10 minute read

II. Đọc hiểu tâm trang, tình cảm và cảm xúc của nhân vật trữ tình

muộn phiền về gia đình, quê hương , những tình yêu thân thuộc đối với đất nước, dân tộc,… nhưng sóng nước cứ mênh mang giống như kiếp người vô định, lòng tác giả như chán chường hơn. Từ nơi sông Hồng rộng và dài cùng cảm xúc của Huy Cận đã tạo nên nhan đề “Tràng giang” đậm phong vị thơ Đường, bộc lộ được tâm sự của nhà thơ trước nỗi nhớ khôn nguôi, tạo nên mạch thơ xuyên suốt cho hồn thơ Huy Cận trong thời kì đầu của phong trào Thơ mới.

II. Đọc hiểu tâm trạng và tình cảm, cảm xúc của nhân vật trữ tình. 1. Một “cái tôi” cô đơn trước không gian rộng lớn.

Advertisement

Không gian được trải ra từ mặt sông lên đến chót vót đỉnh trời, không gian được mở ra từ thẳm sâu vũ trụ vào tận thăm thẳm tâm hồn con người. Ấy là một thế giới vừa được nhìn bằng sự chiêm nghiệm cổ điển, vừa được cảm nhận bằng tâm thế cô đơn của một cái tôi hiện đại, rất đặc trưng cho thơ mới. Có lẽ vì thế chăng mà Tràng Giang hiện ra như một bức tranh tạo vật trường cửu, lớn lao, vừa hoang sơ vừa cổ kính, trong đó thi sĩ hiện lên như một lữ thứ đơn độc lạc loài? Trước hết, Tràng Giang là một không gian mênh mông vô biên. Ngay cái tên bài thơ đã như một cửa ngõ mở vào vô biên rồi. Tràng Giang gợi ra hình ảnh một con sông chảy mênh mang giữa trời đất. Và câu đềtừ, tuy vẫn còn nằm ngoài văn bản, nhưng nó đã như một bức rèm môi giới ta với vô tận mà người đọc cần vén lên, như một hành lang mở thông vào vô biên mà người đọc cần bước theo: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”.

Dầu sao, những hình ảnh sống động của một thế giới có thể cảm nhận hoàn toàn trực quan chỉ thực sự mở ra với những câu đầu: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, Con thuyền xuôi mái nước song song”.

Có lẽ chất thơ của sông nước đã nhập vào những câu thế này để phô bày vẻ đẹp của nó. Câu thứ nhất tả sóng, câu thứ hai tả những dòng trôi, những luồng nước trên mặt sông. Nếu câu thứ nhất gợi được những vòng sóng đang loang ra, luồng nước cứ song song, rong ruổi mãi về cuối trời. Không gian vừa mở ra bề rộng, vừa vươn theo chiều dài. Đúng là nó có thấp thoáng âm hưởng hai câu thơ cũng tả sông nước trong bài Đăng cao nổi tiếng của Đỗ Phủ: “Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ Bất tận trường giang cổn cổn lai.” (Ngàn cây bát ngát, lá rụng xào xạc, Dòng sông dằng dặc, nước cuồn cuộn trôi)

Cũng là đối xứng, nhưng Đỗ Phủ viết theo lối đối chọi, còn Huy Cận- có cải biên, chỉ dùng tương xứng thôi. Cũng dùng những từ láy nguyên để gợi tả, trong khi tác giả Đăng cao đặt ở giữa câu, thì tác giả Tràng Giang lại đẩy xuống cuối câu. Nhờ thế hai từ láy nguyên điệp điệp và song song tạo ra được dư ba. Nghĩa là lời thơ đã ngừng mà ý hướng và âm hưởng vẫn còn vang vọng như dội vào vô biên.

Suốt dọc bài thơ, Huy Cận còn dày công khắc họa vẻ mênh mông vô biên bằng biết bao chi tiết giàu tính nghệ thuật nữa. Vừa dùng cái lớn lao để gợi sự mênh mông, vừa dùng cái hữu hạn để gợi sự vô cùng. Ấy là hàng trăm ngả sông, bao cồn đất, bao bờ xanh, bãi vàng, lớp lớp mây cao đùn núi bạc, ấy là một cành củi khô, một bóng chim nhỏ,… Nhưng có lẽ bức tranh vô biên của Tràng Giang đạt đến tận cùng là ở hai câu này: “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót; Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

Câu trên diễn tả sự vô biên về cả chiều rộng và chiều dài. Có một khoảng không gian đang giãn nở ra trong cụm từ: “Nắng xuống, trời lên”. Hai động từ

ngược hướng lên và xuống đem lại một cảm giác rất rõ rệt. Nắng xuống đến đâu, trời lên đến đó. Và nó được hoàn tất bởi cụm từ “sâu chót vót”. Có cái gì như phi lý! Có lẽ không chịu được vẻ phi lý mà có nhiều người đã cố tình in và viết thành “sầu chót vót” để dễ hình dung hơn. Tiếc rằng, “sâu” mới là sự xuất thần của hồn thơ. Đây không phải là sự lạ hóa ngôn từ. Nếu có, thì là sự lạ hóa trong cách nhìn, trong cảm giác. Ánh mắt tác giả không dừng lại ở đỉnh trời một cách thường tình để nhận biết về chiều cao, mà nó như xuyên vào đáy vũ trụ để cảm nhận về chiều sâu. Song, dầu sao, đây vẫn là chiều sâu của một cái nhìn ngước lên. Cho nên, mới là “sâu chót vót”. Chót vót vốn là từ láy độc quyền của chiều cao, bỗng phát huy một hiệu quả không ngờ. Nó còn gợi sắc thái chưa hoàn tất. Dường như cái nhìn của thi sĩ vươn tới đâu thì trời sẽ sâu tới đó, mỗi lúc một chót vót hơn. Vừa tương xứng vừa hô ứng với câu trên, câu thứ hai mở ra bát ngát, tít tắp. Câu thơ được viết giản dị, không chữ nào lạ, ngỡ như chỉ là sự sắp xếp các chiều kích của Tràng Giang, thế thôi! Vậy mà thấy “động”. Các trạng thái “tĩnh”, các tính từ dường như “cựa quậy” đòi động từ hóa. Trong áp lực của cái nhìn xa hút, có cảm giác “sông dài” (ra) trời rộng (thêm) bến cô liêu (đi) vậy!

Thật lạ là, không có chữ nào lạ hóa, mà vẫn mới lạ. Thế mới biết, cái lạ chân chính trong nghệ thuật chỉ có thể bắt nguồn từ cái mới lạ của cảm xúc.

2. Một cõi quạnh hiu hoang vắng và nỗi niềm của tác giả.

Là một người thuộc lớp Tây học, nhưng tâm hồn tác giả Lửa thiêng lại thấm đẫm Đường thi, nên không gian Tràng Giang cứ lãng đãng thơ Đường. Thơ cổ Trung Hoa thật tinh diệu trong việc diễn tả cái trạng thái tĩnh của thế giới. có lẽ 14

triết học nơi đây đã quan niệm tĩnh là gốc của động, tĩnh là cội nguồn của thếgiới? Cùng với nó, tĩnh tại và thanh vắng cũng trở thành một tiêu chuẩn mỹ học phổ biến của cái đẹp trong thiên nhiên và nghệ thuật về thiên nhiên. Tái tạo cái tĩnh vắng mênh mông trong nghệ thuật được xem là tái tạo hư không. Huy Cận cũng tái tạo như thế, nhưng thi sĩ muốn đi xa hơn. Cái thanh vắng của thơ xưa được cảm nhận bằng sự an nhiên tự tại. Còn sự trống vắng của Tràng giang lại là một thế giới quạnh hiu, cơ hồ tuyệt đối hoang vắng. Đối diện với không gian vô biên, trống trải, cái tôi ấy đi tìm kiếm sự cảm thông của đồng loại. Nhưng con người hoàn toàn vắng bóng. Đúng ra, con người có thoáng hiện ra trong hình bóng chiếc thuyền ở đầu bài thơ. Một chiếc thuyền “xuôi mái”, thụ động buông trôi trên dòng nước luân lạc. Và nó cũng chỉ hiện ra thoáng chốc, rồi sau đó nép mình vào bờ bãi nào mà mất hút trên sóng nước, trả lại không gian cho sự ngự trị của muôn ngả sông, nghìn luồng sóng:

“Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả; Củi một cành khô lạc mấy dòng.” Khát thèm âm thanh của cuộc sống người, thi sĩ lắng nghe, không dám mơ đến thứ âm thanh náo động vui tươi, chỉ mong gặp thứ âm thanh xoàng xĩnh nhất, buồn chán nhất của cuộc sống người, thế mà cũng không có: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.” Chữ “đâu” có người hiểu theo nghiã phủ định (đâu có). Thực ra trong văn cảnh này chỉ có thể hiểu theo nghĩa nơi chốn (đâu đó): Nghe vẳng lại từ một làng xa nào ở đâu đó tiếng “vãn chợ chiều” xào xạc. Một âm thanh gợi buồn bởi không có gì buồn bằng cảnh chợ chiều, cảnh tan chợ. Âm thanh này còn làm cho cảnh vật càng thêm vắng lặng: có vắng lặng lắm mới nghe được tiếng “vãn chợ chiều” ở một làng xa… Rồi cả những phương tiện giao lưu gợi sự có mặt của con người cũng không hề có:

“Mênh mông không một chuyến đò ngang Không cầu gợi chút niềm thân mật.”

Và sự phủ định cuối cùng: “Không khói hoàng hôn…”. Vậy là ở đây không còn là cái thanh vắng của “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén – Ngày vắng xem hoa bợ cây” (Nguyễn Trãi), “Lác đác bên sông chợ mấy nhà” (Bà Huyện Thanh Quan), hay “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” (Nguyễn Khuyến) nữa. Tràng giang hiện ra như một thế giới hoang sơ. Có lẽ từ thuở khai thiên lập địa đến giờ vẫn thế. Thi sĩ như một kẻ lữ thứ lạc vào giữa một hoang đảo. Trơ trọi, cô đơn đến tuyệt đối. Và nỗi nhớ nhà dâng lên như một tiếng gọi tự nhiên. Đứng trước cảnh này, hơn nghìn năm trước Thôi Hiệu cũng chạnh lòng nhớ quê: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị? Yên ba giang thượng sử nhân sầu.” (Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?) (Tản Đà dịch) Có lẽ đó chỉ là nỗi hoài hương của lòng sầu xứ. Và nó cần có khói sông để làm duyên cớ. Nỗi nhớ của Huy Cận là thường trực, có cần đến thứ khói nào để làm duyên cớ đâu! Nhớ nhà là để vượt thoát, để trốn chạy nỗi cô đơn cố hữu mà thôi:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Dòng sông chảy mênh mang giữa trời đất đến đây như bỗng dội lên những tiếng sóng khác: tiếng sóng của lòng quê! Hay chính lòng quê cũng đang xao xuyến dâng lên thành một tràng giang của tâm hồn mà nhập vào tràng giang của trời đất?

Đứng trước những dòng sông lớn, ta có cảm tưởng như đang đối diện với sự trường tồn, trường cửu. Nghìn năm trước khi chưa có ta, nó vẫn chảy thế này. Nghìn năm sau, khi ta biến khỏi mặt đất này, nó vẫn chảy thế kia. Tràng giang vẫn dửng dưng không thèm biết đến sự có mặt của con người. Sự lặng lẽ của tràng giang là miên viễn. Đứng bên dòng sông lớn, hãy lắng nghe nhịp triều miên viễn mênh mang. Nó là nhịp của vĩnh hằng, nhịp của vũ trụ, Và, tôi muốn nói đến một đặc sắc khó thấy hơn của Tràng giang nói riêng và Lửa thiêng nói chung: hình như Huy Cận đã nghe thấy và đã chuyển được nhịp chảy trôi miên viễn ấy vào trong âm hưởng của bài thơ. Huy Cận đã thể hiện điều đó bằng thứ âm vang lạ lùng của chữ nghĩa. Mà chủ yếu là nhờ sự âm vang của các yếu tố lặp và trùng điệp. Hãy chú ý đến những từ láy, nhất là láy nguyên. Đâu phải ngẫu nhiên thi phẩm có mật độ từ láy nguyên dày đến vậy: điệp điệp, song song, lớp lớp, dợn dợn,…ẩn hiện trong toàn bài. Chúng không chỉ gợi được dáng nét – dáng nét đường bệ, mà còn gợi được nhịp chuyển động - chuyển động triền miên. Rồi, những câu tương xứng như trùng lặp, nối tiếp nhau, đuổi nhau không ngừng nghỉ: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp // Con thuyền xuôi mái nước song song”, “Nắng xuống/ trời lên/ sâu chót vót – Sông dài/ trời rộng/ bến cô liêu”. Trong đó, các vế câu vừa tách rời, vừa kết nối liên tiếp như một chuỗi dài cũng đã góp phần tạo ra nhịp điệu chảy trôi, rong ruổi, miên man. Rồi rải rác các vế chỗ này nối, chỗ kia tiếp: “hàng nối hàng”, “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”,… Hàng nối hàng,

This article is from: