
57 minute read
KHẤT SĨ
25
Chương 2 ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬC TRONG TU TẬP CỦA HỆ PHÁI KHẤT SĨ
Advertisement
2.1. Nền tảng của phương pháp tu tập: con đường Trung đạo
Với ý nguyện thoát ly sanh tử cho mình, mong cầu tìm ra ánh sáng để cứu đời, Tổ sư Minh Đăng Quang lúc nào cũng nghĩ cho người khác hơn cho bản thân, lòng từ bi thương người thương vật của Ngài thể hiện rất rõ trong cuộc sống hằng ngày, từ khi Ngài còn rất nhỏ qua cách cư xử hành động ứng xử với mọi người, mọi vật. Năm 15 tuổi Ngài đã xin cha cho sang Campuchia tầm sư học đạo, quyết chí xuất gia tìm ra mối đạo,giải thoát cho chính mình và dẫn dắt chúng sanh thoát khỏi sanh tử luân hồi. Vì vậy, Tổ sư Minh Đăng Quang ngay từ lúc mới phát tâm xuất gia Ngài đã lấy tinh thần sống chung tu học làm nền tảng trong việc tu tập và hành đạo. Ngài đi khắp nơi tìm cầu các pháp tu từ các danh Tăng, hay các bậc ẩn sĩ thời bấy giờ để Ngài học hỏi, tìm cầu quán xét cho đến khi tìm ra chơn lý. Sau khi chứng ngộ sự vô thường mong manh giả tạm của cuộc đời, sự giả tạm đó được Tổ Sư chứng đắc trải nghiệm qua sự nhấp nhô của sóng biển tụ tan liên tục tại biển Hà Tiên, những con sóng có đó rồi mất đó. Ngài đem sự chứng ngộ tự thân làm tấm gương soi sáng cho mọi người và cùng nhau tận hưởng hương vị giải thoát chứ Ngài không giữ cho riêng mình. Ngài như ngọn đuốc soi rọi dẫn đường cho những ai muốn thoát khỏi bể khổ của trần gian, vượt bờ sông mê sang bến giác. “Giác ngộ là tỉnh biết, hiểu rõ. Tức là thể hội chân lý, khai phát chân trí. Có thể biết giác ngộ có tự lực giác và nhờ tha lực mà giác ngộ khác nhau, trình độ giác ngộ từ đó có sâu, có cạn bất đồng” [32], sựgiác ngộ mà Tổ chỉ ra là sự trãi nghiệm trong cuộc đời thấy biết
26
sự việc xảy ra trong hiện thực, tự mình nhận biết được việc đó thì gọi là tự ngộ và từ đó đem sự nhận biết ấy hướng dẫn lại cho mọi người hiểu được, dẫn dắt cho họ thực hành, và nhận thức được đúng sai, cái gì nên làm, cái gì không nên làm, cái nào thiện, cái nào ác, cái nào nhân, cái nào là quả,để thực hành mà từ đó bớt đau khổ, tìm được niềm vui ngay trong hiện tại thì gọi là giác tha. Tổ sư với tâm nguyện muốn đem đạo vào đời làm lợi ích cho mọi người nên Ngài khai mở khai mở con đường mới đó là “Đạo Phật khất sĩ Việt Nam”. Ngài muốn đem ánh sáng chơn lý mà Phật tổ đã hành trì để chiếu rọi vào Phật giáo Việt Nam thời bấy giờ. Ngài muốn thức tỉnh Tăng sĩ trong hiện tại, bằng phương pháp tu tập mà Ngài đã nghiên cứu, học hỏi, hành trì. Ngài đã đúc kết rút tỉa những tinh hoa từ hai tông phái lớn hiện có đó là Bắc truyền và Nam truyền, để tạo thành cho mình một đường lối tu tập riêng,một phương pháp riêng nhưng không xa rời giáo lý Phật Đà hay những gì Đức Phật đã dạy. Một con đường tu tập với đúng hạnh nguyện là “Nối truyền Thích Ca Chánh pháp”. Tuy rằng trong thời kỳ của Ngài cũng có rất nhiều Tôn giáo nội sinh xuất hiện, như Phật Giáo Cao Đài. Phật Giáo Hòa Hảo. Tịnh Độ Cư sĩ Việt Nam ... họ cũng lấy một phần giáo lý của Đức Phật làm nên tảng để dẫn dắt tín đồ tu nhơn tích đức, lánh ác làm lành hay rốt ráo vẫn tu tiên thờ ông bà là chính...vì vậy về cơ bản chưa đáp ứng được nhu cầu nguyện vọng tâm tư của người dân lúc bấy giờ. Đạo Phật Khất Sĩ ra đời có phương pháp và đường lối tu tập rõ ràng, là “Đạo” mang tính “Việt Hóa” từ cách sinh hoạt trong đời sống thường nhật, cách hành hành trì cho đến pháp phục, hay kiến trúc cũng mang nét riêng. Vì vậy, bước chân hành đạo của Tổ Sư đi đến đâu đều được dân chúng tiếp nhận tu tập theo, hành trì theo đến đó. Với tâm nguyện “nối truyền Thích
27
Ca Chánh Pháp” đức Tổ Sư đã hành trì, nương theo đời sống của Tỳ kheo thời Đức Phật là vị một tu sĩ vô sản, không chất chứa bất cứ món gì gia sản quí giá, chỉ có tam y và bình bát. Đức Thế Tôn trong kinh được mô tả lúc mới tầm đạo một mình một bóng lẽ loi trên bước đường tìm đạo ở chốn rừng sâu. Đức Phật đã thấu hiểu được rằng cuộc đời vật chất giả tạm rồi cũng tan, vợ đẹp con xinh, cung vàng điện ngọc, uy quyền thế lực vua chúa rồi cũng có một ngày trả lại cho cát bụi, những thứ giả tạm ấy nó sẽ làm chất gây mê giết chết một tâm hồn tăng sĩ. Nên Ngài dùng hình ảnh của một Tăng sĩ ôm bát đi muôn nơi để hóa độ muôn người. Lấy bốn phương làm nhà, lấy niềm vui của mọi người làm niềm vui cho mình, thấu hiểu niềm đau nổi khổcủa mọi người để từ đó mà tìm lối giải thoát cho mình và mọi người. Đạo Phật Khất Sĩ đã song hành cùng đất nước trãi qua bao tháng năm thăng trầm của lịch sử, đến nay đã có chỗ đứng vững chắc trong lòng người dân, đã làm điểm tựa tinh thần cho họ, đây là phần không thể thiếu trong cuộc sống, hai phần tinh thần và thể chất không thể tách rời nhau, vì ai có đạo cũng có nghĩa người đó là nguời có đạo đức, có nhân cách làm người, biết bổn phận làm người của mình. Có được thành quả như vậy âu cũng là do Đức Tổ Sư đã khéo léo vận dụng về giáo lý Phật Đà thông qua khẩu giáo và thân giáo của Ngài, phương pháp tu tập của Ngài, Ngài đã giảng giải, trình bày xuyên suốt tinh thần Trung đạo trong bộ Chơn Lý, đây là nền tảng tư tưởng chính trong quá
trình hành đạo của Hệ phái Khất sĩ và được lan truyền cho đến ngày nay.
Thời Đức Phật tại thế, buổi ban sơ trên bước đường tìm cầu học đạo Đức Phật Ngài đã trãi qua năm năm tầm đạo, sáu năm khổ hạnh rừng già, Ngài đã thấy được nguồn ánh sáng của chơn lý, và đạt dược nguồn chơn lý ấy theo phương pháp tu tập của riêng mình đó là con đường “Trung Đạo”. Nghĩa là không quá khổ hạnh, cũng không quá lợi dưỡng cho bản thân. Đây là con
28
đường căn bản dẫn dắt cho người tu theo giáo lý của Phật hành trì tu tập từng nấc thang một trong lộ trình tìm cầu giải thoát. Trong đó “Tứ Y Pháp” là pháp đầu tiên không thể thiếu. Trên tinh thần nguyên ủy đó, Tổ sư Minh Đăng Quang đã khẳng định: phương pháp tu tập của Hệ phái Khất sĩ chính là con đường ly khai hai cực đoan, xa lìa có và không,thái quá hay bất cập. Trung Đạo là con đường chư Phật và chư Tổ đã đi qua, con đường này lìa xa hai cực đoan, không tuyệt đối hóa một vấn đề gì cả, không chấp trước có và không hay thái quá và bất cập. Trung đạo là siêu việt đối đãi, thể nhập chôn lý tuyệt đối, và đạt đến tùy duyên bất biến. Vì vậy Tổ Sư đã dùng sự tùy duyên mà tùy hoàn cảnh để hướng dẫn cho phật tử tu tập theo, Ngài dùng rất nhiều phương tiện để hóa độ làm cho họ dễ hiểu dễ hành dễ đạt kết quả an vui hơn.
2.2. Một số nét cơ bản của phương pháp tu tập. 2.2.1. Tam y, nhất bát, khất thực, trì bình.
Hạnh phúc nào bằng hình ảnh của một người cắt ái ly gia, sống một đời sống thanh bần,an nhàn, thiểu dục tri túc, nhẹ nhàng không vướng bận bởi vật chất giả tạm bên ngoài, có như vậy mới thấu hiểu được cái khổ của chúng sanh để hòa nhập, san sẻ, yêu thương, sớt chia niềm đau nổi khổ của họ từ đó mới có thể hóa độ họ, dẫn dắt họ quay về với ánh sáng Phật đà, làm cho họ thấy được giá trị đích thực của sự sống, và làm cho cuộc sống ngày một thăng hoa hơn. Tam y: có hai nghĩa một làở đời thường nó chỉ là chiếc áo bình thường để che thân không bị con trung cắn rúc, là một tấm vải bình thường. Hai là một chiếc y để trang nghiêm thân tâm dành cho người xuất gia được coi như huệ mạng của mình không được lìa bất cứ trường hợp nào, chiếc y này đại diện cho giới thể, vì khi để giới hạnh mới được thọ trì y pháp. Tăng sĩ đắp y vàng tượng trưng hình ảnh Đức Phật xưa, y còn là nơi để chúng sanh tạo phước. Bởi hình ảnh của một Chiếc y thời Tổ Sư chỉ dùng bằng vải trắng thô
29
đem đi nhuộm lại thành màu hoại sắc rồi mới mặc, hoặc là cắt thành từng mảnh nhỏ rồi đem khâu lại mới mặc. Ở đây Tổ Sư muốn cho Tăng chúng khi mặc như vậy mới diệt trừ lòng tham muốn cái đẹp của chính mình, bớt buông lung phóng dật khiến tâm khởi lên phân biệt tốt xấu ưa thích, chấp giữ thì sẽ ác nghiệp gây ra nhiều tội lỗi. Cũng vậy chiếc bát ngoài việc dùng cơm hằng ngày, còn là phương tiện cho chư Tăng hóa duyên cứu độ chúng sanh, chiếc bát đong đầy tình thương, bao dung, hoan hỷ mà đi khắp nơi gieo duyên với mọi người giúp họ mở lòng mình ra biết chia sẽ, biết giúp đỡ lẫn nhau từ đó sẽ có có an vui hạnh phúc ngay trong hiện tại. Cho nên Y và bát là hai vật biểu trưng như hai cánh tay của người tu khất sĩ không thể thiếu. Được Đức Phật ví như con chim có đôi cánh để bay khắp nơi. Đối với hệ phái Khất sĩ, pháp môn khất thực là một trong những phương pháp tu học giúp cho hàng tăng sĩ diệt trừ được cái tự cao ngã mạn kiêu căng của chính mình, hay hống hách coi ai không ra gì, luôn ỷ mình được sống trong no đủ không hiểu được sự nghèo khó trong nhân gian nên không bao giờ cho ai cái gì nếu có cho đi nữa cũng vì éo buộc không hoan hỷ, không biết thông cảm. Đức Tổ Sư thực hành pháp môn khất thực với ý chỉ dùng thân giáo để giáo hóa hàng đệ tử, cũng như hóa độ dân chúng dẹp đi cái tôi, cái chấp trước qua thân giáo của Ngài, là người tu hạnh Khất sĩ thì cần phải đi hóa duyên để xin ăn, bởi lẽ “Khất sĩ” được định nghĩa là “học trò khó đi xin ăn để tu học”xin vật thực của chúng sanh để nuôi mạng sống, để duy trì cơ thể mà giáo hóa lại chúng sanh, làm đẹp đạo tốt đời. Khất thực có nghĩa là Khất là xin, thực là thức ăn. Khất thực là xin thực phẩm của mọi người, để nuôi thân mạng và cho lại chúng sanh pháp bảo. Mỗi sáng bình minh lên hình ảnh đoàn du tăng tay bưng bình bát, nhịp nhàng nhẹ gót,từng bước chân thung dung và tự tại, oai nghi đỉnh đạc giống
30
như một vị sa môn thời Đức Phật. Hơn nữa, đây là phương pháp mà bất cứ ai giàu sang hay nghèo nàn cũng có thể cúng dường, giúp họ biết chia sẽ, biết thông cảm với người khác. Vào thời đó Ngài đã chia ra làm hai nhóm. Một là trụ một chỗ, vẫn sáng ra khất thực, trưa về độ ngọ, tối lại tụng kinh thời khóa, sau đó đem ý pháp trong bộ Chơn Lý mà Tổ đã lập, triễn khai giảng dạy. Còn nhóm thứ hai thành lập nên đoàn du tăng đem đạo truyền bá khắp mọi nơi, làm cho đạo Phật Khất sĩ lan rộng từ mũi cà Mau đến vùng Quảng Trị nắng cháy, tái hiện lại hình ảnh đoàn du tăng khất sĩ vào thời Đức Phật. Đây cũng là một trong những phương pháp giáo hóa gần gũi người dân, từ xóm nhỏ, làng này, làng nọ, và cũng là cách giáo dục tăng đồ, tạo sự tương tác giữa tín đồ và tu sĩ bằng mọi phương tiện. Đây là phương pháp xây dựng niềm tin vững chắc về lời dạy của Đức Phật qua hình ảnh Tăng già. Chính vì lý do đó mà Đạo Phật Khất Sĩ đi đến đâu thì được dân ở đó tiếp nhận một cách dễ dàng và ngày càng phát triển.
2.2.2. Y bát chân truyền
Vì vậy, với hình bóng một tu sĩ với chiếc y bình bát vân du khắp nơi, từng bước chân an lạc thanh thoát vào mỗi buổi sáng, chân đạp đất, đầu đội trời, một y một bát đi khắp nơi, dưới xin cơm của dân Việt để nuôi thân, trên xin Giáo pháp để nuôi tâm, giữ nếp sống thanh bần, tạm mượn mái hiên, lều chợ để độ ngọ, thuyết pháp triển khai cho dân chúng hiểu thêm về giáo lý của Ngài qua ngôn ngữ mẹ đẻ. Ngài dùng thơ lục ngôn bát cú hay thể thơ tự do để viết những câu giáo lý dễ đọc, hoặc những bài thơ bốn chữ để cho người già, trẻ thơ cũng có thể đọc hiểu và thực hành. Với phương châm “y bát chơn truyền” du phương hành đạo không nhà không cửa, không trú một chổ, Ngài vận dụng giáo lý Phật Đà vào văn hóa tục lệ dân gian, tạo niềm tin cho người học Phật lúc bấy giờ, tin rằng họ vận
31
dụng giáo lý Phật Đà một cách thiết thực nhất vào công việc hằng ngày, giúp cho mọi người hiểu ra các pháp vốn là do nhân duyên giả hợp tạo thành, đều phải chịu sự chi phối của vô thường và đều phải chịu nhân quả, để từ đó họ sống trong khổ mà không bị khổ chi phối, từ đó còn có thể giúp nhận diện rõnhững đau khổ mà nhân dân ta đang sống dưới ách đô hộ của chế độ thực dân Pháp thời bấy giờ. Vì vậy Ngài đã lấy hình ảnh Tăng xưa mà thực hiện pháp tu cho mình, hình ảnh một vị sa môn sống tự tại thanh thoát trong chiếc y vàng, bình bát vân du khắp nơi(sau khi về thăm lại quê xưa để từ giả cha già). “ Y vàng nhẹ bước vân du Bát nung nặng mối tình thu muôn ngàn.” Hay: “ Khất sĩ y bát chơn truyền đạo Ta bà du hóa độ nhơn sanh” Vì theo Tổ sư, một tăng sĩ thì không thể thiếu “Y và Bát” vì Y bát là mạng sống của mình. Vì “Y là pháp, Bát là đạo” [33, tr.300]. Có nghĩa là, đạo pháp đường chơn truyền được Phật truyền lại từ mười phương chư Phật. Có Y Bát mới có chơn như, như lời đạy của Đức Phật trong hiện tại, dùng thân giáo mà hành trì thì sẽ thấy được chơn như Phật tánh của mình. Theo Tổ sư thì “y” là chiếc áo. Áo ở đây là Pháp bảo, là như một miếng ruộng lớn, người dùng chiếc Y có hai nghĩa một là che được cái thân giả tạm, nó như một giáp sắt nhờ có chiếc Y này che chắn cho người tăng sĩ xông pha khắp nơi tà ma ác thú không dám đến gần. Hai là như luật pháp để che cho tâm, nhắc nhỡ tâm phải kiềm chế những tham muốn, hay thấy được cái sân vừa sanh khởi thì liền diệt trừ từ đây cái si không có chỗ phát sanh. Người thực hành Khất sĩ mà không có chiếc Y thì chưa phải là du Tăng Khất sĩ. Còn cái “Bát” là thể của Bát chánh đạo. Là tám con đường giúp cho hành giả diệt trừ được tham, sân, si để thành tựu giới, định, tuệ, thoát khỏi sanh tử luân hồi,
32
thoát khỏi đau khổ ràng buộc cắm dỗ của ngũ trần. Đây là tám nghành đưa con người tiến thẳng về Niết bàn. Nên đạo Khất sĩ mới có Y, Bát mà thôi. Nhất bát thiên gia phạn Cô thân vạn lý du Dục cùng sanh tử lộ Khất hóa độ xuân thu Nghĩa: Một bát cơm ngàn nhà Một mình muôn dặm xa Muốn hết đường sanh tử Xin hóa độ nghiệp xưa. Y bát là đường lối tu tập của Hệ phái Khất sĩ,mà Tổ sư đã dạy pháp căn bản này để rèn luyện tâm ý. Người tu Khất sĩ lấy hạnh trì bình khất thực làm một trong những pháp môn tu tập. Hạnh Khất thực đúng chánh pháp là thể hiện chơn truyền của Phật tổ xưa. Pháp này đem lại lợi ích lớn cho mình và người, khi thực hành pháp môn Khất thực đúng chánh pháp, làm cho người tu tập thân tâm thanh tịnh, lục căn vắng lặng, khi đi mắt chẳng nhìn xung quanh,tai không nghe ngóng, mũi chẳng ngửi xằng, miệng không nói quấy, thân chẳng lăng xăng, ý không vọng động. Và cốt yếu của pháp môn này là giúp cho mọi người biết trải lòng mình trước những người không hề quen biết, biết cúng dường bố thí mà tâm không hề so đo tính toán, và tập cho họ gieo những hạt giống lành vào ruộng phước điền dù vật ấy nhỏ nhưng với tâm thành kính thì phước báu vô cùng,biết phát tâm cúng dường Tăng bảo, làm cho họ được lợi lạc an vui hạnh phúc ngay trong hiện tại. Y bát là pháp môn làm lợi lạc cho nhân sinh, đem tinh thần xả bỏ chấp trước, keo kiệt, tham lam mà hóa độ chúng sanh cang cường, làm cho họ hiểu
33
bản chất thật của các pháp, lấy hạnh từ bi bình đẵng để chan hòa, không phân biệt nghèo giàu, hãy mở lòng ra để thấu hiểu những người xung quanh ta. Tấm y còn có năng lực bố ma phá ác ngăn ngừa mọi lỗi lầm có thể xảy ra. “Bởi khất cái với khất sĩ cũng tương tự in nhau, vì kẻ gian manh muốn sắm áo bát bao nhiêu cũng được, người Khất sĩ phải là thật học phải đủ đức hạnh, phải có chơn tu mới được gọi đúng danh từ Khất sĩ." [34, tr.289]. Bởi thế, Y và Bát là nơi cho mọi người gieo trồng hạt giống bồ đề, tạo thêm phước điền, ngoài ra còn có công dụng cho người thực hành diệt trừ tham sân si, cống cao ngã mạng, biết tích phước, từ những việc nhỏ nhặt, làm hành trang cho chính mình trên con đường tìm cầu giải thoát an lạc. Chính vì vậy mà Đạo Phật Khất Sĩ truyền bá đến đâu cũng được người dân đón nhận, ủng hộ một cách nhanh chóng, có tầm ảnh hưởng đáng kể trong giai đoạn nhập thế, và bén rể ăn sâu vào trong đời sống của người dân. Đặc biệt, điều cần nhấn mạnh ở đây là, Đạo Phật Khất sĩ tuy là một hệ phái sanh sau,ra đời muộn, nhưng được Tổ sư khai sáng dẫn dắt, Ngài đã kết hợp được những tinh hoa, cốt lõi của hai nguồn tư tưởng giáo lý truyền thống Bắc Tuyền và Nam Truyền tạo thành một hệ phái mới có nét đặc trưng riêng của Phật giáo Việt nam, gần gũi với dân chúng nên dễ được người dân chấp nhận và tu tập theo. Vậy phương pháp hành trì của Đúc Tổ Sư có gì để cũng cố niềm tin cho Phật tử thời bấy giờ? Làm cho người dân Nam Bộ nói riêng và mọi người dân Việt Nam nói chung lấy đó làm điểm tựa tâm linh trong đời sống hằng ngày. Đặc biệt, trong phương pháp giáo hóa độ sanh Tổ sư còn đề cao việc chứng nghiệm thân hành(thân giáo) vì trên con đường hoằng pháp thì phải nói đến việc giảng dạy, thuyết trình giảng giải để mọi người thấu hiểu và nhận thức rõ về con đường đạo. Con đường nhận thức ấy người nghe vẫn còn hạn chế trong sư hiểu biết của mình vì vậy Tổ sư đã dùng sự chứng nghiệm của tự
34
thân và dùng thân giáo để làm gương đánh thức tâm Phật ở nơi mỗi chúng sanh. Vì Ngài cho rằng nhận thức hiểu biết của mỗi người không đồng nhau,chỉ bằng hạnh động thì ai ai cũng sẽ dễ hiểu hơn, điều này được Đức Phật dạy trong kinh Pháp Cú: “Như bông hoa tươi đẹp, Có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, Không làm, không kết quả. Cho nên dù có dùng thiện xảo trong lời nói để thuyết giảng hay hoa mỹ đến đâu đi nữa mà không tạo được niềm tin, để làm cho hột giống bồ đề trổ hoa thì không có ích lợi gì cả; cũng vậy vị giảng sư dùng ngôn từ hoa mỹ nhưng không thực hành được thì không có kết quả gì. Vì vậy, Ngài đã dùng thân giáo mà giáo hóa làm tấm gương sáng cho đệ tử noi theo để có lợi ích cho mình và mọi người. Trong Chơn Lý, Ngài cũng có dạy: “những bậc tu xuất gia, tuy không còn dính dấp với xã hội gia đình, nhân loại, nhưng cũng đem thân mạng đền trả cho đời bằng gương nết hạnh hiền lương; và lời nói, việc làm, ý niệm,đạo lý, đem giúp đỡ cho xã hội, gia đình bình yên, trong sạch sáng láng, nên mới dượcđứng vững lâu dài, không rối loạn” [35, tr.473]. Thật vậy, người xuất gia một khi đã lìa bỏ ngôi nhà nhỏ để đến ngôi nhà lớn tập sống chung tu học thì tu tập ba nghiệp, làm cho ba nghiệp thanh tịnh, trong đó nghiệp thân rất quan trọng, mọi hành động đưa đến nghiệp đều do hành động của chính mình. Thân có thanh tịnh trang nghiêm thì những người xung quanh vẫn được hưởng theo và tu theo.
2.2.3. Tứ y pháp
Tổ Minh Đăng Quang đã hành trì và dẫn dắt Tăng Ni hành trì Tứ y pháp, để xây dựng niềm tin cho hàng cư sĩ tại gia qua hình ảnh của một vị
35
tăng khất sĩ, sống đời sống thanh bần đạm bạc, không chất chứa, không nắm giữ, không quá cầu kỳ, đưa mối đạo làm tôn chỉ không vì bản thân, mà vì sự giải thoát an vui của mọi người, thực hiện ý nguyện “Nối Truyền Thích Ca Chánh Pháp”. Bởi Đạo Phật trãi qua thời gian dài của biến cố lịch sử, tứ y pháp đã bị lãng quên trong hàng tăng sĩ. Đức Tổ Sư đã tái hiện lại qua thân hành bằng phương pháp khất thực. Từ khi ngộ đạo cho đến ngày vắng bóng, Tổ Sư Minh Đăng Quang chọn pháp môn khất thực làm phương pháp hoạt động chính cho sự tu tập và hành đạo. Trong đó, Tứ y pháp là một trong những pháp môn căn bản mà mười phương chư Phật đều hành trì. Tứ y pháp là bốn điều mà trong kinh đã nói đây là bốn điều được Đức Thế Tôn khuyên dạy cho hàng Tỳ kheo đã thọ trì cụ túc giới phải hành trình suốt đời với mục đích làm thanh tịnh hàng ngũ tăng chúng xa lánh hai cực đoan, người tu hành không nên quá khổ hạnh hay quá lợi dưỡng chăm chút cho bản thân quá sung túc thì khó mà tu được. Phải biết tri túc vừa đủ, làm bậc thầy mô phạm để cho chúng sanh lấy đó làm gương soi chiếu và hướng theo. Tứ Y Pháp là bốn pháp mà mỗi vị Tỳ Kheo vào thời Đức Phật phải nghiêm trì để có được đời sống phạm hạnh thanh tịnh. Và cũng để diệt trừ đi tự ngã những chấp kiến ngã mạn, kiêu mạn của mình. Bốn điều đó là: Nhà sư khất thực: phải lượm những vãi bỏ mà đâu lại thành áo, nhưng có ai cúng vãi, đồ cũ thì được nhận. Nhà sư khất thực: chỉ xin đồ ăn mà thôi, nhưng ngày hội, thuyết pháp, đọc giới bổn được ăn tại chùa. Nhà sư khất thực: phải nghỉ dưới cội cây, nhưng có ai cúng lều am nhỏ bằng, lá một cửa thì được ở. Nhà sư khất thực: chỉ cùng cây, cỏ, vỏ lá mà làm thuốc trong khi đau,
36
nhưng có ai cúng thuốc, dầu, đường thì được dùng [34, tr.47]. Tứ Y Pháp được Đức Tổ Sư rút tỉa trong Tứ phần luật, Ngũ phần luật hay Thập tụng luật. Trong Tứ phần luật: 1. Vị tỳ kheo phải nương vào phấn tảo y. Do nương vào pháp này mà được xuất gia thọ cụ túc giới, thành tựu tỳ khưu pháp... nếu được lợi dưỡng lâu dài như y của Phật tử cúng dường, y cắt vá thì được thọ. 2. Vị tỳ khưu phải nương vào khất thực. Do nương vào pháp này mà được xuất gia thọ cụ túc giới, thành tựu tỳ kheo pháp... nếu được lợi dưỡng lâu dài như thức ăn do chư tăng sai đi, thức ăn do Phật tử mang đến cúng dường, thức ăn trong các ngày mồng 8, 15 đầu tháng, thức ăn thường ngày của chư tăng, thức ăn do Phật tử thỉnh cúng dường thì được thọ. 3. Vị tỳ kheo phải nương vào pháp nghĩ dưới gốc cây. Do nương vào pháp này mà được xuất gia thọ cụ túc giới, thành tựu tỳ khưu pháp... nếu được lợi dưỡng lâu dài như phòng riêng, phòng có mái nhọn, phòng nhỏ, thất bằng đá, nhà có hai phòng thì được thọ. 4. Vị tỳ kheo phải nương vào thuốc khô hư. Do nương vào pháp này mà được xuất gia thọ cụ túc giới, thành tựu tỳ khưu pháp... nếu được lợi dưỡng lâu dài như bơ, dầu, sữa, mật ông, đường thì được thọ [37, tr.1252]. Trong Ngũ phần luật: Trong ngũ phần luật và thập tụng luật cũng có ghi về Tứ y pháp này. Điều này chứng minh rằng Tổ Sư nghiên cứu rất kỷ về Tứ y pháp, (mặc dù là chữ Hán, nhưng Ngài đã viết lại bằng chữ Việt cho người thọ trì dễ hiểu và dễ hành). Ngài khẳng định nó là bốn pháp cơ bản mà người xuất gia phải nghiêm giữ. Bốn pháp ấy về sau là Trung đạo. Vì Ngài cho rằng con người sanh ra thì sự ăn mặc ở bệnh của thế gian họ rất xem trọng. Cần cầu, tranh
37
giành mưu mô để có, những điều làm cho người phải so đo tính toán, hơn thua này dẫn đến đau khổ, không lối thoát, trầm luân trong sanh tử. Ngài muốn người xuất gia không quá nặng lòng về ăn, mặc, ở, bệnh, nhưng không vì vậy mà phải gò ép, buộc chặt cuộc sống của chính mình. Mỗi buổi sáng phải đi khất thực, cầu xin cái ăn của người thế gian để nuôi sống bản thân, giúp cho phật tử từ bỏ ngã mạn, biết mở lòng từ bi, biết cho đi và không cần nhận lại. Và người nhận cũng không quá mang tính tham cầu cái ăn. Ăn một bữa vừa đủ no, để nuôi sống huệ mạng mà tu tập hàng ngày, cũng như sự ngủ nghĩ không ở một nơi, không cần giường êm nệm ấm chỉ cần có nơi che mưa che gió là đủ, không bị vướng mắc để người xuất gia dẹp bỏ cái ngã chấp thủ của riêng mình, coi đó là phương tiện để nuôi sống tấm thân giả tạm mà thôi. Đức Tổ Sư có giảng dạy “Tứ Y Pháp” là chánh pháp của chư Phật mười phương ba đời, là giáo lý y bát khất Sĩ vậy. Con đường khất sĩ đi đến quả Phật, kêu là trung đạo chánh đẳng chánh giác vô thượng. Trung đạo ấy là Tứ y pháp [38, tr.7]. Vì thế có thể nói “Tứ y pháp” là pháp mà người xuất gia buổi đầu học Phật không thể thiếu, vì phải năng rèn luyện pháp này làm cho thân, tâm, ý được thanh tịnh hoàn toàn cho tới khi rời khỏi ngôi nhà thế tục, để bước lên ngôi nhà xuất thế. Nhập vào hàng Tăng chúng thì mới có thể an tâm mà tu tập. Đức Phật dạy trên bước đường tu tập không thái quá cũng đừng bất cập cực đoan, thấy được giáo lý nhân duyên giả hợp, tất cả đều phải chịu sự chi phối của vô thường. Tất cả các pháp đều có nhân duyên tương tác qua lại mà hình thành. Vậy nên đối với người xuất gia muốn tiết chế trong tứ vật dụng và diệt trừ tâm tham, sân, si thì cần phải hành trì tứ y pháp. Tứ y pháp còn là đạo Phật còn Tứ y pháp mất là đạo Phật mất Ai hành sái tứ y pháp, tức là tà pháp
38
Và thấy tứ y pháp, tức là Phật hiện tại. Có thể nói “Tứ y pháp” là kho tạng kinh, kho tạng luật,kho tạng luận. Ai có thực hành rồi mới được thấu hiểu” Thật vậy nếu chúng ta nghiên cứu kỷ sẽ thấy được dụng ý của chư Phật. Vì thời Đức Phật ban đầu chưa có giới luật mà lấy bốn pháp này làm nền tảng để rèn luyện thân khẩu ý, không còn tham đắm trước vật chất phù du nữa, cũng như không còn thấy ta là tất cả, diệt được bản ngã vô minh, phiền não. Con đường để thanh lọc thân tâm và tu chứng của một vị Tỳ kheo đó là Bát chánh đạo hay gói gọn trong Giới, Định, Tuệ. Mà mười phương chư Phật đã hành trì tu chứng đạo quả, Đức Tổ sư với tâm nguyện khơi nguồn chánh pháp của chư Phật xưa vậy nên Ngài cũng lấy Giới,Định,Tuệ làm nền tảng căn bản trong đời sống tu tập.
2.2.4. Giới, Định, Tuệ
Giới,“Sila” phiên âm là Thi la. Là đạo đức, hay là những nguyên tắc, được Đức Phật chế ra cho hàng đệ tử xuất gia cũng như tại gia theo đó mà thọ trì để rèn luyện thân tâm cũng như chế ngự được thân, khẩu, ý không tạo nghiệp. Từ ngàn xưa đến nay giới hay giới Luật được xem như mạch huyết của Tăng Đoàn hay mạch sống của chính người xuất gia. Vì vậy trong luật Đức Phật có dạy: “nơi nào giới luật còn thì nơi đó Phật Pháp vẫn đang duy trì và phát triển”. Muốn cho Tăng đoàn vững mạnh, Đức Phật chế ra giới luật để làm hàng rào bảo vệ người xuất gia. Giới là nền tảng đạo đức của Phật, việc tu tập phải lấy giới làm điều kiện thiết yếu và quan trọng để tạo dựng nên một nền tảng vững chắc để định năng sanh khởi,một khi giới được giữ gìn trang nghiêm, thanh tịnh phối hợp với việc hành thiền sẽ làm cho trí tuệ phát sanh, đập tan vô minh khiến cho hành giả thấy được các chân lý về sự khổ, không, vô ngã. Trong đó giới được xem là nền tảng. Giới định nghĩa gồm có giới thể và giới tướng. Giới tướng được phân ra làm giới cho hàng cư sĩ, sa di, Tỳ kheo, hay của Bồ tát.
39
Bất cứ tôn giáo nào muốn phát triển bền vững thì đều phải có giới luật, Đạo Phật cũng không ngoại lệ. Theo lịch sử Phật giáo ghi lại, trong mười hai năm đầu khi Đức thế Tôn mới thành đạo những người đệ tử theo mặc nhiên không cần có giới nhưng họ không bao giờ phạm một điều gì cả, đến năm thứ 13 có xảy ra chuyện Na- Đề-Tử ân ái với vợ cũ,có người thưa lên Đức Phật nên Ngài mới chế giới. Theo đó, Tỳ kheo có 250 giới, Tỳ kheo ni 348, Thức xoa ma na ni giới, mười giới cho sa di, và 5 giới cho hàng cư sĩ. Theo Tổ sư Minh Đăng Quang “Giới luật của giáo hội Tăng già là xứ Tây phương Tịnh độ, cực lạc an dưỡng của chúng sanh” [39, tr.47].Xứ Tây phương tịnh độ Tăng già là do có nghiêm trì giới luật của Phật chế ra, tăng đoàn phải áp dụng giới trong cuộc sống tu tập của mình. Tổ sư cũng đã nêu lên 10 sự lợi ích mà Đức Phật đã chế giới là: 1. Vì nhiếp phục tăng chúng. 2. Vì nhằm triệt để nhiếp phục tăng chúng. 3. Vì muốn cho tăng chúng an lạc. 4. Vì để nhiếp phục những người không biết hỗ thẹn. 5. Vì để cho những người biết hỗ thẹn cư trú an ổn. 6. Vì để cho những người không tin khiến cho họ tin tưởng. 7. Vì để cho những nguời đã tin tăng thêm niềm tin. 8. Vì muốn dứt hết pháp lậu hoặc ngay trong hiện tại. 9. Vì để cho những lậu hoặc chưa sinh không thể sinh khởi. 10. Vì muốn cho chánh pháp được tồn tại lâu dài. Giới của Đức Phật đưa ra đã được Ngài kế thừa và phát huy. Ngài căn cứ vào luật Tú phần, và một số kinh điển Đại thừa và kinh điển của Nikaya làm nền tảng để Ngài chia ra nhiều phần và từng hạng người để dễ hành trì, nếu trì giữ nghiêm túc thì sẽ được Định. Đọc qua giới luật Khất sĩ trong bộ Chơn Lý, chúng ta sẽ thấy Tổ sư Minh Đăng Quang luôn luôn đề cao về giới luật Ngài luôn nhắc nhỡ hàng đệ tử là phải lấy giới làm thầy dẫn dắt chúng ta trên suốt chặng đường tìm cầu
40
giải thoát. Có thể nói,Ngài vừa kế thừa nền tảng giới luật Phật tổ đã để lại một cách cẩn trọng nghiêm túc, lại vừa uyển chuyển để phù hợp với căn cơ cũng như hoàn cảnh của người học phật lúc bấy giờ. Ngài chuyển hóa bộ luật thành chữ quốc ngữ và chọn lọc sắp xếp gọn gàng dễ hiểu cũng là nét đặc biệt đã chứng minh khuynh hướng Đại thừa rất khế cơ khế lý mà Tổ sư đã thể hiện sinh động trong bộ Chơn Lý Giới là nền tảng của Định. “Định là chánh, Thể của định là vũ trụ bao la vô cực, Tướng của định là chơn như không vọng động Dụng của Định là thay đổi tiến hóa,an vui giác ngộ qủa linh thần thông, Lý của Định là tự nhiên chơn thật, thân của Định là Giới, Trí của Định là Huệ, Tánh của Định là chơn còn Định là tâm của tất cả chúng sanh hay cũng là sự sống sức mạnh bao gồm tất cả”. Trên con đường tìm cầu giải thoát, khi không bận tâm bởi ngũ dục, lục trần thì mới đạt được định tĩnh ở trong tâm, không còn dao động bởi những cám dỗ tầm thường của thế tục, như ngọn đèn vững vàng được bao bọc bởi bóng đèn, ánh sáng toả rạng soi rọi khắp nơi. Thật vậy hành giả Khất Sĩ đầy đủ giới trang bị giới như áo giáp không sợ bị mũi tên độc của tham sân si, phiền não, nghiệp chướng đâm xuyên phá được và từ đây bước chân đi du hoá khắp nhân gian gieo hạt giống từ bi trí tuệ khắp muôn nơi đấy là hạnh nguyện của một tỳ kheo Khất Sĩ. Trong nếp sống thiền môn của chư Tăng Ni Khất Sĩ, Thiền Định - quán chiếu là một nếp sống không thể thiếu để trau dồi nội lực tịnh hoá tam nghiệp để trở về với bản tâm thanh tịnh chơn như của chính mình. Chính nhờ sự quán chiếu này Tôn Sư Minh Đăng Quang đã đạt được đạo khi nhìn thấy bọt sóng từng đợt vào ra tựu tán trên mặt biển. Để được như vậy người xuất gia phải là chơn tâm xuất gia cầu đạo giải thoát quyết lòng đạt đạo mới thôi, muốn thế phải
41
chánh định diệt trừ vọng niệm cắt đứt vòng hệ luỵ, cỡi trói sợi dây oan nghiệt, trở về với chơn tâm thường trú của chính mình tìm lại Phật tánh của mình. Và như vậy Đạo Phật khất sĩ Việt Nam của Tổ Sư Minh Đăng Quang chủ trương thiền định quán chiếu vì đó là mục tiêu quan trọng của người xuất gia, có chánh định mới làm chủ được mình mới làm thầy của trời và người, làm chỗ dựa cho bao tâm hồn bị lạc lỏng không nơi nương tựa, nương vào Tăng là người thừa kế sự nghiệp của chư Phật ba đời “kế vãng khai lai báo Phật ân đức” làm rường cột cho ngôi nhà Phật Pháp, để đảm bảo cho ngôi nhà Phật Pháp trường tồn mãi mãi trên thế gian này. Trong Pháp Vi Tế, nơi phần Bát Chánh Đạo đã nêu lên 4 Phần Chánh Định: 1. Sơ định: tầm sát, hỷ, lạc, tịnh, định. 2. Nhị định: hỷ, lạc, tịnh, định. 3. Tam định: lạc, tịnh, định. 4. Tứ định: tịnh, định. (Ngũ định: định, đại định, Niết-bàn). Trong Chơn Lý Nhập Định, đức Tổ sư cũng dạy: “Tứ định là: tịnh, định; và sẽ đến định xả, là đắc đạo, đắc chơn ngã, chủ tể, kết quả” . Như vậy, Giới là cội rễ của Định, Định là căn nguyên của Tuệ. Cả ba Giới, Định, tuệ nương hỗ vào nhau, bất phân biệt trên con đường tìm cầu giác ngộ, giải thoát của hành giả. Theo những sự hướng dẫn trên của Tổ sư, chúng ta thấy rõ con đường đến Niết-bàn qua 4 bậc thiền định căn bản. Từ Sơ định đi lên như Bồ-tát Tất Đạt Đa đã tu trong 49 ngày tọa thiền dưới cội Bồ-đề năm xưa, qua khỏi Tứ định thì hướng tâm đến Ngũ định là Định xả, để an trú Niết-bàn ngay. Giáo lý thiềnđịnh này của đức Tổ sư Minh Đăng Quang vô cùng đặc biệt, không hề có trong các hệ thống thiền định của Phật giáo Bắc truyền và Nam truyền.
42
Trực chỉ lànguyên lý căn bản, là điều mà người tu học nhận ra được trong giáo lý thiền Ngũ định của đức Tổ sư Minh Đăng Quang.Trong thực tế, chứng nghiệmNiết-bàn, thành tựu đạo quả giải thoát, những mục đích cứu cánh của đời tu hành tưởng chừng xa vời, nhưng bằng phương pháp giảng truyền gần gũi, thiết thực, đức Tổ sư đã chỉ dạy rất rõ ràng:phương pháp thiền phải bắt đầu từ đạt Định. Trong Chơn Lý “Nhập định”, Tổ sư đã chỉ ra tầm quan trọng của Định. Định tâm là sự sống, nó quyết định sự thành bại nơi chúng sanh; người có Định mới thấu rõ các pháp, thông suốt việc đời, mới dứt trừ phiền não và có thần thông hiển linh: Định là chỗ đến, kết quả, mục đích của các con đường. Định là một năng lực mạnh mẽ nhất. Định là sanh mạng của thân tâm trí ta… Định là một sức mạnh thần thông, nhờ yên lặng cái ý mới mạnh mẽ gom hiệp mà điều khiển sự biến hóa linh nghiệm… Dầu chưa phải là đại định lâu ngày, chớ cái định trong chốc lát nó cũng giúp cho ta biết baođiều khỏe khoắn nghỉ ngơi, và làmcho ta được tỉnh táo trí huệ. Cái định hằng có nơi mỗi chỗ, nơi mọi lúc, mắt tai mũi lưỡi thân ý phải định luôn luôn. Ông thầy giáo không định thì chết, người học trò khôngđịnh thìđiên. Ai ai khôngđịnh thì khổ. Định là giấc ngủ ngon hay như cái chết sướng. Cho nên, định làmùi vị của các sự việc. Có định mới có thành công, không thất bại cho mỗi hạng người. Để tu tập đạt được Chánh Định, thành tựu trí tuệ giải thoát, Tổ sư đã vạch ra lộ trình đúng với giáo pháp của Đức Phật đã chỉ bày, đó là phải tu tập Bát chánh đạo: “Muốn vui sống có ta thì phải định, muốn có định và biết định thì phải tầm tõi quán xét thấy cho rõ lẽ thật là chánh kiến. Có CHÁNH KIẾN thấy rõ lẽ chánh mới phát sanh được những điều suy gẫm về lẽ chánh chơn như mà
43
thấu rõ đạo lý các pháp. Có thấu đạo lý do CHÁNH TƯ DUY mới năng nói lời chơn chánh. Từ nơi CHÁNH NGỮ mới có thật hành CHÁNH NGHIỆP, là việc làm đúng theo đạo lý. Có làm việc phải mới được nuôi thân mạng bằng cách trong sạch thiện lành, hưởng sự yên vui. Có được CHÁNH MẠNG mới biết mừng vui siêngnănggiữ đạo đi tới. Nhờ CHÁNH TINH TẤN mới không có thì giờ xao lãng vọngđộng ác tà, bấy giờ tâm mới trong sạch, ý ngó ngay vào một chỗ chơn như không vọng động, niệm tưởng không lìa xa một chỗ phải. Nhờ CHÁNH NIỆM giữ ý nơi một điều lành, nơi một chỗ một, thì ý mới định. Ý định là thân khẩu phải định, thân khẩu ý đều định gọi là tâm định, định tại nơi lẽ chánh, chỗ thiện lành sáng suốt, kêu gọi CHÁNH ĐỊNH là sự yên lặng, nín nghỉ hưu trí. Niết-bàn là nơi rốt ráo quyết định, là cảnh giới nhứt định[40, tr.346].
2.2.5. Tinh thần sống chung tu học
Trong Phật Quang Đại từ điển giải thích, Tăng già để chỉ cho đệ tử của Phật xuất gia tu đạo, đầy đủ Giới - Định - Huệ, Giải thoát và Giải thoát tri kiến… Ngoài ra, Tăng già còn chỉ cho một đoàn thể gồm 4 vị Tỳ kheo trở lên sống hòa hợp theo giới luật Phật chế định. Bản thể của Tăng già là thanh tịnh và hòa hợp. Đức Tổ sư ngay từ buổi đầu lập đạo đã nhận thấy giá trị quý báu của đoàn thể Tăng già, nên Ngài thường khuyến tấn chư Tăng Ni hãy cùng nhau sống chung tu học để cùng bảo vệ, tôn trọng và giúp đỡ, cùng dắt dìu nhau tu sửa thân tâm, buông bỏ chấp ngã, diệt trừ cái ta ích kỷ nhỏ hẹp. Ngài chủ trương:“Nên tập sống chung tu học: Cái sống là phải sống chung, Cái biết là phải học chung, Cái linh là phải tu chung”.
2.2.5.1. Cái sống là phải sống chung
44
Mục đích của việc sống chung tu học được Tổ sư nhấn mạnh là để sống đúng theo giới luật của Đức Phật chế định bằng lẽ sống hiền hòa, nhân đức, nhân ái, cùng nhau xây dựng cõi đời thiện lành trong sạch, bình đẳng, không tranh, chỉ dùng đức hạnh giáo hóa chúng sanh: “Lẽ sống chung tu học càng nhiều thiện lành trong sạch, có giới luật của từng lớp một như nhau, là báu quý, tốt đẹp lắm. Còn ai không kỷ luật là tất nhiên phải bị tai nạn sợ sệt, vì tưởng sai, lầm hiểu… Cõi bình đẳng về sắc thân khôngaihơn kém, chỉ dùng đức hạnh làm cây thước để đo trình độ thấp cao. Trongđạo cả thảy sự sống như nhau, một tiếng Khất sĩ như nhau”. [41, tr.366]. Sống chung tu học là sống trong tinh thần Tam tụ, Lục hòa nhằm nung đúc, rèn luyện, tăng trưởng tham vấn tu học, nhắc nhở nhau học hỏi điều lành, diệt trừ điều ác: “Giáo lý Khất sĩ, một là dứt các điều ác, hai là làm các điều lành tùy theo nhân duyên cảnh ngộ, không cố chấp, vì lẽ không có thì giờ dư dả, và cũng biết rằng các việc lành là để trau tâm, vì tâm mà làm sự phải, chớ không ngó xem nơi việc làm kết quả; và ba là cốt yếu giữ lòng trong sạch” [42, tr.422]. Nếu chủ nghĩa cá nhân được nâng cao, khi đó tinh thần của tập thể sẽ bị giảm sút và ngược lại. Điều đó nói lên rằng, người xuất gia nếu tách riêng đoàn thể, thì “cái tôi” sẽ lớn dần, làm xa cách tình gắn kết giữa huynh đệ. Đối với các Sa di, Tập sự mới tập tu học, Tổ sư thường dạy phải luôn thực hiện bổn phận của “người con”, “người học trò” trong mỗi lúc, phải buông bỏ ý niệm tư riêng, đừng làm trái ý người, hoặc tự ý làm nếu không được sự cho phép, biết sống hòa mình trong Giáo hội Tăng già để trao sửa thân tâm, vuông tròn phẩm hạnh: (Kệ Ý) Bước đầu bổn phận làm trò Cả thân tâm trí dâng cho người thầy Mặc người uốn nắn chuyển xoay
45
Đặng mình diệt hẳn riêng tây ý xằng Sống chung Giáo hội chư Tăng Không còn tư ý mới năng thuận hòa Đừng làm trái ý người ta Cũng đừng tự ý kiêu sa của mình Mới mong thật hiện hòa bình Nhờ nơi giáo pháp chương trình in khuôn Chẳng ai ý lộng, tâm buông Mỗi người nắn đúc tròn vuông thành phần.
2.2.5.2.Cái biết là phải học chung:
Cái biết ở đây được hiểu là phương tiện để hiểu biết về nhận thức của con người đối với sự vật hiện tượng, đối với duyên sinh các pháp. Tất cả con người đều có cái biết hằng hữu bên mình. Ai có tâm là người đó có cái biết. Cái biết nó luôn có mặt trong con người từ lúc sanh ra đến lúc chết đi, không hề thiếu vắng. Nhưng ở đây, phần lớn chúng sanh đem cái biết của mình gắn chặt những phiền muộn lo âu, gắn với lục dục thất tình… Do vậy, cái biết đó đem đến sự khổ đau, trầm luân trong tử sanh. Trong Chơn Lý “Khất sĩ”, Tổ sư dạy người tu phải có “học, hiểu và thực hành chơn lý” thì cái biết đó mới đem lại lợi ích, mới dứt khổ, mới được yên vui mãi mãi: Có biết mới hết mê lầm chấp trật, khổ sở nạn tai. Từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ trước đến sau, từ chiều đến sáng, mỗi lúc cái biết càng phân biệt, làm việc tích trữ, lớn to và đi tới, làm cho chúng sanh càng ngày càng được thêm sự học hành. Chúng sanh đây là căn thân và chủ thức (là người nhận biết). Cho nên, cáibiết chủ cần phải sống, lớn, ăn, vui, yên và còn mãi mãi. Chính biết là Ta, là mục đích của chúng sanh, là chơn lý của cuộc đời, là tinhba của võ trụ. Kế đến, học để biết điều ác, tội lỗi mà tránh và học để tu mới thanh lọc
46
được tham sân si mê muội: “Cái học sẽ đánh đổ cái ăn, cái ác, cái tranh, cái tham, cái chơi, tất cả. Cái học cũng như bức tường, nó cản dừng hết thảy nhữngngọn gió, thì những lá cây sẽ không còn xao động. Cáitiếng học, nó thắngtất cả sựhơn thuamêmuội. Người ngó ngay nơi cái học làm mục đích làsẽ không còn thamsân si chi nữa hết,thế giới tất sẽ bình yên”. Về vấn đề pháp học, pháp hành, Ngài dạy: “Người Khất sĩ phải là có thật học, phải đủ đức hạnh, phải có chơn tu mới được gọi đúng danh từ Khất sĩ”. (Chơn Lý: “Y bát chơn truyền”). Pháp học đưa đến tri kiến, tức là sự hiểu biết; còn pháp hành đưa đến sự giải thoát giác ngộ. Điều này đã được Đức Phật nhắc nhở trong kinh Pháp Cú, câu 19 -20 20 “Nếu người nói nhiều kinh” Không hành trì, phóng dật Như kẻ chăn bỏ người Không phần Sa môn hạnh”. “Dầu nói ít kinh điển Nhưng hànhpháp, tùy pháp Từ bỏ tham sân si
Tỉnh giác, tâm giải thoát Không chấp thủ hai đời Dự phần Sa môn hạnh”.
2.2.5.3. Cái linh là phải tu chung:
Hiện nay, Hệ phái đã thành lập khóa tu Bồi dưỡng Đạo hạnh dành cho Sa di, Tập sự, ít nhất mỗi năm một lần để các vị mới xuất gia được sống chung tu học theo lời dạy của Tổ sư. Đây là dịp để mỗi vị được sống theo thanh quy thiền môn, được trao dồi pháp học, pháp hành về đường lối tu tập của Hệ phái. Các vị Sa di, Tập sự phải hiểu đó là phúc duyên lớn, mà các vị được thọ nhận giáo pháp từ Đức Phật và Đức Tổ sư. Người xưa thường bảo: “Tu mà không học là tu mù/ Học mà không tu
47
là đãy sách”. Vấn đề học và tu được đức Tổ sư dạy một cách rõ ràng, đó là phải chú trọng ngang nhau giữa pháp học và pháp hành: Mặc dầu các sư tuy ít học, mà cái học chín chắn bằng sự tham thiền, học đến đâu tu hành theo kịp đến đó, chẳng là có kết quả hơn cái học mênh mông. Vả lại, học tuy được mà chưa hành được, thì chắc gì ai dám tin trọn lời nói đó. Tài học không bằng tu đức, đức trên tài dưới, tài đức phải nương nhau mới đặng. Các Phật Thánh xưa xuất gia là để tu, từ nơi chỗ thật hành tu đức mà sanh trí huệ toàn học, nhờ học chậm rãi, khó khăn, kinh nghiệm, mà pháp bảo đối với các Ngài hưởng được mùi vị hay quí thơm ngon lắm. Ngày xưa ít học mà nên nhiều, ngày nay học nhiều mà nên ít, là cũng bởi trọng học tài quên tu đức. (Chơn Lý: “Tông giáo”) [43]. Có thể thấy, giáo lý “Sống chung tu học” được đức Tổ sư trình bày rất nhiều lần trong nhiều quyển Chơn Lý. Sống chung- học chung - tu chung được xem như là một nguyên lý không thể tách rời đời sống phạm hạnh của một vị xuất gia. Cũng ở nội dung này, Tổ sư chỉ ra mỗi liên hệ mật thiết giữa chúng như sau: “Các ngươi có được cái biết là mục đích, phải cố gắng tìm học cho được toàn giác. Các ngươi có sẵn cái linh nên phải tập giữ sự yên lặng cho nó linh thiêng… Hễ sống dai tu học lâu năm, ắt là đắc đạo”. (Chơn Lý: “Đi học”). Có “Sống chung tu học” thì Tăng đoàn mới vững mạnh, các giá trị đạo đức tâm linh của cá nhân và tập thể mới được nâng cao, và cũng để nhắc nhở các Sa di, Tập sự phải luôn tâm niệm: “Tu học đạo đức là món ăn về tinh thần lý trí, để đến với tâm chơn Phật, một lẽ sống tinh khiết hoàn toàn, rất cần hơn tất cả nghệ thuật và mọi sự học về bên ngoài thể chất, cùng sự dồi trau sắc thân, cái có, tô đắp sự vật hữu tình tan hoại, cần hơn cả thức ăn bổ dưỡng mỹ vị để nuôi sống thân…”. (Chơn Lý: Sa di phải biết rằng).
2.2.6. Nhiếp phục, trau dồi Thân, Khẩu, Ý:
48
Một trong những ý pháp căn bản mà Tổ sư luôn luôn khuyên dạy hàng Tăng Ni Khất sĩ nhận biết trong Chơn Lý đó là tu tập thanh lọc, nhiếp phục thân, khẩu, ý trong sạch. Ý pháp này được Tổ sư dạy cụ thể trong quyển Chơn Lý “Tu và nghiệp”: Thân trong sạch ấy là xứ Phật Miệng trong sạch ấy là pháp Phật Ý trong sạch ấy là con Phật Tâm trong sạch chính là đức Phật. Lời dạy của Tổ sư súc tích, ngắn gọn nhưng khế hợp với giáo pháp của Đức Phật. Gìn giữ tam nghiệp thanh tịnh ấy mới được gọi là xuất gia chơn chánh, tức là vị Tăng Khất sĩ phải có giới đức trong sạch. Đối với Sa di, Tập sự, thân trong sạch là thân phải có giới luật “mới có thể phân biệt được nẻo chánh, đường tà”, và “phải trì giới phạm hạnh thanh tịnh, chớ đụng cọ với ai ai”. Khi đã hiểu được bản chất vô thường của kiếp sống, nhận diện các pháp vô ngã… phát nguyện tu tập thì thân mới dừng lại những điều xấu ác, tâm mới không chạy theo thất tình lục dục: Đem thân làm kẻ tội đày Cho bao vật chất nó cai trị mình Để tâm làm vật hy sinh Suốt đời theo lịnh dục tình dắt lôi Cái tham bao thuở cho rồi Cái không may đến một hồi là xong Dã tràng xe cát biển đông Vô tình lượn sóng cướp công nhọc nhằn. (Kệ “Thân”) Và khi đó, người tu sẽ thực hành theo lời dạy trong điều luật Phật chế: “không làm việc sát sanh, trộm cắp tổn hại ai… Chỉ làm việc đạo lý: viết sách, dịch kinh, tham thiền, nhập định, thuyết pháp, luận đạo, dạy học, khất
49
thực làm gương lành; giúp việc công cho Giáo hội, quét dọn chùa, tháp, cốc, sân, lượm rác, đóng cửa chùa; may áo vá y cho Giáo hội, sắc thuốc, nấu cháo nuôi người bệnh…”. Một loạt những thiện pháp mà các vị Sa di, Tập sự cần phải ghi nhớ và thực hiện mỗi ngày để lắng dần những hành động bất thiện, từ đó, thân sẽ thuần thục, thích làm việc đạo. Thân có giới pháp Khất sĩ thì thân ấy trong sạch, tức là đã an trú nơi xứ Phật trang nghiêm thanh tịnh. Tương tự, khẩu, ý tâm cũng theo giới, nhờ giới mà được thanh tịnh và an trú trong Chánh giác.
2.3. Hệ Phái Khất sĩ trong giai đoạn hiện nay 2.3.1. Tiếp nối truyền thống
Trong giai đoạn hiện nay, Chư Tôn Hòa thượng vẫn giữ nguyên những gì mà Tổ Sư đã dạy về phương pháp tu tập. Tuy nhiên, trong bối cảnh xã hội có nhiều phức tạp như hiện nay, để củng cố Tăng đoàn, cũng như để kẻ xấu không lợi dụng nên chư Tôn Đức tạm ngưng pháp môn đi khất thực mỗi sáng. Tuy vậy, trong những ngày tưởng niệm Tổ Sư hay những ngày tưởng niệm chư tôn trưởng lão vẫn tổ chức đi khất thực với số lượng rất đông lên đến cả 100 vị hoặc có thể hơn để ôn lại và để nhắc nhỡ cho hàng hậu tấn biết rằng đây là một pháp môn tu tập của chư Phật trong ba đời mà chủ yếu là chư Phật và chư Tổ dùng thân hành để cho chúng sanh đễ thấy dễ biết, cũng như nhớ lại hạnh xưa mà chư Phật và chư Tổ đã thực hành đem lại nhiều lợi lạc cho nhân sanh. Ngoài ra, kế thừa lời Tổ Sư dạy là tất cả các miền tịnh xá đều phải có hai ngày cúng hội thuyết pháp cho dân chúng nghe, cũng như hướng dẫn phật tử tu tập. Hiện nay chư Tôn đức vẫn có tu một ngày an lạc, hay những sự kiện của các ngày lễ vía Quan Âm, Di Đà, Đức Phật Đản Sanh, Vu Lan, hay một số khóa tu một với những chủ đề khác nhau do chư Tôn đức Tăng ni hướng dẫn cho hàng cư sĩ tu tâp để đem lại an lạc và hạnh phúc cho mình và mọi
50
người. Ví dụ như: khóa tu một ngày chánh niệm tại TX Linh sơn (mùa vu lan báo hiếu) tại Nông Cống, Thanh Hóa do Đại Đức Giác Hoàng hướng dẫn. Tại đây, ngoài việc tụng kinh Phật tử còn được Đại đức giảng giải, hướng dẫn phương pháp tu tập Tứ Niệm Xứ. Đây là phương pháp tu tập quay về với chính mình, thoát khỏi khổ đau một cách hữu hiệu.
2.3.2. Mở rộng các khóa tu truyền thống của Tăng, Ni Hệ phái Khất sĩ:
Thực hiện lời dạy của Tổ sư “Nên tập sống chung tu học” vì vậy chư Tôn Đức Tăng Ni đã tổ chức khóa tu truyền thống cho cư Tăng và chư Ni. Thể hiện tinh thần hòa hợp đoàn kết chia sẻ kinh nghiệm tu tập, cho đại chúng “kiến tức riêng chỉ vẽ cho nhau” cũng như ôn lại tinh thần thiền tập vào nếp sống sinh hoạt hằng ngày, lấy Giới, Định, Tuệ làm thầy cùng nhau tu học. Mỗi hành giả tự mình nhìn lại giới hạnh của mình mà tự sửa mình để có nếp sống đẹp đem lại an vui cho mình và người.
2.3.3. Các khóa tu dành cho hàng phật tử tại gia:
Đây còn gọi là tu một ngày an lạc. Tại nhiều Tịnh xá đã tổ chức khóa tu dành cho hàng Phật tử tại gia, như tại Tịnh Xá Ngọc Trung ở An Khê do Ni Sư Hiệp Liên hướng dẫn với ý nguyện đưa đạo Phật đi vào cuộc đời và làm cho đời sống của người cư sĩ an lạc và hiểu sâu luật nhân quả. Theo Ni trưởng, một vị tu sĩ trong thời đại ngày nay phải giỏi về việc tổ chức và quản trị, phải nhớ trọng trách làm một vị đạo sư, một vị thầy tâm linh, hoàn thành tâm nguyện tự độ và độ tha; cần nâng cao tinh thần trách nhiệm với người Phật tử tại gia bằng việc tổ chức các khóa tu tùy theo độ tuổi, để giảng dạy dẫn dắt phật tử đi đúng giáo pháp của Phật Đà. Hay khóa tu Thiền ở Tịnh xá Trung Tâm Quận Bình Thạnh. Tp. HCM do Thượng tọa Thích Minh Thành và Đại đức Thích Giác Hoàng tổ chức, hướng dẫn. Tại đây, thời khóa tu tập tương đối nghiêm ngặt, cụ thể: 7 giờ, Phật tử lên Chánh điện, tụng kinh sám hối và được quý Đại đức truyền giới.
51
8 giờ, Thượng tọa Minh Thành và Đại đức Giác Hoàng cùng quý Đại đức bắt đầu khai khóa tại Giảng đường Minh Đăng Quang. Bắt đầu cho một ngày tu học, bằng sự kết hợp giữa thuyết giảng phương pháp tu tập và hướng dẫn thực hành, Thượng tọa Minh Thành dẫn dắt thiền sinh niệm thân ngang qua chú tâm trên hơi thở, từng bước quán sát tâm mình trong sự tỉnh giác. 9 giờ, ĐĐ. Giác Hoàng nhắc nhở và hướng dẫn thiền hành thiền tọa từng bước một để thiền sinh chú tâm tỉnh giác cao nhất mà tự thân có thể thực tập được. Hội chúng thực tập thiền cho đến 10 giờ 30 thì kết thúc buổi sáng. 10g45, thọ trai chánh niệm tại trai đường và nghỉ trưa. 13 giờ 30, bắt đầu thời khóa chiều, Đại đức Giác Hoàng hướng dẫn chi tiết về cách thiền hành. Đại đức theo dõi quan tâm đến từng bước chân giúp thiền sinh tu tập được tốt hơn buổi sáng. Hội chúng nhiếp tâm thanh tịnh, an lạc được hiện rõ từng người một. 14 giờ, trong giờ trao đổi pháp tu, thiền sinh được kiểm tra về khả năng thực tập, và được giải nghi những gì còn vướng mắc. 16 giờ, sau khoảng thời gian thực hành và hiểu được phần nào pháp hành, hội chúng đạt được an lạc, định tĩnh nội tâm. Trong thiền đường trang nghiêm như pháp, Đại đức dẫn dắt thiền sinh hướng tâm từ đến người thân thương của mình và hồi hướng phước lành đến vạn loại chúng sinh. Kết thúc một ngày tu tập trong niềm hoan hỷ trọn lành, hội chúng ra về vào lúc 17 giờ. Ai ai cũng mang cho mình hành trang và tự thiết lập mục đích sống tốt đẹp hơn qua 4 tiêu chí mà Đại đức mong muốn mọi người cùng hướng đến: Văn minh, Tinh tấn, Định tĩnh, Tuệ giác. Ngoài ra còn rất nhiều khóa tu khác được tu chức rộng rãi dành cho hàng Phật tử tại gia, trên cơ sở có sự kế thừa từ Tổ sư nhưng đã được thêm bổ sung nhiều cái mới, cũng nhằm cho đệ hàng đệ tử Phật ngày một tiến xa hơn. Và quý Thượng tọa, Ni sư cũng không quên đào tạo lớp kế thừa nên quý Ngài còn tổ chức một số khóa tu mùa hè cho các em thanh thiếu niên Phật tử từ 10
52
tuổi trở lên, như Khóa tu mùa hè ở Tịnh xá Ngọc Liên ở Cần Thơ do Đại đức Thích Minh Hiếu hướng dẫn. Khóa tu diễn ra trong 2 ngày với số lượng trên 200 khóa sinh. Khóa tu diễn ra vỏn vẹn trong 2 ngày nhưng đảm bảo đầy đủ các tiểu mục từ học pháp, sinh hoạt oai nghi, tụng kinh, thực tập thiền cho đến vui chơi, giải trí, sinh hoạt giao lưu văn nghệ; giúp cho các bạn khóa sinh vừa được tiếp thu và thực hành giáo pháp của chư Phật, và cũng được vui chơi giải trí trong khuôn khổ của người con Phật. Nét sinh hoạt này rất phù hợp cho lứa tuổi thanh thiếu niên, giúp cho các bạn trẻ có cơ hội tiếp xúc với Phật giáo hơn, dạn dĩ hơn trong các mối quan hệ xã hội, và đặc biệt là ươm mầm giác ngộ, để sau này chính những khóa sinh này sẽ là lực lượng nồng cốt, là thế hệ kế thừa, phát huy, làm cho Phật pháp ngày càng phát triển hơn nữa. Khóa tu mùa hè ở TX Phú Cường. Huyện Chư Sê, Tỉnh Gia Lai do TT Thích Giác Duyên hướng dẫn, đây là một sâu xa mà đa số là Đồng bào Dân Tộc. Các em ở Gia Lai, người con của đại ngàn vùng Chư Sê, Ayunpa, Krongpa, Ia Grai, Chư Prong, Iâp, Chư Pah, Đức Cơ, Pleiku, Đak Đoa, Krông Chro, An Khê, Đak Pơ… Do nhiều thiện duyên, các em đã được dẫn về chùa ăn cơm chay và lạy Phật, quy ngưỡng, đón nhận ánh sáng Phật pháp. Các em đã được nhiều đạo hữu động viên, giúp đỡ từ tinh thần đến vật chất. Trong khóa tu, các em được an lạc, giải thoát trong ánh sáng hào quang của chư Phật như bao bạn hữu Phật tử. Các em cũng đã vui đến chùa, không nhiều lần nhưng hàng tháng vào ngày Rằm, Mồng Một. Theo hình thức khóa tu mùa hè còn có một số Tịnh xá nữa như Tịnh xá Ngọc Phước ở Lấp Vò, Đồng Tháp. TX Ngọc Như...
2.3.4. Công tác xã hội:
Là người đệ tử Phật để thể hiện tinh thần “ban vui cứu khổ” nên trong các dịp lễ, Phật đản, Vu lan, các ngày lễ ở ngoài xã hội, hay các thiên tai ở miền Bắc, miền Trung, miền Tây Chư Tôn Đức Tăng Ni đã cùng Phật tử kịp thời hỗ trợ “một miếng khi đói bằng một gói khi no”, Tịnh xá Ngọc Phúc đã
53
trao tặng 100 phần quà đến các hộ nghèo trên địa bàn.Về tham dự buổi lễ có sự tham dự của đại diện: chính quyền huyện K’Bang, Hội chữ thập đỏ huyện, lãnh đạo xã Kông Bờ La cùng đại diện chư Tôn đức Tịnh xá Ngọc Phúc (TP. Pleiku) và bà con đang sinh sống tại địa phương. Được biết, hoạt động tương thân tương ái, “lá lành đùm lá rách” luôn được Hòa thượng Giác Thành. Trụ trì Tịnh xá quan tâm trong các hoạt động Phật sự những năm qua. Hòa thượng thường xuyên tổ chức các chuyến từ thiện, đến các vùng sâu, vùng xa… để giúp các hoàn cảnh gia đình khó khăn.Qua đó góp phần chung tay cùng cộng đồng xã hội chăm lo cho người nghèo, động viên tinh thần cho các hộ gia đình vượt qua khó khăn, vươn lên trong cuộc sống. Ni sư Hiền Liên, Trưởng ban Từ thiện thành phố Đà Lạt, trụ trì Tịnh xá Ngọc Tín, Đà Lạt là người đã làm cầu nối cho đoàn đến với đồng bào dân tộc tại đây. Tương tự, tại trại tâm thần Trọng Đức, Thanh Bình 1, Bình Thạnh, Đức đoàn đã thăm và tặng 400 phần quà, mỗi phần trị giá 50 ngàn đồng. Tại cơ sở bảo trợ xã hội Madagui, thị trấn Madaguoi, huyện Đạ Huoai, tỉnh Lâm Đồng, đoàn đã tặng 70 suất quà cho các em mồ côi tại đây. Mỗi phần quà trị giá 50 ngàn đồng. Còn rất nhiều công tác khác như cứu trợ cho đồng bào lũ lụt ở miền Trung, miền Tây, miền Cao Nguyên hay các lễ 27/7 tặng quà cho các anh thương Binh hay tặng quà cho các Mẹ Việt Nam Anh hùng; có một số trường hợp khó khăn cũng các ngày giỗ các Trưởng lão hay các Ni trưởng đều tặng quà cho các bịnh nhân ung thư, đồng bào khó khăn hoàn cảnh neo đơn, tặng một số học bổng cho các em có hoàn cảnh khó khăn nhưng ham học.
54
Tiểu kết Chương 2
Trải qua bao thăng trầm, hơn bảy mươi mấy năm qua, Hệ phái Khất sĩ đã và đang có những đóng góp đáng kể cho nước nhà nói chung, Giáo hội Phật giáo nói riêng. Sự ra đời và phương thức tu tập của Hệ phái Khất sĩ đã làm một bộ phận dân chúng thăng hoa trong nền đạo đức, ổn định làng xóm, cộng đồng những nơi mà Hệ phái Khất sĩ xuất hiện cả trong và ngoài nước. Để có được thành tựu như vậy là do Tổ sư Minh Đăng Quang đã nhu nhuyến sử dụng Tứ khế - tinh thần “tùy duyên bất biến” của Phật giáo để ứng dụng Phật giáo trên tinh thần nhập thế. Cụ thể đó là việc Tổ sư đã dạy truyền trên nền tảng Trung Đạo mà Đức Phật đã truyền dạy, kết hợp với việc vận dụng các pháp phương tiện như Tam y, nhất bát, khất thực, trì bình; Tứ y Pháp; Giữ Giới, Định, Tuệ; Sống chung tu học; Nhiếp phục Thân, Khẩu, Ý… nhờ đó mà hành giả đạt được an lạc và giải thoát. Mặc dù bây giờ tinh thần khất thực trì bình đã được chư Tôn đức tạm ngưng để cũng cố lại nhưng trong những lần cúng giỗ hay có những sự kiện lớn thì hình ảnh chư Tôn đức tổ chức truyền thống đi khất thực để ôn lại lời dạy của Tổ Sư để Phật tử có dịp cúng dường. Cho đến nay, Hệ phái Khất sĩ vẫn tiếp nối được những đặc trưng cơ bản trong hoạt động tu tập thông qua nếp sống thanh bần của giới Tăng Ni, vẫn đều đặn tổ chức các khóa tu truyền thống cho hàng tăng, ni và khóa tu bồi dưỡng đạo hạnh cho giới Si Di cũng như các khóa tu cho các tín đồ thuận thành cũng như các tín đồ nói chung.