Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt

Page 1

Suy nghĩ về chính tả, đọc “Quy tắc đặt dấu thanh trong tiếng Việt” của Vũ Xuân Lương Hồng Đức Trên trang web của Trung Tâm Từ Điển Học Việt Nam 1 thì tác giả của cái qui tắc này là Vũ Xuân Lƣơng nhƣng trong bài “Vấn đề đánh dấu thanh tiếng Việt” của tác giả Dũng Vũ2 thì Vũ Xuân Lƣơng và Hoàng Phê là đồng tác giả của qui tắc. (Có lẽ vì DV thấy đăng chính thức trong vietlex.com mà Hoàng Phê là “chủ tịch vĩnh viễn” chăng?) Tác giả Dũng Vũ đã có những nhận xét và phê bình cái qui tắc này một cách khoa học và xác đáng cũng nhƣ có phê bình thêm về qui tắc bỏ dấu của một tác giả khác nữa là Đoàn Xuân Kiên3 sau khi đã nêu ra các đặc điểm ngữ âm của tiếng và chữ Việt. Bài viết này không nhằm mục đích đánh giá lại cái qui tắc của Vũ Xuân Lƣơng bằng các phƣơng pháp khoa học nhƣ Dũng Vũ đã làm mà chỉ có ý đƣa ra vài suy nghĩ về văn hóa và ngƣời làm văn hóa Việt Nam. Cần biết rằng vietlex.com là trang web chính thức của Trung Tâm Từ Điển Học,4 một trung tâm của nhà nƣớc và đảng CSVN, nên những bài viết, những qui luật mà trung tâm này phổ biến sẽ có ảnh hƣởng rất sâu rộng trong tầng lớp sinh viên học sinh và giáo viên cũng nhƣ giới trí thức trong nƣớc. Chắc 1

http://vietlex.com/lib/compuLinguistics/quytacbodau.htm tìm thấy trên trang web Mạng Giáo Dục của Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo Việt Nam (http://diendan.edu.net.vn/forums/thread/276086.aspx) nhƣng khởi thủy là đăng trên trang web của Talawas: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=7657&rb=06 3 bài “Bàn về chuyện "đánh dấu thanh" trong tiếng Việt” cũng tại Talawas: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=94&rb=07 4 địa chỉ: Số 2 Ngõ Hàng Bún, Hà Nội 2


chắn rằng cái qui tắc này đã trở thành qui luật ở những tòa soạn báo chí, ở những nhà xuất bản, ở những cơ sở đang làm công việc chuyển văn bản thành dữ liệu điện toán và đang dần biến thành thói quen của mọi tầng lớp dân chúng khi phải “đánh máy”. Một số trí thức trẻ hải ngoại cũng bị thuyết phục hoặc bị mê hoặc bởi cái qui tắc này sau khi họ thắc mắc về cách đánh dấu tiếng Việt, truy tìm bài viết về vấn đề này trên Internet và chỉ thấy bài của Vũ Xuân Lƣơng là đơn giản, là có vẻ có qui luật và dễ nhớ nên áp dụng theo. Còn bài viết của Dũng Vũ thì quá phức tạp, chứng minh dài dòng, lại có mấy cái biểu đồ cái nào cũng giống cái nào, chả biết đƣa ra để làm gì, bèn không đọc kĩ, hoặc có đọc cũng chả hiểu bèn bỏ qua, hoặc cho rằng tác giả (DV) là một ngƣời khoe mẽ, ra cái điều hiện đại có máy móc ghi biểu đồ tần số âm thanh, bèn có ác cảm với tác giả và không quan tâm chứ đừng nói tới áp dụng các đề nghị của tác giả. Rồi lại có bài của Cao Xuân Hạo đánh giá rất cao bài viết của Dũng Vũ cũng tại trang web Mạng Giáo Dục nói trên. Nhƣng đây cũng lại là một bài viết dài dòng văn tự, chủ yếu để trình bày các phát kiến của ông (CXH) trong lãnh vực gọi là “âm vị học” của tiếng Việt (và cũng phần nào muốn tỏ ra rằng học sinh ngày trƣớc ở miền Bắc đã đƣợc học một thứ tiếng Việt hiện đại hơn miền Nam, do công của ông). Và điều quan trọng nhất là chƣa một vị học giả có tên tuổi nào đứng ra kêu gọi hay đề xuất một qui tắc bỏ dấu đơn giản cho xã hội sử dụng ngoài “giáo sƣ” Hoàng Phê và “chuyên viên” Vũ Xuân Lƣơng. (Các dấu ngoặc kép ở đây có lý do của nó, xin đƣợc trình bày sau.)


Kể cũng đúng thôi, vấn đề đánh dấu giọng này mà các vị trí thức lão thành thƣờng cho là khỏi phải bàn -- vì xƣa nay đã ổn rồi -- nên không cụ nào lên tiếng. Các cụ không thể nào tƣởng tƣợng là ngày nay lại có kẻ dám sửa lại những điều cha ông đã làm thành thói quen, thành qui luật từ bao lâu nay, nên khi có ai đó giúp các cụ “đánh máy”, in ra thấy kì kì thì các cụ cũng chỉ lắc đầu bảo tụi trẻ bây giờ đánh máy kém quá, lỗi tùm lum, hoặc các cụ cho là máy điện toán không dễ dùng nhƣ máy đánh chữ, rồi các cụ đành chịu vì có yêu cần sửa lại cũng rất khó khăn, thôi thì có chữ đọc là đƣợc rồi, không nhằm nhò gì ba cái dấu chỗ này chỗ kia. Thế mà không đơn giản nhƣ các cụ tƣởng, sau lƣng các cụ ngƣời ta đang tìm mọi cách để chứng minh là những gì -- tất cả những gì -- mà các cụ và cha anh các cụ đã làm đều sai, đều dở, đều tệ hại và cần phải đƣợc sửa lại. Với cái tựa đề “Quy tắc đánh dấu...” cứ y nhƣ là “qui tắc giao thông” vậy, nó có vẻ khẳng định đây là những qui tắc đã đƣợc đề ra bởi cơ quan chức năng sau những nghiên cứu, dùng thử và đánh giá nghiêm túc. Nhƣng không phải vậy. Đƣợc đăng trên một trang web nhƣ thế, nó sẽ làm ngƣời đọc tƣởng đây là quyết định hay nghị định gì gì đó mới ra của “Hàn Lâm Viện Ngôn Ngữ Việt Nam”, một cơ quan mà sau hơn 30 năm xây dựng “một quê hƣơng giàu đẹp”, một đất nƣớc “độc lập tự do hạnh phúc” ắt là phải có mặt và hoạt động để hƣớng dẫn ngƣời dân sử dụng ngôn ngữ tự do trong vòng tiến bộ để ngôn ngữ ngày càng đẹp hơn hầu đem lại nhiều hạnh phúc hơn cho nhân dân trên cái quê hƣơng đó. Nhƣng hình nhƣ cái cơ quan đó chƣa hề tồn tại hoặc có tồn tại mà chƣa hề hoạt động.


Và qua các mâu thuẫn trong lập luận, áp đặt trong kết luận, cái “quy tắc” này đã nói lên một cái gì khác ngoài vấn đề chữ nghĩa. Những “quy tắc” tưởng chừng “mới”. Bản qui tắc của Vũ Xuân Lƣơng có vẻ rất đơn giản chỉ với 4 trang giấy in mà gồm đủ các qui tắc và phần giải thích lý do phải áp dụng, chƣa kể phần mào đầu và phần định nghĩa các thuật ngữ trong lãnh vực ngữ âm học. Sự đơn giản này hấp dẫn giới trẻ vốn thích những gì thực tế. Bản qui tắc này gồm 5 qui tắc, xin tóm lƣợc nhƣ sau: 1. , “thì dấu thanh đƣợc đặt vào nguyên âm đó. Vd: á à, ì ạch, ọ ẹ, ủ rũ, ọp ẹp, ục ịch, hà, lán, giá, giục, quả, quỹ, quỵt... (u và i trong gi và qu không đƣợc kể là nguyên âm mà hợp với g và q thành các tổ hợp phụ âm.)” (trích nguyên văn) 2 (gọi là “dấu âm” thì đúng hơn – HĐ chú) nhƣ Ă, Â, Ê, Ô, Ơ, Ƣ “thì dấu thanh đặt ở nguyên âm mang dấu phụ đó (riêng ƢƠ, dấu đặt ở Ơ). Vd: ế ẩm, ồ ề, ở rể, ứ ừ, ...” 3.

. Vd:

choàng, hoạch, loét, quẹt, suýt, thoát, xoèn xoẹt...” 4. oa, oe, uy . Vd: , thuỷ...” 5. y ba nguyên âm oa, oe, uy . Vd: ...” Ngoài qui tắc số 4 thì 4 qui tắc kia đƣa đến kết quả giống hệt với cách bỏ dấu xƣa nay của cha anh chúng ta trƣớc khi những “ngƣời con ƣu tú” bắt đầu “chỉ đạo văn hóa” của dân tộc. Tất


cả những ai đã từng quen với chiếc máy đánh chữ hoặc đọc nhiều sách báo cũ đều thấy rằng sách báo hiện tại dƣới sự chỉ đạo của “đỉnh cao trí tuệ” của Đảng có cách xếp chữ chẳng khác gì ngày trƣớc. Vì sự xuất hiện của các vần oa, oe, uy rất hiếm nên thƣờng không ai thấy có sự khác biệt. Vậy nên mới nói “mới mà không mới”. Áp đặt võ đoán Theo cách xếp chữ cũ (từ nay xin gọi là cách bỏ dấu truyền thống), thì dấu giọng sẽ bỏ trên mẫu-tự-nguyên-âm áp chót nếu vần kết thúc bằng 2 mẫu tự nguyên âm trở lên. Nói “mẫu tự nguyên âm” là để kể cả “y” vào trong trƣờng hợp này. Thế nên cách truyền thống viết “hóa, xòe, súy” chứ không phải cải cách thành “hoá, xoè, suý” nhƣ qui tắc 4 của VXL. Lý giải cho sự “cải cách” này, tác giả VXL đã phải áp đặt qui luật dấu thanh phải được đặt trên nguyên âm mà không giải thích tại sao lại cần phải nhƣ vậy. (Mặc dù chƣa bao giờ có ai đặt dấu trên phụ âm tiếng Việt ngoại trừ khi viết tắt: “Ngã” hay “ngø” thay cho “Nguyễn, ngƣời” chẳng hạn. Hoặc có ngƣời khi viết tắt lại bỏ dấu vào khoảng không: Ng ã hay ng ø chẳng hạn.) Tuy không minh thị xác định rằng mình đang áp dụng qui luật này, nhƣng một khi tác giả chỉ dựa vào tính năng của mẫu tự nguyên âm (âm nguyên, âm bán-nguyên...) để phân tích và lý luận, ngƣời đọc ắt nhận ra cái qui luật trên là chủ đạo cho lập luận của tác giả. Trong thực tế phát âm, khi gặp một từ (hay còn gọi là “tiếng”, hay “âm tiết” nhƣ VXL dùng) có phụ âm cuối thì thanh điệu (biểu thị bằng dấu thanh) bao trùm cả phần phụ âm này, tức là thanh điệu bao trùm toàn thể một vần. Có thể thẩm định điều


này bằng cách đọc to vài từ sau: “uống, bình, ủng, liễn, đoạn”. Vậy dấu thanh vẫn có thể đặt vào phụ âm cuối chứ. Dấu-thanhphải-đặt-trên-nguyên-âm chẳng qua chỉ là một qui ước xƣa nay chứ chưa bao giờ là qui luật tự nhiên cả. (Chính Cao Xuân Hạo cũng đã nói nhƣ vậy trong bài viết của mình.) Và rõ nhất là khi ráp vần để tập đọc, chúng ta luôn dạy học trò bỏ dấu sau cùng: “Lờ ƣ lƣ ơ lƣa ngờ Lƣơng huyền Lƣờng”, chứ đâu có ai ráp “Lờ ƣ lƣ ơ lƣa huyền lừa ngờ Lƣờng” đâu. Nhƣng vì “dấu phải đƣợc đặt trên nguyên âm” nên xuất hiện vấn đề khi gặp từ có hai nguyên âm trở lên thì đánh dấu ở đâu. Để giải quyết, tác giả phải vận dụng tới khái niệm “bán nguyên âm” là khái niệm khá quen thuộc đối với những ngƣời đã từng học ngoại ngữ. Do có vẻ quen thuộc nên họ dễ chấp nhận. Nhƣng đây cũng là một khái niệm mơ hồ đối với họ vì mấy ai khi học ngoại ngữ lại định nghĩa đƣợc rõ ràng “bán nguyên âm” là gì. Rồi lại xuất hiện thuật ngữ “bán phụ âm”. Quả thực nghe cũng có vẻ quen thuộc vì đã có bán nguyên âm thì phải có bán phụ âm chứ. Và một khi gặp đám hỏa mù thuật ngữ nhƣ vậy, những “kẻ ngoại đạo” đối với lãnh vực ngữ âm đành có cảm giác bị khuất phục. Các nhận định về ngữ âm chỉ dựa trên mặt chữ. Tính năng của 2 mẫu tự đồng âm “i” và “y” khi đi sau nguyên âm đƣợc tác giả của qui tắc giải thích: “Với con chữ I, cũng tƣơng tự, nó vừa dùng để viết nguyên âm i (im ỉm, in ít...), vừa dùng để viết bán phụ âm i đóng vai trò là âm cuối trong các trƣờng hợp nhƣ: tai tái, cày cấy, táy máy...”


Rõ ràng vì tác giả không muốn đặt dấu trên mẫu tự “i” hay “y” ở cuối nên phải đặt cho chúng cái chức năng làm “bán phụ âm” bất chấp những mẫu tự này vang lên rõ thế nào khi đƣợc phát âm. Nếu tác giả chịu khó ngồi phát âm các từ trong ví dụ của chính mình thì chắc tác giả cũng thấy âm [i] của mẫu tự “y” trong từ “táy máy” ngân vang rất rõ ràng sau một âm [a] cụt lủn. Nếu tác giả gọi chữ “a” trong trƣờng hợp này là “bán nguyên âm” thì may ra còn chấp nhận đƣợc. Nhƣng gọi “y” là “bán phụ âm” thì đúng là tác giả chƣa hề nghe ai nói hay đọc 2 từ “táy máy”. Trƣờng hợp “tai tái” thì mặc dù âm [i] phát ra không rõ ràng nhƣ âm [a] đi trƣớc nó nhƣng [i] này cũng không đến nỗi cụt mà gọi nó là bán âm này kia. Thực ra cặp “ai” là một nguyên âm ghép (còn gọi là “nhị trùng âm”). Một âm nguyên đƣợc phát ra rõ ràng mà lại gọi là “bán phụ âm” thì rõ ràng tác giả chỉ nhìn mặt chữ mà xác định tính năng của từng mẫu tự mà thôi. Tƣơng tự là sự lầm lẫn về chữ “o” hay “u” cuối từ. Tác giả nói: “Khi dùng O và U để viết w đóng vai trò là âm cuối trong các trƣờng hợp nhƣ đào hào, báo cáo, táo, đau, rau câu... thì gọi là bán phụ âm.” Câu của tác giả hơi tối nghĩa, xin mạn phép “dịch” lại nhƣ sau: “Khi mẫu tự “o” hoặc “u” đƣợc dùng để viết âm [w] ở cuối âm tiết nhƣ trong các trƣờng hợp “đào hào, báo cáo, đau, rau câu...” thì đƣợc gọi là các bán phụ âm.” Điều đáng khen là tác giả đã nhận ra rằng tuy “o” và “u” đƣợc viết 2 kiểu khác nhau nhƣng lại đƣợc phát âm giống nhau là [w] tuy điều này chƣa đúng hẳn. Nhƣng vẫn không thể bảo


rằng tác giả đã nghe kĩ những tiếng trong ví dụ của mình: Vì chúng chỉ khá giống nhau thôi. Âm cuối của “đào” quả thực nửa [o] nửa [u] nên có thể tạm chấp nhận là “bán nguyên âm” - vì ở cuối nên tác giả gọi là “bán phụ âm”? -- nhƣng mẫu tự “u” của “đau” thì vang rõ ràng âm [u], chỉ có âm [a] phía trƣớc là cụt lủn giống trƣờng hợp a cụt của “táy máy” ở trên. Gọi “u” này là bán phụ âm thì cũng sai nhƣ trƣờng hợp “y” cuối của “táy máy”. Nói thêm cho rõ Nếu để ý ai cũng thấy ngay “ă” chẳng qua chỉ là [a] ngắn, “â” chẳng qua chỉ là [ơ] ngắn. Trong ký âm ngôn ngữ, không có một ký hiệu riêng và cụ thể để diễn tả âm ngắn, 5 thế nên những ngƣời tặng dân tộc ta chữ quốc ngữ đã phải dùng tới dấu trăng (cho chữ ă) để chỉ âm ngắn của [a]; và đặt dấu mũ trên đầu “a” thành “â” làm âm ngắn của [ơ], không lẽ đặt dấu trăng lên đầu “ơ” để tạo thành một “cục dấu” nhƣ vầy: “ôê”. Nếu để ý tiếp thì cũng thấy ngay rằng “i” và “y” đều mang âm nguyên [i]; và rằng “y” làm nguyên âm trƣớc nó ngắn lại, còn “i” thì không. Thế nên “táy máy” chẳng qua chỉ là “tắi mắi” mà thôi. Đã gọi “ă” là nguyên âm thì phải gọi “ăi” là nguyên âm đôi, và âm [i] cuối là nguyên âm, không có bán phụ âm, bán nguyên âm gì ở đây hết. Trƣờng hợp của “uy” cũng thế. Vì “u” bị “y” làm ngắn lại nên đọc giống bán nguyên âm [w]. Nếu dùng dấu trăng để làm ngắn một âm, có thể viết “tuy” thành “tuêi”. Và “y” cuối vẫn vẫn ngân vang rõ ràng do đó nó phải là âm nguyên [i]. Nhà xuất bản Webster đã có cách phiên-âm âm-ngắn bằng một ký tự nhỏ hơn, và nằm cao hơn các ký tự thƣờng khác. Ví dụ chữ “but” đƣợc phiên là [bEt], đọc khác với [bEs] của “bus”. Nhƣng một ký tự nhỏ xíu nhƣ thế thì không phù hợp để dùng trong chữ viết. 5


“U” đi sau cũng làm “a” ngắn lại. Nếu không vậy, “đau” sẽ đƣợc phát âm rất giống “đao”. Vậy “đau” đƣợc phát âm là “đău”, và “u” ở đây vẫn là nguyên âm vì vang rất rõ ràng. Riêng “tây” thì đúng ra chỉ cần viết “tâi” là đƣợc, vẫn đủ phân biệt với “tơi” mà không cần đến “y”. Thế nhƣng “thói quen là chủ nhân ông của ngôn ngữ” -- lời giáo sƣ Lê Ngọc Trụ trong “Việt Nam Chính Tả Tự Vị” in năm 1957 --, không cần phải sửa “tây” thành “tơy” hoặc thành “tâi” làm gì để rồi lại phải rắc rối với những cuốn sách in trƣớc “cải cách hiện đại” này. Và cũng không cần tới khái niệm “bán phụ âm” ở đây. “Y” trong trƣờng hợp này vẫn là âm nguyên [i]. Nói đến “cải cách hiện đại”, cần rút kinh nghiệm ngƣời Trung Hoa: dân chúng đã không tỉnh táo khi Mao cho sửa lại chữ viết của họ, bảo là để giản tiện hơn khi viết 6. Thoạt đầu thì “đại thành công” vì con nít học kiểu chữ mới rất nhanh, tƣởng rằng xóa mù chữ cả nƣớc đến nơi. Nhƣng cho đến khoảng những năm 90 thì có chuyện cƣời ra nƣớc mắt: Số là có một giáo sƣ Hán học ngƣời Việt nọ đƣợc đi du lịch Trung Quốc. Vì là du lịch rẻ tiền nên ông đƣợc đƣa đi thăm thú ở làng quê Trung Hoa nhiều hơn là ở thành thị. Thế là ông giáo sƣ này gặp may. Sau gần nửa thế kỷ dùng chữ mới, những ngƣời đọc đƣợc chữ cũ càng ngày càng ít đi, ở thôn quê lại càng thậm tệ vì các nông dân vốn đã mù chữ từ trƣớc, chỉ còn đám trẻ đƣợc đi học nhƣng lại học chữ mới. Cha hỏi con rồi con hỏi cha mỗi khi họ giở các cuốn gia phả hoặc giấy tờ kinh sách cũ của các đình chùa miếu mạo ra xem mà chả hiểu gì mấy. Thấy ông giáo sƣ ngƣời Việt ung dung đứng trƣớc cổng một ngôi chùa, thƣởng thức ngâm nga các câu đối, các bài thơ 6

và đặt tên kiểu ký tự mới này là “giản thể” đối lại với kiểu cũ gọi là “phồn thể”.


khắc trên tƣờng trên cột đã rêu phong mốc thếch, họ nhƣ bắt đƣợc vàng nghĩ ngay đến chuyện nhờ ông ta giải thích hộ những chữ quái gở trong gia phả hay ngay trong nhà họ. Thế là tranh nhau, những ngƣời Trung Hoa ấy mời ông Việt Nam về nhà, về chùa, đãi đằng đủ thứ, dọn chỗ cho ở, cung cấp ngƣời hầu hạ, để ông ngoại quốc này thoải mái đọc giùm họ chữ của họ và ghi lại bằng thứ chữ “cải cách” để họ giữ gìn. Chả hiểu ông giáo sƣ nọ ở lại ngôi làng đó bao lâu và giúp đƣợc bao nhiêu ngƣời có gia phả ở thôn đó. Chỉ biết là một khi văn hóa bị “lãnh đạo” thì hậu quả của nó không xảy ra ngay đâu, nhƣng đã xảy ra rồi thì tai hại khôn lƣờng. Còn những kẻ lãnh đạo Trung Hoa hiện nay thì không tội gì vạch áo cho ngƣời xem lƣng, thế giới sẽ chẳng bao giờ biết văn hóa và văn minh xứ này đã đi lạc đến đâu. Sai lầm khi gọi “o, u” trong “oa, oe, uy” là bán nguyên âm Ai có biết về hệ thống phiên âm quốc tế đều thấy đúng là “hoa” đƣợc phát âm là [hwa]. Và một học sinh lớp 6 cũng nhận ra ngay trong trƣờng hợp này “o” = [w]. Vũ Xuân Lƣơng cũng nhận ra điều này và mau mắn đem áp dụng thành qui tắc. Nhƣng tất cả mọi ngƣời Việt Nam (trừ 2 ông tổ ngữ âm Vũ Xuân Lƣơng và Hoàng Phê) đều biết “oa” không hề đƣợc phát âm là [wa] mà vẫn cứ phải là [Ca]7: âm [C] đƣợc phát rất cứng trong từ này. Cũng không ai nói “ủy ban” là [wỉ ban]. Nếu không thì ngƣời Nam Bộ đã viết thành “quỉ ban” rồi. Thế nên một ngƣời Việt Nam dù giỏi tiếng Anh đến đâu đi nữa thì cũng không bao giờ tƣởng tƣợng đƣợc “Uyn-xơn” lại là tên một vị tổng thống Mỹ (Wilson), “phố Uôn” lại là Wall-Street. Khi đọc báo thấy những chữ “thủ đô Oa-sinh-tơn” thì ai cũng cƣời tủm; 7

ký hiệu C ngƣợc dùng để phiên âm o.


và khi xƣớng ngôn viên đài truyền hình VTV1 đọc rất rõ “Oaxinh-tơn” (âm [C] của cô rất cứng và âm [s] thì trong vắt đến độ phải viết là “x”) thì nhiều ngƣời đã phải bụm miệng chửi thề. Còn dân mê bóng đá thì phải tập làm quen với chữ “Uôn cắp” nhan nhản trên mặt báo và ra rả trên ti vi mỗi 4 năm một lần, rồi dĩ nhiên sẽ rất nhiều ngƣời (nhƣ Vũ Xuân Lƣơng) sẽ suy ngƣợc ra rằng “U” và “O” chính là “W”!!! Theo VXL, không đƣợc đánh dấu thanh trên con chữ “o” trong “oa” vì nó không phải là nguyên âm. Bây giờ đã rõ nó là nguyên âm thì dấu huyền trong chữ “òa” sẽ đƣợc đặt ở đâu? Vì cố gắng đƣa ra qui tắc đặt dấu thanh dựa trên các nguyên tắc ngữ âm và muốn các qui tắc của mình mang tính nhất quán để lý giải mọi trƣờng hợp nên VXL đã có những lúng túng và nhận định sai lạc trên. Thực ra chữ Việt là một hệ thống ký hiệu phiên âm. Các con chữ, dấu âm và dấu giọng cũng làm nhiệm vụ giống với các ký hiệu trong ký âm pháp âm nhạc: hình dáng thế nào, đặt ở đâu, để ghi hiệu quả gì là hoàn toàn do qui ước cả. Mà đã là qui ƣớc thì điều quan trọng nhất là sự phân biệt không gây lẫn lộn và kế tiếp là cần phải đơn giản và/hoặc mang tính trực quan để dễ sử dụng, ngoài ra đôi khi phải chấp nhận một vài ngoại lệ hoặc vô lý. Lấy thí dụ, xét về mặt nhạc lý, khoảng cách cao độ từ Rê lên Mi là một cung, viết trên dòng kẻ nhạc thì nốt Mi nằm trên nốt Rê một nấc. Nhƣng Fa cao hơn Mi chỉ có nửa cung thôi mà tại sao lại viết nốt Fa nằm trên nốt Mi cũng một nấc chứ không phải nửa nấc? Hóa ra nếu áp dụng nhạc lý vào ký âm pháp thì đôi khi không đúng. Tƣơng tự, áp dụng cứng nhắc nguyên tắc ngữ âm vào chữ viết thì cũng có khi không đƣợc. Ngữ âm học là một khoa học tự nhiên liên quan tới cơ chế phát âm nhƣng chính tả lại thuộc


lãnh vực xã hội và chỉ là các qui ƣớc, phần nhiều dựa trên thói quen của ngƣời sử dụng. Nhƣng vì chính tả lại ảnh hƣởng ngƣợc đến cách phát âm của ngƣời dùng nó nên các qui ƣớc đƣa ra phải chặt chẽ và hợp lý trong chừng mực nào đó để mọi ngƣời có thể chấp nhận. Vì thế cho đến nay mặc dầu tuyệt đại đa số ngƣời Hà Nội nói “Em giất xung xƣởng đƣợc chân chọng mời bác vào nhà xơi chẻn giệu” cũng không thể cứ thế mà viết ra để rồi hợp thức hóa luôn cái giọng nhà quê đó làm giọng chuẩn của “thủ đô ngàn năm văn vật”. Những nhƣợc điểm trong nhận định của VXL lồ lộ ra đấy mà Hoàng Phê không thấy thì hai chữ “giáo sƣ” ở phần tƣớc hiệu của ông nên đƣợc để vào trong ngoặc kép là vì vậy. Điều lạ lùng là kết quả việc suy luận của tác giả VXL lại là 4 qui tắc giống y hệt với chính tả truyền thống. Nhƣng may mắn này lại không xảy ra với qui tắc còn lại cho trƣờng hợp “oa, oe, uy”. Và để tạm kết thúc, thiết tƣởng các qui tắc chính tả truyền thống về cách đặt dấu giọng nên đƣợc ghi lại nhằm chứng minh tính đơn giản và rõ ràng của cha ông ta. Ưu tiên 1: dấu âm (dấu trăng: ă, dấu mũ: â, ê, ô, và râu: ơ, ƣ) và dấu giọng luôn đi chung: thuở, trời, đất, nổi, nhiều, thửa, thấy, thuốc, gửi, oằn, tuổi, tội, tuyết; Nếu có 2 mẫu tự mang dấu âm (ƣơ) thì dấu giọng đi với mẫu tự sau (ơ): ngƣời, lƣợt, cƣỡi, tƣởng... Ưu tiên 2: vần có phụ âm cuối thì dấu đi với nguyên âm cuối: oán, loét, cát... Ưu tiên 3: vần là nguyên âm ghép đôi hay ghép ba thì mang dấu giọng ở nguyên âm áp chót: ngoèo, hỏi, hóa, của, khuỷu, hoài, ngoáy, cái, áo, kéo, đỉa, xỉu, xòe, chúa, núi, tủy...


Chú ý: đƣơng nhiên phụ-âm-ghép “qu” và “gi” không mang dấu (vì chúng là... phụ âm), dấu đặt bình thƣờng theo các ƣu tiên trên: - quả, què, quì, quý, quẹo, quái, quào, quở, quới, quyệt... - giả, gié, gió, giặt giũ. Nhƣng khi “g” đi trƣớc “i” nguyên âm hoặc trƣớc nguyên-âmghép với “i” (khi này “g” có cùng cách phát âm với “gi”) thì theo các ƣu tiên trên: gì, gỉ sét, giết (không đọc là dết), giặt gịa khác với giạ lúa, không cần sửa thành “giặt dịa”, cũng nhƣ không cần sửa “giấu giếm” thành “giấu diếm”. 8 Qui tắc đặt dấu giọng của tiền nhân không hề lấy yếu tố thẩm mỹ làm nguyên tắc chủ đạo (nhƣ những ngƣời làm tin học vẫn tƣởng và áp đặt cái tên “kiểu thẩm mỹ” cho nó) mà chỉ cốt làm sao cho thật đơn giản và dễ nhớ. Quả thật nó rất thống nhất nên không cần phải động não nhiều mỗi khi đánh máy, không phải phân vân xem dấu nên đặt ở đâu. Thế nhƣng nay thì phải phân vân rồi, không những phân vân, còn phải tranh luận xem nó phải đƣợc đặt ở đâu nữa. Các vấn đề “cải cách” về dấu, về hình dáng con chữ 9, của những ngƣời làm văn hóa ở Việt Nam ngày càng chứng tỏ họ chỉ là những kẻ duy ý chí mà lại cứ hay đƣa ra các lý luận có vẻ khoa học, có vẻ “lô-rích” để biện giải cho sự phá hoại của mình. Họ thay đổi không chỉ vì họ muốn thay đổi, nguyên nhân sâu xa của cái ý muốn thay đổi mọi thứ của họ chẳng qua chỉ là Nhƣng để ghi chữ có âm là [zết] trong [túi zết], cần phụ âm đầu là “gi” và viết “giết” thì lại đọc là [ziết] mất, đành phải ghi là “dết”, hỏng mất phụ âm đầu. Đây là một nhƣợc điểm thƣờng có trong bất kỳ bộ môn xã hội nào. (revised on Nov 6th ’07) 9 Cuộc cải cách về hình dạng chữ viết tay đã từng là một “thành công, thành công, đại thành... gà bới” ở VN, ai đã từng làm nghề giáo trong nƣớc vào thập niên 80 đều có thể làm chứng điều này. Chỉ tội nghiệp, đa số thanh niên độ tuổi 30 bây giờ không dám viết thƣ tay gửi ngƣời yêu. 8


sự kiêu ngạo, muốn đƣợc xã hội vinh danh là những ngƣời có những cải tạo lớn lao cho văn hóa nƣớc nhà. 30/10/07 Hồng Đức


Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.