7 minute read

Vật lí ở các trường trung học phổ thông

Cách làm - Viết tên chủ đề ở trung tâm, hay vẽ một hình ảnh phản ánh chủ đề. - Từ chủ đề trung tâm, vẽ các nhánh chính. Trên mỗi nhánh chính viết một khái niệm, phản ánh một nội dung lớn của chủ đề, viết bằng chữ in hoa. Nhánh và chữ viết trên đó được vẽ và viết cùng một màu. Nhánh chính đó được nối với chủ đề trung tâm. Chỉ sử dụng các thuật ngữ quan trọng để viết trên các nhánh. - Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp những nội dung thuộc nhánh chính đó. Các chữ trên nhánh phụ được viết bằng chữ in thường. - Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo. Ghi nhớ theo Lược đồ tư duy sẽ kích thích được sự sáng tạo của học sinh. Những phương pháp và kỹ thuật dạy học nói trên làm cơ sở xây dựng biện pháp dạy học phát triển năng lực sáng tạo của học sinh, chúng tôi sẽ trình bày ở các phần sau.

2.3. Thực trạng phát triển năng lực sáng tạo của học sinh trong dạy học Vật lí ở các trường trung học phổ thông

Advertisement

Hiện nay, việc tổ chức dạy học phát triển năng lực sáng tạo của học sinh ở các trường THPT còn nhiều vấn đề phải tìm hiểu và giải quyết. Khảo sát từ 94 giáo viên giảng dạy môn Vật lí ở 15 trường THPT và 247 học sinh lớp 10 học môn Vật lí ở 06 trường THPT tại các địa bàn thành thị, nông thôn và miền núi ở tỉnh Quảng Bình, cụ thể: Thành phố, thị xã gồm các trường: THPT Đào Duy Từ, THPT Đồng Hới, THPT Phan Đình Phùng, THPT chuyên Võ Nguyên Giáp và THPT Lương Thế Vinh. Nông thôn gồm các trường: THPT Lệ Thủy, THPT Quảng Ninh, THPT Lê Quý Đôn, THPT Lê Hồng Phong và THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm. Miền núi gồm các trường: THPT Minh Hóa, THPT Tuyên Hóa, THPT Lê Trực, THPT Hoàng Hoa Thám và THCS&THPT Hóa Tiến. Kết quả cho thấy: Về hoạt động dạy học phát triển năng lực sáng tạo của học sinh Đối với giáo viên:

Về nhận thức của giáo viên về dạy học phát triển năng lực sáng tạo:

Số lượng khá lớn giáo viên chưa nhận thức được mục tiêu việc dạy học phát triển năng lực sáng tạo cho HS (có 23,40% cho là ít cần thiết và 1,06% cho là không cần thiết).

Kết quả khảo sát như biểu đồ sau:

45.00% 40.00% 35.00% 30.00% 25.00% 20.00% Biểu đồ 2.1. Nhận thức của GV về mức độ cần thiết dạy học phát triển NLST

Về tần suất vận dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực

Có 37/% giáo viên luôn có ý thức vận dụng các phương pháp dạy học tích cực, 37% thỉnh thoảng mới vận dụng, 22% giáo viên ít khi vận dụng và 4% giáo viên không bao giờ có ý thức vận dụng. Kết quả thể hiện qua biểu đồ sau:

Biểu đồ 2.2. Tần suất vận dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực

Về mức độ chú trọng thực hiện kiểm tra đánh giá phát triển NLST

Có 36,17% giáo viên chú trọng phát huy năng lực sáng tạo học sinh khi

kiểm tra đáng giá, 38,29% thỉnh thoảng và 25,53% giáo viên ít khi quan tâm đến việc này, kết quả như bảng sau:

Bảng 2.3. Kết quả mức độ thực hiện kiểm tra đánh giá phát triển NLST

Mức độ Số Luôn luôn lượng Tỉ lệ % Thỉnh thoảng Số lượng Tỉ lệ % Số lượ Ít khi ng Tỉ lệ % Không bao gi Số lượng Tỉ lệ ờ %

Kết quả 34 36,17 36 38,29 24 25,53 0 0 Các số liệu trên cho thấy phần lớn nhận thức của đội ngũ cán bộ giáo viên về dạy học phát triển năng lực sáng tạo của học sinh còn mơ hồ, giáo viên còn lúng túng không biết làm thế nào để tổ chức hoạt động dạy học theo hướng này. Việc tổ chức dạy học hiện tại chủ yếu trang bị kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa cho học sinh và hướng đến mục đích thi cử. Đối với học sinh:

Về mức độ tương tác với thầy cô

Chỉ có 26,72% học sinh được thường xuyên trao đổi với thầy cô trong các giờ học, 28,74% thỉnh thoảng, 26,31% ít khi trao đổi với thầy cô, đặc biệt có 18,21% học sinh không bao giờ muốn bày tỏ ý kiến của mình với thầy cô. - Kết quả như biểu đồ sau:

Biểu đồ 2.3. Tần suất trao đổi của HS với GV trong giờ học Vật lí

Về mức độ tương tác với bạn bè

Có 26,72 % học sinh thường xuyên trao đổi tương tác với bạn bè, 30,36% thỉnh thoảng. Có 29,95% học sinh ít khi trao đổi với bạn bè, đặc biệt có 12,95%

không bao giờ trao đổi với bạn bè, kết quả như bảng sau:

Bảng 2.4. Kết quả mức độ tương tác với bạn bè

Mức độ Thường xuyên Số lượng Tỉ lệ % Thỉnh tho Số lượng Tỉ ảng lệ % Số Ít khi lượng Tỉ lệ % Không bao giờ Số lượng Tỉ lệ %

Kết quả 66 26,72 75 30,36 74 29,95 32 12,95 Như vậy quá trình dạy học chủ yếu diễn ra theo một chiều, học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động, ít có cơ hội để phát triển trí tưởng tượng sự liên tưởng trong các tình huống học tập, điều này rất hạn chế rất nhiều đến việc phát triển năng lực sáng tạo của học sinh. Do vậy cần tăng cường quá trình trao đổi, tương tác giữa học sinh với giáo viên và học sinh với học sinh trong quá trình học tập. Về tổ chức hoạt động trải nghiệm. Nhận thức của giáo viên về vai trò của hoạt động trải nghiệm: Có 37,23% số giáo viên cho rằng đây là hoạt động cần thiết và 35,10% rất cần thiết nhưng chỉ mới ở mức độ cần thiết về mặt giáo dục chứ chưa hiểu rõ ý nghĩa của nó trong quá trình dạy học đối với việc phát triển năng lực sáng tạo của học sinh. Có 24,44% giáo viên cho là ít cần thiết và 3,19% cho là không cần thiết vì quan niệm đối với học sinh chỉ tập trung học tập nắm kiến thức và hướng đến đạt kết quả cao trong các kì thi là đủ. Kết quả khảo sát như biểu đồ sau:

40.00% 35.00% 30.00% 25.00% 20.00% 15.00% 10.00% 5.00% Biểu đồ 2.4. Về nhận thức của giáo viên, về vai trò của hoạt động trải nghiệm

Ngoài ra, qua tiếp xúc trao đổi với một số cán bộ quản lí ở các trường, phần lớn họ cho rằng, tuy hoạt động trải nghiệm là rất có ý nghĩa trong giáo dục học sinh và thiết thực trong việc phát triển năng lực cho các em, nhưng việc tổ chức thực hiện còn gặp nhiều khó khăn. Về mức độ đưa hoạt động trải nghiệm vào quá trình dạy học. Kết quả vẫn còn tỷ lệ khá lớn 22% giáo viên ít khi hoặc không bao giờ đưa những hoạt động này vào trong dạy học, 49% số giáo viên chỉ thỉnh thoảng mới đưa hoạt động này vào, chỉ có 29% giáo viên luôn có ý thức đưa các hoạt động trải nghiệm gắn liền với quá trình dạy học. Khảo sát về mức độ đưa hoạt động trải nghiệm vào quá trình dạy học, kết quả như biểu đồ sau:

Biểu đồ 2.5. Mức độ đưa hoạt động trải nghiệm vào quá trình dạy học Thực tế cho thấy phần lớn giáo viên vẫn thiếu kỹ năng tổ chức hoạt động thực tiễn, chưa biết nội dung cách thức tổ chức các hoạt động trải nghiệm dẫn đến thiếu kỹ năng thiết kế hoạt động trải nghiệm trong dạy học, từ đó, ngại thực hiện các nội dung này, thậm chí một số bài thực hành đã chuyển thành các bài ôn luyện kiến thức trên lớp. Việc thực hiện kiểm tra đánh giá qua kết quả hoạt động trải nghiệm. Kết quả điều tra cho thấy có 26,59% giáo viên ít khi quan tâm đến sử dụng kết quả hoạt động trải nghiệm vào kiểm tra đánh giá, 2,12% không bao

This article is from: