
35 minute read
NGƯỜI LAO ĐỘNG
Lao động xứ người: Từ ước mơ làm giàu đến canh bạc đỏ đen
Sông Hương - Báo in K38
Advertisement
Dù biết có thể xảy ra rủi ro nhưng rất nhiều người tại các địa phương ở miền Trung tìm đường đi “chui” sang Trung Quốc và các nước châu Âu làm việc lén lút. Để có thể có đủ tiền trang trải và gửi về quê nhà, họ đã phải đánh đổi hạnh phúc gia đình và tự do của mình nơi đất khách.
Canh bạc đỏ đen mang tên “đi xuất khẩu”
Về với xã Cẩm Trung, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh dưới cái nắng oi ả của tháng 5, men theo con ngõ dài hơn 50m vừa mới được đổ lại bê tông nối từ đường quốc lộ 1A, chúng tôi tìm được ngôi nhà cấp 4 vừa mới được sửa sang lại của anh Phạm Văn H. Anh là một trong những người từng vỡ vụn ước mơ làm giàu cùng cuộc sống “màu hồng” bên miền đất hứa châu Âu. Tâm sự với chúng tôi, anh H. kể: Vào năm 2012, vợ anh sinh con thứ 2 phải nghỉ việc ở nhà, số tiền lương 5 triệu đồng/tháng của anh không đủ để trang trải cho một gia đình 4 người. Đứa con lớn bắt đầu đi học lớp 1, còn đứa nhỏ cũng cần tiền để chi trả bỉm, sữa… “Lúc bấy giờ, thấy ở quê có mấy người bạn trốn đi Nga làm thuê, họ bảo bên ấy kiếm tiền dễ mà lương gấp 3-4 lần ở Việt Nam, tôi đã quyết định trốn sang đó làm thử.” Như lời của người môi giới, anh sẽ được sang Nga theo hình thức du lịch sau đó trốn ở lại để làm việc. Vét túi và vay mượn thêm anh em, bè bạn có trong tay gần 40 triệu đồng. Số tiền đó anh phải đưa cho cò mồi để họ lo chi phí ăn ở cũng như di chuyển sang Nga. Ngày anh đi, vợ vì bận con nhỏ nên không thể ra sân bay tiễn anh được, lúc ấy, anh chỉ kịp nhìn lại ngôi nhà xập xệ và hôn 2 đứa con nhỏ một lần nữa để lấy cho mình một chút động lực mà đi. Tối hôm trước anh bắt chuyến xe khách từ Hà Tĩnh ra Hà Nội thì trưa ngày hôm sau anh đã phải ngồi trên máy bay để thực hiện ước mơ “đổi đời” của mình
Vỡ vụn giấc mộng giàu sang
Vừa bước chân ra khỏi máy bay, cái lạnh của châu Âu ập lên người khiến anh rợn hết gai ốc. Sang đó, anh mới biết mọi việc không đơn giản như anh nghĩ, do không biết tiếng bản địa lại chẳng đơn vị, tổ chức nào đứng ra bảo hộ nên anh chỉ xin được làm công nhân cho một công ty may mặc nhỏ theo thoả thuận bằng miệng với chủ. Anh được làm việc trong một khu xưởng khoảng 250 mét vuông với khoảng 200 người. Dù đảm bảo làm đủ thời gian nhưng số tiền mà anh H. nhận được chỉ bằng 1 nửa theo số tiền lương đã được thỏa thuận. Nếu dành số tiền ấy để chi trả tiền ăn và tiền phòng, mỗi tháng anh cũng chỉ để dành được 6 triệu đồng/tháng.
Những tháng đầu tiên, chủ còn trả lương song phẳng, lại động viên nếu chăm chỉ sẽ tăng lương nên anh và các bạn cũng tự động viên khổ mấy cũng phải chịu vì biết đâu chủ thấy mình ngoan ngoãn lại chăm chỉ làm việc nên sẽ tăng lương cho mình. Nhưng sau đó, tiền lương hàng tháng của anh lại bị giữ lại một phần với lý do sợ công nhân bỏ trốn. Bên cạnh đó, còn có thêm những quy định mới nhằm cắt giảm tiền lương như tăng tiền ăn, tiền phòng, tiền đút lót cho cảnh sát địa phương, khi làm sai hay tỏ thái độ còn bị đánh đập, chửi bới, dọa nạt sẽ không trả lương... “Dù trong những ngày thời tiết âm 50 độ C, chúng tôi vẫn phải làm liên tục từ 6h sáng để 10h đêm, buổi bữa chỉ được nghỉ 30 phút để ăn. Thức ăn lại không được đảm bảo, đồ ăn có khi còn bị ô thiu, thậm chí là có giòi và gián, mỳ gói được quản lý xưởng mua về chất từng đống trong kho, có khi hết hạn rồi mỳ vẫn chưa hết. Cuộc sống khổ cực là thế, nhưng chúng tôi cũng chỉ biết cam chịu vì đã lỡ sang rồi, giờ muốn về cũng không vì được vì hộ chiếu đã bị chủ tịch thu.” - anh H. chia sẻ.
Hơn 1000 ngày sống ở “địa ngục”
Anh H. chia sẻ, 3 năm ở Nga, anh không có được một giấc ngủ ngon nào. Mỗi đêm khi đặt lưng xuống chiếc giường sắt 2 tầng lạnh lẽo, anh luôn nhớ Tổ quốc và quê hương. Cách người thân hơn 7000km, anh nhớ 2 đứa con thơ phải cùng mẹ sống khổ cực qua ngày, nhớ người vợ tảo tần vừa một mình chăm con, vừa làm đủ nghề để có thể trả được số nợ đã vay. Và có lẽ trong căn phòng ngủ có 40 người ấy, ai cũng có suy nghĩ giống như anh vậy. Bên cạnh cơ sở vật chất, điều kiện sống và ăn uống không được đảm bảo thì anh và những “đồng nghiệp” còn phải làm việc như một cái máy suốt 14 tiếng đồng hồ mỗi ngày mà không được nghỉ một giây phút nào. “Cô thấy đó, khổ thì khổ thật nhưng sao khổ bằng mỗi lần cảnh sát ập địa phương ập tới kiểm tra. Chúng mở cửa, đi vào và hét lên bằng một thứ ngôn ngữ chúng tôi không hiểu gì cả. Lúc ấy, quản lý ra hiệu cho chúng tôi tất cả phải đứng dậy, úp mặt vào tường và giơ 2 tay lên giống như kẻ tù tội.” Như lời anh kể, cảnh sát địa phương sẽ đi từng hàng, nếu người nào nhuộm tóc và để móng tay quá dài thì chúng sẽ vụt thẳng chiếc roi da trên tay xuống lưng của người công nhân ấy. Nếu có kháng cự thì họ sẽ bị lôi về đồn, bắt nộp phạt và coi như tháng đấy không có tiền lương. Những cái Tết trong trời tuyết ở Nga, anh và các bạn cùng phòng được nghỉ 2 ngày đó là ngày 30 và ngày mồng 1 âm lịch. Để có thể vơi đi nỗi nhớ nhà, sự cô đơn và có được không khí tết cổ truyền như ở Việt Nam mọi người trong phòng phải tự động viên nhau rằng chỉ còn ít ngày nữa thôi là sẽ được tự do và về với vợ con. Do không có điều kiện nên họ cũng không đòi hỏi Tết phải có đào, có mai, phải đốt lò, gói bánh… 40 người lúc ấy chỉ dám góp tiền nhau để lên quản lý mua bánh chưng, giò chả… dù mức giá của nó gấp 20 lần ở quê hương. 3 năm trôi qua, những đứa con của anh chỉ cảm nhận được tình yêu của bố qua những cú điện thoại gấp gáp, cảm nhận được việc bố tồn tại qua một giọng nói quen thuộc mà chúng chẳng bao giờ thấy mặt. Những món quà sinh nhật vẫn đến kịp tay chúng nó trong bữa tiệc sinh nhật mà chúng không hề biết rằng, những món quà ấy là mẹ nó mua cho. Chúng chưa đủ lớn để có thể hiểu được rằng, mẹ của chúng nó đã cố gắng hết sức để cho 2 đứa hiểu rằng bố yêu 2 đứa rất nhiều và bố chỉ có thể chúc mừng sinh nhật nó qua điện thoại thôi Cố gắng bám trụ thì 3 năm hợp đồng lao động cũng kết thúc, anh cùng những người bạn trong phòng lên gặp quản lý để xin lại hộ chiếu và làm giấy tờ về nước nhưng lại không được chấp thuận. Phải qua nhiều biện pháp như đình công, đập phá đồ đạc thì họ mới được trả giấy tờ để về nước. Sau 3 năm lang bạt nơi xứ người, không được may mắn như những người cùng quê khác, anh có trong tay chỉ được 150 triệu. Chưa kể, phải sống trong thời tiết lạnh giá và môi trường làm việc nhiều bụi bặm nên bệnh xoang của anh ngày một nặng khiến anh gầy và già đi nhiều. Với số tiền ít ỏi ấy, chỉ đủ để anh lo vé máy bay về Việt Nam và sửa lại căn nhà cũ. Sau khi về nước, anh xin được công việc bông vác gạch cho một cơ sở sản xuất gần nhà. Dù tiền lương không quá cao nhưng anh H. cho biết, được ở gần vợ con lại không chịu sự quản lý của ai thì so với những năm ở Nga đã hạnh phúc lắm rồi.
CÔNG NHÂN TRONG TÂM DỊCH LAY LẮT, CHỜ HỖ TRỢ
Đức Huy - Báo in K38
Bằng những đồng lương ít ỏi, nhiều công nhân đang sống tại các khu ký túc xá, các nhà trọ trong tâm dịch Bắc Ninh phải xoay xở để tìm cách cầm cự chi phí sinh hoạt của mình. Việc phải nghỉ làm đã đặt lên vai họ một gánh nặng lớn về cơm áo gạo tiền.
Nỗi lo chồng chất
Anh Nguyễn Hữu Tuyên (trú tại xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) đã làm công nhân được 10 năm nay nhưng chưa bao giờ anh cảm thấy cuộc sống mình khó khăn như khi dịch Covid-19 ập đến. Vào thời điểm tháng 8/2020, anh Tuyên bị gãy chân, không thể đi làm, vợ anh mới hạ sinh thêm một người con nên đang trong thời gian nghỉ đẻ, nguồn thu nhập của gia đình trở nên eo hẹp. Từ đầu năm đến nay, anh Tuyên chỉ nhận được duy nhất một tháng lương đầy đủ, dù vậy vẫn không thể đủ nổi sinh hoạt phí và tiền học cho cậu con trai chuẩn bị lên lớp hai. Trước áp lực lớn về kinh tế, anh Tuyên phải tìm đến những sự hỗ trợ tại địa phương. May mắn rằng anh đã nhận được hỗ trợ từ một số đoàn tình nguyện gồm 5kg gạo và một ít rau củ. Nhưng một nhà có tới sáu miệng ăn, bao nhiêu đó vẫn chưa thể giúp gia đình anh qua được mùa dịch. Anh Tuyên tâm sự: “Dịch bệnh xảy ra, tôi đã phải nghỉ làm. Mấy ngày này tôi cũng đang lo lắng rất nhiều, cuộc sống khó khăn đặc biệt là phải lo sinh hoạt phí của cả gia đình vì hiện nay tôi là lao động chính trong nhà”. Chị Lưu Thị Ngọc Bích (công nhân tại Yên Dũng, Bắc Giang) đã phải ăn mì tôm thay cơm nhiều ngày nay vì không còn một hàng nhu yếu phẩm nào mở cửa. Khó khăn nhất của chị Bích hiện nay là sinh hoạt phí cho tháng tới. Vì mới thử việc được hai háng nên lương của chị Bích không cao và tiền thưởng đợt nghỉ lễ 30/4 - 1/5 không đáng là bao, chị Bích phải xoay xở để có thể trả đủ tiền trọ. Không chỉ vậy, vì dịch bùng phát bất ngờ, các hàng quán đóng cửa, chị không thể mua được gạo nên đành ra tiệm tạp hóa gần nhà mua mì tôm với rau để ăn thay cơm. Chị Bích chia sẻ: “Tôi rất lo lắng vì nghỉ như này không biết đến bao giờ mới được đi làm. Tiền nhà trọ, tiền ăn uống, tiền gửi về cho mẹ và con trai ở nhà, rất nhiều khoản phải chi mà bây giờ tôi phải ngồi không ở nhà chờ hết dịch”. Hiện con trai chị Bích đang sống cùng với bà tại Quảng Ninh, mỗi tháng lương chị Bích đều gửi về một chút để hỗ trợ tiền học và sinh hoạt cho con.

Chị Lưu Thị Bích Ngọc cho biết, hầu hết công nhân đang đi cách ly đều rất lo vì không biết đến bao giờ mới được đi làm
Vì lo lắng quá nhiều nên mấy ngày hôm nay chị Bích thường xuyên bị trào ngược dạ dày. Nỗi lo chồng chất khiến chị Bích đứng ngồi không yên. Thi thoảng chị có gọi điện về hỏi thăm con, nhưng nỗi nhớ gia đình khôn nguôi đó khiến chị càng sốt ruột đợi hết dịch để đi làm lấy tiền cho con đi học.
Lạc quan giữa tâm dịch
Chị Nguyễn Thị Hưng (Thanh Khương, Bắc Ninh) đã làm công nhân tại đây được hơn 5 năm nhưng chưa bao giờ chị phải thắt chặt chi tiêu như hiện tại. Vì không phải gửi tiền về gia đình nên trước đó chị có để dư giả ra vào các quỹ tiết kiệm cá nhân. Thời điểm dịch bùng phát, chị Hưng bắt đầu phải suy nghĩ lại về toàn bộ kế hoạch chi thu của mình trong thời điểm tới. Vì không thể đi làm, nên chị Hưng đã rút số tiền tích lũy trước đó ra. Chị Hưng chia sẻ: “Mỗi tháng tôi để ra từ 10-15% số lương trong trường hợp khẩn cấp. Hiện tại với tình hình dịch như này tôi đã bắt đầu sử dụng đến số tiền tích lũy và phải suy nghĩ chi tiêu làm sao hợp lí. Ưu tiên trước nhất là đảm bảo lương thực, sau đó, tôi sẽ dành 30% số tiền này để duy trì chi phí nhà ở và điện nước. Còn lại, nếu tình hình kéo dài, tôi sẽ có những thay đổi trong phương án của bản thân”. Hiện tại khu ký túc xá của một số doanh nghiệp được bố trí thành các khu riêng biệt, vừa là nơi cách ly cho những trường hợp tiếp xúc với các ca bệnh F0 , vừa như “thành trì” để bảo vệ những công nhân khỏe mạnh. Mục đích nhằm hạn chế sự lây lan của dịch bệnh đối với tất cả công nhân, đảm bảo hoạt động sản xuất vẫn diễn ra bình thường. Triệu Thị Son là một trong những người công nhân sống tại KTX Canon. Trong thời gian bị phong tỏa, nhiều người đã về quê, Son vẫn ở lại đây. Thi thoảng em nhớ nhà và có gọi điện về gia đình ở Lạng Sơn. Em cố gắng động viên bố mẹ: “Con không sao đâu, mọi người đừng lo cho con, bố mẹ nhớ giữ sức khỏe ạ, bao giờ dịch được kiểm soát con sẽ về”. Son và những người bạn khác trong khu ký túc có cùng ban quản lý KTX tiếp nhận đồ hỗ trợ và phát cho mọi người. Vì số lượng lớn nên Son và các bạn không thuộc diện phải tự cách ly đã đi phân phát cho từng phòng. Các suất quà hỗ trợ khá là nặng, Son đã cùng các bạn bê từ tầng 1 lên tần 5 ở các tòa. Trong những lúc ngồi nghỉ, Son gọi vui mình và các bạn là “Đội tình nguyện của KTX Canon”. Hay cả những lúc nhận đồ hỗ trợ, Son thấy trong tủ lạnh mình còn đồ, em lặng lẽ rời đi và không lấy thêm rau củ, em muốn nhường lại các bạn khác khó khăn hơn. Dù tình hình đang khó khăn, Son và các bạn khác trong khu KTX Canon không ngừng hy vọng dịch sẽ sớm qua đi. Các em tin rằng chỉ cần thực hiện theo thông điệp 5K, mọi thứ sẽ quay về trạng thái bình thường.

Em Triệu Thị Son cùng các bạn trong khu KTX Canon lấy nhu yếu phẩm về cho những người thuộc diện F2 đang tự cách ly trong KTX
Nghệ nhân khiếm thính Phạm Anh Đạo: bàn tay vàng trong làng vuốt gốm Bát Tràng
Hà Thanh - Phát thanh K38
Anh Phạm Anh Đạo- Nghệ nhân trẻ tuổi nhất của làng gốm Bát Tràng hiện nay. Dưới bàn tay tài hoa của anh, một cục đất vô tri vô giác đã trở thành một tác phẩm gốm đầy tinh xảo và bắt mắt.

Nghệ nhân Phạm Anh Đạo bên bàn xoay với sản phẩm gốm theo phương pháp truyền thống
Anh Phạm Anh Đạo trở thành Nghệ nhân Hà Nội năm 28 tuổi và giành được nhiều giải thưởng: Bằng khen tài năng trẻ gốm sứ Hà Nội (2004), Một trong mười công dân tiêu biểu của thủ đô Hà Nội (2009), Nghệ nhân Hà Nội (2011), Bằng Kỷ lục Việt Nam (2016). Để đạt được những điều đó, chàng trai này đã có một hành trình vô cùng vất vả. 12
Sinh ra nặng hơn 1kg, ốm yếu triền miên
Tôi tìm đến làng gốm Bát Tràng vào một buổi sáng cuối tháng chín. Xưởng gốm của gia đình anh Phạm Anh Đạo không khó tìm vì người dân ở Bát Tràng ai cũng biết. Chị Nguyễn Mỹ Trinh (vợ anh Đạo) đưa tôi ra gian sau tham quan, hình ảnh bắt gặp đầu tiên là anh Phạm Anh Đạo đang miệt mài bên bàn xoay và những cục đất. Lúc mới sinh ra, anh Đạo đã ốm yếu triền miên. Nghệ nhân dân gian Phạm Văn Huy- bố anh Đạo ngậm ngùi kể lại : “ Năm 1977, vợ tôi sinh đôi được 2 người con trai là Phạm Anh Đạo và Phạm Anh Đức. Khi mới sinh ra, Đạo chỉ nặng hơn 1kg và đau ốm triền miên, không phát triển được. Có một lần nó bị viêm phế quản, đưa lên bệnh viện Xanh-pôn Hà Nội thì bác sĩ bảo phải dùng kháng sinh liều cao thì mới cứu được. Chính vì vậy mà giờ nó mới bị khiếm thính và khả năng nói cũng kém”. Lúc lên 5 tuổi, anh Đạo bị câm điếc. Gia đình đã đưa anh đi khám và chết lặng khi bác sĩ bảo do di chứng của việc sử dụng kháng sinh liều cao lúc mới sinh. Hiện taị, anh Đạo có thể nghe được nếu âm lượng lớn, anh cũng có thể nói chuyện nhưng không thể tròn vành rõ chữ như người bình thường. Chính vì vậy mà chị Mỹ Trinh luôn kề cạnh, trở thành cánh tay phải hỗ trợ anh.
Nói về nỗi khó khăn của chồng, chị Trinh chia sẻ: “ Sống với một người bình thường thì không nói làm gì. Nhưng lại là một người thiệt thòi như anh ấy thì chị gặp nhiều khó khăn hơn, đủ mọi vấn đề. Ví dụ trong công việc, anh ấy chỉ biết làm thôi còn định giá sản phẩm, giao tiếp và nghe phản hồi của khách thì anh ấy không biết”. Hồi còn tuổi đi học, anh Đạo gặp nhiều khó khăn trong việc đọc-viết, lên lớp 5 vẫn chẳng viết được thành thạo. Thế rồi chàng trai khiếm thính xin nghỉ học, theo cha ra xưởng gốm Bát Tràng làm việc. Lúc ở xưởng cũng như lúc ở nhà, cứ rảnh rỗi thì anh Đạo lại xem thợ và cha làm gốm bên chiếc bàn xoay. Năm tháng trôi qua, nghề vuốt gốm ấy ăn sâu vào tâm trí chàng trai khiếm thính Phạm Anh Đạo.
Những khó khăn trong việc duy trì gốm thủ công
Anh Đạo và chị Trinh cưới nhau cũng là lúc kinh tế gia đình trở nên eo hẹp vì gốm công nghiệp được sản xuất tràn lan. Các hộ gia đình ở Bát Tràng bỏ gốm thủ công, đua nhau áp dụng công nghiệp hóa, mua máy móc về sản xuất gốm công nghiệp. Khách hàng xem rẻ gốm thủ công và chạy theo gốm công nghiệp bởi mẫu mã bóng bẩy mà giá thành lại rẻ gấp nhiều lần gốm thủ công. Lúc bấy giờ gốm Trung Quốc cũng ào ạt đổ xô vào thị trường gốm Việt làm cho gốm thủ công của Bát Tràng ứ đọng, không bán ra được. Có nhiều lần chị Trinh bàn với anh Đạo chuyển sang làm gốm công nghiệp như bao xưởng khác, thế nhưng anh Đạo không đồng ý. Anh vẫn trung thành với chiếc bàn xoay truyền thống. Anh nói: “ Người dân trong làng hầu hết đã chuyển sang sản xuất gốm công nghiệp, nếu tôi cũng vậy thì ai sẽ là người duy trì nét truyền thống này. Tôi yêu và đam mê cái nghề vuốt gốm và tôi muốn giữ gìn điều đó”. Lúc ấy, người dân trong làng còn bàn tán, nói anh không bình thường, sản phẩm của anh có hình thù dị hợm, méo mó. Thế nhưng anh không bỏ cuộc, miệt mài ngày đêm bên bàn xoay. Chị Trinh nhiều lúc cũng đau lòng nhưng vì thương chồng, vì những sản phẩm đậm chất truyền thống của chồng mà bỏ ngoài tay những câu nói không hay đó. Chị luôn ở bên động viên, giúp đỡ và ủng hộ chồng trong mọi hoàn cảnh. Chị chia sẻ: “Anh Đạo là một nghệ nhân, nhưng mục đích làm gốm của anh ấy là vì đam mê, vì muốn giữ gìn nét truyền thống, anh ấy được thỏa sức sáng tạo chứ không phải vì kinh tế. Tôi tôn trọng và ở bên anh ấy cũng chính vì cái đức, cái tài này ”.

Chị Nguyễn Thị Mỹ Linh - Vợ của Nghệ nhân Phạm Anh Đạo
Công sức được đền đáp
Sau một khoảng thời gian dài, gốm thủ công trở nên quý hiếm, nhiều người yêu nghệ thuật và người chơi gốm quay lại sưu tầm gốm thủ công. Lúc ấy, họ tìm tới xưởng gốm của anh Đạo và thấy sản phẩm của anh rất bắt mắt, nhiều người ưa chuộng và giới thiệu cho nhau. Kinh tế gia đình bắt đầu khá lên. Hiện nay, gia đình anh nhận được nhiều đơn đặt hàng từ Nhật, Mỹ,... Sản phẩm của anh Phạm Quang Đạo mang một đặc trưng rất riêng. Anh luôn luôn sáng tạo và không lặp lại, càng không giống ai. Khác biệt với gốm công nghiệp và những cơ sở gốm thủ công khác, đất mà anh Đạo sử dụng được chọn lọc kỹ càng và màu men cũng pha trộn đặc biệt.
Chính vì vậy 13 anh tạo ra là sản phẩm độc bản. Bao nhiêu năm vuốt gốm, ve tràng, anh Phạm Anh Đạo đã nhận về rất nhiều những giải thưởng cao quý. Năm 2011, anh được phong tặng là Nghệ nhân Hà Nội, người dân trong làng không phục và có nhiều lời ra tiếng vào không hay. Chị Mỹ Trinh nhớ lại: “Lúc đó, họ nói rằng tại sao anh ấy tuổi còn trẻ, lại bị nặng tai và nói không rõ lại có thể là nghệ nhân, tại sao không phong tặng cho những người bình thường khác, họ không công nhận tài năng của anh ấy”. Âm thầm chịu đựng và không ngừng cố gắng, anh Đạo bắt tay vào thực hiện sản phẩm vuốt tay cỡ lớn đầu tiên. Đó chính là đôi chóe Tứ Linh cao hơn 2 mét rưỡi, đường kính hơn 1 mét rưỡi được tham gia trưng bày ở lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội và được trao bằng Kỷ lục Việt Nam năm 2016.

Cặp chóe Tứ Linh được trao bằng Kỷ lục Việt Nam (Ảnh NVCC)

Bên trong xưởng làm việc của Nghệ nhân Phạm Anh Đạo - nơi tạo ra cặp chóe Tứ Linh
Khi được hỏi về đôi chóe đó, anh kể: “Lúc đó tôi bỏ các công việc, giành một năm để hoàn thành tác phẩm này, lúc bắt tay vào làm rất lo lắng, đến khi thành công rồi thì rất là vui, vì chính bản thân cũng đã khẳng định được tay nghề của mình. Và mọi người cũng có cái nhìn khác hơn về tôi”. Có thể thấy anh Phạm Anh Đạo là một trong số ít những người tiên phong giữ gìn truyền thống ở Bát Tràng. Đối với anh, vuốt gốm không chỉ là nghề mà còn là cuộc sống, mỗi sản phẩm luôn mang theo niềm cảm hứng và có hồn. Anh rất vui khi mọi người bắt đầu tìm về với gốm thủ công, một số xưởng gốm cũng trở lại làm gốm truyền thống.

Nghệ nhân Phạm Anh Đạo được trao bằng Kỷ lục Việt Nam năm 2016 cho cặp chóe Tứ Linh
Lao động khuyết tật và con đường tạo ra sản phẩm đạt chất lượng OCOP 4 sao
Phương Linh - Báo In K37A2
Nằm trong làng nghề lụa Vạn Phúc (Hà Đông, Hà Nội) là một “căn phòng” kính nhỏ, nổi bật những bức tranh dân gian ghép vải đầy màu sắc, cùng những chiếc áo phông, những chiếc túi xách hoạ tiết lụa tinh tế. Đó là sản phẩm được làm từ đôi bàn tay của những người khuyết tật, lực lượng lao động chủ yếu của Hợp tác xã VỤN Art. Những con người khiếm khuyết về thể lực và trí óc, đã ngồi lại làm việc cần mẫn để sáng tạo nên sản phẩm đạt chất lượng xuất khẩu ra nước ngoài.
Người lan toả phương châm sống mới cho lao động khuyết tật

Sản phẩm tranh ghép lụa và túi hoạ tiết lụa của VỤN Art. Ảnh: Lê Linh.
10h sáng, nắng nhè nhẹ chiếu lên lớp kính trong suốt, những sản phẩm làm từ vải lụa vốn đã óng ả nay càng thêm sinh động. Anh Lê Việt Cường, Giám đốc Hợp tác xã (HTX) VỤN Art, vừa đưa tay quệt vệt mồ hôi trên trán vừa cười rạng rỡ bước vào phòng trưng bày. Căn bệnh bại liệt năm một tuổi đã biến anh trở thành một người khuyết tật vận động. Anh hiện đang làm cho một công ty tư nhân về phân phối thuốc và khẩu trang. “Tôi vẫn làm việc ở đó đến tận bây giờ, gắn bó sang đến năm thứ 9, còn VỤN Art mới bắt đầu được tầm 4 năm”, anh Cường cho biết. Khi được hỏi về lý do thành lập VỤN, mong muốn của anh là thay đổi tư duy của cộng đồng và của cả bản thân người khuyết tật. Lâu nay anh cho rằng việc làm từ thiện đã khiến cho người khuyết tật bị động. Anh Cường nhấn mạnh: “Người khuyết tật cũng cần có trách nhiệm với chính cuộc đời mình. Họ cần được sống như những người bình thường, cần được thấy mình có ích.” Với mong muốn người khuyết tật có việc làm bền vững, năm 2017, anh sáng lập HTX VỤN Art, một doanh nghiệp xã hội với nhân viên là người khuyết tật và người thân của họ. Ý tưởng ban đầu của HTX là do anh Nguyễn Văn Trường, Phó bí thư thường trực quận ủy, gợi ý kĩ thuật ghép tranh từ vải vụn bỏ đi, vừa bảo vệ môi trường, vừa phù hợp với khả năng lao động của người khuyết tật. Sau đó được anh Lê Quốc Vinh, chủ tịch Le Bros, cố vấn thêm về ghép lụa trên vải và các sản phẩm đi kèm: “Mới đầu mình gắn sản phẩm với các chất liệu dân gian trước rồi phát triển thêm.” Anh đi khắp nơi tìm và vận động những người khuyết tật tham gia lớp học, bắt đầu từ chính quận Hà Đông, để các lao động thuận tiện di chuyển. Bên cạnh việc đào tạo nghề hoàn toàn miễn phí, anh hỗ trợ thêm tiền ăn trưa và đi lại. Những người thầy đầu tiên của HTX ngoài anh Trường, còn có thầy Hoàng và hoạ sĩ Đặng Thị khuê. Thời gian đầu, anh phải đến từng doanh nghiệp “mời chào” sản phẩm. Khi hỏi về đầu ra, chị Nguyễn Thùy Trang, quản lý HTX chia sẻ: “Có những tháng doanh nghiệp đặt đơn hàng lớn hơn 1.000 chiếc túi...” Một số đơn vị lớn như Bảo hiểm Bảo Việt, Arena Multi... cũng đã hợp tác sản xuất ra các sản phẩm lưu niệm.
Bên cạnh đó, HTX nhận được đơn đặt hàng xuất khẩu sang Nhật Bản với số lượng 6000 túi hoạ tiết vải lụa ghép/ năm, 500 túi/ tháng. Tuy nhiên vì dịch bệnh Covid 19 diễn biến phức tạp nên đơn hàng này bị huỷ. Ngoài sản phẩm ghép từ lụa, VỤN Art cũng có các hoạt động bên lề khác, như trải nghiệm ghép tranh từ vải vụn và tham quan làng Vạn Phúc. Thông qua những trải nghiệm này, VỤN Art giới thiệu tới mọi người, đặc biệt là du khách nước ngoài về văn hoá dân gian Việt Nam, giới thiệu sản phẩm của làng nghề lụa truyền thống Vạn Phúc và tài nghệ của những thành viên VỤN. Do tình hình dịch bệnh, HTX sáng tạo ra sản phẩm bộ kit ghép lụa cho khách hàng tự do tìm hiểu cách làm. Năm 2020, VỤN Art được công nhận sản phẩm OCOP 4 sao, đạt chất lượng xuất khẩu. Anh chia sẻ: “Hội đồng chuyên môn không ai nghĩ mặt hàng này do người khuyết tật làm vì chất lượng tốt. Nhưng VỤN thiếu khâu đóng gói sản phẩm để đạt 5 sao. Đây là sự công nhận rất lớn với khả năng lao động của người khiếm khuyết” Chia sẻ về khó khăn lớn nhất trong việc vận hành VỤN Art, anh chỉ tay về phía nhánh cây ngoài sân: “Em nhìn thấy cây kia trụi hết hoa hết lá không? “Lao động” thiểu năng trí tuệ nhà anh vặt đấy. Khó khăn đấy!” Nói về khó khăn mà anh liên tục cười lớn như thể đang kể về những kỉ niệm đẹp nhất. Việc đào tạo nguồn nhân lực khiếm khuyết, đòi hỏi anh sự kiên nhẫn, sự bao dung và thậm chí tiêu tốn cả vật chất. Tính đến nay, anh nhận đào tạo 42 bạn nhưng các bạn có khả năng làm việc vỏn vẹn có một nửa. Chi phí dạy nghề một người khuyết tật khoảng 2 triệu đồng. Từng ấy lao động không làm được việc, khoản tiền anh mất không hề nhỏ. “Vất vả nhất là dạy các bạn nữ bị tự kỉ, anh kể câu chuyện vui nhưng hơi tế nhị, anh phải dạy các bạn từ những việc nhỏ nhất như thay băng vệ sinh. Nhiều lúc nghĩ, bố mẹ, vợ con, mình còn không chăm sóc được như thế, nhưng ở đây mình bắt buộc phải làm”, anh tiếp tục câu chuyện. Có những đêm, anh nhận được cuộc gọi của phụ huynh thông báo con bỏ nhà đi. Vậy là 3 giờ sáng, anh cùng với đôi chân không trọn vẹn của mình, lao ra đường phụ giúp tìm kiếm. Câu chuyện kết thúc bằng cuộc điện thoại của một lao động khiếm thị gọi tới anh với mong muốn xin đi học việc tại VỤN.

Anh Lê Việt Cường, Giám đốc Hợp tác xã VỤN Art luôn tràn đầy năng lượng. Ảnh: Lê Linh.
Mỗi người khuyết tật giống như một mảnh vải vụn nhỏ…
Theo bước chân anh Cường đi tham quan “xưởng sản xuất” đặc biệt chỉ vỏn vẹn 15m2 mỗi phòng, anh chia sẻ: “Anh chia làm hai phòng, một phòng dành cho những bạn mới, chủ yếu mắc chứng thiểu năng trí tuệ, phòng còn lại cho những thành viên “thạo nghề”.” Hai căn phòng tuy nhỏ nhưng đầy ắp tinh thần quyết tâm và nhiệt huyết. Chị Trương Mỹ, quản lí sản xuất của VỤN Art, có chất giọng xứ Nghệ lanh lảnh, tất bật kiểm kê số lượng hàng hoá. Chị đã làm ở đây được 3 năm. Chồng chị là người khuyết tật đặc biệt nặng, hàng ngày chị phải bế đỡ, tắm rửa giúp chồng. Trước đó, anh Trung, chồng chị Mỹ, cũng là một lao động của VỤN, nhưng do thể lực quá yếu nên anh buộc phải nghỉ. Khó khăn chồng chất cũng không dập tắt niềm đam mê lao động và trách nhiệm với chính cuộc đời mình của chị. Sau khi chia sẻ đôi lời vội vàng, chị Mỹ lại tiếp tục công việc kiểm kê hàng hoá của mình: “Quản lí các bạn có vấnđề về trí tuệ và khiếm thính rất khó, chị phải nói đi nói lại vài lần, phải dùng khẩu hình rõ ràng và tối giản câu chữ.” Chị cho biết thêm, nếu đi làm đầy đủ, thu nhập của chị giao động mức 6 – 7 triệu đồng/tháng".
Tính đến nay, VỤN đã duy trì công ăn việc làm ổn định cho 22 người khuyết tật và đóng bảo hiểm cho họ. Mức lương trung bình 3-5 triệu/ tháng. “Anh không lợi dụng khiếm khuyết của mình đi xin tiền từ thiện mà bán sản phẩm do hợp tác xã sản xuất, anh làm kinh doanh”, anh Cường bộc bạch. Vụn tạo mọi cơ hội việc làm cho người khuyết tật và không từ chối bất kì ai. Nhưng những thành viên của VỤN cần thiết phải có khả năng lao động dù con đường đào tạo còn gặp nhiều gian nan. Em Bùi Thu Dung là một trong những lao động lâu năm của VUN. Em đã gắn bó với công việc này được 4 năm. Dung có đôi mắt nhìn cuộc đời rất đẹp. Cô gái làng lụa Vạn Phúc còn có tài vẽ tranh. Cô đảm nhiệm công việc vẽ họa tiết lên giấy. Sau từng ấy năm trời gắn bó, cuối cùng Dung cũng thông thạo kĩ năng dùng kéo dù bàn tay trái đã bị teo nhỏ. Em đặt bàn tay trái yếu ớt lên cố giữ chặt mảnh giấy, tay còn lại cầm kéo cắt những hình thù khác nhau để làm khuôn mẫu dập vải. Căn bệnh tự kỉ và bại liệt nửa người trái cũng không thể ngăn cản niềm đam mê lao động và nghị lực vươn lên trong cuộc sống của cô thiếu nữ 18 tuổi ấy. Cô Hoàng Thị Hậu, 55 tuổi cũng đã gắn bó cùng VỤN 4 năm. Sau khi được vận động, cô và cậu em trai khiếm thính theo học nghề. Cô khuyết tật chân từ năm 3 tuổi, việc di chuyển của cô gặp rất nhiều khó khăn. Trước khi tham gia hợp tác xã, cô chỉ ra đồng phụ giúp chị gái. Nay cô đã có mức thu nhập ổn định trang trải cuộc sống. Mẫu áo thun “Keep Calm and Wash Your Hands” (tạm dịch: Giữ bình tĩnh và rửa tay) vừa thu hút khách hàng, vừa nhắc nhở mọi người chung tay đẩy lùi dịch bệnh, là ý tưởng của bạn Minh bị bại não. Anh Cường chia sẻ, điều đặc biệt ở mẫu áo này là từ hình ảnh đôi tay cho đến thông điệp đều được ghép hoàn toàn từ lụa. Cô Lê Thị Thu, một chủ cửa hàng lụa trong làng nghề bày tỏ: “Mới đầu ở đây ai cũng sợ nhưng người ta nể anh Cường. Sau một thời gian làm quen, thấy tính nết chúng nó cũng như bao người bình thường. Nghĩ anh Cường vất vả. Hôm trước có hai cô bé tự kỉ đánh nhau ở sân, anh Cường phải chaỵ ra can. Ai nghĩ được người bại não nói còn không hiểu lại có thể đi làm với thu nhập ổn định như vậy.”

Chị Trương Mỹ kiên nhẫn hướng dẫn học viên mới mắc chứng bệnh khuyết tật thần kinh. Ảnh: Lê Linh.
Và cộng đồng là keo kết dính để tạo nên một tác phẩm nghệ thuật
Khi hỏi về mong muốn, nguyện vọng, anh Cường tha thiết: “Cần thiết có thêm nhiều môi trường làm việc và đào tạo dành riêng cho những người khuyết tật, chứ không đơn giản là vấn đề xin cho nữa. Một mảnh vải vụn có thể làm nên một tác phẩm nghệ thuật thì người khiếm khuyết cũng có thể góp ích cho đời.” Khi ngay lập tức đặt người khuyết tật vào trong môi trường lao động bình thường, họ sẽ tự ti và mặc cảm. Nhưng nếu được phát triển ở một môi trường tương đương, người khuyết tật sẽ dần thích nghi và hoà nhập trở lại cùng với mọi người. Người khuyết tật là nguồn lực lao động rất lớn. Giải quyết công ăn việc làm cho lực lượng này là một hướng đi mới tạo ra giá trị kinh tế bền vững.
Gương sáng cựu chiến binh làm kinh tế giỏi

Cựu chiến binh Nguyễn Duy Luyện – Chủ tịch Hội đồng quản trị, Giám đốc Hợp tác xã nông nghiệp phường Quảng Đông, TP Thanh Hóa.
Khánh Huyền, Báo ảnh K38
Bước ra khỏi cuộc chiến đầy gian khổ, trở về thời bình cựu chiến binh (CCB) Nguyễn Duy Luyện sinh năm 1961 ở phường Quảng Đông, TP Thanh Hóa đã không ngừng tăng gia sản xuất, trở thành tấm gương sáng tiên phong đẩy mạnh cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp.
Là một người con xứ Thanh, năm 1979 ông đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, tham gia cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc tại Trung đoàn 14 Sư đoàn 313, tỉnh Hà Tuyên (nay là tỉnh Hà Giang). Sau hơn 4 năm tham gia kháng chiến, năm 1984 CCB Nguyễn Duy Luyện trở về địa phương tích cực lao động sản xuất, làm nhiều chức vụ khác nhau như: Đội trưởng thôn, Bí thư chi bộ, Thôn trưởng,... thôn Đông Văn, xã Quảng Đông (Nay là phường Quảng Đông, TP Thanh Hóa). Cựu chiến binh Nguyễn Duy Luyện – Chủ tịch Hội đồng quản trị, Giám đốc Hợp tác xã nông nghiệp phường Quảng Đông, TP Thanh Hóa. Xuất thân từ gia đình nhà nông với hoàn cảnh khó khăn, ông luôn trăn trở suy nghĩ làm thế nào để có thể phát triển kinh tế gia đình, không cam chịu cảnh đói nghèo, ông bắt đầu tìm hiểu và nghiên cứu kinh nghiệm phát triển kinh tế. Ông chia sẻ: “Vì không muốn cái nghèo “đeo bám” mãi nên tôi quyết định tìm ra hướng đi mới cho riêng mình, đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. Lại nhận thấy nơi đây điều kiện tự nhiên màu mỡ nhưng việc lấy nước lại khó khăn, nên tôi nghĩ phương án làm thế nào để cải thiện, điều hành nước tưới để thuận lợi cho việc nuôi trồng trong nông nghiệp”. Từ những suy nghĩ nhen nhóm đó, năm 2009, CCB Nguyễn Duy Luyện đã làm chủ nhiệm Hợp tác xã (HTX) dịch vụ nông nghiệp xã Quảng Đông để phục vụ sản xuất nông nghiệp. Thời gian đầu còn tồn tại nhiều khó khăn và rủi ro khó lường, là
người đứng đầu, ông đã quyết tâm khắc phục khó khăn, thống nhất đầu tư phương tiện máy móc cơ giới hóa vào nông nghiệp. Từ đó giảm chi phí cho bà con nông dân, rút ngắn thời gian, giảm lao động thủ công, giảm sâu bệnh cho cây trồng, liên kết các khâu dịch vụ có hiệu quả. Năm 2016, CCB Nguyễn Duy Luyện chính thức lên làm Chủ tịch Hội đồng quản trị, Giám đốc HTX nông nghiệp phường Quảng Đông. Mục tiêu HTX đưa ra là cung ứng vật tư nông nghiệp: phân đạm, kali cho nhân dân trong xã; sản xuất mạ khay máy cấy, máy làm đất; tạo công ăn việc làm cho người dân lao động. Trong quá trình đó, thực hiện theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, HTX đã đầu tư mua sắm với chi phí hơn 4 tỷ đồng cho các loại phương tiện như: khay nhựa làm mạ khay, máy làm đất, máy cấy, máy phun thuốc, máy gặt đập liên hợp, máy gieo hạt,... cùng với đó là sự giúp đỡ của UBND Thành phố Thanh Hóa, đầu tư làm thí điểm mô hình cơ giới hóa đồng bộ của thành phố, chủ trương hỗ trợ máy móc để phục vụ mô hình cơ giới hóa đồng bộ 60ha trên địa bàn xã. Điển hình là mô hình gạo sạch với diện tích 9,5ha được triển khai từ năm 2019 đã đem lại nhiều thành quả và điểm mới trong sản xuất nông nghiệp địa phương. Theo CCB Nguyễn Duy Luyện: “Gạo sạch là gạo được bón bằng phân hữu cơ. Điểm khác biệt của gạo sạch so với gạo thông thường là không bỏ đạm, không phun thuốc trừ sâu. Việc bón bằng phân hữu cơ tuy không cho năng suất cao nhưng giảm được sâu bệnh ở cây trồng”. Trải qua 4 vụ, bình quân mỗi vụ thu hoạch được khoảng 35-40 tấn, tuy nhiên mô hình gạo sạch chưa đi sâu vào thị trường mà chỉ cung ứng cho các nhà hàng, khách sạn ở khu vực Sầm Sơn. Ngoài mô hình gạo sạch, HTX còn mở rộng thêm nhiều dịch vụ nông nghiệp khác như chăn nuôi các loại gia súc: ngan, gà, vịt.
HTX còn nhiều mô hình khác mới triển khai chưa đi vào thu hoạch như: nuôi cá, trồng dừa, đu đủ,...
HTX hiện nay đã và đang tạo điều kiện công ăn việc làm cho 59 người lao động, góp phần làm phát triển kinh tế gia đình và địa phương. Với bản chất người lính cụ Hồ, chịu thương chịu khó, không ngại gian khổ, bản thân CCB Nguyễn Duy Luyện đã không ngừng tìm tòi học hỏi, sáng tạo nhiều cách làm hay như: cung ứng vật tư nông nghiệp, sản xuất mạ khay đã liên kết với các doanh nghiệp và địa phương trên địa bàn tỉnh, trồng các loại hoa, rau sạch trong nhà khung,...mang lại hiệu quả kinh tế đáng khả quan. Với những đóng góp không nhỏ của mình cùng với nghị lực vươn lên đối với sự phát triển kinh tế gia đình và phát triển kinh tế địa phương, ông luôn được mọi người đánh giá cao, theo đồng chí Nguyễn Quang Trung – Chủ tịch Hội cựu chiến binh phường Quảng Đông: “Đồng chí Nguyễn Duy Luyện là một người chịu khó, ngoài việc đóng góp vào việc phát triển, sản xuất nông nghiệp địa phương, đồng chí Luyện còn chú trọng và làm tốt công tác từ thiện, chia sẻ kinh nghiệm, việc làm, giúp nhiều lao động thoát nghèo từ mô hình nông nghiệp kết hợp lúa cá. Là một tấm gương tiêu biểu điển hình trong việc làm kinh tế giỏi ở địa phương”. Từ những việc làm, hành động của CCB Nguyễn Duy Luyện lại càng khẳng định thêm nữa ý chí quất cường, nghị lực vươn lên, phẩm chất đáng quý của người lính bộ đội cụ Hồ trong thời bình. Trở thành tấm gương sáng cho lớp trẻ noi theo.

Mô hình cá - lúa kết hợp của HTX