ông Phan Đức Thạnh (3/12) Tri phủ, phong tặng Nghi nhân, -Bà Ngô Thị Toại vợ Ông Phan Văn Điễu (3/12) Cửu phẩm, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Hà Thị Dư vợ Ông Phan Văn Cầm (3/12) Lục sự, phong tặng An nhân. -Bà Phan Thị Bản vợ Ông Phan Văn Thao (5/12) Đội trưởng bát phẩm, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Nguyễn Thị Nguyệt vợ Ông Phan Bá Cảnh (5/12) Tri phủ, phong tặng Nghi nhân. -Bà Nguyễn Thị Quyên vợ Ông Phan Văn Phú (2/13) Bá hộ phong tặng Nhụ nhân. -Bà Lê Thị Triết vợ Ông Phan Văn Hành (2/13) Bá hộ, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Thái Thị Ngọ vợ Ông Phan Kỉnh (2/13) Đội trưởng, phong tặng Nhụ nhân. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

80


-Bà Huỳnh Thị Điện, bà Ngô Thị Dẫn, bà Nguyễn Thị Lựu vợ Ông Phan Cừu (2/13) Cửu phẩm, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Đặng Thị Ngộ vợ Ông Phan Dật (2/13) Cửu phẩm, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Lê Thị Chuyên vợ Ông Phan Hoán (2/13) Cửu phẩm, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Nguyễn Thị Đắt vợ Ông Phan Túc (2/13) Cửu phẩm, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Lê Thị Địch, Bà Thị Bốn vợ Ông Phan Diêu (2/13) Cửu phẩm, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Trương Thị Lộc vợ Ông Phan Tú (2/13) Cửu phẩm, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Huỳnh Thị Bạch Đàn Hương, bà Phạm Thị Bằng vợ Ông Phan Quý Thuyên (2/13) Cửu phẩm, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Thị Nẫm vợ Ông Phan Văn Cường (2/13) Quản cơ, phong tặng Cung nhân. -Bà Đinh Thị Thơm vợ Ông Phan Đức Cường (3/13) Cửu phẩm, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Nguyễn Thị Lập vợ Ông Phan Đức Thuần (3/13) Hàn lâm viện thị độc, phong tặng Nghi nhân. -Bà Đỗ Thị Cơ vợ Ông Phan Đức Thái (3/13) Cửu phẩm, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Lê Thị Thiều vợ Ông Phan Ngọc Tỉnh (4/13) Cửu phẩm, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Nguyễn Thị Tuất vợ Ông Phan Văn Tỉnh (5/13) Đội trưởng, phong tặng Nhụ nhân. -Bà Nguyễn Thị Sang vợ Ông Phan Văn Thìn (5/13) Cửu phẩm, phong tặng Nhụ nhân. Danh sách các Ngài, Ông, và Bà được phong tặng rất nhiều, nên trong bài viết nếu có thiếu sót là do ngoài ý muốn, tôi mong được Tộc thông cảm và bổ sung cho. 23.-ẤM TỬ: Ấm tử là con của các quan chức được tập ấm. Xin xem phần Quan viên tử. 24.-BÁ HỘ: Còn được gọi là Bách hộ, một chức quan võ cấp thấp. Sử sách cho thấy rằng từ đời Hồ Hán Thương, nhà vua cho mộ những kẻ vong mệnh làm quân dũng hản, đặt chức Thiên hộ và Bách hộ để cai quản. Đời Hồng Đức, vua Lê Thánh Tông đặt quân theo quy chế buổi đầu nhà Minh, quân sĩ đều có định số, đại ước 5.600 người làm 1 vệ, 2.120 người làm 1 sở thiên hộ, 120 người làm 1 sở bách hộ, mỗi sở bách hộ có tổng kỳ 2 người, tiểu kỳ 10 người. Ở Đàng Ngoài và Đàng Trong trong những thời kỳ tiếp theo không thấy sử liệu nhắc đến bách hộ, mà quân đội thì chia ra làm dinh, cơ, đội, thuyền (Đàng Ngoài thì thuyền là đơn vị thuộc thủy binh, còn ở Đàng Trong thì thuyền có cả ở bộ binh lẫn thủy binh). Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

81


Năm Gia Long 1804 định quan chức cũng không thấy có chức vụ Bá hộ hay Bách hộ, mãi đến đời Minh Mạng 1827 mới thấy có chức vụ này, có hàm từ tòng cửu phẩm đến chánh bát phẩm. Có ý kiến cho rằng chức vụ này chỉ dùng để trao cho một số người bỏ tiền để nuôi quân hay làm một việc công, và dưới triều Nguyễn thì chức vụ này chuyên trao cho nhà giàu và người mua tước, như lệ năm Tự Đức thứ 26 (1873), bộ Hộ dâng sớ tâu xin phàm những người vui lòng quyên tiền từ 800 quan trở lên sẽ được thưởng hàm tòng cửu phẩm bá hộ, nếu quyên hơn nữa thì cứ mỗi 1.000 quan thưởng gia một trật (như vậy, nếu quyên 1.800 quan thì thưởng hàm chánh cửu phẩm bá hộ, quyên 2.800 quan thưởng tòng bát phẩm bá hộ...), hoặc ai mộ lính dõng lên thượng du làm được thực trạng trong việc dẹp giặc và đã được từ 3 tháng trở lên "mộ được 10 tên sẽ được thưởng chánh tòng cửu phẩm bá hộ" (75). Năm Thành Thái 1889, ai quyên 1.000 quan, nếu là dân thường thì thưởng tòng cửu phẩm bá hộ, nếu là người có thi cử thì sẽ cho tòng cửu phẩm văn giai. Quyên trên số 1.000 quan thì cứ trên 1.200 quan sẽ thưởng gia một trật (76). Đối chiếu với Phổ hệ 1994, có các Ông: -Phan Doãn Đức (2/11) Cửu phẩm bá hộ. -Phan Văn Thoại (3/11) Bá hộ. -Phan Ngọc Thiều (2/12) Bá hộ. -Phan Duy Hinh (2/12) Bá hộ. -Phan Văn Quỳnh (2/12) Bá hộ. -Phan Doãn Tế (2/12) Bá hộ. -Phan Phương (2/12) Bá hộ. -Phan Thành Danh (2/12) Bá hộ. -Phan Văn Phú (2/13) Bá hộ. -Phan Văn Hành (2/13) Bá hộ. a/Về trường hợp Ông Phan Doãn Đức, xin xem ở phần Nội các. b/Về các Ông còn lại, Phổ hệ chỉ ghi là Bá hộ nên không biết cụ thể ở cấp hàm nào, xin ghi lại đây để Tộc xem xét: -Tòng cửu phẩm, sắc thụ Hiệu lực tá hiệu úy, thụy Dũng mẫn. -Chánh cửu phẩm, sắc thụ Hiệu lực hiệu úy, thụy Dũng lệ. -Tòng bát phẩm, sắc thụ Trung tín tá hiệu úy, thụy Dũng mậu. -Chánh bát phẩm, sắc thụ Trung tín hiệu úy, thụy Dũng kiên. 25.- BIỆN: Xem trong Phổ hệ 1994, tôi thấy nhiều Ông bên cạnh tên còn có ghi kèm theo những chữ mà ta chưa hiểu là gì, thí dụ:

(

75

) Đại nam điển lệ toát yếu, sđd, các trang 285, 287, 463.

(

76

) Như (75). Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

82


-Ông Phan Văn Vân (3/12) , tức Ông Biện Hồ. -Ông Phan Văn Sùng (3/12), tức Ông Biện Nhì. -Ông Phan Văn Như (4/12), tức Ông Biện Xử. -Ông Phan Luyện (2/13), tức Ông Biện Lãm. -Ông Phan Văn Trinh (3/13), tức Ông Biện Bốn. -Ông Phan Văn Đám (3/13), tức Ông Biện Mậu. Rõ ràng, chữ Biện ở đây chỉ một nhiệm vụ nào đó mà các Ông đã gánh vác trong lúc còn sinh thời, như Ông Phan Văn Đậu (3/10) làm Lý trưởng, thường được gọi là Ông xã Tám, xã ở đây là Xã trưởng tức là Lý trưởng. Sách "Tìm hiểu quan chức nhà Nguyễn" nói về nhiệm vụ này như sau: Chuyên biện là viên chức chuyên lo một việc nhất định có tính chuyên môn ở các cơ quan, địa phương do cấp trên giao, ở làng xã cũng có chức chuyên biện chuyên lo việc sắm sửa cúng tế trong đình trung" (77). Tôi nghĩ, Biện của các Ông trong Tộc đã nêu ở trên có lẽ là Chuyên biện, nói gọn lại thành Biện, và nhiệm vụ của các Ông là chuyên lo việc sắm sửa, cúng tế ở đình làng. Chức việc này chỉ có ở triều Nguyễn. 26.-CAI ĐỘI: Trước hết ta cần biết qua đôi nét về chế độ quân đội các triều đại trước trong lịch sử nước nhà. Vua Đinh Tiên Hoàng năm 974 định ngạch quân làm 10 đạo, mỗi đạo 10 quân, mỗi quân 10 lữ, mỗi lữ 10 tốt, mỗi tốt 10 ngũ, mỗi ngũ 10 người. Nhiều sử gia cho rằng với cách tổ chức này thì nước ta lúc bấy giờ có đến 100.000 quân, dân lực trong nước không thể nào cung đốn đủ cho số quân đông như thế, có lẽ lúc bấy giờ quân và dân được tính chung, khi có việc thì gọi ra làm lính còn khi không việc thì lại trở về với đồng ruộng. Vua Lê Đại Hành (986) đặt binh túc vệ gọi là Thân quân, trên trán thích ba chữ "Thiên tử quân". Năm 988 định quân ngũ cho tướng hiệu làm 2 ban. Vua Lý Thái Tổ (1011) đặt quân Túc xa (quân hầu xe vua) tả và hữu đều 500 người. Năm 1025 chia binh làm giáp, mỗi giáp 15 người, dùng 1 người làm quản giáp. Vua Lý Thái Tông (1028) đặt 10 vệ điện tiền cấm quân, năm 1051 đặt Tùy xa long quân (quân theo xe vua). Như vậy binh chế buổi đầu nhà Lý, đại lược bắt chước phép phủ vệ của nhà Đường và phép cấm sương của nhà Tống, lấy Thân quân làm trọng, cũng gọi là cấm quân. Cấm vệ có 10 quân, mỗi quân có 200 người đều có tả hữu phải túc trực thường xuyên. Lại có 9 quân như Sương quân (quân canh giữ các cửa thành) để sai khiến mọi việc, mỗi tháng đến phiên một lần gọi là đến canh, hết canh cho về nhà cày cấy hoặc làm công nghệ, tự cấp lấy chớ không được cấp lương,

(

77

) Sách đã dẫn, trang 80.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

83


khi có chiến tranh thì gọi ra cho lệ thuộc vào các tướng, nếu số quân này không đủ thì chiếu sổ gọi dân ra tòng ngũ, xong việc lại cho về làm ruộng, đúng với ý nghĩa ngụ binh ư nông. Triều Trần năm 1267 định quân ngũ mỗi quân 30 đô, mỗi đô 80 người, như vậy mỗi quân là 2.400 người. Năm 1344 đặt 20 đô phong đoàn ở các lộ để đuổi bắt trộm cướp. Triều Hồ đặt quân ban nam và bắc chia làm 12 vệ, đông và tây chia làm 8 vệ, mỗi vệ 18 đội, mỗi đội 18 người. Đại quân gồm 30 đội, trung quân gồm 20 đội, dinh gồm 15 đội, đoàn gồm 10 đội, cấm vệ đô gồm 5 đội, tổng cộng số quân trong 12 vệ nam bắc là 4.320 người, trong 8 vệ đông tây là 2.820 người, trong đó đại quân là 540 người, trung quân là 360 người, có chức đại tướng đứng đầu. Triều Lê sơ, Thái Tổ khởi nghĩa, binh số lúc bấy giờ là 25 vạn, sau khi bình Ngô cho về 15 vạn, chỉ còn 10 vạn tại ngũ. Đời Lê Thánh Tông, quân đội chia làm: -Ở kinh sư chia ra làm nhiều vệ, mỗi vệ lại phân làm nhiều ty và khoảng 5 - 6 sở, mỗi ty gồm 100 người, mỗi sở còn phân làm 20 đội, mỗi đội 20 người tức là mỗi sở có 400 người. Tổng cộng quân trong kinh ở 66 ty và 51 vệ là 108.600 người. Đứng đầu mỗi ty có Chỉ huy sứ, Chỉ huy đồng tri, Chỉ huy thiêm sự. -Quân ngũ phủ gồm Trung quân phủ (lãnh các thừa tuyên Thanh Hóa, Nghệ An), Đông quân phủ (lãnh các thừa tuyên Hải Dương, Yên Bang), Nam quân phủ (lãnh các thừa tuyên Sơn Nam, Thuận Hóa, Quảng Nam), Tây quân phủ (lãnh các thừa tuyên Tam Giang, Hưng Hóa), Bắc quân phủ (lãnh các thừa tuyên Kinh Bắc, Lạng Sơn). Mỗi phủ quân đặt Đô đốc phủ, có Tả hữu Đô đốc, Đô đốc đồng tri, Đô đốc thiêm sự đứng đầu. Mỗi phủ quân có 6 vệ do Tổng tri, Đồng tổng tri và Thiêm tổng tri đứng đầu. Mỗi vệ có 5 - 6 sở do Quản lãnh, Phó quản lãnh, chánh phó Võ úy đứng đầu. Mỗi sở có 20 đội, mỗi đội có 20 người (rất tiếc không biết đứng đầu đội mang chức gì). Tổng cộng Ngũ quân phủ có 30 vệ, 154 sở, với 61.600 người. -Quân ngũ tại các thừa tuyên gồm 1 đô ty do Tổng binh sứ đứng đầu, có Tổng binh đồng tri, Tổng binh thiêm sự giúp việc. Mỗi đô ty gồm nhiều vệ (nhiều hay ít tùy theo sự quan trọng của thừa tuyên đó) do Chỉ huy sứ, Chỉ huy đồng tri, và Chỉ huy thiêm sự đứng đầu. Mỗi vệ ít nhất có 5.600 quân chia làm 5 sở thiên hộ, mỗi sở có 1.120 quân do Thiên hộ, Phó thiên hộ đứng đầu. Mỗi sở thiên hộ lại chia làm 10 sở bách hộ do Bách hộ đứng đầu, có 112 quân lính. Mỗi sở bách hộ gồm 2 tổng kỳ, mỗi tổng kỳ chỉ huy 5 tiểu tổng kỳ, mỗi tiểu tổng kỳ kiểm soát 10 quân. Tổng cộng quân ngũ tại 13 thừa tuyên có 26 vệ gồm 145.000 quân. Như vậy dưới đời vua Lê Thánh Tông, quân số toàn quốc là 315.200 người (78). Ở Đàng Ngoài, quân đội đặt làm dinh, cơ, đội, thuyền. Bộ binh là dinh, cơ, đội. Thủy binh là thuyền. Dinh lớn thì 800 người (như dinh Trung khuông), thứ đến 160 người (như 2 dinh Tả hòa và Tiền hòa). Cơ lớn thì 500 người (như các cơ Trung hùng về binh thị hậu và các cơ Tứ dực về ngoại binh), thứ đến 200 người (như cơ Thiên hùng). Đội lớn thì 275 người (như các đội Tứ

(

78

) Tổ chức chính quyền trung ương dưới triều Lê Thánh Tôn, sđd, từ trang 79 đến 95. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

84


trung về ngoại binh), thứ đến 15 người (như các đội Nội thủy, Tiểu thủy về binh Thị hậu). Thuyền lớn thì 86 người (như thuyền Kiệu nhất), thứ đến 20 người (như các thuyền Thập hành về ngoại binh). Dinh thì có 12, Cơ thì có 58, Đội thì có 283, Thuyền thì có 62 (79). Ở Đàng Trong, quân đội cũng chia ra làm dinh, cơ, đội, thuyền, nhưng ở đây khác với thuyền ở Đàng Ngoài là thuyền không phải chỉ thuộc thủy binh mà ngay cả ở bộ binh cũng gọi là thuyền, như dinh Quảng Bình có cơ Trung bộ gồm có 19 đội thuyền Tả bính bộ, Nghĩa nhất, Nghĩa nhị, Tiểu trung súng, Tả trung súng, Tả kiên, Súng nghĩa, Tả trụ súng, Hữu trụ súng, Tả súng, Hữu đao, Tân đao, Tả chí, Quy nghĩa, Toàn nghĩa, Súng nhất, Phú nhất, Tiền súng, hay cơ Tả bộ gồm các thuyền Tả nhất, Quảng nhất, Tiền kiên súng, Súng nhị, An nhị 5 thuyền cộng 148 người, hoặc quân thủy dinh Quảng Bình có cơ Tráng nhị gồm các thuyền Tả nhuệ súng (50 người), các thuyền Quảng nhất, Đột thủy,Tân khang, Khang nhị 5 thuyền mỗi thuyền 57 người cộng 278 người (80). Triều Tây Sơn, quân số phỏng chừng 15 vạn người chia làm 6 cấp: quân, sư, lữ, tốt, lượng, ngũ. Ngũ gồm có 5 người, lượng gồm 5 ngũ tức 25 người, tốt gồm 4 lượng tức 100 người, lữ gồm 5 tốt tức 500 người, sư gồm 5 lữ tức 2.500 người, quân gồm 5 sư tức 12.500 người. Tổng số là 12 quân bộ binh và thủy binh, đặc biệt có 2 quân người Thượng với 2.000 chiến mã và 4 lữ nữ binh với 100 thớt voi (81). Trong giai đoạn chiến tranh với Tây Sơn, chúa Nguyễn Phúc Ánh (gọi chúa là để phân biệt với thời kỳ sau, khi lên ngôi vua lấy niên hiệu là Gia Long) lập 5 dinh là Trung quân, Tả quân, Hữu quân, Hậu quân, Tiên phong, mỗi dinh gồm 5 chi, mỗi chi 5 hiệu, mỗi hiệu 3 đội, mỗi đội 4 thập. Trung quân thủy dinh gồm 5 thuận chi, mỗi chi 3 hiệu, mỗi hiệu 2 đội, mỗi đội 5 thập. Năm (5) khuông hiệu và 5 dực hiệu, mỗi hiệu 3 đội, mỗi đội 5 thập. Dinh đặt Chưởng dinh, chi đặt chánh phó Trưởng chi, hiệu đặt chánh phó Trưởng hiệu, đội đặt Cai đội, thập đặt Đội trưởng. Đến năm 1804 khi vua Gia Long định quan chức, Chưởng dinh được hàm chánh nhất phẩm, Trưởng chi (gọi là Cai cơ chánh chi) hàm chánh tứ phẩm, Trưởng hiệu hàm chánh ngũ phẩm, Cai đội từ hàm Tản giai tòng thất phẩm đến tòng lục phẩm. Từ đời vua Minh Mạng, quân đội chia ra làm: -Quân ở kinh gồm: Thân binh là quân thân cận nhà vua có Vệ Cẩm y (gồm 10 đội để túc trực, thường trực, và trường trực để ứng hậu và hộ vệ, chia làm 2 ban, mỗi ban 5 đội), Vệ Kim ngô (10 đội, cùng với vệ Cẩm y thay đổi nhau trực hầu và theo hầu), Vệ Loan giá (có ban Loan nghi, Dực vũ, Dực chấn mỗi ban 3 đội, ban Dực để có 4 đội, thay nhau phiên trực để theo hầu), Vệ Tuyển phong (có 10 đội kén quân lính có võ nghệ suất sắc để cần khi sử dụng), Doanh Vũ lâm (có tả hữu dực, mỗi dực 3 vệ ngày đêm túc trực để bảo vệ cung cấm). Cấm binh (

79

) Lịch triều hiến chương loại chí, sđd, Binh chế chí.

(

80

) Lê Quý Đôn toàn tập, tập 1: Phủ biên tạp lục, sđd, trang 191.

(

81

) Nhà Tây Sơn của Quách Tấn - Quách Giao, Sở Văn hóa thông tin Nghĩa Bình xuất bản 1988, trang

92. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

85


thì có 5 doanh là Thần cơ, Tiền phong, Long vũ, Hổ oai, Hùng nhuệ (mỗi doanh có 5 vệ, mỗi vệ có 10 đội, khi ở nhà thì giữ việc phòng thủ, khi ra trận thì ra sức xung phong), 4 Vệ Kỳ vũ (chức vụ cũng như 5 doanh), 2 Vệ Kinh tượng (quân voi), Viện Thượng tứ (2 vệ Khinh kỵ và Phi kỵ giữ mã đội), Vệ Thuyền rồng (có 10 đội), Viện Vũ bị (có 50 quân cầm dáo trường và súng), Viện Thượng trà (50 quân), Đội Tư bác (50 quân, giữ súng đại bác, chế tạo súng và đạn dược), Đội Tài thụ (50 quân, trồng cây), Đội Giáo dưỡng (kén con các quan võ sung vào), Vệ Võng thành (10 đội, giữ việc chăng lưới để săn bắn), Đội Thượng thiện (30 quân trực hầu Từ cung là cung Hoàng thái hậu). Tinh binh thì có Đội Ngũ quan Ngũ bảo (có 2 vệ), Thủy quân (có 3 doanh Trung, Tả, và Hữu, mỗi doanh 5 vệ), Vệ Giám thành (có 5 đội để tuần thủ kinh thành), quân Thủ hộ (có 4 vệ Trung, Tiền, Tả, Hữu, đều là quân giữ các lăng nhà vua), Dực hùng (có 8 đội lệ thuộc các hoàng thân, hoàng tử sai phái), ty Lý thiện (gồm Tả ty và Hữu ty, có 3 đội chuyên giữ việc nấu thực phẩm), sở Hòa thanh (giữ âm nhạc) và sở Thanh bình (giũ việc hát xướng) đều có 3 đội, các đội lính thuộc các phủ, các dinh, các nha, các thự. -Quân ở các tỉnh, cũng gọi là vệ và cơ, và các đội Tuần thành pháo thủ. Mỗi tỉnh có bao nhiêu vệ, cơ, đội đều tùy theo từng tỉnh lớn hay nhỏ mà có số quân ít hay nhiều chứ không có lệ nhất định. Từ sau khi ký kết với quân Pháp hiệp ước 1884, quân đội của triều Nguyễn có lính tập gồm: Khố vàng là loại lính mang một miếng vãi màu vàng ở trước quần (giống như mang khố) có nhiệm vụ canh giừ cung vua thay cho lính thuộc vệ Cẩm y trước. Ngoài lính khố vàng ra còn có lính Khố xanh (đeo vãi xanh) và lính Khố đỏ (đeo vãi đỏ) là loại lính người Việt lo việc trật tự trong vùng và làm lính chiến đấu cho quân đội Pháp, mọi sự quản lý, chỉ huy đều do người Pháp đảm nhiệm, người Việt chỉ được làm chỉ huy cấp tiểu đội trở xuống, sau này, việc chỉ huy có mỡ rộng đến cấp trung đội phó (chánh quản) và ít nhiều trường hợp được lên đến chuẩn úy. Tóm lại, đến triều Hồ ta mới thấy quân đội chia thành các đội, nhưng rất tiếc trong triều này và ngay cả triều Lê sơ, ta cũng không biết được cấp chỉ huy đội mang tên gọi là gì? Chỉ từ khi Trịnh Nguyễn phân tranh về sau, ta mới biết được chức vụ chỉ huy của đội, nhưng lại có rất nhiều chức chỉ huy, nào là Cai đội, Chánh đội trưởng, Đội trưởng, Thứ đội trưởng, Phó đội trưởng, ngoài hai chức vụ Phó đội trưởng và Thứ đội trưởng là chức phó giúp việc, đối với ba chức vụ còn lại có lẽ tùy theo số quân nhiều hay ít ở từng đội mà đặt chức vụ Cai đội, Chánh đội trưởng, Đội trưởng chăng? Xin ghi lại đây lệ năm Thành Thái thứ 2 (1890) định rằng phàm các vệ các đội ở trong kinh ngoài tỉnh, nơi nào số lính đủ 40 hay 50 tên thì đặt Chánh đội trưởng và Đội trưởng 4 người, 30 tên trở lên thì đặt 3 người, 20 tên trở lên thì đặt 2 người, nhưng đều do thượng ty sở quản và viên thống suất xét mà đem người có phẩm hàm ở trong đội ấy bổ sung vào chức suất thập, còn thừa bao nhiêu để vào hạng ngoại ngạch (82).

(

82

)Đại Nam điển lệ toát yếu, sđd, trang 483. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

86


Đây nói về Cai đội, đời vua Gia Long, Cai đội có hàm từ Tản giai tòng lục phẩm đến chánh ngũ phẩm. Từ năm Minh Mạng 1827, Cai đội có hàm từ chánh lục phẩm đến tòng tứ phẩm. Đối chiếu với Phổ hệ 1994, có các Ông: -Phan Văn Huyễn (5/7) Cai đội Liêm trực hầu. -Phan Văn Dũ (3/9) Cai đội thăng thụ Phó kỳ. -Phan Văn Hòa (5/9) Tiền phong doanh cai đội tặng Võ công đô úy. a/Về Ông Phan Văn Huyễn, vì Ông được phong Đặc tấn Phụ quốc Thượng tướng quân Cẩm y vệ Đô chỉ huy sứ ty Liêm trực hầu, nên xin xem phần Ngũ tước ở sau. b/Về Ông Phan Văn Dũ, Phổ hệ ghi là Cai đội thăng thụ Phó kỳ, chức vụ Cai đội như đã được trình bày ở phần trên và trong hai bài trước, ở đây xin bàn về hai chữ Phó kỳ. Theo tôi, ghi là Phó cơ là đúng hơn vì lý do sau đây: -Chữ “kỳ”

có hai âm đọc là "kì " và "cơ". Xét về tên gọi trong quan chức và cách tổ

chức quân đội thường dùng trong sử sách thì được ghi là "cơ", vì vậy theo tôi nên thống nhất trong Phổ hệ là "cơ" thay vì "kỳ" như quản cơ (thay vì quản kỳ), cai cơ (thay vì cai kỳ), chưởng cơ (thay vì chưởng kỳ) cho phù hợp với sử sách để tiện cho việc nghiên cứu của Tộc sau này (83). -Xem quan chức đời Gia Long, hàm tòng tứ phẩm có các chức Cai cơ phó chi các quân doanh, Phó quản cơ các quân, Chánh phó quản tào cai cơ, Cai cơ các quân doanh, Cai đội thị trung, Chánh phó đồ gia cai đội, Giám thành sứ, An phủ sứ. Xem tiếp quan chức đời Minh Mạng, hàm tòng tứ phẩm có các chức Thành thủ úy, Phó quản cơ, Cai đội các đội Trung hầu-Nội hầuCẩm y-Thị trung tả hữu dực, Giám đốc các cục Bảo hóa tạo tác, Tập ấm Kiêu kỵ đô úy, Tuyên úy sứ, Trưởng chi các chi thổ binh. Xem như vậy thì có thể thấy Ông Phan Văn Dũ làm quan dưới đời Gia Long trở về sau, chức vụ của Ông là "Phó quản cơ, tòng tứ phẩm, cáo thụ Tín nghĩa đô úy, thụy Tráng nghĩa" (Bỏ các chữ Cai đội thăng thụ vì chức này thấp hơn Phó quản cơ). c/Về Ông Phan Văn Hòa, Phổ hệ ghi là Tiền phong doanh cai đội tặng Võ công đô úy. Ta dễ dàng nhận thấy Ông làm quan từ sau năm 1827 đời vua Minh Mạng vì cáo thụ Võ công đô úy chỉ bắt đầu có từ năm 1827 trở về sau. Ông lại ở trong cấm binh là doanh Tiền phong nên hàm của Ông là "Tiền phong doanh cai đội, chánh ngũ phẩm, cáo thụ Võ công đô úy, thụy Tráng nhuệ". 27.-CAI TỔNG: Tổng là một đơn vị hành chánh ở giữa huyện và xã.

(

83

) Từ điển Hán Việt thông dụng của Lạc Thiện, Trường đại học tổng hợp TP. Hồ Chí Minh xuất bản 1990, trang

79. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

87


Thời điểm xuất hiện của đơn vị hành chánh tổng hiện nay chưa được các nhà sử học Việt Nam nhất trí. Người ta tìm thấy ở bia Tự điền bi ký dựng năm Hồng Đức 2 (1471) tại xã La Khê huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình ghi "giá điền tại hà tổng xã (số ruộng này ở địa phận tổng xã)" và "điền tại bản huyện Nội Lãng tổng Huyền Chân xã (ruộng tại xã Huyền Chân tổng Nội Lãng trong huyện)", hay ở bia Công chúa tự điền dựng năm Hồng Thuận 3 (1511) ở đền Vũ bị huyện Bình Lục tỉnh Nam Hà ghi "nhất sở tại Cổ Bi tổng An Nội xã tam mẫu ngũ cao (ruộng một mãnh tại xã An Nội tổng Cổ Bi gồm 3 mẫu 5 sào)". Trong văn bia Mạc, ta cũng bắt gặp đơn vị hành chánh tổng này xuất hiện, như trên bia chùa Hồng khánh xã Đốc Hành huyện Tiên Lãng tỉnh Hải Phòng ghi "Tân Minh huyện các tổng xã tín vãi (tín vãi các xã và các tổng của huyện Tân Minh)" cúng ruộng vào chùa năm 1589, hay bia Hội tư văn huyện Tân Minh xã Ninh Duy kê số người trong hội của các tổng trong huyện là tổng Xuân Cát gồm 33 người, tổng Động Hàm 44 người, tổng Kim Đới 26 người, tổng Văn Thị 22 người, tổng Lật Khê 2 người, tổng Kinh Thanh 13 người, tổng Yên Tử hạ 1 người, tổng Tân Duy 23 người, tổng Cẩm Khê 3 người, tổng Tự Tân 2 người, tổng Xuân Úc 1 người. Trong một số văn bia khác còn ghi được tên gọi người đứng đầu tổng là "tổng chính" (bia chùa Hương sơn huyện Phù Vinh tỉnh Phúc Thọ, nay thuộc tỉnh Vĩnh Phú), hay "trùm tổng" (bia chùa Hồng phúc xã Xuân Ổ, Quế Võ, Hà Bắc). Tuy nhiên sự xuất hiện của đơn vị hành chánh này không phải là sự chủ động của triều đình mà do nhu cầu thực tế của từng địa phương trước sự mở rộng và phát triển làng xã từ nửa sau thời Lê sơ trở đi. Cũng như phủ ở Trung quốc ban đầu do một số châu lớn mà lập thêm phủ nên sau đó phủ trở thành đơn vị hành chánh quản lý các châu và huyện, tổng ở thời Mạc xuất hiện là do gắn với nhu cầu các hoạt động tín ngưỡng khá sôi nỗi dưới triều Mạc như lễ hội, thờ cúng Thành hoàng ở làng, lễ Thánh ở đình, lễ Phật ở chùa ... đồng thời gắn với nhu cầu mở rộng phát triển làng xã, nên nhiều xã mới hình thành và đòi hỏi một cấp tổng để quản chung trước hết về sinh hoạt tín ngưỡng như tổ chức lễ hội, phân công đèn nhang cúng lễ. Chẳng vậy mà phần lớn tên gọi các tổng sau này đều lấy từ tên gọi của một xã đứng đầu như tổng Tây Đằng (nay thuộc Quốc Oai, Hà Tây) có các xã như Tây Đằng, Lại Bồ, Vĩnh Phệ, Văn Trai, Kim Bí, Đằng Lũng; tổng Lập Bái (nay thuộc Hưng Hà, Thái Bình) có các xã Lập Bái, An Tiêm, Hương La, An Khê, Cổ Sách, Thượng Đạo…(84). Ở Đàng Ngoài, ta thấy trong sách " Lê triều chiếu lệnh thiện chính" (85) không ghi nhận đơn vị hành chánh tổng, trừ các lệnh về tế lễ, xin đơn cử một số ví dụ: -Tờ chiếu đại xá năm đầu niên hiệu Vạn Khánh (1662) về dịp đổi niên hiệu ghi: "xã, thôn, trang, động, sách ở huyện nào có con sông hay con lạch lớn, dân ở địa phận đó trồng (

84

)Đơn vị hành chánh tổng xuất hiện từ khi nào của Đinh Khắc Thuận, Tạp chí Hán Nôm số 4 (29)

năm 1966, trang 21 - 23. (

85

) Sách đã dẫn, các trang 125, 169, 171, 305.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

88


nhiều cây cối rậm rạp, cùng là đắp bờ đặt nơm để bắt cá, chỉ cốt ích mình, đến nỗi nước đọng tràn ngập, làm tổn hại ruộng lúa dân làng khác. Vậy cho phép nha Thừa ty các xứ chuyển sức cho huyện quan trong hạt đến nơi khám xét, trách cứ dân hạt ấy phải bỏ đập khơi ngòi để cho thông đường thủy. Việc nói trên đặt làm lệ vĩnh viễn, dân làng nào ở địa phận ấy, mà không chịu thừa hành lệnh trên, cho phép xét tra sự thực, tố giác ra để trị tội. Nếu quan địa phương không trừ được cái hại nói trên thì cũng bị luận tội như dân kia" (không nói đến tổng - người viết). -Chỉ dụ cho lấy tiền xướng ca vào năm giáp thìn Cảnh Trị 2 (1663) ghi: "Các phủ, huyện, xã, thôn, trang, động, sách, trại, sở, phường, và vạn trong nước, có lễ nhập tịch (ngày đầu vào đám) tế thần, mỗi một cửa đình phải bỏ ra 5 tiền cổ tiền làm tiền thẻ thưởng cho gánh hát trong ngày có tế lễ và 1 mâm xôi thổi bằng 10 hợp gạo, nếu giáo phường (gánh hát) có đòi tiền quá lạm thì cho phép tố cáo, khi xét ra sự thực, bắt gánh hát phải hoàn lại và còn phạt nặng nữa" (không nói đến tổng - người viết). -Lệnh năm ất dậu Phúc Thái 3 (1645) định các lệ chia việc cho các hộ về tế đinh, mỗi năm 3 kỳ, nên chuẩn cho các xã lớn mỗi xã phải nộp 6 tiền cổ tiền, gạo 12 bát; mỗi xã vừa nộp 4 tiền cổ tiền, gạo 8 bát; mỗi xã nhỏ nộp 3 tiền cổ tiền, gạo 6 bát. Quan huyện tuân theo lệ này lần lượt phụng hành việc tế. Các đền thờ thần bậc thượng đẳng, trung đẳng và hạ đẳng, theo lệ củ, mỗi tổng hay mỗi xã phải tế, thì nên giao cho quan huyện thu lấy tiền và gạo để phụng hành (có nói đến tổng trong việc tế lễ - người viết). -Lệnh năm nhâm thìn Khánh Đức 4 (1652) định lệ các lễ vật về xuân tế: Tế xuân ở các đền thờ thần bậc thượng đẳng, trung đẳng, và hạ đẳng, hoặc 1 tổng hoặc 2 tổng, hoặc 2 xã phải tế một đền, quan huyện chuyển sức cho xã dân, dự trước mua trâu dê lợn và chí các thứ làm cổ, y như lệ tế của quốc triều (có nói đến tổng trong việc tế lễ - người viết). Lược qua 4 chỉ lệnh này ta thấy 2 chỉ lệnh về tế lễ đều phát sinh trước (1645 và 1652), còn 2 chỉ lệnh về đại xá và xướng ca phát sinh sau (1662 và 1663). Hai chỉ lệnh trước có đề cập đến tổng, còn 2 chỉ lệnh sau thì không thấy nói đến tổng, điều này có lẽ giống như tác giả Đinh Khắc Thuận xác định là tổng xuất hiện gắn với nhu cầu các hoạt động tín ngưỡng khá sôi nỗi dưới triều Mạc và vẫn còn tiếp tục dưới thời Lê trung hưng. Ở Đàng Trong, xem Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn viết vào năm 1776 khi vào làm Hiệp trấn Thuận Hóa, Ông đã liệt kê tên phủ, huyện, tổng, thuộc, xã, thôn, phường, giáp, ấp, châu của hai xứ Thuận - Quảng, trong đó tổng cộng có 63 đơn vị tổng, đặc biệt phủ Thăng Hoa có 3 huyện là Lễ Dương, Hà Đông, và Duy Xuyên lại không phân chia như các phủ khác, mà lại phân thành huyện chính và huyện tân, như huyện Lễ Dương chính có 18 xã - 4 thôn, huyện Lễ Dương tân có 26 xã - 15 thôn - nội vi tử 29 dân - nhiêu phu 7 dân; huyện Hà Đông chính có 12 xã - 2 phường - 1 thôn, huyện Hà Đông tân có 38 xã - 8 phường - 1 thôn - vi tử 34 dân - nhiêu

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

89


phu 2 dân - thợ sơn 1 dân; huyện Duy Xuyên chính có 10 xã - 3 thôn, huyện Duy Xuyên tân có 124 xã - 3 thôn - vi tử 89 dân -nhiêu phu 2 dân (86). Ở các tổng ở Đàng Trong, ta cũng thấy tên tổng lấy từ tên của một xã đứng đầu như tổng Phú Xuân huyện Hương Trà có các xã Phú Xuân, Thế Lại thượng, Thế Lại hạ, giáp Vạn Xuân; tổng Mậu Tài huyện Phú Vang có các xã Mậu Tài, Thanh Phước, Thanh Tiên, Võng Trì, Thế Vinh, Tiên Nộn...; tổng An Phúc huyện Đăng Xương có các xã An Phúc, Hoa Viên, Đông Dương, Diên Phúc, Kim Giao...; tổng Lệ Sơn huyện Hoà Vang có các xã Lệ Sơn, Yến Nê, An Trạch, Bồ Bản...; tổng Phiếm Ái huyện An Nông có các xã Phiếm Ái, Thạch Lộ, Quảng Đại, Giáo Ái, Ái Nghĩa nam, Ái Nghĩa trung, Ái Nghĩa đông... và có một điểm chắc chắn khác Đàng Ngoài là có chức vụ Cai tổng (nghĩa là được xem như một đơn vị hành chánh chính thức ở giữa huyện và xã). Đầu đời Gia Long, nhà vua đặt chức Tổng trưởng, sau đổi thành Cai tổng. Đời Thiệu Trị về sau đổi Cai tổng thành Chánh tổng. Giúp việc Cai tổng là Phó cai tổng, lại có chức Tổng giáo dạy bậc sơ học, Năm 1822 vua Minh Mạng bỏ chức Phó tổng và quy định: tổng nào đinh số dưới 5.000 người, điền trên 1.000 mẫu, nhiều việc, cách xa huyện lỵ từ 2 ngày đường trở lên thì ngoài Cai tổng còn đặt 1 viên Phó cai tổng (còn gọi là Phó tổng ngoại ủy không nằm trong ngạch quan chức nhà nước). Năm 1824 lại bỏ chức Tổng giáo. Đầu đời Gia Long, Cai tổng có hàm bát phẩm, nhưng từ năm 1831 giảm xuống hàm tòng cửu phẩm. Ban đầu Cai tổng thuộc võ ban, từ năm 1824 thuộc văn ban do bộ Lại tuyển dụng. Ban đầu (1822), chức Cai tổng do các viên Tri phủ, Tri huyện kén chọn nhân viên trong doanh trấn rồi làm tờ đề đạt lên, bộ Lại tâu vua cho cấp bằng làm Cai tổng thí sai (tập sự), sau 3 năm sát hạch nếu thanh liêm mẫn cán thì cho thực thụ (chính thức). Lệ năm Minh Mạng 9 (1828) quy định tất cả các Cai tổng, Phó tổng đều kén chọn trong hàng ngũ lý trưởng, người nào nhanh nhẹn giỏi việc mới cho làm. Tri phủ, tri huyện, hoặc tri châu sở tại báo cáo danh sách Cai, Phó tổng lên quan đứng đầu trấn (hoặc tỉnh) xin cấp văn bằng, mộc triện rồi cho thực thụ, theo lệ cứ 3 năm khảo sát một lần, tùy theo thành tích mà phân làm 3 hạng ưu, bình, và liệt. Nếu là hạng ưu thì các Cai tổng thí sai cho thực thụ, Cai tổng thực thụ cho thăng tòng bát phẩm bá hộ theo trấn phái đi, nếu là Phó tổng ngoại ủy cho làm Cai tổng thí sai; nếu là hạng bình thì cho lưu lại làm việc; nếu ở hạng liệt (hèn kém, tham ô) thì cách chức ngay. Lệ định năm 1846 cấm không cho Cai, Phó tổng là người cùng một làng, cùng một họ, cấm không cho Cai, Phó tổng được thông gia gã con em cho nhau và chỉ những người từ 35 tuổi trở lên mới được dự bầu Cai, Phó tổng.

(

86

)Sách đã dẫn, trang 78 - 93. Vi t ử chỉ những xã mà dân đinh phải nộp thuế phú thẳng cho nhà nước,

chứ không phải nộp chế lộc, ngụ lộc, hay các thứ lộc khác cho quan. Nhiêu phu là những người phu được miễm thuế thân cho các sứ thần được cấp, nhưng phải cày ruộng sứ điền cho họ. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

90


Nghị chuẩn năm 1828 chỉ rõ nhiệm vụ của Cai, Phó tổng là "...đến kỳ binh lương thì thu thuế đúng hạn, có trộm giặc lén lút thì nả bắt, hay có cường hào gàn dỡ thì vạch rõ để trị tội, có kẻ điêu toa gian dối thì trừng trị, để cho thuế khóa xong đủ, địa phương yên ổn, dân không bị tổn hại và không bị phiền nhiễu...". Tuy nhiên Cai, Phó tổng thực hiện nhiệm vụ thông qua bộ máy chức dịch xã thôn mà không có các nhân viên giúp việc trực tiếp. Xin ghi lại đây lệ năm Thành Thái 19 (1907) và Nghị định của quan Thống sứ Bắc kỳ về bầu cử chánh tổng và phó tổng để tham khảo (87): -Bầu cử chánh tổng: Phàm những người được dự bầu làm chánh tổng là: phó tổng đương thứ (đang làm việc), phó tổng cũ, lý trưởng đương thứ (nhưng phải làm việc được 3 năm trở lên), lý trưởng cũ (nhưng phải làm việc từ 3 năm trở lên, rồi được từ dịch vẫn còn có bằng - nghĩa là trong khi làm việc không bị can án, hay can cứu về phương diện hành chánh, không bị thu mất văn bằng), những nhân viên tùng sự cũ (tùng sự được 10 năm trở lên, không can án hay can khoảng gì). Tuổi từ 30 trở lên, lại là người thông hiểu chữ nghĩa, không can khoảng gì bao giờ, làng nước đều khen là tốt. Phải được nhiều người bầu cho, rồi quan sứ quan tỉnh sát hạch trước mặt quả là người biết chữ mới được bổ làm thí sai chánh tổng. Những viên thí sai đã được từ 3 năm trở lên theo lệ được bổ chánh tổng thực thụ và thưởng hàm tòng cửu phẩm bá hộ. Nếu làm việc giỏi dang, cứ mỗi 3 năm cho thăng một trật, lần lần thăng đến chánh bát phẩm. Còn như hàng tòng hay chánh thất phẩm thì sẽ chọn trong hàng chánh tổng, viên nào thật xuất sắc sẽ xét rõ mà thăng thưởng cho, nhưng phải là đã được thăng chánh bát phẩm từ 4 năm trở lên mới được thăng tòng thất phẩm, rồi lại phải được 4 năm trở lên mới được thăng chánh thất phẩm. Lại các chánh tổng, trừ ra khi gặp đại tang hay đau ốm, tình thế không thể làm việc, còn thì phải sau khi thực thụ đã được 4 năm mới được từ dịch. Nếu viên nào có can khoảng gì đáng phải bãi dịch hay cách dịch, thì do quan tỉnh và công sứ tỉnh ấy tư trình phủ Thống sứ chuẩn định. -Bầu cử phó tổng: phàm các người được dự để bầu phó tổng là lý trưởng đương thứ, lý trưởng cựu, điều khoản hạn định cũng như các điều khoản đã nói ở phần bầu chánh tổng. Các phó tổng làm việc đã đủ 6 năm sẽ được thưởng tòng cửu phẩm bá hộ, cứ 6 năm sẽ lại thăng thưởng một lần, cho thăng đến chánh bát phẩm bá hộ. Đến như hàm chánh và tòng thất phẩm sẽ chọn trong hàng phó tổng, người nào quả là người cần cán sẽ xét cho thăng thưởng. Người nào hể làm việc đã được 9 năm, gặp khi có khuyết chánh tổng tức thì cho thôi bổ. Lại phàm các phó tổng, trừ ra có đại tang hay đau ốm tình thế không thể làm được công dịch nừa, còn thì đều phải sau khi đã làm việc đủ 3 năm rồi mới được từ dịch. Như vậy từ lệ định năm Thành Thái 1907, cai tổng và phó tổng có các chức hàm sau đây: -Tòng cửu phẩm, sắc thụ Hiệu lực tá hiệu úy, thụy Dũng mẫn. -Chánh cửu phẩm, sắc thụ Hiệu lực hiệu úy, thụy Dũng lệ. (

87

)Đại Nam điển lệ toát yếu, sđd, trang 50-51.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

91


-Tòng bát phẩm, sắc thụ Trung tín tá hiệu úy, thụy Dũng mậu. -Chánh bát phẩm, sắc thụ Trung tín hiệu úy, thụy Dũng kiên. -Tòng thất phẩm, sắc thụ Hiệu trung tá kỵ úy, thụy Hùng cảm. -Chánh thất phẩm, sắc thụ Hiệu trung kỵ úy, thụy Hùng quả. Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có các Ông: -Phan Văn Bài (1/2) Cai tổng Sùng lương bá. -Phan Văn Lang (2/10) Cai tổng. -Phan Qúy Tặng (2/12) Chánh tổng cửu phẩm. -Phan Văn Nghi (3/12) Chánh tổng. -Phan Thứ (2/13) Chánh tổng. -Phan Châu (2/13) Chánh tổng. -Phan Bích (2/13) Chánh tổng. -Phan Văn Phiến (2/13) Phó tổng. a/Đối với Ông Phan Văn Bài, như tôi đã trình bày trong các bài trước và ở ngay chính bài này cũng giúp ta xác định, chức vụ Cai tổng chỉ có từ thời các chúa Nguyễn ở Đàng Trong trở về sau mà thôi. Ông là con trưởng Ngài Thuỷ tổ, đã được phong tước bá, theo quan chức triều Lê thì tước bá đúng trên hàng chánh nhất phẩm nên không thể nào Ông lại là Cai tổng được. b/Đối với Ông Phan Văn Lang, Phổ hệ ghi Ông là Cai tổng có nghĩa là Ông giữ chức vụ này trước đời vua Thiệu Trị (vì từ đời Thiệu Trị mới thay Cai tổng bằng Chánh tổng), Ông lại là cha ruột của Ông Phan Văn Học (2/11) sắc thụ Đăng sĩ tá lang (là sắc thụ có từ đời Minh Mạng), Ông cũng là bác ruột của các Ông Phan Doãn Đức (đỗ cử nhân năm 1846) và Phan Khắc Nhu (đỗ cử nhân năm 1847) nên có thể kết luận là Ông Phan Văn Lang làm Cai tổng khoảng đời vua Gia Long, hàm của Ông là bát phẩm. c/Đối với các Ông còn lại, trừ Ông Phan Qúy Tặng (2/12) có ghi hàm cửu phẩm, các Ông chỉ ghi là chánh tổng mà không ghi hàm nên theo tôi có thể ghi lại theo lệ định của vua Thành Thái năm 1907. Ngoài ra, đối với các Ông trong Tộc ghi là Bá hộ, tôi thấy có thể các Ông đã từ chức vụ Cai tổng, Chánh tổng mà được phong Bá hộ, nhưng cũng không có chứng cứ gì để xem xét nên cũng xin ghi lại đây để ghi nhớ. 28.-CẨM Y VỆ: Đây là một trong những đơn vị quân đội thuộc cấm binh, thân cận bên nhà vua. Sử sách cho thấy tên Cẩm y vệ chỉ có từ đời vua Lê Thánh Tông, còn trước đó cấm binh mang tên khác, như đời vua Lê Đại Hành (986) gọi là Thân quân, đời Lý thái Tông (1028) đặt 10 vệ Điện tiền cấm quân, mỗi quân có 200 người, đều có tả hữu, phải túc trực thường xuyên. Triều Trần có cấm quân và cấm vệ, có lẽ cấm vệ là tiền thân của các vệ như vệ Cẩm y sau này. Cấm quân có Tứ thiên, Tứ thánh, Tứ thần (do vua Thái Tông đặt), Vũ tiệp, Thiết ngạch (do vua Anh Tông đặt), Uy tiệp, Bảo tiệp, Long dực, Long tiệp, Tả ban, Hữu ban (do vua Duệ Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

92


Tông đặt), Thần dực, Thiên uy, Hoa ngạch, Thị vệ, Thần vũ, Thiết chương, Thiết giáp, Thiết liêm, Thiết hổ, Ô đồ (do vua Phế Đế đặt), mỗi quân 30 đô, mỗi đô 80 người. Cấm vệ gồm có Chân thượng đô, Thủy dạ xoa đô, Chân kim đô, Toàn kim cương đô, Phù liễn đô. Triều Lê, vua Lê Thái Tổ đặt 6 quân Ngự tiền gồm Ngự tiền vũ sĩ, Ngự tiền trung tả hữu tiền hậu quân, Thánh dực quân, Phủng thánh quân, Chấn lôi quân, Bảo ứng quân, và Ngự tiền vũ đội. Năm Hồng Đức 1 (1470) vua Lê Thánh Tông đặt 2 vệ Cẩm y và Kim ngô, quân ngũ tại kinh sư lúc bấy giờ có (88): -Kim quang lực sĩ 10 ty: Kim đao, Bảo đao, Hải thanh, Hà thanh, Kỵ xạ, Súng xạ, Minh uy, Loan giá, Hiệu lệnh, Phụng lệnh. -Cẩm y vệ dũng sĩ 20 ty: Ngân đao, Trọc sinh, Nghi vệ, Tài quan, Hiệu lệnh, Địch vạn, Thiên mã, Kỳ thủ, Đình úy, Thủ ngữ, Phục ba, Ngân thương, Hản vệ, Du nỗ, Thần uy, Phi kỵ, Thần xạ, Thanh lô, Xá nhân, Kỳ bài. -Cẩm y vệ tráng sĩ 18 ty: Địch vạn, Phục ba, Xa nhân, Tuấn sĩ, Thần uy, Phi kỵ, Ngoại trực, Hiệu lệnh, Đình úy, Nghi vệ, Minh tiên, Kỳ bài, Du nỗ, Xuy kim, Tráng nỗ, Ngũ thành binh mã, Tượng cứu, Mã cứu. -Kim ngô vệ vũ sĩ 14 ty: Trấn điện, Lực sĩ, Kỳ thủ, Tài lực, Trường thương, Lăng ba, Kính nỗ, Hoàn vệ, Đoản sào, Định lệnh, Hộ vệ, Thần tí, Định uy, Thanh đạo. -Kim ngô vệ tráng sĩ 4 ty: Tráng sĩ, Lăng ba, Thần tí, Chiêu dũng. Mỗi ty đều có một viên Chỉ huy sứ (hàm chánh tứ phẩm) đứng đầu và các viên Chỉ huy đồng tri (hàm tòng tứ phẩm), Chỉ huy thiêm sự (hàm chánh ngũ phẩm) giúp việc. Triều Mạc, Mạc Đăng Dung đặt 4 vệ Hưng quốc, Chiêu vũ, Cẩm y, Kim ngô gồm nhiều ty, mỗi ty đặt 1 viên Chỉ huy sứ, 1 viên Chỉ huy đồng tri, 1 viên Chỉ huy thiêm sự, 10 viên Trung hiệu và 1.000 người trung sĩ, chia làm 22 phiên túc trực, mỗi phiên chia làm 5 giáp, mỗi giáp đặt 1 viên giáp thủ. Ở Đàng Ngoài, từ đời Thận Đức (1600) và Hoằng Định (1600-1619) về sau định quy chế rằng các quân túc vệ ở kinh chuyên dùng binh 3 phủ thuộc Thanh Hoa (Thiệu Thiên, Hà Trung, Tĩnh Gia) và 12 huyện thuộc Nghệ An (6 huyện ở phủ Đức Quang, và 3 phủ Diễn Châu, Anh Đô, Hà Hoa mỗi phủ 2 huyện), tựu chung, quân vệ sĩ nội điện có: -Ty Thị kiệu (80 người) -Các đội của ty Thị cận, Hiệu lực, vệ Cẩm y, vệ Kim ngô, ty Tả Loan giá, ty Hữu Loan giá (mỗi đội 40 người) -Các cung Cửu tiên tả hữu (mỗi cung 36 người) -Các đội Tả trực, Hữu trực (mỗi đội 40 người) -Đội Thiên hùng (30 người). Ở Đàng Trong, quân Cấm vệ được gọi là Thân quân. Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng là Võ vương, mới đổi gọi Thân quân là quân Vũ lâm, cách tổ chức đội quân này như thế nào hiện nay không thể tra cứu được.

(

88

)Tổ chức chính quyền trung ương dưới triều Lê Thánh Tôn, Sđd, trang 90-91. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

93


Triều Nguyễn từ đời vua Minh Mạng trở về sau mới chia quân ngũ, ở kinh sư gồm thân binh, cấm binh, và tinh binh. Thân binh có vệ Cẩm y, vệ Kim ngô, vệ Loan giá, vệ Tuyển phong, doanh Vũ lâm (xin xem liệt kê nhiệm vụ của từng vệ, doanh ở phần Cai đội trong bài viết này). Đối chiếu với Phổ hệ 1994, có : -Ngài Thuỷ tổ Phan nhơn Bàn, Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân Cẩm y vệ Đô chỉ huy sứ Địch nghĩa bá. -Ông Phan Văn Du (5/6), Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân Cẩm y vệ Đô chỉ huy sứ Chưởng kỳ Toàn đức hầu (ghi nguyên văn trong Phổ hệ). -Ông Phan Văn Huyễn (5/7), Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân Cẩm y vệ Đô chỉ huy sứ ty Cai đội Liêm trực hầu (ghi nguyên văn trong Phổ hệ). Trong ba Ngài và Ông nêu trên thì chỉ có Ngài Thuỷ tổ là làm Đô chỉ huy sứ vệ Cẩm y vì như tôi đã trình bày ở các bài trước, ở đời Lê có vệ Cẩm y và có chức vụ Đô chỉ huy sứ. Còn hai Ông Phan Văn Du và Phan Văn Huyễn sống dưới thời các chúa Nguyễn, mà thời các chúa Nguyễn thì không có vệ Cẩm y và chức vụ Đô chỉ huy sứ. 29.-CHÁNH ĐỘI TRƯỞNG: Đây là chức võ quan chỉ huy một đội quân. Xin xem nội dung ở phần Đội trưởng trong các trang sau của bài viết này. 30.-CỬ NHÂN: Đây là tên gọi dành cho những người đã thi đỗ kỳ thi hương dưới triều Nguyễn. Con đường tìm người tài giỏi, trước hết là dựa vào khoa mục, phàm muốn thu hút người tài năng, tuấn kiệt vào trong phạm vi của mình thì người làm vua một nước không thể nào không tổ chức khoa cử. Sử sách cho thấy ở triều Lý, vua Lý Nhân Tông năm 1075 hạ chiếu chọn những người giỏi kinh học rộng vào thi nho học ba trường, năm 1086 thi những người có văn học trong nước vào làm quan tại Viện Hàn lâm. Vua Lý Anh Tông năm 1152 tổ chức thi đình, năm 1165 thi Thái học sinh. Vua Lý Cao Tông (1188) thi học trò trong nước từ 15 tuổi trở lên, ai thông kinh thi, kinh thư thì được vào hầu ngự diên (nơi giảng sách của nhà vua), năm 1193 thi lấy học trò vào hầu nơi ngự học, năm 1195 thi tam giáo, cho đỗ xuất thân. Năm thi 1075 được coi như là khoa thi mở đường cho chế độ thi cử chọn người tài giỏi ra làm quan ở nước ta vậy. Nhưng phép thi lúc bấy giờ chưa có cách thức nhất định, thỉnh thoảng có chiếu của vua cử học trò trong nước vào thi, nhà vua tự xem thi ở điện đình, sử sách chép không rõ nên không thể tra cứu được. Triều Trần năm 1227 thi tam giáo tử (những người nối nghiệp các nhà nho, đạo, thích), năm1232 thi thái học sinh cho đỗ tam giáp theo bực khác nhau. Phép thi cử ở nước ta chia ra giáp (nhất giáp, nhị giáp, tam giáp) và đệ là bắt đầu từ đây, nhưng niên hạn chưa định, phép thi chưa rõ vì mới bắt đầu xây dựng. Về sau mới hạn định 7 năm một khoa, đặt ra tam khôi, điều lệ mỗi ngày một nghiêm ngặt, ân điển mỗi ngày một long trọng, công danh do đó mà ra, nhân tài đầy dẫy. Năm 1236 chọn nho sinh thi đỗ vào hầu vua. Năm 1247 thi đại tỷ lấy học trò đỗ trạng Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

94


nguyên, bảng nhãn, thám hoa lang, và thái học sinh 48 người xuất thân theo thứ bậc. Năm 1247 lại thi lấy những người thông các khoa tam giáo. Năm 1256 mổ khoa thi lấy kinh trạng nguyên, trại trạng nguyên, mỗi bên một người. Năm 1305 thi học trò trong nước lấy tam khôi, hoàng giáp, và thái học sinh 44 người. Phép thi, trước thi ám tả "y quốc thiên" và "mục thiên tử truyện" (89) để loại bớt, rồi đến "kinh nghi" (90), kinh nghĩa, thơ dùng nghĩa cổ thì ngũ ngôn trường thiên, lấy 4 chữ "tài, nan, xạ, trĩ" làm vần, phải dùng thể 8 vần. Trường thứ ba thi chiếu, chế, biểu. Trường thứ tư thi văn sách. Cho dẫn những người đỗ tam khôi ra cửa Long môn Phượng thành đi chơi phố 3 ngày. Trạng nguyên thì bổ thái học sinh hỏa dũng thủ sung chức nội thư gia, bảng nhãn bổ chi hậu bạ thư, có mạo sam (mũ và áo của chức bạ thư) sung chức nội lệnh thư gia, thám hoa thì bổ hiệu thư, có quyền miện (mũ của chức hiệu thư) và được 2 tư, còn 330 người được lưu học. Năm 1305 có chiếu dùng 7 khoa để thi học trò trong cả nước. Năm 1314 thi thái học sinh, ai đỗ cho tước bạ thư lệnh. Năm 1345 thi thái học sinh, phép thi dùng ám tả cổ văn, kinh nghĩa, thơ, phú. Năm 1363 thi học trò lấy người có văn nghệ vào làm việc trong các quán, các. Năm 1374 thi tiến sĩ ở điện đình lấy đỗ trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa, hoàng giáp, cập đệ, và đồng cập đệ 44 người. Năm 1396 định cách thức thi cử nhân, cứ năm trước thi hương thì năm sau thi hội, ai đỗ thi hội thì nhà vua ra thi một đề văn sách để định thứ tự. Buổi đầu triều Trần, thi thái học sinh chia ra làm thượng trại hạ trại và thi đình chia ra kinh và trại, lấy đỗ tam khôi nhưng văn thể không nhất định, đến đây theo phép thi của nhà Nguyên, dùng văn thể 4 trường, bỏ bài ám tả cổ văn. Trường nhất thi 1 bài kinh nghĩa có những đoạn phá, tiếp ngữ, tiểu giảng, nguyên đề, đại giảng, kết thúc, bài làm hạn 500 chữ trở lên. Trường nhì thi 1 bài thơ dùng Đường luật, 1 bài phú cổ thể, hoặc thể ly tao (lối văn theo bài Ly tao của Khuất nguyên nước Sở thời Chiến quốc), hoặc thể văn tuyển (của thái tử Lương Duy đời Lương soạn), cũng hạn 500 chữ trở lên. Trường ba thi 1 bài chiếu dùng thể đời Hán, chế biểu mỗi thứ 1 bài dùng thể tứ lục (lối văn chế biểu câu trên 4 chữ, câu dưới 6 chữ) đời Đường. Trường tư thi văn sách 1 bài ra đề về kinh sử, thời vụ, 1.000 chữ trở lên. Triều Hồ, năm 1404 định cách thức thi cử nhân: tháng 6 năm nay thi hương ai đỗ thì được miễn dao dịch, tháng 8 năm sau thi ở Lễ bộ ai đỗ thì bổ dùng, lại đến tháng 3 sang năm nữa thi hội ai đổ thì sung thái học sinh, đều cứ 3 năm một khoa. Phép thi theo nhà Nguyên, thi 3 trường, lại có một kỳ văn sách là trường tư, một kỳ thi viết tính là trường năm. Triều Lê, vua Lê Thái Tổ năm 1429 mở khoa thi Minh kinh (hiểu rõ nghĩa các kinh) để chọn người hiểu nghĩa sách chắc chắn, năm 1431 mở khoa thi Hoành từ (lời văn dồi dào, rộng rãi tỏ ra có học lực cao sâu) để chọn người văn hay học rộng. Sở dĩ như vậy là vì lúc mới phục quốc, lòng người chưa vui lòng ra làm quan cho nên cách thi lúc đầu hãy còn giản dị, các khoa

(

89

) “Y qu ốc thiên” chưa rõ là gì. “Thiên t ử truyện” là bộ sách viết bằng thẻ tre, do Tuân Húc đời Tống tìm

thấy trong ngôi mộ cỗ ở quận Cấp. Tuân Húc hiệu đ1inh, Quách Phát chú thích. ( 90 )Kinh nghi: hỏi những điều nghi ngờ ở các kinh. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

95


minh kinh hoành từ đại khái chỉ tùy tài chọn dùng, không bó buộc. Vua Lê Thái Tông định lại cách thi, cứ 3 năm một khoa thi, ai thi đỗ đều cho là tiến sĩ xuất thân, phép thi thì trường nhất thi 1 bài kinh nghĩa và tứ thư nghĩa mỗi sách 1bài đều hạn trên 300 chữ, trường nhì thi chiếu chế biểu, trường ba thi thơ phú, trường tư thi văn sách 1 bài trên 1.000 chữ. Lại sai soạn văn dựng bia đề tên các tiến sĩ, bia tiến sĩ bắt đầu có từ đấy (1442). Vua Lê Thánh Tông năm 1462 định lệ bảo kết thi hương "học trò đi thi không cứ quân dân hay chức dịch, đều từ thượng tuần tháng 8 năm nay đến khai tên ở bản đạo, đợi thi hương đỗ thì đưa danh sách lên viện Lễ nghi, đến trung tuần tháng giêng năm sau thi hội. Cho quan bản quản cùng bản xã bảo kết, người nào thực có đức hạnh mới được khai vào sổ ứng thí. Những người bất hiếu, bất mục, loạn luân, điêu toa, dẫu có học vấn văn chương cũng không được vào thi, Giấy thông hành cước sắc (giấy ghi căn cước chức nghiệp của từng người) của các cử nhân phải khai rõ xã, huyện, tuổi, chuyên trị kinh gì, cùng là cước sắc của ông cha, không được giả mạo. Những nhà làm nghề hát xướng cùng là nghịch đảng, nguỵ quan và người có tiếng xấu thì bản thân và con cháu không được đi thi. Phép thi thì trước thi 1 bài ám tả để loại bớt người kém. Trường nhất thi tứ thư và kinh nghĩa 5 bài, trường nhì thi chiếu chế biểu dùng tứ lục cổ thể, trường ba thi thơ dùng Đường luật, phú dùng cổ thể thể ly tao hoặc văn tuyển đều trên 300 chữ, trường tư thi văn sách đề về kinh sử, thời vụ, 1.000 chữ trở lên". Năm 1472 thi hội, định rõ phép thi như sau:"Trường nhất kinh nghĩa 8 đề trong Tứ thư, Luận ngữ 4 đề, Mạnh tử 4 đề, cử tử chọn lấy 4 đề mà làm; Ngũ kinh mỗi kinh 3 đề, cử tử chọn lấy 1 đề, duy 2 đề về kinh Xuân thu thì được kể là 1 đề. Trường nhì thi chiếu chế biểu, mỗi thể 3 bài. Trường ba thi thơ phú đều 2 bài, phú dùng thể phú Lý Bạch. Trường tư thi văn sách 1 bài hỏi về ý chỉ kinh truyện giống nhau khác nhau, chính sự các đời hay dữ thế nào. Các tiến sĩ được triệu vào sân rồng, Hồng lô tự truyền chỉ xướng danh, Lại bộ ban ân mệnh, Lễ bộ mang bảng vàng, nỗi âm nhạc rước ra ngoài cửa Đông hoa treo lên, mã cứu ty kén ngựa tốt đưa trạng nguyên về nhà. Định tư cách tiến sĩ như sau: Đệ nhất giáp đệ nhất danh hàm chánh lục phẩm, đệ nhị danh hàm tòng lục phẩm, đệ tam danh hàm chánh thất phẩm, đệ nhị giáp hàm tòng thất phẩm, đệ tam giáp hàm chánh bát phẩm, vào Hàn lâm viện thì được hơn một cấp. Điều lệ về mũ áo là: Tam khôi và Hoàng giáp mỗi người 1 mũ phác đầu có 2 cánh, lá đề tam sơn bằng thau, đồng tiến sĩ mũ áo cũng thế nhưng kém 2 cánh. Đai của trạng nguyên bịt bạc nặng 1 dật (10 lạng, tức là nén) làm bằng gỗ tốc hương bọc lụa màu tím than, hoa bạc 1cây 9 cành nặng 9 đồng cân. Đai của bảng nhãn bịt bạc nặng 8 lạng làm bằng gỗ tốc hương bọc lụa màu tím than, hoa bạc 1 cây 8 cành nặng 8 đồng cân. Đai của thám hoa bịt bạc nặng 8 lạng làm bằng gỗ tốc hương bọc lụa màu tím than, hoa bạc 1 cây 7 cành nặng 7 đồng cân. Áo chầu đều bằng đoan huyền hoa liên vân. Đai của hoàng giáp bịt thau làm bằng gỗ tốc hương bọc lụa màu tím than, hoa bạc 1 cây 6 cành nặng 6 đồng cân. Đai của đồng tiến sĩ bịt thau làm bằng sừng trâu bọc lụa màu tím than, hoa bạc 1 cây 5 canh nặng 5 đồng cân. Áo chầu đều dùng ô sa. Mũ đai ban ở ngoài cửa Đoan môn. Hoa bạc ban ở công đường Lễ bộ. Năm 1492 mở khoa thi hương cho học trò trong nước, sai các quan Hàn lâm đi làm khảo quan ở 4 thừa Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

96


tuyên Hải Dương, Sơn Nam, Tam Giang, Kinh Bắc, mỗi nơi 4 viên, quan Hàn lâm đi chấm trường thi hương bắt đầu từ đấy. Năm 1501 lại định cách thi hành công việc về thi hương như sau: -Đến khoa thi, xã trưởng các xứ làm giấy đoan bảo trong xã mình, trừ những người Tú lâm sinh đồ (sinh đồ ở Tú lâm cục), còn các quân sắc, nhân dân, quả là con nhà lương thiện, có hạnh kiểm, học vấn, viết nỗi văn 4 trường, đều cho làm giấy đoan bảo. Số người đi thi thì xã lớn 20 người, xã trung 15 người, xã nhỏ 10 người, xã nào ít người học tập thì không buộc lệ ấy. Xã trưởng loại khai tên học trò, rồi phủ huyện châu sát hạch từng người một, thi ám tả 1 bài, ai trúng thì hai ty Thừa, Hiến theo lệ khảo thí lại. Nếu xã trưởng đoan khai không thực, phủ huyện châu sát hạch không đúng, đến nỗi học trò vào thi làm bài không thành văn lý, hay có người vì con em thân thích mà gởi gắm quan trường, thì khoa đài (tức 6 khoa ở Ngự sử đài) sai người đi dò xét thực hư, đều đưa ra xét hỏi trị tội. -Khi học trò vào thi, các quan đề điệu giám thí phải xét cử. Các giám quan công đồng tìm xét trong trường xem có dấu vết chôn sách vỡ gì phải tìm cho ra hết. Đến khi học trò vào trường phải tự ra kiểm sát kỹ càng ở ngoài cửa. Nếu ai đem theo những bản sao chép văn chương, sách vỡ, hoặc đi thi hộ người khác, thì bắt chính thân người ầy đem xét hỏi, kẻ phạm tội nói trên phải sung quân ở bản phủ 3 năm và suốt đời không được đi thi. Những chức di phong giám (chức giữ quyển thi, bỏ vào hòm niêm kín lại) mà không minh chính thì bị tội biếm giáng. Hai ty Thừa Hiến cũng đều phải công đồng khám xét rồi mới cho vào thi. Nếu có người tỏ ra dấu tích gian lận trong việc thi thì bắt giữ lại, tâu lên trị tội. Quan Thừa Hiến mà dung túng làm bậy thì khoa đài phụ trách sai người tra hỏi, đúng thực đều nhất luật đưa ra hỏi tội. -Những quan viên hiện làm việc ở Thừa ty xứ khác cùng các nho sinh điển lại gặp lúc đương phiên làm việc hoặc đương ở Kinh thành làm việc, mà muốn đi thi, thì tự người ấy làm đơn, xét thực có đủ sức làm văn 4 trường mới cấp giấy cho về bản quán để dự thi, không được cấp giấy nhận cho thi ngay ở Thừa ty và phủ Phụng thiên như trước. Làm trái đều phải đưa ra trị tội. -Lại điển đi thi hương mà trúng thức thì được lưu học ở Quốc tử giám. -Đến kỳ vào trường thi hương, các giám sinh, sinh đồ có tang cha mẹ mà ở nhà,đều phải đến bản phủ khai tên điểm mục, nếu thiếu người nào quan phụ trách tâu lên sẽ bắt tội sung quân ở bản phủ. Ai tự tiện vào cửa ngoài phòng thi và thi thay cho người khác thì bị xử tội đồ, suốt đời không được đi thi và không được bổ dùng. Nếu xã trưởng nhận diện biết là gian lận mà đồng tình dung túng đến nỗi người thi thay vào trường bị bắt, thì người xã trưởng cũng phải tội sung quân hạng ba ở bản phủ. Ở Đàng Ngoài, năm 1565 thi chế khoa (khoa thi đặc biệt mở để chọn người tài giỏi), năm 1658 đặt khoa thi sĩ vọng (khoa thi chọn lấy những người có danh vọng trong sĩ phu), năm 1659 thi khoa đông các bổ các chức Đông các đại học sĩ, Đông các học sĩ , và Đông các hiệu thư , năm 1750 cho người ta nộp tiền vào thi hương, mỗi người nộp tiền 3 quan, không phải khảo hạch đều được vào thi, gọi là tiền thông kinh, vì thế người làm ruộng, người đi buôn, cho chí Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

97


người hàng thịt, người bán vặt cũng đều làm đơn nộp tiền xin thi cả, ngày vào thi đông đến nỗi giày xéo lẫn nhau, có người chết ở cửa trường, trong trường thi nào mang sách, nào hỏi chữ, nào mượn người thi thay, công nhiên làm bậy, không còn biết phép thi là gì. Năm 1747 bãi lệ tứ trường, thi hành lệ sảo thông tức là huyện lớn lấy 200 người, huyện trung lấy 150 người, huyện nhỏ lấy 100 người, ai thông hiểu luật làm thơ thì cho đỗ gọi là thứ thông, rồi chọn lấy những người giỏi hơn đưa lên hai ty Thừa Hiến khảo lại 2 kỳ, ai trúng tuyển thì gọi là sảo thông, hạng tam trường trước cùng đưa đi khảo với hạng thứ thông, người học giỏi cũng có khi bị bỏ sót, nhưng lần lượt rồi cũng đỗ. Năm 1757 thi khoa tuyển cử (91). Ở Đàng Trong, năm 1632 thi học trò nhân kỳ duyệt tuyển (duyệt dân tuyển lính), khi đến kỳ duyệt tuyển thì có lệnh cho học trò các huyện đến trấn dinh để khảo thí một ngày. Phép thi dùng 1 bài thơ, 1 đạo văn sách, hạn trong một ngày làm xong, lấy tri phủ, tri huyện làm sơ khảo, ký lục làm phúc khảo, người thi trúng thì cho làm nhiêu học miễn thuế sai dư 5 năm. Lại thi viết chữ hoa văn (chữ Hán) người nào trúng thì được bổ làm việc ở ba ty Xá sai, Lệnh sử, Tướng thần lại. Năm 1646 thi chính đồ (khoa thi lấy người thi đậu ra làm quan cũng như thi hương thi hội ở Bắc) và thi hoa văn (khoa thi lấy học trò viết chữ tốt ra làm lại). Chính đồ thi 3 ngày, ngày thứ nhất thi tứ lục, ngày thứ hai thi thơ phú, ngày thứ ba thi văn sách, lấy văn chức, tri phủ, tri huyện làm sơ khảo, cai bạ, ký lục, nha úy làm giám khảo, nội tả, ngoại tả, nội hữu, ngoại hữu làm giám thí, người thi trúng thì làm danh sách tiến lên, định làm 3 hạng giáp, ất, bính, hạng giáp là giám sinh bổ tri phủ tri huyện, hạng ất làm sinh đồ bổ huấn đạo, hạng bính cũng là sinh đồ bổ lễ sinh hoặc cho làm nhiêu học mãn đại. Hoa văn thi 3 ngày, mỗi ngày đều viết 1 bài thơ, người trúng cũng chia làm 3 hạng bổ làm việc ở ba ty và cho làm nhiêu học. Năm 1675 mở khoa thi thám phỏng, phép thi thì một ngày hỏi tình trạng binh dân và việc Lê Trịnh, người trúng thì bổ vào Xá sai ty. Năm 1695 thi văn chức và tam ty, thể lệ thi văn chức thì kỳ đệ nhất tứ lục, kỳ đệ nhị thơ phú, kỳ đệ tam văn sách, thi Xá sai ty thì hỏi về số tiền thóc xuất nhập và việc ngục trung xử quyết, thi hai ty Lệnh sử va Tướng thần lại thì viết một bài thơ (92). Dưới triều Nguyễn, quy định về thi hương, hội, đình như sau: -Thi hương: thi vào các năm tý, ngọ, mão, dậu. Các trường Thừa Thiên, Gia Định, Nghệ An mở kỳ thi vào tháng 7, các trường Thanh Hoá, Hà Nội, Nam Định mở kỳ thi vào tháng 9. Trước kỳ thi 4 tháng, các xã trưởng phải khai đủ tên họ và cước sắc của sĩ tử ứng thí nộp ở quan huyện, nếu có những người bất hiếu, bất mục, điêu toa hay phạm lỗi loạn luân, cùng là kẻ đã bị án trộm cướp hay phản nghịch không được liệt khai bậy vào danh sách này, nếu xã trưởng dụng tình không chịu chua những án ấy vào sổ đinh, xét ra sự thực sẽ có tội. Hễ ai có tang cha mẹ và cháu thừa trọng tang ông bà (thừa trọng tang là cha mất trước khi ông bà mất, người cháu nội

(

91

)Phần cử nhân trong bài viết này được liệt kê từ sách Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, Khoa

mục chí, trang 150-174. (

92

)Đại Nam thực lục tiền biên, Sđd, các trang 64, 75, 111, 123, 151. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

98


phải để đại tang), không được giấu tang mà ứng thí. Giáo dân nếu có tình nguyện ứng thí thì cho phép quan sở tại chiếu lệ sức cho lý trưởng khai nhận rằng người nào thi đỗ mà xin ra làm quan thì hể khi tại chức đều phải theo đúng nghi lễ và tục lệ nước nhà như các lễ nghi về triều hạ và tế tự không được trái ngược. Phép cân nhắc quyển văn để phân biệt hạng cử nhân, tú tài như sau: 4 kỳ đều phê ưu là tột bậc, 3 kỳ ưu 1 kỳ bình là thượng hạng, 3 kỳ ưu 1 kỳ thứ hay 2 kỳ ưu 2 kỳ bình ở dưới hạng này, 2 kỳ ưu 1 kỳ bình 1 kỳ thứ hay 2 kỳ ưu 2 kỳ thứ, hay 1 kỳ ưu 3 kỳ bình, hay 3 kỳ ưu 1 kỳ liệt lại ở dưới, 1 kỳ ưu 2 kỳ bình 1 kỳ thứ hoặc 4 kỳ đều bình, 1 kỳ ưu 3 kỳ thứ, 3 kỳ bình 1 kỳ thứ, hay 2 kỳ bình 2 kỳ thứ, 1 kỳ bình 3 kỳ thứ lại ở dưới nữa. Cốt phải cân nhắc suốt cả 4 kỳ mới định được thứ bậc (vua Tự Đức định rằng các kỳ thi hương và thi hội, trúng cách kỳ đệ nhất mới được vào kỳ đệ nhị, trúng kỳ đệ nhị mới được vào kỳ đệ đệ tam, trúng kỳ đệ tam mới được vào kỳ đệ tứ.. Thi hương trúng cách 3 kỳ đặt vào hạng tú tài, trúng cách cả 4 kỳ đặt vào hạng cử nhân). Tất cả những quyển thi, nếu có quyển làm không thành văn hay là bỏ quyển trắng, hay làm không đủ bài, cứ 1 quyển thì viên Giáo thụ hay Huấn đạo phải giáng 2 cấp lưu nhiệm, nếu có 2 quyển phải giáng 4 cấp ly nhiệm, có 3 quyển trở lên sẽ khép tội cách chức ly nhiệm. Các quan Tế tửu, Tư nghiệp và Đốc học thì tội kém các viên trên 1 bậc, có 1 quyển thì giáng 1 bậc, 2 quyển thì giáng 2 bậc, 3 quyển thì giáng 3 bậc đều lưu nhiệm, 4 quyển thì giáng 4 bậc ly nhiệm, từ 5 quyển trở lên sẽ bị cách chức ly nhiệm. Các viên huyện phủ và Tỉnh cũng đồng thời cùng chấm quyển hạch, sẽ bị tội lần lượt kém các viên trên 1 bậc nhưng chỉ giáng đến 4 bậc lưu nhiệm. Cứ hai ngày sau khi yết bảng cử nhân, các khảo quan dẫn các cử nhân mới đỗ đến Hành cung bái mạng rồi dự tiệc yến. Năm Thành Thái thứ 10 (1898) định thi hương tại trường Hà Nam trừ ra văn thể 3 kỳ vẫn giữ nguyên lối củ, lại định thêm thể thức là phải thông hiểu chữ Pháp, tiếng Pháp, và chữ Quốc ngữ. Về chữ Pháp: 1 bài ám tả chữ Pháp, bài đọc và viết do quan trường ứng khẩu đọc ra liền viết ra ngay, 1 bài chữ Pháp dịch ra chữ Quốc ngữ. Về môn tiếng Pháp: vấn đáp bằng tiếng Pháp, 1 bài chữ Việt ứng khẩu dịch ra tiếng Pháp. Về chữ Quốc ngư:, đọc và viết chữ Quốc ngữ, 1 bài chữ nho dịch ra chữ Quốc ngữ. -Thi hội: thi vào các năm thìn, tuất, sửu, mùi, vào tháng ba mùa xuân. Các viên Giáo thụ, Huấn đạo tại chức vốn xuất thân là cử nhân hay giám sinh tú tài, ai tình nguyện ứng thí sẽ do quan địa phương xét thực tâu lên, cấp giấy để vào kinh dự thi, ai đỗ trúng cách sẽ ở lại kinh đợi thi đình , ai không đỗ trúng cách thì trở về giữ chức củ. Những tú tài trúng kỳ sát hạch được bổ các chức giáo huấn và bổ thất phẩm, chánh ngạch bát cửu phẩm nếu tình nguyện dự thi hội, đều do quan thượng ty hội đồng sát hạch, văn bài nào được phê ưu bình sẽ cấp chứng chỉ cho về kinh thi hội. Các tú tài ấm sinh và tú tài học sinh người nào đổ thượng hạng nếu tình nguyện thì do quan đầu Tỉnh sát hạch, ai trúng thượng hạng sẽ tư danh sách về bộ, đến năm có khoa thi hội, bộ sẽ chiếu lệ sát hạch một kỳ nữa, các viên trúng tuyển kỳ hạch này sẽ được cấp văn bằng cho về kinh thi hội. Các quyển đều trúng thức cộng từ 8 phân trở lên là hạng đỗ trúng cách, còn 3 kỳ cộng được 9 phân trở lên sẽ do quan trường thanh tự (là tờ tâu về một trường hợp đặc biệt, xin cho gia ân) tâu lên đợi chỉ Vua định. còn ngoài ra 3 kỳ cộng từ 4 phân trở lên 9 phân, cùng là 1 Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

99


kỳ tuy bất cập 1 phân mà 3 kỳ khác cộng được 10 phân trở lên thì mới được lấy đổ hạng Phó bảng. -Thi đình: là kỳ thi của nhà vua, chính Hoàng đế ra bài văn sách hỏi về sách cổ sách kim và nhất là về thời sự, văn của thí sinh làm gọi là văn đối sách. Từ năm Tự Đức thứ 4 (1851) trở về trước, thi hội xong, quyển nào được hạng trúng cách mới được vào thi đối sách ở điện Cần chánh, còn quyển nào vào hạng Phó bảng thì chỉ thi hội mà thôi, như vậy từ Tiến sĩ trở lên phải là hạng chánh trúng cách ở trường hội rồi thi đình xong mới định các hạng nhất giáp, nhị giáp và tam giáp tiến sĩ. Từ năm Tự Đức thứ 4 trở về sau, ai đỗ chánh trúng cách và thứ trúng cách (phó bảng) đều được vào thi đối sách ở điện Cần chánh, rồi xem nếu văn đình đối mà xuất sắc thì hạng thứ trúng cách cũng được lấy lên Tiến sĩ hay Hoàng giáp, trái lại hạng chánh trúng cách vào thi đình có thể vì văn lý kém mà phải xuống Phó bảng. Thi đình xong, đến ngày truyền lô (lễ xướng tên các tân khoa), đặt nghi lễ đại triều tại điện Thái hòa, các hoàng thân và trăm quan đều mặc mũ áo đại triều theo ban đứng hầu. Hoàng đế ngự trên điện, các quan Khâm mạng vào làm lễ phục mạng. Các quan Độc quyển coi việc thi truyền cho các Tiến sĩ mới đỗ vào dinh thự công văn, rồi ban cho mỗi viên một bộ mũ áo. Các Tiến sĩ quỳ xuống nhận lãnh xong, bộ Lễ dẫn các viên ấy vào trước sân điện quỳ xuống ngoảnh mặt về phương bắc (tức là hướng vào trong điện). Quan Khâm mạng truyền lô cầm danh sách theo thứ tự tuyên đọc xong, lãnh chỉ vua đem bảng liệt tên các tân khoa tới lầu Phu văn, treo bảng ở đó 3 ngày. Rồi có ban yến ở bộ Lễ, các viên chức sung việc trường thi và các đường quan ở bộ Lễ được dự bữa yến với các Tiến sĩ mới đỗ, đều mặc mũ áo chĩnh tề tới nơi đặt tiệc lạy vọng nhà vua, làm lễ nhận yến và tạ ơn. Kế đó các viên tân khoa mỗi người được ban một cành hoa bằng bạc dát vàng. Dự yến xong, các tân khoa làm riêng mỗi người một bài biểu tạ, trình bộ Lễ xem rồi tiến lên vua. Một viên đường quan ở bộ Lễ dẫn các viên chức coi việc thi và các tân khoa tiến sĩ đến vườn thượng uyển xem hoa, rồi cứ mặc mũ áo, cưởi ngựa che lọng do cửa đông ở kinh thành đi ra du ngoạn các phố phường. Các viên tiến sĩ về vinh quy, trừ ra ngày đi và ngày về, đều cho hai tháng nữa phải vào kinh đợi chỉ vua bổ quan chức (93) Tóm lại, việc thi cử trong lịch sử nước nhà có những điểm đáng lưu ý sau đây: -Khoa thi năm 1075 dưới triều vua Lý Nhân Tông được xem là khoa thi đầu tiên chọn nhân tài qua khoa cử để ra làm việc nước. Khoa thi cuối cùng là khoa thi năm 1919 dưới đời vua Khải định triều Nguyễn. Tổng cộng các khoa thi và các ông nghè ông cống có: *Triều Lý

: 06 khoa,

27 người đỗ, có 04 trạng nguyên.

*Triều Trần

: 14

, 238

,

12

*Triều Hồ

: 02

"

, 200

,

01

*Triều Lê sơ

: 28

"

, 485

,

20

*Triều Mạc

: 22

"

, 485

,

13

( 93)Phần thi cử dưới triều Nguyễn trong bài viết này dựa theo sách Đại Nam điển lệ toát yếu, Sđd, trang 357-375. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

100


*Triều Hậu Lê : 73

"

, 793

,

06

*Triều Nguyễn : 39

" , 557

,

00

Cộng 184 khoa, 2.785 người đỗ, có 56 trạng nguyên. Số liệu này không kể những khoa thi khác như hoành từ, minh knh, sĩ vọng, chính đồ, hoa văn v.v... -Học vị đỗ đại khoa có khác nhau như: Thái học sinh (từ năm 1232 đời Trần Thái Tông đến năm 1400 đời Hồ Quý Ly), Tiến sĩ (tứ năm 1442 đời Lê Thánh Tông đến năm 1919 đời Khải Định). Tên gọi cử nhân xuất hiện vào năm 1396 đời Trần Thuận Tông. -Phép thi cử chia ra nhất giáp, nhị giáp, tam giáp bắt đầu có vào năm 1232. Trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa có từ năm 1247 đời Trần Thái Tông. -Dựng bia đề tên các tiến sĩ bắt đầu từ năm 1442 đời Lê Thánh Tông -Phép thi, lấy toán học đặt thêm làm một trường có ở năm 1404 đời Hồ Hán Thương. Phép thi có chữ Pháp và chữ Quốc ngữ có vào năm 1898 đời Thành Thái. Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có các Ông (tính từ cử nhân trở lên): -Phan Ngọc Trí (4/10) Án sát sứ Tỉnh Quảng Bình. -Phan Doãn Đức (2/11) Thị độc nội các. -Phan Khắc Nhu (2/11) Án sát sứ Tỉnh Nam Định. -Phan Ngọc Đức (4/11) Hàn lâm viện thị giảng học sĩ. -Phan Ngọc Thanh (4/11) Tri huyện. -Phan Trân (2/12) Phó bảng, Tri phủ. -Phan Tấn (2/12) Tri huyện. -Phan Lục (2/12) Cử nhân. -Phan Thành Tích (2/12) Giáo thọ. -Phan Đức Thạnh (3/12) Tri phủ. -Phan Ngọc Trứ (4/12) Hàn lâm viện sung nội các. -Phan Đức Thuần (3/13) Hàn lâm viện thị độc. -Phan Bá Cảnh (5/12) Tri phủ Phú Yên. Sách "Những ông nghè ông cống triều Nguyễn" cho ta biết hành trạng của các Ông như sau (94): a/Ông Phan Doãn Đức, đỗ cử nhân khoa bính ngọ Thiệu Trị thứ 6 (1846) tại trường Thừa Thiên. Làm quan tới chức Thị độc nội các (trong Phổ hệ 1994 ghi Ông là Cửu phẩm bá hộ, ở đây theo sách đã nêu trên). b/Ông Phan Khắc Nhu, tức là Ông Phan Trinh, đỗ cử nhân ân khoa đinh mùi Thiệu Trị thứ 7 (1847) tại trường Thừa Thiên. c/Ông Phan Trân, đỗ cử nhân khoa mậu tí Đồng Khánh thứ 3 (1888) tại trường Thừa Thiên, đỗ Phó bảng khoa ất mùi Thành Thái thứ 7 (1895). (

94

)Sách đã dẫn, các trang 829, 832, 839, 847, 854, 856, 857.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

101


d/Ông Phan Thành Tích, đỗ cử nhân khoa mậu tí Đồng Khánh thứ 3 (1888) tại trường Thừa Thiên. đ/Ông Phan Đức Thạnh, đỗ cử nhân khoa tân mão Thành Thái thứ 3 (1891) tại trường Thừa Thiên. e/Ông Phan Lục, đỗ cử nhân khoa tân mão Thành Thái thứ 3 (1891) tại trường Thừa Thiên. g/Ông Phan Bá Kính, đỗ cử nhân khoa quý mão Thành Thái thứ 15 (1903) tại trường Thừa Thiên năm 27 tuổi. Làm quan tới chức Chánh bát phẩm Phú Yên (tức là Ông Phan Bá Cảnh - 5/12 - Phổ hệ 1994 ghi Ông là Tri phủ Phú Yên, ở đây theo Phổ hệ, vì một người đỗ cử nhân thì không thể nào chỉ làm đến chức chánh bát phẩm thư lại được). h/Về các Ông Phan Ngọc Trí - Án sát sứ Quảng Bình, hai người con của Ông là Phan Ngọc Đức (Hàn lâm viện thị giảng học sĩ), Phan Ngọc Thanh (Tri huyện), và người cháu là Phan Ngọc Trứ (Hàn lâm viện nội các). Nếu kể cả Ông Phan Ngọc Thức (4/9) là cha Ông Phan Ngọc Trí thì đây là một gia đình 4 đời có 5 người làm quan, chức vụ cũng khá cao, từ tòng lục phẩm đến chánh tứ phẩm. Ta biết rằng Ông Phan Ngọc Thức là Ngũ đồn quân trung thư ký đời chúa Nguyễn Ánh, năm 1804 vua Gia Long định quan chế xếp chức vụ này vào hàm Tản giai tòng ngũ phẩm, còn chức vụ Án sát sứ thì chỉ bắt đầu có vào năm 1831-1832 đời vua Minh Mạng, ta cũng biết rằng những người mới đỗ cử nhân chỉ được phong hàm tòng bát phẩm, để được thăng đến chức Án sát sứ hàm chánh tứ phẩm với thể lệ khảo khóa là 3 năm một lần thì cũng phải trong khoảng 20-25 năm, vậy có thể Ông Phan Ngọc Trí đã thi đổ cử nhân vào khoảng đời vua Gia Long (năm 1807 hoặc 1813 là hai năm có mở khoa thi). Tiếp tục với Ông Phan Ngọc Đức và Phan Ngọc Thanh có thể thi đỗ cử nhân vào các năm từ 1827 đến 1833, và đến Ông Phan Ngọc Trứ vào khoảng từ 1847 đến 1858. Đây là những năm đã ổn định, đã tổ chức những khoa thi để chọn người tài giỏi nên không thể nào các Ông làm quan với chức vụ được nêu trên mà lại không thi đỗ cử nhân, nói tóm lại là sách "Những ông nghè ông cống triều Nguyễn" đã liệt kê thiếu tên các Ông. i/Về Ông Phan Tấn, Phổ hệ ghi là cử nhân nhưng sách "Những ông nghè ông cống triều Nguyễn" không thấy ghi tên Ông đỗ cử nhân. Ta thấy rằng các con Ông Phan Tấn là Phan Huy (trong Phổ hệ ghi là viên tử), Phan Hạnh (giáo dưỡng), Phan Diễn (ấm sinh), điều này chứng tỏ rằng Ông Phan Tấn phải đã đỗ cử nhân và chức vụ của Ông có lẽ cao hơn chức Tri huyện hàm tòng lục phẩm vì con các quan muốn vào ngạch giáo dưỡng phải có hàm từ tòng ngũ phẩm trở lên (xin xem phần Anh danh Giáo dưỡng trong bài viết này). Đối với ấm sinh cũng vậy, cũng phải có cha từ hàm tòng ngũ phẩm trở lên mới được khai ấm và phải qua một kỳ sát hạch trúng mới được bổ làm ấm sinh (xin xem thêm phần Ấm sinh trong bài viết này). Rất tiếc chức vụ cao hơn này là gì thì không thể khẳng định được vì không có chứng cứ để tham khảo. Ông Phan Tấn lại là anh ruột của Ông Phan Lục (cử nhân năm 1891) nên có thể Ông cũng sống và đỗ cử nhân vào khoảng thời gian này. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

102


k/Về Ông Phan Đức Thuần, Hàn lâm viện thị độc. Ta biết rằng Ông là con Ông Phan Đức Mậu (ấm sinh), là cháu Ông Phan Đức Thạnh (cử nhân năm 1891) nên Ông có thể đỗ cử nhân vào các khoa từ 1912 đến 1918 là những khoa thi cuối cùng của triều Nguyễn và cũng là cuối cùng của chế độ phong kiến Việt nam. Đó là về văn, ở võ ban ta cũng thấy có các khoa thi võ cử nhân, võ tiến sĩ để chọn những người tài giỏi, am hiểu binh thư bổ sung vào hàng ngũ võ quan. Sử sách cho thấy dưới đời vua Lê Thánh Tông, nhà vua ấn định thi võ nghệ để khảo sát quân sĩ và thi đô thí để khảo sát võ quan. Xét thực chất thì các cuộc thi này không phải để cho đỗ võ cử nhân, võ tiến sĩ, nhưng cũng xin nêu ra đây để tham khảo : -Thi võ nghệ 3 năm một lần do bộ Binh mở. Đến kỳ vào mùa đông, các quân thủy, quân bộ, quân thị hậu và quân ngoài các đạo phải tụ tập để chịu kỳ khảo sát về võ nghệ. Trong kỳ này cách thưởng phạt như sau: Binh sĩ đấu võ nghệ, thắng luôn 4 lần được thưởng 1 chiếc áo và 1 quan 5 tiền sử tiền (người Trung quốc tính 100 đồng là 1 tiền, nước ta tính 1 tiền có 36 đồng gọi là sử tiền, 1 tiền có 60 đồng gọi là cổ tiền, như vậy cứ 10 tiền sử tiền là 1 quan sử tiền tức là 6 tiền cổ tiền, còn 10 tiền cổ tiền tức là 1 quan 6 tiền 24 đồng. Sử tiền có tên riêng là tiền gián, cổ tiền có tên riêng là tiền quý), thắng 3 lần và 1 lần điểm bình được thưởng 1 chiếc áo, 2 lần thắng và 2 lần bình được thưởng 6 tiền sử tiền, thắng 1 lần và 3 lần bình được thưởng 3 tiền sử tiền, 4 lần bình được cấp tiền cơm là 20 đồng sử tiền. -Thi đô thí gồm những võ quan tước công, hầu, bá cùng các quan trong kinh ngoài đạo, viên quan nào có trách nhiệm quản lãnh binh sĩ, đều phải hội họp ở kinh đô để dự thi khảo về võ nghệ. Phép thi gồm: +Bắn tên, thi bắn 5 phát tên bằng cung và 5 phát tên bằng tay. Bắn tên bằng tay là làm những tên bằng tre bề dài không đầy 1 vỗ tay, người sử dụng thường để những chiếc tên này trong áo giáp, khi gặp quân địch sẽ tung ra hàng trăm chiếc tên rồi vung roi cho bắn đi, có khi lấy ngón tay kẹp luôn mấy chiếc tên mà phóng ra. +Đấu khiên, khiên là một thứ binh khí thời cổ, thường gọi là "thuẩn" hay "lá khiên", "mộc", "lá chắn", thường đươc chế bằng tre, bằng mây, hoặc bằng gỗ, làm hình như cái chảo, khi đánh nhau bên này dùng để đỡ mũi tên hoặc giáo mác của bên kia. +Thưởng phạt, nếu trúng 8 lần đến 10 lần là thượng cấp, trúng 6-7 lần là trung cấp, trúng 4-5 lần là hạ cấp, trúng 2-3 lần thì không thưởng không phạt, trúng 1 lần hay không trúng lần nào thì sẽ phạt (không rõ khen thưởng và phạt như thế nào) (95). Ở Đàng Ngoài, năm 1724 chuẩn định phép thi võ 3 năm một kỳ và gồm 2 loại: sở cử thi vào các năm tý, ngọ, mão, dậu; bác cử thi vào các năm thìn, tuất, sửu, mùi. Thi đậu sở cử mới được vào thi bác cử.

(

95

)Tổ chức chính quyền Trung ương dưới triều Lê Thánh Tông, Sđd, trang 156-157. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

103


-Thi sở cử: gồm tất cả thuộc viên ở ngoại binh, võ sinh ở các đội thị nhưng, những người tài giỏi trong nước, các quân sĩ có học tập võ nghệ.Phép thi là: hỏi qua về đại nghĩa trong Tôn tử thập tam thiên, hơi thông hiểu mới được vào thi võ nghệ. Thứ nhất thi đấu giáo trên ngựa, thứ hai thi đấu gươm và mộc, thứ ba thi múa đao. Ai trúng được làm sinh viên, hoặc biền sinh (dùng cho quan viên tử tôn). Lại thi về phương lược, nếu lại trúng thì làm học sinh hoặc biền sinh hợp thức, Những hạng này năm sau vào thi bác cử. -Thi bác cử: Trường nhất hỏi qua về ý nghĩa của thất thư (7 bộ binh thư: Tôn tử, Ngô tử, Lục thao, Tư mã pháp, Hoàng thạch công tam lược, Uất liểu tử, Lý vệ công vấn đối). Trường nhì xét sức vóc chia hạng ra để đấu võ từng hiệp. Trường ba có bài văn sách hỏi qua loa. Trúng cách thì gọi là trúng đệ tam trường, cho vào thi đình ở sân phủ chúa. Hợp cách thì được đỗ Tạo sĩ cho bổ dụng ngang với Tiến sĩ, vào tam trường mà được chọn vào hạng giỏi thì cũng bổ dụng như Tạo sĩ. Năm 1731 sửa đổi cách thi sở cử và bác cử như sau: -Thi sở cử: trúng tam trường là biền sinh. Trúng nhị trường là sinh viên, người nào kỷ thuật và sức khỏe đều vào hạng ưu, mỗi khoa chọn lấy hơn 20 người cho được dự thi bác cử như biền sinh. Được dự thi sở cử gồm từ chức đội trưởng binh thị hậu và chánh đội trưởng binh ngoại trở xuống, sinh viên, cùng là những người tài giỏi trong nước. -Thi bác cử: dự thi gồm các quản binh xuất thân từ chánh phó đội trưởngbinh thị hậu trở lên, các tùy viên thuộc hiệu, các biền sinh. Trường nhất thi giương cung và múa đao chia làm 3 bực, ai giỏi là trúng (cung dùng thứ sức cứng bằng 55 cân hoặc 45 cân, phải giương đẩy sức, đao thì dùng thứ nặng 30 cân, 27 cân, 24 cân, múa phải vung như hoa). Trường nhì thi đấu đao, gươm, đấu giáo trên ngựa, về cung thì thi bắn trên ngựa và bắn bộ mỗi thứ 1 tao (bắn trên ngựa thì dựng 3 cái đích cách nhau 100 bước, phóng ngựa thật nhanh và bắn 3 phát, trúng đích 2 tên là hạng ưu, trúng 1 tên cũng được, bắn bộ thì dựng một cái đích cách 80 bước, bắn 5 phát tên, được 8-9 tiếng điêu (96) là hạng ưu, 6-7 tiếng điêu là hạng thứ, 4-5 tiếng điêu là hạng thứ nữa. Còn thi 5 nghề đao, kiếm, kích, giáo, mộc, trước hết múa đao, mộc, và gươm dài, thứ đến đấu kích, thứ nữa đấu giáo bộ, sau cùng đấu giáo ngựa. Tùy theo sức vóc từng người chia hạng cho đấu với nhau, lấy trình độ kỷ thuật tinh giỏi mà định hơn kém, lấy đổ hay đánh hỏng. Trường ba thi một bài văn sách, đầu đề hỏi qua về thất thư để xem sức học, và hỏi kỷ về phương lược để biết tài năng. Trúng 3 trường là Tạo sĩ, trúng 2 trường cũng chiếu lệ bổ dụng, gián hoặc có người trường ba tuy không được đỗ mà kỷ thuật, sức khỏe ở vào hạng ưu thì mỗi khoa chọn lấy 10 người cho bổ dụng như Tạo sĩ. Ban mũ áo cho Tạo sĩ thì quan Binh bộ chiếu theo ngày Tư thiên giám đã chọn, tư cho Công bộ sắm sửa mũ áo, làm bảng để ban, Lễ cho ăn

(

96

)Điêu là thứ hiệu lệnh làm bằng đồng, quân đội dùng đánh báo hiệu cũng như trống canh. Viên khảo

thí xem bắn trúng nhiều hay ít mà định hạng, lấy số tiếng điêu để phân biệt các hạng ưu, thứ, hựu thứ. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

104


yến thì Binh bộ theo ngày đã định tâu lên, lại khải với chúa để lĩnh tiền ở Hộ phiên, và nhận ban chiếu trắng để chuẩn bị, treo bảng để ban yến (97) Dưới triều Nguyễn, vua Minh Mạng có dụ rằng những người vũ nghệ giỏi dang, có sức khỏe, lại biết thao lược thì phải kén lấy cho rộng để đủ cung sử dụng, nên đặt khoa võ cử. Những năm dần, thân, tỵ, hợi mở khoa thi hương võ, những năm tý, ngọ, mão, dậu mở khoa thi hội võ. *Thi hương võ gồm kỳ đệ nhất thi xách quả tạ và múa côn sắt, kỳ đệ nhị thi đánh côn gổ, đánh đao, kỳ đệ tam thi bắn súng. Các kỳ đều chia ra ưu, bình, thứ, và liệt. Ba kỳ đều trúng tuyển cho là võ cử nhân, hai kỳ đều trúng cho là võ tú tài. Các võ cử nhân, đến ngày phúc hạch rồi xướng danh, sẽ hỏi về các sách võ nghệ, ai thông hiểu sách thao lược thì lúc yết bảng sẽ để vào hạng đỗ trên. *Thi hội võ, cũng theo phép thi như kỳ hương võ. Ba kỳ cùng trúng tuyển chuẩn cho là trúng cách thi hội. *Thi đình võ: những võ cử nhân trúng cách thi hội, người nào thông hiểu chữ nghĩa thì được vào thi đình. Quyễn văn thi đình mà phân số được nhiều sẽ cho đỗ võ tiến sĩ, còn người nào không được dư phân số, và những người chỉ biết võ nghệ mà thôi, thì miễn vào thi đình, được vào hạng võ phó bảng (98). Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có các Ông: -Phan Đức Liệu (3/10), Lãnh binh. -Phan Đức Phụng (3/11), Lãnh binh Trong hai Ông thì chắc chắn là Ông Phan Đức Phụng đã đổ võ cử nhân vì Phổ hệ có ghi là cử nhân, lãnh binh. Còn Ông Phan Đức Liệu thì chưa có dữ liệu để khảo cứu, nhưng cũng có thể tin là Ông cũng đã đổ võ cử , vì chức vụ Lãnh binh là một chức võ quan cao cấp thuộc hàng tam phẩm, trong khi triều Nguyễn đã tổ chức thi võ cử , nếu không thi đỗ vào những kỳ thi này thì tôi nghĩ khó có thể được phong chức lãnh binh. Ngoài những khoa thi chọn người tài giỏi đỗ cử nhân trở lên ra làm quan giúp như đã nêu trên, trong thời kỳ Pháp thuộc, việc học và ra làm quan tại nước ta còn có ở những trường sau đây (99): -Trường Quốc học thành lập năm Thành Thái thứ 8 (1896) tại kinh đô Huế, về sau đổi thành trường Thành chung (giống như trường Bưởi ở Bắc) chuyên dạy chữ và nói tiếng Pháp nhưng vẫn không bỏ hẳn chữ Hán. Học sinh có độ tuổi từ 15 đến 20 tuổi. Trẻ con từ 8 đến 15 tuổi nếu cha mẹ có đơn xin vào học thì đặt học ở lớp ngoại ngạch (lớp phụ). -Trường Hậu bổ được thành lập vào đời vua Thành Thái, nhận học sinh bao gồm: +Cử nhân hoặc tú tài chữ Hán. ( 97)Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, trang 49-50. ( 98)Đại Nam điển lệ toát yếu, Sđd, trang 471. ( 99 ) Đại Nam điển lệ toát yếu, Sđd, trang 353.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

105


+Ấm sinh. +Cả hai loại học sinh nầy phải ở trong độ tuổi từ 18 đến 35 tuổi. Mỗi năm, cứ cuối niên học thì được sát hạch lên lớp một lần, học sinh nào không đủ điểm số thì phải học lại 1 năm nữa mà không được cấp học bỗng hay ban thưởng, cuối năm sau sát hạch lại mà vẫn không lên lớp được thì bị loại, không cho học nữa. Học đủ 3 năm sẽ có hội đồng khảo thí, ai trúng tuyển sẽ được cấp văn bằng tốt nghiệp. Các học sinh sẽ chiếu theo điểm số bài thi mà xếp đặt trên dưới, khi có khuyết chức tri huyện sẽ theo thứ tự mà bổ ngay, nếu chưa có khuyết thì làm việc tại tỉnh. Học sinh thi tốt nghiệp không đủ điểm số nhưng xét ra trong thời gian học tập vốn là người siêng năng cẩn thận sẽ được gia ân bổ Huấn đạo hàm Điển bạ, nếu chưa có khuyết chức Huấn đạo thì cho làm hậu bổ tại tỉnh. Việc sơ bổ những học sinh trường Hậu bổ theo lệ đều được bổ tri huyện, học sinh cử nhân thì được bổ tri huyện hạng hai hàm Kiểm thảo, học sinh tú tài và ấm sinh được bổ tri huyện hạng ba hàm Điển tịch, tất cả đều phải tập sự 2 năm ở văn phòng quan Tổng đốc hay Tuần phủ, thời kỳ tập sự này gọi là Hậu tuyển tri huyện. Hết hạn tập sự 2 năm mới được bổ làm tri huyện, nhưng phải đợi khi có khuyết chức tri huyện thì mới được xét bổ, chọn những người đỗ trên trước, đỗ dưới sau. Nếu chưa có khuyết chức tri huyện thì vẫn được ăn lương tri huyện và vẫn làm việc tại văn phòng quan đầu Tỉnh. 31.-CỬU PHẨM: Cửu phẩm có hai nghĩa, nghĩa thứ nhất là 9 bậc trong quan chức các triều đại, nghĩa thứ hai là bậc thứ 9 trong 9 bậc quan chức ấy A-9 bậc trong quan chức: Quan chức ở mỗi triều đại đều có thay đổi để thích ứng với thời kỳ đó, ngay cả trong một đời vua cũng có những thay đổi như vua Minh Mạng năm 1831 đặt Lãnh binh các xứ Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Nội, Nam Định, Hải Dương, Sơn Tây, Bắc Ninh dùng quan nhị, tam phẩm; lãnh binh các xứ Quảng Bình, Quảng Trị, Ninh Bình, Hưng Yên, Quảng Yên, Hưng Hóa, Tuyên Quang dùng quan tam, tứ phẩm. Năm 1838 lại đặt Phó lãnh binh trật chánh tam phẩm v.v.. Sử sách còn để lại cho thấy quan chức qua các triều đại trong lịch sử Việt nam như sau: a/Triều Đinh: Năm 971 bắt đầu định giai phẩm các quan văn võ, có các chức Đô hộ sĩ sư, Tướng quân, Nha hiệu (như Lưu Cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư, Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân, Giang cự Vọng làm Nha hiệu). Lại định giai phẩm các tăng và các đạo sĩ, có các danh hiệu đại sư, tăng lục, đạo sĩ, sùng chân uy nghi (như tăng thống Ngô Chân Lưu cho hiệu là Khuông Việt đại sư. Trương Ma Ny làm Tăng lục đạo sĩ, Đặng Huyền Quang chức Sùng chân uy nghi). b/Triều Tiền Lê: Vua Lê Đại Hành đặt quan có các chức Thái sư, Thái úy, Tổng quản, Đô chỉ huy sứ (như Hồng Kính làm Thái sư, Phạm Cự Lượng làm Thái úy, Từ Mục làm Đại tổng quản trị quân dân, Đinh Thừa Chính làm Nha nội đô chỉ huy sứ...) c/Triều Lý: có các chức sau đây: +Thái sư, Thái phó, Thái bảo (theo tam công hay tam thái nhà Chu) +Thái úy nắm binh quyền. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

106


+Tư không, Thiếu phó, Thiếu bảo (theo tam thiếu nhà Chu, bỏ thiếu sư) +Thiếu úy coi cấm binh. +Bình chương quân quốc trọng sự, Đồng bình chương quân quốc trọng sự: như Tể tướng. +Tả hữu tham tri chính sự: chức cùng bàn chính sự với Tể tướng. +Thượng thư sảnh (theo chế độ nhà Đường, Tống), chức quyền không cao lắm, chỉ đặt hai chức tả hữu lục bộ trông coi 6 bộ, trong sử chép có các chức Thượng thư, Tả hữu bộc xạ, Tả hữu thị lang, Lang trung. +Trung thư sảnh (theo chế độ nhà Tống) là quan thự ở gần vua, chuyên dự nghĩ mọi việc để tâu lên vua, vâng truyền mệnh lệnh, đề nghị cải cách, tuyển bổ các quan, có các chức Trung thư thị lang, Trung thư xá nhân. +Khu mật sứ, Tả hữu khu mật sứ: từ đời Tống đặt Khu mật viện đối lập với Trung thư sảnh, giúp vua nắm binh chính, với Trung thư sảnh giữ hai quyền văn võ. +Tả hữu phúc tâm thị lang (nhà Tống không có chức này), theo chữ nghĩa mà xét là chức quan gần vua, có lẽ thuộc Trung thư sảnh. +Ngự sử đài: quan thự giữ việc đàn hặc các quan, có các chức Ngự sử đại phu, Gián nghị đại phu, Ngự sử trung thừa, Trung thư xá nhân. +Nội thị sảnh: quan thự giữ việc hầu cận nhà vua, có các chức Cung điện lệnh, Tri nội ngoại sự, Phán thủ đô áp nha, Hành điện nội ngoại đô tri sự, Nội thị nội thường thị. +Văn minh điện học sĩ: chức quan của Nội thị sảnh. Hàn lâm học sĩ; chức quan của Hàn lâm viện, theo chế độ nhà Tống thì thuộc Nội thị sảnh, giữ việc soạn thuật lời chế của vua. +Thập (10) thư gia: chỉ còn biết có các chức Nội hỏa thư gia, Ngự khố, Chi hậu, Lệnh, Phụng ngự. Lê qúy Đôn nói thư gia cũng như lại điển, có công nhiều thì được tuyển bổ chính thức. Đặng Xuân Bảng nói thư gia là chức hầu cận, như Nội hỏa giữ việc ngự thiện (nấu ăn cho vua); đời Lý Thần Tông, Lệnh là Doãn Anh Kiệt sang nước Tống đáp lễ thăm, Phụng ngự là Tào Công Tín được thăng Tả ty lang trung, như thế thì không phải là chức lại điển mà là chức quan cao. +Đình úy: giữ việc hình án, có lẽ thuộc hình bộ của thượng thư sảnh, +Đô hộ phủ sĩ sư: giữ việc xét các án còn ngờ. +Phò mã lang: tức Phò mã đô úy, lấy công chúa. +Đông tây thượng cáp môn sứ: giữ việc lễ nghi. +Đô thống nguyên súy, Đại nguyên súy: chức của Thái tử, đặt bất thường. +Kinh sư lưu thủ: khi nào vua ra ngoài thì chọn một thân vương đại thần giao cho ở lại coi giữ kinh đô. +Điện tiền đô chỉ huy sứ, phó sứ: coi các ban trực ở trước điện.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

107


+Các vệ bảo vệ quanh vua có các chức: Tả hữu kim ngô vệ thượng tướng, Kim ngô đô lãnh binh sứ, Tả hữu vũ vệ tướng quân, Hàm vệ, Đinh thắng đại tướng quân, Đại tướng quân, Tướng quân. +Châu mục: coi các châu ở dọc biên giới. +Tri châu, Thông phán, Tổng quản: các chức quan của châu. +Tri phủ, Tri phủ sự, Phán phủ sự: các chức quan của phủ. +Hành khiển: quan ở kinh sư. d/Triều Trần: +Kiểm hiệu đặc tiến khai phủ nghi đồng tam ty bình chương sự (nghi đồng tam ty nghĩa là nghi thức ngang với nghi thức của tam ty hay tam công, bình chương sự nghĩa là xếp đặt cho tốt đẹp): chức Tể tướng. Đây là hàm gia thêm cho các Tôn Thất vào chính phủ, hoặc ba chức thái, thái úy, tư đồ, tả hữu tướng quốc. +Thái sư, Thái phó, Thái bảo, Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo, Tư đồ, Tư mã, Tư không: là trọng chức của các đại thần văn võ. +Tham tri chính sự: chức thứ tướng, lấy Thị lang hay Gián nghị đại phu cho làm. +Trung thư sảnh, có Trung thư lệnh, Thị lang, Tả hữu gián nghị đại phu, Tả hữu chính ngôn, Tả hữu tham nghị, giữ việc đề nghị các việc lên vua và vâng tuyên mệnh lệnh. +Môn hạ sảnh, vốn là Quan triều cung hành khiển ty, đến đời Thiệu Phong (1341-1357) thì đổi tên này, có các chức Hành khiển, Tả hữu ty lang trung, Viên ngoại lang, giữ việc vâng theo lệnh chỉ của vua. +Thượng thư sảnh, vốn là Thánh từ cung hành khiển ty, có các chức Hành khiển, Tả phù, Hữu bật, Tả hữu bộc xạ, Bộ thượng thư, Tả hữu ty lang trung, Viên ngoại lang, giữ việc vâng theo lệnh chỉ của thượng hoàng. +Tuyên huy viện, có đại sứ và phó sứ, giữ sổ sách các ty, các ban trong cung, cùng việc tế tự triều hội. +Thẩm hình viện, có chức Đại lý chính, khi trọng án đã thành, viện này định tội, lệ vào Hình bộ. +Bí thư sảnh, có chức Bí thư giám, Hiệu thư, giữ việc kinh tịch đồ thư, quốc sử thực lục, thiên văn nhật lịch. +Quốc sử viện, có chức Đề điệu, Giám tu quốc sử. +Tập hiền viện, có chức Học sĩ. +Thái sử cục, có chức Thái sử lệnh, Thì hậu nghi lang, vốn là Tư thiên giám đổi tên. +Tam quán học sinh, có chức Chính chưởng và gồm Thái học sinh, Thị thần học sinh, Tướng phủ học sinh. +Nội thị sảnh, có chức Nội thị, Thiên chương các học sĩ, giữ việc hầu vua và tuyên chế lệnh. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

108


+Hàn lâm viện, có chức Học sĩ, Học sĩ thừa chỉ. +Các cục chi hậu, mỗi cục có Chánh chưởng và Phán thủ, lấy vương hầu Tôn Thất cho làm. +Mười thư gia, có chức Chánh chưởng, là quan trong nội điện. +Nội lệnh sử, chức thuộc Môn hạ sảnh. +Ngự sử đài, có chức Ngự sử đại phu, Ngự sử trung tán (tức trung thừa, vì tránh húy cha vua Trần Thái Tông - tên là Trần Thừa - nên đổi làm trung tán) +Nội mật viện, tức là Khu mật viện triều Lý. +Lưu thủ: ở kinh sư và phủ Thiên trường đều đặt, do các hoàng tử làm trong khi vua ra ngoài. +Phiêu kỵ thượng tướng quân: chức của hoàng tử. +Điện suý đô áp nha thống chế: coi các quân ngự tiền. +Các vệ Hoàn vệ, tức cấm quân, có các vệ Cẩm y, Vũ vệ, Thân vệ, Bỗng thần,Thiên ngưu, Kim ngô, có chức Tả hữu đại tướng quân, Tướng quân, Giám quân, (Đại đội trưởng, Phó đô tướng quân, Phủ quân tướng quân, Thủy quân đô tướng, Hộ quân đô tướng). +Trung đô, tức kinh sư, có chức Đại doãn, Tổng quản, Đại an phủ sứ. +Phủ Thiên trường,(tức hương Tức mặc, quê hương triều Trần) có chức Thái phủ, Thiếu phủ, Tri phủ sứ. +Các lộ có chức An phủ sứ, An phủ phó sứ, Chuyển vận sứ, Đề hình ty, Tào vận ty, Hà đê chánh phó sứ, Khuyến nông ty, Đồn điền sứ, Đồn điền phó sứ, Thủy lộ đề hình, Phòng ngự sứ (đặt dọc biên giới), Kinh lược sứ (đặt khi có việc), Liêm phòng sứ, Đô đốc, Đô hộ, Tổng quản, Đốc học, Tiết độ sứ. +Các phủ có Tri phủ, Trấn phủ sứ. +Các châu có Tri châu, Tào vận sứ, Thông phán, Thiêm chế, Giáo thụ. +Các huyện có Tri huyện, Chuyển vận sứ, Tuần sát, Lệnh úy, Chủ bạ. +Các trại có Trại chủ. +Các xã có Đại tư xã, Tiểu tư xã, Xã chính, Xã sử, Xã giám. e/Triều Hồ: cũng theo quan chức triều Trần, có thêm chức Đăng văn triều chính, Phong quốc giám quản cán, Đại lý tự phán chính, Quảng tế thự thừa thuộc, Hương đình quan. g/Thuộc Minh: có 3 ty: Đô tổng binh ty (có chức Tổng binh sứ, Tổng binh thiêm sự), Bố chính ty (có chức Bố chính sứ, Tả hữu tham nghị), Án sát ty (có chức Án sát sứ). Phủ châu huyện thì có chức Tri phủ, Đồng tri, Tri huyện. Các thành, đồn thì đặt Chỉ huy, Thiên hộ. h/Triều Lê sơ: Lê Thái Tổ khi mới dựng nước, đặt quan có các chức Bình chương, Đại tư đồ, Đại tư không, Đại tư mã, Khu mật đại sứ, Thiếu úy, Thượng tướng, Đại tướng, Á hầu, Thông hầu, Quan phục hầu, Trước phục hầu. Khi đến Đông đô (1426), có các chức Bộc xạ,Thị trung, Thiếu bảo, Hành khiển, Thượng thư, Hàn lâm, Tổng tri, Kiêm tri quân dân bạ tịch, Mật viện đại sứ, Mật viện Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

109


phó sứ, Thiêm tri, Thiêm sự, Lang trung, Viên ngoại lang, Hàn lâm viện thừa chỉ, Hàn lâm viện học sĩ, Hàn lâm viện đãi chế, Chủ thư thị sử, Chủ thư sứ, Nội lệnh sử, Quốc tử bác sĩ, Thẩm hình viện sứ, Thẩm hình viện phó sứ, Phán đại lý chính, Tổng lĩnh, Đốc quản, Chánh đốc, Chấp lệnh, Giám quân, QuÁn sát sứ, Phòng ngự sứ, Tuyên úy sứ, An phủ sứ, Tuần kiểm sứ, Thủ ngữ sứ, Đoàn luyện sứ, Quân sư... Sau khi dẹp yên giặc Minh có các chức Tướng quốc, Thái úy, Thái bảo, Tổng quản, Đô tổng quản, Đồng tổng quản, Hành khiển, Tham tri, Đồng tri, Chủ bạ, Tri phủ, Tuần phủ sứ, An phủ sứ, Tuyên phủ sứ, Chiêu thảo sứ, Tuần án, Chuyển vận sứ, Đại tổng quản, Đại đô đốc, Đô đốc, Đồng tổng binh, Điện tiền đô kiểm điểm, Điện tiền đô áp nha, Điện tiền đô chỉ huy sứ, Điện tiền chỉ huy sứ, Tứ sương chỉ huy sứ, Tổng hạt, Phụng tuyên sứ. Lê Thánh Tông đặt quan chức 9 bậc như sau: (100) *Văn ban: +Chánh nhất phẩm: gồm tam thái là Thái sư, Thái phó, Thái bảo. Đây là những đại thần xứng đáng để nhà vua lấy đó làm gương mà bắt chước theo, họ không có nhiệm vụ nào nhất định. Thăng thụ là Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu, gia thụ là Đặc tiến Khai phủ vinh lộc đại phu. +Tòng nhất phẩm: gồm thái tử tam thái là Thái tử thái sư, Thái tử thái phó, Thái tử thái bảo. Nhiệm vụ cũng giống như tam thái nhưng hầu cận bên thái tử. Thăng thụ là Sùng tiến tuyên lộc đại phu, gia thụ là Ngân thanh tuyên lộc đại phu. +Chánh nhị phẩm: gồm tam cô là Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo, giúp đỡ công việc cho tam thái. Sơ thụ là Quang tiến đại phu, thăng thụ là Quang lượng đại phu, gia thụ là Quang khiêm đại phu. +Tòng nhị phẩm: gồm -Thượng thư: quan đứng đầu một bộ. -Thái tử tam thiếu: Thái tử thiếu sư, Thái tử thiếu phó, Thái tử thiếu bảo, nhiệm vụ giống tam cô nhưng hầu cận bên thái tử. Sơ thụ là Phụng trực đại phu, thăng thụ là Phụng công đại phu, gia thụ là Phụng huấn đại phu. +Chánh tam phẩm: gồm -Tôn nhân phủ tôn nhân lệnh: quan đứng đầu Tôn nhân phủ. -Đô ngự sử: quan đứng đầu Ngự sử đài. -Tả hữu thứ tử: quan đứng đầu Tả hữu xuân phường. Sơ thụ là Thông chương đại phu, thăng thụ là Thông lễ đại phu, gia thụ là Thông nghị đại phu. +Tòng tam phẩm: gồm -Tả hữu thị lang: đứng hàng thứ nhì ở các bộ, giúp việc cho thượng thư. -Tôn nhân phủ Tả hữu tôn chính: đứng hàng thứ nhì ở Tôn nhân phủ. (

100

)Tổ chức chính quyền trung ương dưới triều Lê Thánh Tôn, Sđd, trang 102-114. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

110


-Tả hữu dụ đức: chức quan thuộc Tả hữu xuân phường có nhiệm vụ nhắc nhở thái tử noi theo đạo đức, khuyên răn thái tử làm điều thiện, và tùy cơ hội mà giúp đỡ thái tử. -Thừa chính sứ: đứng đầu Thừa ty tại các đạo. Sơ thụ là Gia hạnh đại phu, thăng thụ là Gia tích đại phu, gia thụ là Gia thông đại phu. +Chánh tứ phẩm: gồm -Hàn lâm viện thừa chỉ: đứng đầu Viện hàn lâm. -Phó đô ngự sử: đứng thứ nhì ở Ngự sử đài. -Tả hữu trung doãn: quan tại Tả hữu xuân phường. -Tả hữu xuân phường: quan coi giữ sách vỡ tại Tả hữu xuân phường. Sơ thụ là Trung trinh đại phu, thăng thụ là Trung huệ đại phu, gia thụ là Trung thuận đại phu. +Tòng tứ phẩm: gồm -Quốc tử giám tế tửu: đứng đầu Quốc tử giám. -Đông các đại học sĩ: đứng đầu Đông các. -Tả hữu tán thiện: quan giúp việc tại Tả hữu xuân phường. -Thông chính sứ: quan đứng đầu Thông chính ty. -Tham chính: đứng thứ nhì sau Thừa chính sứ ở Thừa ty. Sơ thụ là Triều liệt đại phu, thăng thụ là Triều đoan đại phu, gia thụ là Triều tỉnh đại phu. +Chánh ngũ phẩm: gồm -Hàn lâm viện thị độc: đứng hàng thứ nhì trong Viện hàn lâm, phụ trách việc đọc sách, tham khảo. -Thiêm đô ngự sử: đứng hàng thứ ba trong Ngự sử đài. -Tự khanh 6 tự: là chức nhiệm chứa giữ (tập trung chứa giữ các văn án, dịch theo chữ “trù súc chi nhiệm”), duy có Hồng lô tự giữ việc xướng danh thi đình, Thượng bảo tự đóng ấn quyển thi hội, còn các tự khác không rõ chức vụ chuyên trách. -Chiêm sự viện chiêm sự: đứng đầu Chiêm sự viện. -Phụng thiên phủ doãn: giữ nhiệm vụ đàn áp những kẻ quyền quý, cường hào; xét xử những vụ kiện do huyện quan xử mà kêu lại ở bản hạt, cùng là khảo xét thành tích của quan lại, khảo luận sĩ tử trong các kỳ thi hương, và các việc khác thì cứ theo lệ phụng hành. -Thiêm sự: chức quan có tên mà không có nhiệm vụ, không phải làm gì, chỉ dùng để trao cho những người trúng trường và tạp lưu. -Thái y viện đại sứ: quan đứng đầu Viện thái y. Sơ thụ là Hoằng tín đại phu, thăng thụ là Hoằng trí đại phu, gia thụ là Hoằng nghĩa đại phu. +Tòng ngũ phẩm: gồm

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

111


-Hàn làm viện thị giảng: đứng hàng thứ ba trong Viện hàn lâm, phụ trách giải thích, bình luận, chú thích các văn thư, thơ, ca, chế, biểu. -Hàn lâm viện thuyết thư: coi việc giảng nghĩa kinh sách. -Quốc tử giám tư nghiệp: đứng thứ nhì ở Quốc tử giám. -Đông các học sĩ: giúp việc cho Đông các đại học sĩ. -Tham nghị: đứng hàng thứ ba ở Thừa ty ngoài các đạo. -Chính truyến phó thông chính: đứng thứ nhì ở Thông chính ty. -Chiêm sự viện thiếu chiêm sự: quan chức ở Chiêm sự viện. -Bí thư giám học sĩ: đứng đầu Bí thư giám. -Thái y viện viện sứ: đứng thứ nhì ở Viện thái y. Sơ thụ là Hiển cung đại phu, thăng thụ là Hiển lượng đại phu, gia thụ là Hiển huệ đại phu. +Chánh lục phẩm: gồm -Hàn lâm viện thị thư: quan chức trong Viện hàn lâm, giữ việc biên chép các văn thư. -Đông các hiệu thư: quan chức ở Đông các, giữ việc kiểm sát, xem xét lại những bài chế, biểu, thơ, ca...do Đông các đại học sĩ phụng mệnh sửa chữa. -Trung thư giám xá nhân: đứng đầu Trung thư giám. -Lang trung 6 bộ: giữ việc văn thư, đứng thứ ba ở 6 bộ. -Thiếu khanh 6 tự: đứng thứ nhì ở các tự. -Phụng thiên thiếu doãn: giúp việc cho Phụng thiên phủ doãn. -Hiến sát sứ: đứng đầu Hiến ty ngoài các đạo. -Đoán sự các vệ: quan chức ngoại nhiệm. -Kinh lịch 5 phủ: quan chức ngoại nhiệm. -Thái y viện ngự y chánh: thầy thuốc riêng của nhà vua. Sơ thụ là Mậu lâm lang, thăng thụ là Tuấn lâm lang, gia thụ là Đức lâm lang. +Tòng lục phẩm: gồm -Hàn lâm viện đãi chế: quan ở Viện hàn lâm. -Bí thư giám điển thư: đứng thứ nhì ở Bí thư giám. -Trung thư giám điển thư: đứng thứ nhì ở Trung thư giám. -Tả hữu tư giảng ở các vương phủ: giữ việc giảng dạy kinh nghĩa. -Viên ngoại lang 6 bộ: giữ việc văn thư, giúp việc cho Lang trung. -Tri phủ: đứng đầu một phủ. -Thái y viện ngự y phó: thầy thuốc riêng của nhà vua. Sơ thụ là Mậu lâm tá lang, thăng thụ là Tuấn lâm tá lang, gia thụ là Đức lâm tá lang. +Chánh thất phẩm: gồm -Hàn lâm viện hiệu lý, Hàn lâm viện đãi chiếu: quan ở Viện hàn lâm. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

112


-Đề hình giám sát ngự sử: quan ở Ngự sử đài trông coi về việc hình án do Ngự sử đài khám đoán. -Giám sát ngự sử ở 13 đạo: quan đại diện của Ngự sử đài ở ngoài các đạo, có nhiệm vụ xét hỏi các vụ kiện thuộc đạo của mình do Ngự sử đài duyệt lại, xong đệ trình lên quan bản đài xét xử. -Đô cấp sự trung 6 khoa: đứng đầu các khoa. -Tự thừa 6 tự : đứng hàng thứ ba ở các tự. -Phụng thiên huyện úy: đứng đầu huyện ở kinh thành, chịu sự điều khiển trực tiếp của Phụng thiên phủ doãn. -Trưởng sử các vương phủ: đứng đầu văn phòng trông coi về văn thư cho các vương phủ. -Hiến sát phó sứ: quan giúp việc cho Hiến sát sứ. -Thái y viện biện kiểm: giữ việc bàn bạc, kiểm sát về y sự. Sơ thụ là Cẩn sự lang, thăng thụ là Kính sự lang, gia thụ là Thừa sự lang. +Tòng thất phẩm: gồm -Hàn lâm viện kiểm thảo: quan chức Viện hàn lâm, giữ việc kiểm thảo giấy tờ. -Thông phán ở 2 huyện Vĩnh xương và Quảng đức: giúp Phụng thiên huyện úy trông coi việc quân, dân, tiền lương. -Bí thư giám điển hàn: quan chức trong Bí thư giám. -Tri huyện: đứng đầu một huyện. -Tri châu: đứng đầu một châu. -Tế sinh đường sứ: giữ việc mua thuốc cho nhân dân. Sơ thụ là Cẩn sự tá lang, thăng thụ là Kính sự tá lang, gia thụ là Thừa sự tá lang. +Chánh bát phẩm: gồm -Tư huấn ở 3 quán: quan giảng dạy văn sách ở Sùng văn quán, Chiêu văn quán, và Tú lâm cục. -Ngũ kinh giáo thụ: quan giảng ngũ kinh ở Quốc tử giám. -Quốc sử viện tu soạn: đứng đầu Quốc sử viện. -Cấp sự trung 6 khoa: đứng thứ nhì ở 6 khoa. -Tế sinh đường khán chẩn: giữ việc xem mạch, chẩn bệnh. Sơ thụ là Tiến công lang, thăng thụ là Hiệu công lang, gia thụ là Định công lang. +Tòng bát phẩm: gồm -Sử quán biên lục: quan chép sử ở Quốc sử viện. -Tư vụ ở 6 bộ: đứng đầu Tư vụ sảnh ở 6 bộ. -Chiếu ma ở Ngự sử đài: quan biên chép giấy tờ ở Ngự sử đài. -Kinh lịch: đứng đầu Kinh lịch ty ở Ngự sử đài. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

113


-Điển nghĩa ở 3 quán: coi việc tra kinh điển và kinh nghĩa ở 3 quán thuộc Hàn lâm viện. -Sở sứ các sở Đồn điền, Tàm tang: đứng đầu Sở đồn điền và Sở tàm tang. -Khố sứ: quan trông coi các kho. Sơ thụ là Tiến công thứ lang, thăng thụ là Hiệu công thứ lang, gia thụ là Định công thứ lang. +Chánh cửu phẩm: gồm -Sở sứ sở Thực thái, Điền mục: đứng đầu Sở thực thái và Sở điền mục. -Phó sứ các sở đồn điền, tàm tang: quan giúp việc ở sở đồn điền, sở tàm tang. -Khố sứ ở kho sinh dược: quan coi kho chứa thuốc . -Phó sứ ở các kho : giúp việc quan khố sứ ở các kho. -Ngục thừa :quan đứng đầu án ngục lại thuộc Ngự sủ đài Sơ thụ là Tương sĩ lang, thăng thụ là Đăng sĩ lang, gia thụ là Lập sĩ lang. +Tòng cửu phẩm : gồm -Thuế sứ : những người đi thu thuế -Dịch thừa, Phố chính: quan trông coi về thuế vụ. -Khuyến nông sứ: quan coi việc khuyến nông. -Hà đê sứ: quan coi giữ đê điều. Sơ thụ là Tương sĩ thứ lang, thăng thụ là Đăng sĩ thứ lang, gia thụ là Lập sĩ thứ lang. *Võ ban: +Chánh nhất phẩm: gồm -Tam thái: giống tam thái văn ban (Thái sư, Thái phó, Thái bảo). -Thái úy: đứng đầu tất cả quân đội toàn quốc. Thăng thụ là Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân, gia thụ là Sùng tiến trấn quốc thượng tướng quân. +Tòng nhất phẩm: gồm -Tam cô: Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo, giúp việc cho tam thái. -Tả hữu đô đốc: quan thống lãnh quân 5 phủ. Thăng thụ là Sùng tiến phụ quốc đại tướng quân, gia thụ là Sùng tiến trấn quốc đại tướng quân. +Chánh nhị phẩm: gồm -Thiếu úy: chức quan võ gia phong cho đại thần có công, không có chuyên trách, chỉ có hư hàm. -Đô kiểm điểm: quan giữ cấm quân. -Đề đốc: coi việc quân các doanh ở kinh đô. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

114


-Đô đốc đồng tri: giúp việc cho Đô đốc. Sơ thụ là Chiêu nghị tướng quân, thăng thụ là Chiêu hùng tướng quân, gia thụ là Chiêu dũng tướng quân. +Tòng nhị phẩm: gồm -Đô đốc thiêm sự: giúp việc cho Đô đốc. -Tả hữu kiểm điểm: giúp việc cho Đô kiểm điểm. Sơ thụ là Võ huân tướng quân, thăng thụ là Võ lược tướng quân, gia thụ là Võ nghị tướng quân. +Chánh tam phẩm: gồm -Đô chỉ huy sứ: quan võ điều khiển quân đội. -Đô tổng binh sứ: quan võ đứng đầu Đô ty tại các đạo. Sơ thụ là Anh liệt tướng quân, thăng thụ là Anh túc tướng quân, gia thụ là Anh vĩ tướng quân. +Tòng tam phẩm: gồm -Đô chỉ huy đồng tri: giúp việc cho Đô chỉ huy sứ. -Tổng binh đồng tri: giúp việc cho Đô tổng binh sứ. Sơ thụ là Minh dực tướng quân, thăng thụ là Minh quyết tướng quân, gia thụ là Minh ý tướng quân. +Chánh tứ phẩm: gồm -Đô chỉ huy thiêm sự: giúp việc cho Đô chỉ huy sứ, đứng sau Đô chỉ huy đồng tri. -Chỉ huy sứ: võ quan đứng đầu một ty. -Tổng binh thiêm sự: đứng hàng thứ ba ở Đô ty. Sơ thụ là Hoài viễn tướng quân, thăng thụ là Định viễn tướng quân, gia thụ là An viễn tướng quân. +Tòng tứ phẩm: gồm -Chỉ huy sứ đồng tri: giúp việc cho Chỉ huy sứ, đứng hàng thứ nhì ở ty. -Đô tri: quan coi giữ kho tàng quân dụng. Sơ thụ là Trì oai tướng quân, thăng thụ là Bỉnh oai tướng quân, gia thụ là Quảng oai tướng quân. +Chánh ngũ phẩm: gồm -Chỉ huy thiêm sự: đứng hàng thứ ba ở ty. -Lực sĩ hiệu úy: quan võ ở ty Lực sĩ. -Phó đô tri: giúp việc cho Đô tri. -Tổng lãnh: quan chỉ huy Thiết đột ngũ vệ. -Quản lãnh: quan võ đứng đầu một sở. -Thiên hộ: quan trấn thủ các đồn, thành, cai quản 2.120 quân. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

115


Sơ thụ là Kiện trung tướng quân, thăng thụ là Quán trung tướng quân, gia thụ là Bảo trung tướng quân. +Tòng ngũ phẩm: gồm -Phó thiên hộ: giúp việc cho Thiên hộ. -Phó quản lãnh: giúp việc cho Quản lãnh. -Trung úy: chức quan tuần phòng thuộc các vệ Thần võ, Điện tiền. Sơ thụ là Tráng tiết tướng quân, thăng thụ là Tận tiết tướng quân, gia thụ là Kính tiết tướng quân. +Chánh lục phẩm: gồm -Phó trung úy: giúp việc cho Trung úy. -Chánh võ úy: đứng hàng thứ ba ở các sở. -Bách hộ: quan võ ở dưới hàng Thiên hộ, thuộc các vệ, trông coi sở Bách hộ. Sơ thụ là Phấn lực tướng quân, thăng thụ là Quả lực tướng quân, gia thụ là Chấn lực tướng quân. +Tòng lục phẩm: gồm -Võ úy; quan võ thuộc các sở. -Phòng ngự sứ: quan tuần phòng ở vệ Thành môn. Sơ thụ là Quả cảm tướng quân, thăng thụ là Hùng cảm tướng quân, gia thụ là Cường cảm tướng quân. Rất tiếc là quan chức đời Hồng Đức về võ ban hiện nay sử sách không ghi nhận được các chức vụ từ hàm thất phẩm trở xuống đến cửu phẩm. i/Đàng Ngoài: Gọi là Đàng Ngoài là để phân biệt với Đàng Trong của các chúa Nguyễn, thời kỳ này có thể gọi là triều Lê trung hưng (có sách gọi là Hậu Lê). Xin ghi lại đây quan chức đời Bảo Thái (1720-vua Lê Dụ Tông, chúa An đô vương Trịnh Cương) (101) +Chánh nhất phẩm: Thái sư, Thái úy, Thái phó, Thái bảo. +Tòng nhất phẩm: Thái tử thái sư, Thái tử thái phó, Thái tử thái bảo, Tả hữu đô đốc. +Chánh nhị phẩm: Thiếu sư, Thiếu úy, Thiếu phó, Thiếu bảo, Đô hiệu điểm, Đề đốc, Đô đốc đồng tri, Đề lãnh. +Tòng nhị phẩm: Thượng thư 6 bộ, Thái tử thiếu sư, Thái tử thiếu phó, Thái tử thiếu bảo, Đô đốc thiêm sự, Tả hữu hiệu điểm, Tham đốc, Phó đề lãnh. +Chánh tam phẩm: Đô ngự sử, Tôn nhân lệnh ở Tôn nhân phủ, Lăng chánh, Tả hữu thứ tử, Đô chỉ huy sứ, Đô tổng binh sứ, Tuyên úy đại sứ, Tổng thái giám. (

101

)Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, Quan chức chí, trang 456-459. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

116


+Tòng tam phẩm: Tả hữu thị lang, Tả hữu tôn chánh ở Tôn nhân phủ, Lăng phó, Tả hữu dụ đức, Thừa chánh sứ, Đô chỉ huy đồng tri, Tổng tri, Chỉ huy sứ, Tổng binh đồng tri, Tuyên úy sứ, Đô thái giám. +Chánh tứ phẩm: Hàn lâm viện thừa chỉ, Phó đô ngự sử, Lăng thừa, Tả hữu trung doãn, Tả hữu xuân phường, Đô chỉ huy thiêm sự, Tuyên úy đồng tri, Thái giám. +Tòng tứ phẩm: Đông các đại học sĩ, Quốc tử giám tế tửu, Thông chính sứ, Tham chính, Chỉ huy đồng tri, Tả hữu tán thiện, Chỉ huy thiêm sự, Đô tổng tri, Thiêm tổng tri, Tuyên úy thiêm sự, Thiêm thái giám. +Chánh ngũ phẩm: Hàn lâm viện thị độc, Thiêm đô ngự sử, Tự khanh ở 6 tự, Thiêm sự ở Thiêm sự viện, Thái y viện đại sứ, Phụng thiên phủ doãn, Chỉ huy thiêm sự, Trấn điện tướng quân, Lực sĩ hiệu úy, Thiên hộ, Phó tổng tri, Thống chế, Chánh đô úy, Quản lãnh, Thiên hòa cung cung chánh, Quân dân chiêu thảo sứ, Đồng tri giám sự. +Tòng ngũ phẩm: Hàn lâm viện thị giảng, Đông các học sĩ, Quốc tử giám tư nghiệp, Thái y viện sứ, Tả hữu thuyết thư, Chánh phó thông chánh, Thiếu thiêm sự ở Thiêm sự viện,, Đoán sự, Tham nghị, Phó lực sĩ hiệu úy, Phó thiên hộ, Trung úy, Phó quản lãnh, Lang tướng ở Trung thành binh mã lang tướng ty, Thiên hòa cung cung phó, Chiêu thảo đồng tri, Tả hữu thiếu giám. +Chánh lục phẩm: Lang trung ở 6 bộ, Hàn lâm viện thị thư, Đông các hiệu thư, Trung thư giám xá nhân, Thái y viện ngự y chánh,Tư thiên giám tư thiên lệnh, Thiếu khanh ở 6 tự, Phụng thiên thiếu doãn, Hiến sát sứ, Chánh đề hạt, Phó đoán sự, Phó trung úy, Đô úy, Chánh võ úy, Phó lang tướng ở Trung thành binh mã lang tướng ty, Thiên hòa cung cung thừa, Chiêu thảo thiêm sự, Kinh lược sứ tả hữu thừa. +Tòng lục phẩm: Viên ngoại lang, Hàn lâm viện đãi chế, Trung thư giám, Thái y viện y phó, Tả hữu tư giảng, Thông chính ty thông thừa, Tri phủ, Đề hạt, Tả hữu tiền hậu phó lang tướng, Hiệu úy các nha vệ điện, Kinh lược đồng tri, Phòng ngự sứ, Thiên hòa cung chánh chưởng, Cửu tiên cung chánh chưởng, Sở sứ 6 sở ở Công bộ, Thái quan thự thái quan chánh, Tả hữu đề điểm, Võ úy. +Chánh thất phẩm: Hàn lâm viện hiệu lý, Cáp môn đãi chiếu, Đề hình giám sát ngự sử, Giám sát ngự sử ở các đạo, Trung thư giám chính tự, Tự thừa ở 6 tự, Thái y viện biện nghiệm, Tư thiên giám giám phó, Huyện úy, Đô cấp sự trung 6 khoa, Tư kinh cục, Tẩy mã sở, Hiến sát phó sứ, Đồng tri phủ, Phó đề hạt, Phó đô úy, Phó võ úy, Cáp môn phó, Kinh lược thiêm sự, Phòng ngự đồng tri, Thiên hòa cung phó chưởng. +Tòng thất phẩm: Hàn lâm viện hiệu thảo, Thông phán, Tư kinh cục điển hàn, Tư ngục ở Điện tiền ty Điển ngục sở, Tri huyện, Tri châu, Phòng ngự thiêm sự, Sở thừa ở 6 sở Công bộ, Thái quan thự thự thừa, Phụng tri ngự. +Chánh bát phẩm: Sử quán tu soạn, Tư huấn, Quốc tử giám giáo thụ, Tư thiên giám giám thừa, Cấp sự trung 6 khoa, Giáo phường ty ty chánh, Thừa dụ cục cục chánh, Bào Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

117


chánh, Man di phụ đạo ty phụ đạo chánh, Điển ngục ở Điện tiền ty Điển ngục sở, Thự chánh các thự,Cục chánh (các giám Tuyên đạt, Thượng y, Ngự dụng). +Tòng bát phẩm: Tư vụ 6 bộ, Sử quán biên lục, Ngự sử đài chiếu khán, Điển nghĩa, Cáp môn ty sứ, Ngũ kinh học chánh, Giám bạ, Đại lý tự bình sự, Khố sự thông sự chánh, Tư thiên giám ngũ quan chánh, Tế sinh đường sứ, Phụng thiên phủ trị bình, Thông sự ty diển sự, Thiêm sự viện điển sứ, Bạn độc các phủ, Phủ úy, Vệ úy, Lương y chánh, Đô sự, Kinh lịch, Điển bạ, Tri bạ, Đô quan, Chủ sự, Thôi quan, Huyện thừa, Đồng tri châu, Thừa dụ cục cục phó, Tư ngục ở Ngũ hình ngục sở, Phụ đạo ty ty phó, Giáo phường ty ty phó, Bào phó, Lương uẩn ty tư lễ, Ưng sự cục cục chánh,, Đồn điền sở sứ, Tàm tang sở sứ, Tinh mễ ty sứ, Tuyên đạt cục cục phó, Tượng y cục tượng phó, Điển cửu ty ty chánh, Cục chánh (Chưỡng liễn cục, Điển tàng cục), Lục sự. +Chánh cửu phẩm: Phó sứ các kho, Đề khống, Tôn nhân phủ kiểm hiệu, Hồng lô tự ban, Thông sự phó, Tế sinh đường khán chẩn, Sinh dược khố sứ, Tư thiên giám tư thần lang, Huấn đạo, Thiện y sở thiện y chánh, Giám hộ, Giảng dụ, Khổng mục, Lương y phó, Cáp môn phó sứ, Tri sự ở lăng Lam sơn, Ngục thừa ở Ngũ hình tư ngục sở, Ngục thừa ở Ngự sử đài án ngục sở, Điển thiện ở Điển thiện sở, Ngục thừa ở Thủ ngục sở (các sở thuộc Thừa ty), Thị vệ cục cục chánh, Đồng văn nhã nhạc thự chánh, Lương uẩn cục cục phó, Đồn điền sở phó sứ, Tàm tang sở phó sứ,Chủng trà sở sở sứ, Bách hý tả hữu sở sở sứ, Tăng lục ty tăng thống, Đạo lục ty đạo thống, Điển mục sở sở sứ, Man di trưởng quan ty trưởng quan, Chưỡng liễn cục cục phó, Điển tàng cục cục phó, Trân tu cục cục phó. +Tòng cửu phẩm: Điển mục sở phó sứ, Thị mãi ty ty sứ, Thuế sứ, Độ trưởng và Độ tư ở các bến đò, Thị trưởng và Thị bình ở các chợ, Huyền nghĩa hội môn quán sứ, Đồng văn nhã nhạc thự thự phó, Dịch thừa, Phố chánh, Bách hý tả hữu sở phó sứ, Xiển giáo ty giác nghĩa, Tăng lục ty giác nghĩa, Đạo lục ty diễn pháp, Đàn sứ, Từ thừa, Y học huấn khoa, Khuyến nông sứ các phủ, Hà đê sứ các phủ, Âm dương huấn thuật, Tự chánh các chùa, Tăng đạo chánh, Quán sứ các quán, Man di trưởng quan ty phó trưởng quan, Phó tăng đạo chánh. Cũng giống như quan chức đời Lê Thánh Tông, quan chức đời Bảo Thái về võ ban cũng thiếu từ hàm thất phẩm trở xuống. Theo Lê triều chiếu lệnh thiện chính, còn các chức quan văn võ sau đây : Cai đội, Phó cai đội, Cai thuyền, Chánh đội trưởng, Phó chánh đội trưởng, Cai đạo, An lại, Tướng thần lại, Lệnh sử, Cai ty, Cai hợp, Thủ hợp, Thư tả, Hoa văn học sinh ở tòa Trung thư v.v…(102). k/Đàng Trong: Quan chức dưới thời các chúa Nguyễn ở Đàng Trong không thấy sắp xếp theo 9 bậc như triều Lê và ở Đàng Ngoài, có thể liệt kê được các quan chức sau đây:

(

102

) Sách đã dẫn, các trang 224, 240, 259. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

118


+Văn ban: Quốc phó, Nha úy nội tán, Nội tán, Nội tả,Ngoại tả, Nội hữu, Ngoại hữu, Đô tri, Ký lục, Cai bạ, Nha úy, Tham chính, Tham chính chánh đoán sự, Tham nghị, Lại bộ, Lễ bộ, Binh bộ, Hình bộ, Hộ bộ, Văn chức, Hàn lâm viện, Cai hợp, Câu kê, Thủ hợp, Tri bạ, Tào vận sự, Tri phủ, Tuần phủ, Huấn đạo, Lễ sinh, Cai phủ, Cai tri, Chánh hộ, Khám lý, Chiêm hậu, Đề đốc, Phó đề đốc, Đề lĩnh, Phó đề lĩnh, Tham khám, Tri huyện, Cai án, Ký thuộc, Đế lại phủ, Đề lại huyện, Thư ký phủ, Thư ký huyện, Thông lại phủ, Thông lại huyện, Ký lục dinh, Ký lục phủ, Cai tổng, Cai thuộc, Đội trưởng kho, Cai trường, Cai thu, Duyện lại, Từ thừa, Khán thủ, Xã trưởng, Tri áp, Tướng thần, Cai quan trấn tuần-nguồn, Đề lĩnh kho, Tổng đốc, Chưởng thái giám... +Võ ban: Hữu phủ chưởng phủ sự, Hữu quân đại đô đốc, Tả quân đại đô đốc, Tả quân đô đốc phủ chưởng phủ sự, Trấn phủ, Trấn thủ, Lưu thủ, Đô đốc, Điều khiển, Tổng binh, Chưởng dinh, Tham tướng, Chưởng cơ, Cai cơ, Cai đội, Đội trưởng, Thứ đội trưởng, Thống binh, Thống suất, Giám chiến, Nội tả chưởng cơ, Ngoại tả chưởng dinh, Nội tả cai cơ, Nội hữu cai cơ, Nội hữu cai đội, Khâm sai chánh thống suất đốc chiến, Khâm sai tham tán, Tổng nhung, Tán lý, Thuộc nội cai đội, Nội đội trưởng, Thủ chiến, Khâm sai tham tán, Tổng nhung, Tán lý, Thuộc nội cai đội, Nội đội trưởng, Thủ lăng đội trưởng, Từ đường thứ đội trưởng, Bờ đập thứ đội trưởng…(103). Phần quan chức dưới thời các chúa Nguyễn, tôi chỉ làm nhiệm vụ liệt kê những tên quan chức lần lượt xuất hiện trong các sách, do vậy liệt kê ở sau không hẳn chức vụ nhỏ hơn hay lớn hơn chức vụ được liệt kê ở trước. Quan chức dưới thời này cũng có những tên gọi và chức chưởng rất lạ như các sách đều cho bốn chức nội tả, ngoại tả, nội hữu, ngoại hữu do chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan đặt ra năm 1638 là tứ trụ đại thần, có nghĩa là những chức cao, quan trọng dùng để bàn việc nước nhưng sau đó ta lại thấy có chức Nội hữu cai cơ (như năm 1700 sai Nội hữu cai cơ Tống Phước Tài và Văn chức Trần Đình Khánh đến Quảng Bình và Bố Chánh xem xét hình thể núi sông- (104), thậm chí có chức Nội hữu cai đội (như năm 1715 cho Hoàng tử thứ 8 làm Nội hữu cai đội-(105) trong khi chức Cai cơ và Cai đội là những chức thấp trong quan chức, hay chức Tổng đốc không phải là chức quan cầm đầu một đơn vị hành chánh mà chỉ là một cấp cao của Chưởng thái giám (là chức quan đứng đầu các Thái giám) như năm 1687 thăng Thái giám Ngô Tân làm Chưởng thái giám và thăng Chưởng thái giám Mai Phúc Hòa làm Tổng đốc (106), hoặc Cai bạ và Phó đoán sự là 2 chức vụ khác nhau nhưng năm 1689 lại lấy Tri bạ Trần Đình Ân làm Cai bạ phó đoán sự (107), và các chức Đề đốc, Phó đề đốc, Đề lĩnh, Phó đề lĩnh (

103

)Theo Đại Nam thực lục tiền biên, Sđd; Lê Quý Đôn toàn tập-Tập 1: Phủ biên tạp lục, Sđd;

Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, Trung tâm học liệu Bộ Giáo dục-Sàigòn 1971; Việt sử xứ Đàng Trong của Phan Khoang-Khai Trí Sàigon 1970. (

104

) Đại Nam thực lục tiền biên, Sđd, các trang 133, 141, 156, 185.

(

105

) Đại Nam thực lục tiền biên, Sđd, các trang 133, 141, 156, 185 .

106

) Đại Nam thực lục tiền biên, Sđd, các trang 133, 141, 156, 185.

107

) Đại Nam thực lục tiền biên, Sđd, các trang 133, 141, 156, 185.

( (

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

119


không phải là võ quan mà là ”bản đường quan”, tức là những chức quan trông coi việc thu thuế (108). l/Triều Nguyễn: A-Quan chức đời Gia Long-1804 (109): Sở dĩ ghi lại đây quan chức đời Gia Long là vì có những chức vụ giống như thời các chúa Nguyễn nhưng lại phân thành 9 bậc, vì vậy nếu cần có thể dùng để tham khảo, đối chiếu cho quan chức ở Đàng Trong. *Văn ban: -Lớn hơn chánh nhất phẩm: Tôn nhân lệnh tôn nhân phủ, Thái sư, Thái phó, Thái bảo. -Chánh nhất phẩm: Tả hữu tôn chính tôn nhân phủ, Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo. -Tòng nhất phẩm: Tham chính, Tham nghị, Thị trung đại học sĩ. -Chánh nhị phẩm: Thượng thư 6 bộ, Tả hữu đô ngự sử Đô sát viện. -Tòng nhị phẩm: Tham tri 6 bộ, Tả hữu phó đô ngự sử Đô sát viện, Tán lý. -Chánh tam phẩm: Chánh thiêm sự, Thị trung trực học sĩ, Thị trung học sĩ, Trực học sĩ các điện, Học sĩ các điện, Hiệp trấn các trấn, Cai bạ, Ký lục công đường các dinh. -Tòng tam phẩm: Thiếu thiêm sự, Cai bạ chính dinh, Tham tán các quân Thượng bảo khanh, Tham tán quân Thần sách. -Chánh tứ phẩm: Đốc học quốc tử giám, Thiêm sự 6 bộ, Thượng bảo thiếu khanh, Đông các học sĩ, Tham quân, Tham mưu các dinh, Cai bạ cung Trường thọ, Tham hiệp các trấn. -Tòng tứ phẩm: Phó đốc học quốc tử giám, Tuyên phủ sứ, Tham luận, Thị trung điển quân các dinh, Cai bạ điển quân. -Chánh ngũ phẩm: Tham luận thị nội, Tham luận quân Thần sách, Hàn lâm thừa chỉ, Hàn lâm viện thị giảng, Hàn lâm viện thị độc, Hàn lâm viện chế cáo, Hàn lâm viện thị thư, Hàn lâm viện tu soạn, Đốc học các dinh trấn. -Tản giai chánh ngũ phẩm: Giám chính khâm thiên giám, Ngự y thái y viện, Chánh cai bạ tàu. -Tòng ngũ phẩm: Tham luận các dinh quân, Phó đốc học các trấn dinh, Cai bạ điển quân, Tham luận các biệt đạo. -Tản giai tòng ngũ phẩm: Tri bạ chính dinh, Cai án tri bạ thị trung, Cai án tri bạ thị nội, Thư ký, Cai án tri bạ quân Thần sách, Cai án tri bạ cung Trường thọ, Cai án tri bạ cung Khôn đức, Thư ký cai án tri bạ các quân dinh, Tri bạ tàu, Tham luận trường đà, Cai án tư thiện,

( (

108 109

) Lê Quý Đôn toàn tập-Tập 1: Phủ biên tạp lục, Sđd

) Đại Nam thực lục chính biên của Quốc sử quán triều Nguyễn, Đệ nhất kỷ, Viện Sử học phiên dịch,

Nhà xuất bản Sử học-Hà Nội 1963, trang 180. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

120


Câu kê ty lệnh sử 6 bộ, Cai án tri bạ thuộc Đồ gia, Câu kê ty lệnh sử đồ gia, Câu kê ty lệnh sử tàu, Thư ký cai án tri bạ các trấn dinh, Cai án tri bạ các biệt đạo, Giám phó khâm thiên giám, Ngự y phó thái y viện, Chiêm hậu khâm thiên giám. -Chánh lục phẩm: Tri phủ. -Tòng lục phẩm: Thị thư viện, Cống sĩ viện. -Tản giai tòng lục phẩm: Cai hợp ty lệnh sử 6 bộ, Cai hợp thị trung, Cai hợp thị nội, Cai hợp quân Thần sách, Cai hợp cung Trường thọ, Cai hợp cung Khôn đức, Cai hợp các dinh quân, Y chánh thái y viện, Cai hợp ty lệnh sử đồ gia, Cai hợp ty lệnh sử tàu, Câu kê 2 ty các dinh trấn. -Chánh thất phẩm: Tri huyện, Tri châu. -Tản giai tòng thất phẩm: Thủ hợp ty lệnh sử 6 bộ, Thủ hợp thị trung, Thủ hợp thị nội, Thủ hợp quân Thần sách, Thủ hợp cung Trường thọ, Thủ hợp cung Khôn đức, Thủ hợp các dinh quân, Y phó thái y viện, Thủ hợp ty lệnh sử đồ gia, Thủ hợp ty lệnh sử tàu, Cai hợp 2 ty các dinh trấn, Cai hợp ty chiêm hậu các dinh trấn, Cai án tri bạ các dinh trấn, Bình luận các cửa biển đầu nguồn, Cai hợp các biệt đạo, Tri án cai hợp các thủ sở. -Chánh bát phẩm: Trợ giáo, Nho học huấn đạo. -Tản giai tòng bát phẩm: Bản ty ty lệnh sử 6 bộ, Bản ty ty lệnh sử cung Trường thọ, Bản ty ty lệnh sử cung Khôn đức, Bản ty ty lệnh sử y viện đồ gia, Bản ty ty lệnh sử tàu, Bản ty ty chiêm hậu lại, Thủ hợp 2 ty các dinh trấn, Thủ hợp ty chiên hậu các dinh trấn, Thủ hợp các biệt đạo, Thủ hợp các thủ sở. -Chánh cửu phẩm: Lễ sinh quốc tử giám, Lễ sinh các phủ. -Tản giai tòng cửu phẩm: Bản ty 2 ty các dinh trấn, Chiêm hậu các dinh trấn, Lệnh sử các đạo, Lệnh sử các thủ sở, Phủ ký lục các phủ, Thư lại vị nhập lưu,Ký huyện, Ký thuộc, Đề lại các phủ huyện, Cai phủ tàu, Ký lục tàu, Lương y, Ngoại khoa lương y, Pháp lục, Tướng thần, Xã trưởng, Thôn trưởng, Trang trưởng, Cai trại, Từ thừa, Cai hợp ở nhà, Thủ hợp ở nhà. *Võ ban: -Lớn hơn chánh nhất phẩm: Tôn nhân lệnh tôn nhân phủ, Thái sư , Thái phó, Thái bảo. -Chánh nhất phẩm: Tả hữu tôn chính tôn nhân phủ, Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo, Chưởng quân chưởng phủ sự, Chưởng tượng chính, Đô thống chế thị trung, Chưởng dinh. -Tòng nhất phẩm: Thự phủ sự các quân, Đô thống chế quân Thần sách, Phó đô thống chế thị trung. -Chánh nhị phẩm: Phó tướng, Phó đô thống chế quân Thần sách, Thống chế thị trung, Thống chế thị nội, Thống chế thủy dinh. -Tòng nhị phẩm: Phó thống chế, Vệ úy thị trung, Chưởng cơ.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

121


-Chánh tam phẩm: Vệ úy thị nội, Vệ úy quân Thần sách, Phó vệ úy thị trung, Cai cơ thị trung, Cai cơ chánh quản đồ gia, Cai cơ chánh quản thị nội, Cai cơ phó quản đồ gia, Cai cơ pho quản thị nội, Cai cơ chánh đồn, Trấn thủ các trấn, Lưu thủ công đường các dinh. -Tòng tam phẩm: Phó vệ úy thị nội, Phó vệ úy quân Thần sách, Cai cơ phó thủy dinh, Cai cơ phó đồn, Chánh tuần hải đô dinh, Vệ úy các dinh quân. -Chánh tứ phẩm : Cai cơ chánh chi các dinh quân, Phó vệ úy các dinh quân, Chánh quản cơ các quân, Cai cơ thị nội, Cai cơ quân Thần sách, Cai cơ cung Trường thọ, Phó tuần hải đô dinh. -Tòng tứ phẩm: Cai cơ phó chi các dinh quân, Các phiên thần làm chánh trưởng chi và tuyên úy đại sứ, Phó quản cơ các quân, Các phiên thần làm chánh quản cơ và tuyên úy sứ, Cai cơ chánh quản tàu, Cai cơ phó quản tàu, Cai cơ các dinh quân, Cai cơ thị trung, Cai đội chánh quản đồ gia, Cai đội phó quản đồ gia, Giám thành sứ, An phủ sứ. -Chánh ngũ phẩm: Cai đội thị nội, Cai đội quân Thần sách, Cai đội cung Trường thọ, Cai đội cung Khôn đức, Cai đội thuộc phủ vương tử vương tôn, Phó đội thị trung, Chánh hiệu úy các dinh quân, Các phiên thần làm phó trưởng chi, Phó quản cơ, Chiêu thảo sứ, Phòng ngự sứ, Phó sứ giám thành, Cai cơ chánh chi các biệt đạo, Cai cơ các dinh trấn, Cai cơ các đạo, Cai cơ các thủ sở. -Tòng ngũ phẩm: Phó đội thị nội, Phó đội quân Thần sách, Phó hiệu úy các dinh quân, Các phiên thần làm chánh thủ hiệu-trưởng hiệu-tuyên úy đồng tri-tuyên úy thiêm sự, Cai đội các dinh quân, Cai đội sơn lăng-thái miếu-tư thiện, Phó chi các biệt đạo, Chánh hiệu úy các biệt đạo, Tỉnh hải úy, Phi kỵ úy. -Tản giai tòng ngũ phẩm: Chánh quản trường đà, Phó quản trường đà. -Chánh lục phẩm: Cai đội ngoại trù phòng các từ đường, Phó đội các dinh quân, Các phiên thần làm phó thủ hiệu-phó hiệu-phòng ngự đồng tri-phòng ngự thiêm sự-chiêu thảo đồng tri-chiêu thảo thiêm sự, Phó hiệu úy các biệt đạo, Tỉnh hải phó úy, Phi kỵ phó úy, Cai đội các cơ thuộc kiên, Cai đội các trấn doanh, Cai đội các biệt đạo, Cai đội thủ sở, Phó đội các cơ thuộc kiên (110). -Tản giai chánh lục phẩm: Cai đội trường đà, Cai đội đầu nguồn cửa biển, Cai đội thủ ngự bả lệnh, Cai đội tiểu hầu, Cai đội các công khố-cục tượng-công xa, Cai đội tòng quân, Cai đội hàm. -Tòng lục phẩm: Đội trưởng thị trung, Đội trưởng thị nội, Đội trưởng quân Thần sách, Đội trưởng cung Trường thọ, Đội trưởng cung Khôn đức, Đội trưởng thuộc phủ vương tử vương tôn, Chánh đội trưởng các quân, Đội trưởng các dinh quân, Các phiên thần làm chánh

(

110

)Cai

đội sơn lăng-thái miếu-tư thiện (gạch ngang giữa các đơn vị có nghĩa là cai đội sơn lăng, cai đội

thái miếu, cai đội tư thiện viết gọn lại). Các phiên thần làm chánh thủ hiệu-trưởng hiệu-tuyên úy đồng trituyên úy thiêm sự cũng vậy. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

122


thuộc hiệu cai đội, Phó đội các biệt đạo, Đội trưởng sơn lăng-thái miếu-tư thiện, Đội trưởng ngoại trù phòng các từ đường, Đội trưởng các cơ thuộc kiên, Đội trưởng các dinh trấn, Các phiên thần làm cai đội tòng quân, Đội trưởng các biệt đạo, Đội trưởng các thủ sở, Các phiên thần làm phó thuộc hiệu đội trưởng. -Tản giai tòng lục phẩm: Phó đội bả lệnh, Phó đội tiểu hầu. -Tản giai tòng thất phẩm: Khám lý, Khám lý hàm, Đề đốc các phủ, Đề lĩnh các phủ, Đội trưởng tiểu hầu, Đội trưởng các kho, Đề lĩnh hàm, Đội trưởng trường đà, Đội trưởng bả lệnh, Đội trưởng công khố, Đội trưởng công xa, Đội trưởng tòng quân, Đội trưởng hàm. -Tản giai tòng bát phẩm: Chánh cai quan tiểu hầu, Chánh cai quan các cục tượng, Cai quan tiểu hầu, Cai quan các cục tượng, Thứ đội trưởng các thuyền đội, Thứ đội trưởng bả lệnh, Thứ đội trưởng công khố, Thứ đội trưởng công xa. -Tản giai tòng cửu phẩm: Chánh ty quan tiểu hầu, Chánh ty quan các cục tượng, Ty quan tiểu hầu, Ty quan các cục tượng, Thứ đội trưởng hàm, Cai huyện vị nhập lưu, Cai thuộc vị nhập lưu, Các phiên thần làm cai châu, Cai tổng, Cai tổng hàm, Các phiên thần làm phó châu, Phó tổng, Phó tổng hàm, Thủ hợp các cục tượng. B-Quan chức đời Minh Mạng-1827 *Văn ban: -Chánh nhất phẩm: Cần chánh điện đại học sĩ, Văn minh điện đại học sĩ, Võ hiển điện đại học sĩ, Đông các đại học sĩ. Cáo thụ Đặc tiến Vinh lộc đại phu, thụy Văn nghị. -Tòng nhất phẩm: Hiệp biện đại học sĩ. Cáo thụ Vinh lộc đại phu, thụy Văn ý. -Chánh nhị phẩm: Thượng thư 6 bộ, Tả hữu đô ngự sử Viện đô sát. Cáo thụ Tư thiện đại phu, thụy Trang lượng. -Tòng nhị phẩm: Tả hữu tham tri 6 bộ, Tả hữu phó đô ngự sử Viện đô sát. Cáo thụ Trung phụng đại phu, thụy Trang khải. -Chánh tam phẩm: Tả hữu thị lang 6 bộ, Hàn lâm viện chưởng viện học sĩ, Hàn lâm viện trực học sĩ, Thông chính sứ ty thông chính sứ, Đại lý tự khanh, Thị vệ xứ (111), Thị lang phủ nội vụ, Thị lang vũ khố, Thị lang thương trường, Thái thường tự khanh, Thiêm sự phủ thiêm sự, Phủ doãn phủ Thừa Thiên, Bố chính sứ các tỉnh, Thủ hộ sứ. Cáo thụ Gia nghị đại phu, thụy Hiến mục. -Tòng tam phẩm: Thông chính sứ ty thông chính phó sứ, Thị vệ xứ, Quang lộc tự khanh, Thái bộc tự khanh, Thủ hộ phó sứ, Thượng bảo tự khanh. Cáo thụ Trung nghị đại phu, thụy Hiến tỉnh. -Chánh tứ phẩm: Hồng lô tự khanh, Đại lý tự thiếu khanh, Thái thường tự thiếu khanh, Quốc tử giám tế tửu, Lang trung 6 bộ, Tập hiền viện thị độc học sĩ, Hàn lâm viện thị đôc

(

111

)Thị vệ xứ chánh tam phẩm là Thống quản, Quản lãnh dùng quan văn võ; còn Thị vệ xứ tòng tam

phẩm là Hiệp lĩnh trực ban. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

123


học sĩ, Thiêm sự phủ thiếu thiêm sự, Lang trung phủ nội vụ, Lang trung vũ khố, Lang trung thương trường, Lang trung mộc thương, Lang trung điển nghi ty, Thái y viện viện sứ, Tào chính sứ ty tào chính sứ, Thừa Thiên phủ phủ thừa, Án sát sứ các tỉnh, Thương bạc ty thương bạc sứ, Tôn nhân phủ phủ thừa, Tham biện các trấn, Trưởng sử phủ hoàng tử, Trưởng sử phủ thân công. Cáo thụ Trung thuận đại phu, thụy Đoan cẩn. -Tòng tứ phẩm: Chưởng ấn cấp sự trung 6 khoa, Kinh kỳ đạo chưởng ấn giám sát ngự sử, Tập hiền viện thị giảng học sĩ, Hàn lâm viện thị giảng học sĩ, Quang lộc tự thiếu khanh, Thái bộc tự thiếu khanh, Quốc tử giám tư nghiệp, Từ tế ty từ tế sứ, Thượng bảo tự thiếu khanh, Phó trưởng sử phủ hoàng tử, Phó trưởng sử phủ thân công. Cáo thụ Triều liệt đại phu, thụy Đoan lượng. -Chánh ngũ phẩm: Hồng lô tự thiếu khanh, Giám sát ngự sử các đạo, Tập hiền viện thị độc, Hàn lâm viện thị độc, Viên ngoại lang ty thanh lại 6 bộ, Viên ngoại lang ty thừa biện phủ tôn nhân, Viên ngoại lang ty thông chính sứ, Viên ngoại lang đại lý tự, Viên ngoại lang thái thường tự, Viên ngoại lang quang lộc tự, Viên ngoại lang thái bộc tự, Viên ngoại lang ty cẩn tín, Viên ngoại lang xứ thị vệ, Viên ngoại lang ty thanh thận phủ nội vụ, Viên ngoại lang ty thanh thận vũ khố, Viên ngoại lang thương trường, Viên ngoại lang mộc thương, Viên ngoại lang ty điển nghi, Từ tế ty từ tế phó sứ, Thái y viện ngự y, Khâm thiên giám giám chính, Tào chính ty tào chính phó sứ, Đốc học các tỉnh, Cấp sự trung 6 khoa, Thương bạc ty thương bạc phó sứ. Cáo thụ Phụng nghị đại phu, thụy Đoan trực. -Tòng ngũ phẩm: Tập hiền viện thị giảng, Tập hiền viện thừa chỉ, Hàn lâm viện thị giảng, Hàn lâm viện thừa chỉ, Miếu lang, Thái y viện ngư y phó, Khâm thiên giám giám phó, Tri phủ, Tri bạ cẩm y thị trung. Cáo thụ Phụng thành đại phu, thụy Đoan thận. -Chánh lục phẩm: Tập hiền viện trước tác, Hàn lâm viện trước tác, Chủ sự ty thanh lại 6 bộ, Chủ sự ty thông chính sứ, Chủ sự đại lý tự, Chủ sự thái thường tự, Chủ sự quang lộc tự, Chủ sự thái bộc tự, Chủ sự hồng lô tự, Chủ sự ty cẩn tín, Chủ sự xứ thị vệ, Chủ sự ty thừa biện phủ tôn nhân, Chủ sự vũ khố, Chủ sự mộc thương, Chủ sự ty thanh thận phủ nội vụ, Chủ sự ty thanh cần tào chính, Chủ sự điển nghi ty, Chủ sự ty binh mã hộ thành, Chủ sự ty bưu chính, Đồng tri phu,Tri huyện trong kinh, Khâm thiên giám ngũ quan chính, Thái y viện tả viện phán, Thị nội kiêu kỵ, Thị nội phi kỵ, Tri bạ thần sách. Sắc thụ Thừa vụ lang, thụy Đôn nhã. -Tòng lục phẩm: Tập hiền viện tu soạn, Hàn lâm viện tu soạn, Tri huyện các tỉnh, Tri châu, Tự thừa ở Văn miếu, Quốc tử giám học chính, Tả hữu thông phán, Thổ tri phủ, Tư giáo phủ tôn nhân, Thái y viện hữu viện phán, Quản gia các phủ, Huyện thừa, Tri bạ các Tỉnh. Sắc thụ Văn lâm lang, thụy Đôn túc. -Chánh thất phẩm: Hàn lâm viện biên tu, Tư vụ ty thanh lại 6 bộ, Tư vụ ty thừa biện phủ tôn nhân, Tư vụ ty thông chính sứ, Tư vụ đại lý tự, Tư vụ thái thường tự, Tư vụ quang lộc tự, Tư vụ thái bộc tự, Tư vụ hồng lô tự, Tư vụ ty cẩn tín, Tư vụ xứ thị vệ, Tư vụ ty thanh thận vũ khố, Tư vụ mộc thương, Tư vụ ty thanh thận phủ nội vụ, Tư vụ ty thanh cần tào chính, Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

124


Tư vụ ty điển nghi, Tư vụ ty binh mã hộ thành, Tư vụ ty bưu chính, Tư vụ phủ hoàng tử, Lục sự viện đô sát, Quốc tử giám giám thừa, Khâm thiên giám linh đài lang, Giáo thụ, Tả hữu kinh lịch, Tri bạ thân binh, Tri bạ cấm binh. Sắc thụ Trung sĩ lang, thụy Đôn giản. -Tòng thất phẩm: Hàn lâm viện kiểm thảo, Từ tế ty điển sự, Thái y viện y chánh, Linh đài lang ty chiêm hậu các tỉnh, Thổ tri châu, Thổ tri huyện, Miều thừa, Hiệp thủ các cửa ải đồn biển. Sắc thụ Trung sĩ tá lang, thụy Đôn kính. -Chánh bát phẩm: Tập hiền viện bút thiếp thức (112), Hàn lâm viện điển tịch, Chánh bát phẩm thư lại ty thanh lại 6 bộ, Chánh bát phẩm thư lại ty thừa biện phủ tôn nhân, Chánh bát phẩm thư lại viện đô sát, Chánh bát phẩm thư lại ty thông chính sứ, Chánh bát phẩm thư lại đại lý tự-thái thường tự-quang lộc tự-thượng bảo tự-hồng lô tự, Chánh bát phẩm thư lại ty cẩn tín, Chánh bát phẩm thư lại xứ thị vệ,Chánh bát phẩm thư lại ty thanh thận phủ nội vụ, Chánh bát phẩm thư lại vũ khố, Chánh bát phẩm thư lại mộc thương, Chánh bát phẩm thư lại ty thanh thận tào chính, Chánh bát phẩm thư lại khâm thiên giám, Chánh bát phẩm thư lại ty từ tế, Chánh bát phẩm thư lại ty điển nghi, Chánh bát phẩm thư lại ty thương bạc, Chánh bát phẩm thư lại ty hành nhân, Chánh bát phẩm thư lại phủ hoàng tử-phủ thân công, Chánh bát phẩm thư lại phủ Thưà thiên, Chánh bát phẩm thư lại các ty ở các tỉnh, Thái y viện ngoại khoa y chánh, Huấn đạo, Tri bạ tinh binh, Tri sự các phủ. Sắc thụ Tu chức lang, thụy Cung doãn. -Tòng bát phẩm: Tập hiền viện bút thiếp thức, Hàn lâm viện điển bạ, Quốc tử giám điển bạ, Thái y viện y phó, Tòng bát phẩm thư lại ty binh mã hộ thành, Tòng bát phẩm thư lại ở cẩm y thị trung, Tòng bát phẩm thư lại phủ hoàng tử, Chủ bạ phủ thân công, Tòng bát phẩm thư lại (ở các ty, bộ, viện… giống như chánh bát phẩm thư lại nệu trên), Tri sử các huyện, Thổ huyện thừa. Sắc thụ Tu chức tá lang, thụy Cung ý. -Chánh cửu phẩm: Tập hiền viện bút thiếp thức, Hàn lâm viện cung phụng, Chánh cửu phẩm thư lại (ở các ty, bộ, viện… giống như chánh bát phẩm nêu trên), Thuộc viên phủ hoàng tử, Thuộc viên phủ thân công, Chánh cửu phẩm thư lại phủ Thừa Thiên, Chánh cửu phẩm thư lại các tỉnh, Thái y viện y sinh, Thái y viện ngoại khoa y phó, Chiêm hậu sinh ty chiêm hậu các Tỉnh, Lại mục ở các phân phủ (113), Tượng y ty tượng y phó, Chánh cửu phẩm hành nhân ty hành nhân. Sắc thụ Đăng sĩ lang, thụy Cung mậu. -Tòng cửu phẩm: Tập hiền viện bút thiếp thức, Hàn lâm viện đãi chiếu, Quốc tử giám điển tịch, Thái y viện y sinh ngoại khoa, Y sinh ty lương y các tỉnh, Lại mục huyện, Cai tổng, Tượng y sinh ty tượng y, Thổ lại mục, Tòng cửu phẩm thư lại (ở các ty, bộ, viện...giống như chánh bát phẩm nêu trên), Tòng cửu phẩm thư lại ở nam bắc tào. Sắc thụ Đăng sĩ tá lang, thụy Cung phác. -Vị nhập lưu: Thư lại vị nhập lưu ở các bộ-viện-phủ-ty-giám-tự-phủ hoàng tử-phủ thân công-các đội ở thành trấn đạo, Lễ sinh ở văn miếu-viện, Thuộc nhân ở thái y viện, Thuộc ( 112) Bút thiếp thức chọn những lại viên viết chữ tốt có hàm bát phẩm và cửu phẩm. (113) Lại mục, còn gọi là đề lại, lại điển, thư lại, sau đổi là Thừa phái. Phân phủ là phủ nhỏ. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

125


nhân ty lương y, Thông lại các phủ huyện, Thuộc nhân ty tượng y, Pháp lục sinh ty kinh tượng pháp lục. *Võ ban: -Chánh nhất phẩm: Đô thống chưởng phủ sự ở phủ đô thống các quân. Cáo thụ Đặc tiến Tráng võ tướng quân, thụy Võ nghị. -Tòng nhất phẩm: Đô thống doanh Thần cơ, Đô thống doanh Tiền phong, Đo thống doanh Long vũ, Đô thống doanh Hổ uy, Đô thống doanh Hùng nhuệ (5 doanh Thị nội), Đô thống ở 5 quân Thần sách. Cáo thụ Tráng võ tướng quân, thụy Võ khác. -Chánh nhị phẩm: Thống chế vệ Tả dực và Hữu dực ở Thị trung, Thống chế ở các doanh Thần cơ-Tiền phong-Long vũ-Hổ uy-Hùng nhuệ ở Thị nội, Thống chế các quân ở 5 quân Thần sách. Đề đốc. Cáo thụ Nghiêm uy tướng quân, thụy Trung cẩn. -Tòng nhị phẩm: Đô chỉ huy sứ ty Đô chỉ huy sứ vệ Cẩm y, Chưởng vệ sứ cệ Cẩm y, Đề đốc kinh thành, Vệ úy 2 dực tả hữu Thị trung, Tập ấm Khinh xa đô úy. Cáo thụ Hùng uy tướng quân, thụy Trung phấn. -Chánh tam phẩm: Nhất đẳng thị vệ, Chỉ huy sứ ty Đô chỉ huy sứ vệ Cẩm y, Viện sứ Viện Thượng tứ, Vệ úy các vệ Thị nội (như Thần cơ, Tiền phong, Long vũ, Hổ uy, Nội hầu, Kỳ vũ, Thành vũ, Thị tượng, Nội thủy, Phấn dực, Kiệu kỵ, Phi kỵ, Thần sách, Hộ lăng), Vệ úy thủy sư các bảo, Loan giá khanh, Lãnh binh các tỉnh, Thống quản 10 cơ ở các quân, Trấn thủ các thành trấn, Tả hữu chấp kim ngô (chỉ huy vệ Kim ngô). Cáo thụ Anh dũng tướng quân, thụy Anh túc. -Tòng tam phẩm: Binh mã hộ thành ty binh mả sứ, Viện sứ viện Thượng trà, Vệ uý (các vệ như Giám thành, Võng thành, Ngũ hộ), Phó vệ úy các vệ Thị nội (giống như hàm chánh tam phẩm bên trên), Phó thống 10 cơ ở các quân, Giám đốc kho kinh, Viện khanh viện Võ bị, Vệ úy vệ tinh binh, Phó vệ úy vệ thân binh-cấm binh, Phó lãnh binh, Vệ úy cácvệ ở các tỉnh, Phó vệ úy thủy sư, Tập ấm Kiệu kỵ đô úy, Phò mã đô úy. Cáo thụ Phấn dũng tướng quân, thụy Anh mại. -Chánh tứ phẩm: Nhị đẳng thị vệ, Hộ thành binh mã ty phó sứ, Phó sứ viện Thượng trà, Phó vệ úy vệ tinh binh, Đốc công, Giám đốc, Phó vệ úy các vệ ở Tỉnh, Quản cơ, Phó giám đốc kho kinh. Cáo thụ Minh nghĩa đô úy, thụy Tráng dực. -Tòng tứ phẩm: Thành thủ úy, Phó quản cơ, Phó giám đốc, Phó đốc công, Tuyên úy sứ, Tập ấm Kỵ đô úy, Cai đội các đội Trung hầu-Nội hẩu-Cẩm y-Thị trung tả hữu dực, Trưởng chi các chi thổ binh. Cáo thụ Tín nghĩa đô úy, thụy Tráng nghĩa. -Chánh ngũ phẩm: Tam đẳng thị vệ, Hiệu úy vệ Cẩm y, Cai đội các đội thuộc về Thị nội (như Thần cơ, Tiền phong, Long vũ, Hổ uy, Nội hầu, Kỳ vũ, Thành vũ, Thị tượng, Tả hầu, Hữu hầu, Trung hầu nha1t, Dựcvũ, Thượng trà, Tả vệ, Hữu vệ, Kim đao, Kim sang, Ngân sang, Thị nghi, Thượng thiện,, Tiên hầu, Tài thụ, Nội thủy, Phấn dực, Kiệu kỵ, Phi kỵ, Thần sách, Hộ lăng), Phó đội 2 dực tả hữu Thị trung, Chánh đội trưởng suất đội Trung hầu-Nội hầu, Quản Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

126


lãnh nam bắc tào, Đô úy, Cai đội thủy sư các bảo, các viên võ quan ty từ tế, Phòng thủ úy. Cáo thụ Võ công đô úy, thụy Tráng nhuệ. -Tòng ngũ phẩm: Tứ đẳng thị vệ, Cai đội các đội Giám thành-Võng thành-Phủ thuộc các thân công-Lục kiên-Lý thiện-Tuần bạc-Tuần thành, Chánh đội trưởng suất đội thuộc về Thị nội (xem hàm chánh ngũ phẩm ở trên), Võ viên ty từ tế, Phó quản lãnh nam bắc tào, Tuyên úy phó sứ, Phòng ngự sứ, Phó chi các chi thổ binh, Cai đội tuyển binh các tỉnh, Cai đội binh phủ Thừa Thiên, Cai đội binh trong nam triệu mộ các tỉnh, Chánh đội trưởng suất đội thủy sư các bảo, Tập ấm Phù kỵ úy, Tấn thủ. Cáo thụ Kiện công đô úy, thụy Tráng hiển. -Chánh lục phẩm: Ngũ đẳng thị vệ, Cai đội các thành-trấn-đạo-thuộc binh, Chánh đội trưởng suất đội các Giám thành-Võng thành-các quân-phủ thân công-Ngũ hộ-Lục kiên-Lý thiện-Tuần bạc-Tuần thành, Chánh đội trưởng suất thập đội Trung hầu-Nội hầu, Thủ ngự các đồn ải, Cai đội binh ngoài bắc triệu mộ ở các tỉnh, Hộ vệ trưởng, Cai đội ngoài ngạch, Cai đội thổ binh tuyển gọi ở các tỉnh, Trợ quốc lang, Chánh đội trưởng suất đội tuyển binh các tỉnh, Đốc vận nam bắc tào. Sắc thụ Tráng tiết kỵ úy, thụy Hùng kính. -Tòng lục phẩm: Chánh đội trưởng suất đội các thành-trấn-đạo-thuộc binh, Chánh đội trưởng suất thập các vệ: Cẩm y-2 dực tả hữu Thị trung-các vệ thuộc về Thị nội (xem ở hàm chánh ngũ phẩm), Chánh đội trưởng suất đội ti từ tế, Tập ấm An kỵ úy, Tuyên úy đồng tri, Phòng ngự đồng tri, Cai đội thổ binh, Chánh đội trưởng thủy sư các bảo. Sắc thụ Tráng tiết tá kỵ úy, thụy Hùng tiết. -Chánh thất phẩm: Chánh đội trưởng suất thập các đội tinh binh (Giám thànhVõng thành-các quân phủ thân công-Ngũ hộ-Lục kiên-Lý thiện-Tuần bạc-Tuần thành), Đội trưởng suất thập các đội Cẩm y-2 dực tả hữu Thị trung-các đội thuộc về Thị nội, Chánh đội trưởng suất thập ty từ tế, Thiên hộ, Chánh tri sự các cục tượng nội tạo, Đội trưởng thủy sư các bảo, Nhạc trưởng, Ca trưởng, Chánh đội trưởng binh trong nam triệu mộ các tỉnh, Chánh đội trưởng tuyển binh ở các tỉnh. Sắc thụ Hiệu trung kỵ úy, thụy Hùng quả. -Tòng thất phẩm: Chánh đội trưởng suất thập các thành-trấn-đạo-thuộc binh, Đội trưởng suất thập các đội tinh binh, Phó thiên hộ, Phó tri sự các cục tượng nội tạo, Lãnh vận thiên tổng, Đội trưởng các cương thương (kho thóc công), Đội trưởng công khố, Đội trưởng các dịch trạm. Tập ấm Phụng ân úy, Đội trưởng thổ binh, Đội trưởng tuyển binh, Dịch thừa, Trưởng ty tể sinh. Sắc thụ Hiệu trung tá kỵ úy, thụy Hùng cảm. -Chánh bát phẩm: Đội trưởng suất thập các thành-trấn-đạo-thuộc binh, Chánh bát phẩm bá hộ, Chánh bát phẩm tượng mục, Thứ đội trưởng cương thương, Thứ đội trưởng công khố, Thứ đội trưởng dịch trạm, Dịch mục, Đội trưởng thổ binh. Sắc thụ Trung tín hiệu úy, thụy Dũng kiên. -Tòng bát phẩm: Tòng bát phẩm bá hộ, Tòng bát phẩm tượng mục, Tập ấm Thừa ân úy. Sắc thụ Trung tín tá hiệu úy, thụy Dũng mậu.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

127


-Chánh cửu phẩm: Chánh cửu phẩm bá hộ, Chánh cửu phẩm tượng mục, Phủ lệ mục (114). Sắc thụ Hiệu lực hiệu úy, thụy Dũng lệ. -Tòng cửu phẩm: Tòng cửu phẩm bá hộ, Tòng cửu phẩm tượng mục, Lệ mục các huyện, Hộ trưởng các hộ. Sắc thụ Hiệu lực tá hiệu úy, thụy Dũng mẫn. Tóm lại, với ý nghĩa là 9 bậc trong quan chức qua các triều đại cho thấy: -9 bậc quan chức đã có từ triều Lý, nhưng vì sử sách không còn nên không thể tra cứu rành rẽ được. -Quan chức các triều đại nói chung dùng tên gọi khác nhau để ghi những phẩm hàm khác nhau, chỉ riêng quan chức đời Minh Mạng đối với phẩm hàm thấp thì dùng ngay phẩm hàm để chỉ chức quan, như thư lại có các hàm chánh bát phẩm, tòng bát phẩm, chánh cửu phẩm, tòng cửu phẩm với tên gọi chính thức là Chánh bát phẩm thư lại, Tòng bát phẩm thư lại, Chánh cửu phẩm thư lại, Tòng cửu phẩm thư lại… hay võ ban có Chánh bát phẩm bá hộ, Tòng bát phẩm bá hộ v.v… -Dựa vào quan chức của các triều đại đã nêu, và đem đối chiếu với Phổ hệ, ta có thể xác định được các bậc tiền nhân của giòng tộc đã sống trong khoảng thời gian nào, ví dụ Ngài Thuỷ tổ có sắc phong Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân, phong tặng này chỉ có ở triều Lê, bắt đầu từ đời vua Lê Thánh Tông, còn ở thời các chúa Nguyễn thì phong tặng là Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân Cẩm y vệ (thêm 3 chữ Cẩm y vệ), còn triều Nguyễn thì cáo thụ Đặc tiến Tráng võ tướng quân; vì vậy có thể kết luận là Ngài Thuỷ tổ đã sống và làm quan ở triều Lê mà không thể là các triều sau được, (ở đây chỉ mới phân tích câu Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân mà thôi, ngoài ra còn có thể phân tích những câu khác để xác định Ngài Thuỷ tổ sống vào triều Lê mà không phải là các triều sau này), hoặc Trưởng chi, chức vụ này chỉ có trong đời chúa Nguyễn Ánh và vua Gia Long, đến đời vua Minh Mạng thì không còn, vậy các Ông phải sống trong khoảng thời gian từ 1780 đến 1827 v.v… -Triều Tây Sơn không thấy sử sách ghi rỏ, nhưng cũng biết được có các chức quan là Tam công, Tam thiếu, Đại chủng tể, Đại tư đồ, Đại tư khấu, Đại tư mã, Đại tư không, Đại tư cối, Đại tư lệ, Thái úy, Đại tổng quản, Đại tổng lý, Đại đô đốc, Đại đô hộ, Đô đốc, Đô úy, Đề đốc, Phó đô đốc, Tả đô đốc, Hữu đô đốc, Tán tương quân vụ, Tiết chế, Nội hầu, Đại tướng quân, Quân sư, Trung thư sảnh, Trung thư lệnh, Đại học sĩ, Hiệp biện đại học sĩ, Thị trung ngự sử, Lục bộ thượng thư, Tả hữu đồng nghị, Tả hữu phụng nghị, Thị lang, Tư vụ, Hàn lâm v.v… (115). B.-Bậc thứ chín trong 9 bậc quan chức: Đây là phẩm hàm cuối cùng trong quan chức của các triều đại. Xin xem các quan chức hàm chánh cửu phẩm và tòng cửu phẩm đã nêu ở phần trên. Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có các Ông: (114)Lệ mục là chức chỉ huy lính giản ở phủ, huyện. Còn gọi là Đội lệ. (115)Việt Nam sử lược, Sđd, các trang 41, 89, 171. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

128


-Phan Doãn Đức

(2/11) Cửu phẩm bá hộ

-Phan Văn Điểu

(3/12) Cửu phẩm

-Phan Cừu

(2/13) Cửu phẩm

-Phan Dật

(2/13) Cửu phẩm

-Phan Hoán

(2/13) Cửu phẩm

-Phan Túc

(2/13) Cửu phẩm giáo sư

-Phan Diêu

(2/13) Cửu phẩm giáo sư

-Phan Tú

(2/13) Cửu phẩm giáo sư

-Phan Qúy Thuyên

(2/13) Cửu phẩm

-Phan Đức Cường

(3/13) Cửu phẩm

-Phan Đức Thái

(3/13) Cửu phẩm

-Phan Ngọc Tỉnh

(4/13) Cửu phẩm

-Phan Văn Thìn

(5/13) Cửu phẩm

Ngoại trừ Ông Phan Doãn Đức xin xem ở phần bá hộ và nội các, các Ông còn lại đều ở đời thứ 13 (chỉ có Ông Phan Văn Điểu đời thứ 12), nên có thể nói các Ông đã sống vào thời triều Nguyễn, hay chính xác hơn là vào thời những vị vua cuối cùng của triều Nguyễn. Phổ hệ không ghi rõ hàm của các Ông là chánh hay tòng cửu phẩm, cũng không ghi rõ bên văn ban hay võ ban, vì vậy xin ghi lại đây các hàm này để Tộc tham khảo: -Chánh cửu phẩm văn ban, sắc thụ Đăng sĩ lang, thụy Cung mậu. -Tòng cửu phẩm văn ban, sắc thụ Đăng sĩ tá lang, thụy Cung phác. -Chánh cửu phẩm võ ban, sắc thụ Hiệu lực hiệu úy, thụy Dũng lệ. -Tòng cửu phẩm võ ban, sắc thụ Hiệu lực tá hiệu úy, thụy Dũng mẫn. Riêng đối với ba Ông Phan Túc, Phan Diêu, Phan Tú, ta thấy bên cạnh hàm cửu phẩm lại có chữ giáo sư. Theo sách Đại Nam điển lệ toát yếu thì vào năm Thành Thái thứ 18 (1902), nhà vua cho thành lập Trường học chữ quốc ngữ ở lỵ sở các tỉnh hoặc ở các nơi đô hội thuộc tỉnh để cho các giáo viên hiện dạy tại các trường công ở xã thôn được tới học tập. Giáo sư của trường quốc ngữ này sẽ chọn các viên chức nào am hiểu chữ quốc ngữ mà sung vào. Như vậy đây là tiền thân của các trường sư phạm ngày nay. Cả ba Ông đều được ghi là giáo sư, vậy ba Ông chính là những người đã dạy học tại Trường học chữ quốc ngữ này. (Xin lưu ý nếu là người dạy học ở các trường công thì được gọi là giáo viên, còn người dạy những giáo viên này thì được gọi là giáo sư) (116). Ngoài ra, xem trong Phổ hệ II-1971 ta thấy có các Ông Phan Cừu, Phan Dật, Phan Hoán, Phan Quý Thuyên, được ghi chú là cửu phẩm văn giai, đây là những hư hàm do quyên tiền mà được thưởng như lệ năm Tự Đức thứ 26 (1873) quy định ai quyên tiền từ 800 quan trở lên sẽ được thưởng hàm tòng cửu phẩm bá hộ, nếu quyên hơn nữa thì cứ mỗi 1000 quan thưởng gia

(116)Đại Nam điển lệ toát yếu, Sđd, trang 383. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

129


một trật, được thưởng một cái thẻ bài bằng vàng tía, một cái biển có chữ lạc quyên, một bộ áo phẩm phục và được một con làm viên tử. Người quyên tiền mà xuất thân là tú tài, hạng văn thân, thí sinh, khóa sinh, học trò có học thức thì được đổi hai chữ bá hộ thành chữ văn giai (như tòng cửu phẩm văn giai thay vì tòng cửu phẩm bá hộ v.v…(117). Như vậy các Ông thật sự là người có học của Tộc, rất tiếc Phổ hệ không ghi đầy đủ nên không biết được cụ thể. 32.-CHUYÊN BIỆN: Xin xem phần 6.-Biện ở trong bài viết này. 33.-DỊCH MỤC: Đây là một chức vụ ở ty Bưu chính dưới triều Nguyễn, lệ thuộc vào bộ Binh. Ty Bưu chính được thành lập vào năm 1820 đời vua Minh Mạng, có nhiệm vụ chuyển vận công văn và đưa đón quan lại trong toàn quốc. Quan phụ trách ty Bưu chính là Chủ sự hàm chánh lục phẩm, và phó là Tư vụ hàm chánh thất phẩm, thuộc viên có bát cửu phẩm thư lại và vị nhập lưu thư lại. Theo cách tổ chức của ty Bưu chính thì cả nước có một hệ thống dịch trạm cách nhau khoảng từ 20 dặm đến 36 dặm, mỗi dịch trạm có một Chánh đội trưởng hàm tòng thất phẩm đứng đầu và một Thứ đội trưởng hàm chánh bát phẩm làm phó, năm 1837 vua Minh Mạng đổi Chánh đội trưởng làm Dịch thừa và Thứ đội trưởng làm Dịch mục, hàm vẫn không thay đổi. Mỗi dịch trạm được đặt tên theo các ghép tên tỉnh và tên xã nơi đặt dịch trạm, thí dụ dịch trạm đóng ở xã Dũng Quyết tỉnh Nghệ An được gọi là trạm An Dũng. Mỗi trạm có từ 30 người đến 100 người và 4 con ngựa để thi hành công vụ. Tỉnh Quảng Nam có các dịch trạm sau đây: -Trạm Nam Chân ở xã Chân Sủng huyện Hòa Vang. -Trạm Nam Ổ ở xã Cu Đê huyện Hòa Vang. -Trạm Nam Giản ở xã Miêu Bông huyện Diên Phước. -Trạm Nam Phúc ở xã Long Phúc huyện Diên Phước. -Trạm Nam Ngọc ở xã Ngọc Phố huyện Lễ Dương. -Trạm Nam Kỳ ở xã Tam Kỳ huyện Hà Đông. -Trạm Nam Vân ở xã Vân Trai huyện Hà Đông. Về chuyển vận công văn, vua Thành Thái (1907) quy định công văn của các quan đầu tỉnh trở xuống phải làm 2 bản: một bản gởi cho quan Công sứ ở tỉnh, một bản gởi cho các viên Tri phủ, Tri huyện, Tri châu thuộc tỉnh ấy. Nếu là công văn của Tri phủ, Tri huyện, Tri châu trở xuống thì phải làm 3 bản: một bản gởi cho quan Công sứ tỉnh, một bản gởi cho quan Đại lý ở bản hạt, một bản gởi cho quan đầu tỉnh. Về đưa đón quan lại, các quan chức được cấp trạm là: -Khi đi công cán gồm: Nhân viên mang tờ chiếu chỉ đi các địa phương, Tổng đốc, Tuần phủ đi nhận chức hay thăng chức (được cấp 2 phu khiêng vác), Đề đốc, Bố chánh, Án sát (117)Đại Nam điển lệ toát yếu, Sđd, trang 285. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

130


đi nhậm chức hay thăng chức (được cấp 1 phu khiệng vác), Đốc học, Tri phủ, Tri huyện, Tri châu, Giáo thụ, Huấn đạo, Các viên chức hàm từ lục phẩm văn ban, tòng thất phẩm võ ban, các Cử nhân, Giám sinh phân phái đi nhận nhiệm vụ ở các Tỉnh, hoặc đến lỵ sở, hoặc về lỵ sở, Các chức việc khác đi công cán việc khẩn cấp (được cấp phu điếm 2 người). -Khi vào kinh chiêm cận (vào chầu vua, dùng cho trường hợp các quan ngoài vào cung bệ kiến), Tổng đốc được 10 lính theo hầu, Tuần phủ 9 lính hầu, Bố chánh 5 lính hầu, Án sát 4 lính hầu. -Lệ đi tàu thủy vào năm Thành Thái 2 (1890): các quan nhất nhị tam phẩm đi hạng nhất, tứ ngũ lục thất phẩm đi hạng nhì, bát cửu phẩm đi hạng ba. Quan nhất phẩm được 5 người tùy tùng, nhị phẩm 3 tùy tùng, tam phẩm 2 tùy tùng, tứ phẩm ấn quan 2 tùy tùng, thuộc viên ngũ lục thất phẩm 1 tùy tùng, đều đi hạng ba. -Được phép về thăm cha mẹ, nuôi cha mẹ, tang cha mẹ, tang vợ, về quê thăm viếng phần mộ, về hưu trí hưu dưỡng, quan kinh bên văn từ tứ phẩm ấn quan trở lên, bên võ từ Chưởng vệ trở lên, quan ngoài gồm Tổng đốc, Tuần phủ, Đề đốc, Bố chánh, An sát, Lãnh binh đều được cấp trạm.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

131


-Tiến sĩ mới đỗ về vinh quy, lúc đi lúc về đều được cấp trạm. (118). Đối chiếu với Phổ hệ II 1971, có Ông Phan Văn Ái (2/11) là Dịch mục. Vậy Ông chính là người phó chỉ huy của một dịch trạm, có hàm “chánh bát phẩm, sắc thụ Trung tín hiệu úy, thụy Dũng kiên”. Ông giữ chức vụ này từ năm 1837 trở về sau. 34.-ĐÔ ÚY: Đây là một chức võ quan. Qua sử sách chỉ biết chức vụ này xuất hiện lần đầu tiên ở Đàng Ngoài dưới đời vua Lê dụ Tông niên hiệu Bảo Thái (1720-1729) với tên gọi là Chánh đô úy hàm Chánh ngũ phẩm, nhưng không rõ chức vụ này nắm giữ đơn vị cấp nào trong quân đội. Ở Đàng Trong không thấy có chức Đô úy. Triều Tây Sơn có chức Đô úy, cũng không rõ nắm giữ đơn vị nào. Triều Nguyễn, dưới đời vua Gia Long không có chức Đô úy, đến đời vua Minh Mạng lại đặt chức Đô úy hàm chánh ngũ phẩm, song cũng không rõ về chức vụ này, rồi sau lại bỏ đi. Đối chiếu với Phổ hệ 1994, có Ông Phan Văn Thoại (3/10) là Đô úy tinh binh. Như ta đã biết, dưới đời vua Minh Mạng, quân ngũ tại kinh sư chia ra làm 3 loại là thân binh, cấm binh, và tinh binh.Tinh binh gồm: đội Ngũ quan ngũ bảo, Thủy quân, vệ Giám thành, quân Thủ hộ, Dực hùng, ty Lý thiện, sở Hòa thanh, sở Thanh bình, các đội lính thuộc các phủ-các dinh-các nha thự. Trong các đơn vị tinh binh này thì Dực hùng, ty Lý thiện, sở Hòa thanh, sở Thanh bình, các đội thuộc các phủ-dinh-nha thự có quân số ít, không thể có chức vụ Đô úy để trông coi, nên có thể Ông Phan Văn Thoại chỉ huy một trong các đơn vị tinh binh còn lại, hàm của Ông là Chánh ngũ phẩm, cáo thụ Võ công đô úy, thụy Tráng nhuệ. 35.-ĐÔ CHỈ HUY SỨ: Đây là một chức võ quan. Sử sách cho thấy chức vụ này có từ triều Tiền Lê qua việc năm 980 vua Lê Đại Hành phong cho Đinh Thừa Chính làm Nha nội đô chỉ huy sứ. Nhiệm vụ của chức quan này ra sao hiện nay không thể tra cứu được, nhưng có thể thấy đây là một chức vụ trọng yếu vì sử sách đã ghi rõ “Lê Đại Hành đặt quan có các chức Thái sư, Thái úy, Tổng quản, Đô chỉ huy sứ” (119), nếu không phải là chức vụ trọng yếu thì chắc chắn là không được ghi lại, và nhất là không thể kể ngang hàng với các chức Thái sư, Thái úy…được. Đến triều Lý thấy có chức Điện tiền đô chỉ huy sứ và Điện tiền đô chỉ huy phó sứ trông coi các ban trực ở trước điện vua. Triều Trần bải bỏ chức vụ Đô chỉ huy sứ.

(118)Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884, Đỗ Bang chủ biên, Nhà xuất bản Thuận Hóa 1997, cho là được cấp ngựa trạm. Theo tôi, có lẽ được cấp phu trạm là đúng hơn vì mỗi trạm chỉ có 4 ngựa, trong khi phu trạm thì từ 30-100 người. Về phu trạm, các quan khi đi công cán, chức thấp lại được cấp 2 phu, trong khi Đề đốc, Án sát, Bố chánh chỉ được cấp 1 phu, có lẽ sách in sai. (119)Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, trang 442. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

132


Triều Lê, khi vua Lê Thái Tổ mới dựng nước lại đặt Điện tiền đô chỉ huy sứ, có lẻ nhiệm vụ cũng giống như chức quan ở triều Lý. Đến đời Hồng Đức, vua Lê Thánh Tông định quan chế, chức Đô chỉ huy sứ hàm chánh tam phẩm, sơ thụ là Anh liệt tướng quân, thăng thụ là Anh túc tướng quân, gia thụ là Anh vĩ tướng quân, huân cấp là Thượng khinh xa úy, đây là quan võ điều khiển quân đội. Xem xét tổ chức quân đội của triều Lê, ta thấy: -Quân ngũ phủ thì đứng đầu là Tả hữu đô đốc, có Đô đốc đồng tri và Đô đốc thiêm sự giúp việc. Mỗi phủ gồm 6 vệ, chỉ huy vệ là Đô tổng binh sứ, Tổng binh đồng tri và Tổng binh thiêm sự. Mỗi vệ lại gồm có 5-6 sở do Quản lảnh đứng đầu có Phó quản lảnh, Chánh võ úy và Phó võ úy giúp việc. Riêng Trung quân phủ chia làm 2 đô ty có Đô tổng binh sứ đứng đầu, có Tổng binh đồng tri và Tổng binh thiêm sự giúp việc, mỗi đô ty lại gồm nhiều vệ có Tổng tri đứng đầu, Đồng tổng tri và Thiêm tổng tri phụ tá, mỗi vệ có nhiều sở do Quản lảnh đứng đầu, Phó quản lảnh, Chánh võ úy và Phó võ úy giúp việc. Xem như vãy thì Đô chỉ huy sứ không thể là võ quan ở Ngũ quân phủ vì hàm của Đô chỉ huy sứ và Đô tổng binh sứ đều là chánh tam phẩm. -Quân tại các đạo thừa tuyên thì đặt Đô ty trông coi quân vụ, có Đô tổng binh sứ đứng đầu, có Tổng binh đồng tri và Tổng binh thiêm sự phụ tá. Mỗi đô ty gồm nhiều vệ có Chỉ huy sứ đứng đầu và Chỉ huy đồng tri, Chỉ huy thiêm sự giúp việc. Như vậy thì Đô chỉ huy sứ cũng không thể là võ quan ở quân các đạo thừa tuyên được. -Xem lại quân ngũ tại kinh đô, ta thấy các vệ Kim quang lực sĩ, Cẩm y dũng sĩ, Cẩm y tráng sĩ, Kim ngô vũ sĩ, Kim ngô tráng sĩ đều chia làm nhiều ty, mỗi ty do Chỉ huy sứ đứng đầu, có Chỉ huy đồng tri và Chỉ huy thiêm sự giúp việc. Vậy thì chắc chắn là ở 5 vệ nêu trên, mỗi vệ phải do Đô chỉ huy sứ đứng đầu, có Đô chỉ huy đồng tri và Đô chỉ huy thiêm sự giúp việc. Xem quan chức thì ta thấy Đô chỉ huy sứ có hàm chánh tam phẩm, Đô chỉ huy đồng tri hàm tòng tam phẩm, Đô chỉ huy thiêm sự và Chỉ huy sứ hàm chánh tứ phẩm, vậy thì Đô chỉ huy sứ chỉ huy vệ quân tại kinh đô lại càng hợp lý. Ở Đàng Ngoài, trong quan chức đời Bảo Thái (1720), vẫn thấy chức vụ Đô chỉ huy sứ ở hàm chánh tam phẩm. Ở Đàng Trong không có chức vụ Đô chỉ huy sứ này. Triều Nguyễn đời vua Gia Long cũng không có chức vụ Đô chỉ huy sứ, nhưng đến đời vua Minh Mạng thì lại có Đô chỉ huy sứ là võ quan chỉ huy Đô chỉ huy sứ ty vệ Cẩm y, hàm chánh nhị phẩm võ ban, cáo thụ Hùng uy tướng quân, thụy Trung phấn. Đô chỉ huy sứ chỉ huy Đô chỉ huy sứ ty vệ Cẩm y còn có một tên gọi khác nữa là Đô chỉ huy sứ chưởng vệ sự vệ Cẩm y. Nói tóm lại Đô chỉ huy sứ ở triều Lê và Đô chỉ huy sứ ty đô chỉ huy sứ vệ cẩm y ở triều Nguyễn có khác biệt là Đô chỉ huy sứ ở triều Lê có thể chỉ huy vệ Cẩm y nhưng cũng có thể chỉ huy các vệ khác như vệ Kim quang, vệ Kim ngô v.v…, còn Đô chỉ huy sứ ở triều Nguyễn gắn liền với ty Đô chỉ huy sứ vệ cẩm y, không thể tách rời, vì quân ở tại kinh đô dưới triều Nguyễn có thân binh (quân thân cận nhà vua) gồm: -Vệ Cẩm y, đứng đầu là Đô chỉ huy sứ đô chỉ huy sứ ty. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

133


-Vệ Kim ngô, đứng đầu là Tả hữu chấp kim ngô. -Vệ Loan giá, đứng đầu là Loan giá khanh. -Vệ Tuyển phong, đứng đầu là Vệ úy. -Doanh Vũ lâm, đứng đầu là Tả hữu lưỡng dực thống chế (Tả dực thống chế, Hữu dực thống chế) mà tên gọi đã khác nhau thì chức vụ cũng khác nhau, không thể lầm lẫn Đô chỉ huy sứ qua các vệ, doanh khác ngoài vệ Cẩm y được. Đối chiếu với Phổ hệ 1994, có Ngài Thuỷ tổ là Đô chỉ huy sứ Cẩm y vệ, nhưng Ngài lại được phong tước bá nên xin xem thêm ở phần Ngũ tước và Phẩm trật trong bài viết này. 36.-ĐỘI TRƯỞNG và CHÁNH ĐỘI TRƯỞNG: Đây là một chức vụ trong quân ngũ, hay nói cách khác là ở võ ban. Để có một cái nhìn rõ hơn về đội và đội trưởng, xin xem lại phần tổ chức quân đội ở 8.-Cai đội trong bài viết này. Như vậy, đội trưởng là một trong những người chỉ huy đội, nhưng rất tiếc sử sách đời trước không ghi chép được đầy đủ nên không thể biết chính xác về chức vụ này. Chỉ thấy ở triều Hồ mỗi đội có 18 quân, triều Lê mỗi đội gồm 20 quân, ở Đàng Ngoài có đội có 15 người nhưng cũng có đội 275 người, ở Đàng Trong cũng vậy, có đội 225 người, có đội 135 người, có đội 455 người, hay triều Nguyễn, mỗi đội gồm 50 người. Nói chung quân số của đội không nhất định trong lịch sử, số quân có khi nhiều khi ít tùy theo nhiệm vụ của đội này. Về chức vụ chỉ huy đội, các triều trước không có sử sách ghi chép để tra cứu, chỉ biết được ở Đàng Ngoài có các chức vụ Cai đội, Phó cai đội, Đội trưởng, còn ở Đàng Trong thì có Cai đội, Đội trưởng, nhưng cũng không thể biết được Cai đội thì chỉ huy đội nào, còn Đội trưởng thì chỉ huy đội nào. Dưới đời vua Minh Mạng, xem quan chức ta thấy có những chức vụ thuộc về đội như sau: -Cai đội các đội Trung hầu, Nội hầu, Cẩm y, Tả hữu dực Thị trung (tức là Cai đội ở các đội thân binh) có hàm tòng tứ phẩm. -Cai đội các đội Thị nội như Thần cơ, Tiền phong, Long vũ, Hổ uy, Hùng nhuệ…(tức là Cai đội ở các đội cấm binh), Phó đội 2 dực tả hữu Thị trung (thân binh), và Chánh đội trưởng suất đội Trung hầu, Nội hầu (thân binh) có hàm chánh ngũ phẩm. -Cai đội các đội Giám thành, Võng thành (tinh binh), Chánh đội trưởng suất đội các đội Thị nội (cấm binh) có hàm tòng ngũ phẩm. -Cai đội các thành, trấn, đạo, thuộc tỉnh binh (xin lưu ý tỉnh binh, không phải tinh binh) , Chánh đội trưởng suất đội các đội Giám thành, Võng thành (tinh binh), Chánh đội trưởng suất thập đội Trung hầu, Nội hầu (thân binh) có hàm chánh lục phẩm. -Chánh đội trưởng suất đội tỉnh binh, Chánh đội trưởng suất thập thân binh, Chánh đội trưởng suất thập cấm binh, Cai đội thổ binh, có hàm tòng lục phẩm. -Chánh đội trưởng suất thập tinh binh, Đội trưởng suất thập thân binh và cấm binh, có hàm chánh thất phẩm. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

134


-Chánh đội trưởng suất thập tỉnh binh, Đội trưởng suất thập tinh binh, Đội trưởng thổ binh, có hàm tòng thất phẩm. -Đội trưởng suất thập tỉnh binh có hàm chánh bát phẩm. Xem như vậy thì thấy rằng thân binh có chức hàm cao nhất, rồi đến lần lượt là cấm binh, tinh binh, tỉnh binh, thổ binh. Chức vụ chánh đội trưởng và đội trưởng lại phân thành hai hạng là suất đội và suất thập. Xin ghi lại đây quy định năm Thành Thái thứ 2 (1890) “phàm các vệ, các đội ở trong kinh ngoài tỉnh, nơi nào số lính đủ 40 hay 50 tên thì đặt Chánh đội trưởng và Đội trưởng 4 người, 30 tên trở lên thì đặt 3 người, 20 tên trở lên thì đặt 2 người, nhưng đều do thượng ty sở quản và viên thống suất xét mà chọn người có phẩm hàm ở trong đội ấy bổ sung vào chức suất thập, còn thừa bao nhiêu để vào hạng ngoại ngạch. Nếu vệ, đội nào cần người về hạng suất thập thì đem ngay những viên đội trưởng cấp bằng đã được nhiều năm, tham bác vào mà bổ dụng. Nếu trong đội chỉ có 1 người có phẩm hàm thì đem thêm 3 viên ở hạng cấp bằng bổ sung vào, nếu có 2 viên có phẩm hàm thì lấy thêm 2 viên ở hạng cấp bằng bổ sung vào, nếu có 3 viên có phẩm hàm thì lấy thêm 1 viên ở hạng cấp bằng bổ sung vào” (120). Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có các Ông: -Phan Văn Giáo (4/9) Đội trưởng. -Phan Ngọc Kỳ (4/10) Chánh đội trưởng. -Phan Văn Đông (3/10) Đội trưởng. -Phan Văn Âu (5/10) Đội trưởng thất phẩm. -Phan Văn Cáp (2/11) Đội trưởng. -Phan Công Vinh (2/12) Đội trưởng. -Phan Văn Thao (5/12) Đội trưởng bát phẩm. -Phan Văn Kỉnh (2/13) Đội trưởng. -Phan Văn Tỉnh (5/13) Đội trưởng cửu phẩm. a-Đối với Ông Phan Ngọc Kỳ, Chánh đội trưởng, ta biết rằng Ông là con Ông Phan Ngọc Thức (4/9) là người giữ chức vụ Ngũ đồn quân trung thư ký của quân Thần sách hoặc quân Vũ lâm, tức là quân thân cận của chúa Nguyễn Phúc Ánh (ở thời chiến tranh với triều Tây Sơn, chúa Nguyễn Phúc Ánh còn có quân các dinh Trung, Tiền, Hậu, Tả, Hữu – gọi là Trung quân, Tiền quân, Hậu quân, Tả quân, Hữu quân - những dinh quân này không chia thành đồn), có thể Ông Phan Ngọc Kỳ đã theo cha tham gia chiến trận trong hàng ngũ quân thân cận này, nhưng Ông làm quan từ đời vua Minh Mạng trở về sau vì quan chức đời Gia Long không có chức vụ Chánh đội trưởng, do đó hàm của Ông là chánh ngũ phẩm hoặc tòng ngũ phẩm. Chánh ngũ phẩm thì cáo thụ Võ công đô úy, thụy Tráng nhuệ. Tòng ngũ phẩm thì cáo thụ Kiện công đô úy, thụy Tráng hiển.

(120)Đại Nam điển lệ toát yếu, Sđd, trang 483. Cấp bằng cũng giống như Thí sai nghĩa là đang ở dạng tập sự, chưa được thực thụ. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

135


b-Đối với Ông Phan Văn Âu, Đội trưởng thất phẩm, Ông là con Ông Phan Kim Huống (5/9), người trùng tu Phổ hệ vào năm Gia Long thứ 9 (Canh ngọ 1810), nên Ông Phan Văn Âu có thể làm quan dưới đời vua Gia Long hoặc Minh Mạng, mà quan chức đời Gia Long chỉ có hàm tản giai tòng thất phẩm, còn quan chức đời Minh Mạng thì hàm chánh thất phẩm là đội trưởng thân binh và cấm binh, còn hàm tòng thất phẩm là đội trưởng tinh binh, nên có thể hàm của Ông là Tòng thất phẩm, sắc thụ Hiệu trung tá kỵ úy, thụy Hùng cảm. c-Đối với Ông Phan Văn Thao, Đội trưởng bát phẩm. Quan chức đời Gia Long chỉ có tản giai tòng bát phẩm mà ở hàm này thì không có chức vụ đội trưởng, nên Ông phải làm quan từ đời Minh Mạng trở về sau. Ở đời Minh Mạng, chức vụ đội trưởng chỉ có hàm chánh bát phẩm, nên chức vụ và hàm của Ông là Đội trưởng, chánh bát phẩm, sắc thụ Trung tín hiệu úy, thụy Dũng kiên. d-Đối với Ông Phan Văn Tỉnh, Đội trưởng cửu phẩm. Quan chức đời Gia Long và Minh Mạng cả chánh lẫn tòng đều không có chức vụ đội trưởng, nhưng như phần trên đã trình bày, từ đời Minh Mạng trở về sau có chức vụ đội trưởng cấp bằng (chưa thực thụ, nếu hết hạn 3 năm xét không có lỗi gì sẽ được cho thực thụ). Như vậy, có lẽ Ông Phan Văn Tỉnh là Đội trưởng cấp bằng, còn gọi tên khác là Đội trưởng thí sai, chánh cửu phẩm, sắc thụ Hiệu lực hiệu úy, thụy Dũng lệ. e-Đối với các Ông còn lại, chỉ có Ông Phan Văn Giáo là khó xác định Ông làm đội trưởng dưới đời vua, chúa nào. Còn đối với Ông Phan Văn Đông, vì Ông là cháu ruột của Ông Phan Văn Dũ (3/9) là Cai đội thăng thụ Phó kỳ, nên có thể xác định Ông Phan Văn Đông làm quan từ đời Minh Mạng trở về sau. Các Ông còn lại có đời thấp hơn (11,12) nên chắc chắn là các Ông làm quan sau đời Minh Mạng hơn nữa. Hàm của các Ông từ chánh bát phẩm cho đến chánh thất phẩm. Chánh bát phẩm thì sắc thụ Trung tín hiệu úy, thụy Dũng kiên. Tòng bát phẩm thì sắc thụ Hiệu trung tá kỵ úy, thụy Hùng cảm. Chánh thất phẩm thì sắc thụ Hiệu trung kỵ úy, thụy Hùng quả. 37.-ĐỘI LỆ: Còn gọi là Lệ mục, một viên chức thuộc võ ban dưới triều Nguyễn chỉ huy một số lính gọi là lính lệ đóng ở các cơ quan, dinh quan từ cấp tỉnh trở xuống, như đã được trình bày trong phần 2.- Án sát sứ trong bài viết này, theo đó thì tỉnh lớn ở dinh quan Tổng đốc có 1 đội lệ và 12 lính lệ, ở dinh quan Bố chánh có 1 đội lệ và 7 lính lệ, ở dinh quan Án sát có 1 đội lệ và 5 lính lệ, ở các đạo có 1 đội lệ và 5 lính lệ, ở các phủ có 1 đội lệ và 9 lính lệ, ở các huyện có 1 đội lệ và 7 lính lệ. Đời vua Đồng Khánh thứ 2 (1886) thì đội lệ thuộc các huyện được kén chọn trong các viên đội trưởng đương sĩ bổ hoặc trong những người được thưởng bát cửu phẩm bá hộ mà điền bổ vào chức đó để trông coi lính lệ. Như vậy hàm của đội lệ có thể từ tòng cửu phẩm đến chánh bát phẩm. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

136


Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có Ông Phan Văn Diên (1/13) tức Ông Đội Lang. Ở đây có thể chắc chắn rằng Ông không phải là Đội trưởng như các Ông có chức vụ đội trưởng đã nêu ở trên, vậy Ông phải là Đội lệ, hàm tòng cửu phẩm, sắc thụ Hiệu lực tá hiệu úy, thụy Dũng mẫn (nếu là đội lệ ở huyện), hoặc chánh cửu phẩm, sắc thụ Hiệu lực hiệu úy, thụy Dũng lệ (nếu là đội lệ ở phủ). 38.-GIÁO THỤ hoặc GIÁO THỌ: Đây là một chức quan văn chuyên việc dạy học. Sử sách cho thấy rằng chức vụ giáo thụ được đặt lần đầu tiên vào năm Bảo Phù thứ 2 (1274 vua Trần Thánh Tông), năm này nhà vua đặt chức Trừ cung giáo thụ (trừ cung là cung của thái tử, trừ cung giáo thụ là chức dạy thái tử học). Năm 1397 vua Trần Thuận Tông đặt chức Giáo thụ giám thư khố ở châu và trấn, nhưng không rõ được nhiệm vụ. Triều Lê, dưới đời vua Lê Thái Tổ sau khi dẹp xong giặc Minh, nhà vua đặt chức Giáo thụ ở Quốc tử giám và ở các lộ với nhiệm vụ là lo việc dạy học. Vua Lê Thánh Tông đặt chức Ngũ kinh giáo thụ làm nhiệm vụ giảng giải ngũ kinh ở Quốc tử giám, có hàm chánh bát phẩm. Ở Đàng Ngoài, quan chức dưới đời Bảo Thái (vua Lê Dụ Tông) vẫn thấy có chức Quốc tử giám giáo thụ, hàm chánh bát phẩm. Ở Đàng Trong không có chức vụ giáo thụ. Triều Nguyễn, vua Minh Mạng năm 1827 ban định quan chức, đặt chức giáo thụ là quan dạy học ở một phủ, hàm chánh thất phẩm, sắc thụ Trung sĩ lang, thụy Đôn giản. Xin xem thêm phần trách nhiệm của giáo thụ trong việc dạy học và cử học trò đi thi hương ở phần cử nhân, trang 41 của bài viết này. Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có Ông Phan Thành Tích (2/12), Ông thi đỗ cử nhân khoa mậu tý Đồng Khánh thứ 3 (1888) tại trường Thừa Thiên, Giáo thụ phủ Hàm Thuận thuộc tỉnh Bình Thuận, hàm chánh thất phẩm, sắc thụ Trung sĩ lang, thụy Đôn giản. 39.-HÀN LÂM VIỆN: Đây là cơ quan lo việc soạn thảo chiếu, chỉ, sắc phong, chế, cáo của nhà vua hoặc soạn những bài biểu các quan dâng lên nhà vua, soạn các văn bản ngoại giao, soạn văn bia. Hàn lâm có nghĩa là “rừng nho”, nơi tập họp những người tài giỏi văn chương của cả nước. Hàn lâm viện được thành lập đầu tiên ở nước ta dưới đời vua Lý Nhân Tông năm 1087 với chức quan đứng đầu là Hàn lâm viện học sĩ (như Mạc Hiển Tích làm Hàn lâm học sĩ). Triều Trần cũng có Hàn lâm viện với chức vụ Hàn lâm viện học sĩ, đến năm 1282 vua Trần Nhân Tông lại đặt chức Hàn lâm viện học sĩ phụng chỉ, có lẽ chức vụ này thay thế cho chức vụ Hàn lâm viện học sĩ, đứng đầu Viện hàn lâm. Ở triều Trần, chức vụ này rất trọng, thường dùng Thái sư, Mật viện kiêm chức, như trong đời Trần Nhân Tông lấy Thái sư Đinh Củng Viên làm Hàn lâm viện học sĩ phụng chỉ kiêm coi Nội mật viện. Trải qua các đời vua, những người

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

137


đảm nhận chức vụ này đều là những nhà nho nỗi tiếng về văn học như Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Lê Quát, Hồ Tông Thốc. Triều Hồ cũng giữ nguyên Hàn lâm viện như dưới triều Trần. Triều Lê, vua Lê Thái Tổ vẫn đặt các quan Hàn lâm viện với những chức vụ Hàn lâm viện học sĩ phụng chỉ, Hàn lâm viện thị độc, Hàn lâm viện thị giảng, Hàn lâm viện trực học sĩ, Hàn lâm viện tri chế cáo, Hàn lâm viện đãi chế, Hàn lâm viện hiệu kiểm, bấy giờ Nguyễn Trãi giữ chức Hàn lâm viện phụng chỉ học sĩ giữ việc soạn các bài chế, cáo. Sau đó vua Lê Thái Tổ lại đặt chức vụ Hàn lâm viện đại học sĩ làm quan Viện trưởng. Vua Lê Thánh Tông định quan chế, đặt Hàn lâm viện là cơ quan phụng mệnh vua khởi thảo các bài chế, cáo, thơ , ca, văn thư, với những chức vụ như sau: -Hàn lâm viện thừa chỉ, đứng đầu Viện hàn lâm. -Hàn lâm viện thị độc giữ việc đọc sách, tham khảo. -Hàn lâm viện thị giảng phụ trách việc giải thích, bình luận, chú thích các văn thư, thơ, ca, chế, biểu. -Tả hữu thuyết thư coi việc giảng nghĩa kinh sách. -Hàn lâm viện thị thư biên chép các văn thư. -Hàn lâm viện đãi chế sẵn sàng cho biết ý kiến về văn từ trong bài chế của nhà vua. -Hàn lâm viện hiệu lý và Hàn lâm viện đãi chiếu giữ việc kiểm sát, chỉnh lý và sẵn sàng cho ý kiến về văn từ trong chiếu chỉ, cùng là chú giải khi có người hỏi về những chữ trong chiếu chỉ của nhà vua. -Hàn lâm viện kiểm thảo giữ việc kiểm thảo các văn thư. Trực thuộc Hàn lâm viện có 3 quán trông coi về việc giáo dục là Sùng văn quán (trông coi về những sách vở, đồ thư để cung cấp tài liệu và chỉ bảo học sinh), Chiêu văn quán (trông coi việc sao chép, sửa sang, hiệu đính tứ khố đồ thư), và Tú lâm cục (trông nom, dạy bảo con các quan viên). Mỗi quán đều có chức Tư huấn đứng đầu và chức Điển nghĩa giúp việc. Phẩm hàm của các quan chức trong Viện hàn lâm và ba quán xin xem ở phần 14.- Cửu phẩm của bài viết này. Ở Đàng Ngoài, vua Lê Trang Tông đặt thêm chức Hàn lâm viện tri chế cáo. Đến đời Bảo Thái (vua Lê Dụ Tông) tại Hàn lâm viện có Hàn lâm viện thừa chỉ, Hàn lâm viện thị độc, Hàn lâm viện thị giảng, Hàn lâm viện thị thư, Hàn lâm viện đãi chế, Hàn lâm viện hiệu lý, Hàn lâm viện hiệu thảo, Hàn lâm viện tả hữu thuyết thư, không thấy chức vụ Hàn lâm viện tri chế cáo. Ở Đàng Trong, mãi đến năm 1744 mới thấy có Hàn lâm viện, nhưng đây là chức vụ chứ không phải là cơ quan Viện hàn lâm như các triều đại trước và sau này, và đây là tên gọi từ chức vụ Văn chức ở các đời chúa khác trước đó chuyển sang khi chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng là Võ vương (như năm 1746 lấy Nguyễn Quang Tiền làm Hàn lâm viện, Quang Tiền học rộng hiểu nhiều, rất giỏi thuật xem sao, xem lịch, những từ lệnh hồi đó phần nhiều do tay ông thảo ra, Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

138


chúa rất yêu trọng (121). Xem như vậy thì cũng thấy mặc dù không lập thành Viện hàn lâm nhưng những người giữ chức vụ Hàn lâm viện dưới thời các chúa Nguyễn cũng là những người tài giỏi. Dưới triều Nguyễn, vua Gia Long đặt Hàn lâm viện có các chức vụ Thừa chỉ, Thị thư, Chế cáo, Thị giảng, Thị độc, Tu soạn, Thị thư viện, Cống sĩ viện. Vua Minh Mạng đặt các chức Thị giảng học sĩ, Biên tu, Kiểm thảo, Điển bạ, Đãi chiếu, Chưởng viện học sĩ, Cung phụng, và bỏ các chức vụ Chế cáo, Thị thư, Thị thư viện, Cống sĩ viện. Vua Thiệu Trị đặt thêm chức Trước tác. Vua Minh Mạng rất coi trọng Viện hàn lâm nên đã nhắc nhở bộ Lễ rằng “Viện hàn lâm là viện thanh qúy sang trọng thời cổ, nay nên chọn người có học giỏi, viết tốt sung vào” . Nhiệm vụ của từng quan chức trong Viện hàn lâm ở triều Nguyễn là: -Hàn lâm viện chưởng viện học sĩ là người đứng đầu Viện hàn lâm, hàm chánh tam phẩm. -Hàn lâm viện trực học sĩ, chức phó, hàm tòng tam phẩm. -Hàn lâm viện thị độc học sĩ, giúp Chưởng viện biên soạn các chỉ dụ, chương sớ, chiếu cáo, bi ký, và sách vở…. Thường được vào chầu hầu trong triều thay Chưởng viện, hàm chánh tứ phẩm. -Hàn lâm viện thị giảng học sĩ, chăm lo việc biên soạn sách, chương sớ, hàm tòng tứ phẩm. -Hàn lâm viện thị độc, dự vào việc giảng dạy và biên soạn sách vở ở Tập hiền viện, Ba đường, Quốc tử giám, Tư giáo trường hậu bổ, Trợ giáo giảng tập, thường được cử giữ chức vụ phụ trách ty Thanh lại 6 bộ, Thông chính sứ, Trưởng sử, hàm chánh ngũ phẩm. -Hàn lâm viện thị giảng, giúp các học sĩ biên soạn sách vở, chương sớ. Khi cần nngười viết sách, viết sử ở Quốc tử giám, Quốc sử quán… lại lấy quan trong triều sung vào chức Thị độc, Thị giảng để làm việc, không hạn định. -Hàn lâm viện thừa chỉ, là chức vụ đầu tiên và cao nhất trong năm đầu đời Gia Long, về sau không dùng chức vụ này, những năm sau lại dùng lại chức vụ này, lo việc biên soạn, giúp việc trong các viện, bộ, hàm tòng ngũ phẩm. -Hàn lâm viện trước tác, biên tập sách, chương sớ của triều đình, được tuyển chọn trong số những Tiến sĩ đệ nhất giáp (tức những người thi đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) khi cần thiết, không hạn định, hàm chánh lục phẩm. -Hàn lâm viện tu soạn, lo việc tu chỉnh, soạn thảo sách vở giúp các học sĩ,thường được sung vào chức Kiểm giáo quốc tử giám, hoặc giảng dạy ở các trường trong nội, hàm tòng lục phẩm. -Hàn lâm viện biên tu, chọn trong những học sinh có văn tự khá thông, chữ viết tốt, hàm chánh thất phẩm.

(121)Đại Nam thực lục tiền biên, Sđd, trang 209.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

139


-Hàn lâm viện kiểm thảo, lo việc kiểm soát văn tự, biên duyệt sách vở giúp Chưởng viện, hàm tòng thất phẩm. -Hàn lâm viện điển tịch, giúp sưu tầm, khảo sát thư tịch, tài liệu cho việc biên soạn lịch sử, giảng tập, hàm chánh bát phẩm. -Hàn lâm viện điển bạ, lo sưu tầm tài liệu, tra cứu giúp biên soạn sách, giáo trình giảng dạy ở các viện, các đường, hàm tòng bát phẩm. -Hàn lâm viện cung phụng, hàm chánh cửu phẩm và Hàn lâm viện đãi chiếu, hàm tòng cửu phẩm, là hai chức vụ thấp nhất ở Viện hàn lâm, thường được bố trí làm thư lại, bút thiếp thức, hành nhân… ở các cấp, bộ, viện. Đối chiếu với Phổ hệ 1994 và Phổ hệ II-1971 có các Ông: -Phan Doãn Đức (2/11) Thị độc nội các. -Phan Ngọc Đức (4/11) Hàn lâm viện thị giảng học sĩ. -Phan Ngọc Trứ (4/12) Hàn lâm viện nghè nội các. -Phan Đôn (2/12) Hàn lâm viện đãi chiếu. -Phan Tiết (2/12) Hàn lâm viện đãi chiếu. -Phan Bá Tảo (2/13) Hàn lâm viện cung phụng. -Phan Đức Thuần (3/13) Hàn lâm viện thị độc. a-Đối với các Ông Phan Doãn Đức, Phan Ngọc Trứ, các Ông đều làm việc trong Nội các là cơ quan văn phòng trung ương triều Nguyễn, nên xin xem ở phần Nội các trong những trang sau của bài viết này. b-Ông Phan Ngọc Đức, Hàn lâm viện thị giảng học sĩ, hàm tòng tứ phẩm, cáo thụ Triều liệt đại phu, thụy Đoan lượng. c-Ông Phan Đôn, Hàn lâm viện đãi chiếu, hàm tòng cửu phẩm, sắc thụ Đăng sĩ tá lang, thụy Cung phác. d-Ông Phan Tiết, Hàn lâm viện đãi chiếu, hàm tòng cửu phẩm, sắc thụ Đăng sĩ tá lang, thụy Cung phác. e-Ông Phan Bá Tảo, Hàn lâm viện cung phụng, hàm chánh cửu phẩm, sắc thụ Đăng sĩ lang, thụy Cung mậu. g-Ông Phan Đức Thuần, Hàn lâm viện thị độc, hàm chánh ngũ phẩm, cáo thụ Phụng nghị đại phu, thụy Đoan trực. 40.-KHUYẾN NÔNG QUAN: Đây là một viên chức chuyên lo về việc phát triển nền nông nghiệp của nhân dân vốn chiếm đại đa số trong nền kinh tế của đất nước. Sử sách cho thấy đến đời vua Trần Thái Tông năm 1250 mới đặt chức Hà đê chánh sứ và Hà đê phó sứ ở các lộ, chuyên lo việc đê điều, đời vua Trần Dụ Tông năm 1334 đặt thêm Khuyến nông ty có các chức Đồn điền sứ và Đồn điền phó sứ. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

140


Nhưng chức vụ Khuyến nông sứ thì chỉ có dưới đời vua Lê Thánh Tông, lần đầu tiên tại nước ta, nhà vua tỏ ra hết sức quan tâm tới đời sống của dân chúng và đặc biệt chú trọng tới nông vụ, đặt ra nhiều cơ quan chuyên trách như: -Sở đồn điền trông coi về ruộng đất tốt xấu, dẫn thủy nhập điền… do Đồn điền sở sứ và Đồn điền phó sứ đứng đầu. Sở này được thiết lập ở 43 đồn điền rãi rác khắp đất nước là Vĩnh Hưng (tên xã, thuộc huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu, thừa tuyên Sơn Nam), Lạc Tràng (tên xã, huyện Kim Bảng, phủ Lý Nhân, thừa tuyên Sơn Nam), Bồng Hải (tên xã, huyện Yên Ninh, phủ Trường Yên, thừa tuyên Thanh Hoa (năm Minh Mạng thứ 20-1839-chia Bồng Hải ra làm 9 xã, đặt thêm 1 tổng), An Trú (tên xã, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, thừa tuyên Hải Dương), An Định (tên huyện, phủ Thiệu Thiên, thừa tuyên Thanh Hoa), Anh Đô (tên phủ, thừa tuyên Nghệ An), Cống Khê (tên xã, huyện Chương Đức, phủ Ứng Thiên, thừa tuyên Sơn Nam), Diễn Châu (tên phủ, thừa tuyên Nghệ An), Đan Nhiễm (tên xã, huyện Văn Giang, phủ Thuận An, thừa tuyên Kinh Bắc), Đức Quang (tên phủ, thừa tuyên Nghệ An), Hà Hoa (tên phủ, thừa tuyên Nghệ An, nay còn 1 xã mang tên Đồn điền tại huyện Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh), Kim Quang ( tên xã, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng, thừa tuyên Hải Dương), Lôi Dương (tên huyện, phủ Thiệu Thiên, thừa tuyên Thanh Hoa), Phấn Trì (tên xã, huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, thừa tuyên Sơn Nam, ngoài ra còn 1 xã mang tên Phấn Trì thuộc huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, thừa tuyên Kinh Bắc), Tư Mại ( tên xã, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, thừa tuyên Kinh Bắc), Tây Tạ (tên xã, huyện Tứ Kỳ, phủ Hạ Hồng, thừa tuyên Hải Dương), Tỉnh Ninh (tên phủ, thừa tuyên Thanh Hoa), Triệu Phong (tên phủ, thừa tuyên Thuận Hoá), Tân Bình (tên phủ, thừa tuyên Thuận Hoá), Thăng Hoa (tên phủ, thừa tuyên Quảng Nam), Tư Nghĩa (tên phủ, thừa tuyên Quảng Nam), Vọng Doanh (tên huyện, phủ Nghĩa Hưng, thừa tuyên Sơn Nam), Vĩnh Ninh (tên huyện, phủ Thiệu Thiên, thừa tuyên Thanh Hoa). Còn 20 sở đồn điền nữa là An Lộc, Dịch Vọng, Đông Lạc, Đại Tảo, Hoa Mộc, Hoa Diệp, Khám Lãng, Liên Thúy, Lục Đàm, Lương Sơn, Minh Tảo, Nam Giản, Phượng Vĩ, Phan Dương, Quán La, Thịnh Quang, Thượng Liệt, Thiên Kiện, La Sơn vì chưa đủ tư liệu và thời gian nên chưa tìm ra được ở các thừa tuyên nào. -Sở tàm tang trông coi về việc trồng dâu nuôi tằm do Tàm tang sở sứ và Tàm tang phó sứ đứng đầu. -Sở thực thái trông coi việc trồng rau do Thực thái sở sứ đứng đầu. -Sở Điền mục trông coi việc chăn nuôi súc vật do Điền mục sở sứ đứng đầu. -Khuyến nông sứ, chức quan khuyên răn dân chúng chú trọng nghề nông. -Hà đê sứ, chức quan gìn giữ đê điều cho dân. Rất tiếc ta không biết được chức vụ Khuyến nông sứ và Hà đê sứ này trực thuộc sở hay địa phương nào vì không có tài liệu, nhưng dù sao đi nữa thì đây cũng là chức quan thấp, hàm chánh và tòng cửu phẩm. Ở Đàng Ngoài, trong quan chức đời Bảo Thái ta thấy ở hàm tòng cửu phẩm có chức Khuyến nông sứ và Hà đê sứ, đều làm việc ở phủ. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

141


Ở Đàng Trong không thấy có chức vụ Khuyến nông sứ. Triều Nguyễn cũng không có chức vụ Khuyến nông sứ. Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có Ông Phan Văn Hàn (2/2), Tổ phái Nhì, là quan Khuyến nông, nhưng như tôi đã trình bày trong bài viết 2, Ông Phan Văn Hàn không thể nào làm quan với chức vụ Khuyến nông sứ được vì hàm của Ông khi chưa ra làm quan đã là chánh lục phẩm, không thể nào khi ra làm quan thực thụ lại chỉ mang hàm chánh cửu phẩm được. Cũng có thể là Ông hoặc không ra làm quan hoặc sau khi về hưu vào những lúc rỗi rảnh Ông đã đem sự hiểu biết về nông nghiệp của mình ra truyền bá cho nhân dân để khuyến khích mọi người chăm lo phát triển nông nghiệp, vì vậy mà đời sau đã gắn cho Ông chức vụ khuyến nông quan vì chức vụ này ở triều Lê chỉ làm nhiệm vụ khuyên răn dân chúng chú trọng nghề nông mà thôi. Có lẽ nhiệm vụ khuyến nông vào thời kỳ đó cũng giống như nhiệm vụ của các tổ khuyến nông ngày nay. Từ chức vụ Khuyến nông quan nầy giúp ta suy ra thêm được những vấn đề liên quan đến việc vào nam của Ngài Thuỷ tổ và chức vụ Cai tổng của Ông Phan Văn Bài, Tổ phái nhất, đó là: -Chức vụ Khuyến nông sứ chỉ có ở triều Lê và ở Đàng Ngoài , còn ở Đàng Trong và cả triều Nguyễn sau này đều không có chức vụ này, nói cách khác, danh từ Khuyến nông sứ không thể xuất hiện vào thời kỳ các chúa Nguyễn ở Đàng Trong được, dù là xuất hiện trong thực tế hoặc trong sổ sách đương thời. Điều này chứng tỏ rằng Ngài Thuỷ tổ chỉ có thể vào nam trước khi chúa Nguyễn Hoàng được lệnh vua Lê Anh Tông vào trấn thủ Thuận Hoá, vì không thể người con lại sống trước người cha. -Cũng tương tự đối với trường hợp của Ông Phan Văn Bài, Tổ phái nhất, Ông là anh Ông Phan Văn Hàn nên cũng phải sống và làm việc vào triều Lê, mà ở triều Lê thì như tôi đã trình bày không có đơn vị hành chánh tổng, là một cấp chính quyền ở dưới huyện và trên xã, nên Ông Phan Văn Bài không thể làm Cai tổng được. 41.-KHÓA SINH: Đây là tên gọi những học trò đã qua được kỳ khảo hạch tại các trường Đốc học ở tỉnh dưới triều Nguyễn. Sử sách cho thấy chế độ khảo khóa (tức khảo hạch) đã có từ triều Hồ qua việc Hồ Hán Thương quy định: “Tháng 8 năm 1404 thi hương, ai đỗ thì được miễn dao dịch. Tháng 8 năm sau thi ở bộ Lễ, ai đỗ thì được bổ dụng. Lại đến tháng 8 năm sau nữa thi hội, ai đỗ được phong Thái học sinh”. Thi hương mà ai đỗ chỉ được miễn dao dịch có lẽ về thực chất chỉ như một kỳ khảo khóa nhằm làm giảm bớt số học sinh không đủ tư cách, tài năng dự thi, góp phần làm cho cuộc thi đỡ tốn kém mà lại tăng thêm phần giá trị, vì như trong câu kế tiếp cho thấy ai thi đỗ ở bộ Lễ thì được bổ dùng, giống như các cử nhân ở đời sau. Có thể triều Hồ không dùng chữ khóa sinh để chỉ những người thi đỗ kỳ thi hương này nhưng thực chất thì rõ ràng là một kỳ khảo khóa. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

142


Triều Lê cũng quy định: “phép thi thì trước thi một bài ám tả để loại bớt người kém”, cũng là mang tính chất một kỳ khảo khóa. Ở Đàng Ngoài và Đàng Trong không thấy đề cập đến vấn đề khảo khóa, nhưng tôi nghĩ cũng có thể có vì từ những năm đầu sau khi trung hưng, cần phải có những người tài giỏi ra làm quan giúp nước thì phép thi có thể châm chước như các khoa thi chế khoa năm 1554, 1565, 1577 dưới các đời vua Lê Trung Tông, Lê Anh Tông, và Lê Thế Tông, thì đến năm 1580 đã khôi phục lại thi hội, rồi đến năm 1678 vua Lê Hy Tông ban hành điều lệ thi hương khi trong nước đã yên ổn, việc học được phát triển, học sinh đã có nhiều. Triều Nguyễn quy định việc khảo khóa “hàng năm cứ đến ngày mồng 1 tháng 2 là kỳ hạch, số lấy trúng tuyển chừng trên dưới 7.000 người, các tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương, Hà Nội, Nam Định, Sơn Tây: 400 người/tỉnh, Thái Bình 460 người, Ninh Bình 300 người, Hưng Hóa 100 người, Hải Phòng 200 người, Bắc Giang 125 người, Hà Nam 100 người, Hưng Yên 240 người, Quảng Yên, Tuyên Quang, Cao Bằng, Hải Ninh, Lạng Sơn, Thái Nguyên 10-20 người/tỉnh. Hạch khảo khóa có 3 bài: một là làm một bài luận bằng chữ nho hoặc là về luân lý ở sách cổ hoặc là về sử Nam hay sử Bắc, hai là ám tả một bài bằng chữ quốc ngữ hoặc là làm Việt văn một bài về quốc sử, địa dư, hoặc là làm một bài luận về cách trí, ba là một bài chữ Hán dịch ra chữ quốc ngữ hoặc là một bài chữ quốc ngữ dịch ra chữ Hán”. Từ năm Thành Thái thứ 18 (1902), nhà vua quy định phép học và phép thi như sau: các tuyển sinh ở các trường phủ, huyện, tuổi dưới 27, học đã thông hiểu, hàng năm đến lỵ sở ở các tỉnh dự kỳ hạch khảo khóa do quan Đốc học làm chủ khảo, ai trúng tuyển kỳ khảo hạch này được gọi là khóa sinh. Hạch khảo khóa gồm có 3 bài: một bài luận bằng chữ Hán (đề bài hoặc về luân lý ở sách cổ hoặc vể sử Nam hay sử Bắc), một bài ám tả bằng chữ quốc ngữ (hoặc một bài chữ quốc ngữ về quốc sử, địa dư, cách trí), một bài chữ Hán dịch ra chữ quốc ngữ. Mỗi bài được chấm và phê điểm từ 0 đến 20 điểm. Chấm xong cộng lại lấy số điểm nhiều ít mà xếp đặt trên dưới, Nếu có ai tình nguyện thi thêm một kỳ chữ Pháp cũng được (phép thi có 2 bài: một bài ám tả chữ Pháp, một bài chữ Pháp dịch ra chữ quốc ngữ), các bài này cũng được phê điểm từ 0 đến 20 điểm, và được lấy số điểm lớn hơn 10 để cộng vào số điểm 3 bài khảo khóa mà xếp đặt trên dưới (giống như thi môn nhiệm ý ngày nay). Các khóa sinh trúng điểm hạng cao (số lượng do nhà nước định hàng năm) sẽ được miễn trừ sưu thuế 3 năm. Đây gọi là bậc tiểu học. Những khóa sinh này còn phải theo học bậc trung học tại tỉnh trong vòng 3 năm nữa, và phải dự đổ một kỳ hạch khảo khóa mới được dự kỳ thi hương (xin xem tiếp ở phần Thí sinh trong bài viết này (122). Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có Ông Phan Văn Lẽ (2/10) là khóa sinh. Xem trong Phổ hệ ta thấy Ông là em Ông Phan Văn Cam mà Ông Phan Văn Cam là cha của Ông Phan Khắc Nhu (đã thi đỗ cử nhân năm 1847), vì vậy Ông Phan Văn Lẽ không phải là khóa sinh theo như quy định đời vua Thành Thái 1902 mà theo quy định trước đó. (122)Đại Nam điển lệ toát yếu, Sđd, trang 387.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

143


42.-KINH BINH THƯ LẠI: Chức vụ này chỉ có ở triều Nguyễn, đây là một chức vụ thuộc văn ban nhưng lại bổ làm việc ở võ ban, giống như trường hợp thư ký thuộc Ngũ đồn của Ông Phan Ngọc Thức nhưng ở một cấp bậc thấp hơn. Trong quan chức đời Minh Mạng, thư lại có các hàm chánh bát phẩm, tòng bát phẩm, chánh cửu phẩm và tòng cửu phẩm. Còn kinh binh thì như ở phần Cai đội của bài viết này tôi đã trình bày, kinh binh gồm thân binh, cấm binh và tinh binh đóng ở kinh sư là Huế. Xem xét quan chức triều Nguyễn ta có thể phân biệt: thư lại hàm chánh bát phẩm không giữ chức vụ bên võ ban, tòng bát phẩm thư lại thì có ở thân binh, chánh cửu phẩm thư lại có ở cấm binh, và tòng cửu phẩm thư lại thì có ở tinh binh (xin xem lại quan chức đời Minh Mạng trong bài viết này). Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có các Ông: -Phan Hưng Toản (5/10) Cảnh binh thư lại. -Phan Văn Quýt (2/11) Kinh binh thư lại. -Phan Văn Nghiện (2/12) Kinh binh thư lại. Cả ba Ông đều không rõ ở quân nào trong kinh binh nên xin ghi lại đây các hàm để Tộc xem xét: -Tòng bát phẩm, sắc thụ Tu chức tá lang, thụy Cung ý. -Chánh cửu phẩm, sắc thụ Đăng sĩ lang, thụy Cung mậu -Tòng cửu phẩm, sắc thụ Đăng sĩ tá lang, thụy Cung phác. (Chữ cảnh binh ở trong trường hợp của Ông Phan Hưng Toản có lẽ là do dịch nhầm từ chữ kinh binh mà ra, vì dưới triều Nguyễn không có đơn vị quân đội nào mang tên là cảnh binh cả, trong khi Ông Phan Hưng Toản là cháu ruột của Ông Phan Kim Huống (vai chú) là người đã trùng tu Phổ hệ vào năm Gia Long thứ 9 – 1810 – nên Ông Phan Hưng Toản có thể sống vào khoảng đời vua Gia Long, Minh Mạng…). 43.-LÃNH BINH: Đây là một chức quan võ chỉ có ở triều Nguyễn từ đời vua Minh Mạng trở về sau, là người đứng đầu quân đội ở một tỉnh. Tỉnh lớn thì đặt 1 lãnh binh (hay đề đốc), 1 phó lãnh binh, 2 quản cơ, 3 phó quản cơ, 5 hiệp quản, 15 suất đội, 16 điển ty đội trưởng, 100 binh lính. Tỉnh trung bình thì đặt 1 lãnh binh (hay 1 phó lãnh binh), 2 quản cơ, 1 phó quản cơ, 1 hiệp quản, 10 suất đội, 10 điển ty đội trưởng, 60 binh lính. Tỉnh nhỏ thì đặt 1 quản cơ, 1 hiệp quản, 6 suất đội, 7 điển ty đội trưởng, 40 binh lính. Về phẩm hàm thì Lãnh binh có hàm chánh tam phẩm, nơi quan trọng như Thanh Hóa, Nghệ An thì có khi Lãnh binh được nâng lên hàm tòng nhị phẩm ở thời gian đầu, nhưng sau đó đến năm Minh Mạng thứ 19 (1838) thì lại rút xuống hàm chánh tam phẩm ngang với các nơi khác. Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có các Ông: Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

144


-Phan Đức Liệu (3/10) Lãnh binh. -Phan Đức Phụng (3/11) Cử nhân lãnh binh. Các Ông đều có hàm là Chánh tam phẩm, cáo thụ Anh dũng tướng quân, thụy Anh túc. (Về hai Ông, xin xem thêm ở phần cử nhân của bài viết này). 44.-LỤC SỰ: Chức vụ lục sự chỉ xuất hiện đầu tiên ở Đàng Ngoài. Trong quan chức đời Bảo Thái, ta thấy chức vụ Lục sự có hàm tòng bát phẩm, nhưng rất tiếc tài liệu không nói rõ chức năng và nhiệm vụ của chức vụ này. Triều Nguyễn, chức vụ lục sự có ở hai nơi: a-Đô sát viện, có các nhiệm vụ sau đây: -Đàn hặc, vạch rõ tội lỗi, vi phạm của các quan lại, kể cả hoàng thân, hoàng tử. -Can gián nhà vua. -Tấu trình trực tiếp với nhà vua. -Ghi chép lời nói, hành động của nhà vua và quan chức trong các ngày hội triều, nghe chính sự. Tài liệu ghi chép nộp cho Sử quán làm tài liệu. -Kiểm tra các bộ, nha trong triều như việc tế tự, thiết triều, ngoại giao, trường thi, kho tàng. -Phúc duyệt các bản án. So với các tổ chức Gián nghị đại phu, Hành khiển, Ngự sử đài, Ngự sử trung tán, 6 khoa ở các triều Lý, Trần, Lê thì Đô sát viện triều Nguyễn công việc rất nặng và quyền hành rất lớn. Đô sát viện triều Nguyễn giám sát cả trong kinh lẫn ngoài tỉnh với quyền độc lập tương đối cao và là thành viên của Tam pháp ty. Quan chức ở Đô sát viện gồm: -Tả hữu đô ngự sử, đứng đầu Đô sát viện, hàm chánh nhị phẩm, ngang hàng với Thượng thư, có nhiệm vụ giữ việc chỉnh đốn chức phận các quan để nghiêm phong hoá cho đúng phép. -Tả hữu phó đô ngự sử, phụ tá cho Tả hữu đô ngự sử, hàm tòng nhị phẩm, ngang hàng với Tham tri, có nhiệm vụ xem xét các việc trong viện, trình bày điều phải, đàn hặc điều trái. -Cấp sự trung phụ trách 6 khoa, hàm chánh ngũ phẩm, có nhiệm vụ vạch rõ sự thực mà hặc tấu khi gặp những việc chậm trể, trái pháp, lầm lẫn, và nhũng tệ quan lại do bọn nha lại đổi trắng thay đen. Các khoa gồm: +Lại khoa: giám sát bộ Lại và Hàn lâm viện. +Hộ khoa: giám sát bộ Hộ, phủ Nội vụ, Tào chính ty, Thương trường. +Lễ khoa : giám sát bộ Lễ, Thái thường tự, Quang lộc tự, Hồng lô tự, Quốc tử giám, Khâm thiên giám. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

145


+Binh khoa: giám sát bộ Binh, Thái bộc tự, Kinh thành đề đốc, Hai kho vũ khí và thuốc súng. +Hình khoa: giám sát bộ Hình và Đại lý tự. +Công khoa: giám sát bộ Công, Vũ khố, Mộc thương. -Giám sát ngự sử 16 đạo, hàm chánh ngũ phẩm, có nhiệm vụ kiểm xét đạo của mình, nếu quan lại có nhũng tệ, tham ô, chậm trễ, trái pháp thì tùy việc mà vạch ra, đàn hặc. Mười sáu đạo gồm: +Đạo Kinh kỳ : giám sát ở Kinh đô. +Đạo Nam Ngãi : 2 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi. +Đạo Bình Phú : 2 tỉnh Bình Định, Phú Yên. +Đạo Thuận Khánh : 2 tỉnh Bình Thuận, Khánh Hòa. +Đạo Định Biên : 2 tỉnh Gia Định, Biên Hòa. +Đạo Long Tường : 2 tỉnh Vĩnh Long, Định Tường. +Đạo An Hà : 2 tỉnh An Giang, Hà Tiên. +Đạo Bình Trị : 2 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị. +Đạo An Tĩnh : 2 tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. +Đạo Thanh Hoa : tỉnh Thanh Hóa. +Đạo Hà Ninh : 2 tỉnh Hà Nội, Ninh Bình. +Đạo Định Yên : 2 tỉnh Nam Định, Hưng Yên. +Đạo Hải An : 2 tỉnh Hải Dương, Quảng Yên. +Đạo Sơn Hưng Tuyên: 3 tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang. +Đạo Ninh Thái : 2 tỉnh Bắc Ninh, Thái Nguyên +Đạo Lạng Bằng : 2 tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng. Để khách quan và đảm bảo hiệu quả công việc cao, vua Minh Mạng quy định các khoa, đạo liên kết với nhau để làm việc: +Đạo Nam Ngãi, Ninh Thái liên kết với Lại khoa. +Đạo Long Tường, Định Yên, Lạng Bằng liên kết với Hộ khoa. +Đạo Định Biên, Hải An liên kết với Lễ khoa. +Đạo An Hà, Thanh Hóa, Sơn Hưng Tuyên liên kết với Binh khoa. +Đạo Thuận Khánh, Bình Trị, Hà Ninh liên kết với Công khoa. +Đạo Bình Phú, An Tĩnh liên kết với Hình khoa. -Lục sự, hàm chánh thất phẩm, phụ trách văn phòng Đô sát viện, có 14 thư lại giúp việc. Trưởng quan Đô sát viện (tức Tả đô ngự sử), Thượng thư 6 bộ, Thông chính sứ, và Đại lý tự khanh họp lại thành “cửu khanh” của triều Nguyễn. b-Viện phúc thẩm, do vua Thành Thái đặt năm 1906 tại Hà Nội. Viện này chuyên xử đoán các án do người Nam chống lên (giống như Tòa án phúc thẩm ngày nay). Viện phúc

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

146


thẩm do 1 viên Phó chưởng viện cầm đầu, có 2 viên Tham nghị, 1 viên Lục sự, 1 viên Thừa biện giúp việc. Rất tiếc tôi không tra cứu được nhiệm vụ của viên lục sự trong Viện phúc thẩm này. Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có Ông Phan Văn Cầm (3/12) là lục sự. Không có tư liệu nào để chứng minh Ông là lục sự ở Viện đô sát hay lục sự ở Viện phúc thẩm vì từ sau năm 1906 hai cơ quan này tồn tại song hành với nhau, nhưng Viện đô sát thì có ở miền Trung là mãnh đất thuộc triều đình Huế, còn Viện phúc thẩm thì có ở Hà Nội thuộc đất bảo hộ của Pháp, từ đó có thể cho rằng Ông Phan Văn Cầm là lục sự ở Viện đô sát, hàm của Ông là chánh thất phẩm, sắc thụ Trung sĩ lang, thụy Đôn giản. 45.-NHIÊU HỌC: Phần này tôi đã trình bày trong bài viết 2 “Góp phần vào hành trình tìm về dòng tộc”. Ở đây tôi chỉ bổ sung thêm, đó là không phải từ “nhiêu học” chỉ mới xuất hiện từ thời các chúa Nguyễn ở Đàng Trong mà đã có từ trước đó nữa, từ đời vua Lê Thánh Tông. Theo đó, năm Hồng Đức 1 (1470), nhà vua định lệ cứ 3 năm làm hộ tịch 1 lần gọi là tiểu điển, 6 năm 1 lần gọi là đại điển, cách làm hộ tịch như sau; “ đầu tiên thi các học trò, người nào sảo thông thì cho làm hạng nhiêu học, thứ đến tra xét những người chức sắc để thanh trừ những kẻ giả mạo, thứ đến duyệt xét nhân đinh…” (123). Ở Đàng Ngoài cũng thi hành lệ làm hộ tịch, nhưng không rõ có còn thi học trò để cho làm nhiêu học hay không. Ở Đàng Trong, năm nhâm thân 1632, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên mới bắt đầu thi hành phép duyệt tuyển, mỗi khi đến kỳ duyệt tuyển thì có lệnh cho học trò các huyện đều đến trấn dinh để khảo thí một ngày. Phép khảo thí thì dùng 1 bài thơ, 1 đạo văn sách, hạn trong 1 ngày làm xong, lấy tri phủ, tri huyện làm sơ khảo, ký lục làm phúc khảo, người trúng thì cho làm nhiêu học, được miễn thuế sai dư 5 năm (kỳ này gọi là thi quận vào mùa xuân). Đến năm bính tuất 1646, chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan mới định phép thi 9 năm 1 lần gọi là thi chính đồ, người thi trúng thì làm danh sách để tiến lên, định làm 3 hạng giáp, ất, bính. Hạng giáp là giám sinh bổ tri phủ, tri huyện. Hạng ất là sinh đồ bổ huấn đạo. Hạng bính cũng là sinh đồ bổ lễ sinh hoặc cho làm nhiêu học mãn đại. Treo bảng ở trước công đường (kỳ này gọi là hội thí mùa thu). Như vậy ta thấy nhiêu học ở triều Lê và nhiêu học ở đời chúa Sãi giống nhau là cùng thực hiện nhân đợt làm hộ khẩu, lấy những người sảo thông bổ làm nhiêu học, cho miễn thuế trong một thời gian. Nhưng dưới đời chúa Thượng thì khác, nhiêu học là người đã trúng kỳ thi chính đồ (hạng bính), mà kỳ thi này xét thực chất cũng như là kỳ thi hương vì người trúng tuyển được bổ vào những chức vụ tri phủ, tri huyện, huấn đạo, lễ sinh… do vậy mà trong bài viết 2, tôi đã nêu ý kiến cho rằng Ông Phan Văn Kiết (3/9) cũng là một nhà khoa bảng của Tộc. 46.-NGŨ ĐỒN QUÂN TRUNG THƯ KÝ:

(123)Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, Quốc dụng chí, trang 221. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

147


Như trong bài viết 2 tôi đã trình bày, đây là một chức vụ thuộc về văn ban giúp việc trong quân đội. Sử sách còn ghi lại ở đời vua Lê Thái Tổ (1428-1433) đã sử dụng văn chức này “mỗi một quân dùng một người sao quân, mỗi một đội dùng một người sao đội. Sao quân, sao đội là viên chức giữ sổ binh lính trong một quân, một đội”, có lẽ nhiệm vụ của sao quân, sao đội cũng giống như thư ký ở các triều sau này. Dưới đời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) ở các vệ quân lại có các viên nho chỉ huy, chọn trong văn chức người nào thi hội trúng trường thì sung vào chức ấy, nhưng không rõ tên gọi của chức vụ này là gì. Xem trong Lịch triều hiến chương loại chí – Quan chức chí, thì thấy có chức vụ ký lục “Lê Thánh Tông trong đời Hồng Đức đi đánh giặc miền tây mới đặt chức ký lục các doanh (bấy giờ sai quan văn là Nguyễn Như Uyên và Nguyễn Căng làm ký lục các doanh), phàm các chức tướng quân siêng năng hay làm biếng, dũng cảm hay nhút nhát, đều ghi rõ để tâu lên. Từ đây khi nào có sai tướng ra quân đều đặt chức ấy (124), hoặc đặt chức tán lý, như vua Lê Thánh Tông năm Quang Thuận thứ 8 (1467) sai tướng đi đánh Ai Lao mới đặt tên quan tán ly, cùng với phó tướng dự coi việc quân (bấy giờ dùng Khiên Nhân Thọ làm Tán lý) (125). Nhưng xem ra các chức vụ Ký lục và Tán lý không đúng như tinh thần quy định dùng cho các viên nho chỉ huy, vì các chức vụ này chỉ đặt khi có việc quân, khi xong thì giải tán. Ở Đàng Ngoài không thấy nói đến văn chức làm việc trong quân đội, tuy cũng có những chức vụ Ký lục và Tán lý, nhưng cũng giống như ở đời vua Lê Thánh Tông, các chức này chỉ đặt khi có việc quân bận rộn, xong thì giải tán. Năm 1791, chúa Nguyễn Phúc Ánh cho đặt 5 đồn quân Ngự lâm, như vậy cộng với 5 đồn quân Thần sách đã có trước đó thành ra quân thân binh là quân thân cận của chúa. Mỗi quân chia ra làm 5 đồn là Trung đồn, Tiền đồn, Tả đồn, Hữu đồn, và Hậu đồn. Mỗi đồn có 5 chi là Trung chi, Tiền chi, Tả chi, Hữu chi, Hậu chi. Mỗi chi chia làm 5 hiệu: Trung hiệu, Tiền hiệu, Tả hiệu, Hữu hiệu, Hậu hiệu. Mỗi hiệu gồm 2 đội. Đứng đầu các đồn là Đô thống chế, Thống chế, Phó thống chế. Đứng đầu các chi là Trưởng chi, Phó trưởng chi. Đứng đầu các hiệu là Trưởng hiệu. Năm 1804, vua Gia Long định quan chức, chức vụ Thư ký hàm Tản giai tòng ngũ phẩm, chức vụ đứng trên cả Tri phủ (hàm chánh lục phẩm). Từ đời vua Minh Mạng trở đi không còn thấy chức vụ thư ký này. Đây cũng là điều dễ hiểu vì Ngũ đồn chỉ phù hợp trong một giai đoạn là chiến tranh giữa chúa Nguyễn Phúc Ánh và triều Tây Sơn mà thôi, và khi Ngũ đồn không còn thì Thư ký ngũ đồn cũng không còn. Đối chiếu với Phổ hệ 1994, có Ông Phan Ngọc Thức (4/9) là Ngũ đồn quân trung thư ký. Chức vụ của Ông được hiểu là Thư ký ở Trung đồn thuộc Ngũ đồn quân Thần sách hoặc quân Ngự lâm, có hàm Tản giai tòng ngũ phẩm. Sở dĩ tôi khẳng định Ông Phan Ngọc Thức ở quân Ngự lâm hoặc quân Thần sách là vì ở thời chúa Nguyễn Phúc Ánh, ngoài hai đội quân thân binh

(124)Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, Quan chức chí, trang 476. (125)Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, Quan chức chí, trang 476. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

148


này, chúa còn có 5 dinh quân là Trung quân, Tả quân, Hữu quân, Hậu quân, và Tiên phong (sau này đổi thành Tiền quân), nhưng 5 dinh quân này không có tổ chức thành ngũ đồn ở trong mỗi quân. 47.-NGŨ TƯỚC: Đây là 5 tước: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Việc phong ngũ tước trong lịch sử được thấy bắt đầu từ triều Chu bên Trung quốc (126) “sau khi đánh xong nhà Ân, vua Vũ Vương phong cho hơn 70 người làm vua chư hầu, chia ra làm 5 bậc là công, hầu, bá, tử, nam. Nước phong cho người tước công, tước hầu thì rộng 100 dặm gọi là đại quốc. Nước phong cho người tước bá thì rộng 70 dặm gọi là trung quốc. Nước phong cho người tước tử, tước nam thì rộng 50 dặm gọi là tiểu quốc”. Ở nước ta, các triều vua đều có phong tước, nhưng sử sách các đời trước không được đầy đủ nên ta chỉ biết được thường thì tước vương chỉ dùng để phong cho thân tộc của nhà vua và cũng không phải là mục tiêu tìm hiểu của bài viết này, nên nơi nào phong tước vương thì tôi không đề cập đến. Triều Lý ban tước, có các tước công (như Lý Thường Kiệt được phong Việt quốc công), hoặc tước hầu (như Đào Cam Mộc được phong tước hầu). Triều Trần, có các tước Quốc công, Thượng hầu, Quan nội hầu, Quan phục hầu, Khai huyện bá. Xem như vậy thì có thể thấy các tước ở đây cũng như chức vụ, có thứ bậc cao thấp khác nhau dù ở ngay trong một tước. Triều Lê, vua Lê Thái Tổ khi khởi nghĩa phong tước có các bậc Á hầu, Thông hầu, Quan phục hầu, Trước phục hầu. Đến khi lên làm vua thì, lấy tước vương và tước công phong cho hoàng tử (như Tư Tề, con cả của Thái Tổ, được phong là Khai quận công), lấy tước hầu để phong cho các công thần và gồm 9 bậc là: Huyện thượng hầu, Á thượng hầu, Hương thượng hầu, Đình thượng hầu, Huyện hầu, Á hầu, Quan nội hầu, Quan phục hầu, Trước phục hầu. Tước phong này cũng tương tự như triều Trần. Vua Lê Thánh Tông năm Hồng Đức thứ 2 (1471) định các tước, phong cho: *Đối với hoàng tộc: -Hoàng tử, được phong tước vương, lấy phủ làm hiệu, như Kiến xương vương là lấy tên phủ Kiến Xương thuộc thừa tuyên Sơn Nam. -Thế tử (con Hoàng tử), được phong tước vương, lấy huyện làm hiệu, như Hải lăng vương là lấy tên huyện Hải Lăng thuộc phủ Triệu Phong thừa tuyên Thuận Hóa. -Con của Hoàng thái tử và Hoàng tử, được phong tước công, dùng mỹ tự làm hiệu, như Triệu khang công có mỹ tự là Triệu khang (điềm tốt bình an). -Con trưởng của Thế tử, được phong tước hầu, dùng mỹ tự, như Vĩnh kiến hầu (dựng lên lâu dài, mãi mãi). (126)Việt Nam sử lược, Sđd, trang 22. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

149


-Hoàng thái tôn (con của Thế tử), và con trưởng của Thân công chúa, được phong tước bá, dùng mỹ tự, như Tĩnh cung bá (thân thể bình an). -Con của Thân công chúa, con trưởng của tước hầu, tước bá, được phong tước tử, dùng mỹ tự, như Diên xương tử (hưng vượng kéo dài). -Con trưởng của Thân công chúa được truy tặng, các con của tước hầu, tước bá, được phong tước nam, dùng mỹ tự, như Quảng trạch nam (chọn lựa rộng lớn). *Đối với công thần, nếu không phải là người đức lớn công to thì không được phong, có các tước: -Quốc công và Quận công, lấy phủ làm hiệu, dùng một chữ, như Phú quốc công là lấy chữ Phú của phủ Phú Bình thuộc thừa tuyên Thái Nguyên, hoặc Tĩnh quốc công là lấy chữ Tĩnh của phủ Tĩnh Gia thuộc thừa tuyên Thanh Hoa. -Tước hầu, tước bá, lấy xã làm hiệu, dùng hai chữ, như Nam xương hầu là lấy tên xã Nam Xương, hoặc Diên hà bá là lấy tên xã Diên Hà. (127). Ở Đàng Ngoài, từ đời vua Lê Kính Tông (1600-1619), chức Tả hữu thị lang phần nhiều được phong tước tử, đến đời vua Lê Hy Tông (1676 - 1705), Thượng thư và Đô ngự sử dự chức Tham tụng, Bồi tụng chỉ được phong tước tử, tước nam, như Tham tụng hình bộ thượng thư Nguyễn Viết Thứ được phong Mai sơn nam, Bồi tụng Đô ngự sử Nguyễn Công Vọng được phong tước Lê ngạn tử. Còn những người được phong tước hầu, tước bá đều là do đặc cách, tước quận công thì không có công lao danh vọng lớn thì không được phong. Ở Đàng Trong cũng dùng ngũ tước để phong cho những người trong hoàng tộc và công thần nhưng quy định như thế nào không được rõ, cũng không lấy tên phủ, huyện, xã v.v… để làm danh hiệu , mà thường dùng mỹ tự như Nhân lộc hầu Nguyễn Phúc Lan (tức chúa Thượng), Dương đàm hầu Trần Ngọc Phân, Dũng lễ hầu Nguyễn Phúc Tần (tức chúa Hiền), Toàn đức hầu Phan Văn Du, Liêm trực hầu Phan Văn Huyền, Tường quận công Tôn Thất Khê, Lương quận công Trương Phước Da v.v… Triều Nguyễn, việc phong ngũ tước cho hoàng thân quốc thích thì rộng rãi, còn đối với người ngoài hoàng tộc thì dù công trạng lớn đến đâu cũng không bao giờ phong tước vương, tước công, ngay cả tước hầu, tước bá cũng hạn chế bằng nhiều cách như: -Chỉ phong tặng cho người đã chết.

(127)Theo Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, trang 530 và Tổ chức chính quyền trung ương dưới triều Lê Thánh Tôn, Sđ, trang 139. Xem Lịch triều hiến chương loại chí thì thấy Duyên Hà là tên huyện thuộc phủ Tiên Hưng và Nam Xang là tên huyện thuộc phủ Lý Nhân, cả hai phủ đều thuộc, có lẽ trong hai huyện này đều có xã cùng tên với huyện. Tổ chức chính quyền trung ương dưới triều Lê Thánh Tôn còn ghi rằng, tước Quận công lấy huyện làm hiệu, dùng 1 chữ như Sùng quận công là lấy tên huyện Sùng An, nhưng xem Dư địa chí thì không thấy tên huyện Sùng An. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

150


-Chuyển đổi tước thành hàm thông thường, như tước hầu đi kèm theo chức vụ từ nhất phẩm đến tứ phẩm, tước bá cho ngũ phẩm, tước tử cho lục phẩm, tước nam cho bát phẩm đến vị nhập lưu. -Thường cũng chỉ phong cho quan võ, có công đánh giặc. -Việc sử dụng danh hiệu phong tước thì theo nguyên tắc: Tước quốc công, quận công, lấy tên một phủ. Tước huyện hầu, á huyện hầu, lấy tên một huyện. Tước bá lấy tên một tổng. Tước tử lấy tên một xã. Tước nam lấy tên một làng. Nhưng trừ các tên phủ, huyện, tổng, xã, làng của tỉnh Thừa Thiên vì đây là kinh đô. -Cáo trục sắc phong ngũ tước dùng chánh sắc vàng, thứ tơ bát ty của Trung quốc, bốn xung quanh đều thêu hoa. Bài văn phong do Viện hàn lâm soạn rồi bộ Lễ tâu xin cho quan khâm mạng tuyên phong. Lễ tuyên phong xong rồi, quan mới được phong dâng biểu tạ ơn. Ngoài ra, triều Nguyễn cũng quy định dùng chữ “công” và “hầu” cho công thần, như hàm nhất phẩm văn võ được dùng chữ công để gọi (như Phan Công, Trần công, Nguyễn công), hàm nhị phẩm võ ban được dùng chữ hầu. Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có: -Ngài Thuỷ tổ Phan Nhơn Bàn, tước phong Địch nghĩa bá -Ông Phan Văn Bài (2/1) Sùng lương bá -Ông Phan Văn Huyền (3/5) Tuấn trung bá -Ông Phan Long Lân (4/5) Nghĩa lý tử -Ông Phan Ích Tráng (5/5) Kiên lộc bá -Ông Phan Văn Du (6/5) Toàn đức hầu -Ông Phan Văn Huyễn (7/5) Liêm trực hầu. 48.- NỘI CÁC: Đây là văn phòng trung ương trực thuộc hoàng đế triều Nguyễn. Nội các được thành lập năm 1829 dưới đời vua Minh Mạng. Thực ra, chức năng của Nội các đã được vua Gia Long đặt cho Tam nội viện (là 3 cơ quan Thị thư viện, Thị hàn viện, và Nội hàn viện). Nhiệm vụ của Thị thư viện và Thị hàn viện là lo việc khởi thảo, phân phát, bảo quản các chiếu dụ cùng văn thư của triều đình, còn Nội hàn viện lo việc ngự chế, thư từ riêng của nhà vua. Năm 1820 vua Minh Mạng đổi Tam nội viện thành Văn thư phòng, nhà vua dụ cho bộ Lại “Văn thư phòng là nơi khu mật của nhà nước, không phải người dự việc cấm không được vào”. Năm 1829 nhà vua lại đổi Văn thư phòng làm Nội các với các nhiệm vụ sau đây: -Văn thư: Nội các là cơ quan hành chánh trung ương, thu nhận và chuyển đạt công văn của các cơ quan trung ương và địa phương, các tờ chế cáo, các sắc lệnh của nhà vua và các chương sớ tấu dâng đều do Nội các khởi thảo, ban ra các cơ quan hoặc tâu lên cho nhà vua. Nội các còn có “phiếu nghĩ” để thẩm định, duyệt các sớ tấu của địa phương, bộ, nha trước khi chuyển lên nhà vua phê duyệt. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

151


-Bí thư: sao chép các thơ văn của nhà vua, quản lý thư sách, theo dõi việc học hành của các hoàng tử, sao chép các lời vua ban cùng tấu nghị của các quan, quản lý thư viện hoàng gia gồm các sách về văn học, sử học, khoa học, chính trị, tôn giáo. -Ấn tín: đảm nhận đóng dấu công văn, chế tạo và cấp phát ấn triện và thẻ bài cho các cơ quan và quan lại. -Giám sát công việc: nhằm thực hiện đúng chế định của nhà nước. -Lưu trữ công văn: công văn được hoàng đế phê duyệt, công văn của triều đình, công văn của các bộ, nha, địa phương,văn bản ngoại giao các nước, tức là toàn bộ châu bản của triều Nguyễn. Về tổ chức, Nội các có 4 sở là: -Thượng bửu sở, quản lý các loại bửu tỷ, quan phòng, đồ ký, bài ngà, các châu dụ, phó dụ. Đóng dấu ấn nhà vua trên công văn, ghi chép chiếu, dụ. chỉ và lập phó bản để gởi đến các cơ quan và địa phương. -Ty luân sở, ghi chép chiếu chỉ của nhà vua, thu nhận các tập tấu, thu phát thẻ bài cho quan chức. -Bí thư sở, ghi chép lời nói, việc làm của nhà vua và tấu trình của các quan, trông coi dụng cụ văn phòng, theo dõi việc học của các hoàng tử, lưu giữ luãt lệ, niêm yết án kiện. -Bản chương sở, lưu giữ công văn, hàng tháng thu nhận tài liệu ở Thượng bửu sở, Ty luân sở đóng thành tập. Bản chương sở có 3 chương là Lại Hộ chương, Lễ Binh chương, và Hình Công chương để phụ trách công việc. Về nhân sự, đứng đầu Nội các có 4 quan chức (2 ở hàm tam phẩm, 2 ở hàm tứ phẩm), 28 thuộc viên (gọi là Nội các hành tẩu) hầu hết đều ở Hàn lâm viện sang. Việc kén chọn người vào làm việc tại Nội các phải do đặc chỉ của nhà vua, những người này nếu được vua khuyên đỏ cho đeo bài vào cúc mới được theo ban tâu việc, người nào đã làm việc ở Nội các thì không được bổ làm quan ở ngoài. Tuy nhiệm vụ và quyền hạn quan trọng như vậy, nhưng triều Nguyễn để tránh tai họa có thể xảy ra nên chỉ đặt quan đứng đầu Nội các hàm tam phẩm. Nội các hành tẩu có các quan chức sau: Thị độc, Tu soạn, Biên tu, Kiểm thảo, Điển bạ, Đải chiếu, Trước tác, Thừa chỉ. Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có các Ông: -Phan Doãn Đức (2/11) Thị độc nội các. -Phan Ngọc Trứ (4/12) Hàn lâm viện sung Nội các . a-Về Ông Phan Doãn Đức, Phổ hệ ghi là cửu phẩm bá hộ, nhưng sách Những ông nghè ông cống triều Nguyễn cho biết Ông đỗ cử nhân khoa 1846 làm quan tới chức Thị độc nội các, Như vậy Ông có chức hàm cao nhất trong số 28 thuộc viên của Nội các, hàm của Ông là Chánh ngũ phẩm, cáo thụ Phụng nghị đại phu, thụy Đoan trực.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

152


b-Về Ông Phan Ngọc Trứ, Phổ hệ ghi Ông là Hàn lâm viện nghè nội các, chữ “nghè” tôi thấy vô nghĩa nên thay bằng chữ “sung” cho phù hợp hơn. Rất tiếc không biết được cấp hàm của Ông ở Hàn lâm viện hoặc ở Nội các là gì nên không ghi được vào đây. 49.- PHẨM TRẬT: Ngoài các chức vụ được xếp trong cửu phẩm để thể hiện phẩm trật của chế độ quan lại, các triều đại còn ban tặng: a-Huân cấp : Huân cấp ở trước đời Lê Thánh Tông hiện nay không còn sử sách để tra cứu. Từ đời vua Lê Thánh Tông, nhà vua quy định: *Văn ban: -Chánh nhất phẩm được huân cấp Thượng trụ quốc. -Tòng nhất phẩm

Trụ quốc.

-Chánh nhị phẩm

Chánh trị thượng khanh.

-Tòng nhị phẩm

Chánh trị khanh.

-Chánh tam phẩm

Tư chánh thượng khanh.

-Tòng tam phẩm

Tư chánh khanh.

-Chánh tứ phẩm

Khuông mỹ doãn.

-Tòng tứ phẩm

Khuông mỹ thiếu doãn.

-Chánh ngũ phẩm

Tu thận doãn.

-Tòng ngũ phẩm

Tu thận thiếu doãn.

*Võ ban: -Chánh nhất phẩm được huân cấp Thượng trụ quốc. -Tòng nhất phẩm

Trụ quốc

-Chánh nhị phẩm

Thượng hộ quân.

-Tòng nhị phẩm

Hộ quân

-Chánh tam phẩm

Thượng khinh xa úy.

-Tòng tam phẩm

Khinh xa úy.

-Chánh tứ phẩm

Kiêu kỵ úy.

-Tòng tứ phẩm

Phi kỵ úy.

-Chánh ngũ phẩm

Vận kỵ úy.

-Tòng ngũ phẩm

Thiết kỵ úy.

*Nội quan: -Chánh tam phẩm được huân cấp Thị trung lệnh. -Tòng tam phẩm

Phó thị trung lệnh.

-Chánh tứ phẩm

Bật trực lệnh.

-Tòng tứ phẩm

Phó bật trực lệnh.

-Chánh ngũ phẩm

Hiệp lượng lệnh.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

153


-Tòng ngũ phẩm

Phó hiệp lượng lệnh.

-Chánh lục phẩm

Sùng liêm chính.

-Tòng lục phẩm

Phó sùng liêm chính.

-Chánh thất phẩm

Thuần lương chính.

-Tòng thất phẩm

Phó thuần lương chính.

-Chánh bát phẩm

Tu sức chính.

-Tòng bát phẩm

Phó tu sức chính.

-Chánh cửu phẩm

Lịch sứ chính.

-Tòng cửu phẩm

Phó lịch sứ chính.

*Tản quan: -Chánh nhất phẩm được huân cấp Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu (bên văn), Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân (bên võ). -Tòng nhất phẩm được huân cấp Sùng tiến bảo lộc đại phu (bên văn), Sùng tiến trấn quốc đại tướng quân (bên võ). -Chánh nhị phẩm được huân cấp Quang tiến đại phu (bên văn), Chiêu nghị tướng quân (bên võ). -Tòng nhị phẩm được huân cấp Phụng trực đại phu (bên văn), Võ huân tướng quân (bên võ). -Chánh tam phẩm được huân cấp Thông chương đại phu (bên văn), Anh liệt tướng quân (bên võ). Xin xem tiếp các hàm thấp hơn ở phần Cửu phẩm trong bài viết này. Ở Đàng Ngoài, tuy không thấy sử sách nói đến phần huân cấp nhưng có thể cho rằng vẫn áp dụng như dưới triều vua Lê Thánh Tông, hoặc nếu có thay đổi thì cũng chỉ chút ít không đáng kể. Ở Đàng Trong không thấy sử sách nói đến huân cấp. Triều Nguyễn mặc dù không quy định huân cấp, nhưng ta thấy có cáo thụ, sắc thụ tức cũng là một dạng huân cấp. b-Hiệu: Được ban cho các công thần, bắt đầu bằng 2 chữ, rồi 8 chữ, người nào xứng với chữ nào thì được gia cho chữ ấy. Có tất cả 24 chữ là: suy trung, dực vận, tá lý, cẩn lễ, tán trị, dương võ, kính thận, minh nghĩa, trinh ý, phụ quốc, hiệp mưu, đồng đức, khiêm cung, đoan nhã, kiệt tiết, tráng liệt, uy dũng, cương chính, bỉnh văn, hiệu thuận, thuần tín, đôn hậu, tuyên lực, tỉnh nạn. Rất tiếc tôi chỉ mới tra được ý nghĩa của 11 chữ là kiệt tiết (hết tiết nghĩa đối với nước), tuyên lực (ra sức), dương võ (phô trương vũ lực), uy dũng (sức mạnh), phụ quốc (giúp nước), thuần tín (giữ lời hứa), hiệp mưu (bày mưu kế), đồng đức (cùng một lòng), tá lý (giúp việc cai trị), dực vận và tán trị (giúp vua), đôn hậu (tính tình nhún nhường êm dịu). Ở Đàng Ngoài, hiệu chỉ dùng có 11 chữ là những chữ mà tôi đã nêu ý nghĩa ở trên. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

154


Ở ĐàngTrong, không thấy sử sách nói đến hiệu, dù có một số những công thần khi chết được phong hiệu như: -Đào Duy Từ được phong Hiệp mưu đồng đức công thần (1634). -Tôn Thất Khê được phong Tá lý công thần (1646). -Nguyễn Hữu Tiến được phong Hiệp mưu tá lý công thần (1666). -Hoàng tử Nguyễn Phúc Hiệp được phong Minh nghĩa tuyên lực công thần (1675). -Nguyễn Hữu Dật được phong Tán trị tĩnh nạn công thần (1681). -Hoàng tử Nguyễn Phúc Diễn được phong Tán lý dương võ công thần (1684). -Hoàng tử Nguyễn Phúc Trăn được phong Thuần tín công thần (1684). -Nguyễn Đức Bảo được phong Tá lý công thần (1694). -Nguyễn Hữu Kính được phong Hiệp tán công thần (1700). -Nguyễn Cửu Ưng được phong Khiêm cung công thần (1705). -Trần Đình Ân được phong Đôn hậu công thần (1706). Đối chiếu với Phổ hệ 1994, ta có thể ghi về Ngài Thuỷ tổ và Ông Phan Văn Bài (1/2) như sau: -Ngài Thuỷ tổ: Dục bảo trung hưng Linh phù tôn thần, Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ Đô chỉ huy sứ Thượng trụ quốc Địch nghĩa bá. -Ông Phan Văn Bài: Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu Thượng trụ quốc Sùng lương bá. 50.-PHÓ QUẢN CƠ: Đây là một chức võ quan và chỉ có ở triều Nguyễn, làm phó chỉ huy một đơn vị cơ gồm có nhiều đội. Phó quản cơ có hàm tòng tứ phẩm, cáo thụ Tín nghĩa đô úy, thụy Tráng nghĩa. Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có Ông Phan Văn Dũ (3/9) là Cai đội thăng thụ Phó kỳ, nói cách khác, chức hàm của Ông là Phó quản cơ, tòng tứ phẩm, cáo thụ Tín nghĩa đô úy, thụy Tráng nghĩa. 51.-QUỐC THỦ: Đây là một tên lạ không có trong quan chức của các triều đại trong lịch sử nước ta, trong bài viết 2 tôi đã đưa ra một giả thuyết để giải thích về tên gọi Quốc thủ này. Xin xem lại bài viết 2 Góp phần vào Hành trình tìm về dòng tộc. 52.-QUAN VIÊN PHỤ: Quan viên phụ tức là người cha sinh ra các quan chức. Hàm quan viên phụ chỉ có ở triều Nguyễn theo quy định từ năm Tự Đức thứ 4 (1851) như sau: Được ghi vào hàng quan viên phụ gồm cha các quan chức văn võ từ ngũ phẩm trở xuống, nhưng cha của quan chức hàm ngũ phẩm thì được miễn sưu dịch là binh, dao, thân, hôn, cước điệu, còn cha của quan chức hàm lục phẩm trở xuống chỉ được miễn binh dịch, còn các thứ khác đều phải nộp như người dân khác, nghĩa là nếu cha của quan chức nào đang sung quân ngũ thì được cho giải ngũ, làng xã sở tại

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

155


phải chọn người khác thay thế. Nếu cha đã được dự vào hạng lão nhiêu (tức trên 60 tuổi, không phải chịu các sưu dịch nói trên) thì cũng phải ghi vào sổ là hàng quan viên phụ (128). Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có các Ông : -Phan Đức Dược (3/8) cha Ông Phan Văn Dũ, Phó quản cơ. -Phan Văn Chiêm (4/8) cha Ông Phan Văn Giáo, Đội trưởng. -Phan Văn Hạp (4/8) cha Ông Phan Văn Hưng, Y sinh. -Phan Văn Nghiêm (5/8) cha Ông Phan Văn Hòa, Tiền phong doanh Cai đội. -Phan Văn Trực (2/9) cha Ông Phan Văn Lang, Cai tổng. -Phan Đức Dũ (3/9) cha Ông Phan Văn Thoại, Đô úy tinh binh. -Phan Văn Khải (3/9) cha Ông Phan Văn Đông, Đội trưởng. -Phan Kim Trâm (5/9) cha Ông Phan Hưng Toản, Kinh binh thư lại. -Phan Kim Huống (5/9) cha Ông Phan Văn Âu, Đội trưởng thất phẩm. -Phan Văn Hồ (2/10) cha Ông Phan Văn Quít, Kinh binh thư lại. -Phan Văn Lang (2/10) cha Ông Phan Văn Học, sắc thụ Đăng sĩ tá lang. -Phan Văn Tỷ (2/10) cha Ông Phan Văn Nhiều, Chi trưởng. -Phan Văn Thành (3/10) cha Ông Phan Văn Thoại, Bá hộ. -Phan Văn Cẩn (2/11) cha Ông Phan Công Vịnh, Đội trưởng. -Phan Văn Ngoạn (2/11) cha Ông Phan Ngọc Thiều, Bá hộ. -Phan Văn Học (2/11) cha Ông Phan Tấn, Cử nhân Tri huyện. -Phan Văn Đường (2/11) cha Ông Phan Văn Tuy, Thư lại. -Phan Văn Giai (2/11) cha Ông Phan Đôn, Tú tài hàn lâm đãi chiếu. -Phan Khắc Quảng (2/11) cha Ông Phan Văn Nghiện, Kinh binh thư lại. -Phan Ngọc Liễn (2/11) cha Ông Phan Thành Tích, Cử nhân Giáo thọ. -Phan Văn Tiếp (3/11) cha Ông Phan Văn Điểu, Cửu phẩm. -Phan Bội Toại (5/11) cha Ông Phan Bá Cảnh, Cử nhân Tri phủ. -Phan Văn Tánh (2/12) cha Ông Phan Văn Thành, Bá hộ. -Phan Văn Đắc (2/12) cha Ông Phan Văn Thứ, Chánh tổng. -Phan Văn Viễn (2/12) cha Ông Phan Văn Phú, Bá hộ. -Phan Văn Hoàng (2/12) cha Ông Phan Kỉnh, Đội trưởng. -Phan Ngọc Thiều (2/12) cha Ông Phan Cừu, Cửu phẩm. -Phan Phiên (2/12) cha Ông Phan Châu, Chánh tổng. -Phan Đức Mậu (3/12) cha Ông Phan Đức Thuần, Hàn lâm viện thị độc. -Phan Văn Mẹo (5/12) cha Ông Phan Văn Tỉnh, Đội trưởng cửu phẩm.

(128)Binh là đi lính. Dao là công d ịch, mỗi người hàng năm phải chịu 20 ngày công dịch cho nên phải đóng thuế 20 ngày này gọi là công sưu; từ năm Thanh Thái thứ 9 (1897) trở đi, công sưu được tính luôn vào thuế thân không phải đóng riêng nữa. Thân là thuế thân. Hôn và cước điệu không rõ là gì. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

156


-Phan Văn Chân (5/12) cha Ông Phan Văn Thìn, Cửu phẩm. -Phan Văn Niên (5/12), xem trong Phổ hệ thì thấy Ông có 5 người con là các Ông Phan Văn Huỳnh, Phan Văn Đợi, Phan Văn Kiếu, Phan Văn Sắt, Phan Văn Đá (trang 262 Phổ hệ 1994), nhưng xem tiếp đời 5/13 (trang 400) thì chỉ thấy ghi có 4 người, còn người con cả là Ông Phan Văn Huỳnh thì không thấy ghi trong Phổ hệ, không rõ vì lý do gì. Cả 4 người con được ghi trong Phổ hệ cũng không thấy ghi Ông nào làm quan ở triều Nguyễn, như vậy có 2 giả thuyết: +Hoặc các con của Ông Phan Văn Niên không có ai làm quan triều Nguyễn, vậy Ông không phải là quan viên phụ. +Hoặc Phổ hệ 1994 đã ghi sót quan chức của 5 người con của Ông văn Niên, trong đó đáng lưu ý là việc Ông Phan Văn Huỳnh đã bị bỏ sót không được ghi vào đời 5/13. 53.-QUAN VIÊN TỬ: Còn được gọi tắt là Viên tử. Đây là chế độ tập ấm dành cho con cái các quan lại của các triều đại, nhưng ở cấp thấp hơn những con được ấm thụ (Xin xem thêm ở phần ấm thụ trong bài viết này). Các triều đại trước Lê sơ hiện nay không còn sử sách để tra cứu, ta chỉ biết được từ đời vua Lê Nhân Tông (1442-1459) đã có chế độ này vì vào năm 1449 nhà vua cho cháu những quan chức từ hàm lục phẩm trở lên và con trai những quan chức hàm thất bát phẩm được miễn dao dịch, các hoạn quan cũng cho 1 người thân được miễn. Nhưng thời bấy giờ không có danh từ quan viên tử. Danh từ quan viên tử chỉ xuất hiện ở Đàng Ngoài thời Lê trung hưng với quy định vào năm 1664 của vua Lê Huyền Tông “công thần khai quốc từ tam thái, tam thiếu trở lên con cháu đời đời được là công thần tôn, công thần trung hưng từ Tả hữu đô đốc, Tả hữu thị lang trở lên con cháu đời đời được là quan viên tử” (129). Vua Lê Hy Tông năm 1677 quy định như sau: -Khai quốc công thần, văn từ chức Thượng thư, Đô ngự sử, Tả hữu thị lang đều được đời đời là công thần tôn. -Các quan chức Tam thái, Tam thiếu, Tả hữu đô đốc, Đồng tri, Thiêm sự, Thượng thư, Đô ngự sử, Ta hữu thị lang, Phó đô, Thừa chỉ được quan viên tử, quan viên tôn 5 đời. -Các quan chức Đề đốc, Tham đốc, Phó đề đốc, Phó tham đốc, Thự vệ, Đô tổng tri sứ, Thừa chính sứ, Đại học sĩ, Tế tửu, Thị độc, Thiêm đô, Tự khanh, Tham nghị, Phủ doãn, Học sĩ, Thị giảng, Tư nghiệp, Thị thư, Hiệu thư được quan viên tử, quan viên tôn 4 đời. -Các quan chức Đề đốc, Đô hiệu điểm, Thự vệ, Tả hữu hiệu điểm, Đô tổng binh sứ, Tổng binh đồng tri, Thiêm sự có tước hầu, Đô khoa, Đề hình, Thị chế, Cấp sự, Hiến sứ, Hiệu

(129)Lịch triều hiến chương lọai chí, Sđd, Quan chức chí, trang 536-538. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

157


lý, Hiệu thảo, Giám sát ngự sử, Tự chính, Thông chính thiêm sự, Kinh lịch, Tư huấn, người dự trúng tiến sĩ được quan viên tử, quan viên tôn 2 đời. -Các quan chức Đô chỉ huy sứ, Tuyên dụ đại sứ, Tuyên úy sứ, Tổng binh, Tham nghị, Thông phán, Lang trung, Hiến phó, Thiếu doãn, Thiếu khanh. Thiêm sự, Trung thư xá nhân. Tư thiên lệnh. Lăng phó, Lăng thừa, Đoán sự, Viên ngoại lang, Thông thừa, Tri phủ được các con là quan viê tử, cháu trưởng là quan viên tôn. Người nào được vinh phong công thần thì các cháu mới được quan viên tôn. -Các quan chức Đô chỉ huy đồng tri, Tổng binh, Tuyên úy đồng tri, Đô chỉ huy thiêm sự, Đồng tri phủ, Điển thư, Chính tự, Khanh thừa, Trưởng sử, Tu soạn, Giáo thụ, Biên lục, Huyện úy, Tri huyện, Tri châu, Tư vụ, Chiếu khám, Điển sử, Bình sự, Điển đô quan, Tri sự, Tẩy mã, Điển hàn, Thái y viện đại sứ, Thông phán, Trị trung, Tư thiên giám giám phó, Huyện thừa, Đồng tri châu, Tư thiên giám ngũ quan chính, Học chính viện sứ, làm việc đã lâu, có quân công (riêng thêm với võ quan), các con được là quan viên tử, còn mới bổ thì các con chỉ được nhiêu nam. -Các quan chức Thận huy tướng quân, Lực sĩ hiệu úy, Thiên hộ, Đô tri, Phó đô tri, Thống chế, Chánh đô úy, Quản lãnh, Chiêu thảo sứ, Phó lực sĩ hiệu úy, Phó thiên hộ, Trung úy, Trung thành lang tướng, Chánh võ úy, Phó quản lãnh, Chiêu thảo đồng tri, Chiêu thảo thiêm sự, Bá hộ, Chánh đề hạt, Phó trung úy, Đề hạt, Phó võ úy, Phó lang tướng, Tiền hậu tả hữu lang tướng, Phòng ngự thiêm sự, Cáp môn sứ, Giám bạ, Đải chiếu. Phủ úy, Phó tự ban, Huấn đạo, Thị độc, Tư nghị, Giảng dụ, Vệ úy, Chủ bạ, Đô sự, Khổng mục, Tri sự, Y phó, Thân nghiệm, Tế sinh đường sứ, Lương y chánh, Lương y phó, Tề huấn, Thông sự sứ, Phó sứ, Tư thần lang, Ngục thừa sứ, Sở khố sứ, Thuế sứ, Vụ sứ, Khuyến nông, Hà đê, Thừa dụ cục chánh, đã thực thụ, có quân công (riêng thêm với võ quan) thì chỉ được 1 con là nhiêu nam. -Các quan chức Tổng thái giám, Đô thái giám, Tham chưởng giám thì được quan viên tử 4 người, quan viên tôn 2 người. Các quan chức Thái giám, Tham tri giám sự, Đồng tri giám sự được quan viên tử 3 người, quan viên tôn 2 người. Các quan chức Thiếu giám, Tả hữu giám thừa, Đề điểm được quan viên tử 2 người, quan viên tôn 2 người. Các quan chức Ty chánh, Ty phó, Phụng ngự, Chưởng bạ, Thừa phó được quan viên tử 2 người. Năm Bảo Thái 1722, vua Lê Dụ Tông quy định lại như sau: Công thần khai quốc chỉ ngành trưởng đời đời được 1 người làm công thần tôn. Công thần trung hưng được đời đời làm công thần tôn. Các công thần thì cho được 5 đời, 4 đời, 3 đời khác nhau, Các quan văn võ từ hàm nhị phẩm trở lên thì con cháu được là quan viên tử quan viên tôn, chắt trưởng được quan viên tôn. Các quan văn võ hàm tam tứ phẩm thì thì con cháu được quan viên tử quan viên tôn. Các quan văn võ hàm ngũ lục phẩm thì các con là quan viên tử, cháu trưởng được quan viên tôn, các cháu khác chỉ được miễn dịch. Các quan văn võ hàm thất bát phẩm thì các con được quan viên tử. Các quan văn võ hàm cửu phẩm, quan mới bổ, tạp lưu thì 1 con được nhiêu nam.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

158


Nội giám thì giảm 1 bậc, từ nhất đến tứ phẩm cho 3 con nuôi là quan viên tử, từ ngũ lục phẩm cho 2 con nuôi là quan viên tử, từ thất bát phẩm chỉ được 1 con nuôi là quan viên tử. Ở Đàng Trong không thấy nói đến quan viên tử. Triều Nguyễn quy định chế độ quan viên tử như sau: Tất cả con các quan chức văn võ đều là quan viên tử, trừ những người đã được công nhận là ấm sinh và người được ấm thụ (bậc cao hơn quan viên tử, xin xem thêm ở phần ấm sinh và ấm thụ trong bài viết này). Cũng có sách cho rằng quan viên tử là từ chung gọi con các quan chức vừa và nhỏ, sau này trở thành một hàm được trao cho con cái những viên chức nhà nước bằng cách bỏ tiền mua để có vị trí chính thức trong hương thôn (130). Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có các Ông: -Phan Văn Đạt, Phan Văn Giảng, Phan Văn Lữ (3/10) con Ông Phan Văn Dũ, Phó quản cơ. -Phan văn Chấn (4/10) con Ông Phan Văn Giáo, Đội trưởng. -Phan Văn Hội, Phan Văn Sâm (4/10) con Ông Phan Văn Hưng, Y sinh. -Phan Văn Hưng (5/10) con Ông Phan Văn Hòa, Tiền phong doanh Cai đội. -Phan Văn Nhượng, Phan Văn Bình, Phan thạch Cự, Phan Văn Giai, Phan Văn Vinh, Phan Văn Học (2/11) con Ông Phan Văn Lang, Cai tổng. -Phan Đức Loan, Phan Đức Chợ, Phan Đức Giá (3/11) con Ông Phan Đức Liệu, Lãnh binh. -Phan Văn An (3/11) con Ông Phan Văn Thoại, Đô úy tinh binh. -Phan Văn Thân, Phan Văn Lư (3/11) con Ông Phan Văn Đông, Đội trưởng. -Phan Ngọc Nhuận, Phan Ngọc Thành, Phan Ngọc Châu, Phan Ngọc Long (4/11) con Ông Phan Ngọc Kỳ, Chánh đội trưởng. -Phan Ngọc Đức, Phan Ngọc Thanh, Phan Ngọc Ân (4/11) con Ông Phan Ngọc Trí, Án sát. -Phan Văn Thi, Phan Văn Thể, Phan Văn Thanh, Phan Văn Dương, Phan Văn Truyền (5/11) con Ông Phan Hưng Toản, Kinh binh thư lại. -Phan Văn Cẩn, Phan Văn Nhàn (2/12) con Ông Phan Văn Quít, Kinh binh thư lại. -Phan Doãn Cung, Phan Văn Quỳnh, Phan Văn Huệ, Phan Văn Kỳ, Phan Văn Hiếu, Phan Quý Tặng, Phan Văn Biểu, Phan Văn Khuê, Phan Văn Sum, Phan Văn Như (2/12) con Ông Phan Doãn Đức, Thị độc nội các. -Phan Khắc Doãn, Phan Khắc Mại, Phan Văn Đệ, Phan Văn Mô, Phan Định, Phan Phụng Cơ, Phan Văn Mai, Phan Văn Chuẩn, Phan Khắc Phục, Phan Khắc Xương, Phan KhắcTiếu (2/12) con Ông Phan Khắc Nhu, Án sát. -Phan Quang, Phan Phương, Phan Phiên, Phan Khứ (2/12) con Ông Phan Văn Học, sắc thụ Đăng sĩ tá lang. (130)Tìm hiểu quan chức triều Nguyễn, Sđd, trang 177.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

159


-Phan Văn Tiến, Phan Văn Đồn, Phan Văn Đó (2/12) con Ông Phan Văn Nhiều, Chi trưởng. -Phan Văn Bình (2/12) con Ông Phan Văn Cân, Chi trưởng. -Phan Văn Luật (2/12) con Ông Phan Văn Cáp, Đội trưởng. -Phan Đức Quang, Phan Đức Tân (3/12) con Ông Phan Đức Phụng, Lãnh binh. -Phan Ngọc Phổ, Phan Ngọc Nghê, Phan Ngọc Đoan (4/12) con Ông Phan Ngọc Đức, Hàn lâm viện thị giảng học sĩ. -Phan Ngọc Khánh, Phan Ngọc Đoàn, Phan Bình, Phan Trị (4/12) con Ông Phan Ngọc Thanh, Tri huyện. -Phan Văn Hóa (2/13) con Ông Phan Văn Tuy, Thư lại. -Phan Văn Thế, Phan Văn Cừu, Phan Văn Trữ, Phan Văn Hành, Phan Văn Liễu, Phan Văn Du (2/13) con Ông Phan Đôn, Hàn lâm viện đãi chiếu. -Phan Phụng Lãm, Phan Hạnh, Phan Duy Khương, Phan Thiệp, Phan Tam (2/13) con Ông Phan Tiết, Hàn lâm viện đãi chiếu. -Phan Văn Hai, Phan Văn Ba, Phan Văn Cường, Phan Văn Đá, Phan Văn Út, Phan Văn Hiến (2/13) con Ông Phan Thành Danh, Bá hộ. -Phan Đức Hạnh (3/13) con Ông Phan Đức Thạnh, Tri phủ. -Phan Văn Khuê, Phan Thành Tài, Phan Thành Pháp, Phan Văn Võ, Phan Văn Phiến, Phan Thành Du (2/13), con Ông Phan Thành Tích, Giáo thụ. -Phan Khắc Nhượng, Phan thiệu Kỳ (2/13) con Ông Phan Công Liêm, Đội trưởng. -Phan Văn Đáng (2/13) con Ông Phan Công Vinh, Đội trưởng. -Phan Võ, Phan Cừu, Phan Dật, Phan Hoán, Phan Tuyên, Phan Bá (2/13) con Ông Phan Ngọc Thiều, Bá hộ. -Phan Lự (2/13) con Ông Phan Doãn Cung, Bá hộ. -Phan Văn Văn, Phan Bá Tuyên, Phan Trinh (2/13), con Ông Phan Duy Hinh, Bá hộ. -Phan Nguyên, Phan Liễu, Phan Lễ (2/13) con Ông Phan Văn Quỳnh, Bá hộ. -Phan Văn Cáo, Phan Văn Củ, Phan Văn Không (2/13) con Ông Phan Qúy Tặng, Cửu phẩm. -Phan Khôi (2/13) con Ông Phan Trân, Tri phủ. -Phan Văn Thu, Phan Văn Diệu, Phan Văn Luyện, Phan Văn Ngạnh, Phan Văn Cư, Phan Văn Vị, (2/13) con Ông Phan Doãn Tế, Bá hộ. -Phan Huy, Phan Lạng, Phan Văn Thọ, Phan Vinh (2/13) con Ông Phan Tấn, Tri huyện. -Phan Văn Ngô, Phan Toại, Phan Diêu, Phan Văn Tùng, Phan Quy, Phan Văn Dậu, Phan Văn Tuất, Phan Canh, Phan Văn Lưu (2/13) con Ông Phan Phương, Bá hộ.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

160


Trong danh sách quan viên phụ, quan viên tử nêu trên, vì số lượng các Ông có rất nhiều nên có thể xảy ra trường hợp thiếu sót, điều này nằm ngoài ý muốn của tôi, xin Tộc thông cảm. 54.-QUẢN CƠ: Đây là một chức vụ thuộc võ ban và chỉ xuất hiện từ đời vua Minh Mạng (1827) trở về sau, và chỉ có ở các tỉnh (không có chức vụ Quản cơ tại quân đội ở kinh đô). Mỗi tỉnh có quân đội (gọi là tỉnh binh) chia ra làm vệ, cơ, đội. Số lượng vệ, cơ, đội tùy thuộc vào tỉnh là loại lớn, trung, nhỏ. Ta có thể xem cách tổ chức quân đội ở một số tỉnh như sau: tỉnh Hà Nội có 2 quân hiệu chữ Chấn và chữ Định, mỗi quân hiệu có 5 cơ Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu, như vậy tỉnh Hà Nội có 10 cơ là cơ Trung chấn, Tiền chấn, Tả chấn, Hữu chấn, Hậu chấn, Trung định, Tiền định, Tả định, Hữu định, Hậu định. Tương tự như tỉnh Hà Nội, tỉnh Nam Định có 10 cơ thuộc 2 quân hiệu chữ Cường và chữ Tiệp, tỉnh Hải Dương có 10 cơ thuộc 2 quân hiệu chữ Kiên và chữ Nhuệ, tỉnh Sơn Tây có 10 cơ thuộc 2 quân hiệu chữ Hùng và chữ Dũng, tỉnh Bắc Ninh có 10 cơ thuộc 2 quân hiệu chữ Uy và chữ Thắng. Trong quan chế triều Nguyễn, Quản cơ có hàm chánh tứ phẩm, cáo thụ Minh nghĩa đô úy, thụy Tráng dực. Đối chiếu với Phổ hệ 1994, có Ông Phan Văn Cường (2/13) là Quản cơ, chánh tứ phẩm, cáo thụ Minh nghĩa đô úy, thụy Tráng dực. 55.-SẮC TỨ THỌ DÂN: Đây là một sắc phong của các vua triều Nguyễn cho những người sống lâu, có tuổi thọ cao. Quy định sắc phong như sau (131): -Các quan chức bên văn từ tứ phẩm, bên võ từ tam phẩm trở lên, thọ 80 tuổi. -Các quan chức bên văn từ ngũ phẩm, bên võ từ tứ phẩm trở xuống, thọ 90 tuổi. -Các quan chức bên văn từ lục phẩm, bên võ từ ngũ phẫm trở xuống, các viên chức tá nhị và tạp giai, thọ 100 tuổi. -Đối với hạng bình dân, nếu có ai thọ đến 100 tuổi thì chỉ xét các ông lão mà không xét các bà lão, nếu đã vào danh sách để thưởng mà kế đó vì bệnh già chết đi thì sẽ ban thưởng, nhưng thưởng biển hoành thì đình chỉ. Ngoài việc sắc phong cho những người sống thọ, triều Nguyễn còn phong cho: -Nhà nào có 5 đời đều còn sống và ở một nhà (ngũ đại đồng đường), được thưởng 20 lượng bạc, 20 tấm vãi sợi, 10 tấm lụa. 1 tấm đoạn và 1 biển hoành có 4 chữ “Dịch thế diễn trường” (nghĩa là mấy đời liên tiếp hưởng sự tốt lành). -Nhà nào có hiếu tử (con hiếu), thuận tôn (cháu thuận), nghĩa phu (chồng có nghĩa với vợ), tiết hạnh (vợ giữ trinh tiết với chồng), đếu ban biển vàng (biển son chữ vàng) có các chữ Hiếu thuận khả phong, Nghĩa hạnh khả phong, Tiết hạnh khả phong.

(131)Đại Nam điển lệ toát yếu, Sđd, trang 349. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

161


-Năm Thành Thái thứ 9 (1894) biển hoành phong cho tiết phụ được quy định cao 1 thước 4 tấc 4 phân, ngang 23 thước 5 tấc 2 phân, bốn bề nẹp bằng mây, ở giữa biển khắc ngang 4 chữ lớn “Tiết hạnh khả phong”, bên phải cạnh chử Tiết khắc niên hiệu và những chữ chế tạo vào ngày lành tháng mấy, bên dưới chữ Khả phong có khắc mấy dòng chữ là tên họ, quán chỉ (ở tỉnh, phủ, huyện, tổng, xã) có tiết hạnh, danh tiếng được nhà vua nghe đến, vậy đặc cách cho biển tinh biểu (nêu ra để làm gương) này. Các chữ đều sơn son thếp vàng, và phí khoản cũng do Tiết phụ bỏ tiền ra làm, nhưng nếu không có tiền thì quan tỉnh phải giúp mà chế ra tấm biển này. Rất tiếc tôi không có đủ tài liệu để miêu tả biển hoành của các sắc phong, nhưng cũng có thể từ biển hoành của Tiết hạnh khả phong mà suy ra biển hoành của các sắc phong khác. Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có Ông Phan Văn Nhụy (2/10) được ghi là Sắc tứ thọ dân, theo tôi nghĩ đây là sắc phong thọ đã trình bày ở trên, như vậy Ông Phan Văn Nhụy phải sống trên 100 tuổi. 56.-THAM TÁ: Đây là một quan chức làm việc tại Nha Kinh lược Bắc kỳ (132). Nha Kinh lược Bắc kỳ do vua Hàm Nghi đặt vào năm 1884, gồm những quan chức là: 1 Đại sứ, 1 Chánh tham biện, 1 Phó tham biện, 1 Chủ sự, 1 Tư vụ, 1 Bát phẩm thư lại, 2 Cửu phẩm thư lại, 6 Vị nhập lưu thư lại, 2 Hành nhân, bên võ có Hiệp quản, Suất đội , và binh lính. Năm Thành Thái thứ 2 (1890), nhà vua định quan lại tại Nha Kinh lược Bắc kỳ gồm: 1 Đại sứ, 1 Thương tá, 1 Tham tá, 1 Viên ngoại, 1 Chủ sự, 1 Tư vụ, 1 Bát phẩm thư lại, 2 Cửu phẩm thư lại, 4 Thư lại, bên võ có Quản cơ, Suất đội, và binh lính. Năm Thành Thái thứ 9 (1897) nhà vua bải bỏ Nha Kinh lược Bắc kỳ vì ít việc. Như vậy Nha Kinh lược Bắc kỳ chỉ tồn tại được 14 năm (1884-1897), riêng chức vụ Tham tá chỉ tồn tại được 8 năm (1890-1897). Tôi không có tài liệu để xác định công việc của Nha Kinh lược Bắc kỳ, chỉ biết được rằng khi thành lập vua Hàm Nghi có quy định các tỉnh ở Bắc kỳ có khuyết chức Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chánh và Án sát thì cho quyền Nha Kinh lược được chọn người mà đề cử, còn vua Thành Thái thì quy định các quan từ Bố chánh, Án sát làm việc giỏi dang thì cứ đến tết Nguyên đán và tết Chánh trung (ngày Quốc khánh Pháp 14 tháng 7) sẽ do Nha Kinh lược tư bộ cho thăng trật. Xem như vậy thì có thể thấy quyền hành của Nha Kinh lược Bắc kỳ thật lớn, vì Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chánh, Án sát là những quan đầu tỉnh. Tôi cũng không có tài liệu để xác định hàm của các quan chức trong Nha Kinh lược, nhưng có thể thấy với quyền hành đã được quy định, chức vụ Đại sứ phải bằng hoặc cao hơn chức vụ Tổng đốc, mà Tổng đốc có hàm chánh nhị phẩm, vậy Đại sứ phải có hàm từ chánh nhị phẩm trở lên. Tương tự như vậy, chức vụ Tham tá đứng trên các chức vụ Viên ngoại, Chủ sự, Tư (132)Đại Nam điển lệ toát yếu, Sđd, các trang 27, 33. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

162


vụ, mà chức vụ Tư vụ thì có hàm chánh thất phẩm, chức Chủ sự có hàm chánh lục phẩm, chức Viên ngoại có hàm chánh ngũ phẩm, vậy chức vụ Tham tá phải có hàm từ chánh tứ phẩm trở lên. Sách “Tìm hiểu quan chức triều Nguyễn” có ghi nhận các chức vụ Tham tá như sau (133): -Tham tá nội các: chức quan trong Nội các, hàm tòng tam phẩm, chuyên phụ tá cho vị trưởng quan ở Nội các. Tôi nghĩ không đúng vì đứng đầu Nội các là 4 người gồm 2 người hàm tam phẩm và 2 người hàm tứ phẩm, Tham tá nội các có hàm tòng tam phẩm nên không thể làm phụ tá cho trưởng quan ở Nội các được. -Tham tá đại thần: chức quan quan trọng ở Trấn Tây, chuyên giúp quan Khâm sai thống chế, có hàm chánh nhị phẩm, năm Thiệu Trị thứ 2 (1841) bỏ chức quan này. Như vậy chức vụ này chỉ có ở Trấn Tây (tức là Nam vang-Kampuchia) và cũng chỉ có đến năm 1841 là chấm dứt. Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có các Ông: -Phan Hạnh (2/13) Tham tá -Phan Lưu (2/13) Tham tá Tôi nghĩ các Ông không phải là Tham tá tại Nha Kinh lược Bắc kỳ vì những lý do sau đây: -Nha Kinh lược Bắc kỳ và chức vụ Tham tá ở nha này đã chấm dứt nhiệm vụ vào năm 1897. -Xem trong Phổ hệ ta thấy bác ruột Ông Phan Hạnh là Ông Phan Trân (2/12), đổ Phó bảng năm 1895, 2 năm trước khi Nha Kinh lược chấm dứt nhiệm vụ, Ông còn có các em ruột là Ông Phan Thanh (chí sĩ cách mạng, sinh năm 1908, chết năm 1939), Ông Phan Bôi tức Hoàng hữu Nam (Thứ trưởng Bộ Nội vụ, sinh năm 1910, chết năm 1949), như vậy Ông Phan Hạnh phải sinh khoảng năm 1900, không thể làm Tham tá Nha Kinh lược được. -Cũng trong Phổ hệ ta thấy Ông Phan Lưu có chú ruột là Ông Phan Lục (2/12) đổ cử nhân năm 1891, chỉ 6 năm trước khi Nha Kinh lược chấm dứt nhiệm vụ, thời gian này chắc chắn là Ông Phan Lưu còn nhỏ. -Hơn nữa, Tham tá có hàm chánh tứ phẩm trở lên, giả dụ các Ông Phan Hạnh và Phan Lưu đồng thời đổ cử nhân cùng lúc với Ông Phan Trân hoặc Phan Lục, thì các Ông cũng không có đủ thời gian để lên đến hàm chánh tứ phẩm để giữ chức vụ Tham tá được. Rất tiếc tôi không có tài liệu để xác định các Ông là Tham tá ở thời kỳ nào, nên chỉ xin nêu ra đây để Tộc xem xét và sau này bổ sung cho chính xác. 57-THÍ SINH: Xin xem lại phần Khóa sinh trong bài viết này trước khi xem phần Thí sinh vì hai phần này có liên quan với nhau.

(133) Sách đã dẫn, trang 212-213.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

163


Theo Nghị định mới về phép học và phép thi được ban hành vào năm Thành Thái thứ 18 (1902) thì những khóa sinh ở các trường tỉnh, tuổi dưới 30, học đã tinh thông trong 3 năm sẽ được khảo hạch một lần do quan Đốc học làm chủ khảo, để kén lấy học trò dự kỳ thi hương, các người trúng tuyển kỳ hạch này được gọi là Thí sinh. Đầu đề kỳ hạch này có 3 bài: một bài luận chữ Hán (đề về luân lý,văn học, Nam sử, Bắc sử, chánh trị nước Nam), một bài luận chữ quốc ngữ (đề về văn học, sử ký, địa dư, cách trí), một bài ám tả bằng chữ Pháp hoặc chữ Pháp dịch ra chữ quốc ngữ hoặc chữ Hán. Mỗi một bài được phê điểm từ 0 đến 20, cộng lấy số điểm nhiều ít mà xếp thứ bậc trên dưới. Các học trò dự hạch đỗ cao (số lượng do Nhà nước quy định) được miễn trừ sưu thuế 1 năm. Đây gọi là bậc trung học (134). Chỉ có các thí sinh mới được dự kỳ thi hương. Các thí sinh hỏng kỳ thi hương thì khoa sau sẽ phải hạch lại, nếu có trúng tuyển thì mới được dự kỳ thi hương tiếp. Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có các Ông: -Phan Văn Cam (2/10) -Phan Khắc Quảng (2/11) -Phan Ngọc Liễn (2/11) -Phan Văn Tấn (3/11) -Phan Văn Sum (2/12) -Phan thúc Luyện (2/12) -Phan Thành Trung (2/12) -Phan Công Liêm (2/12) -Phan Nhụy (2/13) -Phan Văn Phiến (2/13) -Phan Văn Thế (2/13) -Phan Dục (2/13) -Phan Duy Khương (2/13) Như vậy, mặc dù không đỗ trong các kỳ thi hương, các Ông vẫn là những người có học, góp phần làm rạng rỡ dòng tộc. 58.-THƯ LẠI: Sử sách còn để lại ngày nay cho thấy Thư lại chỉ bắt đầu xuất hiện ở triều Nguyễn. Cũng xin nói thêm rằng khi Phan Huy Chú viết Lịch triều hiến chương loại chí, tác giả đã bỏ không liệt kê quan chức từ tòng bát phẩm đến tòng cửu phẩm nên không biết được trong số không liệt kê này có chức vụ Thư lại hay một chức vụ mang tên khác nhưng có công việc giống như Thư lại hay không, xem tiếp sách Tổ chức chính quyền trung ương dưới triều vua Lê Thánh Tông, mặc dù sách có liệt kê đến hàm tòng cửu phẩm nhưng cũng không thấy chức danh Thư lại hay một chức vụ nào tương tự.

(134)Đại Nam điển lệ toát yếu, Sđd, trang 389-395.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

164


Ở Đàng Ngoài, quan chức đời Bảo Thái (1720) cũng không thấy có chức vụ Thư lại. Ở Đàng Trong cũng không có chức vụ Thư lại. Triều Nguyễn, vua Gia Long năm 1804 định quan chức, thấy có chức vụ Thư lại vị nhập lưu ở hàm tòng cửu phẩm văn ban. Năm 1827 vua Minh Mạng ban định quan chức, Thư lại có các hàm từ chánh bát phẩm xuống đến vị nhập lưu với các tên gọi chánh thức là: chánh bát phẩm thư lại, tòng bát phẩm thư lại, chánh cửu phẩm thư lại, tòng cửu phẩm thư lại, vị nhập lưu thư lại. Sách Đại Nam điển lệ toát yếu cho biết năm đầu niên hiệu Thành Thái khi định ngạch quan lại ở Bắc kỳ, có các chức vụ Thư lại như sau: -Ở tỉnh lớn có 12 thư lại ở ty Phiên, 8 thư lại ở ty Niết. Ở tỉnh trung có 8 thư lại ở ty Phiên, 5 thư lại ở ty Niết. Ở tỉnh nhỏ có 5 thư lại ở ty Phiên, 3 thư lại ở ty Niết. -Ở các đạo có 4 thư lại. -Ở phủ có 1 lại mục, 3 thông lại. -Ở huyện, châu có 1 lại mục, 2 thông lại. -Ở phân phủ có 1 lại mục, 2 thông lại. (135) Xem như vậy thì có thể thấy chức vụ Thư lại chỉ có ở cấp tỉnh, đạo, còn từ phủ trở xuống chỉ có chức vụ Lại mục và Thông lại mà thôi. Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có Ông Phan Văn Tuy (2/12) là Thư lại, vậy Ông tùng sự tại tỉnh, vì trong Phổ hệ không ghi nhận phẩm hàm của Ông nên chỉ xin ghi ra đây các phẩm hàm của Thư lại để Tộc tham khảo: -Chánh bát phẩm thư lại, sắc thụ Tu chức lang, thụy Cung doãn. -Tòng bát phẩm thư lại, sắc thụ Tu chức tá lang, thụy Cung ý. -Chánh cửu phẩm thư lại, sắc thụ Đăng sĩ lang, thụy Cung mậu. -Tòng cửu phẩm thư lại, sắc thụ Đăng sĩ tá lang, thụy Cung phác. -Vị nhập lưu thư lại, vì chưa được thực thụ nên không có phẩm hàm và không có sắc thụ cũng như tên thụy. 59.-THỨ ĐỘI TRƯỞNG: Sử liệu không cho ta biết được Thứ đội trưởng đã có từ thời kỳ nào trong lịch sử, xem Lịch triều hiến chương loại chí-Quan chức chí chỉ thấy tác giả liệt kê quan chức dưới đời vua Lê Thánh Tông bên võ ban đến hàm tòng thất phẩm, còn bát phẩm và cửu phẩm thì không thấy nên không thể biết được chính xác. Tuy nhiên, cũng trong Lịch triều hiến chương loại chí-Binh chế chí, khi viết về Đàng Ngoài cho thấy có chức vụ Thứ đội trưởng sau thời trung hưng (sau năm 1532 là năm vua Lê Trang Tông được Nguyễn Kim đưa lên ngôi) thì nhất binh ở bốn trấn số người không nhiều, ruộng khẩu

(135)Sách đã dẫn, trang 29-33.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

165


phần đều có hạn chế, trong đó Thứ đội trưởng mỗi người được 8 mẫu” (136). Từ quan chế Đàng Ngoài có Thứ đội trưởng cho ta thấy có thể dưới đời vua Lê Thánh Tông, bên võ ban đã có chức vụ này, nhưng dù sao đây cũng chỉ là suy đoán. Ở Đàng Trong cũng có chức vụ Thứ đội trưởng qua các sử liệu. Đại Nam thực lục tiền biên cho thấy chức vụ Thứ đội trưởng xuất hiện lần đầu vào năm đinh dậu 1657 khi chúa Nguyễn Phúc Tần (chúa Hiền) sai Văn Tường, Hoàng Sinh, Thế Lương đem mật thư đến dụ Phạm Hữu Lễ ở Sơn Tây, rồi cho Thế Lương làm Thứ đội trưởng, Văn Tường làm Cai hợp (137). Còn Phủ biên tạp lục thì viết “các chức được cấp phu bao nhiêu người được miễn dân đinh tạp dịch, cho lấy tiền thuế thân của phu ấy làm ngụ lộc. Lại phải nộp tiền lễ, gạo lễ về phu hầu để thuê mướn người đi theo thuyền thuế chở đến Phú xuân, như năm kỷ sửu, tri phủ Thăng Hoa nộp tiền 1 quan 5 tiền-gạo 15 bát, tri huyện, huấn đạo mỗi người 1 quan 1 tiền-gạo 15 bát, cai phủ 1 quan 7 tiền-gạo 15 bát, ký phủ 1 quan-gạo 15 bát, ký huyện, ký thuộc, cai tổng, cai man mỗi người 8 tiền-gạo 12 bát, chính ty trưởng, cai quan mỗi người 1 quan 3 tiền-gạo 15 bát, ty quan 1 quan 2 tiền-gạo 15 bát, thủ hợp, cai thuộc mỗi người 9 tiền-gạo 13 bát, thủ lăng đội trưởng, từ đường thứ đội trưởng mỗi người 1 quan-gạo 15 bát, thủ lăng thứ đội trưởng 6 tiềngạo 13 bát” hay “lệ nộp tiền lĩnh bằng, tiền trầu và tiền thế bạc thì thứ đội trưởng từ đường, thứ đội trưởng tuần khố mỗi người 2 quan” (138). Khi chúa Nguyễn Phúc Ánh đánh nhau với Tây Sơn ta thấy có chức vụ thứ đội trưởng, và năm 1804 khi vua Gia Long ban định quan chế, Thứ đội trưởng có hàm tản giai tòng bát phẩm. Năm Minh Mạng 1827 xếp Thứ đội trưởng hàm chánh bát phẩm, sắc thụ Trung tín hiệu úy, thụy Dũng kiên. Sách Tìm hiểu quan chế triều Nguyễn ghi: Thứ đội trưởng là chức phó thứ hai sau chức Phó đội trưởng ở các đội quân, khi có việc phải tăng cường sự chỉ huy các ban chỉ huy đội trong trường hợp khẩn trương (139). Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có các Ông: -Phan Văn Huyền (3/5) Thứ đội trưởng Tuấn trung bá. -Phan ích Tráng (5/5) Thứ đội trưởng Kiên lộc bá. 60.-THỪA PHÁI: Đây là một chức thuộc viên làm việc tại các huyện, có nhiệm vụ giúp tri huyện, lại mục làm những việc được giao. Chức vụ này chỉ có ở triều Nguyễn. Sách Đại Nam điển lệ toát yếu (140) cho biết Thừa phái là tên gọi mới của đề lại, thư lại, nhưng đổi qua tên gọi Thừa phái vào lúc nào thì không biết được.

(136)Sách đã dẫn, trang 32. (137)Sách đã dẫn, trang 94-95. (138)Sách đã dẫn, trang 148-149. (139)Sách đã dẫn, trang 225. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

166


Xem sách Tìm hiểu quan chức nhà Nguyễn (141) thì thấy ghi nhận như sau: Đề lại là chức quan đặt từ năm Gia Long nguyên niên (1802) giúp việc cho Tri huyện, chuyên lo nhiệm vụ Phó huyện ở những nơi không có Huyện thừa. Đến năm Minh Mạng thứ 5 (1824) đổi tên Đề lại thành Lại mục, xem trong quan chức triều Nguyễn, đời vua Gia Long thấy có chức vụ Đề lại ở các phủ huyện có hàm Tản giai tòng ngũ phẩm, đến đời vua Minh Mạng thì thấy chức vụ Lại mục phủ có hàm chánh cửu phẩm, còn Lại mục huyện có hàm tòng cửu phẩm. Năm Thành Thái thứ 19 (1907), Thống sứ Bắc kỳ định rằng phàm các chức Thư lại ở ty các tỉnh, và Thông lại ở các phủ huyện, từ nay về sau, ai có trúng tuyển kỳ sát hạch mới được bổ dụng. Hội đồng sát hạch đặt tại Hà Nội. Các người tình nguyện dự kỳ sát hạch phải làm đơn nộp ở tòa sứ các tỉnh đính theo giấy căn cước và giấy hạnh kiểm, rồi ở tỉnh đệ cả các đơn xin thi về phủ Thống sứ để cho dự hạch. Các bài sát hạch là: 1 bài công văn hệ số 5, các bài thi vấn đáp về phép đo lường (đo mặt bằng, đo ruộng, đo trọng lượng, phép thăng đấu, tiền tệ Đông dương), về địa dư Bắc kỳ (công việc cai trị của Nam quan, chức vụ của Nam quan, luật nước Nam) hệ số 4. Ai thông hiểu chữ quốc ngữ mà tình nguyện thi thì sẽ thi 1 bài ám tả cho thêm 30 điểm nữa. Mỗi một bài thi phê từ 20 điểm trở xuống. Tổng cộng số điểm các bài, ai được 3/5 mà không có bài nào bị 0 điểm thì mới được dự hạng trúng tuyển, sẽ ghi tên vào danh sách mà lần lượt bổ dụng. Năm Duy Tân thứ 3 (1909) đổi lại phép thi như sau: Kỳ đệ nhất 1 bài công văn bằng chữ nho hệ số 4. Kỳ đệ nhị: cách trí, 4 phép tính (đo mặt ruộng đất, đo trọng lượng, các tiền tệ thông dụng ở Đông dương), các câu hỏi về địa dư Bắc kỳ, chánh trị An nam, chức vụ các Nam quan, luật lệ An nam, hệ số 5. Kỳ đệ tam: 1 bài ám tả quốc ngữ, hệ số 0. Số điểm mỗi bài từ 0 đến 20 điểm. Các điều khác đều theo như Nghị định của vua Thành Thái trước đó. Như vậy, theo các Nghị định trên thì có thêm chức vụ Thông lại ở các phủ huyện, tôi không có sử liệu nên không rõ Thông lại là gì. Tuy quy định này chỉ áp dụng riêng cho Bắc kỳ tức là đất bảo hộ, nhưng cũng cho ta hiểu biết thêm về chức vụ Thừa phái, đó là phải trải qua thi cử mới được tuyển dụng ra làm việc. Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có các Ông: -Phan Văn Tuy (2/12) Thư lại. -Phan Thành Nhuyến (2/12) Thừa phái. -Phan Bá Tuyên (2/13) Thừa phái. 61-TRI HUYỆN: Trước khi đi vào tìm hiểu chức vụ Tri huyện, tôi nghĩ ta nên tìm hiểu đôi nét về chế độ hành chánh của Việt nam qua các thời đại. a.-Tổ chức bộ máy hành chánh địa phương thời phong kiến: (140)Xem (113) (141)Sách đã dẫn Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

167


Sử liệu còn để lại đến ngày nay cho biết tổ chức hành chánh địa phương ở nước ta đã có từ đời Khúc Hạo (907-917). Khi lên thay cha làm Tiết độ sứ, ông đã lập ra lộ, phủ, châu, xã ở các nơi, đặt quan lại để cai trị, nhưng sử liệu không nói rõ việc phân chia này như thế nào. Triều Đinh, có thể nói nước ta chia ra làm 10 đạo, đạo ở đây không những chỉ về binh chế mà còn về phương diện hành chánh, vì sau đó khi lên ngôi thay nhà Đinh, vua Lý Thái Tổ đã đổi từ 10 đạo thành 24 lộ. Rất tiếc sử liệu cũng không cho ta biết tổ chức hành chánh các cấp khác ra sao. Triều Lý, nước ta chia thành 24 lộ và 2 trại. Lộ chia thành phủ (có Tri phủ đứng đầu, có Phân phủ phụ tá) và châu (có Tri châu đứng đầu). Lộ là địa phương có cư dân người Việt, còn châu là địa phương có cư dân người thiểu số. Theo Việt sử thông giám cương mục thì danh từ giáp đã xuất hiện vào năm 1041, theo đó cứ 15 người họp thành 1 giáp, chọn ra 1 Quản giáp để điều khiển. Mặc dù sử liệu không nói nhiều đến làng xã nhưng có thể hiểu đơn vị hành chánh căn bản vẫn là làng hay xã chứ không phải là giáp vì giáp không có tư cách pháp nhân, có tài sản riêng như xã, và nhất là giáp chỉ là tập hợp gồm 15 người. Triều Trần, nước ta chia thành 12 lộ (có An phủ sứ đứng đầu). Lộ chia thành phủ (có Tri phủ đứng đầu) và châu (có Thông phán đứng đầu). Phủ và châu đều chia thành xã (có Chánh sử giám đứng đầu). Đã xuất hiện hình thức liên xã gồm 2, 3, hay 4 xã có những quyền lợi tương tự (như cùng làm nghề chài lưới) do Đại tư xã hay Tiểu tư xã đứng đầu (Có sách viết là Đại ty xã hay Tiểu ty xã, cách viết này cũng đúng vì cùng một chữ Hán

司 nhưng có 2 cách đọc là tư và

ty). Đại tư xã là quan hàm ngũ phẩm trở lên, còn Tiểu tư xã là quan hàm lục phẩm trở xuống. Đến năm 1398 đời vua Trần Thuận Tông, nhà vua bải bỏ hình thức liên xã mà lập một đơn vị hành chánh mới lấy tên là huyện. Như vậy, đến năm 1398 nước ta chia thành lộ hay trấn (có An phủ sứ và An phủ phó sứ đứng đầu), lộ hay trấn chia thành phủ (có Trấn phủ sứ và Trấn phủ phó sứ đứng đầu). Phủ chia thành châu (có Thông phán và Thiểm phán đứng đầu). Châu chia thành huyện (có Lệnh úy và Chủ bạ điều khiển). Huyện chia thành xã (có Chánh sử giám đứng đầu). Xã chia thành giáp gồm 15 người do Quản giáp điều khiển. Ngoài ra các lộ ở gần miền biên giới hay ở các địa điểm quan trọng được họp lại thành hạt do Tổng quản hay Thái thú cai trị. Trừ Quản giáp do dân bầu, các chức vụ còn lại đều do Nhà nước bổ nhiệm. Có thể nhìn thấy cách tổ chức hành chánh thời kỳ này qua biểu đồ 1 và 2:

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

168


Lộ (An phủ sứ) Phủ (Tri phủ)

Châu (Thông phán)

Liên xã (Đại tư xã, Tiểu tư xã) Xã (Chánh sử giám) Giáp (Quản giáp do dân bầu) Hình 1: Tổ chức hành chánh đời vua Trần Thái Tông (1256) Lộ (An phủ sứ) Phủ (Trấn phủ sứ) Châu (Thông phán) Huyện (Lệnh úy) Xã (Chánh sử giám) Giáp (Quản giáp) Hình 2: Tổ chức hành chánh từ năm 1398 đời vua Trần Thuận Tông. Thời thuộc Minh, nước ta bị chia thành 17 phủ và 5 châu. Phủ ở miền đồng bằng còn châu ở miền rừng núi. Phủ và châu chia thành lý, tức làng hay xã. Lý lại phân thành giáp và hộ (Lý gồm 10 giáp, giáp gồm 10 hộ hay 10 gia đình). Phủ lỵ chia thành phường, miền phụ cận phủ lỵ chia thành tương. Toàn bộ những người điều khiển các đơn vị hành chánh này đều do quan Tàu lựa chọn. Xin xem hình 3.

Phủ hoặc châu Lý Giáp

Phường Giáp

Tương Giáp

Hình 3: Tổ chức hành chánh thời thuộc Minh. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

169


Triều Lê, vua Lê Thái Tổ chia nước thành 5 đạo (có Hành khiển đứng đầu). Mỗi đạo lại phân thành phủ, lộ, trấn, châu, xã. Do không đủ sử liệu nên không biết đích xác cách phân chia này, nhưng viên chức đều do Nhà nước bổ nhiệm. Riêng về xã, sử liệu cho thấy có 3 hạng xã: -Đại xã, gồm ít nhất 100 dân đinh (không kể đàn bà, trẻ con, già cả), có 3 xã quan điều khiển. -Trung xã, ít nhất trên 50 dân đinh, có 1-2 xã quan. -Tiểu xã, ít nhất trên 10 dân đinh, có 1 xã quan. Xin xem hình 4. Đạo (Hành khiển) Phủ (Tri phủ chưởng ấn,

Lộ (An phủ sứ,

Trấn phủ sứ)

Tuyên phủ sứ, Chiêu thảo sứ)

Châu (Đại tri châu, Tri châu, Thiểm phán) Huyện (Tuần sát chưởng ấn, Chuyển vận sứ)

Xã (Xã quan) Hình 4: Tổ chức hành chánh đời vua Lê Thái Tổ. Chức quan ghi bên cạnh tổ chức hành chánh được tính từ người thứ nhất (đứng đầu), kế đến là những người phó và những chức nhỏ hơn trong tổ chức hành chánh đó. Đến đời vua Lê Thánh Tông, nhà vua chia cả nước làm thành 13 đạo thừa tuyên, 52 phủ, 172 huyện, và 50 châu. Huyện ở miền đồng bằng, còn châu ở miền rừng núi. Huyện chia thành xã, xã chia thành thôn. Phủ lỵ chia thành phường, còn miền phụ cận phủ lỵ chia thành hương. Châu gồm nhiều sách, động, nguyên, trưởng. Đặc điểm của thời kỳ này là nhà vua bải bỏ chế độ xã quan mà thay bằng xã trưởng do dân tuyển chọn, quan trên duyệt y bằng cách cấp bằng. Số xã trưởng nhiều hay ít tùy theo sự quan trọng của xã, xã có trên 500 hộ hay 500 nhà có 5 xã trưởng, xã có 400 hộ hay 400 nhà có 4 xã trưởng, xã có trên 100 nhà có 2 xã trưởng, còn dưới 100 nhà thì có 1 xã trưởng. Xin xem hình 5.

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

170


Đạo (Thừa tuyên sứ) Phủ (Tri phủ) Huyện (Tri huyện)

Châu (Tri châu)

Xã (Xã trưởng)

Sách, Động, Nguyên, Trưởng

Thôn

Thôn

Hình 5: Tổ chức hành chánh đời vua Lê Thánh Tông. Viết về chức vụ Tri huyện, Lịch triều hiến chương loại chí-Quan chức chí ghi như sau: “Chức Tri huyện về đời Lý đời Trần chưa rõ. Đến Trần Thuận Tông (1388) mới đặt Lệnh úy, Chủ bạ, coi giữ các việc tiền thóc kiện cáo trong huyện. Nhà Lê lúc mới dựng nước, mỗi huyện đặt chức Tuần sát chưởng ấn, lại có Chuyển vận sứ, Chuyển vận phó sứ tức là chức quan ở huyện, Đến Thánh Tông, trong đời Quang Thuận (1460) đổi chức Chuyển vận sứ làm chức Tri huyện, Tuần sát làm Huyện thừa. Đầu đời Hồng Đức (1470) định lại quan chế, phẩm trật Tri huyện ở vào hàng chánh lục, có chức vụ khám tra các việc kiện về hộ hôn điền thổ, khảo thí học trò. Thời trung hưng về sau noi theo không đổi” (142). Thời kỳ Trịnh Nguyễn, muốn củng cố uy quyền, chúa Trịnh cũng như chúa Nguyễn đều gắng sức tổ chức bộ máy chính quyền, nhất là nền hành chánh địa phương. Ở miền bắc vì cách tổ chức đã hoàn bị nên chúa Trịnh không phải mất công sửa đổi gì cả, chỉ có ghi nhận là điều kiện tuyển cử xã trưởng vào năm 1680 vua Lê Anh Tông đã khắc khe hơn như phải là nhà nho hoặc sinh đồ (tú tài) mới có thể đảm nhận chức vụ xã trưởng. Ở miền nam, chúa Nguyễn chia đất làm 12 dinh (có Trấn thủ hay Lưu thủ đứng đầu, Cai bạ và Ký lục giúp việc). Mỗi dinh có 2 phủ (do Tri phủ đứng đầu), riêng dinh Quảng Nam có 3 phủ là Điện Bàn, Quảng Ngãi và Quy Nhơn nên Quảng Ngãi và Quy Nhơn đặt chức Tuần phủ và Khám lý để cai trị. Phủ chia thành huyện (có Tri huyện đứng đầu). Huyện chia thành tổng (có Cai tổng đứng đầu). Tổng chia thành xã (có Xã trưởng, Tướng thần đứng đầu), thuộc, phường, man, nậu, ty, thôn. Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn (Sđd) ghi nhận 1 đơn vị hành chánh nữa là châu, nhưng không đồng nhất với nhau, như châu Nam Bố chánh là cấp tương đương với các huyện Lệ Thủy, Khang Lộc, Minh Linh thuộc phủ Quảng Bình, nhưng Bà Mã châu, La Đáp châu, Thi Lại châu v.v...lại thuộc thuộc Hoa Châu huyện Duy Xuyên phủ Thăng Hoa.

(142)Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, Quan chức chí, trang 478. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

171


Triều Tây Sơn, tổ chức bộ máy hành chánh là trấn (có Trấn thủ và Hiệp trấn cai trị). Trấn chia thành huyện (có Phân tri và Phân suất đứng đầu). Huyện chia thành tổng (có Tổng trưởng đứng đầu). Tổng chia thành xã (có Xã trưởng đứng đầu). Năm 1802 sau khi lên ngôi, vua Gia Long chia nước làm 3 khu vực hành chánh: -Bắc thành, gồm 5 nội trấn và 6 ngoại trấn. -Gia Định thành, gồm 5 trấn. -Kinh sư, gồm 6 trấn và 4 doanh. Dưới trấn và doanh là phủ, huyện, châu, và xã. Xin xem hình 6 dưới đây. Bắc thành

Kinh sư

(Tổng trấn) Trấn

Gia Định thành (Tổng trấn)

Trấn, Doanh

Trấn

(Trấn thủ, Đốc trấn, Lưu thủ) Phủ (Tri phủ) Huyện (Tri huyện) Tổng (Cai tổng) Xã (Xã trưởng) Hình 6: Tổ chức hành chánh đời vua Gia Long. Cấp phủ không nhất thiết phải đặt đồng loạt, như trấn Cao Bằng không có phủ mà trực tiếp 4 châu, dinh Quảng Trị không có phủ mà trực tiếp 3 huyện, trấn Tuyên Quang và Lạng Sơn chỉ có 1 phủ/trấn. Năm 1831, vua Minh Mạng cải tổ hành chánh, bải bỏ Bắc thành và Gia Định thành, đổi tên trấn thành tỉnh, tính đến cuối năm 1832, cả nước ta có 30 tỉnh và 1 phủ Thừa Thiên. Ngoài ra ta còn thấy hình thức liên tỉnh do thiếu quan lại có tầm cở, đủ tài năng và uy tín xứng với quan đầu tỉnh, như các liên tỉnh Hà Ninh (Hà Nội-Ninh Bình), Định Yên (Nam Định-Hưng Yên), Sơn Hưng Tuyên (Sơn Tây-Hưng Hóa-Tuyên Quang), Bình Phú (Bình Thuận-Phú Yên), An Hà (An Giang-Hà Tiên) v.v...Tổng cộng có 14 liên tỉnh (xin xem các liên tỉnh tại phần Lục sự trong bài viết này). Dưới cấp tỉnh có phủ, huyện, châu, tổng, xã. Xin xem hình 7 dưới đây. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

172


Tỉnh (Tổng đốc hoặc Tuần phủ) Phủ (Tri phủ) Huyện (Tri huyện) Tổng (Cai tổng) Xã (Xã trưởng hay Lý trưởng) Hình 7: Tổ chức hành chánh thời Minh Mạng. Năm Minh Mạng thứ 8 (1827), nhà vua chia các phủ huyện thành 4 tính chất là: -Xung gồm nơi gần thành thị sai dịch nhiều - hoặc nơi đô hội dễ sinh ra tranh cạnh đánh nhau và trộm cắp - hoặc nơi gần núi ven biển quân trộm giặc thường hay ẩn nấp và xuất hiện - hoặc nơi tiếp giáp với thị trấn khác hay tiếp giáp với mán mường thường có bọn trộm cướp quấy nhiễu - hoặc nơi gần quan lộ có nhiều cầu cống, những công văn và hoá vật của công cần phải được bảo vệ - hoặc nơi có đê điều cần pHải Phòng giữ. -Phồn (bận rộn) gồm nơi đất rộng người đông, số binh lương bội phần - hoẳc nơi việc kiện cáo đã nhiều ại phức tạp, giấy tờ văn án chồng chất và rối ren. -Bì (mệt) vì nhiều nỗi lúng túng, gồm nơi đồng chua nước mặn - hoặc đất khô khan hay ẩm thấp dễ sinh ra sự tổn hại - hoặc nơi hộ khẩu điêu háo, thuế má và công dịch không làm tròn. -Nan (khó) gồm nơi nhiều côn đồ và trôm cướp - hoặc dân phần nhiều điêu ngoa, giảo hoạt, cùng tàn hại lẫn nhau, nhiều khi xảy ra án mạng - hoặc nơi lính hay trốn, thuế hay thiếu, đòi bắt khó đủ số. Nơi nào có đủ cả 4 tính chất trên thì gọi là tối yếu khuyết (rất quan yếu), có đủ 3 tính chất gọi là yếu khuyết, có đủ 2 tính chất gọi là trung khuyết, có 1 tính chất hay không có gọi là giản khuyết. Cách phân chia như trên nhằm chọn người có đủ trình độ cai quản địa phương, cũng áp dụng khi thăng thưởng hoặc khi phạt. Để biết rõ thêm về huyện và nhiệm vụ của Tri huyện dưới triều Nguyễn, xin xem thêm phần Tri phủ trong bài viết này. Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có các Ông: -Phan Ngọc Thanh (4/11) Tri huyện -Phan Tấn (2/12) Tri huyện Các Ông đều có hàm là Tòng lục phẩm, sắc thụ Văn lâm lang, thụy Đôn túc. 62.-TRI PHỦ;

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

173


Như tôi đã trình bày trong phần Tri huyện, tổ chức hành chánh ở nước ta thời phong kiến đều luôn đặt cấp phủ là cấp trên của huyện, mỗi phủ có nhiều huyện, trừ giai đoạn triều Tây Sơn không đặt phủ và thời Pháp thuộc khoảng cuối thế kỷ 19 đến năm 1920, phủ và huyện cùng một cấp bậc hành chánh, huyện không còn lệ thuộc phủ mà làm việc thẳng với tỉnh, đơn vị lớn thì gọi là phủ còn đơn vị nhỏ thì gọi là huyện và thường thì lỵ sở của phủ trước ở huyện nào thì lấy tên huyện ấy gọi là phủ (143). Về chức danh Tri phủ, Lịch triều hiến chương loại chí-Quan chức chí viết như sau: “ Đầu nhà Lý đặt các chức Tri phủ, Phán phủ. Đầu nhà Trần noi theo đặt Tri phủ ở các phủ. Bấy giờ còn lấy trấn làm phủ, chức vụ rất trọng, như đời Kiến Trung (1225-1232 Trần Thái Tông) Phùng Tá Chu là Thái phó, Tri phủ Nghệ An được tự tiện phong tước, hoặc Trần Thủ Độ là Thái sư, Tri phủ Thanh Hoa, đều dùng đại thần làm Tri phủ, tưởng không phải như chức Tri phủ sau này. Đến đời Trần Thuận Tông định chức quan ngoài, mỗi phủ đặt Trấn phủ sứ. Đến nhà Lê đặt quan các lộ, đặt chức Tri phủ, Đồng tri phủ. Ở lộ đặt chức Tri phủ chưởng ấn, bấy giờ việc coi các lộ các phủ có lẽ cũng như nhau. Lê Thánh Tông, đầu đời Quang Thuận, đổi lộ làm phủ, ban ấn Tri phủ. Giữa đời Hồng Đức đặt 13 Thừa tuyên, cho trấn thống phủ, phủ thống huyện, định quan chế đặt chức Tri phủ vào hàng tòng lục phẩm, có nhiệm vụ khám xét lại việc kiện tụng ở các huyện. Thời trung hưng về sau noi theo không đổi” (144). Ở Đàng Ngoài, nhiệm vụ của Tri phủ là khám hỏi những vụ kiện do quan huyện châu xử mà kêu lại. Về việc kiện nhân mạng phải căn cứ vào lời kêu của cha mẹ vợ con anh em khổ chủ đã trình huyện quan và tổng ấy khám nghiệm thì mới được công đồng đến tra khám. Nếu không có đơn đến xin nghiệm án cùng là do người họ xa hay người ngoài tố cáo thì không được nhận khám. Về đơn kêu chỉ cho viết đích tên người hạ thủ và mưu giết, không được kê bừa ra nhiều tên những bè lũ kẻ thủ mưu hành hung, hay trong đơn xin khám không có tên mà bịa đặt ra tên khác để hùa nhau tố cáo, như có những tình lệ ấy thì bắt phải tước bỏ đi, không được nhận càng và bắt bừa, để thôi việc kiện gian. Những án kiện ở bản nha, án nào do quan nào điều tra thì cho lấy 5 án làm một kỳ chuyển nộp lên cộng điểm, trong tờ khải phải chua ngày nào tố cáo, ngày nào điều tra, ngày nào trả về và lý do kiện nhau của người kiện để bằng cứ vào đấy mà tra cứu. Nếu bản nha trong 1 năm điều tra không đủ 5 án thì chi đến cuối năm khai nộp, không có án nào điều tra thì chước miễn. Quan chức châu huyện trong thuộc hạt như có chính tích tốt thì trình lên hai ty để bảo cử, viên nào tham nhũng không xứng chức cũng cho cứ thực xét trình lên để làm tài liệu khảo khóa. Còn các công việc khác theo lệ phụng hành. Làm trái thì cho hai ty Thừa Hiến xét trình tùy theo việc nặng nhẹ xử ly (145).

(143)Quảng Nam Đà Nẵng xưa và nay, Nhiều tác giả, Nhà xuất bản Đà Nẵng 1996, trang 39. (144)Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, Quan chức chí, trang 478. (145)Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, Quan chức chí, trang 499. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

174


Triều Nguyễn (ở đây chỉ xin ghi lại tình hình sau cải cách hành chánh của vua Minh Mạng năm 1828), phủ cũng được phân thành 4 hạng như huyện, ngoài ra cũng phân loại theo địa bàn quản lý nhiều hay ít huyện, cụ thể như sau: -Phủ yếu khuyết có 2 huyện thuộc hạt, tri phủ kiêm 1 huyện. -Phủ tối yếu khuyết có 3 huyện thuộc hạt, tri phủ và 1 huyện thừa kiêm 1 huyện. -Phủ tối yếu khuyết có 4 huyện thuộc hạt, tri phù kiêm 1 huyện, đồng tri phủ kiêm 1 huyện. -Phủ tối yếu khuyết có 5 huyện thuộc hạt, tri phủ và 1 huyện thừa kiêm 1 huyện, đồng tri phủ kiêm 1 huyện. -Phủ có 6, 7 huyện thuộc hạt, tri phủ và 1 huyện thừa kiêm 1 huyện, đồng tri phủ và 1 huyện thừa kiêm 1 huyện. -Phủ trung khuyết và giản khuyết, tri phủ kiêm 1 huyện. -Đối với một số phủ ở vùng biên viễn mới quản lý, nhà vua đặt 1 án phủ sứ hàm viên ngoại lang ở bộ Binh sung giữ, ở các phủ chưa ổn định ngoài tri phủ còn đặt thêm 1 quản phủ. (146). Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có các Ông: -Phan Trân (2/12) Tri phủ. -Phan Đức Thạnh (3/12) Tri phủ. -Phan Bá Cảnh (5/12) Tri phủ. Các Ông đều có hàm là Tòng ngũ phẩm, cáo thụ Phụng thành đại phu, thụy Đoan thận. 63.-TRÙM: Đây là một chức việc có nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự ở làng xã. Trùm hay Trùm trưởng còn có tên gọi khác là Khán thủ. Chức việc này hiện nay không biết xuất hiện từ lúc nào, nhưng xem trong Phủ biên tạp lục thì thấy có chức vụ Khán thủ vào thời các chúa Nguyễn ở Đàng Trong: “Tướng thần ở 2 xứ Thuận Quảng cũng như khán thủ ở 4 trấn, được cùng xã trưởng thu thúc phú dịch” (147), nhưng nhiệm vụ cụ thể thế nào thì không biết được ngoài nhiệm vụ thu thúc phú dịch nói trên. Triều Tây Sơn cũng có chức vụ khán thủ, nhưng danh từ trùm trưởng đã trở nên thông dụng hơn. Qua địa bạ của châu Bàu Tròn thuộc Phú Châu, phủ Điện Bàn lập vào năm Thái Đức thứ 8 (Nguyễn Nhạc-1785) thấy viết: “Số liệu đất đai của châu Bàu Tròn thuộc Phú Châu phủ Điện Bàn. Các điền chủ thuộc bổn châu gồm có Trùm Năm Lê Tất Sĩ, Giáp Thanh Lê Tất Đặng,

(146)Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn giai đoạn 1082-1884, Sđd, trang 161. (147)Sách đã dẫn, trang 148. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

175


Giáp Vân Đỗ Viết Vân, cha Trang Trương Viết Thiện, cha Trường Lê Viết Tức...” (148). Tài liệu này ngoài việc xác định danh từ Trùm trưởng, còn ngoài ra không cho ta biết được nhiệm vụ của chức danh này. Triều Nguyễn, bộ máy hành chánh cấp cơ sở chủ yếu gồm xã trưởng, thôn trưởng (sau đổi thành lý trưởng, phó lý trưởng), ngoài ra còn có khán thủ (trùm trưởng) giúp việc đặc trách về vấn đề an ninh. Địa bạ huyện Từ Liêm phủ Quốc Oai trấn Sơn Nam thượng lập vào đầu thế kỷ 19 cho thấy trong 41 xã của huyện thì chức vụ khán thủ có ở hầu hết các xã (37/41), về số lượng thì chỉ có 1 người/xã (39/41), chỉ có 2 trường hợp là có 2 khán thủ/xã. Năm 1828 vua Minh Mạng cải tổ hành chánh thì chức vụ Trùm trưởng lại tăng lên, qua địa bạ huyện Hoằng Hoá phủ Hà Trung tỉnh Thanh Hóa lập năm 1834, theo tài liệu địa bạ này thì trong 20 xã của huyện, số lượng 1 trùm trưởng/xã chỉ có 8 trường hợp, còn số lượng 2-3 trùm trưởng/xã chiếm đến 12 trường hợp. Việc tăng số lượng trùm trưởng là một biện pháp của nhà nước nhằm đảm bảo ổn định an ninh ở khu vực nông thôn. Không biết về sau này, trong thời Pháp thuộc khi các làng xã đã thành lập Hội đồng kỳ hào và cơ quan chấp hành xã, nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự ở địa phương được giao cho Trương tuần (ở Bắc kỳ), Hương kiểm (ởTrung kỳ), hoặc Hương quản (ở Nam kỳ) thì có chức vụ Trùm trưởng nữa hay không. Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có các Ông: -Phan Văn … (không rõ tên) (1/12) Trùm ấp. -Phan Văn Sở (2/12) Trùm ấp. -Phan Văn Vinh (2/13) Trùm ấp. -Phan Văn Trà (3/13) Trùm ấp. -Phan Văn Trung (4/13) Trùm ấp. Phổ hệ ghi các Ông là Trùm ấp, có lẽ đây là một chức việc ở ấp giúp các Trương tuần, Hương kiểm, Hương quản trong việc giữ gìn an ninh trật tự tại ấp mình, nhưng vì thiếu sử liệu nên không xác định rõ ràng được, xin ghi lại đây để sau này khi có điều kiện thì bổ sung. 64.-TÚ TÀI: Danh từ tú tài chỉ mới xuất hiện từ đời vua Minh Mạng triều Nguyễn khi nhà vua ra lệnh đổi tên gọi sinh đồ thành tú tài và hương cống thành cử nhân. Những người được công nhận tú tài phải đỗ được tam trường (trong tứ trường) của kỳ thi hương, những người thi 2 kỳ thi hương đều đỗ tú tài được gọi là Tú kép, đỗ tú tài trong 3 kỳ thi hương gọi là Tú mền.

(148)Qua một bản địa bạ đời Thái Đức góp phần tìm hiểu công cuộc khẩn hoang đất Bàu Tròn của Huỳnh Công Bá, Nghiên c ứu lịch sử số 6 năm 1994, trang 41. Bàu Tròn, trong Ph ủ biên tạp lục dịch là Bàu Luân. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

176


Cũng khác với các triều đại trước, các tú tài dưới triều Nguyễn cũng được bổ dụng làm quan theo quy định sau đây: -Năm Tự Đức thứ 14 (1861) định rằng các tú tài hạch trúng hạng ưu thì cho hàm chánh cửu phẩm, bổ làm thừa biện tùng sự tại các nha môn, tròn 1 năm thăng lên hàm điển bạ, tròn 1 năm nữa thăng hàm chánh bát phẩm chánh ngạch hay chức Huấn đạo, tròn 2 năm nữa sẽ bổ Giáo thụ hay Kinh lịch khi các chức vụ này bị khuyết. Ai hạch trúng hạng bình thì cho hàm đãi chiếu, tròn 1 năm thăng chánh cửu phẩm vẫn là thừa biện ở nha môn cũ, tròn 1 năm nữa thăng hàm điển bạ, tròn 1 năm nữa thăng chánh bát phẩm chánh ngạch hay Huấn đạo. Ai hạch trúng hạng thứ được bổ chức thừa biện, tròn 1 năm thăng thăng tòng cửu phẩm, tròn 1 năm nữa thăng chánh cửu phẩm chánh ngạch. Tất cả những người này, người trúng hạng ưu đợi khi thăng đến chánh thất phẩm, người trúng hạng bình đợi khi thăng đến chánh bát phẩm, người trúng hạng thứ đợi khi thăng đến chánh cửu phẩm, sẽ chiếu theo lệ thuyên thăng của quan lại, nghĩa là từ đó các viên chức nói trên sẽ chiếu theo lệ chung các quan lại mà thăng chức hay giáng chức (149). -Năm Thành Thái thứ 10 (1898) định rằng các tú tài tử 35 tuổi trở lên tình nguyện vào ngạch hành chánh (tức phải làm giấy tình nguyện vào ngạch quan lại) thì cứ đầu mùa xuân do quan bản hạt (phủ huyện) làm tờ trình lên quan địa phương (tỉnh) để xét xem ngày thường không can đến hình án, rồi tư lên bộ ghi vào sổ, đợi khi các bộ, các nha môn có khuyết chức thư lại, thừa biện, hay thừa phái sẽ kén chọn mà bổ vào chức thừa biện. Nếu có ai trong những người này được bầu vào làm Cai tổng, Phó tổng thì cũng được chấp thuận. Sau khi được bổ chức thừa biện thì cứ tròn 3 năm sẽ do thượng ty xét là người am hiểu siêng năng sẽ cho thăng 2 trật (hàm cung phụng), hạng vừa thì thăng 1 trật (hàm đãi chiếu), người nào lười biếng kém cỏi thì thải về hạng tú tài, không bổ dụng nữa (150). -Những tú tài trúng kỳ sát hạch đã được bổ chức vụ Giáo thụ, Huấn đạo, hoặc được bổ từ thất phẩm trở xuống nếu có tình nguyện dự thi hội đều phải được sát hạch tại thượng ty, văn bài nào được phê ưu, bình sẽ được cấp chứng chỉ cho về kinh dự thi hội, nếu văn bài chỉ hạng thứ thì không được dự thi hội. Nếu là tú tài tôn sinh, tú tài ấm sinh, hoặc tú tài giám sinh nếu muốn được dự thi hội phải hạch 2 lần. lần đầu do bộ Lễ hay quan địa phương sát hạch, ai đỗ hạng ưu, bình thì được đặt vào hạng thượng hạng, trước kỳ thi hội 1 tháng bộ Lễ lại sát hạch riêng hạng thượng hạng một lần nữa, văn bài nào được phê ưu, bình mới được dự thi hội (151). Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có các Ông: -Phan Văn Huy (3/11)

(149)Đại Nam điển lệ toát yếu, Sđd, trang 73-74. (150) Đại Nam điển lệ toát yếu, Sđd, trang 73-74. (151)Đại Nam điển lệ toát yếu, Sđd, trang 371. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

177


-Phan Văn Chín (3/11) -Phan Khắc Doãn (2/12) -Phan Đôn (2/12) Tú tài, Hàn lâm viện đải chiếu. -Phan Quang (2/12) -Phan Tiết (2/12) Tú tài, Hàn lâm viện đãi chiếu. -Phan Võ (2/13) -Phan Khôi (2/13) -Phan Bá Tảo (2/13), Tú tài Hàn lâm viện cung phụng. Trong các Ông nêu trên đây, có ba Ông Phan Đôn, Phan Tiết và Phan Bá Tảo là có thực thụ làm quan theo như quy định của triều Nguyễn, ở đây tôi thấy cũng nên phân biệt: -Hoặc là ba Ông có thực sự làm việc tại Hàn lâm viện ở kinh đô Huế. -Hoặc ba Ông chỉ được thưởng hàm như đã trình bày bên trên, khi thưởng hàm này thì chỉ tùng sự tại văn phòng quan đầu tỉnh. Rất tiếc, hiện nay tôi không có đủ dữ liệu để có thể nêu rõ ràng hơn về việc làm của ba Ông nên chỉ xin nêu ra đây để Tộc tham khảo. 65.-TƯỚNG THẦN: Sử sách cho thấy chức vụ này chỉ xuất hiện từ thời kỳ Trịnh Nguyễn trở về sau, còn gọi là Tướng thần lại. Ở Đàng Ngoài, trong lịnh ra mùa đông tháng 12 năm giáp ngọ niên hiệu Thịnh Đức (năm 1654 vua Lê Thần Tông-Thanh đô vương Trịnh Tráng) về việc cấm không được môi cầu các chức vụ một cách thiên tư viết “trong các làng có nhân dân nào chưa được lịnh chỉ và lịnh dụ và chưa được ghi tên vào sổ quân công, cùng là chưa thi đỗ khoa thư toán mà môi cầu lấy chức tước một cách tư túi, và những viên chức án lại, xá nhân, tướng thần lại, nha úy, lệnh sử, đô đề điểm, thông lại, những viên trong các cục thường ban mạo nhận có chân tư ấm để môi cầu được hậu tuyển bổ dụng thì đều giao về bản xã, chịu dao dịch thuế má như bình dân”, hoặc chỉ dụ ra tháng 5 năm năm giáp dần niên hiệu Dương Đức 3 (năm 1673 vua Lê Gia Tông-Tây định vương Trịnh Tạc) (152) chuẩn y lệ bổ dụng quan chức ghi “các chức xá nhân, tướng thần lại, công thư và lệnh sử hầu văn phòng trong nội, được dự ban thưởng cho lịnh chỉ và gia chỉ, cùng là có tờ khải và tờ bẩm mà được chúa hay quan thủ tướng giao tờ bẩm khải ấy xuống, xét ra các viên chức nói trên đã làm việc lâu năm, thì nha môn bộ Lại phải thăng bổ theo như sự lệ và phẩm trật bổ dụng các viên Hoa văn học sinh, để chỉnh đốn quan trường và tiện tiệp việc hành chánh”. Đàng Trong, ta thấy năm giáp dần 1614, chúa Nguyễn Phúc Nguyên bắt đầu đặt 3 ty, một trong ba ty nầy là ty Tướng thần lại coi việc trưng thu tiền thóc, phát lương cho quân các đạo do Cai bạ chỉ huy, thuộc viên có Câu kê 3 người, Cai hợp 7 người, Thủ hợp 10 người,Ty lại (152)Lê triều chiếu lệnh thiện chính, Sđd, các trang 17, 53. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

178


40 người, hoặc năm canh ngọ 1630 “sai tướng thần lại Văn Khuông làm sứ đi tạ ơn, dùng kế đúc mâm đồng 2 đáy, dấu sắc phong vào trong để trả lại” (153), hoặc năm 1726 chúa Nguyễn Phúc Chú tra xét các phủ xứ Quảng Nam, những thuộc mới đặt chưa định chức lệ, định cho “từ 100 người cho đến 10 người chỉ đặt 1 tướng thần, như lệ các nậu, nếu tướng thần không có người nộp đơn xin làm thì cho trong thuộc bầu ra”, và “tướng thần ở 2 xứ Thuận Quảng cũng như khán thủ ở 4 trấn được cùng với xã trưởng thu thuế phú dịch” (154). Xem như vậy thì có thể thấy Tướng thần là một chức vụ thấp, có ở cơ quan hoặc có ở làng xã. Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có các Ông: -Phan phước Hề (4/4) Tướng thần -Phan Long Lân (4/5) Tướng thần, Thượng tướng quân Nghĩa lý tử. -Phan Văn Kiết (3/9) Tướng thần kiêm Quốc thủ. Cũng có ý kiến cho rằng chức vụ tướng thần của các Ông ở đây nên được hiểu theo ý nghĩa là người làm việc ở ty Tướng thần lại như trường hợp của tướng thần lại Văn Khuông đem trả sắc đã nêu trên. Tôi cũng rất nhất trí với ý kiến này, các Ông có thể là Tướng thần lại ở ty hay Tướng thần ở xã không phải là điều quan trọng vì cả hai chức vụ nầy đều là chức vụ thấp, trừ trường hợp của Ông Phan Long Lân đã được trình bày trong các bài trước và ngay cả ở bài 3 này trong phần ngũ tước. 66.-XÃ TRƯỞNG hay LÝ TRƯỞNG: Sử liệu cho thấy đơn vị hành chánh xã bắt đầu xuất hiện ở nước ta từ thời Khúc Hạo (907-917) với việc lập ra lộ, phủ, châu, xã nhưng không cho biết được chức quan cai trị các lộ, phủ, châu, xã là những ai. Sách Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn ghi người đứng đầu xã là Chánh lệnh trưởng và Tá lệnh trưởng. Triều Lý cũng không biết được đơn vị hành chánh thấp nhất này là làng hay giáp vì làng được nói đến rất ít trong khi giáp lại được nói đến rất nhiều, theo Việt sử thông giám cương mục thì giáp xuất hiện năm 1041 là năm thứ 3 đời vua Lý Thánh Tông. Triều Trần, cấp xã cũng là đơn vị hành chánh thấp nhất, và trên cấp xã có cấp liên xã là tập hợp những xã có quyền lợi tương tự (như cùng làm nghề chài lưới...) Đứng đầu liên xã là Đại tư xã hay Tiểu tư xã tùy theo sự quan trọng của liên xã. Chức Đại tư xã được giao cho các quan từ hàm ngũ phẩm trở lên, còn Tiểu tư xã do các quan từ hàm lục phẩm trở xuống đảm nhiệm. Đứng đầu mỗi xã, nhà vua đặt một xã quan gọi là Chánh sử giám. Năm 1398 đời vua Trần Thuận Tông, nhà vua bải bỏ các liên xã cùng các chức Đại tư xã và Tiểu tư xã để thành lập một đơn vị hành chánh mới gọi là huyện. (153)Đại Nam thực lục tiền biên, Sđd, các trang 45, 57. (154)Lê Quý Đôn toàn tập: Tập 1: Phủ biên tạp lục, Sđd, các trang 147-148. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

179


Thời thuộc Minh (1417-1427), đơn vị hành chánh thấp nhất được gọi là lý, mỗi lý có 10 giáp, mỗi giáp có 10 hộ hay 10 gia đình. Đứng đầu mỗi lý là Lý trưởng, đứng đầu mỗi giáp là Giáp trưởng, chịu trách nhiệm về công việc hành chánh, phải đứng làm trung gian giữa các quan trên và dân làng hay dân giáp. Lý trưởng và Giáp trưởng đều do quan Tàu lựa chọn trong dân lý hay dân giáp. Triều Lê, dưới đời vua Thái Tổ phân biệt làm 3 hạng xã là đại xã (gồm ít nhất 100 dân đinh, đặt dưới quyền điều khiển của 3 xã quan), trung xã (ít nhất trên 50 dân đinh, dưới quyền của 1, 2 xã quan), và tiểu xã (ít nhất trên 10 dân đinh, do 1 xã quan cai trị). Năm 1469, vua Lê Thánh Tông bải bỏ chức xã quan và thay thế vào đó bằng chức xã trưởng do dân trong xã lựa chọn. Xã nào có trên 500 hộ hay 500 nhà có 5 xã trưởng, có 400 hộ hay 400 nhà có 4 xã trưởng, xã có trên 100 nhà có 2 xã trưởng, còn dưới 100 nhà có 1 xã trưởng. Ở Đàng Ngoài, trong đời Vĩnh Thọ (1658) lại sai các châu huyện chọn đặt xã trưởng, xã sử, lấy nho sinh, sinh đồ làm các chức ấy giao cho chỉnh lý việc làng, khám hỏi các việc kiện cáo. Các quan châu huyện thừa hiến, xét những người giữ chức ấy liêm hay tham, siêng hay lười để thăng thương hay bải truất. Đến giữa đời Cảnh trị (1653-1672) lại sai chọn các con em nhà lương thiện cho làm xã trưởng để dạy dỗ nhân dân trong xã, hạn 3 năm được xét công việc thì cho thăng làm huyện quan. Trong đời Bảo Thái (1720) lại định phép khảo khóa, những xã lớn, xã vừa, xã nhỏ đều định danh số, trấn quan giao cho các xã trưởng coi giữ làng mạc, thu nộp thuế điền, thuế đinh, nếu 2 lần khảo đều làm việc giỏi sẽ được cất nhắc cho chức phẩm. Về sau lâu dần bỏ lệ ấy không thi hành nữa. Những đời Long Đức (1732), Vĩnh Hựu (1735) về sau, việc đặt xã trưởng đều do ở dân, phép khảo khóa bỏ đi, mà chức xã quan cũng không được coi trọng nữa (155). Ở Đàng Trong, ta cũng thấy có đơn vị hành chánh xã và chức vụ xã trưởng, có lẽ cũng giống như cách tổ chức của triều Lê trước đó, nhưng có đặc điểm là “những xã có 999 người trở xuống có 18 xã trưởng và tướng thần, xã có 400 người trở xuống có 8 xã trưởng và tướng thần, xã có 70 người trở xuống có 1 xã trưởng hoặc tướng thần” (156). Như vậy số lượng 999 người, 400 người, 70 người...là số dân đinh tức là những người phải đi lính, đóng thuế...chớ không phải là tổng số dân trong xã. Triều Nguyễn, xã trưởng là người đứng đầu làng xã về mặt hành chánh. Giúp việc cho các xã trưởng là thôn trưởng, mỗi xã có thể có từ 1 đến nhiều thôn trưởng, phụ thuộc chủ yếu vào quy mô của từng xã là lớn hay nhỏ, như tư liệu địa bạ huyện Từ Liêm phủ Quốc Oai trấn Sơn Nam thượng vào đầu thế kỷ 19 cho thấy tuyệt đại bộ phận những xã có quy mô diện tích dưới 50 mẫu thì chỉ có 1 xã trưởng (17/18 trường hợp), trong khi đó ở những xã có quy mô diện tích trên 500 mẫu, số xã có 2 xã trưởng trở lên là 16/23 trường hợp, trong đó có từ 3-5 xã

(155)Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, trang 479-480. (156)Lịch sử Nhà nước và pháp luật Việt Nam, Sđd, trang 57. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

180


trưởng là 7 trường hợp (157). Năm Minh Mạng 1828 nhà vua thay chức xã trưởng bằng chức lý trưởng, bải bỏ chức thôn trưởng mà thay bằng chức phó lý trưởng. Việc bầu cử lý trưởng và phó lý trưởng ở triều Nguyễn được quy định là tất cả dân đinh có hộ tịch trong xã đều được dự bầu, người nào làm việc đủ hạn 9 năm sẽ được thưởng hàm cửu phẩm bá hộ, sau đó cứ 5 năm cho thăng hàm một lần, làm việc đủ 3 năm trở lên mới được xin từ dịch. Bộ máy hành chánh cấp xã có 3 nhiệm vụ chính sau đây: +Thay mặt Nhà nước quản lý chặt chẽ ruộng đất ở xã thôn. Trong một quốc gia nông nghiệp như Việt nam thì đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng bậc nhất, đây không những là chìa khóa để ổn định tình hình kinh tế xã hội mà còn là cơ sở để đảm bảo nguồn thu nhập tài chánh chủ yếu và ổn định ngân sách nhà nước. Ý thức rõ điều này nên năm 1804, chỉ 2 năm sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã ra lệnh làm sổ địa bạ các làng xã thuộc Bắc kỳ (những địa bạ Bắc kỳ hiện còn lưu giữ hầu hết đều có niên đại 1805), năm 1810 việc lập địa bạ được triển khai trên địa bàn từ Quảng Bình đến Bình Định, Khánh Hoà (những địa bạ này có niên đại 1811, 1813, 1814, 1815), năm 1831 lập sổ địa bạ từ Ninh Bình đến Nghệ An (có niên đại chủ yếu là 1832, 1834), năm 1836 lập sổ địa bạ ở Nam kỳ (có niên đại chủ yếu là 1836). Nội dung của địa bạ triều Nguyễn rất phong phú, từ vị trí địa lý (giáp giới đông tấy nam bắc) đến các loại hình ruộng đất (ruộng công, ruộng tư, đất công, đất tư. ruộng đất bãi, ruộng đất tôn giáo tín ngưỡng, đất ở, vườn ao, đồi gò, ao đầm, tha ma, mộ địa), từng xứ đồng, từng loại ruộng thời vụ, từng chủ sở hữu... tất cả đều được mô tả một cách cụ thể chi tiết. Xu hướng càng về sau lập địa bạ càng chi tiết hơn. Địa bạ được lập làm 3 bản, sau khi làm xong gởi nộp lên trên đóng dấu “hộ bộ đường ấn”, ở dưới để niên hiệu tháng năm, đóng kiềm ở chỗ giấy giáp nhau. Bản giáp để lưu chiếu ở bộ, bản ất đưa về lưu giữ ở trấn, tỉnh. Còn bản bính giao lại cho xã thôn sở tại giữ làm bằng. Những người trực tiếp triển khai công việc lập sổ địa bạ là lý trưởng, phó lý trưởng, trùm trưởng đồng thời có sự phối hợp và giám sát của bộ máy tự trị làng xã. Việc lập sổ địa bạ rất phức tạp, tốn nhiều công sức, từ cách nhận thức, lập địa giới đến việc đo đạt từng khu vực đất đai, phân loại ruộng đất ruộng mùa, ruộng chiêm, ruộng 2 vụ, ruộng loại 1. loại 2, loại 3... đến các xứ đồng (tên gọi, diện tích, vị trí giáp giới...) tên từng sở hữu chủ cùng diện tích, giáp giới. Trường hợp ruộng đất bị phụ canh thì ghi rõ quê quán của người phụ canh đó. Tất cả đều phải tiến hành một cách chính xác thậm chí đến từng phân, ly, hào và phải theo một mẫu thống nhất của nhà nước. Lý trưởng, phó lý trưởng phải chịu trách nhiệm trước nhà nước về tính chính xác và tính trung thực của sổ địa bạ, vì thế sau mỗi địa bạ đều phải có lời cam đoan về số giấy có chữ là bao nhiệu tờ, nếu khai bậy không thực, đem ruộng công làm ruộng tư, đem ruộng làm đất, đem ruộng cày cấy làm ruộng bỏ hoang, ẩn lậu ruộng từ 1 thước trở lên sau sai khám đạc hoặc có người nào tố cáo tra ra quả thực là ẩn lậu thì lý trưởng cùng những người ký tên phải chịu tội nặng. (157)Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn giai đoạn 1802-1848, Sđd, trang 196-198. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

181


+Thay mặt nhà nước quản lý chặt chẽ dân đinh nói riêng và dân số nông thôn nói chung. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng vì có nắm chắc được dân đinh mới đảm bão được nguồn cung cấp sức người, sức của nông dân thông qua việc thực hiện ngĩa vụ tô thuế, binh dịch, lao dịch và các nghĩa vụ khác. Năm 1807 vua Gia Long xuống chiếu quy định cách thức làm sổ đinh các trấn thuộc Bắc thành, theo đó trước hết kê khai phủ huyện tổng xã, họ và tên xã trưởng thôn trưởng, xin khai số người theo từng hạng ở bản xã là bao nhiêu viên, các hạng dân nộp thuế thóc là bao nhiêu người (đều kê khai họ tên xã trưởng, thôn trưởng, hạng dân, ở dưới tên cước chú tuổi, như có nhà có người ngụ cư thì cũng phải cước chú rõ, lại cước chú quê chính ở phủ huyện tổng xã nào đó), hạng dân đinh bao nhiêu người...các hạng biệt tính bao nhiêu người..., các hạng miễn sai dịch bao nhiêu viên..., chức sắc bao nhiêu viên...viên tử con quan bao nhiêu người...binh lính bao nhiêu người...Cuối sổ, xã trưởng, thôn trưởng phải cam đoan đã khai đúng sự thực, nếu ẩn lậu từ 1 người trở lên phải chịu tội nặng. +Thay mặt nhà nước đốc thúc việc thu đủ, thu đúng thời hạn thuế ruộng đất và thuế nhân đinh. Trong công việc này nhà nước cũng áp dụng các biện pháp thưởng phạt nghiêm khắc đối với các cai phó tổng và chức dịch làng xã, lệ định năm 1812 ghi rõ hàng năm việc thu thuế hết hạn mà ngạch còn thiếu thì các doanh trấn phải kiểm xét, việc thuế thiếu hoặc lại dân cố ý trả chậm, hay là lý dịch giấu diếm bớt xén, Hoặc là nhân thu thuế chia nhau ăn cho béo. Những mối tệ hại ấy nên xét cho nghiêm, chiểu luật trị tội, kết án giải về bộ Hộ để tra xét. +Ngoài ba nhiệm vụ chính trên, bộ máy hành chánh làng xã còn có trách nhiệm điều động dân đinh thực hiện các nghĩa vụ binh dịch, lao dịch và đảm bảo an ninh làng xóm, ở đây nhà nước cũng áp dụng những quy định chặt chẽ (158). Ở làng xã hàng năm, mỗi khi có hội hè thì ngôi thứ về chỗ ngồi được quy định như sau: -Ở chính gian giữa trong đình làng có tất cả các viên được ban sắc mạng, bên văn từ thất phẩm trở lên, và bát cửu phẩm mà xuất thân là giám sinh, ấm sinh và tú tài, bên võ từ suất đội trở lên, cùng là dự có khoa trường văn cử nhân hay vũ cử nhân trở lên, đều chia ra tả hữu ngồi sắp hàng, nếu trong hạng này có ai vắng mặt vì việc quan thì phải để trống chỗ ngồi của viên ấy. -Ở gian bên tả trong đình làng có những người từ 70 tuổi trở lên, và bên võ thất phẩm đội trưởng, bên văn những viên tá nhị, bát cửu phẩm, và các thiên hộ, bá hộ, cai tổng có hàm bát cửu phẩm về tạp giai, cùng là giám sinh, ấm sinh, viên tử, với các thiên hộ, bá hộ quyên, các binh lính được miễn sai, miễn dao dịch. Những người nầy nếu vị thứ ngang nhau thì lấy tuổi làm trên dưới. -Ở gian bên hữu trong đình làng có những người chân trắng có phẩm hàm mà chưa đến thất phẩm, những người chưa đến 70 tuổi, cùng là lý trưởng, lấy tuổi làm trên dưới. Mỗi khi những viên có chỗ ngồi chính gian giữa trong đình làng đến thì những người có vị thứ ở dưới và những người ngồi hai bên tả hữu phải đứng dậy kính chào. Những ông lão từ 70 (158)Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn giai đoạn 1802-1848, Sđd, trang 206-218. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

182


tuổi trờ lên đến thì những viên bát cửu phẩm văn hay võ ngồi ở hai bên tả hữu cùng những người sáu mươi tuổi trở xuống đều phải đứng lên kính chào. Xã thôn nào gian đình nhỏ hẹp thì lúc hội hè đình đám, các viên chức ngồi tại chính gian giữa nếu vắng mặt thì không phải để trống chỗ ngồi như đã nói ở trên, mà cho phép chiếu theo chức sắc, vị thứ các viên chức mà đưa vào ngồi ở chỗ trống. Cổ bàn cơm rượu trên dưới nhất mực ngang nhau, cổ bàn còn thừa thì tùy các bậc tôn trưởng mà đưa biếu. Nếu trong làng có người trước đã bị tội từ tội đồ trở lên thì đặt riêng ra một chiếu, ngồi sắp hàng ở dưới, chứ không được ngồi lẫn lộn trong đám lương thiện. Ai trái phép chống cự không tuân theo lệ này thì lý trưởng bắt giải đến quan sẽ chiếu luật “vi chế” mà làm tội (159). Các viên chức nhỏ mọn và quân dân, hể khi cùng đi đường thì bậc tôn trưởng đi trước, bọn ty ấu đi sau. Giữa đường gặp ông già 70 tuổi trở lên, tất phải nhường lối đi mà mình đi ra bên cạnh. Thời Pháp thuộc, chế độ làng xã được quy định như sau: -Ở Nam kỳ theo Nghị định của Toàn quyền Đông dương ngày 27/8/1904 làng xã có thành phần đại diện gồm: Hội đồng làng (hay Ban hội tề, hay Hội đồng kỳ mục) gồm có các vị thứ được ấn định như sau: Hương cả, Hương chủ, Hương sư, Hương trưởng, Hương chánh, Hương giáo, Hương quản, Thủ bộ, Hương thân, Xã trưởng, Hương hào. Ngoài ra mỗi xã còn có thể tùy theo tục lệ riêng của mình mà có những chức vị khác như người phụ trách công việc quản thủ các bộ đời (sổ sinh, tử, giá thú) trong làng gọi là chánh lục bộ v.v... -Ở Trung kỳ theo đạo dụ ngày 5/1/1942 thì cơ quan đại diện xã gồm Hội đồng kỳ hào (không hạn chế số lượng người do Tiên chỉ và Thứ chỉ đứng đầu), và Cơ quan chấp hành (có Lý trưởng và ngũ hương là Hương bộ, Hương bản, Hương kiểm, Hương mục, Hương dịch). -Ở Bắc kỳ theo đạo dụ ngày 23/5/1941 thì cơ quan đại diện xã gồm Hội đồng kỳ hào (không hạn chế số lượng người do Tiên chỉ và Thứ chỉ đứng đầu) và Cơ quan chấp hành (có Lý trưởng, Phó lý trưởng, Hộ lại, Chưởng bạ, Thư ký, Thủ quỹ, Trương tuần) (160). Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có các Ông: -Phan Văn Yến (4/2) Xã trưởng. -Phan Văn Trực (2/9) Cựu sắc xã chánh. -Phan Văn Trì (2/9) Văn sai xã trưởng. -Phan Văn Diệp (4/9) Lý trưởng. -Phan Văn Đống (2/10) Hương lại. -Phan Văn Phụ (3/10) tự Xã Tám, Lý trưởng. -Phan hưng Đương (5/10) Lý trưởng. (159)Đại Nam điển lệ toát yếu, Sđd, trang 345-346. Tá nhị là trợ tá và đề lại ở các phủ huyện. Tạp giai là những viên được thưởng phẩm hàm chớ không phải ở trong ngạch quan lại. Quyên là được bỏ tiền ra mà được thiên hộ, bá hộ. Chế là sắc lệnh của nhà vua, vi chế là vi phạm sắc lệnh của vua. (160)Pháp chế sử Việt Nam, Sđd, trang 207-257. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

183


-Phan Văn Ngoạn (2/11) Hương chánh. -Phan Văn Giai (2/11) Lý trưởng. -Phan Duy Thạnh (2/11) Hương lại. -Phan Văn Điển (3/11) Lý trưởng. -Phan Văn Lệ (3/11) Lý trưởng. -Phan Văn Lợi (3/11) Hương lại. -Phan Thứ (3/11) Lý trưởng. -Phan Văn Dư (4/11) Xã trưởng. -Phan Văn Thục (5/11) Lý trưởng. -Phan Văn Truyện (5/11) Lý trưởng. -Phan Văn Châu (1/12) Lý trưởng. -Phan Văn Tánh (2/12) Lý trưởng. -Phan Kiệt (3/12) Lý trưởng. -Phan Văn Tuyên (4/12) ,tức Ông Phó Nẫm -Phan Văn Bính (1/13) Hương kiểm. -Phan Văn Thoại (1/13) Hương kiểm. -Phan Văn Trử (2/13) Lý trưởng. -Phan Văn Du (2/13) Hương mục -Phan Đoan (2/13) Lý trưởng. -Phan Toại (2/13) Lý trưởng. -Phan Khuê (2/13) Hương mục -Phan Ngọc Cư (4/13) Xã trưởng. -Phan Văn Tờn (5/13) Lý trưởng. -Phan Văn Du (5/13) Lý trưởng. -Phan Văn Lộc (5/13) Lý trưởng. Trong số 32 Ông nêu trên, ta thấy: +Ông Phan Văn Yến như tôi đã trình bày trong các bài trước, Ông là con Ngài Thuỷ tổ, được ấm phong là Mậu lâm lang, hàm chánh lục phẩm. +Ông Phan Văn Ngoạn là Hương chánh, ở đây có hai chức vụ liên quan đến tên gọi Hương chánh: -Vào năm Tự Đức thứ 18 (1865), nhà vua cho lập kho nghĩa thương (tức là kho thóc dùng vào việc nghĩa) bằng cách trích ra 10% ruộng công của làng xã để đến kỳ gặt lúa thì lấy thóc, ngoài ra, nếu có người có lòng từ thiện đem quyên góp thì nhận lấy mà nhập vào. Làng phải kén lấy người có vật lực lại là người ngay thẳng, hoặc là người có phẩm hạnh, có tài cán biện, cử ra làm hương chánh, rồi xin tỉnh phát bằng cho lãnh để cho việc này thêm quan trọng. Khi gạo đắt tức thì bán ra, khi gạo rẽ thì đong mà lưu trữ, cùng là cho vay lấy lãi, trong một năm thu lợi được bai nhiêu thì đem ra mà cấp dưỡng binh đinh và kẻ nghèo khó. Số cấp Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

184


dưỡng hết bao nhiêu cả làng hội họp mà tính toán, rồi làm thành 2 bản đem nộp cho quan tỉnh. Quan tỉnh phê chữ rồi giao 1 bản cho Hương chánh chấp chiếu, 1 bản lưu ở tỉnh. -Hương chánh tức là kỳ hào đứng hàng thứ năm trong Hội đồng làng ở Nam kỳ vào thời Pháp thuộc, chức trách của Hương chánh là giữ công việc thẩm phán hòa giải trong tất cả các vụ tranh tụng nhỏ nhặt xảy ra giữa các dân xã, ngoài ra còn là cố vấn cho 3 vị kỳ hào thừa hành (Hương thân, Xã trưởng, Hương hào) trong các nhiệm vụ hàng ngày. Xem xét hai chức vụ hương chánh nêu trên ta có thể xác định là Ông Phan Văn Ngoạn là Hương chánh giữ kho nghĩa thương ở làng xã, chứ không phải là Hương chánh ở Nam kỳ. Như vậy Ông là một người vừa có tài lực, vừa có có uy tín trong làng xã lúc bấy giờ. +Các Ông Phan Văn Bính, Phan Văn Thoại là Hương kiểm thuộc ngũ hương ở Trung kỳ, đứng đầu các tuần đinh trong làng, có nhiệm vụ thi hành các chỉ thị của Hội đồng kỳ hào có liên quan đến công việc cảnh sát và tuần hành trong xã. +Các Ông Phan Văn Du, Phan Khuê là Hương mục thuộc ngũ hương ở Trung kỳ, có trách nhiệm trông coi đường bộ, đường thủy, đường sắt, và các công trình kiến trúc khác như cầu cống...chạy qua địa phận xã hoặc huy động nhân lực trong xã phục vụ cho các công tác có ích lợi chung. +Các Ông Phan Văn Đống, Phan Duy Thạnh, Phan Văn Lợi là Hương lại, đây có thể là người làm các công việc chung của làng xã, không đứng vào hàng ngũ của Hội đồng kỳ hào hay cơ quan chấp hành xã. +Ông Phan Văn Tuyên, Phổ hệ ghi là Ông Phó Nẫm, có thể đây là Phó lý trưởng trong cơ quan chấp hành xã. +Các Ông còn lại là Xã trưởng (trước 1828) hoặc Lý trưởng (sau 1828). Tất cả các Ông là do dân cử ra điều hành việc chung của làng xã nên không có chức vụ trong bộ máy quan chức nhà nước. 67.- Y SANH: Đây là một chức vụ chuyên lo về việc y tế, phòng khám và chửa bệnh cho nhân dân, như vậy những người làm nghề thầy thuốc này đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử loài người. Các triều đại trước triều Lê hiện nay không còn sử sách để tra cứu về chức vụ y tế này. Dưới đời vua Lê Thánh Tông, nhà vua đã thành lập cơ quan Thái y viện là cơ quan trông coi về việc y tế trong cung vua và trong nhân dân. Thái y viện có các quan chức sau đây: -Thái y viện đại sứ, đứng đầu Thái y viện. -Thái y viện viện sứ, đứng thứ nhì Thái y viện. -Thái y viện ngự y chánh, và Thái y viện ngự y phó là những thầy thuốc riêng của nhà vua. -Thái y viện biện kiểm, giữ việc bàn bạc, kiểm sát về y sự. -Tế sinh đường sứ, giữ việc mua thuốc cho nhân dân. -Tế sinh đường khám chẩn, giữ việc xem mạch, chẩn bệnh. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

185


-Ngoài ra còn một chức quan cũng liên quan đến nghề thuốc nhưng không trực thuộc Thái y viện là Khố sứ ở kho sinh dược. Ở Đàng Ngoài, Thái y viện có các chức vụ Thái y viện đại sứ, Thái y viện sứ, Thái y viện ngự y chánh, Thái y viện y phó, Thái y viện biện nghiệm, Tế sinh đường sứ, Tế sinh đường khán chẩn, Sinh dược khố sứ, Y học huấn khoa, có lẽ nhiệm vụ cũng giống như dưới đời vua Lê Thánh Tông trước đó. Ở Đàng Trong không thấy sử sách nói đến Thái y viện, nhưng chắc chắn cũng có cơ quan này hoặc mang tên cơ quan khác nhưng làm nhiệm vụ này, mà do thiếu tài liệu nên tôi chưa tra cứu được. Triều Nguyễn, Thái y viện được lập đời vua Gia Long. Đứng đầu Thái y viện là 1 viện sứ, giúp việc có 1 ngự y, 1 phó ngự y, 2 tả viện phán, 2 thừa viện phán, 10 y chánh, 23 y sinh, 20 vị nhập lưu y sinh. Ngoại khoa có 2 y chánh, 2 y phó, 16 y sinh. Thái y viện tập họp lương y giỏi, đào tạo thầy thuốc để chửa bệnh, phục vụ sức khỏe cho nhà vua, hoàng tộc, quan lại, hàng ngày chia làm 2 ban trực trong nội cung. Nhân viên Thái y viện đeo thẻ ngà “kiểm nghiệm ngự dược”. Tuyển dụng nhân viên ngự y có hội đồng gồm Viện cơ mật, Nội các, Xứ thị vệ, và địa phương sát hạch. Khi cắt thuốc dâng hoàng đế có thẩm định của quan chuyên trách 4 nha Thái y, Cẩn tín, Nội vụ, Thị vệ mới được bào chế. Khi dâng thuốc cho nhà vua, có đại thần kiểm soát, hội đồng xem xét trước. Khi vua ra ngoài theo xa giá có ngự y hay viện sứ theo hầu. Tất cả đơn thuốc, giấy kiểm tra sức khỏe cho nhà vua và triều thần đều đóng thành tập bệnh án, lưu ở viện (161). Cùng với Thái y viện, ở mỗi tỉnh đều có 1 y sinh để chăm lo sức khỏe cho nhân dân. Chức hàm của các quan chức ở Thái y viện dưới triều Nguyễn là: -Thái y viện viện sứ hàm chánh tứ phẩm, cáo thụ Trung thuận đại phu, thụy Đoan cẩn. -Thái y viện ngự y hàm chánh ngũ phẩm, cáo thụ Phụng nghị đại phu, thụy Đoan trực. -Thái y viện ngự y phó hàm tòng ngũ phẩm, cáo thụ Phụng thành đại phu, thụy Đoan thận. -Thái y viện tả viện phán hàm chánh lục phẩm, sắc thụ Thừa vụ lang, thụy Đôn nhã. -Thái y viện thừa viện phán hàm tòng lục phẩm, sắc thụ Văn lâm lang, thụy Đôn túc. -Thái y viện y chính hàm chánh thất phẩm, sắc thụ Trung sĩ lang, thụy Đôn giản. -Thái y viện ngoại khoa y chánh hàm chánh bát phẩm, sắc thụ Tu chức lang, thụy Cung doãn.

(161)Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn giai đọan 1802-1848, Sđd, trang 78. Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

186


-Thái y viện y sinh và Thái y viện ngoại khoa y phó hàm chánh cửu phẩm, sắc thụ Đăng sĩ lang, thụy Đôn mậu. -Y sinh ty Lương y các tỉnh hàm tòng cửu phẩm, sắc thụ Đăng sĩ tá lang, thụy Cung phác. Đối chiếu với Phổ hệ 1994 có Ông Phan Văn Hưng (4/9) là Y sinh, vậy chức hàm của Ông có thể là chánh cửu phẩm (nếu làm việc tại Viện thái y), hoặc tòng cửu phẩm (nếu làm việc tại ty lương y ở tỉnh). Trên đây, tôi vừa trình bày với Tộc những đóng góp của một số các tiền nhân tộc Phan trong lịch sử của dân tộc, các đóng góp đó dù lớn dù nhỏ thì cũng đã góp phần làm rạng danh tộc Phan trong quá khứ, và con cháu đời sau càng lấy làm tự hào khi biết thêm được về các Ngài, các Ông. Tuy nhiên như tôi đã trình bày, vì nhiều lý do khách quan lẫn chủ quan, bài viết của tôi vẫn còn những thiếu sót mà tôi mong rằng khi có đủ thời gian, tộc sẽ bổ sung cho đầy đủ và chính xác. Nhân đây cũng xin nói thêm về hai tài liệu Lê triều chiếu lệnh thiện chính và Đại nam điển lệ toát yếu mà tôi dùng làm dẫn chứng cho bài viết. Cả hai sách trên đều do Tiến sĩ Nguyễn sỹ Giác phiên âm và dịch nghĩa, nhưng khác với Lê triều chiếu lệnh thiện chính có lời đề tựa của giáo sư Vũ Văn Mẫu giới thiệu về những chiếu lệnh trong khoảng 100 năm ở Đàng Ngoài, Đại nam điển lệ toát yếu không có lời nói đầu cũng như không có bài giới thiệu nên ta không biết được tiến sĩ Nguyễn sỹ Giác đã căn cứ vào tài liệu nào để phiên âm và dịch nghĩa cuốn sách này. Xem tựa sách và cách trình bày trong sách thì thấy tương tự như sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ của Quốc sử quán triều Nguyễn, nhưng tôi cũng chưa có dịp đọc hết toàn bộ 17 cuốn của Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ nên không thể biết được sách Đại Nam điển lệ toát yếu có phải làm phần tóm lược của Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ hay không, hy vọng rằng khi có đủ thời gian và điều kiện, tôi sẽ đi sâu vào hai cuốn sách trên hơn, dù sao tôi cũng cám ơn tác giả sách Đại Nam điển lệ toát yếu đã giúp tôi có được tài liệu để hoàn thành nên bài viết này. Lẽ ra bài viết 3 đến đây là tạm ngưng, nhưng trong một lần được xem Gia phả của tộc NGUYỄN ĐÌNH ở La kham, tôi thấy Ông ngoại tôi (ông Viên Nhung) đã viết trong Gia phả về bảng vàng phong tặng “Sắc tứ Thọ dân” cho Ông Nguyễn Văn Tường (còn gọi là Ông Bách Tuế) như sau: “Tự Đức tam thập niên thưởng nhứt kim bảng bảng nội minh viết SẮC TỨ THỌ DÂN tiểu chú ư Thọ dân nhị tự chi hạ viết Quảng Nam tỉnh Điện Bàn phủ Diên Phước huyện Phú Khương thượng tổng Đông Thành thôn nhơn Nguyễn Văn Tường thọ đăng bách tuế đặc tứ tinh thưởng dĩ biểu thăng bình nhơn thụy”, có nghĩa là “Năm Tự Đức thứ 30 thưởng một bảng vàng, bên trong bảng viết rõ SẮC TỨ THỌ DÂN, bên dưới hai chữ Thọ dân ghi người ở Tỉnh Quảng Nam, phủ Điện Bàn, huyện Diên Phước, tổng Phú Khương thượng, thôn Đông Thành là Nguyễn

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

187


văn Tường thọ 100 tuổi, nên đặc thưởng để…..”, như vậy qua đó ta có thể biết và hình dung được biển hoành phong thưởng Sắc tứ thọ dân cho Ông Phan Văn Nhụy (2/10) thuộc tộc Phan.

Sàigòn, mạnh thu Mậu dần 1998. Phan Bá Lương (2/16)

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

188


VỀ VIỆC ĐẶT TÊN CHO CON CHÁU MAI SAU Phần sau đây là phần của tôi gởi lại cho con cháu trực hệ của tôi, tôi không dự định đưa phần này vào “Góp phần vào Hành trình tìm về dòng tộc”, nhất là lại đưa lên mạng. Nhưng nghĩ lại đây cũng có thể là điều mà có người cần, nên tôi đưa tiếp vào phần cuối bài viết chỉ với một mục đích duy nhất là để cho ai cần sử dụng thì đã có sẵn mà khỏi phải tốn công tìm kiếm. Vì vậy, nếu không sử dụng được xin vui lòng thông cảm bỏ qua cho. Từ ngàn xưa, việc đặt tên cho con cái là một việc quan trọng. Khi đặt tên, cần phải nhờ những người lớn tuổi, học rộng, phải tra cứu trong sách vở để chọn được những tên hay, đầy đủ ý nghĩa, phải tra cứu trong gia phả… để tránh tình trạng trùng lắp tên với những bậc tiền bối trong họ tộc mà mang tội với Tổ tiên. Khi chọn được tên, lại phải làm lễ cúng để báo cáo với trời đất, thánh thần việc khai sinh cho một đời người. Cũng có những họ tộc, nhất là vua chúa, quan lại cao cấp đã chọn cho giòng họ của mình những tên để lưu truyền mãi về sau, thí dụ vua Minh Mạng triều Nguyễn đã lập ra bài “Đế hệ thi”, “Phiên hệ thi” , từ đó sau này mới có những tên như: Miên Tôn, Hồng Nhậm, Ưng Đăng, Bữu San, Vĩnh Thụy v.v..., hoặc những giòng họ lớn như Nguyễn Khoa, Hồ Đắc, Thân Trọng, Nguyễn Hữu v.v… Với tộc Phan, gia phả tộc cho thấy việc đặt tên đã không được quan tâm đúng mức, trừ họ là Phan ra còn thì các phái, các chi, các đời đặt thế nào cũng được, không thống nhất. Vì vậy mà ta thấy có rất nhiều chữ lót, rất nhiều tên trùng nhau. Học đòi người xưa, nay ta tạo ra một nguyên tắc đặt tên để lưu truyền cho con cháu đời sau, đó là: 2.1.-Xuất phát của dòng tộc ta là làng Bảo An, xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, tại đây tộc Phan là một trong các tộc được xem là tiền hiền của làng, Ông tổ tộc Phan Bảo an đã được vua Tự Đức triều Nguyễn phong là “Dục bảo trung hưng linh phù tôn thần”. Để con cháu đời sau, dù có lưu lạc tứ xứ, vẫn mãi ghi nhớ nơi xuất phát của tộc, thì phải sử dụng chữ Bảo (trong chữ Bảo An) làm chữ lót. 2.2.-Tên một con người là quan trọng, do đó mà từ xa xưa mọi người đều muốn chọn những chữ có ý nghĩa tốt đẹp để đặt tên. Chúng ta nên và cũng phải tiếp tục như vậy, nhưng ta lại nghĩ tên đất, tên sông, tên núi v.v… đã được ông cha đặt từ ngàn xưa, lại là những tên cực kỳ tốt đẹp, nó hun đúc suốt mấy ngàn năm lịch sử của dân tộc ta. Đem những tên đất, tên sông, tên núi làm tên đặt cho con cháu, ta mong rằng làm cho con cháu ta nhớ đến lịch sử đất nước, và nhờ vào sự thiêng liêng hun đúc mấy ngàn năm này phò trợ cho con cháu đời sau. Vì vậy, ta đã tra cứu và chọn ra được khoảng hơn 200 tên, sắp xếp thứ tự theo vần a, b, c để con cháu cứ tuần tự theo các đời mà chọn lấy các chữ tên cho phù hợp, bắt đầu từ vần A, đời kế tiếp là vần B, rồi đến đời kế tiếp nữa vần C, anh chị em cùng một đời thì đều có tên cùng một vần v.v..., thí dụ là vần A mà có 5 người thì chọn tên là Ái Châu, hoặc Ái Nghĩa, hoặc Ái Tử, Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

189


hoặc An Duyệt, hoặc An Dương hoặc An Vinh..., nhưng không nhất thiết phải chọn những tên kế tiếp nhau theo thứ tự trong vần (thí dụ là nữ thì có thể chọn Ái Châu, Ái Nghĩa làm tên nhưng nếu là nam mà chọn tên này thì e rằng hơi yếu đuối). Một ưu điểm của việc chọn tên này là có thể thêm hoặc bớt các chữ đều được tùy theo tình hình và hoàn cảnh cụ thể lúc bấy giờ, vì vậy mà các tên sẽ được liên tục bổ sung, không bao giờ hết. Việc đặt tên sẽ được bắt đầu từ đời thứ 18 thuộc dòng ta trở đi. Bảng đặt tên như sau: 1/Vần A: Ái Châu, Ái Nghĩa, Ái Tư, An Bang, An Duyệt, An Dương, An Đại, An Định, An Hà, An Hải, An Hòa, An Khang, An Khê, An Lạc, An Lãng, An Lễ, An Lộc, An Lưu, An Nghệ, An Nhân, An Phú, An Thạch, An Thịnh, An Thuận, An Thư, An Tỉnh, An Trung, An Vân, An Viễn, An Việt, An Xuân, Anh Đô, An Vinh. 2/Vần B: Bách Lộc, Bạch Đằng, Bạch Hạc, Bạch Thông, Bảo Lạc, Bảo Lộc, Bắc Cương, Bắc Hà, Bắc Lâm, Bích Giang, Bích Trâm, Bình Cương, Bình Giang, Bình Hòa, Bình Khánh, Bình Kỳ, Bình Long, Bình Minh, Bình Phú, Bình Phước, Bình Sơn, Bình Tân, Bình Thạnh, Bình Thuận, Bình Tường, Bồng Sơn. 3/Vần C: Cam Lộ, Cảnh Thuần, Cảnh Vũ, Cẩm An, Cẩm Giang, Cẩm Lệ, Cẩm Nam, Cẩm Nhân, Cẩm Phô, Cẩm Sa, Cẩm Sơn, Cẩm Thủy, Cẩm Xuyên, Chân Định, Chân Phúc, Châu Giang, Chi Động, Chi Lăng, Chi Phong, Chí Linh, Chính Yên, Chu Diên, Chu Lễ, Chương Dương, Chương Đức, Cổ Chiên, Cổ Loa, Côn Sơn. 4/Vần D: Diên Khánh, Diên Ninh, Diên Phúc, Diễn Châu, Duy Tiên, Duy Trinh, Duy Xuyên, Duyên Hà, Duyên Trường, Dương Long, Dương Lộc, Dương Quang, Dương Vũ. 5/Vần Đ: Đa Hòa, Đại An, Đại Hòa, Đại Hoàng, Đại La, Đại Lộc, Đại Minh, Đại Từ, Đạm Xuyên, Đan Duệ, Đan Phượng, Đằng Châu, Điện Hải, Định Biên, Định Hóa, Định Viễn, Đông Ba, Đông Hà, Đông Lạc, Đông Lâm, Đông Ngạc, Đông Quan, Đông Triều, Đông Yên, Đông Ngàn, Đông Quan, Đông Sơn, Đông Thành, Đông Triều, Đống Đa, Đồng Tháp, Đồng Xuân, Đức Cơ, Đức Linh, Đức Long, Đức Nguyên, Đức Quang, Đức Thắng, Đường Lâm. 6/Vần G: Gia Bình, Gia Cung, Gia Định, Gia Hưng, Gia Hội, Gia Lâm, Gia Lộc, Gia Ninh, Gia Phúc, Gia Tĩnh, Gia Viễn, Giáng Hương, Giảng La, Giáp Sơn, Giáo Ai, Giao Thủy, Gio Linh. 7/Vần H: Hà Đông, Hà Giang, Hà Hoa, Hà Hồi, Hà Lam, Hà Ninh, Hà Tiên, Hạ Hồng, Hải An, Hải Châu, Hải Dương, Hải Đông, Hải Lăng, Hải Lâm, Hải Lý, Hải Ninh, Hải Vân, Hàm Giang, Hàm Long, Hàm Tử, Hiền Lương, Hiệp Hòa, Hiệp Sơn, Hoa Lư, Hóa Châu, Hòa Đa, Hòa Vang, Hòa Phú, Hoài An, Hoài Đức, Hoài Nhân, Hoàng Giang, Hoàng Mai, Hoàng Sa, Hoành Sơn, Hoằng Hóa, Hoằng Nghĩa, Hội An, Hồng Hà, Hồng Lĩnh, Hồng Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

190


Đức, Hồng Sơn, Hợp Phố, Hùng Sơn, Hưng Hóa, Hưng Khánh, Hưng Long, Hưng Nhân, Hưng Nguyên, Hưng Thịnh, Hưng Yên, Hương Ai, Hương An, Hương Điền, Hương Giang, Hương Lam, Hương Lâm, Hương Lộc, Hương Sơn, Hương Thủy, Hương Tích, Hương Trà. 8/Vần K: Khai Tường, Khang Lộc, Khang Vĩnh, Khánh Khê, Khánh Long, Khánh Vân, Khả Lưu, Khoái Châu, Kiên Lương, Kiến Đăng, Kiến Định, Kiến Hòa, Kiến Ninh, Kiến Phong, Kiến Thụy, Kiến Xương, Kim Anh, Kim Động, Kim Long, Kim Quang, Kim Sơn, Kim Trà, Kinh Bắc, Kinh Môn, Kỳ Hoa, Kỳ Lam, Kỳ Lâm, Kỳ Sơn. 9/Vần L: La Giang, La Mai, La Sơn, La Vân, Lai Châu, Lại Giang, Lam Giang, Lam Sơn, Lam Thủy, Lạng Giang, Lạng Sơn, Lâm An, Lâm Thao, Lễ Dương, Lễ Môn, Lệ Thủy, Liên Hương, Liên Sơn, Liên Thúy, Liên Trì, Linh An, Linh Chiểu, Linh Giang, Linh Sơn, Linh Trường, Long Biên, Long Bình, Long Định, Long Hậu, Long Hồ, Long Hưng, Long Hương, Long Khánh, Long Khê, Long Phù, Long Sơn, Long Tiệp, Long Thành, Long Thịnh, Long Thới, Long Trường, Long Tường, Lộc An, Lộc Bình, Lộc Dã, Lộc Điền, Lộc Hải, Lộc Hương, Lộc Long, Lục Hải, Lục Yên, Lưu Khê, Lý Nhân. 10/Vần M: Mai Châu, Mai Hoa, Mai Động, Mai Khê, Mai Nương, Minh Châu, Minh Lương, Minh Lý, Minh Nghĩa, Minh Quảng, Minh Thái, Minh Tiến, Mỹ Chánh, Mộc Châu. 11/Vần N: Nam Đường, Nam Giản, Nam Hải, Nam Phố, Nam Sách, Nga Sơn, Ngân Châu, Nghi Dương, Nghi Xuân, Nghĩa An, Nghĩa Châu, Nghĩa Giang, Nghĩa Hưng, Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Lộ, Ngọc Hồi, Ngọc Sơn, Nguyên Phong, Nguyệt Đức, Nhân Lý, Nhật Lệ, Nhật Nam, Nhị Hà, Nhị Khê, Nho Lãm, Nhơn Đức, Nhu Viễn, Như Nguyệt, Như Quỳnh, Ninh Cương, Ninh Dương, Ninh Giang, Ninh Hải, Ninh Kiều, Ninh Thuận. 12/Vần P: Phong Châu, Phong Điền, Phong Thử, Phú Bình, Phú Cương, Phú Cường, Phú Gia, Phú Hải, Phú Hương, Phú Long, Phú Lương, Phú Nghĩa, Phú Tài, Phú Thịnh, Phú Toàn, Phú Trường, Phú Vang, Phú Vinh, Phú Xuân, Phú Yên, Phù Cát, Phù Diễn, Phù Đổng, Phù Khang, Phù Long, Phù Lộc, Phù Lưu, Phù Ly, Phúc An, Phúc Điền, Phúc Giang, Phúc Khang, Phúc Khê, Phúc Lễ, Phúc Linh, Phúc Long, Phúc Lộc, Phúc Lương, Phúc Trường, Phúc Tuy, Phụng Hiệp, Phụng Thiên, Phước Kiển, Phương Liên, Phương Đình, Phượng Các, Phượng Châu, Phượng Hoàng, Phượng Trì, Phượng Vĩ. 13/Vần Q: Quan Triều, Quang Thái, Quang Thuận, Quang Vinh, Quảng An, Quảng Bình, Quảng Đà, Quảng Điền, Quảng Lăng, Quảng Phú, Quảng Phước, Quảng Uyên, Quế Dương, Quế Lâm, Quế Phong, Quế Sơn, Qui Nhơn, Quỳ Châu, Quỳnh Lâm, Quỳnh Lưu, Quỳnh Sơn. 14/Vần S: Sơn Dương, Sơn Định, Sơn Minh, Sơn Nam, Sơn Tây, Sơn Tịnh, Sơn Triều, Sơn Tùng. 15/Vần T: Tam Dương, Tam Giang, Tam Điệp, Tam Nông, Tam Thanh, Tản Viên, Tân An, Tân Bình, Tân Cảnh, Tân Châu, Tân Định, Tân Hưng, Tân Hiệp, Tân Lân, Tân Thuận, Tân Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

191


Uyên, Tây Hồ, Tây Kết, Tây Sơn, Thạch Khôi, Thạch Lam, Thạch Lãm, Thái Khang, Thái Ninh, Thanh An, Thanh Dương, Thanh Chiêm, Thanh Đô, Thanh Hà, Thanh Hòa, Thanh Khê, Thanh Lan, Thanh Lương, Thanh Ly, Thanh Phước, Thanh Thọ, Thanh Thủy, Thanh Tiên, Thanh Tuyền, Thanh Xuân, Thăng Bình, Thăng Hoa, Thăng Long, Thần Phù, Thất Khê, Thiên An, Thiên Hưng, Thiên Kiện, Thiên Lộc, Thiên Phúc, Thiên Trường, Thiệu Hóa, Thiệu Khánh, Thiệu Thành, Thiệu Thiên, Thịnh Mỹ, Thịnh Quang, Tịnh An, Tịnh Khê, Thọ Khang, Thuận An, Thuận Bình, Thuận Châu, Thuận Hóa, Thuận Khánh, Thuận Ninh, Thụy Anh, Thụy Nguyên, Thủy An, Thủy Liên, Thủy Tú, Thủy Vân, Thư Trì, Thượng An, Thượng Hồng, Tích Phú, Tiên Du, Tiên Hưng, Tiên Lữ, Tiên Phong, Tiên Sơn, Tiền Hải, Tĩnh Gia, Tĩnh Hải, Tĩnh Ninh, Tĩnh Yên, Tô Lịch, Tư Nghĩa, Trà Giang, Trà Sơn, Trấn Bắc, Trấn Biên, Trấn Định, Trấn Hải, Trấn Ninh, Triều Dương, Triệu Phong, Trúc Khê, Trúc Lâm, Trung An, Trung Đan, Trung Hiền, Trung Mỹ, Trung Sinh, Trùng Khánh, Trường An, Trường Giang, Trường Sa, Trường Sinh, Trường Yên, Tuy Phong, Tuy Phước, Tuy Viễn, Tư Phú, Tứ Kỳ, Tứ Xuyên, Tứ Hải, Từ Liêm, Từ Sơn, Tương Dương, Tường Vân. 16/Vần U: Uyển Sơn, Ứng Hòa, Ứng Thiên. 17/Vần V: Vạn Long, Vạn Ninh, Vạn Xuân, Vạn Yên, Văn Giang, Văn Phong, Văn Uyên, Vân An, Vân Đồn, Vân Ly, Vân Sơn, Vị Dương, Vị Hoàng, Vị Xuyên, Vĩnh An, Vĩnh Điện, Vĩnh Hưng, Vĩnh Khang, Vĩnh Lộc, Vĩnh Ninh, Vĩnh Phúc, Vĩnh Thuận, Vĩnh Trường, Vĩnh Xương, Vĩnh Yên, Vũ An, Vũ Ninh, Vũ Định. 18/Vần X: Xuân An, Xuân Cảnh, Xuân Đài, Xuân Kiều, Xuân Lâm, Xuân Lộc, Xuân Ngọc, Xuân Thọ, Xuân Trường. 19/Vần Y: Yên Dũng, Yên Định, Yên Lạc, Yên Lãng, Yên Lập, Yên Quảng, Yên Thế, Yên Tử. Như vậy, đời thứ 18, các cháu ta sẽ được mang tên gồm: -Họ

: Phan

-Chữ lót

: Bảo

-Tên

: Ái Châu, hoặc Ái Nghĩa, hoặc An Duyệt v.v...…

-Họ tên đầy đủ : Phan Bảo Ái Châu, hoặc Phan Bảo An Duyệt. và đời thứ 19, các cháu ta sẽ được mang tên gồm: -Họ

: Phan

-Chữ lót

: Bảo

-Tên

: Bạch Đằng, hoặc Bắc Lâm, hoặc Bình Thuận v.v...…

-Họ tên đầy đủ : Phan Bảo Bạch Đằng, hoặc Phan Bảo Bình Thuận. rồi đến đời thứ 20, tên thuộc vần chữ C (Cam Lộ, Cảnh Thuần, Cảnh Vũ v.v...)

Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

192


Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

193


Góp phần vào HÀNH TRÌNH TÌM VỀ DÒNG TỘC

194


Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.