khamdinhvietsu

Page 227

227

Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển VII Cửa ải Khả Ly: Nay không biết ở đâu. Cửa Chi Lăng: Xem Lê Đại Hành, năm Thiên Phúc thứ 2 (Chb. I, 17). Hưng Đạo vương Quốc Tuấn hội họp quân các lộ ở Vạn Kiếp.

Nhà vua sang Hải Đông, hạ lệnh cho Quốc Tuấn điều khiển quân dân các lộ Vân Trà, Ba Điểm, chọn người nào khỏe mạnh cho làm tiền phong, vượt biển kéo vào mặt nam, thế quân dần dần phấn chấn; quân các đạo khác được tin đều đem nhau đến hội họp. Hưng Vũ vương Nghiện, Hưng Nhượng vương Tảng, Hưng Trí vương Nghiễn, thân đốc sất các đạo quân ở Bàng Hà, Na Ngạn, Vân Trà, Long Nhỡn, số quân tất cả có hai mươi vạn. Các tướng đến hội họp ở Vạn Kiếp, đều chịu dưới quyền tiết chế của Hưng Đạo vương. Trước đây, Quốc Tuấn có gia nô là Dã Tượng và Yết Kiêu. Quốc Tuấn đối đãi với hai người này rất hậu. Khi quân Nguyên kéo đến nơi, Yết Kiêu chịu trách nhiệm giữ thuyền ở bến Bãi, còn Dã Tượng thì đi theo Hưng Đạo vương. Lúc quan quân bị thua, chu sư1 đều tan vỡ, ý Hưng Đạo vương muốn theo đường núi rút lui, Dã Tượng nói: "Yết Kiêu chưa gặp chúa công, tất không dời thuyền đi nơi khác". Hưng Đạo vương vội vàng đi đến bến Bãi, quả nhiên thấy một mình thuyền Yết Kiêu còn đỗ ở đấy, ông mừng nói: "Chim hồng hộc sở dĩ bay cao được, tất phải nhờ có sáu cái xương trụ ở cánh, nếu không có sáu cái xương trụ cứng rắn, thì chim hồng hộc cũng như loài chim thường thôi!". Bấy giờ, nhân chiều gió, thuyền chèo đi như bay, quân Nguyên đuổi theo không kịp. Khi đến Vạn Kiếp, mới hội quân các lộ lại, rồi chia ra đóng ở Bắc Giang để chống cự. Lời chua - Vân Trà, Bà Điểm: Đều tên xã, thuộc lộ Hải Đông. Na Ngạn: Tên huyện. Xem Lý Nhân Tông, năm Thiên phù khánh thọ thứ nhất (Chb. IV, 18). Long Nhỡn: Tên huyện, nhà Lê đổi là Phượng Nhỡn; nay theo tên ấy, thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bến Bãi: Nay không rõ chỗ nào. Bổ dụng Đinh Củng Viên quyền giữ việc Nội mật ở cung Thánh Từ. Ất Dậu, năm Trùng Hưng thứ 1 (1285). (Nguyên, năm Chí Nguyên thứ 22). Tháng giêng, mùa xuân. Sai Chi hậu cục thủ2 là Đỗ Khắc Chung sang doanh trại quân Nguyên. Quân Nguyên đã lấy được các cửa ải ở Lạng Sơn, tiến đến sông Vạn Kiếp, Quốc Tuấn đem thuyền chiến bày trận cách sông Vạn Kiếp mười dặm, gọi là trận "dực thủy"; Thoát Hoan tung quân ra đánh, quân ta phải rút lui, thuyền chiến của ta bị quân Nguyên bắt. Chúng bèn ra sức cướp bóc ở Gia Lâm, Vũ Ninh và Đông Ngàn. Bắt được quan quân, thấy người nào cánh tay cũng có hai chữ "sát Thát"3 thích bằng mực đen, chúng giận lắm, đem giết hết cả; rồi tiến đến bến Đông Bộ Đầu, kéo lên một lá cờ lớn. Nhà vua muốn sai người đi dò xem tình hình quân giặc hư thực thế nào, mà khó tìm được người đương nổi việc ấy. Lúc ấy, Chi hậu cục thủ là Đỗ Khắc Chung tình nguyện đi; nhà vua ngợi khen, nói: "Ai ngờ trong đám ngựa kéo xe muối, lại có ngựa kỳ, ngựa ký4 như thế", bèn sai Khắc Chung sang doanh trại quân Nguyên xin hòa.

1

Quân thủy, chiến đấu ở dưới sông.

2

Quan hầu cận ở bên cạnh vua.

3

Nước Mông Cổ có tên riêng là Thát Đát. "Sát Thát" là giết quân Thát Đát, tức quân Mông Cổ xâm lược.

4

Tên hai thứ ngựa khỏe nhất, hay nhất, bền bỉ nhất trong các loại ngựa, một ngày có thể chạy được ngàn dặm. Câu này ý nói người ở hàng quan nhỏ mà có lòng trung nghĩa, có can đảm, có tài năng lỗi lạc.


Issuu converts static files into: digital portfolios, online yearbooks, online catalogs, digital photo albums and more. Sign up and create your flipbook.