
7 minute read
2.3.2. Bảng tổng hợp các hoạt động được xây dựng trong chủ đề
from DẠY HỌC CHỦ ĐỀ TÍCH HỢP STEM “CÁC ĐỊNH LUẬT BẢO TOÀN” NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Các nhóm tiến hành các bước thực hiện như nhau nhưng kết quả có thể khác nhau hoặc các nhóm thực hiện theo các phương án khác nhau nhưng lại cùng đạt được kết quả. Khi đó việc đưa ra kết quả các nhóm và sau đó các thành viên trong nhóm trao đổi và đưa ra phương án tối ưu nhất. Ví dụ các nhóm cùng chế tạo tên lửa nước, cọn nước hay mô hình đường đua sau khi thu thập kết quả thì các nhóm cần được đưa ra trao đổi, phân tích và đi đến kết luận sản xuất sản phẩm hoạt động với hiệu quả tốt nhất. Bước 12: Thiết kế lại nếu có thời gian. Khi các nhóm có thời gian học hỏi và trao đổi lẫn nhau, họ có thể thiết kế lại cá sản phẩm của mình và cải thiện chúng để chúng đạt hiệu quả tốt nhất. Với 12 bước thực hiện như trên, GV có thể sử dụng để xây dựng một bài học nội dung tích hợp STEM hiệu quả. Tùy vào các kiểu tổ chức dạy học khác nhau thì nội dung được thực hiện trong các bước lại được vận dụng một cách khác nhau” [2].
1.3. Tìm hiểu thực tế dạy học tích hợp STEM và thực trạng dạy học STEM tại trường THPT Sông Công 1.3.1. Mục đích điều tra
Advertisement
Một trong những căn cứ để soạn thảo tiến trình dạy học nhằm phát năng lực GQVĐTT của HS là những khó khăn của HS trong quá trình học tập. Vì vậy, chúng tôi đã tiến hành tìm hiểu thực tế dạy học tích hợp STEM tại trường THPT, chúng tôi thu được một số thông tin: - Thực tiễn về việc áp dụng theo định hướng dạy học tích hợp STEM ở trường
THPT
- Những khó khăn chủ yếu và sai lầm phổ biến của học sinh khi học chương các định luật bảo toàn. - Tình hình dạy họctheo định hướng tích hợp STEM ở trường THPT Sông Công.
1.3.2. Phương pháp điều tra
Để đạt được mục đích trên chúng tôi đã tiến hành: + Điều tra GV: trao đổi trực tiếp, tham khảo tình hình dạy học, phiếu điều tra. + Điều tra học HS: Thông qua trao đổi trực tiếp,các phiếu điều tra.
1.3.3. Kết quả điều tra
Với mục đích và phương án đã đề ra, chúng tôi tiến hành điều tra trên 16 giáo viên giảng dạy toán và các môn KHTN cùng với 100 học sinh ở Trường THPT Sông Công. Qua điều tra chúng tôi thu được một số kết quả sau: Qua khảo sát với học sinh: Đưa ra khảo sát trong bảng 1.5 cho 100 học sinh
Bảng 1.5. Mức độ tham gia các hoạt động của HS trong giờ học Vật lí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Mức độ
Các hoạt động
HS tham gia vào hoạt động nhóm HS vận dụng kiến thức chương “các định luật bảo toàn” để giải thích các hiện tượng trong thực tế HS được giao làm nhiệm vụ tạo ra sản phẩm thực tế sau các bài học HS biết đến dạy học theo định hướng tích hợp STEM
Thường xuyên
Đôi Khi Không
SL % SL % SL % 23 23 52 52 25 25
56 56 34 34 10 10
0 0 10 10 90 90
0 0 0 0 100 100
Qua khảo sát đối với giáo viên : Đưa ra khảo sát theo bảng 1.4 cho 16 giáo viên trong tổ vật lý thể dục
Bảng 1.6. Mức độ sử dụng các PPDH truyền thống và dạy học theo định hướng tích hợp STEM của các GV

Phương pháp dạy học
Truyền thống (thuyết trình, đàm thoại, luyện tập) Dạy học theo định hướng tích hợp STEM
Thường xuyên Đôi Khi Không dùng SL % SL % SL %
16 100% 0 0% 0 0%
0 0 0 0 16 100%
Qua kết quả điều tra, chúng tôi thu được kết quả thực tiễn việc áp dụng dạy theo định hướng tích hợp STEM, và quá trình dạy học chương “Các định luật bảo toàn” ở trường THPT, những khó khăn chủ yếu và những sai lầm phổ biến của HS khi học phần “Các định luật bảo toàn” cụ thể như sau: 1.3.3.1. Thực tiễn về việc áp dụng dạy học theo định hướng tích hợp STEM Khi được hỏi về dạy học theo định hướng tích hợp STEM, thì phần lớn các GV, HS tỏ ra lạ lẫm với định hướng dạy học này. Đa số các GV chưa bao giờ tổ chức và thiết kế bài học theo định hướng tích hợp STEM, và các thầy cô chưa bao giờ áp dụng định hướng dạy học STEM vào các nội dung bài học dù là có một vài thầy cô cũng đã cho các em học sinh tiến hành tạo ra sản phẩm thực tế nhưng các thầy cô chưa hiểu về dạy học theo định hướng tích hợp STEM là như thế nào. Về phía HS kết quả điều tra cho thấy: hầu hết HS chưa được tiếp cận với định hướng dạy học này. 1.3.3.2. Tình hình dạy và học phần “Các định luật bảo toàn” Tình hình dạy - Phương pháp chủ yếu mà các GV vẫn hay dùng là phương pháp truyền thụ, thông báo. Việc tiến hành bài dạy hầu như vẫn được GV diễn đạt bằng lời: Mô tả, giải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thích hiện tượng nhấn mạnh cho HS những kiến thức cơ bản, nội dung quan trọng. Cuối cùng là bắt HS áp dụng các công thức để giải bài tập - Nhiều GV vẫn có mong muốn phát huy tính tích cực hoạt động của HS trong giờ học bằng việc đặt ra các câu hỏi cho học sinh suy nghĩ giải quyết nhưng thông thường đó là những câu hỏi vụn vặt chỉ đòi hỏi HS những tái hiện thông thường không có nhiều tác dụng trong việc phát triển tư duy, không có tác dụng kích thích nhu cầu, hứng thú học tập của HS. - Hầu hết các GV chưa tổ chức được các hoạt động học tập giúp HS tự học, tích cực chiếm lĩnh kiến thức mới ngay cả những kiến thức không khó. Các thí nghiệm thường được mô tả mà không được tiến hành, khi được hỏi tại sao lại không đưa các thí nghiệm vào bài thì được các GV trả lời: + Giáo viên ngại, không có thói quen chuẩn bị, tốn thời gian. + Thí nghiệm ở một số trường nghèo nàn, không đồng bộ do đó việc đưa vào sử dụng hiệu quả không cao. + Thời gian học theo lớp theo từng môn chưa thể áp dụng cho việc dạy học theo chủ đề. Tình hình học. - Đa số HS còn thụ động trong việc tiếp thu kiến thức mới: Lười suy nghĩ, lười hoạt động chỉ ngồi nghe thầy cô giáo giảng đợi thầy cô giáo đọc rồi chép, rất hiếm khi HS đặt câu hỏi với giáo viên về vấn đề đã học ngay cả những vấn đề mà HS chưa hiểu rõ. - Nhiều HS thiếu tự tin khi trả lời câu hỏi, không tự tin với kiến thức mình đã có, thậm chí không biết kiến thức đó là đúng hay sai, là chính xác hay không chính xác. - HS ít có khả năng vận dụng sáng tạo kiến thức đã học, mà chỉ biết áp dụng một cách máy móc vào các tình huống quen thuộc đã biết. 1.3.3.3. Những khó khăn chủ yếu và những sai lầm phổ biến của HS khi học phần “Các định luật bảo toàn” Qua trao đổi trực tiếp với HS, đối chiếu với những nhận xét thu được chúng tôi nhận thấy khi học phần này, khó khăn chủ yếu của HS là: - Một số HS chưa hiểu rõ được các đại lượng trong chương. - vì vậy nhiều học sinh phân tích hiện tượng để xác định các đại lượng nào thay đổi từ đó lựa chọn kiến thức cần áp dụng. - Việc tiếp cận phương pháp học tập mới còn lúng túng, chưa phát huy được năng lực.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn