Luận văn tốt nghiệp “Lãi suất ngân hàng thương maị là một trong những công cụ.pdf

Page 1

Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP LÃI SUẤT NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI LÀ MỘT TRONG NHỮNG CÔNG CỤ ĐIỀU TIẾT CÓ HIỆU QUẢ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Giáo viên hướng dẫn : PGS.NGƯT Sinh vên thực hiện : Lớp :

Vũ Hữu Tửu Nhâm Thị Hà A3-CN7

Hà Nội năm 2003

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

1


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả

MỤC LỤC Lời nói đầu .......................................................................................................... 1,2 Chương I:Chính sách tiền tệ và lãi suất tín dụng .............................................. 3 I.Chính sách tiền tệ ................................................................................................. 3 1.Khái niệm ............................................................................................................. 3 2.Mục tiêu của chính sách tiền tệ ............................................................................ 4 3.Công cụ của chính sách tiền tệ............................................................................. 7 II.Lãi suất tín dụng ................................................................................................ 11 1.Định nghĩa lãi suất ............................................................................................. 12 2.Phân loại lãi suất ................................................................................................ 13 3.Vai trò của lãi suất.............................................................................................. 17 4.Lãi suất là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế .................................................. 19 5.Các nhân tố tác động vào lãi suất....................................................................... 23 6.Sự điều hành lãi suất tín dụng của NHTƯ ......................................................... 30 Chương II:Thực trạng chính sách lãi suất ở Việt Nam trong thời gian vừa qua. .............................................................................................................................. 1.Giai đoạn từ 1945 đến 1951 ............................................................................... 34 2.Giai đoạn từ năm 1951 đến 1986 ....................................................................... 35 3.Giai đoạn cuối năm 1986 đến 1995 ................................................................... 37 4.Giai đoạn từ 1/1/1996 đến nửa đầu năm 2000 ................................................... 40 5.Giai đoạn từ 5/8/2000 đến 1/6/2002 .................................................................. 50 6.Giai đoạn từ 1/6/2002 đến nay ........................................................................... 53 Chương III:Giải pháp điều hành lãi suất ở Việt Nam hiện nay. .................... 57 I.Tác động tích cực và tính tất yếu của việc thay đổi cơ chế lãi suất theo hướng thị trường.................................................................................................... 57 II.Định hướng của NHNN Việt Nam đối với chính sách lãi suất hiện nay .......... 61

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

2


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả 1. Những nguyên tắc cơ bản cần quán triệt khi đổi mới chính sách lãi suất ........ 61 2. Định hướng về chính sách lãi suất ................................................................... 61 III. Những giải pháp điều hành lãi suất ở Việt Nam............................................. 62 1. Những khó khăn gặp phải trong quá trình chuyển sang cơ chế lãi suất thoả thuận ...................................................................................................................... 62 2. Những giải pháp ................................................................................................ 64 Kêt luận ................................................................................................................ 70 Tài liệu tham khảo ............................................................................................. 71 Phụ lục 1 ............................................................................................................... 72 Phụ lục 2 ............................................................................................................... 74

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

3


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả

Lời nói đầu. Sự ra đời của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam vào ngày 6/5/1951 đã đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng của nước ta. Với sự ra đời của NHQG lần đầu tiên chúng ta có một ngân hàng mang đầy đủ tính độc lập tự chủ, và là một ngân hàng quốc gia duy nhất. Cho dù trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có những thay đổi thích hợp để phù hợp với hoàn cảnh mới, song nó vẫn là một cơ quan quản lý Nhà nước về lĩnh vực: tiền tệ, tín dụng, ngân hàng, thanh toán và ngoại hối. Và một trong những nhiệm vụ mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN VN) phải coi trọng hàng đầu là việc xây dựng và thực thi có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia. Đó là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó NHTƯ, thông qua các công cụ của mình để tác động vào lượng tiền cung ứng hay lãi suất nhằm đạt được các mục tiêu: giá cả, sản lượng và công ăn việc làm.Sự tác động đó thông qua các công cụ là các lãi suất tái cấp vốn, chiết khấu, tái cấp vốn... Như vậy có thể hiểu lãi suất là một kênh truyền dẫn sự tác động của chính sách tiền tệ. Nó được sử dụng như là một công cụ vô cùng hữu hiệu dể điều tiết nền kinh tế. Đó là một biến số được theo dõi vô cùng chặt chẽ bởi nó chi phối đến các quyết định của chúng ta, nó ảnh hưởng đến cuộc sống của mỗi người trong thời đại ngaỳ nay. Đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay thì việc sử dụng có hiệu quả lãi suất để đem lại một hiệu quả tốt cho nền kinh tế hay nói cách khác là việc thực thi chính sách tiền tệ một cách hiệu quả là tương đối phức tạp và rất có ý nghiã đối với nền kinh tế.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

4


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả Trong phạm vi đề tài này tôi xin đề cập đến sự điều hành lãi suất ở Việt Nam trong giai đoạn từ khi NHNN thành lập cho đến nay- khi áp dụng chính sách lãi suất thoả thuận. Mặc dù đây không phải là một đề tài mới nhưng laị là một vấn đề luôn được quan tâm vì cho dù chính sách lãi suất đã được áp dụng từ rất lâu trên thế giới cũng như Việt Nam song đối với mỗi nước sự tác động của chính sách này đối với nền kinh tế lại không giống nhau, hay ngay trong một nước tại những thời điểm khác nhau cần phải có những biện pháp tác động khác nhau. Hay nói cách khác để vận dụng có hiệu quả chính sách này thì đòi hỏi phải có sự linh hoạt, mềm dẻo, và nhất là phải phù hợp với môi trường kinh tế vĩ mô. Chính vì vậy, một sự nắm bắt chính xác bản chất, sự tác động của nó đối với nền kinh tế là vô cùng quan trọng đối với những nhà quản lý và cả những nhà kinh tế. Tuy nhiên đây là một lĩnh vực nghiên cứu có phạm vi và qui mô tương đối rộng vì điều kiện kiến thức và thời gian hạn hẹp nên trong phạm vi khoá luận chỉ xin đề cập một khía cạnh . Đó là: “Lãi suất ngân hàng thương maị là một trong những công cụ điều tiết có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường”. Trong đề tài gồm ba chương như sau: Chương một: Chính sách tiền tệ và lãi suất tín dụng. Chương hai: Thực trạng chính sách lãi suất ở Việt Nam trong thời gian vừa qua. Chương ba: Giải pháp điều hành lãi suất ở Việt Nam hiện nay. Tôi xin chân thành cám ơn PGS.NGƯT Vũ Hữu Tửu đã có những chỉ dẫn hết sức quý báu trong quá trình hoàn thành bản luận văn này. Hà nội tháng 4 /2003 Sinh viên

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

5


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả Nhâm Thị Hà

CHƯƠNG I: CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ LÃI SUẤT TÍN DỤNG. I. Chính sách tiền tệ. 1. Khái niệm. Hoạt động của ngân hàng liên quan đến sự ổn định hay thay đổi của tiền tệ về lưu lượng, chi phí và giá trị, vì những thay đổi nói trên tác động đến giá cả hàng hoá và giá trị tài sản, thu nhập của nhân dân. Cho nên nó trực tiếp làm biến chuyển mức sống của họ giữa hai cực: khó khăn, đắt đỏ và thuận lợi tiện nghi. Do đó bằng cách tạo ra những biến động về tiền tệ, người ta hoàn toàn có thể hướng dẫn những biến động nhất định trong đời sống và sinh hoạt kinh tế của một cộng đồng. Mối quan hệ ấy đã làm cho tiền tệ biến động được gọi là “chính sách tiền tệ”. Hoặc chúng ta cũng có thể hiểu: chính sách tiền tệ là tổng hoà các phương thức mà ngân hàng TƯ thông qua các công cụ của mình tác động đến khối lượng tiền trong lưu thông, nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Nói đến chính sách tiền tệ không thể không đề cập đến tiền tệ. Tiền tệ luôn có hai chức năng cơ bản: đó là chức năng làm trung gian trao đổi, thanh toán và chức năng dự trữ giá trị trong đời sống và hoạt động kinh tế. Một điều hiển nhiên là khi có một lượng tiền càng lớn thì những hoạt động trên diễn ra càng thuận lợi vì khi đó chi phí để có tiền sẽ trở nên thấp hơn và do đó giá trị của tiền cũng giảm theo. Và cơ bản là khi đó cơ hội

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

6


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả để có tiền trở nên dễ dàng hơn. Người ta sẽ chi tiêu nhiều hơn. Nhu cầu về hàng hoá tăng, sẽ tác động đến giá cả và sản xuất phát triển nhanh hơn. Và trong trường hợp ngược lại, khi tiền tệ trở nên khan hiếm lúc này chi phí để có tiền sẽ tăng vì con người cần đánh đổi nhiều cồng sức và thì giờ hơn trước để có tiền.. Và hệ quả tất yếu là năng lực sản xuất giảm theo. Có thể nói mọi sự thay đổi nói trên đều do hệ thống của bàn tay tạo ra nó: chính sách tiền tệ. Trong trường hợp thứ nhất: sự dư thừa của tiền kích thích tiêu dùng và sản xuất và, đó chính là chính sách tiền tệ nới lỏng (Easy_Moneytary Policy) Trường hợp thứ hai: là chính sách tiền tệ thắt chặt, ngược lại với chính sách tiền tệ nới lỏng: lúc này tiền trở nên khan hiếm, thiếu hụt về số lượng, đất đỏ về chi phí. Chính sách tiền tệ có thể được thực thi theo hai hướng cho phù hợp với tình hình thực tiễn của mỗi một nền kinh tế khác nhau. Nó chỉ có thể đi theo hai hướng này hoặc nới lỏng hoặc thắt chặt. Và sự dao động trong hai khuynh hướng này sẽ tác động tới đời sống của nhân dân và hoạt động kinh tế của họ. Và những tác động đó sẽ là xấu hay tốt phụ thuộc vào tính hợp lý hay không hợp lý của chính sách tiền tệ đó với nền kinh tế. 2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ. Mục tiêu của chính sách tiền tệ hầu như thống nhất ở các nước. Sự điều chỉnh về tiền tệ nhằm mục tiêu trước hết là ổn định giá trị tiền tệ, trên cơ sở đó góp phần tăng trưởng kinh tế và giải quyết công ăn việc làm. -Ổn định giá cả tiền tệ: là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ và là mục tiêu dài hạn. Ôn định giá trị tiền tệ là ổn định sức mua của tiền tệ và ổn định giá cả, trong đó ổn định giá cả có tầm quan trọng đặc biệt để định

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

7


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả hướng phát triển kinh tế của quốc gia. Giá cả có mức lạm phát thấp và ổn định sẽ làm cho mức tăng thu nhập thực tế của người dân (+) , thúc đẩy nhu cầu đầu tư, đảm bảo sự phân bổ nguồn lực xã hội một cách hiệu quả, cải thiện đời sống của người dân. Ngựơc lại sự bất ổn định giá cả(khi nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát cao hay thiểu phát liên tục) sẽ làm cho môi trường kinh tế vĩ mô của quốc gia biến động phức tạp và khó dự đoán chính xác, nạn đầu cơ sẽ làm nới rộng khoảng cách giàu nghèo, khiến nhân dân mất niềm tin ở chính quyền. Việc công bố công khai chỉ tiêu này là cam kết của Ngân hàng TƯ nhằm ổn định giá trị tiền tệ về mặt dài hạn. Điều này có nghĩa là NHTƯ không tập trung điều chỉnh sự biến động giá cả trong ngắn hạn. Do những biện pháp về chính sách tiền tệ tác động đến nền kinh tế có tính chất trung và dài hạn, hơn nữa khó có thể dự đoán chính xác kết quả sẽ xảy ra vao thời điểm nào trong tương lai, vì vậy sẽ là không khả thi đối với NHTƯ trong việc theo đuổi kiểm soát giá cả trong ngắn hạn. Như vậy ổn định giá cả là mục tiêu hàng đầu và là mục tiêu dài hạn của chính sách tiền tệ. -Tăng trưởng kinh tế: tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định là nền tảng cho mọi sự ổn định. Nó đảm bảo giải quyết cho các mục tiêu kinh tế khác của chính sách tiền tệ như: giảm tỷ lệ thất nghiệp, ổn định tiền tệ trong nước, gia tăng thu nhập quốc dân… Vì thế chính sách tiền tệ phải phục vụ cho việc đảm bảo rằng sẽ có tăng trưởng kinh tế thực sự, nghĩa là phần tăng trưởng có được sau khi lấy phần tăng danh nghĩa trừ đi phần gia tăng trong cùng thời kì. Sự tăng trưởng phải được hiểu cả về khối lượng và chất lượng, biểu hiện ở sự tăng GDP thực tế, cơ cấu kinh tế hợp lý và khả năng cạnh tranh quốc tế của hàng hoá trong nước tăng. Một nền kinh tế phồn thịnh với tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định là mục tiêu của bất kì chính sách kinh tế vĩ mô nào.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

8


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả -Công ăn việc làm đầy đủ: chính sách tiền tệ phải quan tâm đến khả năng tạo công ăn việc làm, giảm áp lực xã hội của thất nghiệp . Công ăn việc làm đầy đủ có ý nghĩa bởi 3 lý do: +Chỉ số thất nghiệp là một trong những chỉ tiêu phản ánh sự thịnh vượng của xã hội vì nó phản ánh khả năng sử dụng có hiệu quả nguồn lực xã hội. +Thất nghiệp gây nên tình trạng stress cho mỗi cá nhân và gia đình của họ và là mầm mống của các tệ nạn xã hội. +Các khoản trợ cấp thất nghiệp tăng lên có thể làm thay đối cơ cấu chi tiêu ngân sách và làm căng thẳng tình trạng ngân sách. Đảm bảo công ăn việc làm đầy đủ không có nghĩa là tỷ lệ thất nghiệp bằng không. Mỗi một quốc gia cần xác định tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên chính xác để đạt mục tiêu này. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên được cấu thành từ tỷ lệ thất nghiệp tạm thời (những người đang tìm kiếm việc làm thích hợp) và tỷ lệ thất nghiệp cơ cấu (thất nghiệp bởi sự không phù hợp nhu cầu về lao động và cung của lao động). Bên cạnh đó cố gắng giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên cũng được coi là mục tiêu của chính sách tiền tệ. Ngoài các mục tiêu vĩ mô trên, một số nước còn tập trung vào các mục tiêu cụ thể, tuỳ thuộc vào đặc điểm phát triển kinh tế đặc thù của họ. Chẳng hạn, Cục dự trữ liên bang Mỹ theo đuổi các mục tiêu khác như ổn định thị trường tài chính, ổn định lãi suất hoặc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhằm mục tiêu ổn định hệ thống các tổ chức tín dụng thay vì đảm bảo công ăn việc làm. Các mục tiêu của chính sách tiền tệ vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau. Trong khi mục tiêu tăng trưởng kinh tế vững chắc có quan hệ chặt chẽ với mục tiêu việc làm đầy đủ, mục tiêu tăng trưởng kinh tế và ổn định giá cả bổ sung cho nhau trong dài hạn, thì trong ngắn hạn mục tiêu ổn đinh giá cả

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

9


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả lại mâu thuẫn với mục tiêu việc làm cao và mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Mâu thuẫn giữa các mục tiêu đặt các quốc gia vào việc phải lựa chọn một mục tiêu thích hợp cho từng thời kì, chấp nhận cắt giảm nhất định đối với những mục tiêu khác, đồng thời sử dụng và điều chỉnh các công cụ của chính sách tiền tệ nhằm đạt đựơc các chỉ tiêu trung gian: tổng khối lượng tiền cung ứng(M1,M2,M3), hoặc mức lãi sất thị trường(ngắn và dài hạn), chỉ tiêu hoạt động(tổng dự trữ của ngân hàng thương mại, lãi suất ngắn hạn của thị trường liên ngân hàng… 3.Công cụ của chính sách tiền tệ. Để thực hiện chính sách tiền tệ, NHTƯ sử dụng các loại công cụ khác nhau như công cụ tái cấp vốn, lãi sất tín dụng, dự trữ bắt buộc…Mỗi loại có cơ chế tác động riêng và đem lại những kết quả khác nhau trên những khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên các công cụ này đều nhằm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền trong lưu thông để từ đó đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ. 3.1.Công cụ trực tiếp Công cụ trực tiếp là công cụ tác động trực tiếp vào khối lượng tiền trong lưu thông. Khi NHTƯ sử dụng công cụ trực tiếp, nó tác động vào mục tiêu trung gian qua đó tác động đến tổng cầu. a.Hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng là dư nợ tối đa mà NHTƯ buộc các tổ chức tín dụng phaỉ tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.Nghĩa là, về thực chất, công cụ này cho phép NHTƯ ấn định trước khối lượng tín dụng phải cung cấp cho nền kinh tế trong một thời gian nhất định và sau đó tìm đường để

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

10


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả đưa nó vào nền kinh tế. Khi NHTƯ xác định hạn mức tín dụng thì căn cứ vào các chỉ tiêu như tốc độ tăng trưởng kinh tế, biến động của chỉ số giá cả, biến động của tỷ giá. Tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế, bội chi ngân sách. Hạn mức tín dụng sẽ đặc biệt phát huy tác dụng trong nền kinh tế có lạm phát. Trong trường hợp các công cụ gián tiếp không phát huy có hiệu quả do thị trường tiền tệ chưa phát triển hoặc do mức cầu tiền tệ không nhạy cảm với sự biến động lãi suất, hoặc do NHTƯ không có khả năng khống chế và kiểm soát lượng vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng thương mại thì công cụ hạn mức tín dụng là không thể thiếu trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng. Khi sử dụng hạn mức tín dụng nhằm khống chế dư nợ tín dụng của các ngân hàng thương mại thì tương đương với nó là một lượng nguồn vốn tiền gửi huy động, qua đó ảnh hưởng đến tỷ trọng vốn tín dụng so với lượng cung ứng. Khi NHTƯ tăng hạn mức tín dụng sẽ dẫn tới khả năng tăng cung ứng vốn tín dụng của các tổ chức tín dụng cho nền kinh tế, tăng khả năng tạo tiền qua hệ thống ngân hàng, do đó sẽ làm tăng lượng tiền cung ứng. Còn ngược lại giảm hạn mức tín dụng sẽ làm giảm lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên đây là công cụ có tính chất hành chính và thiếu linh hoạt, đôi khi đi ngược lại với chiều hướng biến động của thị trường tín dụng nên hiệu quả điều tiết của nó chưa cao vì nó có thể đẩy lãi suất lên cao hoặc giảm khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại b.Lãi suất tiền gửi và cho vay. Ngân hàng thương mại có thể sử dụng công cụ lãi suất, như khung lãi suất, lãi suất trần, sàn lãi suất tiền gửi và cho vay trên thị trường nhưng thông qua cơ chế điều chỉnh cung cầu tiền tệ. Nếu lãi suất tiền gửi cao sẽ thu

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

11


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả hút được nhiều tiền gửi làm tăng nguồn vốn vay. Ngược lại, sẽ làm giảm khả năng mở rộng kinh doanh tín dụng. Khi muốn tăng khối lượng cho vay, NHTƯ giảm mức lãi suất cho vay để kích thích các nhà đầu tư vay vốn, khi cần hạn chế đầu tư, NHTƯ sẽ ấn định mức lãi suất cao. Tuy nhiên công cụ này làm hạn chế tính chủ động, linh hoạt trong kinh doanh của ngân hàng thương mại. Nó sẽ dẫn đến tình trạng ứ động vốn ở ngân hàng nhưng nền kinh tế lại thiếu vốn đầu tư. 3.2. Công cụ gián tiếp. a,Dự trữ bắt buộc: Dự trữ bắt buộc là khoản tiền gửi của các ngân hàng thương mại tại NHTƯ, mức tiền gửi này do pháp luật qui định bằng một tỷ lệ nhất định so với các khoản nợ của ngân hàng. Dự trữ bắt buộc là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến lượng vốn khả dụng của ngân hàng: nó có thể điều chỉnh việc tạo tiền thông qua hệ thống ngân hàng, đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng thương mại. Và nó chính là một phương tiện cho NHTƯ sử dụng để kiểm soát khối lượng tín dụng và làm thay đổi lượng cung ứng vốn cho nền kinh tế. Những thay đổi trong dự trữ bắt buộc tác động đến cung ứng tiền tệ bằng cách thay đổi hệ số mở rộng tiền tệ(m). Ưu điểm của việc sử dụng dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung ứng tiền tệ là có thể tác động dến tất cả các ngân hàng như nhau và có tác dụng mạnh mẽ đến cung ứng tiền tệ. Tuy nhiên, nhược điểm của dự trữ bắt buộc là thiếu tính mềm dẻo. Thật vậy sẽ rất vất vả để thực hiện được những thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ bằng cách thay đổi dự trữ bắt buộc. Ngoài ra việc tăng dự trữ bắt buộc có thể ảnh hưởng xấu đến khả năng thanh khoản của các

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

12


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả ngân hàng thương mại, gây ra tình trạng mất ổn định trong thanh toán và quản lý các ngân hàng. b,Lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn. Tái chiết khấu và tái cấp vốn là các phương thức mà NHTƯ cho các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng vay thông qua hình thức chiết khấu lại giấy tờ có giá. Với việc ấn định lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn NHTƯ có thể tác động đến khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại. Và qua đó làm cho cung cầu về tiền tệ có sự thay đổi. Khi lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn tăng lên các ngân hàng thương mại sẽ bất lợi nếu vay vốn của Ngân hàng Trung ương. Trong điều kiện như vậy, các ngân hàng thương mại sẽ không có khả năng mở rộng cho vay tín dụng. Ngược lại, khi lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn giảm, các ngân hàng thương mại do được lợi trong việc chiết khấu lại với NHTƯ nên sẽ có điều kiện mở rộng khả năng cho vay tín dụng. Công cụ này có ưu điểm là việc vay muợn được thực hiện trên những giấy tờ có giá nên thời hạn vay muợn tương đối rõ ràng, việc hoàn trả nợ tương đối chắc chắn, tiền vay vận động phù hợp với sự vận động của qui luật cung cầu thị trường. Nó cũng giúp NHTƯ thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng nhằm giúp nền kinh tế tránh khỏi những cuộc sụp đổ tài chính. Bên cạnh đó, công cụ này cũng còn tồn tại không ít nhược điểm. Thứ nhất: trong nghiệp vụ này NHTƯ ở vào thế bị động NHTƯ có thể thay đổi lãi suất tái chiết khấu nhưng không thể bắt các ngân hàng đi vay. Thứ hai: khi NHTƯ ấn định mức lãi suất tái chiết khấu đặc biệt nào đó sẽ gây ra chênh lệch lớn giữa lãi suất tái chiết chiết khấu và lãi suất thị trường. c,Nghiệp vụ thị trường mở.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

13


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả Thực chất của loại hoạt động này là việc NHTƯ mua bán các giấy tờ cho các ngân hàng thương mại với lãi suất hấp dẫn, NHTƯ thu hồi tiền từ lưu thông làm giảm lượng tiền cung ứng , đồng thời khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại cũng giảm và giá trị tín dụng tăng lên. Ngược lại bằng việc mua các giấy tờ có gía, NHTƯ cung cấp tiền cho các ngân hàng thương mại để cho vay, làm gia tăng lượng tiền cung ứng trên thị trường. Điều quan trọng ở đây là thời hạn của giấy tờ có giá. Việc mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn chủ yếu nhằm mục đích cân bằng giao động của tỷ lệ lãi suất trên thị trường tiền tệ, trong khi đó mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn có ảnh hưởng rõ rệt tới khả năng thanh toán của các ngân hàng thương mại. Đây được coi là công cụ quan trọng nhất của chính sách tiền tệ vì nó có những ưu điểm hơn hẳn so với các công cụ khác vì: +)Thông qua nghiệp vụ này NHTƯ hoàn toàn kiểm soát được lượng tiền giao dịch. +)Đây là công cụ linh hoạt giúp NHTƯ dễ dàng sửa chữa những sai lầm của mình nếu có sai sót xảy ra. +)Nghiệp vụ có thể sử dụng được ở bất kì mức độ nào khi có yêu cầu, căn cứ vào khối lượng giấy tờ có giá bán ra. +)Nghiệp vụ thị trường mở có thể tiến hành nhanh chóng, không gây những chậm trễ về mặt hành chính và ít gây tốn kém về mặt chi phí. Tuy nhiên khi NHTƯ mua bán chứng khoán trên thị trường thì vẫn phải phụ thuộc vào người mua và người bán, các ngân hàng thương mại. Và để sử dụng được nghiệp vụ này thì phải có sự phát triển khá cao của cơ chế

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

14


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả thanh toán không dùng tiền mặt, tiền trong lưu thông phần lớn nằm trong tài khoản của các ngân hàng. II. Lãi suất tín dụng. Phạm trù quan trọng nhất của ngân hàng là lãi suất. Danh từ lãi suất chúng ta nói ở đây bao gồm các khoản chi phí của tiền tệ và tài chính trong nền kinh tế. Chi phí của vốn sẽ quyết định lợi nhuận tạo ra từ nguồn vốn ấy ở bất kì lĩnh vực sản xuất kinh doanh nào. Trong lĩnh vực ngân hàng điều này càng chính xác. Khi tiền nhiều được cất vào kho hay chôn xuống đất, tiền không tạo ra được bất kì lợi nhuận, hay giá trị nào vì nó bị cách ly với môi trường mà trong đó nó có vai trò vô cùng quan trọng. Và trong điều kiện có lạm phát thì giá trị của nó càng để lâu càng bị giảm. Ngựơc lại khi được vận dụng một cách có ích tiền sẽ tạo ra giá trị. Đến lượt chính những giá trị do nó tạo ra xác định chi phí cần phải có để có tiền. Ngưòi ta gọi chi phí này là tiền lãi. Lãi suất tính bằng tỷ lệ phần trăm(%) và định nghĩa như sau: 1.Định nghĩa lãi suất. Lãi suất (interest rate) là tỷ lệ phần trăm giữa tiền lãi ( hay chi phí phải trả) trên một số lượng tiền nhất định để được sở hữu và sử dụng khoản tiền ấy trong một khoảng thời gian đã được thoả thuận trước. Hay lãi suất chính là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay trong 1 khoảng thời gian mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

15


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả Hay nó chính là khoản chênh lệch giữa lượng tiền nhận được hôm nay và lượng tiền tổng cộng phải trả trong tương lai chính là tiền lãi hay chi phí để có khoản tiền ấy trong một khoảng thời gian. Khi đem tiền lãi ấy tính tỷ lệ % với tiền nhận được đó chính là lãi suất trong thời gian nói trên. Hiểu theo cách nào cũng đúng song tại sao phải trả lãi suất? Bởi lẽ đồng tiền ngày hôm nay có giá trị nhận được vào ngày khi tính đến giá trị thời gian của tiền tệ. Khi người cho vay chuyển quyền sử dụng vốn cho người khác nghĩa là anh ta hy sinh quyền sử dụng tiền tệ ngày hôm nay của mình với hy vọng sẽ có 1 khoản tiền lớn hơn vào ngày hôm sau, hôm sau nữa. Sẽ không có sự chuyển nhượng vốn nếu không có phần lớn hơn đó hoặc là nó không đủ bù đắp cho giá trị thời gian của tiền tệ. 2.Phân loại lãi suất. Có rất nhiều cách để phân loại lãi suất: căn cứ vào thời hạn tín dụng, căn cứ vào giá trị thực của lãi suất, vào mức ổn định hay phương pháp tính lãi suất. 2.1 Căn cứ vào loại hình tín dụng. a,Lãi suất tín dụng thương mại: áp dụng khi các doanh nghiệp cho nhau vay dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá. Nó được tính như sau: Lãi suất tín dụng thương mại=100%* [(giá cả hàng hoá bán chịu – giá cả hàng hoá bán trả tiền ngay)/ giá cả hàng hoá bán chịu] Loại lãi suất này được tính bao hàm trong tổng giá cả hàng hoá bán chịu.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

16


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả b,Lãi suất tín dụng ngân hàng: áp dụng trong quan hệ giữa ngân hàng với công chúng và doanh nghiệp trong việc thu hút tiền gửi và cho vay, trong hoạt động tái cấp vốn của Ngân hàng Trung ương cho các ngân hàng, trong quan hệ giữa các ngân hàng với nhau trên thị trường liên ngân hàng. Việc phân biệt khái niệm lãi suất trong các quan hệ này là cần thiết để hiểu rõ mối quan hệ giữa chúng: Lãi suất tiền gửi: là lãi suất trả cho các khoản tiền gửi. Nó được áp dụng để tính tiền lãi phải trả cho người gửi tiền. Lãi suất tiền gửi có nhiều mức khác nhau tuỳ thuộc vào thời hạn gửi, qui mô tiền gửi. Lãi suất tiền vay: lãi suất người đi vay phải trả cho ngân hàng do việc sử dụng vốn vay của ngân hàng. Nó được áp dụng để tính tiền lãi vay mà khách hàng phải trả cho ngân hàng. Về mặt nguyên tắc mức lãi suất tiền vay bình quân phải cao hơn mức lãi suất tiền gửi bình quân, và có sự phân biệt giữa các khoản vay với thời hạn khác nhau cũng như mức rủi ro khác nhau. Lãi suất chiết khấu : áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc giấy tờ có gía chưa đến hạn thanh toán của khách hàng. Nó được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá của giấy tờ có gía và được khấu trừ ngay sau khi ngân hàng phát tiền cho khách hàng. Như vậy nếu xét trong quan hệ giữa ngân hàng với người vay chiết khấu, lãi suất chiết khấu được trả trước cho ngân hàng chứ không phải trả sau như lãi suất thông thường. Lãi suất tái chiết khấu: áp dụng khi Ngân hàng Trung ương tái cấp vốn cho các ngân hàng dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán của các ngân hàng. Nó cũng

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

17


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá của giấy tờ có giá và cũng được khấu trừ ngay khi Ngân hàng Trung ương cấp tiền cho ngân hàng. Lãi suất tái chiết khấu do NHTƯ ấn định căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu của chính sách tiền tệ trong từng thời kì và sự biến động của lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. Vì hành vi tái chiết khấu cung ứng nguồn vốn cho các ngân hàng nên thông thường lãi suất tái chiết khấu thường nhỏ hơn lãi suất chiết khấu. Tuy nhiên trong trường hợp cần phải hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của hệ thống ngân hàng nhằm kiềm chế đẩy lùi lạm phát, hoặc phạt các ngân hàng trong trường hợp vi phạm các yêu cầu về thanh toán, NHTƯ có thể ấn định lãi suất tái chiết khấu bằng thậm chí cao hơn lãi suất chiết khấu của hệ thống ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng: là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng thường được ấn định hàng ngày vào mỗi buổi sáng. Nó được hình thành bởi quan hệ cung cầu tiền trung ương của các tổ chức tín dụng và chịu sự chi phối của lãi suất tái cấp vốn của NHTƯ. Mức độ chi phối này phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường mở và tỷ trọng sử dụng vốn vay NHTƯ của các tổ chức tín dụng. Lãi suất cơ bản: được các ngân hàng sử dụng để ấn định mức lãi suất kinh doanh của mình. Lãi suất cơ bản được hình thành khác nhau tuỳ từng nước, nó có thể do NHTƯ ấn định, hoặc có thể do bản thân các ngân hàng tự xác định căn cứ vào tình hình hoạt động cụ thể của ngân hàng mình và đó là mức lãi suất được áp dụng cho các khách hàng có mức rủi ro thấp nhất, hoặc căn cứ vào mức lãi suất cơ bản của một số ngân hàng đứng đầu, của các ngân hàng khác + hoặc - biên độ giao động theo một tỷ lệ % nhất định để hình thành lãi suất cơ bản của mình. Một số nước lại sử dụng lãi suất liên

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

18


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả ngân hàng làm lãi suất cơ bản vì thực chất lãi suất cơ bản của các ngân hàng rất gần với mức lãi suất trên thị trường liên ngân hàng, nếu không như vậy hoạt động Arbitrage về lãi suất sẽ diễn ra. Mặc dù khác nhau lãi suất cơ bản của hầu hết các nước đều hình thành trên cơ sở thị trường và đó là mức lãi suất tối thiểu bù đắp được lãi suất cho vay và có một mức lợi nhuận bình quân cho phép. Khi áp dụng đối với các đối tượng có mức rủi ro khác nhau, mức lãi suất kinh doanh sẽ khác nhau vì sự biến động của mức bù rủi ro. Ơ Việt Nam truớc tháng 8 năm 2002, lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh. Lãi suất cơ bản được thông báo hàng tháng trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại tốt nhất của 15 tổ chức tín dụng với biên độ giao động qui định là +0,3 % cho các khoản vay ngắn hạn và 0,35% cho các koản vay dài hạn. Đây thực chất là việc qui định trần lãi suất cho vay. Từ tháng 8 năm 2002 chuyển sang cơ chế lãi suất thoả thuận. Lãi suất cơ bản được điều chỉnh tương đối phù hợp với việc thực thi chính sách tiền tệ nới lỏng một cách thận trọng, với biên độ khá rộng, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay phù hợp với quan hệ cung cầu vốn ở thị trường thành thị và nông thôn. b,Lãi suất tín dụng Nhà nước: áp dụng khi Nhà nước đi vay của các chủ thể khác nhau trong xã hội dưới hình thức phát hành tín phiếu hoặc trái phiếu. Loại lãi suất này có thể do Nhà nước ấn định căn cứ vào lãi suất tiền gửi tiết kiệm của ngân hàng, vào các yếu tố khác như biến động của lạm phát, nhu cầu cấp thiết về vốn của Nhà nước…hoặc được hình thành thông qua hình thức đấu thầu tín phiếu, trái phiếu Nhà nước. Ơ Việt Nam hiện nay, Ngân hàng Nhà nước được giao nhiệm vụ tổ chức đâú thầu tín phiếu Kho bạc Nhà nước.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

19


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả c,Lãi suất tín dụng tiêu dùng: áp dụng khi doanh nghiệp cho người lao động vay phục vụ nhu cầu tiêu dùng cá nhân. Mức lãi suất tín dụng tiêu dùng thường cao hơn lãi suất tín dụng ngân hàng và lãi suất tín dụng Nhà nước. 2.2 Căn cứ vào loại hình tín dụng. Lãi suất chia thành hai loại: a,Lãi suất danh nghĩa: là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ vào thời điểm nghiên cứu hay nói cách khác là loại lãi suất chưa loại trừ đi tỷ lệ lạm phát. Lãi suất danh nghĩa thường được thông báo chính thức trong các quan hệ tín dụng. b,Lãi suất thực tế: là loại lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm phát. Hay nói cách khác là lãi suất đã trừ đi tỷ lệ lạm phát. Lãi suất thực có hai loại: Lãi suất thực tính trước là lãi suất thực được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi dự tính về lạm phát. Lãi suất thực tính sau là lãi suất thực được chỉnh lại cho đúng những thay đổi trên thực tế về lạm phát. Mối quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa, lãi suất thực và lạm phát được Irving Fisher nêu thành phương trình sau: lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát

2.3.Căn cứ vào mức độ ổn định của lãi suất: lãi suất chia thành hai loại:

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

20


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả Lãi suất cố định: là lãi suất được áp dụng cố định trong suốt thời hạn vay. Nó có ưu điểm: người gửi tiền và người vay tiền biết trước tiền lãi được trả và phải trả. Bên cạnh đó có nhược điểm: bị ràng buộc bởi một mức lãi suất nhất định trong một thời gian nào đó các tổ chức cung ứng tín dụng và người vay tiền khó có khả năng phản ứng linh hoạt với những biến động nếu có của cung và cầu vốn trên thị trường tài chính. Lãi suất thả nổi: là lãi suất có thể thay đổi phù hợp với lãi suất thị trường và có thể báo trước hoặc không báo trưóc. Mặc dù khi áp dụng cơ chế lãi suất này, cả người đi vay và người cho vay xác định một cách chính xác mức lãi suất sẽ phải trả nhưng nó thích hợp với một môi trường đầu tư không ổn định và các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất là khó dự đoán. 3. Vai trò của lãi suất . Lãi suất là một biến số thường xuyên biến động trong nền kinh tế và được theo dõi một cách chặt chẽ nhất trong nền kinh tế vĩ mô vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp, tổng thể nền kinh tế, tác động cả ở tầm vi mô và vĩ mô. 3.1.Vai trò của lãi suất đối với quyết định của các chủ thể trong nền kinh tế. -Đối với cá nhân, hộ gia đình: lãi suất ảnh hưởng nhiều đến quyết định như chi tiêu hay để dành, mua nhà mua trái phiếu hay gửi vốn vào một tài khoản tiết kiệm. Đối với cá nhân hay hộ gia đình khi lãi suất của tiền gửi tiết kiệm tăng họ sẽ lựa chọn gửi tiền vào ngân hàng hơn là mua các giấy tờ có giá bởi khi đó giá của chúng sẽ giảm. Ngược lại khi lãi suất giảm họ sẽ đầu tư váo các khoản mục đầu tư khác và sẽ cân nhắc khả năng gưỉ tiền vào ngân

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

21


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả hàng vì lãi suất thấp hơn lợi nhuận nhận được từ những hình thức đầu tư khác. -Đối với các doanh nghiệp: lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Lãi suất có thể coi là chi phí của doanh nghiệp. Khi lãi suất thấp có nghĩa là chi phí của vốn đầu tư thấp, điều đó sẽ khuyến khích doanh nghiệp mở rộng đầu tư. Bớt một đồng chi phí là tăng một đồng lợi nhuận vì thế họ sẽ tìm cách tối đa hoá lợi nhuận trên một đồng chi phí. Có thể nói rằng lãi suất đóng vai trò là công cụ bắt buộc doanh nghiệp phải sử dụng vốn một cách triệt để, có hiệu quả. -Đối với Nhà nước: lãi suất không chỉ là một công cụ nhằm huy động hay cho vay vốn mà còn là công cụ quản lý vĩ mô quan trọng nhằm điều tiết sản xuất kinh doanh theo đúng hướng, xử lý hài hoà giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, điều hành gián tiếp chính sách tiền tệ quốc gia để thực hiện các mục tiêu của mình: ổn định giá cả đồng nội tệ, tăng trưởng kinh tế ở tốc độ cao (trên 7%) và công ăn việc làm đầy đủ. 3.2.Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế thị trường. -Lãi suất tín dụng là phương tiện kích thích lợi ích vật chất để thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. Lãi suất là một loại giá cả đặc biệt của việc buôn bán vốn tiền tệ, do đó nó cũng tuân thủ qui luật cung cầu thị trường. Muốn thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ các chủ thể trong nền kinh tế, ngoài việc phục vụ tốt còn đòi hỏi giá cả(lãi suất) hợp lý và hấp dẫn. Đối với ngân hàng, lãi suất huy động tiền gửi cao sẽ kích thích lòng ham muốn lợi nhuận của khách hàng đối với ngân hàng. Do đó nếu ngân hàng muốn tăng cường huy động vốn có thể bằng nhiều biện pháp trong đó có công cụ lãi suất.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

22


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả -Lãi suất tín dụng là công cụ kích thích đầu tư phát triển. Với lãi suất cho vay hợp lý sẽ kích thích các nhà đầu tư vay vốn mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh, tạo nhiều sản phẩm cho xã hội, tăng thu nhập quốc dân, từ đó tạo điều kiện cho nền kinh tế ngày càng phát triển. -Lãi suất tín dụng là đòn bẩy kích thích ngân hàng và các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả,thực sự quan tâm đến kết quả sản xuất kinh doanh để đảm bảo hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi. Đối với các ngân hàng, hoạt động chủ yếu là huy động để cho vay. Do đó ngân hàng phải tìm nhiều biện pháp thiết thực để thu hút mọi nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội, thực hiện các biện pháp cho vay có hiệu quả, sao cho đáp ứng được các yêu cầu hạch toán kinh tế. -Lãi suất là một trong những công cụ đánh giá “sức khoẻ” của nền kinh tế. Căn cứ vào biến động của lãi suất hoặc tình hình lãi suất trong một thời kì có thể dự báo được một số yếu tố của nền kinh tế: các cơ hội đầu tư, tình hình tiền tệ, tình hình kinh tế trong tương lai…Từ đó các ngân hàng hoặc doanh nghiệp có điều kiện để chuẩn bị và lựa chọn các phương án kinh doanh cho phù hợp. -Lãi suất là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. 4.Lãi suất là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Hiện nay nước ta đang trong thời kỳ quá độ, trong những giai đoạn xây dựng những cơ sơ vật chất để đi lên Chủ nghĩa Xã hội. Chiến lược nhiệm vụ trong toàn thời kỳ này của đất nước ta là: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vậy để có thẻ tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở rộng sản xuất thì vấn đề không thể thiếu được là vốn. Trong đại hội VIII của Đảng đã đề ra rằng: vấn đề tích luỹ và sử dụng vốn để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá có tầm quan trọng đặc biệt cả về phương pháp nhận thức và chỉ

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

23


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả đạo thực tiễn. Vì vậy cơ chế lãi suất có vai trò quan trọng trong việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, tập trung các nguồn vốn manh mún, tản mạn thành các nguồn vốn lớn đáp ứng các nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp tạo điều kiện cho việc tái sản xuất, mở rộng sản xuất một cách liên tục, phát triển kinh tế. -Lãi suất với quá trình đầu tư. Quá trình đầu tư của các doanh nghiệp vào tài sản cố định (máy móc, công trường, nguyên vật liệu) chỉ được thực hiện khi họ dự tính lợi nhuận thu được từ vốn đầu tư vào các tài sản cố định này lớn hơn số lãi phải trả cho các khoản đivay để đầu tư. Do đó khi lãi suất thấp các doanh nghiệp có điều kiện tiến hành vay vốn đầu tư vào các tài sản cố định phục vụ sản xuất. Vì thế chi tiêu đầu tư có kế hoạch sẽ cao hơn và ngược lại.

lai suat duong dau tu I3 I2 I1 dau tu

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

24


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả

Quan hệ lãi suất và chi tiêu đầu tư có kế hoạch Sự dốc xuống của đường đầu tư phản ánh tỷ lệ nghịch giữa chi tiêu đầu tư có kế hoạch với lãi suất . Đường đầu tư càng thoải thì càng nhạy cảm với lãi suất. Lãi suất thấp sẽ khuyến khích đầu tư, khuyến khích tiêu dùng, làm tăng tổng cầu dẫn đến sản lượng tăng giá cả tăng, thất nghiệp giảm, nội tệ có xu hướng giảm giá so với ngoại tệ. Ngược lại lãi suất cao sẽ hạn chế đầu tư, hạn chế tiêu dùng do đó làm giảm tổng cầu, khiến sản lượng giảm, giá giảm, thất nghiệp tăng, nội tệ có xu hướng tăng gía so với ngoại tệ. Như vậy lãi suất là công cụ đo lường tình trạng sức khoẻ của nền kinh tế. Người ta thấy rằng: trong giai đoạn đang phát triển của nền kinh tế, lãi suất có xu hướng phát triển do cung cầu cho vay đều phát triển, trong đó tốc độ phát triển quỹ cho vay lớn hơn tốc độ tăng của cung quỹ cho vay. Ngược lại trong nền kinh tế bị đình trệ, hàng hoá bị ứ đọng và xuống giá, cơ hội đầu tư kiếm lời giảm xuống, áp lực lạm phát hay thiểu phát, lãi suất sẽ giảm bởi nguyên tắc cơ bản lãi suất phải nhỏ hơn lợi nhuận đầu tư. -Lãi suất với xuất nhập khẩu: khi lãi suất trong nước thực tế tăng thì các khoản tiêu dùng bằng đồng nội tệ sẽ trở nên thấp hơn so với các khoản tiêu dùng bằng quỹ ngoại tệ. Do đó làm cho giá trị đồng nội tệ tăng lên so với các đồng khác nghĩa là tỷ giá hối đoái tăng. Lúc này hàng hoá trong nước tại nước ngoài đắt hơn, hàng hoá nước ngoài ở trong nước sẽ rẻ hơn dẫn đến giảm xuất khẩu ròng, khuyến khích nhập khẩu

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

25


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả

I3 I2 I1 NX3 NX2 NX1 Quan hệ lãi suất trong nước với xuất khẩu ròng

Với một mức lãi suất thực tế thấp i1, tỷ giá thấp và xuất khẩu ròng NX1 cao, với mức lãi suất i3 cao tỷ giá cao dẫn đến xuất khẩu ròng NX3 thấp. Thay đổi trong lãi suất nước ngoài: Nếu lãi tiền gửi nước ngoài tăng lên trong trường hợp mọi yếu tố khác không đổi thì lợi tức của tiền gửi đó cũng tăng lên, đường trên diện lợi tức dự tính về ngoại tệ dịch sang phải. Sự sụt giá của đồng nội tệ được thể hiện ở đồ thị sau:

Tỷ giá ($/VND)

Ret(đ)

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

Ret ($1) Ret ($2)

26


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả

Lãi suất nước ngoài tăng, đường lợi tức dự tính của đồng ngoại tệ dịch sang phải.Sự sụt giá của đồng nội tệ dẫn đến hàng hoá trong nước ở nước ngoài rẻ hơn và hàng hoá nước ngoài ở trong nước đắt hơn. Vì vậy tăng xuất khẩu ròng. Với vai trò to lớn được lý thuyết và thực tiễn chững minh, lãi suất thực sự là một công cụ điều tiết vĩ mô vô cùng quan trọng mà ngân hàng TƯ sử dụng nhằm thực hiện chính sách tiền tệ để đạt được mục tiêu của mình. Lãi suất ngân hàng là một phạm trù kinh tế có tính hai mặt, nó có thể là công cụ, đòn bẩy thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế hoặc nhân tố kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Điều này phụ thuộc vào sự điều hành lãi suất của NHTƯ có hợp lý hay không và tính hiệu quả của nó được kiểm nghiệm trong thực tế. 5. Các nhân tố tác động vào lãi suất. Có rất nhiều cách tiếp cận tìm hiểu những biến đổi về lãi suất, trong đó có một cách được sử dụng nhiều trong nghiên cứu về lãi suất, đó là dựa vào lý thuyết quỹ cho vay. Theo phương thức này người ta chú trọng đến những lưu lượng tài chính từ các khu vực khác nhau của nền kinh tế, tìm

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

27


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả cách giải thích những thay đổi của lãi suất bằng cách xem xét sự tổng hợp cung cầu của doanh nghiệp, hộ gia đình và các khu vực Nhà nước. Lý thuyết quỹ cho vay cho rằng: lãi suất biểu hiện giá cả khoản tiền mà người cho vay đòi hỏi khi tạm thời trao quyền sử dụng khoản tiền của mình cho người khác. Người đi vay coi lãi suất như khoản chi phí phải trả cho nhu cầu sử dụng tạm thời tiền vốn của người khác. Như vậy điều không thể tránh khỏi là lãi suất đã hàm chứa một mâu thuẫn: người cho vay muốn có lãi suất càng cao càng tốt, trong khi người đi vay muốn có lãi suất càng thấp càng tốt. Vì vậy lãi suất chủ yếu được xác định bởi hoạt động của cơ chế cung và cầu. 5.1.Cung cầu quỹ cho vay. a,Cầu quỹ cho vay.Cầu quỹ cho vay bao gồm nhiều thành phần và bắt nguồn từ tất cả các thành phần kinh tế. -Cầu của doanh nghiệp: khu vực doanh nghiệp là khách hàng chính tạo nên cầu quỹ cho vay. Nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp chủ yếu là để mua sắm các tài sản thực như nhà máy thiết bị và hàng tồn kho. -Cầu của chính quyền: khu vực chủ yếu khác tạo nên cầu quỹ cho vay trong thị trường tài chính là chính quyền địa phương và trung ương. Nhu cầu về vốn của cơ quan địa phương chủ yếu phát sinh vào việc xây dựng tiện ích cho giáo dục và các dịch vụ công quyền khác. Nhu cầu này phụ thuộc vào: tỷ lệ gia tăng dân số, sự tăng tuổi thọ và dân số…Còn đối với chính quyền địa phương thì cầu phát sinh từ thu nhập và chi tiêu ngân sách quốc gia. -Cầu của người tiêu dùng: chủ yếu là các cá nhân, hộ gia đình cần tiền mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như xe ô tô, xe máy, nhà cửa, và các hàng xa xỉ phẩm…còn những mặt hàng nhu yếu phẩm như thực phẩm quần áo…thì phần lớn không nhạy cảm với lãi suất.Trong các thành phần của cầu

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

28


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả quỹ cho vay thì cầu của doanh nghiệp và của các chính quyền là nguồn nhu cầu ròng chính yếu của quỹ cho vay. Mối quan hệ giưã lãi suất và cầu quỹ cho vay : Lãi suất I1 I2

Q1

Q2

Quỹ cho vay

Đường cầu quỹ cho vay nghiêng xuống dưới biểu hiện lượng cầu và lãi suất có mối tương quan nghịch đảo. Ưng với lãi suất I1 lượng cầu quỹ cho vay là Q1. Nếu lãi suất là I2 nhỏ hơn I1 thì Q2 sẽ lớn hơn Q1. Như vậy lượng cầu thay đổi do sự thay đổi lãi suất chúng ta sẽ có một biến đổi dọc theo đường câù. Nhưng nếu lượng cầu thay đổi do một yếu tố khác ngoài lãi suất thì sẽ xuất hiện sự dịch chuyển đường cầu. b,Cung quỹ cho vay. Cung quỹ cho vay phản ánh khối lượng quỹ có thể cung cấp cho vay bao gồm khối lượng tiết kiệm và số lượng tiền mới được tạo ra. -Tiết kiệm. Tiết kiệm của các cá nhân, hộ gia đình: đây là thành phần cung cấp nguồn tiết kiệm chủ yếu, nó phụ thuộc vào thu nhập hiện có, dự tính trong tương lai, việc dự trù của cải do cá nhân nắm giữ, mức lãi suất, dự tính về tỷ lệ lạm phát trong tương lai và các biến số khác.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

29


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả Tiết kiệm của các doanh nghiệp: các doanh nghiệp cũng tập trung tiết kiệm trong đó chủ yếu bằng hình thức lợi nhuận tích luỹ và quỹ khấu hao. Nguồn thặng dư của ngân sách Nhà nước. Dòng tiết kiệm nước ngoài: khi thị trường tài chính trở thành toàn cầu hoá và nhu cầu về quỹ trong nước vượt quá cung quỹ trong nước thì các chu chuyển tiền từ nước ngoài trở nên rất quan trọng. Các chu chuyển tiền này đến từ những quốc gia có tỷ lệ tiết kiệm cao và lãi suất tương đối thấp. Ngoài ra, tỷ gía hối đoái cũng có thể tác động mạnh mẽ lên dòng tiết kiệm nước ngoài. Ví dụ: khi đồng USD được dự tính trong tương lai sẽ lên giá so với các loại tiền tệ khác thì dòng tiết kiệm chảy vào Mỹ sẽ tăng cao và ngược lại. -Tiền. Một nguồn bổ sung cho vay là việc cung ứng tiền. Khối lượng của nó chiụ sự tác động bởi khả năng tạo bút tệ của các ngân hàng thương mại và việc phát hành tiền của Ngân hàng Trung ương. Trong các yếu tố của cung quỹ cho vay, tiết kiệm của cá nhân và hộ gia đình là nguồn cung cấp quỹ chủ yếu, tỷ lệ tiết kiệm của ngân sách hầu như không phụ thuộc vào lãi suất. Mối quan hệ giữa lãi suất và cung quỹ cho vay.

Lãi suất

I2 I1

Q1

Q2 quỹ cho vay

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

30


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả

Hình minh hoạ cho thấy tương quan giữa lãi suất khác nhau và số lượng quỹ cho vay được cung cấp. Số lượng quỹ cho vay được cung cấp có chiều hướng lên cao khi có sự gia tăng về lãi suất. Nghĩa là lượng cung và lãi suất có mối quan hệ thuận chiều ứng với sự thay đổi lãi suất là sự thay đổi của cung quỹ cho vay biến đổi dọc đường cung. Nhưng nếu lãi suất không đổi, đường biểu diễn cung của quỹ cho vay sẽ dịch chuyển khi có một trong các nhân tố cơ bản của chúng thay đổi. Sự biến đổi của đường cung quỹ cho vay:

Lãi suất S2 S1

Quỹ cho vay

Cân bằng thị trường diễn ra khi cung bằng cầu hay khi có số lượng mà dân chúng có ý định mua bằng số lượng mà dân chúng có ý định bán. Và lãi suất tại điểm cân bằng của thị trường gọi là lãi suất cân bằng.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

31


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả

LãI suất,i(%) i2

S 0

i1 D q1 q2

quỹ cho vay

5.2. Những nhân tố làm thay đổi lãi suất cân bằng. a.Lạm phát dự tính. Chi phí thực của việc vay tiền được đo một cách chính xác hơn bằng lãi suất thực. Với một lãi súât cho trước khi lạm phát dự tính tăng lên chi phí của việc vay tiền giảm xuống do đó lượng cầu quỹ cho vay tăng lên ở bất kỳ lãi suất nào cho trước. Đồng thời khi lạm phát dự tính tăng lên có nghĩa giá cả hàng hoá dự tính tăng, do đó tăng lợi tức dự tính của tài sản thực, đồng thời tiền tệ mất giá do đó sẽ làm sụt giảm lợi tức dự tính của những tài sản tài chính so vơí tài sản thực. Nghĩa là với một lãi suất cho trước, sự tăng lên của lạm phát dự tính sẽ sụt giảm lợi tức dự tính của việc cho vay nên lượng cung quỹ cho vay sẽ giảm. b.Sự phát triển của kinh tế trong chu kỳ kinh doanh. Trong giai đoạn phát triển của một chu kỳ kinh doanh, tổng số hàng hoá dịch vụ sản xuất trong nền kinh tế tăng lên, thu nhập quốc dân tăng, do

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

32


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả đó tạo nhiều cơ hội đầu tư sinh lợi cho các doanh nghiệp. Khi đó doanh nghiệp càng có nhiều ý định vay vốn, tăng số dư vay nợ nhằm tài trợ cho các cuộc đầu tư. Khi nền kinh tế phát triển cũng sẽ tác động đến lượng cung quỹ cho vay. Khi kinh tế phát triển thu nhập tăng, của cải tăng do đó lượng cung quỹ cho vay tăng. c.Tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế Lợi tức chỉ là một bộ phận của lợi nhuận bình quân, do đó lãi suất cũng sẽ phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận bình quân. Sự tăng hay giảm của tỷ suất lợi nhuận bình quân sẽ tạo điều kiện mở rộng hay thu hẹp khoảng giao động của lãi suất tín dụng. Sự tăng lên của tỷ suất lợi nhuận bình quân sẽ kích thích đầu tư do đó sẽ kích thích cầu quỹ cho vay, giảm cung quỹ cho vay, do đó lãi suất cân bằng tăng lên và ngược lại d.Thời giá, rủi ro và tính lỏng của các tài sản tài chính. Thời giá: Khi lượng cầu tài sản tài chính tăng, lương cung tài sản tài chính giảm thì sẽ làm cho giá cả của các loại tài sản tài chính trên thị trường tăng. Đồng thời lượng cầu tài sản tài chính tăng nghĩa là cung quỹ cho vay tăng, lượng cung tài sản tài chính giảm thì sẽ làm cho cầu quỹ cho vay giảm. Do đó lãi suất sẽ giảm. Như vậy thời giá của các tài sản tài chính và lãi suất có mối tương quan nghịch đảo. Rủi ro: nếu giá cả của các lọai tài sản tài chính trở nên bất định hơn, sự rủi ro gắn liền với các tài sản tài chính tăng hơn so với các tài sản khác, tài sản tài chính sẽ kém hấp dẫn hơn sẽ làm cho lượng cầu tài sản tài chính giảm sút do đó cung quỹ cho vay giảm, làm cho đường cung dịch chuỷên sang bên trái, lãi suất cân bằng sẽ tăng lên.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

33


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả Ngược lại một sự tăng tính bất định của giá cả và sự rủi ro trong một thị trường tài chính khác như cổ phiếu sẽ khiến cho tài sản tài chính tăng thêm tính hấp dẫn, do đó làm tăng lượng cầu tài sản tài chính, tăng cung quỹ cho vay , lãi suất giảm. Tính lỏng: tính lỏng của các tài sản tài chính được quyết định bởi hai yếu tố: + Khả năng hoán chuyển ra tiền mặt. + Chi phí quản lý và chi phí hoán chuyển ra tiền mặt. Một tài sản tài chính có tính lỏng cao là một tài sản có thể chuyển đổi sang tiền mặt một cách nhanh chóng với chi phí quản lý và chi phí hoán chuyển thấp nhất. Tính lỏng của tài sản tài chính cầng tăng thì nó càng được ưa chuộng, lượng cầu tài sản tài chính càng tăng do đó cung quỹ cho vay tăng, đường cung quỹ cho vay dịch chuyển sang phải, làm cho lãi suất cân bằng giảm xuống. e.Chính sách tài chính của Nhà Nước. Khi Nhà nước thực hiện một chính sách bành trướng: tăng chi tiêu của chính phủ sẽ trực tiếp làm tăng lượng cầu quỹ cho vay làm dịch chuyển đường cầu quỹ cho vay về bên phải do đó lãi suất tăng. Đồng thời giảm thu thuế, mặc dù không làm ảnh hưởng trực tiếp đến tổng cầu, nhưng thay vào đó lại làm tăng số thu nhập từ đầu tư mới, từ đó kích thích đầu tư. Do đó tăng cầu quỹ cho vay. Mặt khác sự giảm xuống của thuế sẽ làm tăng số thu nhập sẵn sàng để chi tiêu, làm tăng nhu cầu chi tiêu, do đó làm tăng cầu quỹ cho vay. Vì vậy lãi suất tăng. f.Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

34


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả Khi Ngân hàng Trung ương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt thông qua các công cụ như dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, thị trường mở… sẽ tác động đến cung cầu tiền tệ làm cho cung tiền giảm (hoặc tăng) , do đó giảm (hoặc tăng) cung quỹ cho vay từ đó tác động đến lãi suất. 6. Sự điều hành lãi suất tín dụng ngân hàng cuả NHTƯ. 6.1.Nguyên tắc hoạt động của NHTƯ trong thực hiện chính sách lãi suất. Thứ nhất, NHTƯ không trả lãi tiền gửi cho NHTM, TCTD nào. Là ngân hàng của các ngân hàng, NHTƯ luôn là chủ nợ của cả hệ thống ngân hàng. Vị trí chủ nợ đó là cần thiết để NHTƯ có thể điều tiết việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng cung ứng tiền tệ. Nếu NHTƯ trả lãi tiền gửi, nghĩa là con nợ của NHTM , thì NHTƯ không có khả năng tác động trực tiếp vào sự ra tăng khối lượng tiền tệ, vì bất cứ lúc nào NHTM cũng có thể rút tiền của họ. Mối quan hệ hữu cơ giữa thị trường tiền tệ với thị trường tín dụng bị phá vỡ và NHTƯ mất đi khả năng điều tiết của mình. Chính vì lý do đó các NHTM, Kho bạc Nhà nước cũng như các tổ chức tín dụng khác không bao giờ được phép gửi tiền có lãi tại NHTƯ vì điều đó sẽ chôn vùi vị trí chủ nợ của NHTƯ. Các ngân hàng thương mại gửi tiền tại NHTƯ có thể mua tín phiếu NHNN hoặc tín phiếu kho bạc Nhà nước. Thứ hai, NHTƯ chỉ được phép cho NHTM vay ngắn hạn. Đây là vấn đề cốt lõi đối với khả năng điều tiết cuả NHTƯ, vì chỉ như vậy NHTƯ mới có thể phản ứng nhanh với những rối loạn có thể xảy ra trong hệ thống tiền tệ bằng việc thay đổi chi phí tái cấp vốn. Điều đó có nghĩa là chỉ NHTM mới được cấp tín dụng dài hạn. Nếu một khi NHTƯ có những khoản nợ dài hạn, thì khác nào họ tự chôn vùi khả năng điều tiết của mình và thúc đẩy sự bất ổn của thị trường tiền tệ. 6.2 Các công cụ điều tiết lãi suất thị trường của NHTƯ Thứ nhất, gọi cho vay theo hình thức đấu thầu .

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

35


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả Đây là hình thức quan trọng để NHTƯ cung ứng tiền tệ trung ương cho các NHTM. Thời hạn cho vay thường ngắn (khoảng 10 đến 15 ngày) và được tổ chức thường xuyên 1 đến 2 lần một tuần. Giả sử sau khi NHTƯ thông báo gọi thầu (chỉ công bố thời hạn cho vay, chứng phiếu thế chấp, không bao giờ công bố lãi suất) và nhận được đơn xin vay của NHTM như sau: Ngân hàng thương mại 1 xin vay 20 tỷ với lãi suất 10%/năm Ngân hàng thương mại 2 xin vay 35 tỷ với lãi suất 9,75%/năm Ngân hàng thương mại 3 xin vay 5 tỷ với lãi suất 9,5%/năm Ngân hàng thương mại 4 xin vay 10 tỷ với lãisuất 9,4%/năm Ngân hàng thương mại 5 xin vay 20 tỷ với lãi suất 9,3%/năm Căn cứ số tiền cần phát hành, NHTƯ quyết định cho vay 30 tỷ với lãi suất 9,5%/năm. Có ba ngân hàng trúng thầu với lãi suất 9,5% nhưng số tiền xin vay là 60 tỷ. Như vậy mỗi ngân hàng sẽ được vay lượng tiền yêu cầu (=30/60 tỷ) với cùng mức lãi suất. Lãi suất 9,5%/năm này cực kỳ quan trọng, qua đó đánh tín hiệu với thị trường rằng NHTƯ không muốn lãi suất giảm xuống dưới 9,5%/năm. Căn cứ vào đó, các ngân hàng thương mại tự định đoạt lãi suất thị trường. Thứ hai, lãi suất tái chiết khấu hay tạm ứng trên chứng từ. Hình thức gọi thầu cho vay được thực hiện định kỳ hoặc theo quyết định của NHTƯ với thời hạn cố định, vì vậy không đáp ứng nhu cầu xin vay bất thường với thời gian không qui định trước của các NHTM. Hình thức cho vay tạm ứng trên cơ sở thế chấp chứng từ cho phép khắc phục điều đó. Loại hình cho vay này được thực hiện bất cứ lúc nào với thời hạn thoả thuận giữa NHTƯ và NHTM (thường từ 5 đến 10 ngày), lãi suất cao hơn cho vay đấu thầu 0,5-0,6%. Đây là cánh cửa thường xuyên mở rộng cho các NHTM

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

36


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả với điều kiện có chứng từ thế chấp tốt. Đó là lãi suất chỉ đạo thứ hai của NHTƯ. Với hai hình thức trên, NHTƯ có thể hướng lãi suất thị trường dao động trong khung tạo bởi hai mức lãi suất đó. Lãi suất cho vay đấu thầu(ví dụ là 9,5%)là lãi suất thấp nhất của thị trường, đóng vai trò như lãi suất sàn, còn lãi suất tạm ứng chứng từ(ví dụ trên là 10%) là lãi suất chặn đứng thị trường, đóng vai trò là lãi suất trần. Lãi suất thị trường dao động trong khung mong muốn của NHTƯ theo đuổi lượng cung tiền, tỷ giá hối đoái. Ở một số nước, thị trường tài chính chưa phát triển, NHTƯ có thể trực tiếp qui định lãi suất trần và lãi suất sàn bằng những sắc lệnh của Chính phủ. Thứ ba, lãi suất can thiệp cụ thể của NHTƯ. Nếu lãi suất trên thị trường ví lý do không dự kiến được tăng quá cao đột xuất NHTƯ sẽ can thiệp bằng cách thông báo lãi suất thi trường quá mức chặn dươí. NHTƯ sẽ công bố lãi suất cho vay bằng hoặc cao hơn lãi suất chặn trên một chút. Đó là lãi suất can thiệp. Trong ba hình thức trên, lãi suất cho vay đấu thầu và lãi suất vay tạm ứng là lãi suất quan trọng nhất, đóng vai trò lãi suất chỉ đạo của NHTƯ. Còn lãi suất can thiệp chỉ là phụ và tuỳ thuộc vào diễn biến thị trường. Ngoài ra NHTƯ còn can thiệp vào lãi suất thị trường thông qua kỹ thuật thị trường mở, nghĩa là NHTƯ mua bán các chứng khoán trên thị trường để điều tiết việc bơm hoặc rút tiền khỏi lưu thông. --> Như vậy thông qua chương I, chúng ta đã có những khái niệm cơ bản về lãi suất, chính sách tiền tệ, và các công cụ của chính sách tiền tệ. Những kiến thức cơ bản này sẽ là nền tảng để chúng ta tiếp tục nghiên cứu chương II.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

37


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả

`CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN VỪA QUA. Cũng như nhiều nước trên thế giới, ở Việt Nam, lãi suất cũng là một trong những công cụ vô cùng quan trọng mà NHNN Việt Nam đã sử dụng để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ của mình. Cùng với những biến chuyển tích cực trong hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam thì chính sách lãi suất cũng có những điều chỉnh thay đổi để hoàn thiện và tiến tới một lãi suất tiền tệ theo hướng tự do lãi suất dựa trên quan hệ cung cầu vốn đúng như bản chất cuả lãi suất. Từ khi thành lập cho đến nay NHNN Việt Nam đã nhiều lần điều chỉnh chế độ lãi suất của mình. Những thay đổi chính sách lãi suất mang tính tích cực về mặt lý thuyết. Tuy nhiên trong thực tế những thay đổi này có đem lại hiệu quả hay không còn phải xem xét trên nhiều khía cạnh. Sau đây chúng ta hãy xem xét sự điều hành chính sách lãi suất trong giai đoạn vừa qua của NHNN Việt Nam. 1.Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1951. Sau ngày 2/9/19945, ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nước ta bị các nước đế quốc và các thế lực phản động quốc tế trong và ngoài nước liên kết với nhau chống phá quyết liệt. Vì vậy bên cạnh việc chuẩn bị về mặt lực lượng để tiếp tục chiến đấu bảo vệ thành quả Cách mạng, bảo vệ Đất nước thì Chính phủ mới thành lập còn phải ổn định tình hình tài chính để ổn định nền kinh tế, đời sống nhân dân, và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

38


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả Trong giai đoạn từ năm 1946 đến 1951, chúng ta không quốc hữu hoá Ngân hàng Đông Dương và cũng không thành lập NHTƯ của Việt Nam. Lúc này tiền tệ do Bộ tài chính phát hành. Lượng tiền cho lưu thông chủ yếu là do phát hành vì thuế thu được rất ít. Không có một loại hình tín dụng nào trong giai đoạn này. Mãi đến năm 1947 mới có hình thức huy động vốn để cho sản xuất nông nghiệp, nên nhìn chung chính sách lãi suất trong giai đoạn này không có gì đáng nói. 2.Giai đoạn từ năm 1951 đến năm 1986. Tháng 2 năm 1951 thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Lúc này nó đã có một số chức năng cơ bản sau: -Độc quyền phát hành tiền và điều hoà lưu thông tiền tệ. -Điều hoà và mở rộng tín dụng để phát triển sản xuất. -Quản lý ngân quỹ quốc gia. -Quản lý ngoại tệ và giao dịch thanh toán với nước ngoài. -Quản lý kim dung bằng thể lệ hành chính. -Đấu tranh tiền tệ với địch. Đây là thời kỳ mà cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta đi vào giai đoạn quyết liệt nên nhu cầu tiền dành cho chiến tranh là rất lớn.Vì vậy NHNN Việt Nam thực hiện chính sách lãi suất cố định, NHNN Việt Nam đã qui định quá chi tiết các mức lãi suất khác nhau. Tại mức lãi suất ban hành theo quyết định số 125/NH- QĐ ngày 04/9/1986 ta thấy có gần 30 mức lãi suất khác nhau. Chúng được phân biệt rõ rệt bởi hình thức sở hữu: quốc doanh và tập thể, bởi ngành nghề, bởi sự thực hiện cái gọi là hạn mức kế hoạch …Và một điều ta không thể không nhận thấy là sự bất hợp lý trong chính sách lãi suất là mức lãi suất tiền gửi và cho vay được qui định ở biểu quá nhỏ bé so với mức lãi suất huy động tiết kiệm, cho vay tư nhân cá thể và

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

39


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả nó càng nhỏ bé khi so sánh với tỷ lệ lạm phát của năm 1986 (khỏang 14%/ tháng).(xem phụ lục 1) Đây là thời kỳ lãi suất thực âm được duy trì trong suốt thời kỳ bao cấp và trong điều luật mục lạm phát cao. Một trong những lý do biện giải cho việc áp dụng chính sách lãi suất cố định, Lãi suất thực âm này là: -Thời kỳ này nền kinh tế nước ta đang hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, chịu ảnh hưởng nặng nề, dập khuôn mô hình kinh tế của Liên Xô cũ. Chính sách lãi suất này là việc áp dụng gần như nguyên mẫu mô hình của Liên Xô cũ. Nhiều loại cho vay, mức lãi suất cuả ta và Liên Xô cũ là giống hệt nhau, và vì vâỵ chính sách lãi suất không chú ý đến lạm phát. -Trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang rơi vào tình trạng lạm phát phi mã, Nhà nước muốn vực dậy nền kinh tế thì cần huy động và thu hút vốn cho đầu tư nên đã qui định mức lãi suất cho vay thấp để khuyến khích các đơn vị đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Lỗ của ngành ngân hàng sẽ được nhà nước cấp bù. Trong thời kỳ này, việc ấn định các mức lãi suất là không có cơ sở khoa học. Lãi suất không phát huy được vai trò đòn bẩy phát triển nền kinh tế của mình, ngược lại nó còn kìm hãm hoạt động của hệ thống ngân hàng, ngân hàng không phát huy được vai trò huy động vốn, kinh doạnh tiền tệ cuả mình. Còn Nhà nước thì luôn bị thâm hụt ngân sách do phải bù lỗ cho các ngân hàng và lạm phát thì tiếp tục tăng. Chế độ lãi suất thực âm không đảm bảo lợi ích cho các bên, điều này được nhiều tác giả miêu tả bằng một hình tượng sinh động như: nếu ta đem gửi một khoản tiền ví như con bò thì sau khi đáo hạn ta chỉ nhận được khoản tiền bằng cái đuôi bò. Vì vậy mà chính sách này không thực hiện được mục tiêu của mình là huy động vốn.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

40


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả Trong tình trạng nền kinh tế phát triển trì trệ, tỷ lệ lạm phát cao, cơ hội đầu tư có lợi là rất hiếm, lãi suất tiền cho vay < tỷ suất lợi nhuận bình quân <lãi suât huy động vốn, điều này dẫn đến tình trạng ăn “không ngồi rồi” của các doanh nghiệp Nhà nước. Nhiều doanh nghiệp vay vốn với lãi suất thấp rồi cho ngân hàng vay với lãi suất cao để ăn chênh lệch và cuối cùng thì sản xuất không phát triển . 3.Giai đoạn cuối năm 1986 đến 1995. Thực trạng đất nước vào những thập kỷ 80 với những khó khăn mới gay gắt và phức tạp đã đặt ra một yêu cầu khách quan và bức xúc có ý nghĩa sống còn đối với dự nghiệp cách mạng là, đẻ làm xoay chuyển được tình thế, tạo ra một sự chuyển biến có ý nghĩa trên bước đường đi lên. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ sáu của Đảng(1986) đã quyết điịnh xây dựng CNXH trên cả nước theo đường lối đổi mới. Một điều tất nhiên là hoạt động ngân hàng cũng không nằm ngoài sự chuyển đổi mới này. Cụ thể là bắt đầu 1988 toàn bộ hệ thông ngân hàng 1 cấp chuyển thành hệ thông ngân hàng 2 cấp. Năm 1990 ra pháp lệnh Ngân hàng, pháp lệnh này được sửa đổi và bổ sung cho hoàn thiện hơn vào năm 1997, đó là luật Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng. Đây là bước đầu tiên đặt nền móng cho những biến đổi mạnh mẽ về sau hoạt động của NHNN nói chung và chính sách lãi suất nói riêng. Sau năm 1986, đất nước chuyển mình trên tất cả các lĩnh vực, đòi hỏi nguồn vốn rất lớn để Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì vậy đây là lúc mà vai trò của hệ thông ngân hàng được nâng lên đúng với vị trí của nó. Sau đại hội Đảng VII, bước sang giai đoạn 1992-1995, một loạt cải cách mới được thực hiện và đã đem lại những kết quả nhất định. Nền kinh tế đã có nhiều biến chuyển tích cực: lạm phát tiếp tục được đẩy lùi và được

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

41


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả kiểm soát một cách chặt chẽ hơn, nền kinh tế với mức tăng trưởng tương đối và cũng được duy trì ổn định…Và có thể nói rằng trong đó có sự đóng góp không nhỏ của chính sách lãi suất mới- chính sách lãi suất thực dương. Lãi suất thực dương được duy trì từ cuối năm 1992 với sự biến động phù hợp với tỷ lệ lạm phát. Cụ thể từ tháng 10/1992 NHNN Việt Nam thực hiện chính sách lãi suất thực dương, hết quý một năm 1993 thì chính sách này được thực hiện một cách đầy đủ. 8690 Lãi suất tiền gửi bình quân %/tháng Lãi suất cho vay bình quân Lạm phát bình quân tháng

1 991

6

1 992

2 ,6

4,3

1

3

ơmứ chai chữ số ,6

993

,9

,5

1 1

2

5

994

,4

,5

1

1

1

1 ,4

1 ,6

0 ,43

1 995

,3

,8

,93

1

1 ,7

1 ,2

1 ,06

Tuy nhiên, ở giai đoạn này NHNN Việt Nam vẫn qui định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay, cụ thể có sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế: + Đối với doanh nghiệp Nhà nước: cho vay với lãi suất thấp hơn so với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. +Lãi suất cho vay ngắn hạn cao hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn. +Lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao hơn lãi suất tiền gửi của các tổ chức kinh tế. Bắt đầu từ ngày 1/10/1993 theo quyết định 184/QĐ-NH1, Chính sách lãi suất được thực hiện trên cơ sở vừa qui định các mức lãi suất tiền gưỉ và cho vay cụ thể, vừa cho vay theo lãi suất thoả thuận.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

42


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả +Qui định cụ thể về lãi suất trần có hai loại: Lãi suất cho vay doanh nghiệp Nhà nước:1,8%/ tháng Lãi suất cho vay kinh tế ngoài quốc doanh:2%/ tháng kỳ hạn 6 tháng: 0,75%/ tháng Kỳ hạn 12 tháng: 12%/ tháng Các mức lãi suất này được áp dụng cho đến tháng 1/1991. Quyết định số 08/QĐ-NH7 ngày 25/1/1992 thay đổi lại như sau: lãi suất tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ do Tổng giám đốc các ngân hàng được phép hoạt động ngoại tệ qui định trên cơ sở lãi suất tiền tệ quốc tế. Quyết định này cho đến nay vẫn còn hiệu lực thi hành. Từ tháng 12/1993 NHNN bãi bỏ việc qui định lãi suất tiền gửi ngoại tệ. Nghĩa là từ đó tới nay NHNN chỉ còn khống chế mức cho vay ngoại tệ tối đa của các tổ chức tư doanh đối với nền kinh tế, ngoài ra ta thấy mức lãi suất cho vay tối đa ngày càng được điều chỉnh tăng lên để thực hiện chủ trương thu hẹp khoảng cách giữa lãi suất ngoại tệ và nội tệ của NHNN. * Đánh giá vai trò của qúa trình điều chỉnh chính sách lãi suất từ năm 1992 đến 1995. -Những mặt tích cực: Trong giai đoạn này, lãi suất đã bắt đầu được sử dụng như là một công cụ của chính sách tiền tệ. Việc chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang lãi suất thực dương đã có tác dụng quan trọng, xoá bỏ hẳn tình trạng bao cấp qua tín dụng trước đây và tạo điều kiện cho các ngân hàng thực sự chuyển sang kinh doanh, thực hiện có hiệu quả chiến lược huy động vốn mạnh mẽ với phương châm: ngân hàng đi huy động để cho vay, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân và các tổ chức kinh tế, như vậy nguồn vốn huy động đã tăng lên mạnh mẽ và liên tục. Năm 1992 tăng 18,6%, năm 1993 tăng 23%, năm 1994 tăng 59,8%, năm

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

43


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả 1995 số dư gấp 3,6 lần năm 1991, chiếm 23% GDP. Trong đó đáng chú ý là lượng vốn huy động trong nước là chủ yếu. Nhờ có vốn đầu tư mở rộng sản xuất trong 4 năm 1992-1995 nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những kết quả tương đối toàn diện và rõ rệt hơn bất cứ giai đoạn nào trước đó. Chính sách này đã thúc đẩy phát triển tỷ trọng cho vay trung và dài hạn phù hợp với mục tiêu huy động cho vay vốn đối với các doanh nghiệp trong chiến lược công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu. Trước đây tỷ trọng cho vay trung và dài hạn xây dựng cơ bản không đáng kể nhưng cho đến năm 1994 tỷ trọng này đã chiếm 34% tổng dư nợ trong nền kinh tế. Thực tế này đã góp phần thay đổi cơ cấu tư doanh có lợi cho đầu tư phát triển sản xuất, có tác động tích cực đối với việc thay đổi cơ cấu sản xuất theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, nâng dần kim ngạch xuất khẩu. Từ năm 1991 đến năm 1995 kim ngạch xuất khẩu đạt 16,8 tỷ $, tốc độ tăng bình quân là 22,2%. NHNN điều chỉnh chính sách lãi suất theo hướng đảm bảo lãi suất đã góp phần kiềm chế lạm phát, giảm giá đôla và giá vàng. Năm 1990 tỷ lệ lạm phát là 67,4%, năm 1992 còn 17,6%, năm 93 là 5,2%, năm 94 là 14,4%, năm 95 là 12,7 %. Tỷ lệ lạm phát được kiềm chế ở mức tương đối ổn định. -Những mặt hạn chế. Lãi suất cho vay thực tế còn cao so với tốc độ tăng giá, chưa thực sự tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế đẩy mạnh việc vay vốn phát triển sản xuất. Trong lãi suất thoả thuận, mức chênh lệch giữa lãi suất sàn ( qui định cho tiền gửi) và lãi suất trần (qui định cho tiền vay) là 0,7-1%/tháng. Chênh lệch này đem lại cho các NHTM lợi nhuận lớn, song lại gây nhiều bất lợi cho các doanh nghiệp, hộ gia đình và người nông dân.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

44


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả Quốc hội khoá IX trong kỳ họp thứ 8 tháng 8/1995 , cùng với nghị quyết bỏ thuế doanh thu trong hoạt động tín dụng ngân hàng, đã yêu cầu ngân hàng tiết kiệm chi phí hoạt động và khống chế mức chênh lệch lãi suất huy động và cho vay bình quân là 0,35%/tháng (có hiệu lực đến ngày 31/1/1998). Đây là lý do để chuyển sang một giai đoạn thực hiện chính sách lãi suất trần và bãi bỏ lãi suất cho vay thoả thuận. 4.Giai đoạn từ 1/1/1996 đến nửa đầu năm 2000. Từ tháng 1 năm 1996, NHNN Việt Nam công bố lãi suất cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn. Các ngân hàng thương mại được phép qui định mức lãi suất huy động trên cơ sở trần lãi suất cho vay và ấn định mức lãi suất cho vay cụ thể nhưng không được phép vượt quá trần lãi suất cho vay mà NHNN công bố. Từ ngày 1/1/1996 NHNN bắt đầu khống chế trần lãi suất cho vay và áp dụng chênh lệch lãi suât tiền gửi, tiền vay là 0,35%/tháng. Căn cứ vào địa bàn hoạt động, nhu cầu vốn. Chi phí hoạt động khác nhau, NHNN đã qui định lãi suất trần có sự phân biệt như sau: trần lãi suất cho vay ngắn hạn là mức lãi suất thấp nhất áp dụng cho khu vực thành thị, trần lãi suất cho vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn một chút do thời hạn dài rủi ro cao hơn, trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn và trung hạn do điều kiện hoạt động ở địa bàn nông thôn khó khăn hơn ở thị trấn , trần lãi suất cho vay của quỹ tín dụng đối với các thành viên là trần lãi suất cao nhất do quỹ tín dụng mới lập thí điểm, qui mô nhỏ bé, chi phí hoạt động cao. Từ tháng 10 năm 1996, lãi suất được khống chế bởi mức lãi suất cho vay cao nhất: 1,8%/tháng đối với doanh nghiệp Nhà nước và 2,1%/tháng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

45


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả Từ tháng 6/1997, trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam được hạ xuống. Do khủng khoảng tiền tệ, các nước Đông Nam á phải nâng lãi suất tiền gửi lên cao hơn các nước công nghiệp phát triển để chống lại làn sóng rút tiền gửi ra mua $. Để phòng ngừa khủng khoảng tài chính- tiền tệ trong toàn hệ thống ngân hàng, các ngân hàng trong nước phải giữ lãi suất tiền gửi cao gần như cũ đến mức là chênh lệch giưã lãi suất tiền gửi có kỳ hạn và lãi suất cho vay chỉ còn từ 0,05% đến 0,1%, làm tăng thua lỗ trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. Khi làn sóng rút tiền gửi đã lắng xuống thì mức tỷ suất lợi nhuận của ngân hàng thương mại giảm mạnh. Từ tình hình trên, ngày 21/1/1998 NHNN đã phải nâng trần lãi suất bằng VND lên 1,2%/tháng đối với tín dụng ngắn hạn, 1,25%/tháng đối với tín dụng trung và dài hạn và 1,5%/tháng đối với quỹ tín dụng cho thành viên vay, đồng thời qui định xoá bỏ qui định mức chênh lệch lãi suất tiền gửi-cho vay 0,35%/tháng khiến cho chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi được cải thiện hơn nhưng vẫn còn quá thấp, không đủ đảm bảo lợi nhuận cho các ngân hàng thương mại. Đặc biệt trong năm 1999, trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam được thay đổi liên tục theo hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế. Từ ngày 1/2/1999, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định giảm trần lãi suất cho vay bằng VND của các ngân hàng thương mại quốc doanh áp dụng với khách hàng khu vực thành thị từ 1,2%/tháng xuống còn 1,1%/tháng đối với tín dụng ngắn hạn và từ 1,25%/tháng xuống còn 1,15%/tháng đối với tín dụng trung và dài hạn, các tổ chức tín dụng khác vẫn thực hiện theo mức trần lãi suất cho vay như điều chỉnh vào 21/1/1998. Từ ngày 1/6/1999, NHNN Việt Nam thống nhất hai mức lãi suất tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung và daì hạn là một và giảm xuống mức

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

46


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả 1,15%/tháng, lãi suất cho vay của hợp tác xã tín dụng và quỹ tín dụng nhân dân là 1,5%/tháng. Từ ngày 1/8/1999,NHNN tiếp tục giảm trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam từ 1,15% xuống còn 1,05%/tháng và áp dụng chung cho các tổ chức tín dụng cho vay ngắn, trung và daì hạn ở cả khu vực thành thị và nông thôn. Riêng trần lãi suất cho vay bằng VND của quỹ tín dụng nhân dân cơ sở cho thành viên vay vẫn giữ nguyên mức 1,5%/tháng và trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn giữ ở mức 1,15%/tháng như đã điều chỉnh ngày 1/6/1999. Từ ngày 4/9/1999, trần lãi suất cho vay bằng VND của các ngân hàng thương mại quốc doanh ở khu vực thành thị tiếp tục giảm xuống mức 0,95%/tháng, các mức lãi suất khác vẫn giữ nguyên. Từ ngày 25/10/1999, trần lãi suất cho vay bằng VND áp dụng ở khu vực thành thị là 0,85%/tháng ở khu vực nông thôn là 1%/tháng, lãi suất cho vay của NHTM cổ phần nông thôn, quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và hợp tác xã tín dụng vẫn giữ nguyên ở mức 1,5%/tháng. *Cơ sở của việc điều chỉnh lãi suất cho vay này là: Lạm phát 7 tháng đầu năm 1999 là 1,3 đến 2%, trong đó lạm phát hai tháng 1 và 2 là 3,6% đặc biệt các tháng 3,4,5,6,7 liên tục giảm phát ở mức – 0,7%, -0,6%, -0,3%, -0,4%. Lạm phát giảm thấp, đặc biệt là liên tục giảm phát trong vòng năm tháng đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, sức mua của thị trường giảm sút. Tỷ giá ngoại tệ ổn định trong nhiều tháng, đặc biệt là tháng 10/1998 đến nay, nay cả việc thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá vào tháng 2/1999 cũng không gây nên sự biến động nào về tỷ giá. Về hình thành cung cầu vốn tín dụng những tháng đầu năm 1999, tốc độ tăng số dư nợ tiền gửi so với dư nợ cho vay(tính đến tháng 5/1999) tốc độ

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

47


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả tăng tiền gửi là 9,3%, trong khi đó tốc độ tăng dư nợ cho vay là 5,2% so với đầu năm 1999. Mục đích của việc giảm trần lãi suất cho vay là nhằm đảm bảo tính phù hợp giữa mặt bằng lãi suất và tình hình lạm phát hiện nay, giảm bớt khó khăn cho người đi vay, thực hiện các giải pháp khuyến khích đầu tư, phát triển nội lực, khuyến khích phát triển kinh tế, đẩy mạnh việc cho vay vốn của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, tăng trưởng tín dụng, tạo cân đối cung cầu vốn tín dụng. *Đánh giá: Trên thực tế, việc hạn trần lãi suất cho vay trên có đạt được những mục đích đề ra hay không và nó đã hợp lý hay chưa? Có thể thấy, việc liên tiếp hạ trần lãi suất cho vay thực ra không hẳn là NHNN đã chủ động điều hành lãi suất ở tầm vĩ mô để định hướng cho việc tăng giảm khối lượng tín dụng mà chỉ chạy theo thực tế, bởi lẽ nhiều ngân hàng thương mại đã hạ lãi suất cho vay xuống mức 1%/tháng để thu hút khách hàng cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác trước khi NHNN hạ lãi suất cho vay. Bên cạnh đó, việc điều hành trần lãi suất cho vay của NHNN còn nảy sinh một số vấn đề cần xem xét. Trước hết ở nhiều nước trên thế giới, khi cần can thiệp sâu và trực tiếp vào việc điều hành lãi suất, các NHTƯ thường áp dụng tương quan lãi suất giữa trần lãi suất huy động và sàn lãi suất cho vay. Cách điều hành lãi suất như vậy là nhằm bảo vệ lợi ích các ngân hàng thương mại, đồng thời có tác dụng răn đe, giải toả tình trạng cạnh tranh qua lãi suất. Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam qui định ngược lại: sàn lãi suất huy động và trần lãi suất cho vay. Điều này có nghĩa là chính sách lãi suất mà Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam đưa ra quan tâm hơn đến việc bảo vệ lợi ích

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

48


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả cho người gửi tiền và người vay vốn. Trong cơ chế điều hành lãi suất như vậy, lợi ích của các ngân hàng thương mại không được quan tâm đầy đủ. Việc NHNN liên tục hạ trần lãi suất cho vay gây ra các khó khăn cho các ngân hàng thương mại trong việc hạ lãi suất đầu vào dẫn đến chênh lệch lãi suất ngày càng thu hẹp. Điều này dường như đã biến các ngân hàng thương mại thành các ngân hàng chính sách, cho vay dưới giá thành, bao cấp cho các doanh nghiệp. Thứ hai, vấn đề về bước đi và tiến độ thực hiện hạ trần lãi suất cho vay, biên độ giá trần lãi suất cho vay giữa các lần khá lớn. Khoảng cách giữa các lần hạ lãi suất cho vay quá gần nhau. Điều này làm cho hoạt động của các ngân hàng thương mại chưa kịp ổn định sau khi hạ trần lãi suất lần trước đã bị xáo động bởi đợt hạ trần lãi suất lần này. Tình trạng này dẫn đến việc các ngân hàng thương mại rất dè dặt trong việc huy động vốn, nhất là nguồn vốn dài hạn, do lo sợ sẽ tiếp tục lỗ khi hạ trần lãi suất lần tới. Đồng thời tình trạng này còn nảy sinh ở khách hàng tâm lý chần chừ trong việc vay tiền của ngân hàng để chờ lãi suất cho vay hạ thấp hơn. Trên thực tế đã xuất hiện hiện tượng khách hàng vay ở ngân hàng này với lãi suất thấp để trả nợ cũ với lãi suất cao hơn ở ngân hàng khác. Đây là một yếu tố cản trở việc giaỉ toả vốn ứ đọng trong các ngân hàng thương mại và hạn chế việc mở rộng vốn tín dụng. Trong lần hạ trần lãi suất cho vay ngày 1/8/1999, do có chiếu cố đến mức độ rủi ro và chi phí hoạt động lớn của các ngân hàng thương mại cổ phần nên NHNN chỉ hạ trần lãi suất cho vay đối với các NH quốc doanh, giữ nguyên trần lãi suất cho vay áp dụng đối với các ngân hàng thương mại cổ phần. Đây có vẻ như là một ưu đãi của NHNN đối với các ngân hàng thương mại cổ phần. Tuy nhiên vấn đề không đơn giản như vậy, khi các ngân hàng thương mại quốc doanh, nhất là các ngân hàng lớn, đã giảm lãi suất cho vay

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

49


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả thì ngân hàng thương mại cổ phần với mức cho vay cũ, khách hàng của họ sẽ chuyển sang vay vốn của các ngân hàng thương mại quốc doang với mức lãi suất thấp hơn. Kết quả là ngân hàng thương mại cổ phần sẽ mất khách hàng nếu không hạ mức lãi suất cho vay. Thứ ba, đi với việc hạ trần lãi suất cho vay, một vấn đề gay cấn được đặt ra là hạ lãi suất huy động. Theo cơ chế điều hành lãi suất hiện nay, NHNN tự ấn định và không qui định chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động, đây là một dư địa mà các ngân hàng thương mại có thể cùng thống nhất tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của mình. Nhưng thực tế khá phức tạp và còn có nhiều vướng mắc: Trong khi phải hạ trần lãi suất cho vay theo chỉ đạo của NHNN thì các ngân hàng thương mại không thể hạ ngay lãi suất huy động vì độ trễ lớn, chưa đến hạn khách hàng rút tiền ra, ngân hàng thương mại vẫn phải áp dụng mức lãi suất như cũ. Đối với ngân hàng thương mại quốc doanh lớn, có uy tín cao việc hạ lãi suất đầu vào có thể diễn ra nhanh hơn, mạnh hơn mà không sợ khách hàng rút tiền ồ ạt. Trong khi đó các ngân hàng thương mại cổ phần ít có khả năng như vậy nên buộc phải duy trì mức lãi suất huy động cao như ngân hàng thương mại quốc doanh để giữ khách. Tốc độ hạ lãi suất huy động của các ngân hàng cổ phần chậm hơn nhiều. Đây là điểm bất lợi trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại cổ phần. NHTM cổ phần nhỏ ít có khả năng thu hút tiền gửi tại doanh nghiệp lớn. Do đó tỷ trọng tiền gửi thanh toán với lãi suất thấp hoặc không phải trả lãi suất trong tổng nguồn vốn của các ngân hàng không đáng kể so với các ngân hàng lớn có lợi thế đặc biệt. Nguồn vốn của các ngân hàng nhỏ chủ yếu là tiết kiệm của dân cư gửi vào, phải huy động với lãi suất cao.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

50


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả Nguồn vốn huy động của các ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn còn rất hạn chế. Khu vực nông thôn chỉ có thế tự cấp được 30% nhu cầu vốn, phần còn lại phải trông chờ vào thị trường vốn thành thị. Nếu hạ lãi suất quá mạnh sẽ khó thu hút được nguồn vốn. Vì vậy việc hạ lãi suất huy động vủa các ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn là khó khăn, khả năng mở rộng tín dụng hạn chế. Thời gian qua, nhiều ngân hàng thương mại quốc doanh huy động vốn cho các chương trình đầu tư theo chỉ định cuả Nhà nước, trở thành các ngân hàng chính sách nên những ngân hàng này không quan tâm đến việc hạ lãi suất huy động. Bên cạnh đó, Chính phủ huy động vốn bằng cách phát hành công trái đã đưa lãi suất huy động lên cao(13%/năm). Tình hình nói trên đã đã gây khó khăn lớn đến khả năng hạ lãi suất đầu vào của các ngân hàng thương mại. Nhiều người nhận định rằng với khả năng thiểu phát, sản xuất trì trệ, tìm kiếm lợi nhuận khó khăn như hiện nay, có thể hạ lãi suất đầu vào hơn nữa mà không ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn. Nhận định này đã sai với thực tế. Theo ông Trịnh Công Thắng-Phó tổng giám đốc ngân hàng Công thương Việt Nam- thì trong năm 1999 ngân hàng Công thương Việt Nam đã chủ động hạ lãi suất 4 lần nhưng tiền gửi vẫn tăng; tám tháng đầu năm 1999; dư nợ cho vay cuả ngân hàng Công thương chỉ tăng 13%, trong khi tốc độ tăng tiền gửi hơn 20%. Tuy nhiên với những điểm như đã trình bày ở trên vẫn cần phải hết sức quan tâm đến biên độ hạ trần lãi suất nhằm đề phòng người gửi tiền rút tiền ồ ạt dẫn đến tình trạng mất khả năng chi trả của các ngân hàng thương mại. Thứ tư, việc ngày càng thu hẹp chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động dẫn đến nguy cơ thua lỗ đối với nhiều ngân hàng thương mại.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

51


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả Qua các đợt hạ trần lãi suất cho vay với biên độ lớn, các ngân hàng thương mại do những nguyên nhân phân tích ở trên không hạ được lãi suất hoạt động, đã nhanh chóng thu hẹp mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động. Do đó các ngân hàng bị đặt trước nguy cơ thua lỗ. Do các yếu tố sau mà các ngân hàng thương mại ít có khả năng mở rộng biên độ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động: -Trình độ trang bị kỹ thuật thấp, khó giảm chi phí nghiệp vụ và chi phí quản trị kinh doanh ngân hàng, nhất là các ngân hàng hoạt động ở khu vực nông thôn. - Các ngân hàng thương mại phải trả các khoản huy động được đưa vào dự trữ bắt buộc và được giữ lại làm các khoản dự phòng thanh khoản không sinh lời, các ngân hàng thương mại vẫn phải trả lãi cho người gửi tiền. Một số ngân hàng đã tính thử và cho thấy rằng mới chỉ tính tổng bốn yếu tố là chi phí nghiệp vụ, dự trữ bắt buộc, dự trữ tài khoản và bảo hiểm tiền gửi đã lên tới 0,55%/tháng. Đó là chưa kể đến nợ khoanh, nợ khó đòi và trích lập dự phòng rủi ro. Năm 1997, khi Quốc hội qui định mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động là 0,35%/tháng, nhiều ngân hàng thương mại lúc đó gặp khó khăn. Hiện nay mức chênh lệch này chỉ còn 0,1- 0,14%/ tháng, thậm chí mức chênh lệch này ở một số ngân hàng thương mại đã âm hoặc có nguy cơ âm. Các ngân hàng thương mại đều đang đứng trước nguy cơ thua lỗ. Tuy nhiên so với những khó khăn của ngân hàng thương mại cổ phần thì những khó khăn mà các ngân hàng thương mại quốc doanh gặp phải nhẹ hơn. Bởi lẽ các ngân hàng này có qui mô hoạt động lớn hơn và điều quan trọng hơn là các ngân hàng thương mại quốc doanh đã và đang tham gia kinh doanh dịch vụ và hoạt động trên thị trường tiền tệ, lấy các khoản thu trong hoạt động

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

52


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả trên thị trường tiền tệ bù đắp các khoản lỗ trong hoạt động tín dụng. Còn các ngân hàng thương mại cổ phần thì không có khả năng này. Thứ năm, việc áp dụng chung một trần lãi suất cho vay đối với cả tín dụng ngắn, trung và dài hạn là điều bất hợp lý. Nhiều năm trước đây, trong hệ thống lãi suất của Việt Nam đã từng không có sự phân biệt giữa lãi suất ngắn, trung và dài hạn, điều này khiến cho các ngân hàng thương mại chỉ có khả năng cho vay ngắn hạn để duy trì qui mô sản xuất cũ, không có hoặc ít có khả năng cho vay dài hạn để xây dựng cơ sở vật chất mới. Sau nhiều năm điều chỉnh đã có sự phân biệt giữa các loại lãi suất thì đến ngày 1/8/1999 một trần lãi suất cho vay được áp dụng cho cả ngắn trung và dài hạn. Thông thường lãi suất cho vay trung và dài hạn bao giờ cũng cao hơn lãi suất ngắn hạn. Nếu dồn tất cả vào một mức lãi suất thì làm sao có thể huy động nguồn vốn trung và dài hạn được. Đầu tư trung và dài hạn tất nhiên có rủi ro cao hơn ngắn hạn, với mức lãi suất đồng nhất như vậy thì làm sao có thể bù đắp được? Ta thấy việc hạ trần lãi suất là do lạm phát quá cao, và xuất phát từ động cơ kích cầu(khuyến khích tiêu dùng và đầu tư) nhưng với sự điều chỉnh trần lãi suất như trên đã dẫn đến một nghịch lý: khối lượng vốn vay ngân hàng của các doanh nghiệp hầu như không tăng trong khi lượng vốn tồn đọng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam còn rất lớn và dân chúng tiếp tục gửi tiền vào ngân hàng. Bởi lẽ, trong bối cảnh lãi suất giảm liên tục các số liệu trên cho thấy những người gửi tiền vẫn kỳ vọng vào việc gửi tiền ở ngân hàng để có lãi suất cao, cho dù lãi suất ngày càng thấp hơn là việc bỏ tiền vào đầu tư. Trong điều kiện hiện nay có được một dự án đầu tư mang laị lợi nhuận 6-7% không phải là dễ dàng. Hơn nữa trong điều kiện lạm phát sáu tháng đầu năm 1999 chỉ ở mức 2,3%, lãi suất tiền gửi ngắn hạn là

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

53


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả 0,85%/tháng thì mức lãi suất thực là 7,9% như hiện vẫn khuyến khích những người có tiền gửi vào ngân hàng làm cho ngành ngân hàng càng thừa vốn. Hạ lãi suất cho vay không chỉ nhằm mục tiêu kích cầu mà còn mục tiêu khác là tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kém hiệu quả, đang bị thua lỗ hoặc có nguy cơ thua lỗ ngày càng trầm trọng. Có thể coi đây là động cơ thứ ba của việc hạ trần lãi suất cho vay. Tuy nhiên việc hạ trần lãi suất cho vay được áp dụng theo cách thức như vậy khó có tác dụng kích cầu như mục tiêu đặt ra. Nói tóm lại, cơ chế quản lý bằng lãi suất trần mang nặng tính chủ quan của NHNN, nó không phù hợp với sự biến đổi của nền kinh tế nói chung và quan hệ cung cầu vốn nói riêng, từ đó làm phát sinh những vấn đề không có lợi cho sự phát triển của hệ thống NHTM cũng như toàn bộ nền kinh tế. Do đó yêu cầu hạn chế, dỡ bỏ mọi sự áp đặt, can thiệp kiểm soát hành chính về mặt lãi suất là một tất yếu khách quan. Mục tiêu là phải để thị trường tự quyết định lãi suất thích hợp cho nó. Dựa vào đó NHNN can thiệp một cách gián tiếp thông qua thị trường tiền tệ mới có thể thực hiện mục tiêu một cách linh hoạt, đúng hướng, và có hiệu quả. 5.Giai đoạn từ 5/8/2000 đến 1/6/20002 Quyết định số 244/QĐ-NHNN1 ngày 2/8/2000 qui định từ ngày 5/8 cơ chế điều hành trần lãi suất sẽ được thay thế bằng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng Việt Nam và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ. Theo đó các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng trên cơ sở: Lãi suất cho vay = Lãi suất cơ bản + hoặc – biên độ giao động lãi suất cơ bản

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

54


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả Biên độ giao động này do Ngân hàng Nhà nước qui định và công bố. Thống đốc NHNN Việt Nam đã quyết định mức lãi suất cơ bản và biên độ giao động như sau: VND Lãi suất cơ bản

0,75%/tháng

USD SIBOR 3,6 tháng

(9%/năm) Biên độ đối với cho vay ngắn hạn Biên độ đối với

+0,3%/tháng

+1%/năm

(3,6%/năm) +0,5%/tháng

+2,5%/năm

cho vay trung và dài (6%/năm) hạn Lãi suất cho vay tối đa ngắn hạn Lãi suất cho vay tối đa trung và dài hạn

1,05%/tháng (12,6%/năm)

SIBOR 3 tháng +1%/năm

1,25%/tháng

SIBOR 6tháng

(15%/năm)

+2,5 năm

(SIBOR: laĩ suất đôla Mỹ trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng Singapore) Lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước đưa ra dựa trên nguyên tắc tham khảo mức lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường đối với các khách hàng có uy tín của một nhóm ngân hàng thương mại, trong đó có bốn ngân hàng thương mại quốc doanh, hai ngân hàng thương mại cổ phần, hai chi nhánh ngân hàng nước ngoài và một ngân hàng liên doanh. 1. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 2. Ngân hàng Công thương Việt Nam

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

55


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả 3. Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam 4. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam 5. Ngân hàng Thương mại cổ phần á Châu 6. Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội 7. Ngân hàng ANZ 8. Ngân hàng Hồng Kông và Thượng Hải 9. Ngân hàng VID Public Thực tế trong khoảng thời gian từ tháng 8/2000 đến tháng 5/2002, lãi suất cơ bản điều chỉnh tương đối phù hợp với việc thực thi chính sách tiền tệ “nới lỏng” một cách thận trọng; với biên độ khá rộng, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho phù hợp với quan hệ cung cầu vốn ở thành thị và nông thôn.(Xem phụ lục 2) --> Đánh giá Cơ chế lãi suất cơ bản đã thể hiện một bước đổi mới cơ bản là NHNN đã điều hành lãi suất theo tín hiệu thị trường, chú trọng đến cung- cầu vốn tín dụng và mục tiêu của chính sách tiền tệ. Lãi suất cơ bản cộng với một biên độ xác định trong từng thời kỳ, mặc dù vẫn còn mang tính chất hành chính, nhưng sự can thiệp chỉ mang tính qui định và nguyên tắc chung của NHNN mà không qui định cụ thể, trực tiếp các mức lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng. Việc điều chỉnh các mức lãi suất cơ bản hàng tháng một cách linh hoạt đã tạo điều kiện bám sát thị trường, cung cầu vốn tín dụng, huy động tối đa nguồn lực trong nước phục vụ cho đầu tư phát triển, tạo khả năng cho thị trường tài chính phát triển theo chiều sâu, đáp ứng mục tiêu của chính sách tiền tệ, đảm bảo sự kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước trên thị trường tiền tệ.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

56


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả Tuy nhiên, nhìn lại cơ chế điều hành lãi suất cơ bản thời gian vừa qua, chúng ta vẫn thấy một số tồn tại: Lãi suất cơ bản được cộng thêm một biên độ (0,3% đối với vay ngắn hạn và 0,5% đối với vay trung và dài hạn) thực chất đã tạo nên một trần lãi suất tối đa cho các tổ chức tín dụng được phép cho vay. So với mức lãi suất cơ bản được công bố đầu tiên vào tháng 8/2000 là 0,75%/tháng và hiện nay là 0,6%/tháng, thì biên độ này được xem như khá rộng cho các tổ chức tín dụng định đoạt các mức lãi suất cho vay, kể cả cộng thêm các khoản phí liên quan đến khoản vay mà không vượt quá biên độ tối đa cho phép. Nhưng trên thực tế, sau gần hai năm áp dụng cơ chế lãi suất cơ bản cho thấy, biên độ lãi suất này phù hợp với các tổ chức tín dụng Nhà nước và các khoản tín dụng cho khu vực thành thị. Còn đôí với các tổ chức tín dụng cổ phần (trừ quỹ tín dụng nhân dân được áp dụng cho vay thành viên theo mức lãi suất qui định riêng) và các khoản tín dụng cho vay khu vực nông thôn chưa thoả đáng. Lãi suất cho vay ở địa bàn nông thôn chưa bám sát biên độ, làm cho lãi suất nhiều khi không phản ánh đúng cung cầu vốn thị trường, các tổ chức tín dụng gặp trở ngại trong việc huy động và cho vay vốn. Do việc khống chế biên độ làm cho các tổ chức tín dụng không thể phản ứng kịp thời để phòng tránh rủi ro về lãi suất và thanh khoản khi lãi suất thị trường tiền tệ trong và ngoài nước biến động theo hướng tăng, chênh lệch lãi suất cho vay và huy động bị thu hẹp do lãi suất huy động tăng nhưng lãi suất cho vay không tăng. Cơ chế lãi suất có sự kiểm soát bằng công cụ hành chính không phù hợp với yêu cầu của việc phát huy và khai thác vốn nội lực đáp ứng yêu cầu Công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, vì với tư cách là “hàng hoá”, nó vận hành theo quan hệ cung-cầu, nếu lãi suất thấp việc huy động vốn sẽ khó khăn.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

57


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả 6.Giai đoạn từ 1/6/20002 đến nay: Ngày 30/05/2002, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 564/2002/QĐ-NHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Đây là bước chuyển đổi quan trọng, mạnh mẽ và cần thiết trong chính sách tín dụng, phù hợp với nguyên tắc thị trường, nhằm đảm bảo nguồn lực tài chính được sử dụng và phân bổ một cách hiệu quả hơn. Theo cơ chế lãi suất thoả thuận thì chẳng cần ai phát động, cả kinh tế đều phải chuyển động – một sự chuyển động tự giác có mục tiêu, biện pháp phù hợp để có thể đững vững và phát triển trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt trên thương trường. Như vậy, cơ chế lãi suất thoả thuận có thể xem như là một tác nhân chủ yếu làm tan biến mọi sự bảo thủ, trì trệ, sức ỳ, sự ỷ lại vốn có của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, góp phần quan trọng vào việc thực hiện tốt chính sách kinh tế xã hội của đất nước như vấn đề cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xoá đói giảm nghèo, chống tham nhũng, công bằng xã hội… Tuy nhiên, do những điều kiện cần thiết, chủ yếu, có tính nguyên tắc đều được tính toán, tôn trọng khi thực hiện lãi suất thoả thuận, tiến đến tự do hoá lãi suất như môi trường kinh tế vĩ mô thực sự ổn định, hệ thống tài chính vững mạnh, dự trữ quốc gia và ngoại tệ đủ mạnh, môi trường pháp lý hoàn chỉnh, sự phát triển đồng đều cả về năng lực tài chính và trình độ quản lý giữa các thành phần kinh tế, kinh nghiệm về xây dựng, quản lý điều hành, giảm sát và tác động vào mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia theo theo cơ chế thị trường…vẫn chưa hội đủ, nên trước mắt “NHNN Việt Nam vẫn tiếp tục công bố lãi suất cơ bản trên cơ sở tham khảo và định hướng lãi suất thị

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

58


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả trường, phù hợp với qui định của Luật NHNN Việt Nam, đồng thời chủ động áp dụng các biện pháp để kiểm soát biến động của lãi suất thị trường, đảm bảo được yêu cầu và mục tiêu cuả chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ”. Rõ ràng là với qui định này thì việc thoả thuận giữa người đi vay và người cho vay không hề đồng nghĩa với việc thả nổi hoàn toàn lãi suất. Rằng buộc này nhằm mục đích tạo ra một sân chơi lành mạnh, bình đẳng cho các tổ chức tín dụng cũng như các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn để đi đúng “định hướng lãi suất thị trường” như đã qui định ở điều 2/ quyết định 546. Theo các nhà kinh tế, quá trình chuyển đổi việc điều hành chính sách tiền tệ bằng công cụ trực tiếp sang gián tiếp(lãi suất) được chia thành 4 giai đoạn như sau: Giai đoạn 1:Các giao dịch tài chính được thực hiện trên cơ sở kế hoạch hoá tập trung và Ngân hàng Trung ương có rất ít vai trò độc lập trong điều hành chính sách tiền tệ. Trong giai đoạn này, NHTƯ điều hành chính sách tiền tệ thông qua việc sử dụng các công cụ trực tiếp để kiểm soát khu vực ngân hàng như ấn định lãi suất hay qui định trần tín dụng. Ngoài ra NHTƯ có thể sử dụng các công cụ gián tiếp không dựa trên cơ sở thị trường như công cụ dự trữ bắt buộc. Giai đoạn 2:Xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung và thực hiện tự do hoá giá cả. Tuy nhiên ở giai đoạn này, NHTƯ vẫn chưa có nhiều chức năng điều hành tiền tệ thông qua các công cụ gián tiếp, nên vẫn sử dụng các công cụ trực tiếp. Giai đoạn 3: Từng bước tự do hoá hệ thống tài chính và lãi suất đi kèm với chương trình cổ phần hoá; xoá bỏ cơ chế bù đắp thâm hụt ngân sách từ NHTƯ, cạnh tranh từ thị trường tín dụng tăng lên. Tính độc lập của NHNN trong điều hành chính sách tiền tệ được thể hiện thông qua các văn bản pháp luật. Tuy nhiên trong giai đoạn này còn tồn tại một số mất cân đối lớn về

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

59


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả kinh tế vĩ mô. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ được sử dụng trong thời kỳ này là các công cụ trực tiếp có nhiều tính thị trường hơn như lãi suất cơ bản, dự trữ bắt buộc, laĩ suất tái chiết khấu. Giai đoạn 4: Thiết lập một nền kinh tế thị trường. Trong giai đoạn này, Chính phủ có khả năng giảm thiểu những mất cân đối vĩ mô bằng chính sách tài khoá, hoặc phối hợp sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ trực tiếp và gián tiếp. Đặc trưng quan trọng của hệ thống tài chính trong giai đoạn này là thị trường tài chính được thống nhất và hoạt động trên cơ sở cạnh tranh, lãi suất được tự do hoá hoàn toàn và NHTƯ sử dụng nghiệp vụ thị trường mở một cách hiệu quả hơn trong việc điều hành chính sách tiền tệ. NHTƯ có thể dựa hoàn toàn vào các công cụ gián tiếp có tính thị trường để điều tiết tỷ giá và laĩ suất. Các biện pháp kiểm soát trực tiếp có thể bị bãi bỏ, nhưng trong tình trạng khẩn cấp có thể sử dụng lại để chuyển vốn chỉ diễn ra đối với một số các ngân hàng có quan hệ vay mượn thường xuyên và chỉ theo một chiều giữa nhóm ngân hàng thường cho vay và nhóm ngân hàng thường đi vay. NHNN gặp khó khăn trong việc thu thập thông tin về hoạt động thương mại trên thị trường, do đó còn hạn chế trong việc dự báo tăng hay giảm vốn khả dụng trong hệ thống ngân hàng, thị trường mở mặc dù đã đi vào hoạt động, nhưng chưa sôi động và ít thành viên tham gia. Hệ thống báo cáo trong khu vực ngân hàng chưa được kiện toàn thống nhất. Đây là nguyên nhân làm cho công tác thu thập thông tin chưa có hiệu quả`. Do đó NHNN gặp nhiều khó khăn trong phân tích và dự báo cầu tiền dự trữ trong hệ thống ngân hàng. Thêm vào đó, trình độ chuyên môn của các cán bộ ngân hàng trực tiếp làm việc trong lĩnh vực này còn có hạn chế. Ngoài ra, khi áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận VND (khâu cuối cùng để chuyển sang cơ chế điều hành chính sách tiền tệ bằng công cụ gián tiếp), một số thách thức đối với khu vực nông thôn cũng cần được cân nhắc. Việc

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

60


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả huỷ bỏ các qui địng về lãi suất cho vay có thể gây biến động lãi suất ở giai đoạn đầu áp dụng cơ chế cho vay theo thoả thuận, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, nơi thường xuyên không huy động đủ khối lượng vốn cần. Mặt khác, cần có công tác thông tin, tuyên truyền để người dân hiểu rõ xu hướng lãi suất theo diễn biến thị trường là tất yếu và họ có đủ thông tin về mặt bằng lãi suất. Lãi suất thoả thuận mới được đưa vào áp dụng ở Việt Nam từ ngày 1/6/2002 nên chưa thể có ngay những đánh giá về hiệu quả của nó. Vấn đề đặt ra hiện nay là Ngân hàng Nhà nước phải tăng cường điều kiện xúc tác cho cơ chế mới có hiệu quả, thúc đẩy nhanh quá trình tiến tới tự do hoá lãi suất.

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

61


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả I.Tác động tích cực và tính tất yếu của việc thay đổi cơ chế lãi suất theo hướng thị trường. Sự ra đời của cơ chế lãi suất thoả thuận đã tạo ra một dư luận tích cực trong đời sống kinh tế-xã hội. Với cơ chế này, người ta tin tưởng rằng những bất hợp lý, thiếu công bằng trong hoạt động tín dụng sẽ dần dần bị xoá bỏ. Vấn đề ưu tiên, ưu ái cho doanh nghiệp nọ, xí nghiệp kia trong hoạt động vay vốn của ngân hàng ( thông qua lãi suất ), sẽ được thay thế bằng “ thuận mua, vừa bán” giữa các tổ chức tín dụng với khách hàng trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam. Theo nguyên tắc này, các tổ chức tín dụng sẽ tìm mọi cách để có nguồn vốn rẻ nhất, chi phí hoạt động thấp nhất và khách hàng làm ăn có hiệu quả nhất, ngược lại khách hàng cũng sẽ tìm đến tổ chức tín dụng có lãi suất cho vay thấp nhất, hoạt động bền vững nhất. Hơn nữa sự ra đời của cơ chế lãi suất thoả thuận còn góp phần quan trọng vào việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế – xã hội khác của đất nước như vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế… Tuy nhiên việc đánh giá, bình luận về những mặt hay, tốt cần phải qua thời gian cọ sát với thực tế cuộc sống. Ơ đây tôi chỉ xin đề cập đến một số khía cạnh cơ bản. Trước đây cũng như hiện nay có một số ý kiến cho rằng: cơ chế lãi suất thoả thuận ra đời quá sớm, chưa hội đủ cần thiết cho nó hoạt động. Theo những ý kiến này để có cơ chế lãi suất thoả thuận, cần phải đảm bảo các điều kiện sau đây: - Một môi trường pháp lý hoàn chỉnh. - Sự phát triển đồng đều giữa các thành phần kinh tế (năng lực tài chính và trình độ quản lý xấp xỉ với nhau giữa các doanh nghiệp).

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

62


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả Phải khẳng định rằng, đây là những điều kiện không thể thiếu cho quá trình vận hành cơ chế lãi suất thoả thuận. Trên thực tế, rất khó đạt được môi trường pháp lý hoàn chỉnh vì sự vận động và phát triển không ngừng của các vấn đề kinh tế xã hội buộc người ta phải thường xuyên điều chỉnh, sửa đổi bổ sung điều luật này hay điều luật kia. Ví dụ ở Việt Nam, mặc dầu luật Ngân hàng Nhà Nước và luật các Tổ chức tín dụng mới qua được 4 năm thực hiện nhưng rõ ràng đã xuất hiện nhiều vấn đề cần phải sửa đổi, bổ sung… Còn về điều kiện sự đồng đều giữa các thành phần kinh tế, chúng ta có thể thấy rằng đây cũng là điều kiện thuận lợi cho cơ chế lãi suất thoả thuận hoạt động tốt. Tuy nhiên để có điều kiện này không phải ngày một ngày hai mà cần qua cả một quá trình phát triển lâu dài trên tất cả các lĩnh vực, các mặt khác nhau của đời sống kinh tế-xã hội. Và trong điều kiện cụ thể ở nước ta thì điều kiện này càng trở nên khó khăn hơn, bởi đối với nước ta ngay cả ở những thành phố phát triển nhất cũng có sự chênh lệch nhất định về mặt này huống chi là những vùng hay khu vực miền núi, hải đảo xa xôi nơi mà những thành tựu của quá trình đổi mới còn quá hạn chế. Vậy cho nên, chờ được đến lúc hội đủ các điều kiện như trên thì không biết đến bao giờ? Bên cạnh những điều kiện nêu trên thì một điều kiện mà các doanh nghiệp hết sức quan trọng mà các doanh nghiệp vô cùng quan tâm, đó là: sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và cụ thể là chính sách của Nhà nước trong việc vay vốn của các doanh nghiệp. Khi có cơ chế lãi suất thoả thuận, họ sẽ là thượng đế của ngân hàng nếu họ đáp ứng đủ các điều kiện vay vốn chứ không phải như hiện nay là làm thế nào để được vay vốn với lãi suất ưu đãi. Và cũng chính từ đây nảy sinh nhiều chuyện tiêu cực như: bồi dưỡng, lót tay… Còn có những ý kiến cho rằng khi thực hiện chính sách lãi suất này thì vai trò kiểm soát của NHNN không còn nữa. Tuy nhiên có thể khẳng định

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

63


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả rằng ý kiến này hoàn toàn sai lầm. Điều 2 của Quyết định 546 của Chính phủ có qui định rằng: “NHNN Việt Nam tiếp tục công bố lãi suất cơ bản trên cơ sở tham khảo và định hướng lãi suất thị trường, phù hợp với qui định của luật NHNN, đồng thời chủ động có biện pháp để kiểm soát biến động của lãi suất thị trường, đảm bảo được yêu cầu và mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ”. Như vậy cơ chế lãi suất thảo thuận giưã người đi vay và người cho vay không hề đồng nghĩa với việc thả nổi hoàn toàn lãi suất. Đối với Việt Nam, quá trình thay đổi cơ chế lãi suất theo hướng thị trường có những tác động tích cực đối với nền kinh tế và thị trường tài chính-tiền tệ, biểu hiện như sau: Một là, việc “nới lỏng” cơ chế điều hành lãi suất theo hướng thị trường đã tạo khả năng cho thị trường phát triển theo chiều sâu. Hai là, sự thay đổi của chính sách lãi suất là phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, nhưng cũng chính yêu cầu phát triển nền kinh tế, tiền tệ hoá các mối quan hệ kinh tế và sự hình thành các nhân tố kinh tế thị trường đã buộc chính sách lãi suất phải có sự “nới lỏng” để chuyển dần sang cơ chế lãi suất thảo thuận nhằm tạo điều kiện cho việc huy động tối đa nguồn lực trong nước phục vụ cho đầu tư phát triển và đồng bộ với tổng thể chính sách kinh tế-tài chính-đối ngoại (vốn huy động và tín dụng đối với nền kinh tế tăng trưởng trên 20%/năm; vốn tín dụng cung ứng cho nền kinh tế tuy tăng trưởng mức cao, năm 1991 tương đương 21% GDP, năm 2001 là 40%. Ba là, việc “nới lỏng” cơ chế lãi suất, làm cho lãi suất tự điều chỉnh linh hoạt và phù hợp hơn với quan hệ cung cầu vốn thị trường, các luồng vốn được lưu chuyển đến nơi có lợi nhuận cao với mức rủi ro thấp, nâng cao hiệu quả đầu tư, thúc đẩy việc các ngân hàng thương mại phát triển nhanh chóng mạng lưới chi nhánh ở thành thị, nông thôn, đưa ra các mức lãi suất, sản phẩm dịch vụ thích hợp cho các khách hàng.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

64


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả Bốn là, quá trình chuyển dần sang cơ chế lãi suất thoả thuận đi liền với quá trình nới lỏng kiểm soát ngoại hối và thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt làm cho lãi suất trong nước bám sát hơn lãi suất quốc tế, việc huy động vốn trong nước và nước ngoài tăng lên tài trợ cho nhu cầu vốn tín dụng trong nước. Năm là, quá trình chuyển dần sang cơ chế lãi suất thoả thuận làm cho mức biến động ngày càng tăng của các luồng vốn đầu tư, NHNN phải sử dụng và phát huy nhiều hơn các công cụ gián tiếp để điều hành chính sách tiền tệ, tăng cường kiểm soát rủi ro tín dụng và phát triển đồng đều các bộ phận của thị trường tiền tệ. Sáu là, sau mỗi giai đoạn nới lỏng cơ chế điều hành lãi suất, việc huy động vốn và mở rộng cho vay của tổ chức tín dụng được thuận lợi hơn. Bảy là, ngân sách Nhà nước có điều kiện huy động được tối đa nguồn lực trong nước để bù đắp thâm hụt, thay vì đi vay nước ngoài quá lớn hoặc sử dụng tiền phát hành. Như vậy, với các điêù kiện tổng thể nền kinh tế trong những năm qua, việc áp dụng cơ chế điều hàng lãi suất theo hướng thị trường là bước đi thích hợp. Mặc dù vậy, nó cũng có những tồn tại nhất định: +Về thực chất, cơ chế lãi suất cơ bản vẫn còn sự can thiệp hành chính của Nhà nước, thể hiện ở việc khống chế biên độ. Trên thực tế lãi suất cho vay và huy động của tổ chức tín dụng ở địa bàn thành thị về cơ bản đã thực hiện theo cơ chế lãi suất thoả thuận; đối với điạ bàn nông thôn lãi suất cho vay chưa bám sát biên độ, làm cho lãi suất nhiều khi không phản ánh đúng nhu cầu vốn trên thị trường, các tổ chức tín dụng gặp trở ngại trong việc huy động vốn và cho vay vốn. +Do việc khống chế biên độ làm cho các tổ chức tín dụng không thể phản ứng kịp thời để phòng tránh rui ro về lãi suất và thanh khoản khi lãi

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

65


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả suất thị trường tiền tệ trong và ngoài nước biến động theo hướng tăng, chênh lệch lãi suất cho vay và huy động thu hẹp do lãi suất huy động tăng nhưng lãi suất cho vay không tăng. +Cơ chế lãi suất có sự kiểm soát bằng công cụ hành chính không phù hợp với yêu cầu của việc phát huy và khai thác nguồn vốn nội lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Những tác động tích cực của cơ chế lãi suất này đã cho chúng ta thấy việc áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận này là một tất yếu nếu chúng ta muốn tiếp tục đổi mới nền kinh tế. Tuy bên cạnh đó vẫn còn có những tồn tại nhưng vẫn có thể khắc phục đựơc hoặc ít nhất là giảm thiểu tác động tiêu cực đối vơí nền kinh tế Việt Nam. II.Định hướng của NHNN đối với chính sách lãi suất hiện nay. 1.Những nguyên tắc cơ bản cần quán triệt khi đổi mới chính sách lãi suất. Một là: Điều chỉnh lãi suất phải xuất phát từ quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường tiền tệ. Lãi suất là giá cả của việc sử dụng vốn, mà vốn cũng như hàng hoá khác, vì vậy giá của nó sẽ được xác định tại điểm cân bằng cung cầu trên thị trường tìên tệ. Hai là: Việc điều chỉnh lãi suất phải đảm bảo lợi ích cả ba bên: người đi vay, người cho vay, và ngân hàng thương mại dựa trên nguyên tắc tài sản: Lạm phát < lãi suất huy động < lái suất cho vay < tỷ suất lợi nhuận bình quân. lãi suất ngắn hạn < lãi suất dài hạn. Ba là: Điều chỉnh lãi suất phải đảm bảo lợi ích của toàn nền kinh tế nói chung. Lãi suất là công cụ của NHNN để thực hiện chính sách tiền tệ. Do đó dù có thay đổi theo hướng nào thì vẫn phải đảm bảo từng mục tiêu chính

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

66


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả sấch tiền tệ đề ra, đó là: ổn định giá trị đồng tiền, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo công ăn việc làm. 2.Định hướng về chính sách lãi suất. Hiện nay nền kinh tế thế giới đang vận động theo hướng hợp tác hoá, toàn cầu hoá. Nền kinh tế Việt Nam từ khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường thiết lập nền kinh tế mở cũng nằm trong vòng vây đó. Đây cũng là con đường duy nhất thúc đẩy nền kinh tế mỗi quốc gia phát triển và như vậy trong xu hướng toàn cầu hoá việc xem xét lãi suất của mỗi quốc gia đương nhiên không thể tách rời khỏi sự biến động của lãi suất trên thị trường thế giới. Để xác định hướng điều hành lãi suất ở Việt Nam trước tiên ta phải xem xét xu hướng biến động của lãi suất trên thị trường quốc tế hiện nay và kinh nghiệm một số nước có điều kiện gần giống với Việt Nam để từ đó vận dụng một cách sáng tạo và phù hợp với hoàn cảnh nước nhà. Xu hướng điều chỉnh lãi suất của Việt Nam là theo hướng tự do hoá. Thực sự xu hướng tự do lãi suất đã và vẫn luôn là xu hướng đúng đắn, nó phản ánh sát nhất quan hệ cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. Điều này được minh chứng thông qua một số lập luận như sau: -Lãi suất được tự do hoá sẽ linh hoạt hơn so với lãi suất bị kiểm soát và có khả năng điều tiết để thích nghi với điều kiện thay đổi, nguồn vốn được phân bổ hiệu quả hơn sẽ tự động tạo sự kích thích cho tăng trưởng tài chính. -Lãi suất tự do, do thị trường quyết định sẽ giảm thiểu những cuộc tranh luận vốn vẫn thường xuyên xuất hiện trong giới tài chính khi xem xét về tính hợp lý hay không hợp lý của -Mức lãi suất được áp đặt.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

67


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả -Nền kinh tế thế giới vận động theo hướng toàn cầu hoá. Việt Nam để tham gia vào vòng quay đó cần điều chỉnh mức lãi suất phù hợp với thị trường thế giới. III. Những giải pháp điều hành lãi suất ở Việt Nam. 1.Những khó khăn gặp phải trong quá trình chuyển sang cơ chế lãi suất thoả thuận. a,Những khó khăn chung: Thứ nhất, xuất phát điểm của nền kinh tế Việt Nam quá thấp. Trải qua nhiều năm cố gắng vực dậy nền kinh tế song về cơ bản nền kinh tế vĩ mô chưa ổn định: tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế thấp, thiếu vốn đầu tư, phụ thuộc nhiều vào vốn đầu tư nước ngoài. Thứ hai, công tác quản lý nền kinh tế của cơ quan quản lý vĩ mô dù có nhiều cải thiện song vẫn chưa thể coi là hoạt động có hiệu quả, đội ngũ cán bộ còn kém về trình độ chuyên môn. Khu vực sản xuất gặp nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh với hàng hoá nước ngoài. Việc cổ phần hoá các doanh nghiệp quốc doanh diễn ra với tiến độ chậm... Thị trường mở mới đi vào hoạt động từ cuối tháng 7/2000, hàng hoá còn ít, hiệu quả hoạt động không cao. b, Bên cạnh những khó khăn chung như vậy, ngay sau khi chúng ta áp dụng cơ chế lãi suất này đã xuất hiện những bất cập cần xử lý ngay: -Lạm phát trong 5 tháng đầu năm 2002 là 2,8%. -Ở khu vực nông thôn, cầu vốn tín dụng thường lớn hơn cung (huy động vốn của các địa phương thường chỉ đạt 50% nhu cầu); lãi suất cho vay ở khu vực này không bám sát biên độ, khi thực hiện cơ chế lãi suất thoả

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

68


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả thuận, lãi suất cho vay có thể tăng, sẽ có phản ứng không thuận lợi từ phía một số địa phương. -Thị trường bất động sản, thị trường ngọại hối không chính thức biến động khá “thất thường”, ảnh hưởng không nhỏ đến thị trường tiền tệ. Tự do lãi suất là cái đích mà Việt Nam đang hướng tới, tuy nhiên cần phải có những bước đi vững chắc, cần phải nhận biết đựơc đâu là những khó khăn và đâu là thuận lợi đối với chúng ta để có những giải pháp cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của thị trường Việt Nam. 2.Những giải pháp . a, Những giải pháp mang tầm vĩ mô. -Tiếp tục hoàn thiện tổ chức và qui chế điều hành thị trường mở, tăng cường khả năng dự báo vốn khả dụng, thúc đẩy sự phát triển của các công cụ tài chính trên thị trường mở, xây dựng thị trường tiền tệ liên ngân hàng phát triển sôi động, tránh hiện tượng đóng băng và một chiều như hiện nay; tăng cường khả năng điều hành bằng các công cụ gián tiếp của NHNN. -Các chính sách hỗ trợ đi kèm : +Khi thực hiện cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận, cần thực hiện chính sách tỷ giá tương đối ổn định, chính sách tài khoá tương đối thắt chặt. +Xây dựng mức lãi suất liên ngân hàng định hướng trên cơ sở lãi suất thực của thị trường, mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ từng thời kỳ và diễn biến lãi suất trên thị trường quốc tế. +Tính toán mức tăng, giảm vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng để NHNN thực hiện thị trường mở, qua đó đạt được mức lãi suất liên ngân hàng định hướng.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

69


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả +Lãi suất liên ngân hàng định hướng phải là lãi suất chuẩn để hướng các ngân hàng thương mại thực hiện cho vay lẫn nhau theo lãi suất này, và qua đó ảnh hưởng đến lãi suất cho vay đối với nền kinh tế. +Nâng cao hiệu quả điều tiết của nghiệp vụ thị trường mở bằng cách hạn chế tối đa hoạt động cho vay theo chỉ định; điều hành hoạt động thị trường mở qua Ban điều hành thị trường tiền tệ theo mục tiêu lãi suất liên ngân hàng. Bên cạnh đó cần phối hợp các công cụ khác như dự trữ bắt buộc hay tỷ giá để đạt được mục tiêu lãi suất dự kiến. -Để thực hiện chính sách hỗ trợ NHNN cần: +Khẩn trương đề nghị và xúc tiến các công việc để sớm đưa ngân hàng chính sách vào hoạt động trên thực tế. Tách các khoản vay theo chỉ định của Chính phủ ra khỏi hệ thống ngân hàng thương mại để phân tách chức năng kinh doanh với chức năng cho vay theo chỉ định và với lãi suất ưu đãi. Còn hiện tại đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn, ngoài các khoản vay ưu đãi đã được chính phủ có qui định cụ thể các mức lãi suất thấp với các khoản cho vay chỉ định, sẽ là những khoản tín dụng thương mại cần được thực hiện theo lãi suất thị trường. Đó cũng là một xu hướng đúng đắn, phù hợp với xu hướng thị trường hoá các quan hệ tín dụng trên thị trường nông thôn đang ngày càng đòi hỏi mở rộng. Trên thực tế ở nhiều vùng người vay cần được hỗ trợ nhiều hơn về khối lượng, thời hạn, thủ tục thuận lợi khi vay vốn hơn là vấn đề lãi suất. Sự chủ động lãi suất tín dụng sẽ vừa tạo chủ động kinh doanh cho các tổ chức tín dụng, vừa tạo cơ hội tiếp cần nhiều hơn với các khoản tín dụng trên thị trường chính thức của các tổ chức kinh tế và các hộ nghèo vay vốn. Vì rằng, với lãi suất vay trên thị trường chính thức của các tổ chức tín dụng còn thấp hơn nhiều các khoản tín dụng nặng lãi vẫn đựơc xem là khá phổ biến trong thị trường tín dụng nông thôn hiện nay.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

70


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả +Cập nhật tình hình lãi suất của các ngân hàng thương mại theo ngày để có biện pháp điều hành lãi suất thị trường theo lãi suất mục tiêu. NHNN cần đóng vai trò hướng dẫn thị trường vận động theo lãi suất và tỷ giá mục tiêu có lợi cho sự tăng trưởng bền vững. +Sử dụng các mô hình kinh tế lượng để dự đoán các chỉ số kinh tế vĩ mô như : lạm phát, lãi suất và tỷ giá để có đối sách kịp thời can thiệp vào lãi suất và tỷ giá thông qua các công cụ chính sách khác như: dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu và hoạt động thị trường mở. +Nâng cao mức dự trữ ngoại hối của Nhà nước ở mức 12 tuần nhập khẩu. -Làm tốt các việc giải thích tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng để người dân và tổ chức kinh tế hiểu rõ sự cần thiết và tác dụng của việc tổ chức tín dụng cho vay theo lãi suất thoả thuận. -Yêu cầu các tổ chức tín dụng tiếp tục đơn giản hoá thủ tục, mở rộng cho vay để người sản xuất, tổ chức kinh tế, nhất là khu vực nông thôn thấy được lợi ích của họ là được vay vốn thuận lợi hơn. -Chủ động dự báo chiều hướng biến động của lãi suất thị trường, các tình huống có thể phát sinh và áp dụng các biện pháp thích hợp để định hướng lãi suất thị trường biến động phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô. -Củng cố các thiết chế thị trường tiền tệ để có qui mô đủ lớn, phản ánh đúng tình hình cung cầu vốn thị trường, để NHNN có thông tin chính xác và tác động kịp thời đối với thị trường tiền tệ. Thời gian tới, khi thị trường thực sự phát triển theo chiều hướng ổn định thì nên xoá bỏ hẳn việc công bố lãi suất cơ bản mà chuyển sang cơ chế điều hành hệ thống lãi suất chỉ đạo của NHNN(lãi suất tái chiết khấu và lãi suất qua đêm).

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

71


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả Trong cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, nếu bỏ biên độ thì vai trò của lãi suất cơ bản thực chất chỉ còn mang tính hướng dẫn tham khảo cho các tổ chức tín dụng, không còn vai trò kiểm soát và tác động trực tiếp đền thị trường lãi suất. Vì vậy, cần sớm chuyển sang cơ chế điều hành Hệ thống lãi suất chỉ đạo của NHNN. Cơ chế này được thực hiện theo mô hình sau: lai suat a:lai suat tai chiet khau va lai suat qua dem c:lai suat thi truong mo(OMO) d:LS thi truong lien ngan hang b:LS tien gui tai NHNN 0

thoi gian

-NHNN thực hiện tái cấp vốn cho các tổ chức tín dụng theo hình thức chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay đảm bảo bằng thế chấp hồ sơ tín dụng hoặc cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác và cho vay qua cưả sổ chiết khấu đặc biệt. Các hình thức này cho vay với thời hạn rất ngắn, có thế cho vay trong thời hạn vài ba ngày, thậm chí cho vay qua đêm để bù đắp thiếu hụt khả năng thanh toán sau khi các ngân hàng thương maị thực hiện vay mượn lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất các hình thức tái cấp vốn này do NHNN thường cao hơn các mức lãi suất khác (đường a), để nhằm thực hiện điều tiết và chỉ đạo mặt bằng lãi suất trên thị trường cũng như thực hiện vai trò của NHNN là người cho vay cuối cùng. Lãi suất này qui định từng thời kỳ tuỳ theo mục tiêu của chính sách tiền tệ

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

72


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả nói chung, có chú ý đên cung cầu tín dụng nội địa và quốc tế, đặc biệt chú ý đến lãi suất trên thị trường vốn và tỷ giá ngoại tệ. -Các tổ chức tín dụng có thể tự do và không hạn chế số lượng gửi tiền tại NHNN . Nhưng để hạn chế hoặc khuyến khích, thì NHNN qui định mức lãi suất tiền gửi cao hoặc thấp, thậm chí có lúc tiền gửi này không có lãi suất (lãi suất = 0). Mức lãi suất tiền gửi tiền gửi (đường b) luôn có khoảng cách nhất định với lãi suất chiết khấu và cho vay qua đêm nói trên. Đối với hai loại lãi suất này, NHNN sẽ tạo ra một khoảng giới hạn nhất định có tính chất khung lãi suất cho thị trường tiền tệ. -Lãi suất thị trường mở (open market operation): là lãi suất đấu thầu các loại tín phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn (đường c). NHNN tham gia tổ chức nghiệp vụ thị trường mở và chi phối mức lãi suất đấu thầu. Mức lãi suất này thường nằm giữa hai loại lãi suất tái chiết khấu, lãi suất qua đêm và lãi suất tiền gửi tại đây. -Lãi suất thị trường liên ngân hàng (interbank) để thực hiện việc vay mượn ngắn hạn lẫn nhau (đường d) giữa các tổ chức tín dụng trong trường hợp thiếu vốn mà chưa đến phiên giao dịch thị trường mở. Vì vậy, lãi suất của thị trường liên ngân hàng luôn dao động quanh lãi suất thị trường mở và bị phụ thuộc lãi suất tái cấp vốn của NHNN, tức là phụ thuộc vào lãi suất tái chiết khấu hoặc lãi suất qua đêm. Lãi suất thị trường liên ngân hàng có vai trò chi phối lãi suất huy động và cho vay của các tổ chức tín dụng với nền kinh tế theo hướng: lãi suất huy động thường thấp hơn lãi suất thị trường liên ngân hàng và cao hơn lãi suất tiền gửi NHNN. Lãi suất cho vay thì thấp hơn lãi suất tái chiết khấu của NHNN và cao hơn lãi suất thị trường liên ngân hàng. Như vậy, cơ chế điều hành Hệ thống lãi suất chỉ đạo này là sự tác động gián tiếp lãi suất tái cấp vốn của NHNN đến lãi suất tín dụng của các

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

73


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế thông qua lãi suất trung gian của nghiệp vụ thị trường mở và thị trường liên ngân hàng. Khi đó, NHNN thực sự đã sử dụng biện pháp kinh tế để tác động và điều hành lãi súât thị trường thay thế cho các biện pháp mang tính can thiệp hành chính. Muốn vậy NHNN cần nhanh chóng phát triển hơn nữa thị trường liên ngân hàng, cũng như sớm đưa vào sử dụng cơ chế lãi suất cho vay qua đêm, để phát huy vai trò công cụ lãi suất của NHNN trong điều hành, góp phần thực hiện hiệu quả hơn nữa mục tiêu của chính sách tiền tệ của mình. b,Những biện pháp ở tầm vi mô (đối với các ngân hàng thương mại). -Cần bổ sung lưc lượng cán bộ có trình độ trong khâu quản lý nguồn vốn và duy trì tính thanh khoản hợp lý của ngân hàng thương mại và dự báo biến động lãi suất và tỷ giá. -Cập nhật và báo cáo tình hình lãi suất của hệ thống cho NHNN theo qui định. -Triển khai chi nhánh ở các vùng sâu, vùng xa để đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho nhân dân và doanh nghiệp với lãi suất phù hợp với các vùng. -Tham gia tích cực hoạt động thị trường mở, và các nghiệp vụ khác như chiết khấu, tái chiết khấu, SWAP với NHNN khi thiếu khả năng thanh khoản. -Nâng cao năng lực điều hành nguồn vốn trong từng hệ thống tổ chức tín dụng để tránh hiện tượng nơi thừa vốn, nơi thiếu vốn cục bộ, tăng tính thanh khoản cho các tổ chức tín dụng. -Nhu cầu mở rộng tín dụng đáp ứng yêu cầu đầu tư, phát triển kinh tế đã và đang đặt ra trong những năm tới một lượng vốn cần huy động rất lớn, vì vậy các tổ chức tín dụng cần đẩy mạnh việc khai thác vốn bằng nhiều biện pháp, kể cả tăng lãi suất để huy động vốn.

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

74


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả

KẾT LUẬN Lãi suất là một công cụ quan trọng đặc biệt trong tay NHNN để hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ. Lãi suất là vấn đề hết sức nhạy cảm trong nền kinh tế, nó tác động đến mọi khâu của quá trình sản xuất , kinh doanh, tích luỹ, tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư...Lãi suất là một phạm trù kinh tế có tính hai mặt. Nếu xác định lãi suất hợp lý, nó sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đâỷ sản suất, lưu thông hàng hoá phát triển. Ngược lại một cơ chế lãi suất bất hợp lý sẽ là một nhân tố kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, có thể gây nên những cuộc khủng hoảng trầm trọng. Chính tính chất vô cùng quan trọng của lãi suất mà Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam đã nhiều lần điều chỉnh chính sách lãi suất của mình cho phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế. Trong hơn 15 năm đổi mới vừa qua, cơ chế lãi suất của NHNN đã được hoạch định và điều hành theo hướng tích cực, nới lỏng từng bước tiến tới tự

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

75


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả do hoá, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội trong nước, mức độ hội nhập của nền kinh tế nước ta với thị trường tài chính khu vực và thế giới. Cơ chế điều hành lãi suất trở nên kinh hoạt hơn, bám theo cung cầu vốn trên thị trường, dần dần mở rộng quyền chủ động xác định lãi suất kinh doanh cho các tổ chức tín dụng để tăng khả năng cạnh tranh, nhưng vẫn đảm bảo sự kiểm soát và điều hành của NHNN đối với lãi suất trên thị trường tiền tệ. Cụ thể việc điều hành lãi suất trên thị trường thương mại theo cơ chế thị trường đã được thực hiện hoàn toàn đối với ngoại tệ và nội tệ, tạo ra sự thông thoáng trên thị trường tín dụng, phù hợp với thông lệ quốc tế. Đây là một bước tiến quan trọng trong quá trình đổi mới hoạt động ngân hàng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1.Giáo trình: “Lý thuyết tiền tệ và ngân hàng”- Học viện Ngân hàng 2001. 2.Tài liệu giảng dạy môn: “Ngân hàng Trung ương” - Học viện Ngân hàng 2001. 3.Lý thuyết tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính – Frederic S.Miskin- Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật 1999. 4.Các công cụ tài chính trong nền kinh tế thị trường – Nguyễn Thế Thọ – NXB Thống kê 1999

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

76


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả 5.Tạp chí Ngân hàng: - số 3 năm 1998 - số 4,5,7,11 năm 2000 - số 5,6,7,8 năm 2002 6.Phụ lục hệ thống văn bản chế độ Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. 7.Tiền và hoạt động ngân hàng- Lê Vinh Danh – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.

PHỤ LỤC 1 Tính phức tạp trong Biểu lãi suất tiền gửi và cho vay của Ngân hàng Nhà nước (Ban hành kèm theo quyết định số 125 NH/QĐ ngày 4/9/1986 của Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước)

A/Lãi suất tiền gửi. 1.Tiền gửi của các xí nghiệp quốc doanh. 2.Tiền gửi của các tổ chức kinh tế tập thể. 3.Tiền gửi của các cơ quan, đoàn thể,trường học(trừ tiền gửi dự đoán)

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

%/năm

%/tháng

2,88 4,68 6,48

0,24 0,39 0,54

77


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả B/Lãi suất tiền vay. I.Cho vay vốn lưu động. 1.Đối với kinh tế quốc doanh a,cho vay trong hạn mức kế hoạch -Xây lắp -Nông nghiệp, hải sản, nghề muối, lâm nghiệp -Công nghiệp, vận tải, bưu điện, cung ứng VT -Lương thực, ngoại thương -Thương nghiệp, dịch vụ b,Cho vay trên hạn mức kế hoạch *Vì lợi ích kinh tế: -Xây lắp -Nông nghiệp-Nông nghiệp, hải sản, nghề muối, lâm nghiệp -Công nghiệp, vận tải, bưu điện, cung ứng VT -Lương thực, ngoại thương -Thương nghiệp, dịch vụ *Vì khuyết điểm trong quản lý kinh tế tăng thêm 20% so với mức trên. 2.Đối với kinh tế tập thể a,Cho vay trong hạn mức kế hoạch. -HTX nông nghiệp, lâm, ngư, diêm nghiệp -HTX tiêu thụ công nghiệp vận tải, xây dựng -HTX mua bán, tiêu thụ, dịch vụ. b,Cho vay trên hạn mức kế hoạch. -HTX nông nghiệp, lâm, ngư, diêm nghiệp -HTX tiêu thụ công nghiệp vận tải, xây dựng -HTX mua bán, tiêu thụ, dịch vụ. II.Cho vay sửa chữa lớn (chung cho các ngành kinh tế) III.Cho vay vốn cố định 1.Đối với kinh tế quốc doanh

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

6,12 7,2 7,92 8,28 8,64

0,51 0,60 0,66 0,69 0,72

7,2 7,92

0,60 0,66

8,28 8,64 9,0

0,69 0,72 0,75

7,92 9,72 11,52

0,66 0,81 0,96

8,64 10,44 11,88

0,72 0,87 0,99

7,2

0,6

78


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả a,Cho vay chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị xây dựng (chung cho các ngành) b,Cho vay đầu tư XDCB mới. -Nông nghiệp, hải sản, nghề muối, lâm nghiệp -Công nghiệp, vận tải, bưu điện, cung ứng VT -Lương thực, ngoại thương -Thương nghiệp, dịch vụ c,Cho vay cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất(chung cho các ngành) 2.Đối với kinh tế tập thể. -HTX nông nghiệp, lâm, ngư, diêm nghiệp -HTX tiêu thụ công nghiệp vận tải, xây dựng -HTX mua bán, tiêu thụ, dịch vụ.

4,68

0,39

4,68 5,04 5,4 5,76

0,39 0,42 0,45 0,48

5,76

0,48

6,12 8,84 9,00

0,51 0,72 0,75

(nguồn: Tổng cục thống kê)

PHỤ LỤC HAI Diễn biến lãi suất cơ bản và lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng từ tháng 8/2000 đến tháng 5/2002. Đơn vị: % tháng tháng

tháng

lãi suất cơ bản

Ls cho vay b/q thị trường thành thị

Ls cho vay b/q thị trường nông thôn

0,75

0,775

1,10

0,75

0,775

1,10

8/2000 tháng 9

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

79


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả tháng 10

0,75

0,775

1,10

tháng 11

0,75

0,775

1,10

tháng 12

0,75

0,775

1,10

tháng

0,75

0,775

1,10

tháng 2

0,75

0,775

1,10

tháng 3

0,725

0,75

1,10

tháng 4

0,7

0,75

1,05

tháng 5

0,65

0,75

1,05

tháng 6

0,65

0,75

1,05

tháng 7

0,65

0,75

1,05

tháng 8

0,65

0,75

1,05

tháng 9

0,65

0,75

1,05

tháng 10

0,6

0,75

1,00

tháng 11

0,6

0,725

0,9

tháng 12

0,6

0,725

0,9

tháng

0,6

0,725

0,9

tháng 2

0,6

0,725

0,9

tháng 3

0,6

0,725

0,9

tháng 4

0,6

0,725

0,9

tháng 5

0,6

0,725

0,9

1/2001

1/2002

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

80


Lãi suất là công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả

Nhâm Thi Hà- A3 chuyên ngành 7

81


Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.